SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN II MÙA CHAY NĂM A
Thứ hai
(Lc 6,36-38)
Trong chúng ta có lẽ không ai muốn lúc nào cũng bị người khác dòm ngó, bới móc. Vậy chúng ta cũng đừng làm cho người khác
điều gì mà chính chúng ta không ưa thích!
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy trở nên con cái đích thực
của Ngài bằng cách thể hiện lòng nhân từ với tha nhân theo mẫu gương của Chúa.
Thiên Chúa là người Cha giàu lòng yêu
thương nên rất muốn chúng ta là những người con biết yêu thương như Ngài. Niềm vui và hãnh diện của cha mẹ chính là con cái nên giống mình. Cũng thế, Thiên Chúa, Người Cha của chúng ta sẽ vui mừng và hãnh diện biết mấy nếu chúng ta nên giống Ngài.
Thiên Chúa là Đấng Nhân Từ, vì
thế Người cũng mong chúng ta phải có lòng nhân từ như Người. Để thể hiện lòng nhân từ, một mặt Chúa dạy
chúng ta “đừng xét đoán” và “đừng kết án”; mặt khác, cách tích cực là “hãy tha thứ” và “hãy cho đi”.
Nhưng hình như do hậu quả của tội nguyên tổ và bị ảnh hưởng bởi bầu khí hận thù chống đối của Satan xưa, nên chúng ta thường làm ngược lại điều Thiên Chúa muốn.
Chính chất độc tội nguyên tổ đã tiêm nhiễm vào người ta và bầu khí hận thù của Satan thấm nhập hồn ta nên khuôn mặt chúng ta đã bị biến dạng, tâm tính chúng ta đã bị biến
chất không còn là hình ảnh tốt đẹp của Chúa nữa.
Chúng ta thường thích xét đoán người khác hơn xét đoán chính mình. Chúng ta
thường thích lên án người khác hơn lên án chính mình. Trong khi Thiên Chúa là
Đấng toàn thiện, chí thánh, uy quyền nhưng Chúa không hề xét đoán hay lên án, một mực Người yêu thương và tìm cách cứu vớt. Người luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ có tội ăn năn sám hối để Người tha thứ.
Bình an và hạnh phúc của con cái chỉ có được khi biết vâng lời Cha và noi theo nếp sống tốt đẹp của Cha mình.
Lạy Chúa, xin cho chúng con, những người con Chúa ngày càng giống Chúa nhân từ, quảng đại. Không bao giờ xét đoán, phê bình chỉ trích, nói hành nói xấu,
cáo gian ai. Trái lại luôn có cái nhìn ngay thẳng và trong sáng. Luôn
biết nghĩ tốt, nói tốt, làm tốt cho mọi người. Biết cho đi không cần toan
tính. Nhất là biết sẵn sàng thứ tha cho nhau như Chúa hằng tha thứ cho chúng
con. Amen.
Thứ ba Mt
23,1-12
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu lên án mạnh mẽ lối sống giả hình của các Kinh Sư và những người Pharisêu, bằng cách ý thức chúng ta hãy sống theo những gì họ dạy, nhưng tránh làm theo những gì họ làm. Bởi
họ dạy một đàng lại làm một nẻo. Nói thì đúng làm thì sai. Dạy sống đạo đức, nhưng
lại sống bất nhân.
Chúng ta đang sống trong một
xã hội phủ đầy bóng tối của gian dối. Chân thành và sự thật hình như không còn
chỗ đứng; trái lại xảo trá và lọc lừa lại lên ngôi và được xem là model của
thời đại. Chính vì thế mà ngày hôm nay, con người không còn phân biệt đâu là
hàng thật đâu là hàng giả, đâu là người tốt đâu là người xấu. Sống trong xã hội
như vậy thật là đau buồn và bất an.
Xin cho con cái Chúa biết can
đảm sống và làm chứng cho ánh sáng của trung thực hầu xua tan bóng tối của bất công, gian dối, lộc lừa còn đang bao phủ nặng nề trong
cuộc sống hôm nay.
Xin Chúa cho chúng ta biết tránh xa tính kiêu căng, thói giả hình của người Biệt Phái để chân thành nhận mình còn nhiều khiếm khuyết, tội lỗi.
Xin cho chúng ta biết noi gương Chúa sẵn sàng phục vụ và giúp đỡ mọi người trong hết mọi việc hầu xứng đáng là con Chúa và trở nên bạn hữu
thân thiết với mọi người. Amen
Thứ tư (Mt 1, 16.18-21.24a).
Thánh Giuse bạn trăn năm Đức
Trinh Nữ Maria.
THÁNH GIUSE NGƯỜI GIA TRƯỞNG TRUNG THÀNH
Để đảm bảo hạnh phúc gia đình, hơn lúc nào hết các
đôi vợ chồng ngày hôm cần phải ý thức và
can đảm sống nhân đức trung thành theo mẫu gương của Thánh Giuse.
1. Thánh Giuse trung thành bảo trợ gia đình.
Sau khi nhận được thánh ý Thiên Chúa, Thánh Giuse đã sẵn sàng đứng ra để bảo trợ gia đình Thánh gia.
Thánh Kinh thuật lại: khi biết được Đức Maria mang
thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, Thánh Giuse đã không ngần ngại nhận Đức Maria về nhà mình đễ chở che và
nuôi dưỡng. Nhận lãnh hay bảo lãnh Đức Maria về nhà cũng đồng nghĩa Thánh Giuse giải cứu Đức Maria khỏi búa rìu dư luận và
thoát khỏi án tử, vì theo luật Do Thái thời bấy giờ, đàn bà không chồng mà có
con thì phải bị ném đá đến chết.
Việc bảo trợ Đức Maria cũng có nghĩa là đồng bảo trợ
Hài Nhi đang được cưu mang trong cung lòng Đức Maria.
Việc nhận Đức Giêsu làm con cũng đồng nghĩa với việc bảo trợ cho Đức Giêsu sinh ra cách hợp pháp và đưa Đức Giêsu vào trong dòng tộc vua Đavít.
Không chỉ bảo trợ cho Hài nhi Giêsu sinh ra hợp pháp
mà thánh Giuse còn bảo toàn mạng sống của Đức Giêsu khỏi nanh vuốt của vua
Hêrôđê. Để bảo toàn mạng sống của Đức Giêsu, thánh Giuse phải vượt đường xa
hiểm trở gần 500 cây số xuyên qua sa mạc dài hơn 200 km không một bóng cây,
không một ngọn cỏ, không một giọt nước, rất gian khổ để đến Ai-cập tị nạn.
Ngoài việc bảo vệ sự sống, bảo vệ mạng sống, Thánh Giuse còn phải bảo vệ cho Đức Maria và Hài Nhi
Giêsu được sống nữa. Ngài đã phải lao động vất vã tại hãng xưởng mộc bé nhỏ tại
làng Nazarét để mưu tìm miếng cơm, manh áo, tiền nong để nuôi sống gia đình.
Cuộc đời thánh Giuse quả không phải sung sướng, an
nhàn, trái lại ngài phải trãi qua trăm chiều thử thách và đau khổ. Ý Chúa quan
phòng để ngài nêu gương cho ta khi gặp gian lao, thử thách cũng biết vui lòng hy sinh như ngài để bảo vệ sự sống, mạng sống và tạo điều kiện cho
gia đình mình được sống an bình.
Là người cha phải hết lòng bảo vệ con cái mình khỏi
tay kẻ dữ, khỏi bầu khí hận thù và bất công. Đó là nhiệm vụ vô cùng to lớn của người gia trưởng.
Hằng ngày có biết bao hài nhi bị hủy diệt trong bào
thai. Chúng ta cũng đã từng chứng kiến không ít những hài nhi vừa cất tiếng
khóc chào đời lại bị chính cha mẹ chúng bỏ rơi, thật đau lòng!
Cách bảo vệ hài nhi an toàn nhất là chúng ta phải biết
tỉnh thức để nghe tiếng Chúa nói trong lương tri như Thánh Giuse, dù khi ngủ ngài vẫn thức tỉnh nhận ra
tiếng Chúa nói trong giấc mộng.
2. Thánh Giuse trung thành trong nhiệm vụ giáo dục con
cái.
Tin mừng thánh Luca đề cao nền giáo dục tuyệt vời của Thánh gia qua câu: "Hài nhi lớn lên càng mạnh
khỏe, khôn ngoan và đầy ân sủng trước mặt Chúa và người ta" ( Lc 2,
40-52). Chỉ một lời ngắn ngủi của thánh sử Luca nhưng đã diễn tả hầu như trọn
vẹn cách thế giáo dục của thánh Giuse và Đức Maria đối với con mình. Các ngài
đã để ý và giáo dục con mình về mọi phương diện: Thể dục, trí dục, đức dục ...
- Thể dục: Trẻ Giêsu càng lớn lên càng mạnh mẻ, đầy
sức lực nhờ vào lao động nơi xưởng mộc Nazarét mà thánh Giuse đã dày công tạo
dựng. Lên 12 tuổi trẻ Giêsu đã đi bộ suốt bốn năm ngày đàng
lên Giêrusalem dự lễ, vậy mà không thấy Thánh kinh nói trẻ Giêsu mệt mỏi. Sau này giảng đạo, Đức Giêsu đã đi khắp cùng làng mạc,
thành phố và cả những vùng lân cận nữa.
- Trí dục: Càng tuyệt vời hơn khi mới 12 tuổi, cậu bé
Giêsu của làng Nazarét quê mùa, vô danh, ở tít vùng sâu, vùng xa đã đàng hoàng
vào đền thờ ở thủ đô Giêrusalem, ngồi giữa các thầy tiến sĩ vừa nghe vừa hỏi. Ai cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối
đáp khôn ngoan của cậu. Nếu gia đình Thánh Giuse không quan tâm đến việc hướng dẫn con mình học hỏi và trao dồi Thánh kinh thì làm gì có sự hiểu biết như thế?
Mỗi ngày Sabát là dịp tốt để tìm hiểu Thánh kinh và nghiên cứu Luật Chúa. Như trở thành thói quen mà cha mẹ để lại. Sau này khi rao giảng Chúa Giêsu thường xuyên vào Hội Đường đọc Lời Chúa, giảng dạy và chữa bệnh. Có lẽ nhờ việc quan
tâm đến giáo dục tri thức cho con mình nên Đức Giêsu đã thuộc lòng các khoản Luật và Lời Chúa.
- Đức dục: Ngoài đức công chính gắn liền với tên tuổi Thánh Giuse, chúng ta còn nhận thấy một nhân đức khác
nổi bậc nơi ngài nữa đó là đức vâng lời. Vâng lời thánh ý Thiên Chúa, ngài đã
bỏ ý riêng mình để đón nhận Đức Maria về nhà mình. Vâng lời Thiên Chúa, ngài đã
mau mắn đem Đức Maria và Hài Nhi trốn sang Aicập.
Chính nhờ ảnh hưởng của một nền đạo đức như vậy mà Đức
Giêsu trở nên người con hằng "đẹp lòng Chúa Cha". Cuộc đời Chúa Giêsu cũng tiếp nối bằng hai chữ
"xin vâng" theo thánh ý Chúa Cha như thánh Giuse và Đức Maria:
Vâng lời Chúa Cha từ trời cao Người xuống thế, từ Vị Thiên Chúa trở nên người phàm, từ Đấng Thánh Thiện lại gánh lấy tội nhân. Người vốn là giàu sang lại trở nên nghèo khó...; và Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Vì thế nên Người hằng xác quyết: "lương thực của Ta là
làm theo Đấng đã sai ta". Ngoài việc vâng lời Chúa Cha, Đức Giêsu còn luôn
vâng lời thánh Giuse và Đức Maria: "Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về
Nazarét và hằng vâng phục các ngài" (Lc 2, 51).
Vậy những bậc cha mẹ cũng hãy noi gương thánh Giuse quan tâm giáo dục con mình phát triển toàn
diện. Trung thành giáo dục như thế mới hy vọng con chúng ta trở nên tốt.
Cùng với Giáo Hội, chúng ta cũng đang sống trong tâm
tình của mùa chay thánh. Nếu mùa chay Giáo Hội mời gọi chúng ta trở về, thì
trước hết, chúng ta hãy bắt đầu trở về với chính mình, với những bổn phận của
người chồng-vợ, người cha-mẹ, người gia trưởng-hiền mẫu trong gia đình mình, bằng việc noi gương thánh Giuse trung thành trong vai
trò bảo trợ gia đình, trung thành trong trách nhiệm làm cha-mẹ và nhất là trung thành trong việc giáo dục con mình
trở thành người và thành người con Chúa.
Vì sự sống và hạnh phúc gia đình, xin cho
các gia trưởng-hiền mẫu quyết sống với HAI TRUNG THÀNH theo gương thánh Giuse
Bổn mạng gia trưởng. Amen.
THÁNH GIUSE MẪU GƯƠNG CỦA THINH LẶNG
Dẫn nhập
Nếu mùa chay là mùa sám hối, trở về. Có lẽ việc trở về
sâu xa nhất là trở về cõi lòng mình trong thinh lặng để nhận ra Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương, nhận ra tha nhân là anh em mình, nhất là nhận ra con
người thật của mình. Nhờ đó mà ta có những điều chỉnh cho đúng đắn phù hợp với
ý Chúa hơn.
Nếu Giáo Hội đặt tháng kính Thánh Giuse vào Mùa
Chay, thì mục đích đã rõ, bởi vì ngài là khuôn mẫu của con người nội tâm, thinh
lặng.
Xin Chúa cho chúng ta biết trân trọng và yêu quý đời
sống thinh lặng, nhất là biết học nơi thánh Giuse bài học về “đức thinh lặng”.
Chia sẻ
Có truyện kể về 3 pho tượng: Xưa một nhà vua Ấn Độ,
muốn thử nhân tài của một nước Chư hầu liền gửi tới nước này ba pho tượng vàng,
giống hệt nhau. Nhà vua Ấn Độ yêu cầu nhà vua Chư hầu cho biết trong ba pho
tượng vàng này, đâu là pho tượng quí giá nhất.
Nhà vua nước Chư hầu cho triệu tập các nhà thông thái tới để đánh giá ba pho
tượng vàng này, tìm ra xem pho tượng nào quí giá nhất. Các nhà thông thái nghĩ
ngay tới giá trị của mỗi pho tượng sẽ căn cứ vào cân nặng nhẹ, hoặc vào tuổi
vàng tốt xấu, hoặc căn cứ vào nghệ thuật tìm thấy trên ba pho tượng vàng! Nhưng
rồi các nhà thông thái đành phải bó tay, vì ba pho tượng này giống hệt nhau về
nghệ thuật, khối lượng và tuổi vàng.
Nhà vua nước Chư hầu rất buồn, vì không biết được giá
trị hơn kém của ba pho tượng. Vua liền cho loan báo khắp nước: Ai tìm được bí
mật giá trị của mỗi pho tượng sẽ được trọng thưởng.
Có một người tù, biết chuyện xin được xem ba pho tượng
và nếu anh ta tìm ra giá trị hơn kém của ba pho tượng này thì anh chỉ xin một điều
kiện là cho anh được tự do. Lập tức nhà vua cho anh xem ba
pho tượng. Vừa ngó xong ba pho tượng, anh ta xin một cọng rơm. Chỉ trong ít
phút, anh đã khám phá ra giá trị hơn kém của ba pho tượng vàng.
Anh lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ nhất,
thì thấy cọng rơm xuyên từ lỗ tai này sang lỗ tai kia, anh bảo: “đây là pho
tượng ít giá trị nhất, vì nó tượng trưng cho hạng người nghe điều gì, vừa vào
tai nọ, đã ra tai kia, không biết ghi nhớ, không để tâm gì suy nghĩ điều đã
nghe”.
Anh ta lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ
hai, thì thấy cọng rơm đi từ lỗ tai chạy xuống miệng pho tượng. Anh bảo: “pho
tượng này hơn pho tượng trước là vì nó tượng trưng cho hạng người biết nghe,
biết nhớ nhưng mắc khuyết điểm là: vừa nghe được gì đã vội nói ngay, không suy
nghĩ xem điều mình nghe đúng hay sai, nói ra có lợi hay có hại”.
Anh lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ ba,
thì thấy cọng rơm đi từ lỗ tai chạy xuống bụng. Anh nói: “pho tượng này quý
giá nhất, vì nó tượng trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ, biết để lòng
suy nghĩ, biết ghi vào tâm dạ mình.
Vua nước lớn nghe được lời giải đáp của thần dân nước
nhỏ thì vô cùng kính nể. Ông về nói với các quan trong triều: “Nước họ có
người thông minh tài giỏi như vậy, hẳn nước họ là nước mạnh mẽ, hưng thịnh, ta
nên giao hoà với họ chứ không nên giao chiến”.
Trong các sách Tin Mừng dù có nhắc tên Thánh Giuse đôi
lần, nhưng không hề thuật lại bất cứ lời nào
của thánh Giuse. Có lẽ không phải vì vô tình mà Thánh Kinh không ghi nhận một lời nào của Thánh Giuse, nhưng muốn đề cao giá trị của sự thinh lặng.
Thinh lặng giúp ta cảm nhận được vẽ đẹp.
“...Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để xem trời giải nghĩa yêu...”
Trong bài thơ “Đà Lạt Trăng Mờ”, nhà thơ Hàn Mặc Tử
kêu mời ta hãy lắng đọng tâm hồn trong cỏi riêng tư để cảm nhận sâu xa vẽ đẹp
thiên nhiên mà Thượng Đế yêu thương ban tặng cho. Chỉ có thinh lặng, ta mới
chìm sâu vào tận đáy lòng mình để nhận ra đáy nước hồ reo, nghe thấy nhịp rung của liễu tơ và nhận
ra tình yêu của đất trời.
Chính đời sống thinh lặng, Thánh Giuse mới có khả năng
nhìn thấu được phía bên kia của những biến động làm xáo trộn cuộc sống của
ngài. Chính trong thinh lặng ngài mới thấu suốt và tin tưởng vào những vẽ đẹp của ơn
Chúa ban trước những biến cố đầy sóng gió xảy đến cho gia đình mình.
Thinh lặng là chọn cho mình lối sống khôn ngoan
Người đời thường nói: "Lời nói là bạc, im lặng là
vàng". Thinh lặng hơn nói, vì nói chỉ là bạc mà im lặng mới là
vàng, là vàng thì bao giờ cũng quí hơn bạc. Như thế thinh lặng được ví như một chuẩn mực của đạo đức, một tiêu chí của
khôn ngoan thông thái.
Ông bà ta vẫn nói “Ngôn giả bất tri, tri giả bất ngôn”
(Người không biết thì lại lắm mồm vì tưởng người khác không biết như mình,
ngườì biết thì lại không nói vì nghĩ rằng mọi người đều biết”.).
Trong thinh lặng đầy khôn ngoan, Thánh Giuse đã âm
thầm bảo vệ che chở Đức Maria và nuôi dưỡng Hài Nhi
Giêsu trong bầu khí ấm êm của một gia đình hợp pháp.
Cho nên Heidegger mới khuyên chúng ta thực tập thinh
lặng, bớt nói, bớt phát biểu, bớt bàn tán….không phải để ta nên ngu muội, vô tri, nhưng để cho tâm
khảm suy nghĩ hoà quyện với sinh linh vạn vật, và chỉ
khi đó chúng ta mới có thể thấu đạt hết mọi ngóc ngách, thông tường mọi thế
thái, biến chuyển trong sự biểu đạt khôn cùng của nhân sinh, của nhiên giới.
Thinh lặng giúp ta nhận ra giới hạn của mình.
Thinh lặng để thấu đạt được cái vô thường, cái bất
biến, cái trường cửu của đất trời. Thinh lặng để thấu triệt được nội quan cũng
như ngoại giới. Thinh lặng đễ thấy ta là nhỏ bé, là mong manh, là hạn hữu
trong mênh mông, bao la, vô hạn giới của đất trời, của vũ trụ thường hằng và vô
biên. Thinh lặng để chuyển tải nhiều hơn, thinh lặng để nói
nhiều hơn, để nghe nhiều hơn, để thấu đạt nhiều hơn, có lẽ cũng đáng giá lắm
thay sự thinh lặng ấy!
Trong chính sự thinh lặng của đêm vắng, Thánh Giuse đã nhận ra được ý muốn của
Chúa, lắng nghe được Lời Chúa nói. Phân biệt được điều gì đúng, điều gì sai và
chọn lựa cách thế thực hiện như thế nào đẹp ý Chúa nhất. Vì thế ngài được gọi là “người công chính”: làm theo ý
Chúa.
Giữa bao triết lý và lắm luồng tư tưởng trong xã hội
này, ta phải chọn lựa như thế nào? Giữa những nền văn hóa đa dạng và những nền
văn minh phức tạp, ta biết đâu là đúng, đâu là sai? Có lẽ ta hãy học thinh lặng
như thánh Giuse, để lắng đọng tâm hồn, bình tĩnh lắng nghe Tiếng Chúa nói. Khi nghe được Tiếng Chúa, ta phải cương quyết chọn lấy cho mình con
đường. Đó là sống cho nền văn minh tình thương và văn hoá của sự sống theo
gương Thánh Giuse.
Thứ năm (Lc
16,19-31)
Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta phải có thái độ khôn ngoan khi xử dụng tiền
của.
Ông phú hộ trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể, xem ra cũng đáng khen. Ông chẳng
làm gì nên tội. Không ăn trộm ăn cắp ai. Không cho vay ăn lời dù lãi chỉ bằng
ngân hàng nhà nước. Không lấn ranh hay chiếm đoạt đất đai ai cả cho dù là ý
muốn. Cũng chẳng lê lết sang nhà hàng xóm để nhiều chuyện, cũng không thấy
phiền trách hay nói hành nói xấu ai. Đời ông không hề cờ bạc, không số đầu số
đuôi. Dù nhiều tiền lắm của nhưng chẳng thấy đi bia om hay vào hàng quán ăn
uống phung phí…, sống được như ông thời nay xem ra đã là tốt quá còn gì!
Phải chi trái đất này chỉ một mình ông thì quá tốt. Phải chi xã hội này mọi
người đều giàu có như ông thì số phận ông ta đâu có hẵm hiêu và đau đớn đến
thế. Cũng tại cái anh Lazarô nghèo nàn và bệnh tật hiện diện trên thế gian này
nên cuộc sống giàu sang, sung sướng của ông phú hộ đã trở nên nguy hiểm, bất
an. Bất an không vì sợ trộm cắp, nhưng sợ vì phải chia sẻ. Không ngại vì lẽ sống công bằng, nhưng cảm thấy bất an vì phải thực thi tình bác ái.
Nhưng cuộc đời luôn biến đổi không dò. Hôm qua là chủ nay lại là tớ. Hôm qua giàu có nay lại nghèo khổ. Hôm qua là sung sướng thoải mái nhưng nay
lại gian lao, khổ nhọc… Cuộc đời của ông phú hộ và Lazarô cũng đổi thay sau cái
chết. Giàu có, sung sướng, tiện nghị, yến tiệc linh đình, nhưng thiếu bác ái đã trở thành vực sâu u tối giam hãm nhà phú hộ muôn
đời.
Chấp nhận đau khổ, bệnh tật trong thân phận nghèo nàn, khiêm tốn không hề
than trách, nhưng một mực tin tưởng phó thác vào tình thương Chúa như Lazarô đã
trở thành những bậc thang đưa Lazarô lên cao vút, đến nỗi khoảng cách từ Lazarô đến nhà phú
hộ xa vời không thể qua lại được.
Chúa sẽ xét xử chúng ta về những việc làm bác ái ta đã làm hay không làm
cho tha nhân. “Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc hãy vào hưởng vinh quang cùng
Ta. Vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn…..”.
Như thế ông phú hộ bị phạt không vì ông ta lắm tiền nhiều của; cũng không vì ăn sang mặc đẹp. Nhưng ông ta bị phạt bởi vì ông không biết dùng của cải
tiền bạc mà giúp đỡ người nghèo.
Xin chúa cho chúng ta biết vâng lời Chúa và Giáo Hội, hằng ngày biết dùng
của cải Chúa ban mà làm lợi ích cho mình và tha nhân về phần hồn cũng như phần
xác; và cho chúng con dù giàu hay nghèo cũng luôn sống đẹp lòng Chúa để mai sau
được hưởng hạnh phúc bên Chúa muôn đời.
Thứ sáu (Mt 21, 33-43.45-46)
Dụ ngôn ám
chỉ ông chủ
vườn nho là Thiên Chúa.
Đầy tớ ông chủ là các ngôn sứ.
Tá điền là những người khước từ, không chấp nhận lời Thiên Chúa
phán dạy. Cụ thể là giới tư tế Do Thái giáo.
Người con trai của chủ vườn nho là Giêsu.
Dụ ngôn vẽ lên hình ảnh
đối lập giữa tình thương, lòng bao dung, sự nhẫn nại của Thiên Chúa trước sự
phản phúc, ích kỉ, độc ác của con người.
Bằng tình thương ông chủ
đã tạo lập vườn nho và chuẩn bị đầy đủ những phương tiện cần thiết để phát
triển; rồi tin tưởng giao phó cho tá điền chăm sóc, làm lợi.
Với tấm lòng bao dung, ông
chủ đã lần lượt gửi những đầy tớ tin cậy của mình đến để nhắc nhở, khích lệ các
tá điền làm việc có trách nhiệm, nhằm sinh lại nhiều hoa lợi cho chủ.
Cuối cùng với lòng nhẫn nại,
ông chủ đã gửi đến chính người con yêu của mình, với hy vọng các tá điền cảm
nếm được tình thương sự quan tâm của ông chủ mà thức tỉnh, lo chu toàn bổn
phận.
Đổi lại tình thương của chủ là sự bất cần của những tá điền. Họ không màn
đến tình thương và sự tin tưởng của ông chủ dành cho họ nên đã chễnh mãn trong bổn phận vun
trồng và chăm sóc vườn nho.
Đổi lấy tấm lòng bao dung của chủ là sự ích kỉ tham lam bất chính của các
tá điền nên đã dã tâm chiếm đoạt luôn hoa lợi của chủ.
Đổi lấy sự nhẫn nại của chủ là sự nhẫn tâm của các tá điền. Họ sẵn sàng
ra tay manh động, độc ác giết chết luôn người con thừa tự của ông chủ và không
ngại vứt xác ra ngoài vườn.
Hình ảnh của các tá điền trên không những ám chỉ các tư tế Do Thái xưa,
mà ám chỉ đến mỗi chúng ta.
Ngày lãnh nhận bí tích
rửa tội, Chúa
đã thương chọn tôi vào làm vườn nho của Ngài. Ngài đã xây dựng luật lệ, lập nên các bí tích và
dùng chính Lời Ngài mà chỉ dạy, bảo vệ và nuôi dưỡng đời sống đức tin của chúng
ta. Những thứ ấy ví
như hàng
rào, bồn đạp nho, vọng gác trong
vườn. Thế
nhưng vì sự chễnh mãn, chúng ta đã không nghĩ đến tình thương và sự ưu ái của
Chúa, không lo vun trồng đức tin Chúa ban nên đã gạt bỏ ngoài tai những lời Chúa
dạy, không buồn thực thi lề luật Chúa, không thiết tha với những ơn ích của các
bí tích mang lại.
Với mưu cầu lợi ích cá nhân, chúng ta đã thực hiện
những việc làm xấu xa trái lại với những lời nhắc nhở chỉ bảo của các đấng bề
trên, Giáo hội là sứ giả của Chúa, gây ra gương mù, gương xấu cho những người trong gia đình,
trong khu xóm…. Đó là cách chúng ta giết chết những đầy tớ Chúa gửi
đến.
Biết bao lần trong đời sống,
chúng ta cũng đã bỏ ngoài
tai lời dạy của chính con một Người là Đức Giêsu Kitô, Con yêu dấu của Chúa Cha. Ấy
là chúng ta đã nhẫn tâm giết chết chính Đức Giêsu con yêu dấu của Thiên Chúa!
Rõ ràng Chúa muốn cứu
độ mọi người, nhưng vẫn có những hạng người biết lề luật nhưng không biết tuân
giữ lề luật. Họ chỉ nói mà không thực hành. Chúa lên án họ và Nước Trời cũng
luột khỏi tay họ.
Lạy Chúa xin ban cho
chúng con một tấm lòng thành để chúng con luôn sẵn sàng lắng nghe và thực thi
lời Chúa và Giáo huấn của Giáo Hội.
Thứ bảy (Lc 15, 1-3.11-31)
Chúa là Người Cha nhân hậu, giàu lòng lòng yêu thương, cảm thông và sẵn
sàng tha thứ những lầm lỗi của ta, một khi ta nhận ra sai lỗi và quyết tâm đổi
mới đời sống. Đó là nội dung của sứ điệp lời Chúa hôm nay gởi đến chúng ta. Xin
cho chúng ta cảm nhận được tình yêu của Chúa mà quyết tâm từ bỏ tội lỗi, quay
về sống trong ân sủng của Người.
Người đời thường nói: con cưng là con hư. Nếu cưng không đúng cách sẽ làm
hư hỏng con cái.
Nhưng con đã hư rồi thì liều thuốc duy nhất để chữa là tình thương.
Tin mừng hôm nay, không trình bày cho chúng ta biết trước khi hai người con
hư, người cha đã yêu thương chúng như thế nào. Nhưng chỉ cho ta biết, người cha
đã dùng tấm lòng yêu thương tha thiết để cảm hóa hai đứa con sau khi chúng đã
ra hư đốn.
Người con thứ: Nhẫn tâm cắt đứt tình cha và sẵn sàng bỏ nghĩa anh em, gom lấy nữa phần
gia sản gia đình ra đi phiêu lưu tìm cảm giác lạ. Từ nay thay vì ngủ nhà cha, anh ngủ nhà
trọ. Thay những bữa cơm đơn sơ ở nhà cha bằng những bữa tiệc linh đình nơi nhà
hàng sang trọng. Thay vòng tay yêu thương chân tình của cha già bằng những vòng
tay ân ái gian trá của các kiều nữ chân dài xinh đẹp.
Nhưng khách sạn dù có thoải mái, cơm nhà hàng dù có sang trọng, nằm trong
vòng tay của các kiều nữ xinh đẹp êm ái, thì rồi anh cũng chẳng thấy bình an và
hạnh phúc. Kết quả của phiêu lưu tìm cảm giác lạ trong thác loạn đã làm anh tan
gia bại sản, thân xác tiều tụy và đau khổ, kiếp sống không ra con người.
Dẫu thế tình cha vẫn ấm áp như ngày nào. Vui mừng chào đón người con như
thuợng khách. Sẵn sàng tha thứ, yêu thương. Tình yêu vẫn nguyên vẹn tha thiết
và nồng nàn như xưa.
Người con cả cũng chẳng hơn gì đứa em hư hỏng. Dù cần cù lam lũ, không hề bất tuân lệnh
cha. Nhưng đầu anh lại có nhiều toan tính, lòng anh đầy ích kỷ và ghen tỵ.
Trong khi mọi người vui mừng “vì em con đã chết nay sống lại đã mất nay tìm thấy”. Vậy mà anh lại kể công và phân bì với em mình cùng cha già. Trong khi
người cha không hề coi anh là người ngoài thì chính anh lại xem mình là kẻ xa
lạ vì không thừa nhận mình là con cha và là người anh của đứa con thứ: “Cha coi
đã bao năm con hầu hạ Cha, thế mà chưa bao giờ Cha cho lấy một con bê con để ăn
mừng với bạn bè. Còn thằng con cha kia ( không phải là em con), sau khi nuốt
hết của cải của cha với bọn đĩ điếm, nay trở về, cha lại cho con bê béo ăn
mừng”.
Thấu hiểu hết lòng con, người cha ra năn nỉ con vào chia sẻ niềm vui và ân
cần giải thích cho con hiểu rằng: “nó là em con và con là con cha”. Cha muốn con vui trong phận làm con và
làm anh và hãy vui mừng và hãnh diện vì luôn được sống trong tình thương của
cha.
Hình ảnh của hai đứa con trong dụ ngôn có lúc cũng hiện diện nơi mỗi chúng
ta. Có lúc ta cũng muốn chối bỏ chúa, bỏ đạo, bỏ nhà thờ. Có lúc chúng ta cũng
muốn phiêu lưu tìm cảm giác lạ quá độ của bia rượu, thuốc lá, cà phê, trai gái,
bất trung và sa đoạ như đứa con thứ. Cũng lắm lúc chúng ta sống trong ít kỷ
tham lam toan tính, tìm lợi mình, muốn hại người, nuông chiều và nuôi dưỡng lòng ghanh tị.
Cảm thấy khó chiụ khi ai đó giàu hơn chúng ta, giỏi hơn chúng ta, đạo đức hơn
chúng ta, được nhiều người thương mến hơn chúng ta.
Chúa Người Cha thấu hiểu lòng của mỗi chúng ta. Nhưng Chúa cũng là Đấng
giàu lòng yêu thương tha thứ, mong muốn ta nhận ra lầm lỗi mà sửa đổi.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết bỏ đi con đường đi hoang tội lỗi mà can đảm quay về nhà Cha để cảm
nhận tình của Cha yêu ta là dường nào. Nhờ thế trong mùa chay thánh này, chúng con quyết tâm đổi mới đời sống nên tốt hơn, hầu xứng đáng với tình yêu của Cha
dành cho chúng con.