NGHI
THỨC XỨC DẦU BỆNH NHÂN
1. NHỮNG
LƯU Ý MỤC VỤ CẦN BIẾT TRƯỚC
1.
Chỉ linh mục mới là thừa tác viên chính thức của bí tích xức dầu bệnh
nhân (GL 1003/1; XD 16). Mọi linh mục được phép mang Dầu Thành theo mình, để
khi cần thiết có thể ban bí tích xức dầu bệnh nhân (GL 1003/3). Dầu sử dụng
trong bí tích xức dầu là dầu ôliu hay do thảo mộc và phải được Giám mục hay
những người do luật quy định làm phép (XD 21), và Dầu này thường được làm phép
vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh (XD 21). Khi không có sẵn Dầu bệnh nhân đã được
thánh hiến bởi giám mục, bất cứ linh mục nào khi cử hành bí tích xức dầu cũng
có thể làm phép dầu trong chính nghi thức, số dầu còn lại do chính linh mục này
làm phép, sẽ phải được đốt hết sau khi cử hành xong bí tích cho bệnh nhân (XD
21-22). Khi xức dầu, thừa tác viên phải xức bằng chính tay của mình, trừ khi có
một lý do quan trọng đòi hỏi phải dùng đến một dụng cụ trung gian (GL 1000/2).
2.
Mọi tín hữu khi đã biết sử dụng trí khôn gặp bệnh nặng hay già yếu đều có thể
xin lãnh bí tích xức dầu bệnh nhân. Bí tích này có thể lặp lại khi bệnh nhân
bình phục rồi ngã bệnh lại, hay trong cùng một cơn bệnh kéo dài mà tình trạng
trở nên trầm trọng hơn (GL 1004; XD 8-9). Trước các cuộc giải phẫu quan trọng,
bệnh nhân nên xin lãnh nhận bí tích xức dầu (XD 10). Khi già cả đau yếu, thì dù
không bệnh nặng, vẫn có thể xin lãnh bí tích xức dầu (XD 11). Bí tích xức dầu
được ban cả cho những bệnh nhân bất tỉnh hay mất trí, miễn là khi còn tỉnh, họ
có ý định xin lãnh bí tích này ít là cách mặc nhiên (GL1006; XD 14). Khi được
mời đến mà bệnh nhân đã chết, linh mục không xức dầu nữa, nếu hồ nghi, ngài có
thể xức dầu với điều kiện (GL 1005; XD 15). Không ai được ban bí tích xức dầu
cho những người cố chấp trong một tội nặng công khai (GL 1007).
3.
Khi ban các bí tích cuối cùng cho bệnh nhân cần lưu ý một số điểm quan trọng
sau đây:
.
Nếu có thời giờ và không khẩn thiết nên cử hành liên tục các bí tích cuối cùng
cho bệnh nhân theo thứ tự như sau: giải tội, xức dầu và MTC như Của Ăn Đàng.
.
Nếu trong tình trạng nguy tử không thể ban đủ ba bí tích kể trên, sẽ giải tội
cách tổng quát cho bệnh nhân, rồi cho người này rước lễ. Sau đó, nếu còn giờ
thì cử hành bí tích sức dầu.
.
Nếu bệnh nhân không thể rước lễ được thì cử hành bí tích xức dầu cho người này.
.
Nếu bệnh nhân cần lãnh bí tích thêm sức thì phải cử hành theo đúng nghi thức
quy định, để khỏi gây lẫn lộn với bí tích xức dầu bệnh nhân.
2. NGHI
THỨC XỨC DẦU BỆNH NHÂN CÁCH THÔNG THƯỜNG
Tại
nhà bệnh nhân cần chuẩn bị: một bàn được trải khăn, đèn nến thắp sáng và nước
thánh.
Chủ sự:
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
Mọi
người: Amen
Chủ
sự: Bình an cho nhà này và
cho mọi người trong nhà.
Mọi
người: Và ở cùng cha.
Kế
đó ngài rảy nước thánh trên bệnh nhân và mọi người hiện diện và nói:
Xin
cho nước này nhắc lại bí tích Thánh tẩy chúng ta đã lãnh nhận, và để kính nhớ
Đức Kitô, Đấng đã tử nạn và phục sinh để cứu độ chúng ta.
Rảy
nước thánh xong, nếu cần linh mục có thể giải tội cho bệnh nhân hay người già
cả. Trường hợp không ban bí tích Hoà giải cho bệnh nhân, ngài sẽ mời gọi mọi
người sám hối như sau:
Anh
chị em, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta để xứng đáng tham dự vào cử
hành thánh này.
Mọi người
thinh lặng giây lát rồi đọc:
Tôi
thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội
nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu xót. Lỗi tại tôi,
lỗi tại tôi mọi đàng, vì vậy tôi xin Đức Bà Maria trọn đời đồng trinh, các
thiên thần, các thánh và anh chị em, khẩn cầu cho tôi trước toà Thiên Chúa,
Chúa chúng ta.
Chủ
sự kết: Xin Thiên Chúa
toàn năng thương xót, tha tội và dẫn đưa chúng ta về cõi trường sinh.
Mọi
người: Amen.
Chủ sự:
Bài trích thư Thánh Giacôbê Tông đồ
Anh
em thân mến, ai trong anh em buồn sầu, hãy ca hát thánh vịnh. Ai trong anh em
ốm đau, hãy mời các trưởng lão của Giáo Hội đến, để các ngài cầu nguyện và nhân
danh chúa xức dầu cho người đó. Lời cầu nguyện phát xuất tự lòng tin sẽ cứu
được bệnh nhân và Chúa sẽ cho người đó được bình phục; và nếu người đó mắc tội,
thì sẽ được tha. Vậy anh em hãy thú tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để anh
em được cứu độ, vì lời cầu nguyện của người công chính rất hiệu nghiệm. Đó là
Lời Chúa.
Mọi người: Tạ
ơn Chúa
Đọc
lời Chúa xong, chủ sự có thể giảng vắn tắt, rồi ngài đọc kinh cầu sau đây:
Anh
chị em thân mến, với lời cầu nguyện do lòng tin, chúng ta khiêm tốn cầu xin
Chúa cho người công chính rất hiệu nghiệm. Đó là Lời Chúa.
Mọi người: Tạ
ơn Chúa
Đọc
Lời Chúa xong, chủ sự có thể giảng vắn tắt, rồi ngài đọc kinh cầu sau đây:
Anh
chị em thân mến, với lời cầu nguyện do lòng tin, chúng ta khiêm tốn cầu xin
Chúa cho người anh (chị) em chúng ta đây:
Xướng:
.
Xin Chúa đoái thương viếng thăm và làm cho người anh (chị) em này thêm mạnh do
ơn của bí tích xức dầu thánh.
Đáp
sau mỗi lời cầu: Xin Chúa nhậm lời
chúng con.
.
Xin Chúa thương tha thức mọi lỗi lầm và làm thuyên giảm những cơn đau đớn của
người anh (chị) em này.
.
Xin Chúa đoái thương ban sự sống và sức khoẻ cho người anh (chị) em mà chúng
con nhân danh Chúa đặt tay.
.
Xin Chúa thương nâng đỡ và phù trợ những ai chăm sóc người anh (chị) em chúng
con đây.
Đọc
kinh cầu xong, chủ sự thinh lặng đặt tay trên đầu bệnh nhân. Sau đó nếu dầu đã
được làm phép rồi, ngài và mọi người đọc kinh tạ ơn như sau:
.
Lạy Chúa Cha toàn năng, chúc tụng Chúa là Đấng đã sai Con Chúa xuống trần gian
vì chúng con và để cứu độ chúng con.
Đáp
sau mỗi lời chúc tụng: Chúng con chúc
tụng Chúa.
.
Lạy Chúa Con là Con Một Thiên Chúa, chúc tụng Chúa là Đấng đã muốn chữa lành
những tật nguyền của chúng con, khi Chúa mặc lấy bản tính loài người chúng con.
.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi, chúc tụng Chúa luôn dùng thần lực của Chúa
mà làm cho những yếu đuối của chúng con nên vững mạnh.
Chủ
sự kết:
Lạy
Chúa, xin ban cho tôi tớ Chúa khi được xức dầu thánh này với lòng tin, được
nâng đỡ trong đau đớn và được nên mạnh mẽ trong những thử thách của bệnh tật.
Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Sau
đó chủ sự lấy dầu thánh (OI) xức trên trán và hai tay bệnh nhân hay người già
cả, và chỉ đọc một lần:
Nhờ
việc xức dầu thánh này và nhờ lòng từ bi nhân hậu của Chúa, xin Chúa dùng ơn
Chúa Thánh thần mà giúp đỡ ông (bà, anh, chị, em)
Đáp: Amen
Để
Người giải thoát ông (bà, anh, chị, em) khỏi mọi tội lỗi, cứu chữa và
thương làm cho ông (bà, anh, chị, em) được thuyên giảm.
Đáp:
Amen
Xức
dầu xong, chủ sự đọc lời nguyện sau đây:
Chúng
ta dâng lời cầu nguyện
Lạy
Đấng Cứu Chuộc chúng con, xin dùng ơn Chúa Thánh Thần mà chữa lành những đau
đớn của người anh (chị) em chúng con đây, xin cũng hàn gắn những thương tích và
thứ tha tội lỗi, xin làm tiêu tan mọi đau khổ xác hồn, và xin thương hoàn lại
sức khoẻ dồi dào trong ngoài cho người anh (chị) em này, để khi đã bình phục
nhờ lượng từ bi Chúa, người anh (chị) em này lại có thể chu toàn nghĩa vụ như
trước. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
Đáp: Amen
Chủ
sự mời gọi đọc kinh Lạy Cha:
Giờ
đây chúng ta hãy cùng nhau cầu xin Thiên Chúa Cha, như Chúa Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta đã dạy chúng ta:
Mọi người:
Lạy Cha chúng con ở trên trời…
Kế
đó nếu cho rước lễ, chủ sự đưa cao MTC và nói:
Đây
Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến dự tiệc
Chiên Thiên Chúa.
Mọi người:
Lạy chúa, con chẳng đáng…
Chủ
sự cho bệnh nhân, người già cả và những người giúp họ rước lễ, nếu cần. Cho
rước lễ xong, cộng đoàn nên hát một thánh vịnh hay thánh ca tạ ơn.
Sau
đó chủ sự đọc lời nguyện kết thúc:
Chúng
ta dâng lời cầu nguyện
Lạy
Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tin tưởng
nài xin Chúa cho Mình Thánh Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con mà người anh
(chị) em chúng con vừa rước lấy, nên phương dược muôn đời cho cả xác hồn. Nhờ
Đức Kitô, Chúa chúng con.
Mọi
người: Amen
Sau
cùng để kết thúc, chủ sự chào và ban phép lành như khi kết thúc thánh lễ:
Xin
Thiên Chúa toàn năng là Cha + và Con và Thánh Thần, ban phúc lành cho anh chị
em.
Mọi người: Amen
Chủ sự: Nào
ta hãy chúc tụng Chúa.
Mọi người:
Tạ ơn Chúa.
3. NGHI
THỨC SỨC DẦU TRONG NGUY TỬ
Trong
trường hợp nguy tử, linh mục sẽ tuỳ nghi dùng nghi thức sau đây để ban cùng một
lúc nhiêu bí tích cho người hấp hối:
.
Bí tích hoà giải
Nếu
người hấp hối có thể xưng tội thì linh mục giải tội riêng, bằng không ngài ban
ơn xá giải như sau:
Tôi
dùng quyền Toà Thánh đã uỷ cho để ban ơn đại xá và ơn tha thức mọi tội
lỗi cho ông (bà, anh, chị, em) nhân danh Cha + và Con và Thánh
Thần.
.
Bí tích Thêm sức (nếu người hấp
hối chưa lãnh nhận)
Lạy
Thiên Chúa toàn năng, là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, Chúa đã tái
sinh tôi tớ Chúa đây bởi nước và Thánh Thần khi giải thoát họ khỏi tội lỗi, thì
lạy Chúa, xin ban Chúa Thánh Thần, Đấng an ủi đến trong người này, xin ban cho
họ thần khí khôn ngoan và thông hiểu, thần khí lo liệu và sức mạnh, thần trí
suy biết và đạo đức, xin ban cho người này ơn kính sợ Chúa. Nhờ Đức Kitô, Chúa
chúng con.
Mọi
người đáp: Amen
Kế
đó chủ sự nhúng đầu ngón cái tay phải vào Dầu Thánh (SC) rồi ghi hình thánh giá
trên trán hoặc phần thân thể xứng đáng nhất của người hấp hối và đọc:
T
…..HÃY NHẬN ẤN TÍN ƠN CHÚA THÁNH THẦN
. Bí
tích Xức dầu bệnh nhân
Nếu
không ban bí tích Thêm sức, thì sau khi giải tội hoặc ban ơn xá giải xong, chủ
sự thịnh lặng đặt tay trên đầu người hấp hối rồi xức dầu cho họ theo công thức
sau đây. Nhưng nếu có ban bí tích Thêm sức, thì ngài bỏ việc đặt tay và ban bí
tích xức dầu ngay theo cùng một cách thức, nghĩa là chủ sự lấy dầu thánh (OI)
xức trên trán và hai tay người hấp hối và đọc một lần duy nhất:
Nhờ
việc xức dầu thánh này và nhờ lòng từ bi nhân hậu của Chúa, xin Chúa dùng ơn
Chúa Thánh Thần mà giúp đỡ ông (bà, anh, chị, em)
Đáp: Amen
Để
Người giải thoát ông (bà, anh, chị, em) được thuyên giảm.
Đáp:
Amen
.
Bí tích Thánh Thể
Sau
cùng chủ sự cầm Mình Thánh Chuá mời gọi:
Đây
Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Phúc cho ai được mời dự tiệc
Chiên Thiên Chúa.
Mọi người:
Lạy Chúa, con chẳng đáng…
Chủ sự
cho người hấp hối và ngay cả những người giúp họ rước lễ. Cho rước lễ xong,
cộng đoàn nên hát một thánh vịnh hay thánh ca tạ ơn.
Sau
đó chủ sự đọc lời nguyện kết thúc:
Lạy
Chúa, Con Chúa là đường, là sự thật và là sự sống của chúng con. Xin Chúa nhân
từ nhìn đến tôi tớ Chúa đây, xin ban cho người đã tin vào lời hứa của Chúa và
được Mình Máu Con Chúa tái tạo, cũng được bước vào nước Chúa trong bình an. Nhờ
Đức Kitô, Chúa chúng con.
Mọi
người: Amen
Chủ
sự ban phép lành kết thúc:
Xin
Thiên Chúa toàn năng là Cha + và Con và Thánh Thần, ban phúc lành cho anh chị
em.
Mọi người:
Amen
Chủ sự:
Nào ta hãy chúc tụng Chúa.
Mọi người:
Tạ ơn Chúa
Tuỳ hoàn cảnh có thể
hát một bài.
NGHI
THỨC TRAO MÌNH THÁNH CHÚA CHO BỆNH NHÂN
1.
NHỮNG LƯU Ý MỤC VỤ CẦN BIẾT TRƯỚC
1.
Giáo Hội quan tâm đến những người đau bệnh lâu ngày và những người lớn tuổi khi
sức khoẻ bị suy giảm không thể thường xuyên tham dự thánh lễ. Vì vậy các mục tử
hoặc chính mình hoặc qua các thừa tác viên trợ giúp sẽ siêng năng viếng thăm và
đưa Mình Thánh chúa cho họ khi có thể được. Việc trao Mình Thánh Chúa cho bệnh
nhân và người già yếu có thể thực hiện vào bất cứ lúc nào (XD 46)
2.
Những người giúp bệnh nhân và giúp người già cả cũng có thể rước lễ cùng vời
người mà họ chăm sóc trong cùng một nghi lễ phụng vụ (XD 46).
3.
Cần thận trọng khi đem MTC cho bệnh nhân, nên để Mình Thánh Chúa trong một hộp
hay bình đựng xứng đáng. Nếu được, nơi nhà bệnh nhân cần chuẩn bị trước một
baàn có phủ khăn để đặt Mình Thánh Chúa, thánh giá, đèn nến cho trang nghiêm
(XD 47).
2. NGHI
THỨC TRAO MÌNH THÁNH CHÚA TRONG TRƯỜNG HỢP BÌNH THƯỜNG
Mở
đầu
Vị
chủ sự đặt Mình Thánh Chúa trên khăn thánh của bàn đã được chuẩn bị đèn nến,
rồi làm dấu thánh giá.
Chủ
sự: Nhân danh Cha và Con
và Thánh Thần
Mọi
người: Amen
Chủ
sự chào: Bình an cho nhà này và
mọi người trong nhà.
Mọi
người đáp: Và ở cùng Cha (Thày)
Sau
lời chào, mọi người cùng hát một bài ca về tình yêu Thiên Chúa hoặc một thánh
vịnh tương xứng. Kế đó chủ sự mời gọi mọi người sám hối.
Chủ
sự: Anh Chị em, chúng ta
hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta để xứng đáng tham dự vào việc cử hành thánh này.
Mọi
người thinh lặng đôi chút rồi đọc kinh thú tội hay dùng một trong các công thức
sám hối đầu lễ, rồi chủ sự kết thúc:
Xin
Thiên Chúa toàn năng thương xót, tha tội và dẫn chúng ta đến sự sống muôn đời.
Mọi
người: Amen
Cử
hành lời Chúa
Sau
nghi thức sám hối, chủ sự mời gọi:
Chúng
ta cùng nhau lắng nghe Lời Chúa
Có
thể đọc bài Tin Mừng của ngày phụng vụ hôm đó hoặc bài Tin Mừng về Bánh Hằng
Sống trong Ga 6 sau đây:
Chủ
sự: Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo thánh Gioan
Khi
ấy Chúa Giêsu nói: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta
sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn và máu Ta
thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ
ấy. Cũng như Cha là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống vì Cha, thì kẻ ăn Ta
chính người ấy cũng sẽ sống vì Ta. Đây là Bánh bởi trời xuống, không phải như
cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn Bánh này sẽ sống đời đời. Đó là
Lời Chúa.
Mọi
người: Lạy Chúa Kitô, ngợi
khen chúa.
Khi
đọc bài Tin Mừng xong, vị chủ sự có thể nói vài lời cho mọi người tham dự, rồi
tất cả cùng đọc lời nguyện chung sau đây:
Chủ
sự: Chúng
ta hãy cầu nguyện cho người anh (chị) em chúng ta đây, và cho tất cả nhưng ai
hy sinh lo lắng và giúp đỡ cho người anh (chị) em này:
Xướng: Xin
Chúa lấy lòng nhân lành nhìn đến người anh (chị) em chúng con đây.
Đáp:
Xin Chúa nghe lời chúng con.
Xướng:
Xin Chúa ban sinh lực và nâng đỡ người anh (chị) em này.
Đáp:
Xin Chúa nghe lời chúng con.
Xướng: Xin
Chúa ban cho tất cả những ai chăm sóc người anh (chị) em chúng con đây được dồi
dào ơn thánh.
Đáp: Xin
Chúa nghe lời chúng con.
Xướng:
Xin Chúa dùng ơn thánh để cứu giúp tất cả chúng con.
Đáp:
Xin Chúa nghe lời chúng con.
Kế
đó chủ sự mời gọi: Giờ đây chúng ta hãy
cùng nhau cầu xin Thiên Chúa, như Đức Kitô đã dạy chúng ta:
Tất
cả mọi người: Lạy Cha chúng con ở
trên trời…
Sau
đó, chủ sự đưa cao MTC và nói: Đây
Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến dự tiệc
Chiên Thiên Chúa.
Mọi
người: Lạy Chúa, con chẳng
đáng…
Chủ
sự cho bệnh nhân và ngay cả những người giúp họ rước lễ. Cho rước lễ xong, cộng
đoàn nên hát một thánh vịnh hay thánh ca tạ ơn.
Sau
đó chủ sự đọc lời nguyện kết thúc:
Chúng
ta dâng lời cầu nguyện
Lạy
Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tin tưởng
nài xin Chúa cho Mình Thánh Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con mà người
anh (chị) em chúng con đây vừa rước lấy, nên phương dược muôn đời cho cả xác
hồn. Nhờ Đức Kitô chúa Chúng con.
Mọi
người: Amen
Sau
cùng để kết thúc, nếu chủ sự là linh mục hay phó tế, ngài sẽ chào và ban phép
lành như khi kết thúc thánh lễ. Nếu chủ sự là thừa tác vụ giúp lễ hay thừa tác
viên ngoại thường trao MTC, vị này sẽ nói như sau:
Xin
Thiên Chúa toàn năng ban phúc lành cho tất cả chúng ta. Xin Người che chở chúng
ta khỏi mọi sự dữ và dẫn đưa tới sự sống muôn đời.
Mọi
người: Amen
Chủ
sự kết thúc: Chúc anh chị em ra về
bình an.
Mọi
người: Tạ ơn Chúa
3. NGHI
THỨC TRAO MÌNH THÁNH CHÚA CÁCH ĐƠN GIẢN
Trường
hợp phải đưa Mình Thánh Chúa cho nhiều người một lúc, hoặc ở những nơi đông
người như bệnh viện, dưỡng dường… người ta có thể dùng nghi thức đơn giản sau
đây để không quá kéo dài thời gian hoặc không gây cản trở cho những người xung
quanh. Nếu bệnh nhân hay người già cả cần xưng tội, linh mục có thể giải tội
trước khi cử hành các nghi thức sau đây:
Chủ
sự (linh mục) hay thừa tác viên trao MTC nói vài lời thăm hỏi và nhắc nhở bệnh
nhân hay người già cả về sự hiện diện của Chúa, rồi mời gọi mọi người đọc Kinh
Lạy Cha, kế đóm người này cầm MTC giơ cao và đọc (XD 59-63):
Đây
Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến dự tiêc
Chiên Thiên Chúa.
Mọi
người: Lạy chúa, con chẳng
đáng…
Chủ
sự cho bệnh nhân, người già cả và những người chăm sóc họ rước lễ. Rước lễ
xong, mọi người dành một vài phút thinh lặng cám ơn rồi kết thúc.
NGHI
THỨC TẨM LIỆM
*
QUY TỤ
-
Dấu Thánh Gía-Kinh CTT-Tin-Cậy-Mến-Sấp Mình…
-
Thánh Ca: Trong Gian
Truân (Kim Long)
ĐK:
Trong gian truân con đã kêu cầu, và Chúa đã đáp lời tôi. Từ vực sâu tôi nài van
Chúa, và Chúa đã nghe tiếng tôi.
-
Chúa xô con xuống lòng vực thẳm giữa muôn cuồng sóng đại dương. Bao dòng nước
cuốn trôi, bao triều phong ba cùng xô lấp tấm thân tôi.
1.
DẪN NHẬP
Chủ
sự: Nhân Danh Chúa Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh Thần
Cộng
đoàn: Amen
Chủ
sự: Chúa ở cùng anh chị
em
Cộng
đoàn: Và ở cùng Cha
Chủ
sự : Kính thưa quý ông bà
và anh chị em, đặc biệt quý tang quyến,
*
Mẫu 1: Được tin (ông,
bà...) vừa từ giã cõi trần về với Chúa, chúng tôi (quý Lm, Tu sĩ,
HĐMVGX...) quy tụ nơi đây với tất cả lòng quý mến, xin được chia buồn cùng tang
quyến...., vừa mới mất đi một người thân là….
Trong
niềm tin tưởng vào Chúa Kitô đã chết và đã phục sinh, chúng ta xác tín rằng: chết
chưa phải là kết thúc, nhưng chỉ là cửa ngõ bước vào sự sống đời đời. Đối
với những người tin vào Chúa Kitô, sự sống biến đổi chứ không mất
đi. T đã tin vào Chúa Kitô, đã chịu phép rửa và đã bước đi theo
Chúa Kitô trong suốt…năm trên hành trình dương thế. Nên chúng ta có quyền tin
rằng T sẽ được sống lại trong Chúa và bên Chúa trong niềm hạnh
phúc vinh hiển trong nhà Cha trên trời.
*
Mẫu 2: Nhận tin ông bà…..đã
được Chúa gọi về sau những ngày lâm trọng bệnh, hưởng thọ… tuổi. Thay mặt quý
Cha, Tu sĩ, HĐMVGX, chúng tôi xin gửi lời chia buồn sâu sắc cùng với….và mọi
người trong gia đình tang quyến.
Nguyện
xin Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ
Maria Mân Côi và Thánh Cả Giuse, xin cho Linh hồn... mau được về hưởng nhan
Thánh Chúa.
Xin
Chúa cũng ban thêm sức mạnh niềm tin và hy vọng cho mọi thành viên trong gia
đình tang quyến, để mọi người sớm vượt qua nỗi mất mác và đau thương này.
Giờ
đây trong niềm tin tưởng và cậy trông vào tình thương của Chúa, chúng ta cùng
nhau tham dự nghi thức tẩm liệm cho...
*
Mẫu 3: Giờ phút này, chúng ta tụ
họp nhau nơi đây để hiệp thông cùng với con cháu, bà con nội ngoại và những
người thân yêu của T để dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ tri ân, về những chuỗi
ngày… đã sống trên trần gian này, trước khi…nhắm mắt ra đi theo tiếng gọi của
Chúa.
Sự
ra đi của… không chỉ là một mất mát lớn lao đối với con cháu, mà còn là một sự
thiếu vắng cho cộng đoàn Họ đạo. Bởi vì từ nay gia đình mất đi người cha (mẹ),
con cháu mất đi người ông (bà) rất gương mẫu trong đời sống đức tin và bác ái.
Họ đạo mất đi một thành viên gương mẫu trong các sinh hoạt đạo đức.
Tôi
được biết khi còn sức khỏe… đã nhiệt tâm sống đạo và đóng góp tích cực vào
những sinh hoạt mục vụ Họ đạo, chu toàn tốt bổn phận của mình, siêng năng cầu
nguyện và tích cực tham dự Thánh lễ. Những việc làm của…tuy rất âm thầm nhưng
lại có sức lan tỏa rộng rãi và đã góp phần lôi kéo ơn Chúa xuống trên Họ đạo
cách mạnh mẽ.
Tuy
sự ra đi của… là một mát mát cho gia đình và Họ đạo, nhưng chúng ta lại hãnh
diện về đời sống của…, bởi vì trong suốt cả gần một thế kỷ,… luôn trung thành
sống niềm tin kiên vững. Với ngần thời gian đó đã là một chiến công hiển hách
diệu kì xứng danh là người chiến sĩ anh hùng của Chúa Kitô.
Tuy
nhiên trong cuộc chiến kéo dài với phận người mỏng giòn “nhân vô thập toàn”,
hẳn người thân yêu của chúng ta đã không tránh khỏi những lầm lỗi thiếu
sót. Vì thế, giờ phút này chúng ta cùng hợp ý với nhau để tha thiết cầu xin sự
tha thứ của Chúa, để nếu…còn vướng mắc điều gì, thì Chúa là Cha giàu lòng
thương xót, bao dung tha thứ để người thân yêu của chúng ta sớm được hưởng niềm
vui vinh quang nước trời.
3.
LỜI CHÚA
Chủ sự: Thưa anh chị em, đứng trước thi hài người quá cố, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa để đức tin, đức cậy và lòng mến của chúng ta được nuôi dưỡng và củng cố.
Lời
Chúa trong thư Thánh Phaolô tông đồ gởi tín hữu Rô-ma. (Rm 6, 8-9)
Nếu
chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người. Đó
là niềm tin của chúng ta. Vì chúng ta biết rằng một khi Đức Kitô đã chỗi dậy từ
cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, tử thần chẳng còn quyền chi đối với
Người. Đó là lời Chúa.
Cộng đoàn: Tạ ơn Chúa
4. SUY NIỆM:
* Có thể sánh ví cuộc sống
trần gian của người Kitô hữu như là một cuộc hành trình, trên cuộc hành trình
ấy đòi hỏi chúng ta phải dám chấp nhận bước đi, chấp nhận đối mặt với gian lao
thử thách, và có khi còn dám chết đi để được sống lại trong Chúa Kitô.
Chắc
chắn không ai trong chúng ta coi cái chết “với Đức Ki-tô” chỉ là cái chết phần
xác, nhưng là cái chết của linh hồn vì ảnh hưởng bởi tội nguyên tổ và tội cá
nhân do ta gây nên. Tuy nhiên, cái chết này đã bị tiêu diệt nhờ vào cái
chết và sự sống lại của Đức Giêsu Kitô, qua đó Người ban lại cho ta sự sống
mới, sự sống vĩnh cửu nước trời.
Theo
dòng suy tư thần học của thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Rô-ma chúng ta vừa
nghe, ngài muốn nói về ý nghĩa của Bí tích Thánh Tẩy, ngài diễn tả như
sau: “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống
với Người”. Và như “Đức Kitô đã chỗi dậy từ cõi chết nhờ quyền
năng vinh hiển của Chúa Cha thế nào, thì chúng ta cũng sẽ được sống lại trong
cùng một đời sống mới với Người như vậy”.
Qủa
thế, trong Chúa Kitô con người cũ tội lỗi của chúng ta đã chết đi trong cái
chết của Người nên đã được “mai táng” với Người. Vì thế mà chúng ta cũng sẽ
được “Phục sinh” cùng với Người. Nói khác đi, căn tính tội lỗi của chúng ta
được thay đổi nhờ cái chết và sự Phục sinh của Chúa Kitô, để từ thân phận tội
lỗi phải chết của chúng ta sẽ được sống trong Chúa, như thánh Phaolô đã
xác quyết: “Đó là niềm tin của chúng ta”.
Nhờ
niềm tin vững vàng vào mầu nhiệm sự chết và phục sinh của Đức Kitô mà cuộc đời
của chúng ta trở nên ý nghĩa và tràn đầy niềm hy vọng vì sau cái chết chính là
khởi điểm cho một cuộc hành trình mới, dẫn đưa chúng ta đến sự sống bất diệt.
Người thân của chúng ta là….đã tin vào Chúa Kitô và đã sống niềm tin đó trong suốt cuộc hành trình lữ thứ trần gian này, nên chúng ta tin rằng ông (bà)…cũng sẽ được sống lại cùng với Chúa Kitô trong niềm hạnh phúc muôn đời. Với niềm tin và hy vọng ấy, chúng ta cùng hiệp lời cầu xin cho ông (bà)…
* Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe, mang đến một thông điệp đầy an ủi và hy vọng. Lời khẳng định ấy của Chúa cho chúng ta biết rằng: cái chết không phải là chấm hết mà là một bước chuyển đổi, một cánh cửa dẫn đến sự sống vĩnh hằng.
Giữa lúc con
cháu trong tang quyến đau buồn vì mất đi một người mẹ, người bà tốt lành, thánh
thiện, yêu thương tận tâm hy sinh phục vụ chu đáo cho gia đình. Họ đạo thương
tiếc vì mất đi một người kitô hữu gương mẫu, năng động, tích cực tham gia vào
các sinh hoạt mục vụ của Họ đạo cho đến cuối đời; thì chúng ta cảm thấy được an ủi qua
lời hứa của Chúa: "Nếu chúng ta đã
cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Người". Lời khẳng
định này nói lên một chân lý sâu sắc về
đức tin của người Công giáo
chúng ta rằng: cái chết không phải là chấm hết mà là một bước chuyển
đổi, một cánh cửa mở ra dẫn đến
sự sống vĩnh hằng.
Khi lãnh nhận bí tích rửa tội, ông (bà)…đã cùng chết với
Đức Kitô, nghĩa là chết đi cho tội lỗi, cho những thói quen xấu, cho những ràng buộc của thế gian để sống thuộc
về Chúa và cho Chúa, nên chúng ta tin
rằng, sau khi trải qua cuộc đời này, ông (bà) cũng sẽ được Chúa cho sống lại cùng với Người để thừa hưởng cuộc
sống vĩnh cửu chan chứa niềm vui, bình
an và hạnh phúc viên mãn trong nước trời.
Xin Chúa an ủi tang quyến đang đau buồn vì mất đi người thân. Xin Chúa cũng giúp mỗi người trong chúng ta biết noi gương ông (bà) luôn biết sống gắn bó mật thiết với Chúa, cố gắng chu toàn tốt mọi bổn phận Chúa trao phó với niềm tin và hy vọng vào sự sống vĩnh cửu mai sau.
5.
LỜI NGUYỆN
*
Mẫu 1: Giờ đây chúng ta
cùng nhau thành khẩn cầu xin cho T mới qua đời, được Chúa đưa dẫn vào nước
trời vui hưởng cuộc sống đời đời trong nhà Chúa. Đức tin dạy chúng ta biết
rằng sự chết chưa phải là kết thúc tất cả nhưng là cửa ngõ tiến vào sự sống
vĩnh cửu. Đối với những người tin vào Chúa Kitô, sự sống chỉ biến đổi chứ không
bị tiêu tan. T đã chịu phép rửa, đã khởi sự đời sống vĩnh hằng ngay khi còn ở
trần gian này. Chúng ta cầu nguyện cho T được chung hưởng niềm vinh quang phục
sinh trong Chúa Kitô.
Lạy
Cha, xin thánh hóa người anh (chị) em chúng con đây, trong cuộc sống
trần gian này đã tin cậy vào Cha, đã phó thác cuộc đời cho Cha, đã tin vào lời
hứa cứu độ của Cha. Xin cho người anh (chị) em chúng con được sống
lại trong Cha. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Cộng đoàn: A-men.
* Mẫu
2: Đau buồn trước sự chết là
lẽ tự nhiên, nhưng ông (bà)... kể như đã làm xong phần việc của mình trên trần
gian, nên giờ đây Thiên Chúa đã định liệu cho ông (bà) được về an nghỉ trong
Ngài. Có thể nói kể từ nay ông (bà)... không còn đau đớn, không còn lo âu như
chúng ta nữa. Đó là niềm hạnh phúc cho ông (bà)... Từ nay thân xác ông (bà)...
không còn đau đớn, tâm trí ông (bà)... không còn lo nghĩ và linh hồn ông
(bà)... đã được giải thoát. Nếu ông (bà)... còn phải thanh luyện trong một
khoảng thời gian nào nữa, thì việc thanh luyện ấy chỉ là để cho xứng đáng hơn
với sự thánh thiện vô cùng của Thiên Chúa mà thôi.
Việc
thanh luyện này thật có ý nghĩa vì nhắc nhở mỗi người chúng ta sống lại niềm
tin về tín điều các thánh cùng thông công mà ý thức bổn phận bác ái giúp đỡ các
linh hồn còn phải chịu đau khổ, được rút ngắn thời gian thanh luyện. GH dạy cho
chúng ta dùng những việc lành phúc đức, những kinh nguyện sốt sắng, những
hy sinh phục vụ trong bổn phận hàng ngày, nhất là tham dự thánh lễ sốt sắng để
lập công đức mà nhường lại cho các đẳng linh hồn. Đó chính là món quà cao quý
nhất mà chúng ta có thể làm để dâng tặng cho người thân chúng ta đã qua đời.
Món quà ơn thánh đó mới có khả năng thanh luyện những vết nhơ bụi trần cho các
linh hồn được thanh sạch, xứng đáng bước vào nhà Cha, vui hưởng niềm hạnh phúc
muôn đời bên Thiên Chúa.
Ước
chi nhờ lời Chúa soi sáng và những lời nguyện cầu của chúng ta trong giờ phút
này giúp chúng ta ý thức điều đó trong niềm tin và hy vọng vào hạnh phúc đời
đời.
*
Lưu ý: Sau mỗi câu xướng,
xin cộng đồng đáp: Xin Chúa nhậm lời
chúng con.
Một
người đọc: Lạy
Chúa, T là người thân thích đã lìa bỏ chúng con, xin cho linh
hồn T được mau về với Chúa.
Cộng
đồng: Xin Chúa nhậm lời
chúng con.
Một
người đọc: Xin cho những việc
tốt mà T đã làm khi còn sống sẽ đem lại nhiều kết quả và còn được
những người khác tiếp tục.
Cộng
đoàn: Xin Chúa nhậm lời
chúng con.
Một
người đọc: Xin Chúa thương tha
thứ mọi lỗi lầm mà T đã trót sai phạm vì yếu đuối.
Cộng
đoàn: Xin Chúa nhậm lời
chúng con.
Một
người đọc: Xin cho hình ảnh tốt đẹp
của T luôn in sâu trong tâm hồn chúng con.
Cộng
đoàn: Xin Chúa nhậm lời
chúng con.
Chủ
sự: Anh chị em thân mến,
Trước
cái chết của T đang làm cho chúng ta đau buồn, nhưng trong niềm tin
cậy và yêu mến, chúng ta cùng nhau chạy đến với Chúa Giêsu, cùng với Người,
chúng ta hãy thưa lên rằng:
Cộng
đoàn: Đọc Kinh
Lạy Cha
*
Rảy Nước Thánh trên thi hài
Chủ
Sự: Đức Mẹ Maria cũng là
người từng trải qua thử thách đau thương, nhất là khi Người đứng dưới chân
Thánh giá Chúa. Chúng ta hãy chạy đến với Đức Mẹ. Xin Mẹ nâng đỡ
chúng ta trong cơn thử thách này.
Cộng
đoàn: Đọc Kinh
Kính Mừng
Chủ
sự: Chúng ta cùng cầu
nguyện,
Lạy
Chúa, Chúa đã biểu lộ tình thương mãnh liệt khi cho Con Một Chúa là Đức Giêsu
Kitô xuống thế chịu khổ hình thập giá vì chúng con. Giờ đây chúng con cậy
vào lòng nhân từ và quyền năng của Chúa mà xin cho người anh (chị) em
tín hữu chúng con là T được chia sẻ vinh quang với Đức Giêsu Kitô,
Đấng đánh bại thần chết, và xin cho T được tham dự vào đời sống phục
sinh của Người đến muôn đời.
Cộng đoàn: Amen
6.
LÀM PHÉP QUAN TÀI
Chủ
sự: Chúng ta cùng cầu
nguyện,
Lạy
Cha, chúng con biết rằng khi thân xác của chúng con là ngôi nhà tạm ở dưới đất
này bị sự chết phá hủy đi, thì chúng con lại có một nơi cư ngụ do Chúa dựng
nên, đó là ngôi nhà vĩnh cửu trên trời, không do tay người phàm làm ra (2Cr 5,
1).
Lạy
Cha, xin thánh hóa và chúc phúc cho chiếc quan tài này, cũng là chiếc áo, và
nhà tạm cho thân xác yếu hèn hay hư nát của người anh (chị) em chúng
con đây cư ngụ, chờ ngày phục sinh trong quyền năng của Cha.
Xin
cho nhà tạm này được Cha thánh hóa và chúc phúc, trở nên nơi yên nghỉ bình an
cho thân xác người anh (chị) em chúng con là đền thờ Ngôi Ba Thiên
Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con.
Cộng
đoàn: Amen.
Chủ
sự: Rảy Nước Thánh trên
quan tài.
Cộng
đoàn hát: Từ vực sâu u tối,
con cầu xin Chúa Chúa ơi! Từ vực sâu thương đau, con đợi trông Chúa nhậm lời.
1. Nếu Chúa chấp tội Chúa ơi, nào ai đứng vững ngàn thu? Nhưng Cha khoan hồng thứ tha, khiến muôn dân luôn tin thờ.
7.
LÀM PHÉP XÁC
Chủ
sự: Chúng ta hãy cầu
nguyện.
Lạy
Chúa, xin Chúa làm + phép thi thể của T với nước thánh, nhắc nhở bí
tích Rửa tội như Thánh Phaolô viết: “Tất cả chúng ta đã chịu phép Rửa
trong Đức Giêsu Kitô, tức là đã chịu phép Rửa trong sự chết của Ngài. Và chúng
ta đã cùng chịu mai táng với Ngài, để như Đức Kitô, nhờ vinh hiển Chúa Cha mà
sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng được tái sinh trong đời sống
mới như vậy. Vì nếu chúng ta được liên kết với Ngài trong cùng một cái chết,
giống như cái chết của Ngài, thì chúng ta cũng được hợp nhất với Ngài trong sự
sống lại giống như vậy”. Trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, tôi tớ Chúa
là T đã mặc lấy Đức Kitô, vậy xin cho T cũng được mặc áo vinh quang trong
ngày Đức Kitô đến. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Cộng
đoàn: Amen
* Rẩy
nước Thánh
Cộng đoàn hát: Sự sống này chỉ thay đổi mà…
8.
LÀM PHÉP KHĂN TANG
Chủ
sự: Ơn phù trợ chúng tôi
ở nơi danh Chúa.
Cộng
đoàn: Là Đấng tạo thành
trời đất.
Chủ
sự: Chúng ta cùng cầu
nguyện, lạy Thiên Chúa toàn năng, trong tình yêu quan phòng của Chúa, Chúa đã
thương ban cho con người có tổ có tiên, có ông bà, cha mẹ và có người thân
trong gia đình, để con người được sinh ra, tăng trưởng và lớn lên trong tình
thương ấm cúng gia đình. Vì thế, Chúa dạy chúng con phải thảo hiếu với cha
mẹ và biết ơn với các bậc tổ tiên khi các Ngài còn sinh tiền, cũng như khi các
ngài khuất núi. Chúa cũng dạy chúng con phải tưởng nhớ và cầu nguyện cho những
người đã qua đời.
Giờ
đây, chúng con xin Chúa đoái thương làm phép + và thánh hóa những chiếc khăn
tang này, mà (con cháu) và gia đình của ông (bà)... sẽ mang trên đầu,
làm dấu hiệu cho đạo hiếu thảo và lòng thương nhớ đến linh hồn T. Xin
cho (con cháu) của ông (bà)... khi mang khăn tang này, được kiên trì trong lời
kinh nguyện và biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau trong tình đại gia đình. Chúng
con cầu xin, nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Cộng
đoàn: Amen.
* Rẩy
nước Thánh
Cộng
đoàn hát: Xin Chúa í a chúc
lành cho đời cha mẹ của con…
9.
KẾT THÚC
Chủ
sự: Lạy Cha, Cha đã
gọi T ra khỏi thế gian này trở về với Cha. Xin cho người con Cha đây ngay
từ giờ phút này được thoát khỏi vòng tội lỗi, được đón nhận vào nước Cha, chờ
đợi ngày thân xác phục sinh. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng
con.
Cộng
đoàn: Amen.
Cộng
đoàn: Từ chốn luyện hình u tối,
vọng tiếng bao linh hồn...
GIẢNG LỄ AN TÁNG
DẪN VÀO THÁNH
LỄ AN TÁNG
Kính quý tang quyến và
toàn thể anh chị em,
Sáng hôm
nay, quý thân hữu và bà con trong họ đạo chúng
ta cùng quây quần bên... để cùng hiệp dâng thánh lễ cuối cùng với... trên
trần gian này, trước khi tiễn biệt... đến nơi an nghỉ cuối cùng, chờ ngày
phục sinh vinh quang trong nước Chúa.
Chúng ta hãy cùng
cầu xin Thiên Chúa là “Đấng giàu lòng thương xót” nhờ lời chuyển cầu
của Mẹ Maria mở rộng vòng tay ban ơn tha thứ mọi tội lỗi thiếu xót cho...
mà sớm ban thưởng niềm vui muôn đời nước trời cho....
Xin Chúa cũng
an ủi và ban sức mạnh thiêng liêng xuống mọi thành viên trong tang quyến để mọi
người can đảm đón nhận sự mất mát đau thương này với niềm tin tưởng vững vàng
vào bàn tay uy quyền của Thiên Chúa.
Nguyện cho những
người thân của... biết biến nỗi đau thương thành những lời cầu nguyện chân
thành thiết tha dâng lên Chúa với niềm hy vọng chắc chắn vào mầu nhiệm cứu
chuộc của Chúa Giê-su Ki-tô.
Trong tâm
tình và ý nguyện đó, giờ đây chúng ta cùng thành tâm thống
hối mọi tội lỗi, thiếu sót để xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh.
SUY
NIỆM 1: BỐN BÀ VỢ TRONG ĐỜI
Khi
muốn nói một điều gì khó nói, người ta hay dùng cách nói ví von, khi muốn thổ
lộ một tâm tình sâu kín khó bộc bạch nên lời, người ta lại phải nhờ đến cách
nói ẩn dụ và khi muốn diễn tả một chân lý tròn đầy mà không từ ngữ nào có
thể diễn đạt hết, người ta lại phải dùng đến câu chuyện.
Có
thể nói câu chuyện là con đường ngắn nhất đưa đến chân lý. Chính vì muốn
diễn đạt chân lý “Thiên Chúa là Tình Yêu”, Tin mừng chúng ta
vừa nghe, Chúa Giêsu đã dùng đến câu chuyện dụ ngôn về:
"Người cha nhân hậu" (ta thường gọi: dụ ngôn người con hoang đàng).
Nhưng
trong ngày an táng ông JB và bà Mr, tôi muốn dùng thêm một câu
chuyện khác, không là câu chuyện người cha nhân lành, nhưng là người chồng giàu
có. Cũng không phải là người cha có hai con, mà là người chồng có bốn
bà vợ để nói lên một phần ý nghĩa của cuộc sống.
Chuyện
kể rằng: có một phú gia kia cưới đến 4 bà vợ.
Ông
ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi khi kiếm được tiền là ông liền mua sắm cho bà
đủ thứ áo quần sang trọng, dẫn bà đi ăn tại các nhà hàng trứ danh. Không những
thế, ông còn tung tiền mua sắm cho bà đủ thứ hột xoàn, trân châu. Bà muốn gì
ông cũng chiều chuộng. Ông cưng bà như cưng trứng, hứng bà như hứng hoa!
Và
mỗi lần đi họp, hay đi kinh doanh, ông đều sung sướng và hãnh diện mang theo bà
vợ thứ hai. Ông luôn khoe bà với bà con lối xóm, với đồng nghiệp, khách hàng.
Bà là niềm hãnh diện của ông!
Mỗi
khi gặp khó khăn, cho dù lớn hay nhỏ, ông đều thủ thỉ, tâm sự với bà vợ thứ ba.
Ông tin tưởng bà lắm, vì bà luôn là người cố vấn cho ông, một người cố vấn khôn
ngoan, trung tín và đầy yêu thương. Bà thật là người bạn đời tri kỷ có một
không hai trên đời!
Còn
bà vợ thứ tư lại rất thương ông, thương ông tha thiết, thương ông nồng nàn,
thương ông chứa chan. Nàng dành hết cả cuộc đời mình để lo cho cuộc sống của
ông, sự nghiệp của ông. Nàng không từ chối một hy sinh nào cho chồng cả. Ngay
cả những khi ông lầm lỗi, bà cũng can đảm thầm nhắc nhở, khuyên lơn, và rộng
lòng tha thứ. Thế nhưng! Ông lại chẳng mấy khi để ý đến nàng.
Rồi
một ngày kia, ông phát bệnh. Bệnh ung thư của ông đã đến thời cuối cùng, các
bác sĩ đều bó tay. Biết mình chả còn sống được bao lâu, ông bèn cho mời các bà
vợ đến để nói lời cuối cùng.
Bà
thứ nhất mặc xiêm y lộng lẫy, nữ trang óng ánh, nước hoa lan tỏa khắp phòng,
đến bên chồng đang hấp hối.
-
Em, anh sắp chết rồi. Em là người anh yêu mến nhất, chăm sóc cho em từng li
từng tí. Em có muốn theo anh về bên kia thế giới để chung sống, để lo lại cho
anh không?
-
Không!
Nàng
lạnh lùng đáp.
-
Anh đi đường anh, em đi đường em. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Nói
xong, nàng ngoảnh mặt, vội vã bước ra khỏi phòng. Lời bà như một nhát dao đâm
thấu tim ông!
Người
phú gia vừa cố gắng nắm tay bà vợ thứ hai, vừa run run hỏi:
-
Em, suốt đời anh, em là niềm hạnh phúc, là niềm kiêu hãnh của anh. Giờ đây anh
sắp chết, em có muốn theo anh về bên kia, như hào quang chói sáng cho anh, như
người tiến cử anh vào cuộc sống huy hoàng không?
-
Không! Anh chết rồi, tôi sẽ cưới người khác. Tôi phải thuộc về người khác chứ!
Ai lại theo kẻ chết xuống mồ bao giờ.
Nói
xong, nàng trở gót bỏ đi. Mỗi tiếng gót giày nàng nện xuống thềm nhà, là một
nhát búa đóng đinh xuyên qua tim chàng. Đau buốt,
nát tim, người phú gia quay nhìn bà vợ thứ ba và ân cần hỏi:
-
Em, trong suốt cuộc đời, em là người luôn sát cánh cùng anh. Không có chuyện gì
mà anh không chia sẻ cùng em. Em luôn bên cạnh anh, lúc vui cũng như lúc buồn.
Giờ đây, anh sắp chết, em có chịu theo anh không?
-
Anh yêu, em biết anh yêu em lắm, và em cũng yêu anh. Nhưng cùng lắm, em chỉ có
thể theo anh ra nghĩa trang, nhìn anh đi vào lòng đất lạnh, rồi thắp cho anh
những nén hương lòng. Em sẽ nhớ anh thật nhiều, nhưng theo anh, em không thể
nào làm được. Nói xong, nước
mắt nàng tuôn trào.
Bỗng
đâu, một giọng nói yếu ớt vang lên:
-
Em sẽ theo anh về bên kia thế giới. Anh yêu, cho em theo anh. Đừng bỏ em!
Chàng
phú gia lấy hết sức tàn ngồi chổm dậy, nhìn về phía phát xuất ra giọng nói. Và
kià! Người vợ thứ tư của chàng đang ôm mặt khóc nức nở. Thân hình nàng qúa mảnh
khảnh tựa hồ dễ bị cuốn theo chiều gió. Một người vợ yêu chàng tha thiết, nhưng
đã bị chàng bỏ bê cả cuộc đời.
Và
trước khi nhắm mắt lìa đời, chàng phú gia mới thật sự nhận ra chân giá trị của
cuộc đời!
Hôm
nay, ngày lễ an táng của bà Maria và ông JB là dịp thuận tiện giúp ta suy
nghĩ về cuộc đời và cái chết của mỗi chúng ta, ngang qua đó ta nhận ra
những bà vợ của cuộc đời mình:
• Rất
có thể trong cuộc sống này, ta đã quá yêu bà vợ thứ nhất, đó là thân xác
của ta. Cho dù ta có mặc cho nó đủ thứ lụa là gấm vóc, nuôi dưỡng bằng cao
lương mỹ vị, ta cũng chẳng đem theo được về bên kia thế giới.
• Rất
có thể ta đã quá hãnh diện với chức tước, bằng cấp, bà vợ thứ
hai - nhưng chức tước ấy cũng sẽ thuộc về người
khác một khi mình giã từ cõi đời này.
• Rất
có thể họ hàng, gia đình ta, bà vợ thứ ba, họ sẽ theo ta ra tận
nghĩa trang, và rồi hằng năm giỗ kỵ cho mình, nhưng xét cho cùng
thì nào có ai theo mình xuống huyệt để nằm cạnh ta trong
lòng đất.
• Chỉ
còn lại cái linh hồn và công phúc của mình, bà vợ thứ tư nhưng
vì mà mình quá chăm lo cho thể xác, say mê chạy theo tiền
tài danh vọng và bận tâm bon chen chức cao quyền trọng nên ít khi ta buồn
nghĩ đến những điều quan trọng nhất sẽ theo ta đi vào thế
giới bên kia. Những bon chen bộn bề của cuộc sống, nhiều lúc chúng ta quên
đi điều chính yếu để rồi ta lại sắp xếp lẫn lộn những bậc thang giá
trị khiến ta mất đi hướng sống. Mùa chay là thời gian thuận tiện GH
mở ra để mời gọi chúng ta sám hối, trở về:
Trở
về với Chúa là Cha như người con hoang đàng: Khi xa Cha, anh
tưởng đời mình sẽ hạnh phúc. Nhưng anh đã lầm, sau những ngày phiêu lưu tìm cảm
giác lạ, anh cảm thấy trống vắng, hụt hẩn, và đau khổ. Chỉ khi tìm về và được ở
bên cha, anh ta mới tìm lại hạnh phúc và bình an đích thực. Thế là anh quyết
tâm trở về!
Trở
về với anh em mình, như người anh cả: Chính lòng ích kỉ
nhỏ nhoi, đưa đến ghen tỵ. Lòng ghen tỵ khiến anh trở nên mù quáng không còn
nhận ra tình anh em máu mủ nên xem em mình chỉ là “thằng con của cha”,
chứ không phải là em mình. Lòng ghen tỵ dẫn đến so đo phân bì, coi mình là
người xứng đáng được cha ban thưởng chứ không phải em mình: “có bao giờ
cha cho con dù chỉ con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn…vậy mà cha
lại giết bê béo ăn mừng nó trở về”.
Tưởng
anh gần bên cha, ở trong nhà cha nhưng hóa ra anh ở rất xa cha
và bên ngoài mái ấm gia đình. Anh cần trở về trong tình thân gia
đình. Niềm vui của cha phải là niềm vui của anh. Hạnh phúc của người
em phải là hạnh phúc của anh.
Trở
về với chính mình như người con hoang đàng: Trong
lúc khổ cực vất vả của cảnh người làm thuê. Trong cơn đói khát rã rời đã giúp
người con hoang đàng trở về với chính lòng mình. Anh đã nhận ra sai lầm và tội
lỗi mình đã phạm. Và cũng chính trong cơn đói khát, anh đã nghĩ đến tình cha, cảm
nhận được sự ấm áp, niềm vui khi được ở với cha.
Ta
tin rằng bà Maria và ông JB trong suốt chặng đường mấy mươi
năm qua đã ý thức đâu mới là giá trị cao quý và quan trọng nhất đời mình,
nên đã không ngừng trở về:
- Trở
về với Chúa, bằng đời sống đức tin, đức cậy và lòng mến Chúa ngang qua
việc cầu nguyện, tham dự thánh lễ và tích cực lãnh nhận các bí tích
nhất là bí tích thánh thể cho đến giây phút cuối cùng.
- Trở
về với anh chị em mình, bằng cách nỗ lực chu toàn tốt
bổn phận làm người trong vai trò làm vợ, làm mẹ, làm
bà cũng như làm chồng làm cha, làm ông nơi môi trường trong gia đình và xã
hội mà mình đã sống.
- Trở
về với chính lòng mình bằng những hy sinh âm thầm để phụng sự Chúa và phục
vụ GH. Luôn sẵn sàng hy sinh thời giờ, công sức, tiền của để kiến tạo một
lối sống hiệp hành bằng cách tích cực hiệp thông, tham gia và thi hành sứ
vụ cùng với mọi người trong họ đạo, với mong muốn trở nên chứng nhân trung
thành cho niềm tin và tình yêu vào Thiên Chúa và Giáo hội, cho dẫu phải
chịu nhiều thiệt thòi.
Nếu
sự trở về của người con hoang đàng trong tin mừng hôm nay, còn được người cha
vui mừng đón nhận vào nhà, phục hồi tước vị làm con và tổ chức tiệc mừng
linh đình, thì với những nổ lực trở về với Chúa, với tha nhân và chính
mình ngang qua những cố gắng chu toàn tốt bổn phận của
mình trong niềm tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Thiên Chúa Người Cha
nhân lành, ông JB và bà Maira cũng sẽ được Thiên Chúa hân
hoan đón nhận vào nhà của Người để được tham dự vào bàn tiệc vui
muôn đời cùng các thần thánh trên trời.
SUY
NIỆM 2: CHUYẾN XE CUỘC ĐỜI
Hôm
sáng thứ hai, dì út gọi điện báo thứ bảy này là ngày lễ giỗ một năm của bà cố
Maria mẹ của dì. Hỏi xem tôi có về dự lễ giỗ và cầu nguyện cho bà cố không?
Tôi
trả lời là để con sắp xếp rồi báo lại cho dì biết sau.
Sắp
xếp công việc xong. Hôm sau, tôi gọi điện lại cho dì út và báo là sẽ đi. Sẵn
dịp dì út cũng chỉ đường và lộ trình của tuyến xe cho tôi biết.
Ngồi
trên xe, tôi lại nghĩ miên man đến chuyến xe cuộc đời:
Chuyến xe
nào dù ngắn hay dài đều phải mang 5 yếu tố: Trạm hay bến khởi hành, giờ khởi
hành, vé xe và kiểm soát viên.
Nếu
chuyến xe khách đúng nghĩa luôn phải có 5 yếu tố trên, thì chuyến xe cuộc đời
của mỗi người càng không thể thiếu những yếu tố ấy.
Vì
đời người được ví như là cuộc hành trình về nhà Cha. Trong cuộc hành
trình này, tôi phải ghi nhớ 5 điều ấy:
Thứ
nhất: trạm khởi hành.
Nếu
trạm khởi hành của xe khách là bất cứ nơi đâu trên trái đất này, thì trạm khởi
hành của chuyến xe cuộc đời chúng ta là cái chết bất cứ nơi đâu.
Sự
thường sống ở đâu thì chết đó. Nhưng điều này cũng không chắn chắn trăm phần
trăm, vì có những người chết nơi khác không phải ở nhà mình. Ngoài đường, bệnh
viện, hay ngoài biển cả.
Thứ
hai: giờ khởi hành.
Giờ
khởi hành của xe khách là mọi lúc, từng giây từng phút đều có xe xuất bến. Giờ
khởi hành chuyến xe cuộc đời ta là chết bất cứ lúc nào.
Bình
thường thì trẻ chết sau già, con chết sau bố, cháu chết sau ông. Nhưng đó cũng
không phải là quy luật tuyệt đối, bởi đã có câu than thở: “lá vàng còn ở trên
cây, lá xanh rụng xuống trời ơi hỡi trời”. Thần chết không kiêng nể ai, nó có
thể đến với người ta bất cứ lúc nào.
Thứ
ba: đích đến.
Xe
khách nào cũng có đíểm đến, còn đích đến của chuyến xe cuộc đời mỗi người chính
là trước tòa Chúa phán xét .
Nghĩa
là liền sau khi chết, linh hồn phải đến trước tòa Chúa để chịu phán xét về tất
cả cuộc đời đã sống ở trần gian.
Thứ
tư: vé xe
Vé
xe là bằng chứng hợp pháp, ta được công nhận ở trong xe đó và gắn kết với xe đó
suốt cuộc hành trình. Còn vé xe đời ta chính là sống trong ơn nghĩa Chúa, nghĩa
là cuộc sống trần gian, dài hay ngắn, lâu hay mau, không thành vấn đề, vấn đề
quan trọng là chúng ta có trung thành giữ được tấm vé sống ơn nghĩa với Chúa
qua đời sống trung tín với Chúa hay không.
Thứ
năm: kiểm soát viên
Kiểm
soát viên có nhiệm vụ kiểm tra vé xem có đúng khách đi trên chuyến xe của mình
không. Kiểm soát viên chuyến xe đời ta chính là việc xét mình. Việc kiểm điểm
đời sống hàng ngày, rất cần thiết cho đời sống của chúng ta, nhất là trước mỗi
khi ngả lưng xuống giường nghỉ đêm. Xét mình để ta nhận ra con người thật của
mình trước mặt Chúa mà tạ ơn và tạ lỗi để làm mới lại đời sống theo thánh ý của
Chúa.
Đó
là lộ trình mà ai trong chúng ta cũng phải đi. Hôm nay nhân ngày giỗ một năm
ngày của bà cố Maria, cũng trùng vào mùa chay thánh càng nhắc nhớ tôi và ông bà
anh chị em về chuyến xe cuộc đời.
Nếu
chúng ta luôn sẵn sàng hành trang cho chuyến xe cuộc đời, thì chết ở đâu cũng
chẳng sao, chết lúc nào cũng chẳng sợ, chết thế nào cũng chẳng lo.
Có
biết bao người, trong đó có những người thân yêu ruột thịt chúng ta, nhất là bà
cố Maria đã đi qua chuyến xe cuộc đời này, tức là đã sống và đã chết, nhưng không
biết họ đã tới thiêng đàng chưa?
Có
nhiều người đã tới rồi, nhưng cũng có nhiều người chưa tới được. vì vậy, họ
đang mong chờ chúng ta giúp đỡ họ.
Mong
chờ đồng nghĩa với hy vọng, hy vọng không đạt được thành thất vọng. Anh chị em
ấy đặt hy vọng nơi chúng ta những người còn sống, hy vọng chúng ta giúp đỡ họ
bằng lời cầu nguyện, bằng những hy sinh hãm mình, bằng đời sống yêu thương phục
vụ theo tinh thần của mùa chay thánh, nhất là bằng những thánh lễ hàng ngày.
Ước mong chúng ta đừng để họ phải thất vọng vì ta.
Xin
Thiên Chúa Người Cha nhân hậu, giàu lòng thương xót tha thứ những lầm lỗi thiếu
xót của chúng ta, nhất là cho bà cố Maria, người con trung tín với Chúa trong
đời sống đức tin vững mạnh và kiên trung được an hưởng hạnh phúc viên mãn trong
nhà Chúa sau khi giả từ đời này.
SUY
NIỆM 3: BÀI GIẢNG LỄ ÔNG PHANXICÔ SANG
Kính
thưa ông bà và anh chị em, đặc biệt tang quyến,
Nhân
lễ an táng của ông hai Phan-xi-cô hôm nay, chúng ta có dịp nhìn lại cuộc đời và
cái chết của ông, để chúng ta thêm lạc quan hơn trong tương lai như lời ngôn sứ
I-sa-i-a đã nói trong bài đọc 1 rằng: ngày ấy Thiên Chúa sẽ dọn tiệc chiêu đãi
muôn dân. Chính Ngài sẽ cất khăn tang bao trùm muôn dân nước, sẽ xóa sạch nỗi u
sầu.
Đúng
là như vậy, trong niềm tin người công giáo, chúng ta biết rằng chết là về với
Thiên Chúa, Đấng tạo thành nên mình. Ngày ấy, chúng ta sẽ về dự tiệc vui trong
nước của Thiên Chúa. Thế thì phải vui, như con gặp lại cha mẹ vậy.
Nhưng
chuyện lại không đơn giản như thế. Muốn được dự tiệc vui nơi nhà Cha, mỗi người
chúng ta phải trả lẽ trước nhan Thiên Chúa về những hành vi trong cuộc sống của
mình. Chúng ta gọi đó là cuộc phán xét của Thiên Chúa. Vì thế mà nhiều người
thấy run sợ, vì có khi tội lỗi mình phạm lại nhiều hơn những công đức mà mình
đã lập. Vậy làm sao để được Thiên Chúa công bình vô cùng tha thứ mà xóa án cho
mình?
Ông
bà và anh chị em thân mến,
Ông
Hai đã hoàn tất cuộc đời này, với 76 năm làm người và làm con Chúa. Ông đã gắn
bó với họ đạo này trong suốt cả đời mình. Trong đó nhiều năm ông đã cộng tác
đắc lực với quý cha để phục vụ cho họ đạo trong nhiều vai trò khác nhau như:
làm từ giật chuông, giúp lễ, cũng như điều hành các sinh hoạt của khu xóm. Có
thể nói ông hai là người đã tận tâm hy sinh âm thầm phục vụ với hết khả năng
mình.
Thời
gian gần đây mặc dù tuổi ông đã lớn, nhưng tôi thấy không khi nào ông vắng mặt
trong các sinh hoạt của họ đạo. Đặt biệt ông rất siêng năng tham dự thánh lễ
Mi-sa hằng ngày. Điều này minh chứng cho thấy ông luôn thiết tha gắn bó và yêu
mến Chúa Giêsu Thánh Thể.
Với
tính tình hiền lành, với tấm lòng chân thật, với tiếng nói ôn hòa ông đã để lại
hình ảnh đẹp trong sáng trong lòng chúng ta. Vì thế, ông được mọi người trong
họ đạo quý mến.
Nhưng
Thiên Chúa rất nhân lành, Ngài đã nhìn thấy người tôi tớ của Chúa chăm chỉ làm
việc, đã chu toàn tốt nhiệm vụ Chúa trao phó, nên hôm nay ông được Chúa gọi về
cách nhanh chóng, vì ông đã chuẩn bị chờ đợi ngày này trong từng phút giây
trong suốt cuộc đời ông.
Kính
thưa ông bà và anh chị em,
Trong
bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã cám tạ ngợi khen Thiên Chúa Cha, vì Ngài đã mạc
khải điều cao trọng cho những người hèn mọn. Chính chúng ta cũng như ông Hai là
người hèn mọn, nên đã được Chúa thương tỏ mình ra. Vì thế, chúng ta cùng với
ông Hai hãy hết lòng tạ ơn Chúa vì ơn trọng này.
Được
biết Thiên Chúa là một hồng ân. Được thuộc về Chúa trong ơn gọi làm kitô hữu
còn là một hồng ân lớn lao. Nhất là được ra đi trong vòng tay yêu thương của
Chúa là niềm hạnh phúc tuyệt vời! Ông hai đã sống đời làm người và làm con
Chúa, ông đã trao ban hết những gì mình có, sức khỏe, thời giờ và tiền của vì
lòng yêu mến Chúa và GH, bởi ông ý thức tất cả những gì công có đều thuộc về
Chúa. Chúng ta tin rằng, giờ đây ông đang hưởng niềm hạnh phúc thiêng đàng vì
được ở trong vòng tay yêu thương của Chúa.
Dẫu
sao trong thân phận làm người "nhân vô thập toàn", chắc rằng ông vẫn
còn có những thiếu sót trước mặt Chúa. Nhưng chúng ta tin rằng với những công
phúc mà ông đã làm được trong suốt cuộc đời trần thế này sẽ xóa nhòa đi những
bụi trần và tội khiêng mà ông vướng bận. Nhất là nhờ cầu nguyện của chúng ta
trong Thánh lễ hôm nay, Chúa là người Cha giàu lòng thương xót sẽ xóa bỏ hết
mọi dấu vết tội lỗi trong cuộc đời của người tôi tớ Chúa nếu còn vướng mắc.
Xin
Thánh Tâm Chúa Giêsu mở ra đón nhận Linh hồn Phan-xi-cô vào an nghỉ trong trái
tim Ngài để Linh Hồn Phan-xi-cô được tham dự vào tiệc vui muôn đời trong nhà
Cha trên trời, sau 76 năm hy sinh chăm lo gia đình và quên mình phục vụ Họ đạo.
Amen.
SUY NIỆM 4: NHỮNG GÌ TÔI MANG THEO
Chết có
thể nói là sự thay đổi từ nhà này sang nhà khác.
Người
tín hữu chúng ta từ khi sinh ra đến lúc chết đi đều phải đi qua
4 ngôi nhà.
1.
Ngôi nhà thứ nhất là “Căn nhà nơi cha mẹ sinh ta ra”. Đây là
nơi chôn nhau cắt rốn của con người, nơi ta được sinh ra, được cha mẹ nuôi
dưỡng, giáo dục để chúng ta lớn lên thành một con người trưởng thành để giúp
ích cho xã hội và Giáo hội. Nơi đây mọi người đoàn kết cùng nhau xây
dựng một gia đình êm ấm trong yêu thương và hòa bình.
2.
Ngôi nhà thứ hai là “ngôi Nhà thờ họ đạo”, nơi đây cha mẹ đem
chúng ta đến lãnh bí tích rửa tội để trở thành một thành viên trong Hội thánh
và làm con Chúa. Nơi đây ta đến gặp gỡ Chúa với anh chị em, được
lãnh các bí tích. Và khi ta đã nhắm mắt lìa đời thân xác ta lại được đưa
đến nhà thờ lần cuối để giã biệt mọi người.
3.
Ngôi nhà thứ ba là “Nhà mồ”, là chiếc quan tài chứa đựng thân
xác ta và bị chôn vùi dưới lòng đất. Mồ mả cũng là cái nhà cuối
cùng chứa đựng thân xác ta. Nếu đọc Thánh vịnh 48,
ta phải xác định cái huyệt mồ là nhà cuối cùng của ta : “ba tấc đất mới
thực là nhà”.
Như
vậy, chết là đi từ nhà sinh, qua nhà thờ đến nhà mồ. Nhưng cả ba nhà này
chỉ có tính cách tạm bợ, nhất thời. Tất cả chỉ được coi như cái quán trọ ven
đường. Đã là quán trọ thì người ta chỉ dừng qua đêm, hay một thời
gian ngắn chứ không được coi như nơi thường trú.
4.
Ngôi nhà thứ tư là “Ngôi nhà vĩnh cửu”. Đây là nơi thường trú vĩnh
viễn, nơi mà mọi người tín hữu phải nhắm tới. Chúng ta có thể gọi ngôi
nhà này là “Nhà Cha trên trời”.
Bài
đọc 1 trong thư gửi cho tín hữu Corintô, thánh Phaolô đã đoan chắc
với ta rằng : “Nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất bị phá
hủy đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu
trên trời, không do người thế làm ra” (2Cr 5,1).
Ngôi
nhà đó là nhà Cha chúng ta trên quê hương vĩnh cửu, nơi không còn khóc lóc than
van, không còn đau khổ, không còn chiến tranh. Ở đó, chỉ có tình yêu, niềm vui,
chỉ có bình an thuận hòa, chỉ có hạnh phúc miên trường, không bao giờ vơi,
không bao giờ tàn lụi.
Cả
bốn ngôi nhà đó Chúa đã mở ra cho chúng ta, nhưng không phải ai cũng đến được
ngôi nhà thứ tư là “Nhà Cha”. Muốn đến ngôi nhà thứ tư phải có điều kiện, phải
được chuẩn bị sẵn sàng
Vậy chúng ta chuẩn bị những gì ?
Chắc chắn không phải là tiền bạc của cải, cũng
không phải chức quyền hay danh vọng. Tất cả những thứ đó phải để lại cho người
khác. Vì tất cả những gì chúng ta có ở trần gian này đều rời bỏ chúng
ta, chúng ta sẽ ra đi một mình, cùng lắm là một chiếc quan tài với ba
tấc đất.
Trong số các vua đầy quyền uy và giàu
có trên trần gian,phải kể đến hoàng đế Alexandre của đế quốc Hy-lạp
xưa. Ông có một cái nhìn sâu sắc và sáng suốt đối với của cải ở trần gian
này. Trước khi chết nhà vua cho triệu các quan trong triều
đình đến để truyền đạt ba ý nguyện cuối cùng của mình. Nhà vua phán :
1. Quan tài của ngài phải được khiêng đi bởi chính các
vị ngự y (bác sĩ) giỏi nhất của thời đó.
2. Tất cả các báu vật của ngài (vàng, bạc, châu báu…)
phải được rải dọc theo con đường dẫn đến ngôi mộ của ngài, và…
3. Đôi bàn tay của ngài phải được để lắc lư, đong đưa
trên không, thò ra khỏi quan tài, và để cho mọi người đều thấy.
Một vị cận thần của ngài, rất đỗi ngạc nhiên về những
điều yêu cầu kỳ lạ này, và đã hỏi vua lý do tại sao ngài lại muốn như thế.
Đại đế Alexandre đã giải thích như sau :
1. Ta muốn các vị ngự y (bác sĩ) giỏi nhất phải mang
quan tài của ta để cho mọi gnười thấy rằng một khi phải đối mặt với cái chết,
thì chính họ (là những người tài giỏi nhất) cũng không có tài nào để
cứu chữa.
2. Ta muốn châu báu của ta được vung vãi trân mặt đất
để cho mọi người thấy rằng của cải, tài sản mà ta gom góp được ở trên thế gian
này, sẽ mãi mãi ở lại trên thế gian này (một khi nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi
đời).
3.Ta muốn bàn tay của ta đong đưa trên không, để cho
mọi người thấy rằng chúng ta đến với thế giới này với hai bàn tay trắng và
khi rời khỏi thế giới này chúng ta cũng chỉ có hai bàn tay trắng.
Đến cuối cuộc đời, chúng ta sẽ nghiệm ra rằng : kho
tàng quí giá nhất trên cuộc đời này là “Tình yêu thương”.
Như vậy, những gì chúng ta có thể mang theo khi chết,
đó là những việc từ thiện bác ái. Sở dĩ chúng ta dám nói như vậy, bởi vì trong ngày
phán xét, Chúa sẽ nói với người lành cũng như kẻ dữ một câu, mà sự khác nhau
chỉ là người có làm hay không. Chúa nói với kẻ lành : ”Nào những kẻ Cha Ta
chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo
thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho
uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho
mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi
han.” (Mt 25,34-36).
Một người đã ý thức về điều này, đã cho khắc vào bia
mộ của mình những dòng chữ đầy ý nghĩa sau đây :
Cái gì tôi đã tiêu xài, bây giờ không còn nữa,
Cái gì tôi đã mua sắm, bây giờ tôi phải để lại cho
người khác,
Chỉ cái gì tôi đã cho đi là còn thuộc về tôi.
Hãy sống thời gian hiện tại cho đầy đủ tình yêu
đối với Chúa và tình bác ái đối với anh em, đừng để phí đi một giây phút nào.
Mỗi lần tham dự thánh lễ an táng, chúng ta như được
người chết nhắc nhở và mời gọi: Hãy gấp rút sửa đổi đời sống, kẻo như chúng
tôi: chết rồi là không còn làm được gì nữa. Hãy dâng nhiều thánh lễ cầu nguyện,
bố thí và làm nhiều việc lành phúc đức để giúp chúng tôi. Vì thế trong thánh lễ
này chúng ta hãy cầu nguyện thật nhiều cho bà Maria, người con của họ đạo và là
người đồng hương, đồng đạo với chúng ta.
SUY
NIỆM 4:
Hiện diện trước người chết trong thánh lễ an táng sáng nay,
chúng ta có cùng chung một suy nghĩ : Cái chết quả là một sự thật,
một sức mạnh không một ai chối cãi, không ai có thể chống lại được!
Cái chết xóa sạch mọi cách biệt: giàu nghèo, chức quyền,
địa vị. Nó lấy đi tất cả những gì mà con người nhọc công vun vén, ky cóp khi
còn sống và trả lại cho mỗi người ai cũng bằng ai là một nấm mồ với những núm
cỏ dại mọc hoang và những cơn gió vi vu tựa như những lời ru u buồn nghe mênh
mang, mênh mang vậy.
*
Đối với những người không có đức tin: Họ
nhìn cái chết như một sự dữ đáng nguyền rủa. Một dấu chấm hết mà không ai muốn
nghỉ tới. Chết là hết : hết mọi tình nghĩa, hết mọi ước mơ, hết mọi dự
tính…
*
Đối với người có đức tin thì khác: chết
là chấm hết một cuộc chơi, một Kỳ thi để nhận kết quả
: thưởng-phạt. Chết là một biến đổi từ giả tạm sang thế giới vĩnh
cửu, là một cây cầu bắt từ đời tạm này với đời sống vĩnh cửu...Chết không
là một kết thúc để đi vào hư vô đời đời, thân xác tuy sẽ bị phân
hủy trở về cát bụi, nhưng sẽ có ngày Phục sinh với quyền năng của
Chúa.
Tín
điều các Thánh thông công còn dạy ta rằng : người chết không thể làm
gì để cứu mình được nhưng những người còn sống có thể làm được rất nhiều việc
để cứu giúp họ. Mỗi lần tham dự thánh lễ an táng, chúng ta được mời gọi tha
thiết từ người chết là:
* Hãy gấp rút sửa đổi đời sống, kẻo như chúng tôi : chết
rồi là không còn làm gì được nữa.
* Hãy dâng nhiều thánh lễ, cầu nguyện, bố thí và tích góp
nhiều việc công đức để cứu giúp chúng tôi.
Bởi nay người mai ta! Linh hồn được giải thoát sẽ
không quên trả ơn cho chúng ta trên cuộc sống trần gian hay một ngày nào
đó ta lìa bỏ đời này.
Cho nên một người nào đó đã ý thức về điều này, nên đã
cho khắc vào bia mộ của mình những dòng chữ đầy ý nghĩa sau đây :
Cái gì tôi đã tiêu xài, bây giờ không còn nữa,
Cái gì tôi đã mua sắm, bây giờ tôi phải để lại cho
người khác,
Chỉ cái gì tôi đã cho đi là còn thuộc về tôi.
Hãy sống thời gian hiện tại cho đầy đủ tình yêu
đối với Chúa và tình bác ái đối với anh em, đừng để phí đi một giây phút nào.
Mỗi lần tham dự thánh lễ an táng, chúng ta như được
người chết nhắc nhở và mời gọi: Hãy gấp rút sửa đổi đời sống, kẻo như chúng
tôi: chết rồi là không còn làm được gì nữa. Hãy dâng nhiều thánh lễ cầu nguyện,
bố thí và làm nhiều việc lành phúc đức để giúp chúng tôi. Vì thế trong thánh lễ
này chúng ta hãy cầu nguyện thật nhiều cho bà…, người con của họ đạo và là
người đồng hương, đồng đạo, đồng lý tưởng sống với chúng ta.
SUY
NIỆM 5: SỰ SỐNG NÀY CHỈ THAY ĐỔI
CHỨ KHÔNG MẤT ĐI
Trích sách Khải
Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan đã thấy
trời mới và đất mới. Vì trời cũ và đất cũ đã qua đi, và biển cũng không còn
nữa. Và tôi là Gioan đã thấy thành thánh Giêrusalem mới, tự trời xuống, từ nơi
Thiên Chúa: tề chỉnh như tân nương được trang điểm cho tân lang của mình. Và
tôi nghe có tiếng lớn tự ngai vàng phán ra: "Ðây là Thiên Chúa ở với loài
người, và chính Thiên Chúa sẽ ở với họ. Người sẽ lau khô mọi giọt lệ ở mắt họ.
Sự chết chóc sẽ không còn nữa, cũng không còn than khóc, không còn kêu la,
không còn đau khổ: bởi vì các việc cũ đã qua đi". Và Ðấng ngự trên ngai
vàng đã phán rằng: "Này đây, Ta đổi mới mọi sự". Ðó là lời Chúa.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (Lc 20,27-38)
27 Khi ấy, có mấy người
thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Chúa Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống
lại. 28 Mấy người ấy hỏi Chúa Giê-su: “Thưa Thầy, ông
Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi,
đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho
anh hay em mình. 29 Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người
anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. 30 Người thứ
hai, 31 rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như
vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. 32 Cuối
cùng, người đàn bà ấy cũng chết. 33 Vậy trong ngày sống
lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ ?”
34 Chúa Giê-su đáp: “Con cái
đời này cưới vợ lấy chồng, 35 chứ những ai được xét là
đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng
lấy chồng. 36 Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được
ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống
lại. 37 Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông
Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là
Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa
của tổ phụ Gia-cóp. 38 Mà Người không phải là Thiên Chúa
của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang
sống”. Đó là lời Chúa.
Kính
thưa quý ông bà và anh chị em, đặc biệt quý tang quyến.
Có
lẽ ai trong chúng ta cũng đều biết đến: Trịnh Công Sơn. Ông ta là một
nhạc tài hoa của Việt Nam. Ông để lại cho đời nhiều nhạc phẩm hay, mang tính
triết lý sâu sắc. Một trong những tác phẩm ấn tượng là bài “Hạ Trắng”. Trong
tác phẩm này có một câu hơi khó hiểu, đó là: “Áo xưa dù nhàu, cũng xin bạc đầu,
gọi mãi tên nhau”.
Có lần người ta phỏng vấn ông về câu này, ông cho biết lời nhạc ấy bắt
nguồn từ 1 câu chuyện có thật của một đôi vợ chồng lớn tuổi, sinh sống tại Huế.
Hai
vợ chồng đó đã sống với nhau cho đến đầu bạc răng long. Trong suốt ngần 70, 80
năm chung sống đời vợ chống, buổi sáng nào, bà vợ cũng xuống bếp đun cho ông ta
một ấm trà nóng. Việc làm đó đã trở thành thông lệ, tựa như là một lễ nghi vậy
Nhưng
vào một buổi sáng nọ, như thường lệ, bà xuống bếp đun cho ông một bình trà ấm,
thì bất ngờ bà bị trúng gió và qua đời tại gian bếp quen thuộc ấy.
Ông
ngồi trên này đợi mãi mà không thấy bà mang bình trà lên. May thay, hôm đó có đứa
con trai ghé thăm ông bà, anh vào bếp và thấy người mẹ đã chết, người con trai
ấy âm thầm đưa mẹ về nhà mình để làm tang lễ, vì anh sợ báo tin cho ba thì ba anh
sẽ buồn mà chết theo, nên đành phải giấu kín tin ấy. Anh chỉ báo cho ba mình biết
là anh đã đem mẹ về bên nhà để tiện bề chăm sóc. Tuy nhiên,
giấu lâu cũng không được, một buổi sáng nọ ông mới hỏi: “ mẹ các con đã mất rồi
phải không?” Lúc đó đứa con trai mới òa lên khóc và thừa nhận sự thật. Cũng
kể từ đó ông không muốn ăn uống gì nữa, mãi cho đến khi ông qua đời. Bởi vì ông
cảm thấy bây giờ mình sống cũng không còn ý nghĩa gì nữa.
Kính thưa cộng đoàn, câu chuyện
cảm động trên đưa ta về câu hỏi muôn thuở của cõi nhân sinh đó là: “chết rồi con người sẽ đi về đâu?”
- Nhiều người cho rằng chết là
hết, nhưng sự thật chết không phải là hết. Niềm tin kitô giáo dạy cho chúng ta
biết rằng: chết chỉ là sự biến đổi chứ không mất đi, như lời của một bài thánh
ca thường được cất lên trong những thánh lễ an táng: "sự sống này chỉ thay
đổi mà không mất đi".
Thật vậy, tựa như đám mây khi
không còn là mây nữa thì nó lại tiếp tục hiện diện với một hình thức mới, đó là
cơn mưa hay băng tuyết. Cũng thế, khi người mình thương chết đi không có nghĩa
là mất đi mà chỉ là thay đổi dưới một dạng thức khác hay một tình trạng mới mà
thôi.
Một ví dụ dễ hiểu là ai trong
chúng ta cũng từng trải qua thời gian trong bàu thai người mẹ, rồi sinh ra làm
em bé, khi ấy, ba chúng ta chụp cho ta một tấm hình, mãi khi lớn khôn, ta có
dịp nhìn lại tấm hình em bé ấy, tuy khác mình bây giờ, nhưng đó lại là chính
mình. Vậy thử hỏi em bé khi xưa hay đám mây không còn thấy như trước nữa,
thì có mất không? Thưa không nó vẫn tiếp tục hiện diện trong những cơn mưa hay
dưới một hình dạng khác mà thôi.
Khoa học ngày nay cũng công
nhận điều đó. Họ chứng minh cho thấy vật chất và năng lượng không thể mất đi. Vật
chất có thể được biến đổi từ dạng thức này thành dạng thức kia. Năng lượng cũng
vậy nó tồn tại dưới hình thức này sang hình thức khác. Điều đó khoa học gọi là
định luật “bảo toàn vũ trụ”.
Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe cũng
đã xác định điều ấy:
Bài đọc 1, cho ta biết có sự
sống đời sau trong cỏi vĩnh hằng. Cỏi vĩnh hằng ấy được gọi là "trời mới
đất mới", nơi ấy không còn tang tóc, đau khổ và nước mắt… như lời sách
khải huyền đã diễn tả: “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ
đất cũ đã biến đi mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh
Giê-ru-sa-lem mới, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang
điểm đến đón tân lang […] Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn
sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã
biến mất.” (Kh 21,1-4).
Sự sống mai sau cũng không còn
lệ thuộc vào vật chất, tiền tài, danh vọng nữa. Khi ấy con người không còn cảm
thấy thiếu thốn gì cả, bởi lẽ con người đã đạt đến sự sung mãn trong sự sống
thần linh của Thiên Chúa. Nên không còn phụ thuộc vào việc dựng vợ gả chồng. Sự
sống khi ấy là bất diệt giống như các Thiên Thần. Đó là chân lý mà Chúa Giêsu
đã khẳng định với những người thuộc phái Sa-du-ce-o, vốn không tin vào sự sống
lại.
Như thế với lời xác quyết của Chúa
Giêsu trong bài tin mừng hôm nay, chúng ta tin rằng cuộc sống trần gian này chỉ
là tạm bợ, chóng qua. Sự sống mới trong Chúa Giêsu phục sinh mới là vĩnh cửu.
Niềm tin này chính là động lực,
là sức mạnh và là niềm hy vọng, giúp chúng ta dễ dàng vượt thắng mọi gian lao,
thử thách trong cuộc sống hàng ngày.
Ông Gio-an Tri Bửu Liên, đã hoàn
tất cuộc đời này, với 76 năm làm người và làm con Chúa. Ông đã gắn bó với họ
đạo Sóc Trăng trong suốt cả đời mình. Trong đó nhiều năm ông đã cộng tác với
quý cha tham gia vào việc phục vụ họ đạo với vai trò là ban cố vấn giới gia
trưởng, và là thành viên của HĐMVGX. Trong mọi nhiệm vụ ông đều cố gắng hoàn
thành cách tốt nhất với hết khả năng của mình.
Thời gian qua ông lâm trọng
bệnh, mặc dù gia đình đã tìm mọi cách chữa trị, các y bác sĩ cũng đã tận tâm
điều trị, nhưng vẫn không thuyên giảm, sức khỏe ông mỗi ngày trở suy yếu, đi
lại khó rất khăn. Nhưng trên giường bệnh, ông vẫn luôn nhớ đến trách nhiệm
người chồng, người cha của mình, quan tâm lo lắng cho những người con của mình được
yên bề gia thất. Với vai trò trưởng khu khi còn khỏe ông đã hy sinh phục vụ họ
đạo nhiệt tâm. Khi lâm bệnh, không còn đi lại được, ông vẫn quan tâm thăm hỏi
những hoạt động mục vụ và âm thầm cầu nguyện cho họ đạo Tuy không đến nhà thờ tham
dự thánh lễ Mi-sa hằng ngày được, nhưng ngày nào ông ao ước được rước Chúa và cảm
thấy rất vui mỗi khi quý cha đến thăm hỏi và trao mình Thánh Chúa cho ông.
Kính thưa quý ông bà và anh chị
em,
Ông Gioan, người anh em tín hữu của chúng ta đã ra đi về với Chúa.
Có lẽ với cái nhìn tự nhiên ai trong chúng ta cũng tiếc thương. Người vợ tiếc
thương vì mất đi một người chồng đã đồng lao cộng khổ, chia bùi xẻ ngọt với
mình suốt mấy chục năm dài; các con cháu đau buồn vì mất đi một người cha, người
ông đầy trách nhiệm tốt lành; Họ đạo mất đi một thành viên HĐMVGX nhiệt tâm và
năng động. Dù có tiếc thương, nhưng chúng ta lại hãnh diện về đời sống của ông.
Khi còn sống ông Gioan đã tin nhận vào mầu phục sinh và
đã trung thành dấn bước theo Chúa trên hành trình đức tin cho đến giây phút
cuối cùng với lòng cậy trông và phó thác vào tình thương của Chúa, thì khi qua
đời tin rằng Chúa sẽ đón nhận ông về với Chúa.
Được biết ông cũng rất yêu mến và sống gắn bó mật thiết với
Mẹ Maria qua việc siêng năng lần chuỗi mân côi. Nên chúng ta cũng tin rằng ông
sẽ được Mẹ Maria thương đến. Sự ra đi của ông trong trung tuần tháng năm này, thật
ý nghĩa, ví tựa như đóa đẹp xinh dâng về Mẹ Maria, nữ vương thiên đàng, xin Mẹ
nhận lấy và đưa dẫn đóa hoa mang tên Gioan vào vườn hoa nước trời để được khoe
sắc cùng các thần thánh trên thiên quốc, trong niềm vui và hạnh phúc muôn đời.
Lạy Nữ Vương thiên đàng, hãy vui mừng Alleluia.
Vì Con Mẹ đã sống lại thật. Alleluia.
Xin cầu cho linh hồn Gio-an được lên chốn nghỉ ngơi.
Hằng xem thấy mặt ĐCT sáng láng vui vẻ đời đời chẳng
cùng. Amen
SUY NIỆM 6:
I. LỜI CHÚA
1. Sách Sáng
thế: Sau khi Adam Evà ăn trái
cấm trái lệnh Chúa. Thiên Chúa ra hình phạt cho ông bà và con cháu, một trong
các hình phạt là phải chết : “Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn,
cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất,
và sẽ trở về với bụi đất.” (St 3,19).
2. Thánh
Phaolô: Trước cái chết, thánh
Phaolô tông đồ rất lạc quan. Ngài không sợ chết, Ngài vui đón nhận nó và coi nó
như một hồng ân, khi Ngài nói với tín hữu Phi-lip-phê : “Đối với tôi,
sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi.” (Pl 1,21) “vì chết là
giải thoát khỏi thân xác, khỏi nơi giam hãm thế gian này để về với Chúa trên
quê hương Nước Trời.” (x. Pl 3,20; 2Cr 5,6-7).
3. Bài Tin
Mừng: Chết là một điều hiển
nhiên, là một công lệ, không ai có thể thoát khỏi bàn tay thần chết và thần
chết đến thật bất ngờ. Vì thế, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải luôn sẵn sàng chờ
đợi Ngài đến bất cứ lúc nào.
Thái độ chúng ta
phải có là luôn tỉnh thức. Ngài phán : ”Anh em hãy thắt lưng cho gọn,
thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa
về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về và thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh
thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em : chủ sẽ thắt lưng, đưa họ
vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ
mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ.” (Lc
12,35-38).
II. MỌI NGƯỜI ĐỀU
PHẢI CHẾT
1. Trong lịch sử.
Trên thế giới này có
biết bao vĩ nhân, biết bao anh hùng cái thế đã sống trước chúng ta. Còn đâu một
Cé-sar của đế quốc La mã, còn đâu A-le-xan-dre đại đế của Hy lạp, còn đâu Tần
Thủy Hoàng của Trung hoa vĩ đại, còn đâu Thành Cát Tư Hãn của Mông cổ, còn đâu
Trần hưng Đạo, Lê Lợi. Quang Trung của Việt nam ?
Tất cả đã vang bóng
một thời và nay chỉ còn trong sử sách, đúng như cổ nhân đã nói :
Nhân sinh tự cổ thùy
vô tử
Lưu thủ đan tâm
chiếu hãn thanh. (Văn thiên Trường)
Con người từ cổ ai
không chết
Để lại lòng son rạng
sử xanh.
2. Trong đời sống
hằng ngày
Trên thế
giới ngày nay và chung quanh chúng ta mỗi ngày có biết bao nhiêu người
chết : không phân biệt già trẻ, lớn bé, nam nữ, người trí thức hay người bán
khai, thậm chí có những đứa trẻ đã chết khi chưa lọt lòng mẹ. Ai ai cũng phải
nhận lấy lưỡi hái của tử thần vì thần chết là người thợ không ngủ trưa và không
một chút thương hại. Bởi thế người ta nói :
Rắn già rắn lột,
Người già chui tuột
vô săng.
Truyện : thủy thủ và
nhà kinh doanh.
Nhân chuyến tham
quan con tàu buôn lớn, một nghà doanh nghiệp hỏi người thủy thủ :
- Ông của anh
làm nghề gì và chết ở đâu ?
+ Người thủy thủ
thưa : Ông của tôi làm nghề thủy thủ và chết vì đi biển.
- Nhà doanh nghiệp
lại hỏi : Vậy cha của anh làm nghề gì và chết ở đâu ?
+ Người thủy thủ
thưa :Cha tôi cũng làm nghề thủy thủ và cũng chết vì đi biển.
- Nhà doanh nghiệp
bỡ ngỡ hỏi : Thế mà anh dám làm nghề thủy thủ, và hằng ngày đi biển sao ?
+ Người thủy thủ hỏi
lại nhà doanh nghiệp : Xin hỏi : Ông của ngài làm nghề gì và chết ở đâu ?
- Nhà doanh nghiệp
trả lời : Ông tôi làm doanh nghiệp và chết trên giường.
+ Người thủy thủ lại
hỏi : Vậy cha của ngài làm nghề gì và chết ở đâu ?
- Nhà doanh nghiệp
trả lời : Cha tôi cũng làm doanh nghiệp và chết ở giường.
+ Người thủy thủ tỏ
vẻ bỡ ngỡ và hỏi : Thế mà ông dám làm nghề kinh doanh, và mỗi đêm dám ngủ trên
giường sao ?
Câu truyện trên đây
nhắc ta : mọi người sang, hèn, giầu, nghèo, giỏi dốt, ở bất cứ nơi đâu, làm bất
cứ nghề nghiệp gì, thì rồi cũng có ngày phải bỏ cõi đời này để trở về thế giới
bên kia.
3. Thái độ của ta:
Chúa Giêsu đã
nhắc nhở ta về sự chết, về việc Chúa đến bất ngờ vào ngày giờ ta không
ngờ. Chúa sẽ đến với ta bất ngờ như kẻ trộm. Cho nên thái độ của ta là
phải tỉnh thức và sẵn sàng chờ Chúa đến.
Muốn cho giờ chết
được êm ái, nhẹ nhàng, thanh thản, không phải bồn chồn lo lắng, cần phải dọn
mình luôn. Các thánh nhân đã nhận lấy cái chết một cách bình tĩnh và vui tươi
vì cho giờ chết là kết thúc cuộc lữ hành trần gian để về bên Chúa hưởng vinh
phúc đời đời :
Như đôi chim tìm về
khe đá,
Người lữ khách vui
tới quê nhà. (Tv 78,16)
Tục ngữ Việt nam có
câu :”SINH DỮ TỬ LÀNH”. Không biết anh chị em nghĩ thế nào ? Theo tôi
nghiên cứu thì dân gian người ta tin tưởng rằng : đêm nằm mơ, nếu mơ sự sinh đẻ
thì đó là điềm xui; còn mơ đến sự chết thì đó là dấu lành. Không biết đấy có
phải là mê tín dị đoan không, nhưng người ta cứ tin như vậy, nên mới có câu :
sinh dữ tử lành.
Trường hợp của ông
(bà) X cũng đúng với ý nghĩ của nhiều người vì ông bà đã qua một thời gian dài
(80 tuổi) ở trần gian, ông bà đã phải chịu bao khổ đau, bệnh tật hành hạ....
nay mọi sự đã chấm dứt. Giờ chết là giờ giải thoát, là giờ sinh ra trong Nuớc
Trời. Chúng ta tưởng nhớ đến ông bà X hôm nay, cầu nguyện cho ông bà, và
nhân dịp này chúng ta phải ghi nhớ và hãy luôn suy niệm Lời Chúa cảnh tỉnh
: ”Các con hãy sẵn sàng vì không biết giờ nào, ngày nào Con Người sẽ
đến.” (Mt 24,44). (St)
SUY NIỆM 7: IM
LẶNG ĐỢI CHỜ ƠN CỨU ĐỘ
Khi đi ngang
qua những ngôi mộ quý cha và đọc tên của các ngài đang yên nghỉ, tôi
chợt bổng có cái cảm nhận thật mau qua và vô thường của cuộc sống con
người :
Ta lặng lẽ như con
thuyền ghé bến,
Như tàu chiều vừa bỏ
lại sân ga.
Biết còn không có ai
người quyến luyến,
Hay bây giờ ta lại
chỉ mình ta.
Không lạ gì từ mấy
ngàn năm trước, tác giả Thánh Vịnh 102 cũng đã diễn tả kiếp phận con người
qua những hình ảnh thật chính xác và sống động :
“Đời sống con người
chóng qua như cỏ, như bông hoa nở trên cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ
làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích…” (Tv
102,15-16)
Trong ngày cử hành
lễ giỗ tưởng niệm và tri ân các tiền nhân hôm nay, ta được Lời
Chúa khơi gợi lại những tâm tình đầy thanh thản, bình an của
lòng trông cậy vững vàng vào lòng thương xót Chúa.
Thật vậy, sách Ai Ca
vừa nói với chúng ta rằng : “Chính nhờ lòng thương xót của Chúa
mà chúng ta đã không bị diệt vong, vì lòng thương xót của Chúa không hề
tàn phai nhưng vẫn mới hoài mỗi buổi sáng, và sự trung tín của Ngài thật
lớn lao.” (Ac 3,22-23).
Đó cũng chính là
chân lý mà sách Khải Huyền đã tái khẳng định một cách chắc chắn cho
những ai vẫn còn hồ nghi về lòng thương xót Chúa: “hãy viết :
ngay từ bây giờ, phúc cho những người đã chết, mà được chết trong Chúa.
Phải, Thánh Thần phán rằng họ sẽ được nghỉ ngơi khỏi phải vất vả và gian lao;
vì các việc họ đã làm đều theo họ.” (Kh 14,13). Khi
Thánh Gioan viết ra những xác tín nầy, không phải chỉ là một suy nghĩ riêng tư,
một mạc khải bất ngờ trong thoáng chốc xuất thần nào đó; nhưng chắc
chắn, đó là một cảm nhận đã được “nghe, được dạy, được trải
nghiệm…” từ những tháng ngày còn ở bên cạnh Thầy Chí Thánh, như Tin Mừng
mang tên Ngài minh chứng : “Lòng các con đừng xao xuyến. Các con
tin vào Thiên Chúa thì hãy tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ
ở….Thầy đi để dọn chỗ cho các con…để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó…Thầy
là đường, là sự thật và là sự sống…” (Ga 14,1-6)
Vâng, đã hơn 2000
năm qua, Hội Thánh vẫn xác tín như thế và loan báo Tin Mừng đầy niềm vui
và hy vọng như thế : Tin mừng về sự sống, Phục Sinh, ngang qua chính những con
đường của sự chết, của nấm mồ… như cách cảm nhận của những câu thơ :
Vì Thầy là sự sống,
Nên tử thần đã bị
đập tan ngày trên đồi thập giá,
Và con đường về “Mộ
trống” đã rực sáng phục sinh.
Hạt lúa gieo mục
nát, giờ đã chuyển mình,
Hơi thở Thần
Linh đã làm dậy men Tin Mừng cho thế giới….
Vì Thầy là sự sống,
Nên hy vọng ngày mai
cây rừng còn xanh lá,
Để chim về, cá tìm
lại biển xanh.
Để quê hương con,
đâu cũng thấy yên lành.
Vì con biết, con tin
: “Ngài là đường, sự thật và là sự sống”.
Ngoài những gợi ý
đầy thâm thúy của “bàn Tiệc lời Chúa”, Thánh lễ tưởng niệm ngày giỗ của
ông bà cố trong năm củng cố sự hiệp thông, còn nhắc nhở ta về
mối “dây thiêng liêng” kết nối các thế hệ con cháu lại với cha
ông tiên tổ trong mầu nhiệm các thánh cùng hiệp trong Hội Thánh và
trong nỗ lực tinh thần chung tay xây đắp tình hiệp thông qua những
việc làm bác ái. Những hoạt động và hy sinh của các ngài khi còn sống hay
lời cầu thay nguyện giúp hôm nay luôn là sức mạnh và sự hỗ trợ cần thiết
cho công cuộc loan báo Tin Mừng, như ghi nhận trong Kinh Năm Thánh mà
chúng ta đã đọc hằng ngày :
“…nhờ có Chúa luôn
đồng hành hướng dẫn, nâng đỡ, trợ giúp,/ với lòng nhiệt thành của các vị
thừa sai,/ bao hy sinh của các chứng nhân anh dũng,/ và công khó của các thế hệ
cha ông,/Lời Chúa đã lan rộng khắp nơi,/ hình thành các giáo phận của cả
miền nam đất Việt…”
Sau hết, cùng với
niềm trông cậy vững vàng vào Đức Kitô phục sinh và trong mối giây liên
kết nhiệm mầu của Hội Thánh, sách Ai ca đã đề nghị không chỉ với những
người đã qua đời mà cho tất cả chúng ta, những người đang sống, một thái
độ, một chọn lựa nhân sinh đầy hy vọng tích cực : “Im lặng trông
đợi ơn cứu độ của Chúa là một điều tốt lành” (Ac 3,26).
Đó không là một gợi
ý đầy thâm thúy để chúng ta cùng suy niệm trong Lễ Giỗ tiền nhân hôm nay
hay sao !
Tác giả
bài viết: Lm. Giuse Trương Đình Hiền
SUY NIỆM 8: TIN ƯỞNG VÀO
SỰ SỐNG LẠI
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca: Lc 20,27-40
Khi
ấy, có mấy người thuộc phái Sa-đốc, là những người chối không tin có sự sống
lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Mô-sê đã viết cho chúng
tôi: nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em
phải cưới người vợ đó để anh mình có kẻ nối dòng. Vậy có bảy anh em: người thứ
nhất cưới vợ, rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng
chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều
cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào. Sau cùng người thiếu
phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các
người ấy, vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ?”
Chúa
Giêsu trả lời rằng: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét
đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ
lấy chồng; họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là con cái
Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì
Môsê trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên
Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ
chết, mà là của kẻ sống, vì mọi người đều sống cho Chúa”.
Bấy
giờ có mấy luật sĩ lên tiếng thưa Người rằng: “Lạy thầy, Thầy dậy đúng lắm”. Và
họ không dám hỏi Người điều gì nữa.
Theo quan
niệm người đời, một cách bình thường thì mọi người phải đi qua bốn
cửa ải là sinh, lão, bệnh, tử. Và phải kết thúc cuộc hành trình trên trần gian
bằng cài chết. Bởi có sinh thì ắt có tử.
Trong Cựu
ước, dân Chúa vẫn coi sự chết là một sự gở lạ. Làm sao Thiên Chúa nhân từ tạo
nên vạn vật mà lại để cho sự chết lẻn vào trong con người. Nhưng dần hồi, Thánh Kinh hé mở cho thấy rằng sự chết không phải
là một bức tường kiên cố không vượt qua được, mà là một cửa khẩu để đi đến sự
sống thật, đến với Thiên Chúa là nguồn sự sống.
Sự
thật ấy, đã được Chúa Giêsu khẳng định với những người
thuộc nhóm Xa-đốc, qua đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe.
Vào
thời Chúa Giêsu, giới lãnh đạo Do thái chia thành nhiều nhóm khác nhau và
có những quan niệm cũng khác nhau. Liên quan đến sự sống lại, những
người thuộc nhóm Biệt phái thì tin rằng cuộc sống sau khi chết cũng giống như
cuộc sống trên trần gian này, nghĩa là con người cũng ăn uống, buôn bán, sống
đời vợ chồng. Tuy nhiên, một số khác thì tin rằng sau cái chết thì cuộc
sống hoàn toàn biến đổi.
Cách
riêng nhóm Xa-đốc thì không tin vào sự sống đời sau: đối với họ, chết là
hết; để bảo vệ quan điểm của mình, họ dựa vào luật thế huynh
của Do thái, nghĩa là nếu người anh lấy vợ
nhưng chết đi mà chưa có con thì người em buộc phải cưới
lấy người vợ góa đó để đảm bảo cho anh mình có con nối dõi tông đường.
Thế
là họ bịa ra trường hợp có bảy anh em nhà
kia, lấy cùng một người đàn bà và cả thảy đều chết, vậy nếu
có sự sống lại thì ai là chồng của người đàn bà góa đó?
Qua
câu trả lời của Chúa Giêsu, khẳng định cho ta biết có sự sống
lại, nhưng cuộc sống sau sẽ hoàn toàn biến đổi, không giống cuộc
sống trên trần gian này nữa. Chính vì vậy mà mọi tương quan giữa con người
với nhau cũng sẽ được biến đổi và sẽ được tan hòa trong tương quan
với Thiên Chúa tình yêu.
Chúa
Giêsu không chỉ quả quyết có sự sống lại bằng lời mà với mầu nhiệm
của sự chết và sự phục sinh nơi Ngài, là một minh chứng hùng hồn
nhất cho mọi thắc mắc của con người về sự chết, về sự sống lại
và sự sống đời đời.
Tuy
nhiên để hưởng được hạnh phúc thiêng đàng vĩnh viễn sau khi lìa bỏ đời này,
Chúa dạy chúng ta phải biết thực thi giới luật tình yêu. Yêu Chúa hết lòng hết
linh hồn và hết trì khôn; yêu thương tha nhân như Chúa yêu. Trong ngày phán xét
Chúa sẽ dựa trên nền tảng bác ái ấy mà thưởng phạt chúng ta.
Bà Maria đã
tin vào sự sống lại và đã sống theo lời dạy của Chúa nên trong suốt cuộc sống ở
trần gian, bà đã không nần ngại trao ban thời gian, sức lực, tâm trí…của mình
để phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ lợi ích cho mọi người, cách riêng là những
người thân yêu trong gia đình bà. Hôm Tết tôi có dịp thăm gia đình gặp gỡ và
chụp hình lưu niệm chung với bà và gia đình. Mỗi khi suy nghĩ về đời sống và
hình ảnh của bà, tôi liên tưởng đến câu chuyện về cái giếng cũ sau đây. Tôi xin
kể để kết thúc những tâm tình chia sẻ của tôi trong thánh lễ an táng của bà
sáng nay.
Truyện
: Cái giếng cũ
Ðây
là một cái giếng mà nước rất trong sạch và dịu mát làm cho ai uống vào cũng cảm
thấy khoan khoái. Một điều đặc biệt nữa là chưa bao giờ giếng này cạn nước cho
dù mùa hè có nắng hạn đến đâu đi nữa. Chủ nhân của cái giếng này là một bác
nông dân nghèo.
Nhưng
đến một lúc mà hệ thống điện nước chuyển đến nông thôn, thì cái giếng của bác xem
ra cũng trở thành vô dụng. Căn nhà của bác cũng được sửa chữa lại, hệ thống dẫn
nước cũng được thiết lập. Không ai buồn nghĩ đến chuyện phải vất vả để kéo nước
từ cái giếng đó nữa. Thế là cái giếng bị đóng lại.
Bẵng
đi nhiều năm trời. Một ngày nọ vì tò mò, người nhà của bác nông dân mở cái
giếng cũ ra xem, thì lạ thay, giếng nước đã bị khô cạn. Bác nông dân không thể
hiểu tại sao cái giếng nước trong lành của mình đã trở thành khô cạn. Mãi về
sau, ông mới khám phá ra nguyên do: cái giếng cũ của ông vốn được bao nhiêu
mạch nhỏ tiếp tế, càng múc nước thì nước càng tuôn chảy vào giếng. Nay đã nhiều
năm qua, nước giếng không còn được múc lên nữa cho nên các mạch nước bị bít kín
và phần nước còn sót lại trong đáy giếng cũng dần bị bốc hơi và khô cạn.
Câu chuyện
về cái giếng cũ trên đây có thể là một dụ ngôn về suối nước không bao giờ khô
cạn mà Thiên Chúa đã mở ra qua cái chết của Chúa Giêsu Kitô. Từ cạnh sườn
Người, khi một người lính La Mã đâm thủng thì nước hằng sống đã tuôn trào để
xoa dịu nỗi khát khao của con người. Mạch nước có được mở ra để trao ban thì
nguồn nước mới tuôn trào.
Cái chết của
Chúa Giêsu là tuyệt đỉnh của một cuộc đời hướng về tha nhân, tiêu hao vì tha
nhân, dốc cạn vì tha nhân. Ðó cũng là chân lý về cuộc đời. Càng trao ban, càng
dốc cạn, càng được múc lấy. Càng tiêu hao, càng mất chính mình thì con người
càng trở nên phong phú, con người càng trở nên chính mình. Giếng nước càng được
múc thì càng trở nên dồi dào. Con người càng trao ban thì cũng càng trở nên
phong phú hơn.
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa đã dốc cạn đến giọt máu cuối cùng cho nhân loại và đã trở
thành nguồn mạch tuôn trào xoa dịu nỗi khao khát của chúng con. Xin cho chúng
con khi suy ngắm về cuộc tử nạn của Chúa cũng luôn biết bước theo con đường của
chính Chúa. Bà Maria đã đi theo con đường của phục vụ, quảng đại,
quên mình đó của Chúa, thì xin Chúa cũng đưa dẫn bà Maria và nhà Cha trên trời vui hưởng
niềm vui bất tận sau một hành trình nhiều gian lao vất vả trên trên gian
này. Amen.
Suy
niệm 9: CHÚA PHỤC SINH-NIỀM HY VỌNG CỦA CHÚNG TA
Truyện: Trong
một cơ hội tình cờ, có ba người đại diện cho ba tôn giáo lớn là: Phật giáo, Hồi
giáo và Thiên Chúa giáo ngồi lại tranh luận với nhau, và ai cũng tự hào về đấng
sáng lập đạo của mình.
-
Người Phật tử nói: "Khi Đức Phật Thích Ca chết, chúng tôi đưa đi hỏa táng
và hài cốt của Ngài hiện đang để trong chùa Xá Lợi (xương Phật), điều đó chứng
tỏ Phật Thích Ca của chúng tôi hiện hữu".
-
Tiếp đến, Môn đồ Hồi giáo lên tiếng: "Khi Giáo Chủ Ma-ho-mét của chúng tôi
chết, ngài đã để lại cho chúng tôi nắm tóc và bộ râu, được lưu giữ trong đền
thờ bên Á-rập. Điều đó chứng minh Giáo chủ chúng tôi có mặt trên trần gian
này."
Rồi
hai người ấy mới hỏi tín hữu Kitô giáo: "Còn Chúa Giêsu của anh chết, Ngài
có để lại gì làm bằng chứng không?".
Người
tín hữu Kitô giáo mới trả lời: Khi Chúa chúng tôi chết, Ngài để lại ngôi mộ
trống, vì Ngài không chết luôn như những vị Giáo Chủ của các anh, Ngài đã sống
lại ra khỏi mồ. Do đó, chúng tôi không có một mảnh xương, hài cốt như đức Phật
Thích Ca; hay nắm tóc, bộ râu như Giáo Chủ Ma-ho-mét.
Nhưng
đó lại là niềm tin của chúng tôi, bởi vì nếu Chúa của chúng tôi chết mà không
sống lại, thì chúng tôi chẳng tôn thờ Ngài. Các nhà truyền giáo cũng chẳng dại
gì mà phải dấn thân vào những nơi xa xôi để rao giảng Tin mừng. Các thánh tử
đạo chẳng bao giờ liều mình đổ máu mình ra để làm chứng cho Đấng đã chết mà
không sống lại!
1. Với
niềm tin vào cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu, Thánh Phao-lô trong thư gửi
tín hữu Cô-rin-tô đã xác quyết mạnh mẽ: "Nếu Đức Kitô chết mà
không sống lại, thì đức tin của chúng ta chỉ là hảo huyền và lời rao giảng cũng
trở nên vô ích…" (1Cr 15,14-19). Thật vậy, nếu Đức Kitô đã chết
mà không sống lại, thì Ngài không phải là Con Thiên Chúa hằng sống và việc Ngài
hiến mình chịu chết là một điên rồ. Những phép lạ Ngài làm chỉ là phù phép giả
tạo. Toàn bộ giáo lý Ngài rao giảng đều sụp đổ.
Nếu
Đức Kitô đã chết mà không sống lại, chắc chắn các Bí tích phát sinh từ cạnh
sườn Ngài đều vô hiệu hoá. Giáo hội Ngài thiết lập sẽ không tồn tại. Và như
vậy, sẽ không có đạo Công Giáo, không có những ngôi thánh đường trên thế giới.
Nếu
Đức Kitô đã chết mà không sống lại, thì Ngài cũng chẳng hơn gì con người chúng
ta, cùng lắm thì Ngài giống như các vị đạo trưởng, những bậc hiền triết hay
những ông hoàng bà chúa trên trần gian này mà thôi.
Nhưng
Đức Kitô đã chết và đã sống lại, chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa hằng sống, như lời
Ngài nói: "Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy
lại” (Ga 10,18); vì “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào
Ta, sẽ không bao giờ phải chết" (Ga 10, 27).
2. Vậy
thì, Chúa Kitô sống lại Ngài mang lại cho chúng ta những gì?
Trước
nhất, Ngài mạng lại cho chúng ta niềm vui. Niềm vui này khởi đi từ
các tông đồ, "các ông vui mừng vì xem thấy Chúa." (Ga
20,20), và cũng là niềm vui cho toàn thể dân thánh. Vui vì Chúa đã chiến thắng
tử thần "Ngài không bao giờ chết nữa." (Rm 6,9). Vui
vì nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa, chúng ta được thông phần vào đời
sống mới, với tư cách là con cái Thiên Chúa, được đồng thừa tự với Đức Kitô.
Chúa
sống lại ban cho chúng ta niềm hy vọng. Hy vọng ngày mai đây khi
nhắm mắt lìa đời, chúng ta cũng được sống lại với Chúa, lúc đó sẽ gặp lại những
người thân ra đi trước chúng ta.
Chúa
sống lại ban cho chúng ta nguồn an ủi, vì Chúa đã vượt qua cái chết
bởi những đau khổ, đã nếm mùi cay đắng của một kiếp người rồi mới tiến đến vinh
quang. Như vậy, mọi việc lành chúng ta làm ở đời này đều sinh công ích. Mọi đau
khổ của chúng ta đều có giá trị vĩnh cửu đời sau, nếu chúng ta biết đón nhận vì
lòng yêu mến Chúa.
Chúa
sống lại, Ngài muốn minh chứng cho chúng ta biết rằng: Ngài là Thiên Chúa giàu
lòng thương xót, Ngài sẵn sàng chết thay cho chúng ta để chúng ta được
sống. Ước gì mỗi lần tham dự lễ an táng hôm nay, là dịp nhắc nhở chúng ta sống
lại lời mời gọi của Thánh Phao-lô: "Nếu anh em muốn sống lại với
Đức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời..." (Cl.
3,1). Tìm kiếm những sự trên trời, không phải là bỏ hết những công ăn việc làm
để rồi tối ngày chỉ đi đến Nhà thờ quỳ gối cầu nguyện liên lỉ, nhưng tìm kiếm
những sự trên trời, theo như lời thánh Phao-lô khuyên nhủ đó là luôn gắn kết
với Chúa: "Dù anh em ăn, dù anh em uống hay làm bất cứ việc gì,
anh em hãy làm vì vinh danh Chúa." (1Cr 10,31).
Mỗi
sáng khi thức dậy, người mà chúng ta nhớ đầu tiên phải là Chúa. Việc lo lắng
tìm kiếm trước tiên phải là Nước trời: "Tiên vàn, các con hãy tìm
kiếm Nước Thiên Chúa trước..." (Mt 6,33). Rồi cuối ngày trước khi
ngả lưng xuống ngủ, người nhớ cuối cùng cũng phải là Chúa, nếu có gì lầm lỗi
trong ngày xin Chúa thứ tha. Nếu ngày nào chúng ta cũng sống với tất cả ý thức
như thế, là chúng ta đang tìm kiếm những sự trên trời, đang sống niềm tin vào
Chúa Phục Sinh.
Anh
chị em thân mến, mỗi lần tham dự Thánh lễ, sau khi linh mục truyền phép chúng
ta đồng thanh tung hô: "Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa
chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến." (1Cr
11,26).
3.
Thế nào là loan truyền và tuyên xưng việc Chúa sống lại?
-
Loan truyền bằng cách sống chứng nhân của lòng thương xót Chúa bằng cách: “đem
yêu thương vào nơi oán thù; đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi
tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.”
-
Tuyên xưng việc Chúa sống lại không phải bằng "đầu môi chót lưỡi"
nhưng bằng cách thay đổi lối sống của mình. Như các tông đồ, họ không còn sống
cho chính bản thân mình nữa, mà sống cho "Đấng đã chết và sống lại
vì chúng ta". Vì thế, họ sẵn sàng chịu đau khổ, chịu chết vì danh Chúa
Phục sinh.
Ngày
xưa, trong cuộc thương khó Chúa, các tông đồ hoảng sợ, đức tin lung lay
tận gốc rễ, nhưng nhờ Đức Mẹ củng cố niềm tin mà các ông được vững mạnh. Thì
bây giờ, giữa một thế giới có nhiều biến động và nhiều thách đố, nhiều khi làm
cho đức tin chúng ta bị lung lay chao đảo, thì hãy bắt chước các tông đồ mau
chạy đến với Đức Mẹ, người Mẹ của lòng thương xót, sẽ ra tay nâng đỡ phù trì,
giúp chúng ta can đảm làm chứng cho tin mừng phục sinh của Chúa.
Ông...
và bà...khi còn sống đã tin nhận vào mầu phục sinh của Đức Giêsu và đã trung
thành dấn bước theo Chúa trên hành trình đức tin với lòng cậy trông và phó thác
tình thương Chúa. Ông... và bà... cũng đã yêu mến và sống gắn bó với Mẹ Maria,
người Mẹ của lòng thương xót nên chúng ta tin rằng ông... và bà... sẽ được Chúa
cho sống lại để tận thưởng niềm vui và hạnh phúc đời đời nhờ sự che chở và bảo
vệ của Mẹ Maria, với tước vị nữ vương thiêng đàng.
Lạy
Nữ Vương thiên đàng, hãy vui mừng Alleluia.
Vì
Con Mẹ đã sống lại thật. Alleluia.
Xin
cầu cho cho hai linh hồn...và... được lên chốn nghỉ ngơi.
Hằng
xem thấy mặt ĐCT sáng láng vui vẻ đời đời chẳng cùng. Amen. (St)
Suy
niệm 10: THIÊN ĐÀNG LÀ QUÊ HƯƠNG CỦA CHÚNG TA
(Tin Vatican - Francesca Merlo)
Tin
Mừng hôm nay, được trích từ bài diễn từ cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi Ngài
bước vào cuộc khổ nạn và cái chết, Ngài nhắc nhở các môn đệ cũng như chúng ta
biết phải đi đâu và làm thế nào để đạt đích điểm:
- Đi đâu?
Khi
đề cập đến khía cạnh “đi đâu”, Chúa Giêsu khi nhìn thấy nỗi khổ của các môn đệ
còn phải ở lại nơi trần gian, Ngài đã hứa sẽ chuẩn bị một nơi cho họ đến để họ
có thể ở với Ngài. Chúa Giêsu dùng hình ảnh quen thuộc về nhà, nơi nối kết các
mối quan hệ trong tình thân.
Trong
nhà Cha, Người nói với mỗi người chúng ta: "có nhiều chỗ ở, chỗ cho bạn và
cho tôi không thiếu. Nơi ấy bạn sẽ được chào đón, bạn đang được chờ mong"
với đôi tay giang rộng mở ra để chào đón bạn và tôi trên thiên đàng!
Đây là lời hứa mang đến nguồn an ủi và hy vọng vì Chúa Giêsu
không lìa xa chúng ta nhưng mở đường cho chúng ta, biết trước đích đến cuối
cùng của chúng ta, đó điểm gặp gỡ Thiên Chúa là Cha giàu lòng xót thương.
Chúng
ta không được đánh mất cùng đích cuộc đời mình, ngay cả hôm nay chúng ta có
lãng quên nó, quên những câu hỏi tối hậu, những câu hỏi quan trọng: chúng ta
đang đi đâu? Chúng ta đi về đâu? Điều đó có giá trị gì? Sống ở đời này để làm
gì?"…
Không
có những câu hỏi này, chúng ta chỉ còn dán chặt cuộc sống vào hiện tại, trong
khi quê hương đích thực của chúng ta là nơi Thiên đường.
Làm
thế nào để tiến đến đó?
Một
khi chúng ta đã khám phá ra mục tiêu, chúng ta tự hỏi mình "làm thế nào để
đạt được đích điểm đó?"
Đôi
khi, chúng ta phải đối mặt với những vấn đề to lớn và sự ác hoành hành, chúng
ta tự hỏi mình ”phải làm gì và đi theo con đường nào?”
Lúc ấy ta hãy để cho Chúa Giêsu trả lời câu hỏi này, vì Chúa đã
phán: “Chính Chúa là con đường phải đi để được sống trong sự thật và
được sống dồi dào”, Chúa là con đường và do đó nơi Chúa không phải là một
“mớ kiến thức thần học” để tin, mà là một con đường để đi, một cuộc hành trình
để thực hiện, một cuộc hành trình với Chúa.
Vậy
chúng ta đừng để mình bị choáng ngợp bởi hiện tại, mà hãy ngước nhìn lên Thiên
đàng, nhớ đến mục tiêu và xác tín rằng chúng ta được gọi về cõi vĩnh hằng để
gặp gỡ Thiên Chúa. Hãy dõi bước theo Đức Trinh Nữ Maria, xưa Người đã
theo Chúa Giêsu để đạt tới cùng đích này. Cầu xin Mẹ “nâng đỡ niềm tin yêu hy
vọng của chúng ta”. (ĐGH Phan-xi-cô)
Suy
niệm 11: ĐƯỜNG
VỀ NHÀ CHÚA
Lm Nguyễn Xuân Trường
Các
nước đã và đang làm rất nhiều loại đường giao thông như đường bê tông, đường
nhựa, đường cao tốc, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không… Rồi trong thời
hiện đại còn có đường điện, đường dây dẫn, đường cáp quang tạo thành hệ thống
mạng Internet. Đủ mọi loại đường khác nhau nhưng đều có chung một đặc điểm là
để kết nối các nơi chốn và con người với nhau. Thế nên, khi Đức Giêsu công bố:
Ngài là đường, thì Ngài cũng kết nối Trời với đất, con người với Thiên Chúa và
con người với nhau.
1.
Đường Giêsu: Đường để
kết nối. Đường Giêsu kết nối con người với Thiên Chúa. Đức Giêsu là Thiên Chúa
làm người. Nơi Ngài, Thiên Chúa và con người kết nối gắn bó nên một với nhau.
Các con đường giao thông thường được phủ lớp bê tông nhựa, thì con đường Giêsu
được phủ kín bằng tin yêu. Đi đường Giêsu là đi vào Đạo, là đi theo Chúa trên
con đường yêu thương cứu độ mà Chúa đã đi, đường Giêsu sẽ dẫn đến đích cuối
cùng của phận người là Nhà Cha trên trời chan chứa tình yêu thương.
2.
Nhà Chúa: Cái
gì làm nên sự khác biệt giữa nhà trọ và nhà mình, giữa nhà tù và nhà ta? Cái gì
làm cho nhà mình trở thành tổ ấm? Đó chính là tin yêu. Sự tin tưởng và tình yêu
thương gắn bó giữa các thành viên trong gia đình dành cho nhau sẽ làm cho mái
nhà mình thành tổ ấm, trở nên hình ảnh của Nhà Chúa. Nhà Chúa là nơi Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần yêu thương, gắn bó quấn quýt với nhau như Chúa
Giêsu khẳng định: “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy.” Nhà
Chúa cũng là chính Chúa.
Chúa
Giêsu là đường. Ngài là đường nối từ trời xuống thế gian và từ Thiên Chúa đến
con người, để đưa dẫn loài người chúng ta từ trần thế về Nhà Chúa trên trời.
Chúa cũng muốn chúng ta cũng hãy làm những con đường tin yêu để cùng Ngài đưa
dẫn mọi người đến với Chúa và đến với nhau. Sống trong tin yêu thì cả nhân loại
này sẽ trở nên anh em có cùng chung một mái nhà nơi đó có Thiên Chúa là Người
Cha quyền năng nhưng giàu lòng thương xót của chúng ta chờ đón. Nhà ấy luôn
chan chứa tin yêu, tràn đầy niềm vui và thật nhiều hạnh phúc. Amen.
Suy
niệm 12: NHÀ CỦA CHA
“Trong
nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”.
Tháng
4/1667, John Milton đã bán bản quyền “Thiên Đàng Đã Mất”, bộ sử thi vĩ đại nhất
của nước Anh, cho nhà xuất bản Samuel Simmons, với giá 10 bảng. Ông qua đời, bà
Elizabeth Milton bán tất cả tác quyền vĩnh viễn còn lại cho cùng nhà xuất bản
đó với giá 8 bảng. Thật khó để tưởng tượng ai đó đã bán một kiệt tác tầm cỡ
quốc gia, tầm cỡ thế giới với giá hời đến thế!
Kính
thưa anh chị em,
Tin
Mừng chúng ta vừa nghe không nói đến một “Thiên Đàng Đã Mất”, nhưng nói đến một
“Thiên Đàng Sẽ Được”. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn vào thực tế vinh quang
Nước Trời, đó là Vương Quốc của Cha, ‘Nhà của Cha’ chúng ta; một ngôi nhà có
nhiều chỗ ở, đáng mong ước.
Chúa
Giêsu từng nói với anh trộm lành, “Hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên
thiên đàng!”. Trong toàn bộ Phúc Âm, đây là lần đầu tiên, cũng là lần cuối
cùng, chữ “thiên đàng” xuất hiện! Nó xuất hiện trên môi miệng của Chúa Cứu Thế,
nên đó là một sự thật 100%. Vì thế, thiên đàng là có thật! Thiên đàng không
phải là chuyện cổ tích, không phải là khu vườn hoang tưởng! Nếu hiểu đúng thiên
đàng, chúng ta sẽ khát khao nó với một tình yêu sâu sắc; sẽ mong chờ nó với một
ước vọng mạnh mẽ; sẽ tưởng nhớ nó với niềm vui ngập tràn. Tuy nhiên, thật không
may, với một số người, ý nghĩ rời khỏi trái đất để gặp Đấng Tạo Thành là một
suy nghĩ không mấy vui, nếu không nói là sợ hãi. Có lẽ đó là một nỗi sợ về
những điều chưa biết; họ nghĩ, họ sẽ bỏ lại những người thân yêu, hoặc ngay cả
sợ rằng, thiên đàng không phải là nơi an nghỉ.
Là
Kitô hữu, con cái Chúa, điều cần thiết là chúng ta phải nuôi dưỡng một tình yêu
lớn lao đối với thiên đàng, bằng cách hiểu đúng không chỉ về nó, mà còn về ‘mục
đích của cuộc sống hôm nay’ đang khi hướng về nó. Thiên đàng phải định hướng và
sắp xếp cuộc sống của chúng ta!
Chúa
Giêsu nói đến chốn này bằng cách đưa ra một hình ảnh rất thân thiết, gần gũi:
‘Nhà của Cha!’. Nó tiết lộ rằng, thiên đàng là ‘nhà của mình’, nơi an toàn mà
bạn và tôi thư thái ở bên những người thân yêu và cảm thấy đó là nơi những con
trai, con gái của Cha ‘thuộc về’.
Đức
Thánh Cha Phanxicô đã nói, “Chúa Giêsu đã dành một chỗ trên trời cho mỗi người
chúng ta. Đừng quên, ‘nơi ở’ chờ đợi chúng ta là thiên đàng.
Bạn
đang quá cảnh ở trần gian, chỉ quá cảnh thôi! Bạn được tạo dựng cho thiên đàng,
để sống mãi mãi trong ‘Nhà của Cha’, nơi chúng ta gặp lại những người thân yêu
để cùng chia sẻ niềm vui vĩnh cửu với họ”.
“Trong
nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”. Chúng ta có nhiều chỗ để đi, nhưng chỉ có một chỗ
‘để ở’; đúng hơn, để về! Đó là ‘Nhà của Cha’. Thật bất ngờ! Thiên đàng không ở
đâu xa, không chỉ ở đời sau; nó ‘ở đây, lúc này’. Ở đâu có Chúa Giêsu, ở đó có
thiên đàng; là thiên đàng. Vì thế, ở đâu có Bí Tích Thánh Thể, ở đó là một góc
của thiên đàng. Mỗi ngày, với lòng sạch tội, rước Chúa Giêsu, bạn và tôi ‘ẵm lấy’
thiên đàng. Tác giả “Giêsu Khoan Nhân”, một thánh ca xưa, viết: “Chúa đến thăm
con, thăm con mỗi sáng ngày, linh hồn thấy lại tuổi thơ ngây; thiên đàng chớm
nở, chớm nở ngay dưới thế, tháng năm hoan lạc trôi từ đây!”.
Chúng
ta có thể cầu nguyện,
“Lạy
Chúa, trần gian chỉ là lữ điếm mà con chỉ quá cảnh; đừng để con quên, con đang
về ‘nhà Cha’. Bằng không, con sẽ ‘vất vưởng’ không chỉ mai ngày nhưng ngay hôm
nay!”, Amen.
(Tgp. Huế)
Suy niệm 13
Hướng
ý:
Sáng
nay trong tình hiệp thông, chúng ta họp nhau đây để dâng thánh lễ cầu nguyện
cách đặc biệt cho anh Phêrô…, trước khi tiễn đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng,
chờ ngày phục sinh trong Chúa.
Nói
đến ra đi là nói đến chia ly và nước mắt. Tiễn chân một người lên đường để đoàn
tụ với gia đình ở nước ngoài mà còn giọt vắn giọt dài, huống chi là tiễn đưa
một người thân ra đi vĩnh viễn, không bao giờ gặp lại nữa!
Tuy
nhiên đối với niềm tin vào mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô, chúng ta vẫn tìm
thấy được niềm an ủi và bình an, vì chúng ta biết rằng: chết chính là lúc chúng
ta được sinh lại vào cõi trường sinh. Với niềm tin vững vàng như thế, giờ đây
chúng ta hãy cầu xin Chúa cho cuộc ra đi của anh Phê-rô mau đạt được tới đích.
Chúng
ta cũng không quên, xin ơn an ủi và nâng đỡ cho những người thân yêu của anh
Phê-rô. Xin cho những người này nhận ra được ý nhiệm mầu của Chúa qua biến cố
mất mác, đau thương này.
Với
nhưng ý hướng đó, giờ đây chúng ta cùng nhau bắt đầu Thánh lễ, với lòng thống
hối về những lỗi lầm và thiếu sót của mình.
Tin mừng: Lc
12, 32-48
32 Khi
ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: 35 “Anh
em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn.
36 Hãy
làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là
mở ngay.
37 Khi
chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy
bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà
phục vụ.
38 Nếu
canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì
thật là phúc cho họ.
39 Anh
em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để
nó khoét vách nhà mình đâu.
40 Anh
em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ
đến.”
41 Bấy
giờ ông Phê-rô hỏi: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất
cả mọi người?”
42 Chúa
đáp: “Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên
coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc?
43 Khi
chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta.
44 Thầy
bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình.
45 Nhưng
nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: ‘Còn lâu chủ ta mới về’, và bắt đầu đánh đập tôi
trai tớ gái và chè chén say sưa, 46 chủ của tên đầy
tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn
ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín.
47 “Đầy
tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì
sẽ bị đòn nhiều.
48 Còn
kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã
được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi
nhiều hơn.” Đó là lời Chúa.
Suy
niệm:
Để
nêu bậc ý tưởng mau qua của kiếp người, nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn đã sáng
tác một bài thơ mang tính triết lý rất sâu sắc, tựa đề là “ở trọ”:
Con chim ở
trọ cành tre,
Con cá ở trọ
trong khe nước nguồn…
Môi xinh ở
trọ người xinh,
Duyên dáng ở
trọ đôi chân Thuý Kiều…
Tôi nay ở
trọ trần gian,
Mai sau về chốn
xa xăm với Người.
Thật vậy
trần gian này chỉ là quán trọ. Bởi lẽ: mỗi ngày sống như là một nhịp cầu tiến
gần đến cái chết hơn.
Cái chết nó
đến thật bất ngờ. Bất ngờ như tên trộm đột nhập vào nhà và lấy đi sự sống của
chúng ta. Cái chết cũng không chờ đợi lứa tuổi theo quy luật thứ tự:
sinh-lão-bệnh-tử.
Cái chết đến
với người già cũng như người trẻ ngang nhau. Có người chết trẻ, có người chết
già. Có người chết bất thình lình, có người chết từ từ vì mắc phải căn bệnh nan
y.
Mỗi
ngày chúng ta cũng chứng kiến biết bao cái chết với nhiều hình thức khác nhau.
Sự chết dường như không kiêng nể bất cứ ai.
Xem
ra sự sống và sự chết không nằm trong toan tính dự định của con người. Chúng ta
không có quyền chọn lựa để tiếp tục sống hay chết. Chúng ta cũng không có quyền
chọn lựa về cách chết của mình. Và càng không có quyền chọn lựa thời gian để
chết. Sự chết vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chúng ta.
Sự
chết sẽ chấm dứt mọi sự nơi dương gian. Công danh, sự nghiệp, giầu có hay khó
nghèo cũng kết thúc như nhau, với nấm mồ nhỏ bé chỉ bốn tấc đất mà thôi.
Lời
Chúa chúng ta vừa nghe nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức để chờ đợi
chủ trở về.
Sự
chờ đợi khôn ngoan là chăm chỉ làm việc bổn phận của mình.
Sự
chờ đợi tích cực là tích luỹ cho mình một kho tàng không bao giờ hao hụt hay bị
mối mọt phá hoại, đó chính là những việc lành phúc đức.
Sự
chờ đợi trong kiên nhẫn là cho dẫu lúc đêm khuya hay lúc bình minh sắp ló rạng
ta vẫn luôn tỉnh thức bởi lẽ ta không biết khi nào chủ sẽ trở về.
Chủ
về với hàm ý chính Thiên Chúa sẽ đến viếng thăm mỗi người chúng ta qua các ơn
lành, qua các bí tích.
Chủ
về cũng có nghĩa là ngày Chúa đến để đưa linh hồn chúng ta ra khỏi thế gian
này.
Chủ
về ám chỉ về ngày cánh chung, ngày đó sẽ khép lại toàn bộ lịch sử của nhân
loại. Ngày ấy, chủ sẽ vui mừng nếu thấy chúng ta đang tỉnh thức, và chủ sẽ rất
buồn và giận dữ nếu thấy chúng ta đang sống chễnh mãng lười biếng không lo làm
việc bổn phận.
Thế
nên, người khôn ngoan là người biết sống tích cực trong từng giây phút hiện
tại. Hãy ý thức sử dụng thời gian một cách hợp lý nhất. Đừng bao giờ phí phạm
những giây phút hiện tại Chúa ban cho ta. Hãy cố gắng lo tích đức để mua lấy
Nước Trời mai này.
Thật
đáng tiếc cho những ai thiếu tỉnh thức bởi lối sống lười biếng, thiếu trách
nhiệm, chỉ biết buông mình theo những tham lam bất chính, ăn uống say sưa vô đô
mà quên lo tích đức cho mình. Nên ngày Chúa đến họ sẽ mất cơ hội tham dự vào
bàn tiệc nước trời do chính Thiên Chúa thiết đãi.
Để
nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa và giá trị sống trong giây phút hiện tại, ai đó đã
nói thật chí lý:
Để nhận ra giá trị
của một năm: Hãy hỏi một học sinh thi rớt cuối năm.
Để nhận ra giá trị
của một tháng: Hãy hỏi một người mẹ sinh con thiếu tháng.
Để nhận ra giá trị
của một tuần: Hãy hỏi người chủ bút của tờ tuần báo.
Để nhận ra giá trị
của một ngày: Hãy hỏi công nhân lao động phải nuôi 10 đứa con.
Để nhận ra giá trị
của một giờ: Hãy hỏi những tình nhân phải chờ đợi nhau.
Để nhận ra giá trị
của một phút: Hãy hỏi người vừa trễ chuyến xe.
Để nhận giá trị của
một giây: Hãy hỏi người vừa thóat khỏi tai nạn.
Để nhận ra giá trị
của một sao: Hãy hỏi nhà thể thao Olympic được huy chương bạc.
Và sau cùng để nhận
ra giá trị của một đời người: Hãy hỏi, ai sẽ khóc trong buổi tang lễ của bạn.
Ước gì hôm
nay khi tham dự lễ an táng anh… mỗi người chúng ta ý thức hơn về tính bất ngờ
của giây phút Chúa đến. Ý thức như vậy, chúng ta sẽ trân quý và sống tích cực
hơn trong từng giây phút hiện tại bởi xem đó như là giây phút cuối cùng của đời
mình. Nhờ sống có trách nhiệm với tinh thần tỉnh thức và lòng trung tín trong
những bổn phận hàng ngày như thế, chúng ta mới xứng đáng được Chúa mời vào tham
dự bàn tiệc vui muôn đời trên trời.
Anh Phêrô
khi còn sống ở trần gian này, có lẽ cũng đã ý thức điều này và đã cố gắng từng
ngày để chu toàn bổn phận chăm lo và phục vụ mọi người trong gia đình, cũng như
ngoài xã hội với niềm tin yêu và hy vọng vào hạnh phúc mai sau. Tin rằng với
những cố gắng hy sinh cố gắng trong tinh thần tỉnh thức và trung tín, anh xứng
đáng được ông chủ là Thiên Chúa giàu lòng thương xót vui mừng đón tiếp và đưa
dẫn anh vào dự tiệc vui muôn đời cùng các thần thánh trên thiêng đàng. Amen. (St)
Suy
niệm 14:
Có
thể nói, chết là gặp gỡ và kết
hợp bất khả phân ly với Chúa Kitô.
Nếu
thế, thánh lễ An táng hôm nay thật thích hợp, để chúng ta quy tụ nơi đây để
tiễn đưa người ông…và bà…về lại ngôi nhà đích thực là nhà Cha trên trời, nơi mà
ông…và bà…đã phát xuất ra, nay ông…bà trở về để được hưởng hạnh phúc viên mãn
trong nhà Cha muôn đời. Đó là tâm tình và ý nguyện mà chúng ta dâng lên Chúa
trong thánh lễ hôm nay.
Sống
là hẹn hò, chết là gặp gỡ, đó là hai ý tưởng mà tôi muốn chia sẻ với cộng đoàn
trong thánh lễ an táng ông…và bà…hôm nay
I. Sống
là hẹn hò.
Đời
người được sánh ví như là một cuộc hành trình tìm kiếm và gặp gỡ Thiên Chúa.
Trong cuộc hành trình này không ai trong chúng ta xác định được thời điểm
hẹn hò, nhưng chúng ta có thể xác quyết được địa điểm hò hẹn.
1.
Không thể xác định được thời điểm hẹn hò tựa
như “Chàng rể đến” chậm, cho nên khi nghe được tiếng hô bất
ngờ của người xướng lễ báo hiệu tiệc cưới bắt đầu, thì hầu hết 10 cô trinh nữ
lại luýnh quýnh bởi lẽ chàng rể khi đến nhưng chẳng hẹn lúc nào, giờ
nào.
Dù
muốn hay không, chờ đợi luôn là yếu tố tất nhiên phải có gắn
liền với hẹn hò ước nguyện. Không riêng gì người quá cố, mà tất cả
chúng ta đều phải sống trong niềm hy vọng đợi chờ về một Đấng vẫn
đang hiện diện và đồng hành với chúng ta, nhưng thực
tế thì chúng ta vẫn chưa gặp gỡ giáp mặt được với Ngài. Trong cuộc sống có
lúc chúng ta được thoáng thấy Người, nghe được tiếng Người mời gọi; nhưng rồi
chúng ta lại hụt hẫng (tựa như hai môn đệ trên đường đi Emmaus chỉ chợt nhận ra
Ngài nhưng tức khắc Ngài biến mất), bởi lẽ Ngài không lệ thuộc vào không gian
và thời gian, Ngài muốn hẹn gặp chúng ta ở một nơi khác.
2.
Nhưng Ngài muốn hẹn gặp chúng ta ở đâu?
Dụ
ngôn chúng ta vừa nghe cho biết cả mười cô phụ dâu đều mệt mỏi vì đợi chờ và đã
ngủ thiếp đi, nhưng trong thâm tâm các cô vẫn tin rằng chàng rể sẽ đến. Phải
chăng chẳng bao lâu nữa chính là giây phut cuối cùng của đời người, giây phút
lìa trần của những ai đang hấp hối. Trong giây phút sắp chia ly ấy đã để lại
biết bao sự lưu luyến và thương nhớ cho những người còn ở lại tại
thế này, nhưng có thể lại là nỗi vui mừng khôn tả của người ra đi, vì bây
giờ họ không còn trông chờ thời điểm hẹn gặp, mà chính là lúc họ
được gặp gỡ diện đối diện với Đấng họ mong chờ.
Nếu
tất cả 10 cô phụ dâu và khách mời đều vui mừng khi tân lang đang đến với họ và
bàn tiệc cưới được khai mở, thì lẽ nào ta lại không vui cùng với ông… và bà…
khi ông bà giờ đây được gặp Chúa và đang được ở với Chúa, Đấng cả đời ông bà
đã chờ đợi để được ở với Ngài sau những ngày khát khao chờ mong.
II.
Như vậy chết không phải là kết thúc nhưng là lúc được gặp gỡ.
Niềm
tin dạy cho chúng ta biết rằng, chết không phải là hết, bởi sự chết không
phải là đích điểm mà chỉ là bước khởi đầu của cuộc gặp gỡ, là lúc
hạnh phúc viên mãn vì được diện kiến trước tôn nhan Thiên Chúa.
Cho
dẫu với cái nhìn của người đời chết là cắt đi mọi dự định tính toán, bỏ dở
dang mọi kế hoạch bao điều. Nhưng với cái nhìn của đức tin Kitô giáo thì cái
chết không khép lại mà là mở ra đến niềm hy vọng vào sự sống mới, sự sống vĩnh
cửu. Đời sống của người đã khuất chỉ là thay hình đổi dạng, chứ
không hề bị tiêu diệt. Người tin yêu Chúa thì ngày chết là ngày “sinh nhật
trong Nước Trời”, như lời Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu trên giường hấp hối đã
nói: “Tôi không chết, nhưng đang bước vào cõi sống” vì thời kỳ
thai nghén lâu dài ở trần gian từ nay đã chấm dứt và sự sống vĩnh cửu nay
lại được bắt đầu. Chết là giây phút bước đi từ tạm thời sang vĩnh cửu. Tựa
như tuổi thơ phải qua đi mới đạt đến tuổi trưởng thành. Con sâu cần phải lột
xác trong đau đớn mới thành con bướm, và hạt lúa cũng phải chết đi trong lòng
đất thì mới trổ sinh mầm sống mới.
Dụ
ngôn mười cô phụ dâu làm nổi bật 2 ý tưởng chính: Thứ nhất cần phải tỉnh
thức và sẵn sàng trước những bất ngờ, nhất là những bất ngờ về sự
chết (Mt 25,13). Thứ hai, dụ ngôn còn cho thấy niềm hoan hỷ khi được gặp mặt
chàng rể trong tiệc cưới Nước Trời của các cô khôn ngoan. Sở dĩ được gọi là
khôn ngoan, vì các cô này biết lo liệu mà chuẩn bị cẩn thận dầu đầy
bình để thể thắp sáng ngọn lửa niềm tin của đời mình vào giây phút trọng đại
nhưng đầy bất ngờ một khi chàng rể đến.
Chúng
ta cầu xin cho ông…và bà…sau một hành trình dài tìm Chúa và theo Chúa, nay ông
bà được gặp Chúa là Đấng hạnh phúc đích thực.
Xin
ánh sáng Phục sinh của Chúa Kitô Phục sinh thắp lên sáng vinh quang rực rỡ nơi
ông…và bà…, và xin Ngài đưa dẫn những nàng phụ dâu khôn ngoan này là ông…và bà…
theo Người vào phòng cưới Nước Trời.
Chúa
Giêsu đã tưng cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở
đâu thì những người Cha ban cho con cũng sẽ ở đó với con.” (Ga 17,
24).
Hôm
nay người thân yêu của chúng con là ông…và bà …đã ra đi trước chúng con
về đến bến hẹn, thì xin cho hai người thân yêu của chúng con đây sớm được
ở với Chúa trong niềm vui bất diệt trong nhà Cha trên trời. Chúng con cũng ước
nguyện cho chúng con biết sống khôn ngoan như 5 cô trinh nữ trong bài tin mừng
hôm nay để một ngày kia đến hẹn, chúng con cũng sẽ gặp được Chúa cùng với những
người thân yêu của chúng con trong bàn tiệc nước trời. (St)
Suy
niệm 15: Mt 6, 19-23
Một
triết gia đã nói: “Con người là một sinh vật duy nhất biết mình phải chết”. Lời
của triết gia trên không những phản ánh về nỗi day dứt của con người trước sự
sống chết mà còn là nỗi ám ảnh về số phận sau cái chết.
Hầu
hết các tôn giáo đều tin vào sự sống đời sau. Và cho rằng sự sống mai sau tùy
thuộc hoàn toàn vào cuộc sống đời này, vì thế mà nhiều người đồng tình với quan
niệm nhân-quả, nghĩa là công-thưởng, tội-trừng. Tuy biết mình sẽ chết, sẽ sự
sống lại và sẽ được thưởng hay bị phạt mai sau, nhưng có mấy ai biết quan tâm
đến số phận mai sau của mình. Chính vì thế mà tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc
nhở chúng ta đừng quá bận tâm lo lắng thu tích của cải chóng qua đời này mà
quên lãng nhiệm vụ thu tích kho tàng bền vững mai sau trên trời.
Thiên
hạ thường truyền khẩu với nhau bài vè này:
Tiền
là tiên là phật,
là
sức bật của lò xo,
là
thước đo của lòng người,
là
sức khỏe của tuổi già,
là
niềm vui của tuổi trẻ…,
có
tiền mua tiên cũng được.
Đúng
vậy, bởi lẽ trong cuộc sống trần gian này ai cũng cần có tiền để sống. Có tiền
mới mua được thực phẩm, đồ dùng; có tiền mới cho con cái ăn học; có tiền mới
làm được việc này việc nọ; và có tiền ta mới có thể đi đây đi đó được… Do đó
tiền bạc là thứ không thể thiếu, chính vì thế người ta phải ra sức làm việc để
kiếm được thật nhiều tiền, càng tích lũy nhiều tiền càng tốt. Tuy nhiên, thực
tế cho thấy, tiền không phải là tất cả. Kinh nghiệm cho thấy có nhiều tiền chưa
chắc có hạnh phúc. Bởi vì, ngoài tiền của vật chất ra, cuộc sống con người còn
có những thứ khác cao quý hơn. Như được sống vui vẻ, bình an, hạnh phúc, gia
đình êm ấm hòa thuận…Và vượt trên tất cả chính là khát vọng được trở nên hoàn
thiện.
Thế
nhưng, khi nhìn vào thực tế cuộc sống, dường như chọn lựa giữa Chúa và tiền của
thật khó khăn. Nhiều người hãnh diện xưng mình là Kitô hữu nhưng lại dễ dàng bỏ
lễ ngày Chúa nhật để chọn tiền. Có người còn cho rằng đi lễ Chúa đâu có tiền,
Chúa đâu cho cơm cho gạo để ăn... còn đi làm mới có cái để ăn. Nhiều người sẵn
sàng bỏ những ngày Chúa nhật, lễ trọng để đi chơi, đi ăn cưới hoặc ăn giỗ mà
không hề áy náy lương tâm. Họ sống theo kiểu “có thực mới vực được đạo.”
Thu
tích tiền bạc của cải đời này được xem là xu hướng khôn ngoan của con người
thời đại khi mà nền kinh tế khủng hoảng, bấp bênh nên việc tích lũy tiền của
càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên khi có nhiều tiền của thu tích rồi, người ta
cũng không cảm thấy vững dạ an lòng, vì mối mọt và trộm cướp luôn là hiểm họa
đang trực chờ.
Vậy
người khôn ngoan đích thực là người biết phân bố thời gian sao cho hợp lý. Một
phần thời gian ta lo cho sự sống thể xác của mình, một phần thời gian ta dành
chăm lo gia đình, một phần ta phục vụ cho xã hội, nhưng đừng quên dành nhiều
thời gian để chăm lo cho phần hồn và hạnh phúc đời đời của mình.
Xin
cho chúng ta biết hướng tất cả mọi sự vào cùng đích là hạnh phúc vĩnh cửu nước
trời để biết khôn ngoan sử dụng tiền của sao cho phù hợp ý Chúa, nhằm đảm bảo
mai sau ta có được kho tàng vĩnh cửu trong nước trời.
Suy
niệm 16:
Dẫn nhập:
“Sống gởi, thác về”.
Đúng vậy, anh… đã sống và gởi thân xác mình ở trần gian này trong một quãng
thời gian...năm và nay Chúa lại thương gọi anh về với Chúa. Trong ngày tiễn đưa
anh… đến gặp Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu, là Hạnh Phúc tuyệt
đối của đời mình, chúng ta không chỉ cầu nguyện cho sự ra đi của anh được tốt
đẹp, bình an và sớm được nghỉ yên trong vòng tay yêu thương của Chúa, chúng ta
còn là dịp để chúng ta suy nghĩ về sự sống chết của mình, nhằm chuẩn bị cho
cuộc ra đi gặp Chúa của chúng ta mai ngày được tốt đẹp hơn.
Lời Chúa:
Trích
sách Tiên tri Isaia.
Trong
những ngày ấy Êdêkia đau gần chết. Tiên tri Isaia, con ông Amos đến thưa người
rằng: "Chúa phán thế này: Ngươi hãy sắp xếp công việc nhà cửa của ngươi,
vì ngươi sắp chết, không sống được nữa". Êdêkia liền quay mặt vào vách,
cầu nguyện cùng Chúa rằng: "Ôi lạy Chúa, con van xin Chúa, xin Chúa hãy
nhớ lại: con đã sống ngay chính trước mặt Chúa, và đã làm những điều đẹp lòng
Chúa". Rồi Êdêkia than khóc lớn tiếng.
Bấy
giờ Chúa phán cùng Isaia rằng: "Hãy đi nói với Êdêkia rằng: Ðây Chúa là
Thiên Chúa Ðavít, tổ phụ ngươi, phán thế này: Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện,
và Ta đã thấy nước mắt của ngươi. Ta sẽ cho ngươi sống thêm mười lăm năm nữa.
Ta sẽ cứu ngươi và bảo vệ thành này khỏi tay vua Assyria".
Isaia
sai người đi lấy mẩu bánh trái vả đắp lên mụn ung độc, và vua liền khỏi bệnh.
Bây giờ Êdêkia hỏi: "Có dấu nào cho ta biết coi ta còn lên đền thờ Chúa
được chăng?" Isaia đáp: "Ðây là dấu lạ Chúa ban cho vua, vì Chúa sẽ
thực hiện lời Người đã phán: "Ta sẽ làm cho bóng đã ngả trên bảng độ Acaz
lui lại mười độ". Và mặt trời lui lại mười độ. Ðó là lời Chúa.
Phúc
Âm: Ga 11, 3-7. 17. 20-27. 33b-45
"Ta là sự sống lại và là sự
sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, hai chị em của Ladarô sai
người đến thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, người Thầy yêu đau liệt".
Nghe tin ấy, Chúa Giêsu liền bảo: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để
làm sáng danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển".
Chúa Giêsu thương Martha và em là
Maria và Ladarô. Khi hay tin ông này đau liệt, Người còn lưu lại đó hai ngày.
Rồi Người bảo môn đệ: "Chúng ta hãy trở lại xứ Giuđêa".
Ðến nơi, Chúa Giêsu thấy Ladarô đã
được an táng bốn ngày rồi. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Martha đi đón Người, còn
Maria vẫn ngồi nhà. Martha thưa Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở
đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì
cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy". Chúa Giêsu nói:
"Em con sẽ sống lại". Martha thưa: "Con biết ngày tận thế, khi
kẻ chết sống lại, thì em con cũng sẽ sống lại". Chúa Giêsu nói: "Ta
là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ
nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?" Bà
thưa: "Thưa Thầy: vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống đã đến trong thế gian".
Người xúc động và hỏi: "Ðã an
táng Ladarô ở đâu?" Họ thưa: "Thưa Thầy, xin đến mà xem". Chúa
Giêsu rơi lệ. Người Do-thái liền nói: "Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết
bao!" Nhưng có mấy kẻ trong đám nói: "Ông ấy đã mở mắt người mù từ
khi mới sinh mà không làm được cho người này khỏi chết ư?" Chúa Giêsu lại
xúc động; Người đi đến mộ.
Mộ đó là một hang nhỏ có tảng đá đậy
trên. Chúa Giêsu bảo: "Hãy đẩy tảng đá ra". Martha là chị người chết,
thưa: "Thưa Thầy, đã nặng mùi rồi vì đã bốn ngày". Chúa Giêsu lại
nói: "Ta đã chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh
quang của Thiên Chúa sao?" Thế là người ta cất tảng đá ra. Chúa Giêsu
ngước nhìn lên và nói: "Lạy Cha, Con cảm tạ Cha đã nhậm lời Con. Con biết
Cha hằng nghe lời Con. Nhưng Con nói lên vì những người đứng xung quanh đây, để
họ tin rằng Cha đã sai Con". Nói rồi, Người kêu lớn tiếng: "Ladarô!
Hãy ra đây!" Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải, trên
mặt quấn khăn liệm. Chúa Giêsu bảo: "Hãy cởi ra cho anh ấy đi".
Một số người Do-thái đến thăm Maria,
khi được chứng kiến những việc Chúa Giêsu làm, thì đã tin vào Người. Ðó là
lời Chúa.
Giảng lễ :
Là con người, ai
trong chúng ta cũng ham sống và sợ chết. Nhất là những ai được đời
ban phát cho nhiều đặc ân, đặc lợi, bổng lộc dồi dào như: sở hữu nhiều của cải,
quyền cao chức trọng, cuộc sống an nhàn, khoái lạc vv… thì chết sớm quả là một
điều tiếc xót vô cùng. Chẳng hạn như nhà vua Êzêkia trong bài đọc 1 mà chúng ta
vừa nghe.
Khi Chúa sai tiên
tri Isaia đến nói với nhà vua rằng : “Ông chẳng sống được bao lâu nữa đâu,
sẽ chết thôi. Vậy lo mà thu xếp việc nhà việc nước đi thôi”. Nghe
vậy vua đau đớn quay mặt vào tường, rồi khóc nức khóc nở như đứa bé vì ông còn
nuối tiếc cuộc sống tại thế này. Bởi ông biết rằng chết là dấu chấm hết, là bỏ
lại tất cả tiền bạc của cải danh vọng và xa cách vĩnh viễn những người thân
yêu. Vì thế, ông đã tha thiết cầu xin Chúa: "Ôi lạy Chúa, con van xin Chúa, xin Chúa hãy nhớ
lại: con đã sống ngay chính trước mặt Chúa, và đã làm những điều đẹp lòng
Chúa". Với đời sống
ngay chính và đẹp lòng Chúa nên nhà vua đã được Chúa đoái thương và cho ông
sống thêm 15 năm nữa. Hơn thế nữa, Chúa còn che chở ông và thành trì của ông
thoát khỏi thế lực xâm lăng của đế quốc Assur. Thế mới biết Chúa độ lượng,
thương xót ông là nhường nào!
Được biết anh… cũng
đã lâm trọng bệnh trong một khoảng thời gian nhưng Chúa vẫn để anh tỉnh táo và
có đủ thời giờ để chuẩn bị sẵn sàng cho sự ra đi của mình. Phải
chăng đây cũng là một ân huệ, một cách biểu tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa
dành cho anh.
Niềm tin vào sự sống
lại không những được đặt trên nền tảng vững chắc qua cuộc tử nạn và phục sinh
của Đức Kitô mà niềm tin ấy còn được củng cố qua phép lạ Chúa Giêsu phúc sinh
La-za-rô sống lại sau khi đã chết 4 ngày cùng với lời xác quyết mạnh mẽ của
Chúa với cô Matta: “ Thầy là sự sống lại và là sự sống; ai
tin vào Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống; ai sống và tin vào Thầy, thì sẽ
không bao giờ phải chết." (Ga 11,25) Như vậy, chết không phải là
dấu chấm hết, nhưng chỉ là khởi đầu và là cánh cửa mở ra cho một cuộc gặp gỡ
vĩnh viễn Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá và là nguồn cội sự sống của muôn vật muôn
loài.
1. Có điều, cái chết
thường đến rất bất ngờ, không hẹn giờ: Dụ ngôn trong bài Tin mừng mà chúng ta
vừa nghe cho biết, chàng rể là Chúa Kitô đến chậm và thình lình, nên bắt buộc
các cô phù dâu phải chuẩn bị sẵn sàng. Các cô khờ dại vì chễnh mãng không lo
chuẩn bị đèn dầu chu đáo, nên các cô đã phải luýnh quýnh cả lên khi chàng rể
đến chậm và bất ngờ. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng, sống là thời gian chờ đợi
giờ ra đi để gặp lại Đấng vô hình là Thiên Chúa, Đấng mà cuộc sống tại thế này
ta chưa hề giáp mặt mặc dù ta luôn kính tin. Vậy nên, muốn cuộc gặp gỡ diễn ra
tốt đẹp thì cần phải chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc ra đi. Tôi tin anh…
cũng đã chuẩn bị sẵn sàng để gặp gỡ Đấng mà anh... tin tưởng yêu mến. Đây chính
là điểm mà chúng ta có thể vui mừng với anh trong niềm hy vọng….
2. Đối với người tin
tưởng và yêu mến Chúa thì ngày chết chính là ngày “sinh nhật trong Nước Trời”,
như lời Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói trên giường hấp hối : “Tôi không
chết, nhưng đang bước vào cõi sống”. Vua Êzêkia đã tin tưởng và cậy
trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa nên khi cầu nguyện, ông cũng đã nhắc
khéo với Chúa rằng: “Xin Chúa nhớ cho, cả đời con đã trung tín và thành
tâm bước đi trước Nhan Chúa”.
Tôi nghĩ đây cũng là
lời tâm nguyện của anh… trong đời sống đức tin hàng này. Và với lòng thương xót
của Thiên Chúa là Cha chúng ta, tôi tin rằng sau một chặng đường trung tín bước
theo Chúa với lòng yêu mến và phó thác đợi chờ, bình dầu tình yêu trong anh vẫn
còn đủ đầy và ngọn đèn đức tin của anh vẫn còn đang cháy sáng, vì thế anh thật
xứng đáng được bước vào nước trời để tham dự bàn tiệc vui muôn đời trong nhà
Cha trên trời cùng với chàng rể là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Bởi lẽ “Ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu
độ.” (Mt 10,22)
Hôm nay chúng ta
dâng lễ an táng để tiễn đưa anh… về với Chúa. Một lần nữa nhắc nhớ chúng ta
về lời cầu nguyện tha thiết của Chúa Giêsu cùng với Chúa Cha khi còn
ở tại thế: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở
đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng
vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con.” (Ga 17, 24). Với lời cầu nguyện ấy, tin rằng
không bao giờ Chúa Giêsu quên lãng chúng ta trong trái tim của Người, bởi
lúc nào Người cũng mong muốn chúng ta được ở với Người để được chiêm
ngưỡng vinh quang rạng ngời của Người muôn đời trên thiên quốc.
Anh… hôm nay ra đi
trước chúng ta và được diễm phúc chiêm ngắm vinh quang rực rỡ của Chúa trong niềm
hạnh phúc viên mãn trên thiên đàng trước chúng ta. Trong niềm hạnh phúc ấy có
lẽ anh… không quên chúng ta, đặc biệt là nhữn người thân yêu của anh với niềm
mong muốn gặp lại tất cả người chúng ta trong bàn tiệc vui muôn đời trong nhà
Cha trên trời.
LỄ
GIỖ
Dẫn:
Trong niềm tin vào
Đức Kitô đã chết và sống lại thì khi kết thúc hành trình ở trần gian là chúng
ta được về với Chúa. Tuy về với Chúa nhưng trong tình liên đới thì người ra đi
vẫn gắn kết và hiệp thông với chúng ta. Mầu nhiệm các thánh cùng thông công
trong GH Công giáo đã dạy cho chúng ta biết điều ấy.
Mỗi khi nhớ đến
người quá cố, là một lần nhắc nhở chúng ta ý thức hơn về mối dây hiệp thông
giữa chúng ta với người quá cố, nhất là tình liên đới giữa những người trong
cùng một gia đình huyết thống với nhau.
Mỗi lần hiệp dâng
thánh lễ là dịp làm sống lại cách mạnh mẽ niềm tin vào sự sống vĩnh cửu mai
sau. Đây cũng là cơ hội thuận lợi để những người con người cháu tưởng nhớ, tri
ân, cầu nguyện cách đặc biệt cho người thân yêu của mình trong tâm tình thảo
hiếu.
Hiệp thông trong
cùng một đức tin với niềm hy vọng vào hạnh phúc nước trời nhân dịp lễ giỗ lần
thứ... Chúng ta hãy dâng lên Chúa những lời nguyện cầu chân thành, tha thiết,
xin Chúa thương đón nhận linh hồn cụ…vào nước trời. Và cũng xin cho mỗi người
chúng ta biết ý thức chuẩn bị sẵn sàng cho ngày Chúa thương gọi ta về với Ngài.
Với những tâm tình ấy, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối.
Suy niệm:
Trong bài hát “Nối
Vòng Tay Lớn” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nói lên niềm vui gặp gỡ của những
người thân xa cách lâu năm, nay được hội ngộ. Một hành trình từ bắc vô nam, từ
rừng núi đến biển khơi, từ thành phố đến thôn quê, từ quê nghèo lên đến phố lớn
và từ hải ngoại trở về Việt Nam để bàn tay nối thành vòng tay, để vòng tay nối
thành một khối để nụ cười tiếp nối mãi nở trên môi của những người xa cách nay
được gặp lại.
Niềm vui gặp gỡ này
không chỉ là niềm vui của những người còn sống mà còn là cuộc gặp gỡ giữa hồn
thiêng sông núi, nối kết giữa người chết và người còn sống, người chết nối linh
thiêng vào đời và nụ cười nở trên môi là thế.
Xuất phát từ một
niềm tin phổ quát sâu xa trong tâm hồn mỗi người, cố nhạc sĩ Họ Trịnh đã nói
lên tin ấy thay cho mọi người, đó là: “chết là thể phách, còn là tinh anh”.
Phần chết là thể phách là vật chất bên ngoài, phần linh hồn là tinh anh là phần
còn lại và tồn tại mãi mãi. Chỉ có những người vô thần không tin vào sự sống
đời sau mới cho rằng chết là hết, không tin sự hiện diện của phần thiêng liêng
mà chúng ta gọi là linh hồn. Vậy, nếu chết là dấu chấm hết theo quan niệm của
những người vô thần thì cuộc sống của con người có khác chi con vật chỉ biết ăn
uống, tranh giành rồi chết đi và việc tổ chức tang lễ, cúng bái hay cầu nguyện
cho người quá cố phải chăng chẳng mang một ý nghĩa gì, chỉ tốn thời gian, mất
công sức và hao tốn tiền của mà thôi.
Hôm nay gia đình con
cái, cháu chắc của cụ…hiệp nhau trong ngày đoàn tụ nhân dịp lễ giỗ lần…, đây
không chỉ là sự đoàn tụ của những người ở xa được trở về gặp gỡ nhau trong đại
gia đình, nhưng còn là một ngày đòan tụ giữa người chết linh thiêng nối kết với
người còn sống trong đức tin, lòng mến, tình tri ân.
Thánh lễ Misa mà
chúng ta dâng hôm nay đã trở nên món quà vô giá, quà ơn thánh mà gia đình và
cộng đoàn chúng ta hiệp dâng, được diễn tả qua bài đọc thứ 1, trích sách Macabe
quyển thứ hai, được tiếp nối trong thư của Thánh Phaolô gửi tín hữu Roma và
được nhấn mạnh trong bài Tin mừng của Thánh Gioan. Các bài đọc đều xác tín niềm
tin vào sự sống đời đời. Niềm tin đó được đặt vững chắc vào Đức Kitô đã chết và
đã sống lại và được xác quyết qua lời của Ngài: “Ta là sự sống lại và
là sự sống, ai tin vào Ta thì có chết cũng sẽ được sống và ai sống mà tin vào
Ta sẽ không chết bao giờ”. Với niềm tin này, chúng ta tin rằng Chúa
cũng sẽ cho cụ…được sống lại với Ngài.
Tuy nhiên, chúng ta
cũng nói đến mầu nhiệm các thánh cùng thông công. Mầu nhiệm này dạy cho chúng
ta biết có sự hiệp thông giữa những người còn sống những người đã qua đời. Các
thánh thành phần GH khải hoàn luôn cầu nguyện và hộ giúp chúng ta những người
còn sống, còn chúng ta thành phần GH chiến đấu (lữ hành) thì có bổn phận cầu
nguyện, hy sinh công đức, dâng thánh lễ để nhường công đức cho những linh hồn
còn phải thanh luyện, thành phần GH chịu đau khổ nơi luyện tội. Tất cả niềm tin
ấy đều được đặt trong niềm tin vào Đức Kitô phục sinh, là Đấng cứu độ trần gian
và tin vào lời hứa của Người: “ Tất cả những kẻ Chúa Cha đã ban cho Tôi
sẽ đến với Tôi và ai đến với Tôi thì không bị loại ra ngoài và Tôi sẽ cho họ
sống lại trong ngày sau hết”.
Giáo lý Công giáo
cũng đã dạy chúng ta hiểu rằng: Thể xác con người được TC tạo dựng từ vật chất,
còn linh hồn được TC tạo dựng giống hình ảnh Người. Xác là vật chất nên phải
theo quy luật của vật chất là sinh tử, còn linh hồn là phần thiêng liêng do TC
trực tiếp trao ban, nên linh hồn là bất tử.
Con người được TC
đưa vào trần gian và đến ngày nào đó TC muốn con người lại phải từ giả trần
gian để trở về với cội nguồn của mình là chính TC để hiệp thông trọn vẹn với
Người.
Vì thế chết là trở
về với TC, cuộc trở về này là cuộc trở về trong hân hoan hay sợ hãi điều đó tùy
thuộc vào lựa chọn của mỗi người chúng ta. Nếu hôm nay chúng ta lựa chọn TC thì
ngày trở về chúng ta sẽ được gặp TC, ngược lại nếu hôm nay chúng ta từ chối TC
thì ngày trở về chúng ta không thể nào gặp được TC.
Sự chết chỉ là thời
điểm tạm thời chứ không phải là đích điểm cuối cùng, chết là thời gian thanh
luyện chuẩn bị cho ngày tất cả chúng ta sẽ được sống lại để trình diện với TC.
Trong ngày phán xét ấy, người lành sẽ hạnh phúc còn kẻ dữ phải chịu án phạt đời
đời. Ông Gióp đã tin và sống niềm tin ấy khi ông nói rằng: “tôi tin
rằng Đấng cứu độ tôi hằng sống và ngày sau hết tôi từ bụi đất sống lại và trong
xác thịt tôi sẽ nhìn thấy TC của tôi và chính trong mắt tôi sẽ được nhìn ngắm
Ngài”.
Sự chết có thể lấy
đi tất cả, nhưng có một điều nó không thể lấy đi đó là tình yêu và sự hiệp
thông. Tình yêu và sự hiệp thông làm cho người sống và người chết gắn bó với
nhau mật thiết biết chừng nào. Chính trong tình yêu và sự hiệp thông mà hôm nay
con cháu của cụ…quy tụ bên nhau để nhắc lại công ơn sinh thành dưỡng dục, nhắc
lại những kỉ niệm đẹp và những đức tính cao quý của cụ… Hiệp thông nhau để tỏ
lòng cảm mến tri ân và , để nhắc nhau nghe những việc làm tốt đẹp mà khi còn
sống cụ…đã thực hiện nêu gương sáng cho con cháu noi theo. Hiệp thông nói lời
cám ơn vì những công ơn cao dày và phúc ấm mà cụ… để lại cho cháu con; cảm ơn
vì con cháu được thừa hưởng gia tài đức tin quý giá do cụ…trao truyền và hướng
dẫn.
Mỗi khi nhớ đến
người quá cố cũng là dịp nhắc nhở nhau hãy cố gắng gìn giữ bảo vệ và lưu truyền
đức tin cách can đảm trong thời đại mới, thời đại mà có nhiều thách đố bởi lối
sống tục hóa chi phối khiến cho nề nếp lễ giáo gia phong, tình đoàn kết yêu
thương trong gia đình đang bị phá vỡ bởi chủ nghĩa cá nhân và vô cảm lên ngôi.
Nhà nào biết nhà nấy, người nào lo người ấy, không còn những bữa cơm chung
trong gia đình, không còn những giờ kinh nguyện gia đình sáng tối gia đình,
không còn những nén hương tưởng nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ, và cũng rất hiếm khi
tham dự thánh hàng để cầu nguyện cho các linh hồn trong tình hiệp thông của
cộng đoàn họ đạo nữa.
Mỗi lần kỉ niệm lễ
giỗ… là mỗi lần có những tiếng than van, tiếc nối: giá như và giá như…cha mẹ,
ông bà, người thân tôi còn sống…, thì tôi sẽ đáp đền, sẽ dâng những món ngon
vật lạ, sẽ nói những lời yêu thương và sẽ hy sinh tận tâm phục vụ để làm vui
lòng họ… Nhưng những ước mong đó giờ lại không còn nữa. Có cả những giọt nước
mắt hối hận muộn màn đã rơi, bởi vì khi xưa ta đã vô tình hay cố đối xử bất
công, vô ơn, vô lễ, bất hiếu với ông bà cha mẹ chúng ta …giờ chỉ còn biết hối
hận và tiếc nối. Nhưng cũng đừng tuyệt vọng, TC vẫn mở ra cho chúng ta cánh cửa
hy vọng tươi sáng nếu chúng ta sửa đổi làm lại cuộc đời, bằng cách hãy cố gắng
làm nhiều việc lành phúc đức, tích cực làm việc thiện bác ái, siêng năng tham
dự thánh lễ, xin lễ và cầu nguyện nhiều cho các ngài…, đó chính là những món
quà ơn thánh vô giá mà những linh hồn đang cần đến chúng ta gửi tặng các ngài
với tấm lòng thảo hiếu.
Có những ngôi mộ
được xây dựng rất hoành tráng, đắc tiền nhưng sau đó tì lại thấy ai nhớ đến,
thật đáng buồn! suốt năm suốt tháng chẳng thấy bóng dáng con cháu nào đến thăm
viếng, thắp nhang, làm cỏ và tham dự thánh lễ để cầu cho linh hồn ấy. Nên ai đó
đã gọi “ngôi mộ đó chôn lần thứ hai”. Việc xây mồ mả cho tổ tiên là tốt, nhưng
việc làm tốt hơn là bày tỏ lòng hiếu thảo của chúng ta khi các ngài còn sống.
Hãy yêu thương và giúp đỡ họ bằng tình yêu và lòng kính mến, biết ơn. Có thể
khi tuổi già, các ngài đổi tính đổi nết, đau bệnh lâu dài…thì cũng đừng vì thế
mà có những lời nói chua cay, gắt gỏng làm đau lòng tuổi thân cho các ngài.
Đừng bao giờ tỏ vẻ khinh thường, hất hủi và vô lễ với các ngài, vì kinh nghiệm
cho thấy: sóng trước đổ đâu sóng sau đổ đấy”. Hôm nay chúng ta cư xử với ông bà
cha mẹ thế nào thì mai sau con cháu của chúng ta cũng cư xử với chúng ta như
vậy.
Vì vậy ngay bây giờ
khi ông bà, cha mẹ còn sống hãy yêu thương, quý trọng, thông cảm và tậm tâm
phục vụ họ tận âm để tuổi già của các ngài được hạnh phúc an vui bên con cháu.
Mỗi khi tưởng nhớ
người quá cố là ta lại nghĩ về mình, cuộc đời thật chóng qua như cỏ, như bông
hoa trên cánh đồng, như bèo dạt mây trôi, như bóng câu qua cửa sổ…tất cả rồi sẽ
qua đi, đúng là 3 tất đất mới thật là nhà. Cho nên hãy loại bỏ những gì là
tranh chấp, thù oán, ganh ghét để còn yêu thương. Hãy sử dụng tốt từng giây
phút của cuộc sống đời này để làm giàu tình yêu hơn là chỉ biết làm giàu tiền
bạc của cải, vì chỉ có tình thương mới tồn tại mãi và chỉ có đời sống đức tin
kiên vững mới là phương tiện đưa ta vào con đường hạnh phúc thật.
Suy niệm 18: TĨNH THỨC VÀ SẴN SÀNG
Kính thưa cộng đoàn
phụng vụ. Sáng hôm nay chúng ta quy tụ trong nhà Chúa để hiệp dâng thánh lễ an
táng cầu nguyện cách đặc biệt cho người anh em chúng ta là anh Phê-rô…Dựa vào
lời Chúa trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, tôi xin gợi một vài ý tưởng
để chúng ta cùng suy nghĩ sau đây:
Có một bài thánh ca
khá quen thuộc thường được hát trong mỗi dịp lễ an táng. Nhạc phẩm mang tên:
“Ngày Về” của linh mục nhạc sĩ Kim Long. Lời điệp khúc của bài hát này như
sau: “Khi Chúa thương gọi con về, hồn con hân hoan như trong một giấc
mơ. Miệng con nức vui tiếng cười, lưỡi con vang lời ca hát. Ngàn dân tung hô:
con thật vinh phúc”.
Được biết, bài hát
này được nhạc sĩ Kim Long sáng tác đang thời gian đi giúp xứ, bổng ngài được
Đức Giám Mục gọi về để tĩnh tâm chuẩn bị cho việc lãnh nhận chức thánh, trong
niềm hân hoan vui mừng ấy, nhạc sĩ Kim Long đã “xuất khẩu thành… nhạc”, nhằm để
ca tụng Thiên Chúa vì những hồng ân bao la mà Ngài đã thương ban cho ngài.
Nhưng sau đó bài hát này lại được biến đổi từ niềm vui đón nhận chức thánh trở
thành niềm hân hoan đi về nhà Cha trên trời. Biết thế, nhưng linh mục nhạc sĩ
Kim Long cũng hề không đính chính, bởi ngài muốn để hồn bài hát được vang xa,
bay cao mãi trong mọi hoàn cảnh.
Đúng vậy, niềm tin
dạy chúng ta biết rằng: chết không phải là hết mà là lúc ta được trở về nhà Cha
trên trời, nơi đó không còn đau khổ, không còn tham-sân-si, nơi đó ta có được
hạnh phúc viên mãn. Tin là thế, nhưng ít ai trong chúng ta lại muốn đón nhận
cái chết, vì cái chết là một điều gì đó rất đau thương, thảm khốc, nhất là khi
chứng kiến người thân chúng ta phải chết cách bất ngờ và tuổi đời còn khá trẻ.
Chắc ít ai có được tâm tình như linh mục nhạc sĩ Kim Long khi được hỏi về tâm
tình bài hát trên, ngài hài hước cho rằng: “thật vinh phúc khi được Chúa gọi
về”.
Tin mừng chúng ta
vừa nghe, Khi đề cập đến cái chết, Chúa Giêsu cho biết cái chết thường đến rất
bất ngờ như kẻ trộm, và Ngài khuyên chúng ta là phải luôn tỉnh thức để sẵn sàng
cho ngày đó.
Có nhiều truyền
thống văn hóa hay tôn giáo rất kiêng kỵ nói đến từ “chết” nên họ đã dùng những
từ ngữ khác để diễn tả như: qua đời, về với tổ tiên, về với chính suối, băng
hà... Người Phật giáo thường nói: “có sinh thì ắt có tử” và họ chỉ dừng ở đó.
Còn người Công giáo chúng ta thì đi xa hơn là: chẳng những sinh-Tử- mà còn Phục
Sinh. Nghĩa là ai cũng được sinh ra, ai cũng phải chết đi, nhưng sau khi chết
thì sẽ sống lại và sự sống sau khi chết mới là sự sống vĩnh cửu đáng mơ ước.
Cuộc sống của chúng
ta giống như một sân khấu, có khởi đầu, có kết thúc, có mở màn và có lúc hạ
màn. Đôi lúc có thể chúng ta diễn không hay lúc ban đầu vì chưa thuộc kịch bản
hay vì lý do nào đó khiến chúng ta không làm tốt vai diễn của mình. Rồi một khi
đã quen với sàn diễn, và nhờ vào trải nghiệm nhiều nên diễn vở diễn cuộc đời
của ta ngày một hay hơn. Điều mong muốn là ai trong chúng ta cũng muốn được
khán thính giả vỗ tay khen ngợi khi màn ảnh của sân khấu cuộc đời ta khép lại, đó
là lúc chúng ta phải trở về với cát bụi và ngày đó, người đạo diễn tài tình là
chính Thiên Chúa sẽ không hỏi chúng ta là đóng vai chính hay vai phụ, nhưng
Người sẽ hỏi chúng ta là có làm tốt vai diễn cuộc đời của mình không?
Chúa có thể viết
thẳng dễ dàng trên những đường cong, vì Người là Thiên Chúa quyền năng, nhưng
Người muốn chúng ta phải tích cực cộng tác với Người để cho thế giới này ngày
một tốt hơn, bởi Người tôn trọng sự tự do của chúng ta.
Giá trị cuộc đời con
người không hệ trọng ở việc sống thọ, sống lâu, nhưng hệ tại ở chỗ là mình sống
như thế nào? Đức Cố Hồng y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận đã từng hỏi:
Chiều cao của đời
tôi là gì? Thưa là trung thành với Thiên Chúa, với Hội thánh, với Tổ tiên, với
Tổ quốc.
Chiều rộng của đời
tôi là gì? Thưa là trưởng thành đối với gia đình, cộng đoàn và xã hội.
Chiều dài của đời
tôi là gì? Thưa là tín thành với bằng hữu, với mọi người.
Thực tế cho chúng ta
thấy, cũng là con người nhưng có những cái chết cô đơn, ít người thương tiếc.
Trái lại có những cái chết ý nghĩa, được mọi người luyến tiếc, ghi ơn và nhớ
mãi. Cho nên có những người chết rất trẻ mà “tiếng thơm” lan rộng, nhưng có
những người chết ở tuổi rất già nhưng lại toàn tiếng xấu. Đó là phần nào
kết quả của những gì mình đã nói, đã làm, đã nghĩ và đã sống ở trần gian này.
Vậy phải sống sao cho xứng, sao cho “thơm” trên dòng đời trôi nổi, lắm đổi thay
với nhiều xu thế xấu tốt đan xen và rình rập.
Anh Phêrô, người anh
em tín hữu của chúng ta đã ra đi đột ngột khi tuổi đời còn khá trẻ 55. Có lẽ
với cái nhìn tự nhiên ai cũng tiếc thương cho anh. Vợ anh tiếc thương vì mất đi
một người chồng, gia đình anh đã mất đi một người con, một người em, một người
thân. Bạn bè mất đi một người bạn chí cốt. Họ đạo mất đi một thành viên. Nhưng
chúng ta cũng có quyền hãnh diện về anh, vì anh là người con Chúa và là anh em
trong đức tin với chúng ta, anh đã đặt niềm tin nơi Chúa và trung thành sống
cho niềm tin ấy trong mọi hoàn cảnh với một thái độ tĩnh thức chờ đợi giờ Chúa
đến.
Trong tình hiệp
thông bác ái và niềm tin vào mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô, chúng ta cầu
xin Chúa là Người Cha giàu lòng thương xót, sớm đón nhận anh vào Vương quốc của
Ngài. Và xin cho mỗi người trong chúng ta luôn biết tĩnh thức trước Lời Chúa
dạy: “Các con hãy sẵn sàng vì không biết giờ nào, ngày nào Con Người sẽ
đến” (Mt 24,44). (St)
ĐẦU TƯ CHO CUỘC SỐNG
MAI SAU
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
1.
Đầu tư không đúng chỗ
Hầu
như mọi hoạt động, mọi nỗ lực của nhiều người đều quy về việc củng cố, đầu tư
cho thân xác, cho cuộc đời tạm thời vắn vỏi của mình. Người ta dành trọn 24 giờ
mỗi ngày để chăm lo cho thân xác: giờ ăn, giờ ngủ, giờ giải trí vui chơi, giờ
làm việc nuôi thân xác... Và cứ thế cho đến mãn đời.
Bao
nhiêu thời gian, công sức, tiền của, tài năng, trí tuệ, nghị lực… đều được dốc
ra để đầu tư cho thân xác, cho cuộc sống tạm bợ đời nầy, để rồi đến lúc cuối
đời, người ta thu hoạch được một nắm xương hay chỉ là một lọ tro tàn sau khi
thiêu xác! Nhưng làm sao để tránh khỏi kết cục bi thảm nầy? Làm cách nào để đạt
tới một thành quả tươi sáng hơn?
2.
Đầu tư cho đời sống mai sau
Qua
Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su đề nghị một giải pháp khôn ngoan. Ngài dạy chúng
ta đầu tư đúng hướng để được hưởng lợi nhuận vững bền. Đó là đầu tư cho đời
sống mai sau bằng cách từ bỏ mình và vác thập giá. Ngài nói: “Ai muốn
theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,
24).
-
“Từ bỏ chính mình” tức
là đừng dồn tất cả mọi vốn liếng ta có để vun đắp cho cuộc sống đời nầy; không
dành toàn bộ công sức, thời gian, tài năng, trí tuệ để phụng sự thân xác.
-
“Vác thập giá mình” là
chấp nhận hy sinh, là khước từ những đam mê tội lỗi… để dành thời giờ và khả
năng để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Sở dĩ Chúa Giê-su dạy như thế là
vì “ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống
mình vì Chúa, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà
phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” (Mt 16, 26).
Ông
(bà)…đã đầu tư đời mình cách khôn ngoan và đúng hướng là:….
Vì
thế chúng ta tin rằng ông (bà) sẽ thu được lợi nhuận to lớn và bền vững là kho
tàng nước trời do Chúa tặng ban.
Thánh
Phan-xi-cô Xa-vi-e lúc còn thanh xuân muốn đầu tư hết tài năng, sức lực để
chiếm hữu địa vị xã hội và vinh hoa thế gian. May thay, Thiên Chúa đã gửi đến
cho anh người bạn tốt, đó là thánh I-nha-xi-ô. I-nha-xi-ô thường dùng lời vàng
Chúa dạy hôm nay để nhắc bảo Phan-xi-cô: “Nếu người ta được cả thế giới
mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”
Ánh
sáng của Lời Chúa đã loé lên trong tâm hồn chàng trai đầy tham vọng trần thế và
đã xoay chuyển cuộc đời anh. Phan-xi-cô không còn theo đuổi phù du ảo ảnh đời
nầy để dấn thân không mệt mỏi vào những vùng đất xa xôi, chinh phục các linh
hồn cho Thiên Chúa nên đã được hạnh phúc vinh hiển muôn đời.
Lạy
Chúa Giê-su, Xin cho Lửa Thánh Linh soi chiếu tâm hồn để chúng con nhận ra rằng
con người gồm cả hồn lẫn xác. Thân xác nầy nay còn mai mất và rốt cục chỉ còn
là tro bụi thì chỉ cần đầu tư vừa phải. Còn linh hồn trường tồn bất diệt thì
phải đầu tư cho hồn nhiều lần hơn để mai sau được hưởng vinh phúc muôn đời với
Chúa. Amen.
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (Lc
12: 35-40)
35 “Anh
em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn.36 Hãy làm như những
người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay.37 Khi
chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy
bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà
phục vụ.38 Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn
thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ.39 Anh em
hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó
khoét vách nhà mình đâu.40 Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì
chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.”
Suy niệm 1:
Truyện : Thủy
Thủ Và Nhà Kinh Doanh.
Nhân chuyến tham
quan con tàu buôn lớn, một nghà doanh nghiệp hỏi người thủy thủ :
- Ông của anh làm
nghề gì và chết ở đâu ?
Người thủy thủ thưa
:
- Ông của tôi làm
nghề thủy thủ và chết vì đi biển.
Nhà doanh nghiệp lại
hỏi :
- Vậy cha của anh
làm nghề gì và chết ở đâu ?
Người thủy thủ thưa
:
- Cha tôi cũng làm
nghề thủy thủ và cũng chết vì đi biển.
Nhà doanh nghiệp bỡ
ngỡ hỏi :
- Thế mà anh dám làm
nghề thủy thủ, và hằng ngày đi biển sao ?
Người thủy thủ hỏi
lại nhà doanh nghiệp :
- Xin hỏi : Ông của
ngài làm nghề gì và chết ở đâu ?
Nhà doanh nghiệp trả
lời :
- Ông tôi làm doanh
nghiệp và chết trên giường.
Người thủy thủ lại
hỏi :
- Vậy cha của ngài
làm nghề gì và chết ở đâu ?
Nhà doanh nghiệp trả
lời :
Cha tôi cũng làm
doanh nghiệp và chết ở giường.
Người thủy thủ tỏ vẻ
bỡ ngỡ và hỏi :
- Thế mà ông dám làm
nghề kinh doanh, và mỗi đêm dám ngủ trên giường sao ?
Câu truyện trên đây
nhắc ta : mọi người sang, hèn, giầu, nghèo, giỏi dốt, ở bất cứ nơi đâu, làm bất
cứ nghề nghiệp gì, thì rồi cũng có ngày phải bỏ cõi đời này để trở về thế giới
bên kia.
1. Trong lịch sử.
Trên thế giới này có
biết bao vĩ nhân, biết bao anh hùng cái thế đã sống trước chúng ta. Còn đâu một
César của đế quốc La mã, còn đâu Alexandre đại đế của Hy lạp, còn đâu Tần Thủy
Hoàng của Trung hoa vĩ đại, còn đâu Thành Cát Tữ Hãn của Mông cổ, còn đâu Trần
Hưng Đạo, Lê Lợi. Quang Trung của Việt nam ? Tất cả đã vang bóng một thời và
nay chỉ còn trong sử sách, đúng như cổ nhân đã nói :
Nhân sinh
tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan
tâm chiếu hãn thanh (Văn Thiên
Trường)
Con người từ cổ ai
không chết
Để lại lòng son rạng
sử xanh.
2. Trong đời sống
hằng ngày
Trên thế
giới ngày nay và chung quanh chúng ta mỗi ngày có biết bao nhiêu người
chết : không phân biệt già trẻ, lớn bé, nam nữ, người trí thức hay người bán
khai, thậm chí có những đứa trẻ đã chết khi chưa lọt lòng mẹ. Ai ai cũng phải
nhận lấy cái lưỡi hái của tử thần vì thần chết là người thợ không ngủ trưa và
không một chút thương hại. Bởi thế người ta nói :
Rắn già rắn lột,
Người già chui tuột
vô săng.
Nghĩa
là: Rắn già thì lột xác để tiếp tục phát triển, người
già thì ngày càng tàn lụi rồi chết.
Thật vậy, chết là
một điều hiển nhiên, là một công lệ, không ai có thể thoát khỏi tay tử
thần. Mà tử thần thường hay đến bất ngờ, tựa như vụ cháy bất ngờ chung
cư mini, tại số nhà 37, ngách 29/70 phố Khương Hạ (phường Khương Đình, quận
Thanh Xuân, Hà Nội). Theo báo Lao động
đưa tin thì tính đến 19h20, ngày 13/09/2023, cơ quan chức năng đã xác định được
56 người tử vong và 37 người bị thương (trong đó, đã xác định được danh tính
của 39/56 người tử vong).
Chính vì thế mà Chúa
Giêsu dạy chúng ta phải luôn có thái độ tỉnh thức và sẵn sàng cho ngày Chúa
đến, khi Ngài phán rằng: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn.
Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa,
là mở ngay. Khi chủ về và thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc
cho họ. Thầy bảo thật anh em : chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên
từng người mà phục vụ. Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ
tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ.” (Lc 12,35-38).
Giờ Chúa đến với ta
rất bất ngờ tựa như kẻ trộm đột nhập vậy. Cho nên thái độ của ta là phải tỉnh
thức và sẵn sàng cho giây phút ấy. Cho nên muốn cho giờ chết được êm ái, nhẹ
nhàng, thanh thản, không phải bồn chồn lo lắng, ta cần phải dọn mình luôn. Các
thánh nhân đã nhận lấy cái chết một cách bình tĩnh và vui tươi vì cho giờ chết
là kết thúc cuộc lữ hành trần gian để về bên Chúa hưởng vinh phúc đời đời theo
đúng tinh thần của Thánh vịnh 78,6 :
Như đôi chim tìm về
khe đá,
Người lữ khách vui
tới quê nhà. (Thánh
vịnh 78,16)
Tục ngữ Việt nam có
câu :”SINH DỮ TỬ LÀNH”. Không biết anh chị em nghĩ thế nào ? Theo
tôi nghiên cứu thì dân gian người ta tin tưởng rằng : đêm nằm mơ, nếu mơ sự
sinh đẻ thì đó là điềm xui; còn mơ đến sự chết thì đó là dấu lành. Không biết
đấy có phải là mê tín dị đoan không, nhưng người ta cứ tin như vậy, nên mới có
câu : sinh dữ tử lành.
Trường hợp của (bà)
X cũng đúng phần ý nghĩ về quan niệm bình dân của nhiều người, vì bà cũng đã
trải qua một thời gian phải chịu nhiều khổ đau do bệnh tật hành hạ... nay
mọi sự đã chấm dứt. Giờ chết là giờ giải thoát, là giờ sinh ra trong Nuớc
Trời.
Chúng ta tưởng nhớ
đến bà X hôm nay, và cầu nguyện cho bà được Chúa thanh tẩy hết mọi vết nhơ của
bụi trần mà sớm đưa vào thiêng đàng hưởng hạnh phúc muôn đời. Nhân dịp này Chúa
cũng nhắc nhở mỗi người chúng ta về sự mau qua và bất ngờ của phận người mong
manh, để biết tích cực chuẩn bị sẵn sàng cho ngày Chúa đến gỏ cửa đời mình, qua
việc hằng tâm niệm lời dạy của Chúa: “Các con hãy sẵn sàng vì không
biết giờ nào, ngày nào Con Người sẽ đến.” (Mt 24,44).
Lm
Giuse Đinh lập Liễm
Suy
Niệm 2:
Mỗi
ngày chúng ta cũng chứng kiến biết bao cái chết tức tưởi bởi đột quỵ hay bởi
tai nạn giao thông. Trung bình ở Việt Nam mỗi ngày có hơn 32 người chết bởi tai
nạn giao thông. Mỗi năm thiên tai lũ lụt cũng gây nên biết bao cái chết oan
khiên đắng cay. Pakistan mới trải qua cơn lũ kinh hoàng đã cướp đi hơn 1500
sinh mạng. Sự chết dường như không kiêng nể ai. Sự chết có thể đến với bất cứ
ai và ở mọi nơi, mọi lúc.
Cái
chết là biến cố to lớn nhất của đời sống, tuy nhiên nhiều người bị nó tóm lấy
mà không hay biết. Đối với một số người nó đến như kẻ trộm vào ban đêm. Tuy
nhiên sự bất ngờ ấy có thể là một ân sủng, nó theo sát chúng ta trong gang tấc.
Nó buộc chúng ta chuẩn bị trong mọi lúc.
Xem
ra sự sống và sự chết không nằm trong những toan tính dự định của chúng ta.
Chúng ta không có quyền chọn lựa để tiếp tục sống hay chết. Không có quyền chọn
lựa về cách chết. Và càng không có quyền chọn lựa thời gian để chết. Sự chết
dường như vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Sự chết sẽ chấm dứt mọi sự
nơi dương gian của chúng ta. Công danh, sự nghiệp. Giầu có hay khó nghèo cũng
kết thúc như nhau với nấm mồ nhỏ bé bốn tấc đất như nhau.
“Hãy
sẵn sàng, vì lúc anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến”. Cuộc
sống của mỗi người là một cuộc hành trình tiến về đích điểm xa vời, một chân
trời xa lạ. Nhưng có mấy ai đã chuẩn bị cho cuộc hành trình không bao giờ trở
lại ấy? Một cuộc hành trình đơn độc, chẳng ai đi cùng. Cuộc hành trình có một
không hai của mỗi người chúng ta.
Chúa
Giêsu khuyên chúng ta luôn luôn tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức để làm gì?
Để
luôn luôn sẵn sàng đến trước mặt Chúa bất cứ lúc nào Chúa gọi, với tâm hồn
trong sáng, đầy tình yêu và đáng yêu. Một người luôn sống đẹp lòng Chúa, yêu
thương mọi người, thì luôn luôn cảm thấy mình sẵn sàng đến trước mặt Chúa. Tỉnh
thức đối với họ không phải là một tâm trạng bất an của người phải luôn canh
chừng kẻo kẻ trộm hay kẻ cướp tới nhà.
Tỉnh
thức ở đây là một tâm trạng luôn luôn bình an, không phải nơm nớp lo sợ, vì mọi
sự đã được xếp đặt an toàn, kẻ trộm có đến bất ngờ thì cũng bó tay, chẳng lấy
được mình cái gì. Tỉnh thức kiểu này mới là khôn ngoan nhất.
Ta
cũng là người quản lý của Thiên Chúa. Thật vậy, sự sống, tài năng, trí thông
minh, sức khoẻ sắc đẹp, tất cả đều là ơn Chúa ban. Nói tóm lại, tất cả những gì
ta có, tất cả những gì ta là, đều là của Chúa. Chắc chẳng có ai dám tự hỏi: Tại
sao tôi không cao hơn, không mập hơn? Tại sao tóc tôi không vàng hoe, mắt tôi
không xanh biếc? Tại sao tôi không có tài hội họa, có giọng ca hay? Ta không
thể hỏi như vậy, vì ta không có quyền gì trên đó. Tất cả đều là của Chúa. Chúng
ta chỉ là quản lý. Chúa trao sự sống, tài năng, trí thông minh cho ta gìn giữ
trong một thời gian.
Cuộc
đời chúng ta thì vắn vỏi, hơn thế nữa cái chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết
lại bấp bênh vô định. Chúng ta không biết mình sẽ chết khi nào, chết ở đâu và
chết trong tình trạng ra sao. Cái chết có thể đến viếng thăm chúng ta bất cứ
lúc nào. Vì thế qua trang Tin Mừng hôm nay, Chúa đã phán dạy chúng ta: “Hãy
tỉnh thức và sẵn sàng.”
Chúng
ta tỉnh thức và sẵn sàng bằng cách từng giây từng phút trong cuộc sống, hãy ra
sức bảo vệ tâm hồn trước những đợt tấn công, những cám dỗ của ma quỷ, để rồi
bất kỳ lúc nào Chúa đến viếng thăm, Ngài cũng sẽ thấy được nơi chúng ta một tâm
hồn trong sạch và đôi tay đầy công nghiệp. Đúng thế, tâm hồn trong sạch và đôi
tay chất đầy công nghiệp sẽ là như tấm hộ chiếu để chúng ta được bước vào nơi
quê hương Nước Trời.
Ta
thấy sự khôn ngoan mời gọi chúng ta hãy sống giây phút hiện tại một cách tích
cực. Hãy sử dụng thời gian một cách hợp lý. Đừng dùng giây phút hiện tại để
phạm tội. Đừng lao vào những đam mê mù quáng. Hãy sống tích đức để mua lấy Nước
Trời mai sau. Nhưng đáng tiếc cho nhân loại hôm nay vẫn còn đó những người sống
thiếu tỉnh thức bằng đời sống lười biếng và thiếu trách nhiệm trong bổn phận
của mình, vẫn còn đó những người sống ngụp lặn trong đam mê tội lỗi, vẫn còn đó
những người sống tham lam bất chính hơn là tích đức cho đời sau. Họ sẽ mất cơ
hội tham dự tiệc của tình yêu mà chính Thiên Chúa sẽ thiết đãi họ.
Đẹp
biết bao nếu cái chết đến khi chúng ta đã làm xong mọi việc, hoàn thành mọi
nhiệm vụ đâu vào đó như một bó lúa đã được cột lại. Nhưng chúng ta không thể
chắc chắn đó có phải là trường hợp của mình không bởi vì giờ chết được giấu kín
đối với chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta nhớ điều này: vấn đề không phải là chúng
ta chết lúc nào và như thế nào mà là chúng ta sống như thế nào. Chúng ta phải
cố gắng sống viên mãn và nhiệt tình và không chờ khi bệnh tật hoặc tai hoạ mới
nhận ra bản chất bấp bênh của đời sống con người.
Người
Kitô hữu phải luôn thức tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi ngày giờ Chúa đến. Thái
độ tỉnh thức sẵn sàng nầy đòi hỏi chúng ta đừng để lòng mình bám chặt vào những
của cải vật chất trần gian, mà phải có tâm hồn siêu thoát, luôn hướng về ngày
Chúa trở lại. Ai trông chờ Chúa đến thì tự nhiên thấy cần phải sống siêu thoát.
Và sống siêu thoát là một cách chuẩn bị đón Chúa. Bởi vì, “kho tàng anh em ở
đâu thì lòng anh em cũng ở đó. Hãy sắm lấy kho tàng ở trên trời, kho tàng không
bị hư hao, không bị mối mọt, không bị trộm cắp”.
Là
Kitô hữu, ta phải ý thức rằng chúng ta không lẻ loi trong cuộc hành hương của
đời sống. Chúng ta thực hiện cuộc hành hương ấy như là những thành viên của một
cộng đoàn sống đức tin. Đức tin của cộng đoàn sẽ nâng đỡ khi đức tin của chúng
ta còn non yếu.
Đồng
thời, giống như người đầy tớ mà Đức Giêsu nói đến, chúng ta phải cố gắng trung
tín với Thiên Chúa và trung tín với nhau. Một trắc nghiệm thật sự về lòng trung
tín là luôn luôn trung tín cho dù gặp cản trở và thất bại, cả khi chỉ là sự
trung tín trong những điều nhỏ bé và tin rằng đời sống chúng ta mới thật sự
quan trọng và chúng ta có thể làm ra cái khác. Chúng ta nên tìm thấy lòng can
đảm và hy vọng trong những lời của Mẹ Têrêsa: “Chúng ta không được kêu gọi để
thành công nhưng chỉ để sống trung thành.”
Huệ
Minh
HỢP HOAN BÊN CHÚA
Lời
Chúa trong thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Thưa
anh em, có người sẽ nói: kẻ chết chỗi dậy thế nào? Họ lấy thân thể nào mà trở
về?
Đồ
ngốc! Ngươi gieo cái gì, cái ấy phải chết mới được sống. Cái ngươi gieo không
phải là hình thể sẽ mọc lên, nhưng là một hạt trơ trụi, chẳng hạn như hạt lúa
hay một thứ nào khác… Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát, mà
chỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang; gieo
xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh
khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí. Nếu có thân thể có sinh khí, thì cũng
có thân thể có thần khí. Như có lời đã chép: con người đầu tiên là A-đam được
dựng nên thành một sinh vật, còn A-đam cuối cùng là thần khí ban sự sống. Loài
xuất hiện trước không phải là loài có thần khí, nhưng là loài có sinh khí; loài
có thần khí chỉ xuất hiện sau đó.
Người
thứ nhất bởi đất mà ra thì thuộc về đất; còn người thứ hai thì từ trời mà đến.
Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về
trời thì giống như Đấng từ trời mà đến. Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình
ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời
mà đến.
Đó
là lời Chúa.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô
theo thánh Lu-ca: 20,27-38
Khi ấy, có mấy người
thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại.
Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su : “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều
luật này : Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì
người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. Vậy nhà kia
có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người
thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ góa ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều
chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy
trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm
vợ ?”
Đức Giê-su đáp :
“Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc
đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả
thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con
cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì
chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức
Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và
Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết,
nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”.
Đó
là lời Chúa.
Suy niệm:
Trong
kho tàng chuyện cổ Tây Phương có câu chuyện Công Chúa Ngủ Trong Rừng, như sau:
Ngày
xưa, ở vương quốc hạnh phúc, nhà vua sinh được một nàng công chúa xinh đẹp
tuyệt vời. Lễ rửa tội được tổ chức linh đình, có mặt các bà tiên, mỗi bà tặng
công chúa một món quà là một lời chúc tốt đẹp.
Dù
không được mời, mụ phù thuỷ ghen tức cũng bay đến, lẩm bẩm câu chúc dữ: “Một
ngày kia, cái suốt chỉ sẽ đâm vào tay công chúa và con bé sẽ phải chết!” Nói
xong, mụ bà bay vù qua cửa sổ.
Mọi
người buồn bã mất vui. May thay, vẫn còn một bà tiên tốt bụng đến trễ. Bà nói:
“Ta sẽ làm nhẹ lời nguyền rủa ấy: cô bé sẽ không chết, chỉ ngủ một giấc rất dài
cho tới khi một hoàng tử tốt lành, sẽ đến nắm tay kéo dậy và cô sẽ được hạnh
phúc mãi mãi”.
Để
đề phòng, nhà vua cấm tất cả thần dân không được dùng suốt chỉ. Nhưng một ngày
kia, công chúa lên tháp canh trong lâu dài và thấy một bà lão đang khâu vá. Cô
xin bà cho khâu thử. Thế là cái suốt chỉ đâm vào tay cô, thế là cô lăn ra chết!
Người
ta đặt xác cô giữa lâu đài, nhưng các bà tiên tốt bụng đã khiến mọi người trong
lâu đài cùng bất tỉnh cả. Một rừng cây mọc lên che phủ lâu đài. Hoa thơm cỏ lạ
bốn mùa đua nở.
Thời
gian trôi đi đã ngàn năm, cho đến khi một hoàng tử lịch lãm đi săn ngang qua
đó, khám phá ra toà lâu đài. Chàng bước vào ngỡ ngàng trước nàng công chúa xinh
đẹp. Hoàng tử đã quì gối cầm tay công chúa, và nàng liền mở mắt chỗi dậy. Thế
là hoàng tử rước công chúa về kinh thành, xin vua cha tổ chức lễ cưới linh
đình.
Có
thể nói công chúa ngủ trong rừng chính là hình ảnh của người tín hữu chúng ta
khi an nghỉ trong ơn nghĩa Chúa. Sau một giấc ngủ dài chúng ta sẽ được Thái Tử
Bình An là chính Chúa Giêsu cầm tay nâng dậy, đưa vào tiệc cưới Nước Trời.
Niềm
tin dạy chúng ta biết rằng: con người sinh ra là để được sống mãi. Cái chết chỉ
là ngưỡng cửa đưa vào chốn trường sinh. Nên nhớ rằng một người chỉ có một cuộc
sống, cuộc sống đời này sẽ quyết định cho số phận đời sau. Việc thiện hôm nay
sẽ là bảo đảm cho hạnh phúc ngày mai. Đúng như câu hát của nhạc sĩ Hoàng Vân:
“Ngày mai, đang bắt đầu từ ngày hôm nay”.
Nhưng
những người thuộc Phái Xa đốc thì trái lại, họ không tin có sự sống đời sau,
cũng chẳng tin có sự sống lại. Tuy nhiên với câu trả lời của Chúa Giêsu trong
bài Tin mừng chúng ta vừa nghe đã khẳng định cho ta biết một vài chân lý quan
trọng của đời sau:
-
Đời sau khác hẳn đời này. Người ta “không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng” vì
con người “không thể chết nữa”, nên đâu cần sinh con để bảo tồn nòi
giống, nhưng được “sống ngang hàng với các thiên thần” là ca
ngợi, tôn vinh và phụng thờ Thiên Chúa. Họ được thông phần vinh quang Thiên
Chúa (Lv 12, 7), được dự phần vào dòng dõi của Người (1 Ga 3, 2).
-
Thánh Phao-lô trong bài đọc 1 cũng đã xác tín chân lý ấy khi nói: “Việc
kẻ chết sống lại cũng vậy. Gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt,
gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà
chỗi dậy thì mạnh mẽ; gieo xuống là thân thể có sinh khí mà chỗi dậy là thân
thể có thần khí.” (1 Cr 15, 42-44).
Quả
vậy, con người được Thiên Chúa dựng nên để sống trường sinh, nhưng vì sự đố kỵ
của ma quỷ mà cái chết đã thâm nhập vào thế gian. Nhưng thánh ý của Thiên Chúa
không thể để cho ma quỷ mãi bị ngăn chặn sự sống bất tử của con người. Lời than
thở của thánh Augúttinô đã nói lên nỗi khát khao sâu thẳm ấy: “Lạy chúa Chúa đã
dựng nên con hướng về Chúa, nên lòng con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ
an trong Chúa”. Chúa dựng nên con người để sống và hưởng hạnh phúc,
nhưng không chỉ là hạnh phúc tạm bợ đời này, mà là hạnh phúc vĩnh hằng đời sau.
Sống
là một cuộc hành trình tiến về đời sau, về với Đấng hằng sống và yêu thương ta
mãi mãi. Nên ta đừng quá mải mê với những hạnh phúc mau qua đời này, cùng với
những lạc thú bên đường mà quên cùng đích của đời mình là sẽ gặp được Chúa.
Ta
thử hỏi: suốt một đời thân xác và linh hồn cùng sống chung, cùng phục vụ bên
nhau, thì không lẽ gì đời sau xác-hồn lại bị tách rời, để được thưởng hay bị
phạt riêng lẽ với nhau. Hơn nữa giả như không có sự sống lại thì sự sống trần
gian còn có ý nghĩa gì ? Và chúng ta sống đời này là để làm gì?
Bao
nhiêu đau khổ hằn ghi trên khuôn mặt của những người bệnh tật, tai nạn; của
những bệnh nhân phong cùi, ung thư, mù, lao, què cụt; của những người bất hạnh
do chiến tranh, kỳ thị chủng tộc, mầu da hay tranh chấp của cải trần thế...
Sống để làm gì và chịu đựng để làm gì, nếu không có sự sống lại của ngày mai.
Bao
nhiêu nam nữ thanh niên sống độc thân vì Nước Trời có còn dám sống không? nếu
không đặt niềm tin vững mạnh vào sự sống lại?
Bao
nhiêu trẻ thơ, bao nhiêu cụ già gìn giữ sự sống từng giây từng phút trong một
thân xác tàn phai để làm gì? Nếu không mong chờ vào giây phút sống lại mai
ngày.
Như
thế thì Lời Chúa hôm nay đem lại cho chúng ta bao niềm hy vọng. Bởi lẽ đời mình
sẽ không đi trong bế tắt hay lạc vào cỏi hư vô, nhưng cuộc đời chúng ta còn có
cùng đích, là trở về với Thiên Chúa, cội nguồn của sự sống vĩnh cửu. Cuộc đời
chúng ta cũng sẽ không chìm đắm trong đau khổ mà vươn lên trong niềm hy vọng
hạnh phúc. Hạnh phúc làm con Thiên Chúa, hạnh phúc được chia sẻ sự sống trong
Thiên Chúa Ba Ngôi.
Ước
gì niềm tin này thôi thúc chúng ta tin tưởng và tích cực sống theo đường lối
của Chúa, để rồi mai này chúng ta đạt đến hạnh phúc nước trời nơi mà Chúa Giêsu
đang chờ đợi chúng ta. Ước gì niềm hy vọng này luôn thúc đẩy chúng ta biết hy
sinh cầu nguyện nhiều hơn, siêng năng tham dự lễ nhiều hơn và làm nhiều việc
lành phúc đức hơn để tích luỹ công đức cho mình và cầu nguyện cách đặc biệt là
cho linh hồn OBACE…là người thân trong gia đình Họ đạo Sóc Trăng chúng ta với
niềm hy vọng OBACE…sớm được Chúa đưa dẫn vào nước trời vui hưởng niềm hoan lạc
vĩnh cửu trong nhà Cha.
Trong
suốt hành trình 66 năm qua trên trần gian, Chúng ta tin rằng với những cố gắng
trong sống đạo trong niềm tin cậy trông vào Chúa Kitô là sự sống và là sự sống
lại, OBACE… sẽ được Chúa ân thưởng hạnh phúc viên mãn trên Thiên quốc, nhờ vào
ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, Đấng giàu lòng xót thương. Amen
VÀO
NƯỚC TRỜI NHỜ KẾT HỢP MẬT THIẾT VỚI CHÚA GIÊSU KITÔ
Bài trích thơ thứ
hai của Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côrintô. (2 Cor 5, l. 6-10)
Anh
em thân mến, chúng ta biết rằng nếu căn nhà chúng ta cư ngụ ở trần gian này bị
phá hủy đi, thì chúng ta có một nơi định cư vĩnh cửu trên trời do Thiên Chúa
thiết lập, chớ không phải do tay người phàm làm ra… Bởi đó chúng ta hằng bạo
dạn, vì biết rằng, bao lâu sống trong thân xác này, là chúng ta lưu lạc xa
Chúa. Vì chưng nhờ đức tin, chớ không phải vì đã thấy, mà chúng ta tiến bước.
Chúng ta cũng bạo dạn và ao ước lìa xa thân xác để ở cùng Chúa. Vì thế, dù ở
trong xác hay ra khỏi xác, chúng ta hãy cố gắng sống đẹp lòng Chúa. Bởi lẽ tất
cả mọi người chúng ta đều phải phơi bày trước tòa án của Đức Kitô, để mỗi người
lãnh lấy thành quả đời sống mình, tùy mình đã làm lành hay làm dữ.
Đó
là lời Chúa.
Tin
Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an
Khi
ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào
Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở ; nếu không,
Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi
dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu,
anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.”
Ông
Tô-ma nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm
sao biết được đường ?” Đức Giê-su đáp : “Chính Thầy là con đường là sự thật và
là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.”
Đó
là lời Chúa.
Suy niệm:
Mỗi
khi tham dự lễ an táng, ai trong chúng ta cũng có một vài suy nghĩ. Riêng tôi,
luôn nghĩ đến điều này là “nay người, mai ta.” Vì tôi tin rằng là người
thì ai rồi cũng sẽ phải chết.
Nhà
triết học lừng danh thế giới là Socrates, cũng đã xác quyết điều ấy trong tam
đoạn luận như sau: “Socrates là người, là người thì ai cũng chết, Socrates là
người nên Socrates cũng chết”. Thực tế cuộc sống cũng đã xác định chân lý ấy.
Bởi từ xưa đến nay, mọi người từ đông sang tây, từ nam chí bắc, từ cổ đến kim
ai ai rồi cũng phải chết.
-
Nhưng sự chết bởi đâu mà ra? Theo quan niệm của người Kitô hữu chúng ta thì sự
chết là do ảnh hưởng bởi tội lỗi. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma đã
khẳng định điểu đó : “Cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế
gian, và do tội lỗi có sự chết, và sự chết đã truyền đến mọi người, vì lẽ
rằng mọi người đã phạm tội.” (Rm 5,6). Thật vậy, Adam và Evà đã
phạm tội bất tuân lệnh Chúa nên tội lỗi đã thấm nhập vào trong thế gian và hậu
quả là sự chết.
-
Vậy thì sau khi chết sẽ như thế nào?
Cho
đến nay vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát, bởi lẽ mỗi người, mỗi tôn giáo, mỗi
nền văn hoá…đều có những quan niệm, phong tục và niềm tin khác nhau.
Trước
vấn đề này thì ông Hoài Nam Tử có quan niệm: “Sinh ký, tử
qui” (nghĩa là sống gửi, chết là về). Nhưng về đâu thì ông vẫn chưa rõ.
Riêng với người Kitô hữu chúng ta, thì tin rằng sau khi chết thì chúng ta sẽ
quy vể trời, bởi chính thánh Phaolô tông đồ đã xác quyết điều ấy qua thư gửi
tín hữu Philipphê: “Quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta
mong đợi Đấng Cứu Chuộc là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (Phil
3,20). Và niềm tin này càng được xác tín hơn nơi bài đọc 1 mà chúng ta vừa nghe:
“Nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này, bị phá huỷ đi, thì chúng
ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi nhà vĩnh cửu trên trời, không
do tay người thế làm ra.” (2Cr 5,1).
Như
vậy với niềm tin kitô giáo, thì chết không phải là hết, mà là được về với Chúa,
được thừa hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong nhà Cha trên trời. Nơi ấy Đức Giêsu đã
đến và đã dọn sẵn chỗ để chào đón chúng ta về với Người, theo như lời hứa với
các môn đệ: “Thầy đi dọn chỗ cho các con. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con,
thì Thầy lại đến, và đưa các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở
đó.” (Ga 14,2-3).
-
Chúa Giêsu rất yêu thương chúng ta và luôn mong muốn chúng ta được ở với Ngài
trong nhà Cha trên trời. Nhưng để được như vậy, đòi buộc chúng ta phải bước
theo con đường mà Chúa đã đi qua. Con đường ấy chính là con đường trần gian
này. Con đường trần ấy chính Chúa Giêsu đã đi qua và đã đạt đến đích là nhà Cha
trên trời. Bình thường người ta chia con đường trần gian này thành 4 giai đoạn:
sinh lão bệnh tử. Để dễ hiểu con đường trần gian này như thế nào, thì một hoạ
sĩ vô danh thời Trung cổ đã tóm tắt qua 4 bức tranh như sau:
-
Bức tranh thứ nhất vẽ bức hình của
một em bé. Một em bé hồn nhiên, vô tư, rất thanh thản ngồi trên một chiếc
ghe buồm vừa nhổ neo rời khỏi bến bờ. Em bé nhìn theo sóng nước mà không chút
sợ hãi vì người đang cầm bánh lái là một thiên thần. Và bóng đen đang ngủ một
cách dịu hiền đằng sau bánh lái.
-
Bức tranh thứ hai vẽ hình của một
chàng thiếu niên đang đứng nhìn chân trời xa tắp, với những háo hức trước những
điều mới lạ. Vị thiên thần vẫn cầm tay lái, nhưng sóng nước bắt đầu nổi lên và
bóng đen cũng đã thức giấc.
-
Bức tranh thứ ba vẽ hình của một người
trưởng thành. Bầu trời trở nên ảm đạm, Sóng gió bắt đầu ập xuống tứ bề. Bánh
lái giờ đã nằm trong tay của bóng đen. Vị thiên thần đã bị trói chặt trong một
góc. Nguuời đàn ông ấy đã phải dùng tất cả sức lực của mình để chiến đấu,
để chiếc thuyền không bị đánh chìm.
-
Cuối cùng bức tranh thứ tư vẽ một cụ già đang ngồi
ung dung giữa chiếc thuyền. Sóng đã yên, gió cũng lặng, mặt trời đã xuất hiện
trở lại. Vị thiên thần cũng đã dành lại được bánh lái, còn bóng đen thì bị trói
chặt đàng sau (Theo Internet).
Những
bức tranh ấy cho chúng ta hiểu rằng: đời người là một cuộc hải trình gay go.
Trần gian là một biển cả mênh mông, mà đời người là một con thuyền lênh đênh
trên biển cả. Biển có lúc yên ả như tờ, có lúc gợn sóng lăn tăn, nhưng
cũng có lúc sóng to gió lớn nổi lên, khiến cho thuyền đời của ta bị chao đảo.
Nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào thì bến bờ bình an vẫn phải là đích điểm mà
mọi người chúng ta phải hướng đến.
-
Nhiều người trong chúng ta đã quen với những trò chơi “Thiên đàng địa ngục” của
các em thiếu nhi. Trò chơi này quy định như sau: Hai em đứng đối diện cầm
tay giơ cao làm thành một cái vòm, những em còn lại vịn vai nhau thành một hàng
dài, vừa khom lưng vừa bước qua cái vòm ấy và đọc mấy câu đồng dao sau:
“Thiên
đàng hoả ngục hai bên.
Ai
khôn thì lại ai dại thì qua.
Đêm
nằm nhớ Chúa nhớ cha.
Đọc
kinh lần hạt kẻo xa linh hồn.
Linh
hồn phải giữ linh hồn.
Đến
khi gần chết được lên thiên đàng”.
Khi
vừa đọc dứt câu “được lên Thiên Đàng” thì cái vòm ấy bất ngờ cụp xuống, chia
thành hai bên, bên đã qua được cái vòm thì lên Thiên Đàng, bên còn lại thi
xuống hỏa ngục, tức bị thua và bị phạt. Trò chơi tuy đơn sơ, nhưng
lại có tính cách giáo dục cao về đức tin, bởi hình ảnh đó sẽ in sâu vào tâm trí
các em, giúp các em ý thức hơn về cuộc đời và vận mạng của đời mình.
Nếu
đời người là một cuộc hành trình như thế, thì con đường chắc chắn nhất đưa dẫn
chúng ta vào thiên đàng chính là con đường chính Chúa Giêsu đã đi qua và mời
gọi chúng ta tiến bước theo, khi Ngài xác quyết với các môn đệ rằng: “Thầy
là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua
Thầy”. Cho nên những ai tin tưởng đi theo Chúa Giêsu thì sẽ không lạc đường
bao giờ.
Chị
Maria…đã bước đi trên con đường Giêsu hơn nửa thế kỷ qua; chị đã tin và đón
nhận lời Chúa làm định hướng cho đời mình, chị cũng đã gắn bó mật thiết với
Chúa Giêsu qua việc đón nhận Thánh Thể thường xuyên, nên ta tin rằng chị đã đi
đúng hướng và sẽ về tới đích. Điều còn lại là chúng ta hãy cầu xin Chúa mở rộng
vòng tay yêu thương đón nhận linh hồn chị Maria vào nhà Cha trên trời, để chị
được chung chia niềm vui vinh phúc thiên đàng muôn đời trong nhà Cha muôn đời.
Amen.
TỈNH THỨC VÀ SẴN
SÀNG
Tin
mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca: Lc 17,
26-37
26 Khi
ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Cũng như thời ông Nôê, sự việc đã xảy
ra cách nào, thì trong những ngày của Con Người, sự việc cũng sẽ xảy ra như
vậy. 27 Thiên hạ ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến
ngày ông Nôê vào tàu, và nạn hồng thủy ập tới, tiêu diệt tất cả. 28 Sự
việc cũng xảy ra giống như vậy trong thời ông Lót: thiên hạ ăn uống, mua bán,
trồng trọt, xây cất. 29 Nhưng ngày ông Lót ra khỏi Xơđôm,
thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất
cả. 30 Sự việc cũng sẽ xảy ra như thế, ngày Con Người được
mặc khải.
31 “Ngày
ấy, ai ở trên sân thượng mà đồ đạc ở dưới nhà, thì đừng xuống lấy. Cũng vậy, ai
ở ngoài đồng thì đừng quay trở lại. 32 Hãy nhớ chuyện vợ
ông Lót. 33 Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất;
còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống. 34 Thầy
nói cho anh em biết: đêm ấy, hai người đang nằm chung một giường, thì một người
sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. 35 Hai người đàn
bà đang cùng nhau xay bột, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ
lại. 36 Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, thì một người
sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại”. 37 Các môn đệ
lên tiếng hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, ở đâu vậy?” Người nói với các ông: “Xác
chết nằm đâu, diều hâu tụ đó”. Đó là lời Chúa.
Suy
niệm :
Tin
Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu dùng biến cố lụt hồng thủy thời ông Nôê và
biến cố thành Sôđôma bị thiêu huỷ thời ông Lót trong lịch sử Cựu Ước, để khuyến
cáo chúng ta rằng con người dễ bị cuốn hút trong những lo lắng cho cuộc sống
hiện tại, như “ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mua bán, trồng trọt, xây cất”.
Những lo lắng này không có gì là xấu, nhưng có thể khiến người ta quên mất điều
quan trọng là luôn tỉnh thức chờ đón ngày Chúa đến một cách bất ngờ.
Tiếp
theo, Chúa Giêsu dùng một số hình ảnh giúp chúng ta hiểu rõ hơn điều đó: Người
đang ở trên sân thượng thì đừng xuống nhà; người đang ở ngoài ruộng cũng đừng
trở về nhà để lấy đồ đạc. Vì khi đó của cải vật chất để đảm bảo cho sự sống ở
đời này không còn quan trọng nữa, điều quan trọng là sự sống ở đời sau trong
Nước Thiên Chúa. Người khôn ngoan thì dám bỏ sự sống phù du kia để đổi lấy sự
sống vĩnh cửu.
Có
những người bề ngoài thì hoàn toàn giống nhau: hai người nằm chung một giường,
hai người đàn bà cùng xay một cối bột, hai người đàn ông cùng làm ruộng ngoài
đồng, nhưng số phận hoàn toàn khác nhau: kẻ có chuẩn bị sẵn sàng thì được đem
đi với Thiên Chúa, còn kẻ không chuẩn bị thì bị bỏ lại trong hư vong.
Các
môn đệ khi nghe Chúa nhắc đến điều này thì tò mò muốn biết nó xẩy đến khi nào?
ở đâu? Trong cách trả lời của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy những câu hỏi tò mò
đó không phải là điều đáng quan tâm, nhưng quan trọng là thái độ sẵn sàng chuẩn
bị của mỗi người.
Thật
ra, ngày của Chúa đến luôn xảy trong từng giây phút của cuộc đời này. Tuy
nhiên, vì quá bận rộn trong cuộc sống hằng ngày làm cho chúng ta mải miết ngụp
lặn trong những lo lắng trần tục, không còn dành chút thời giờ để cầu nguyện và
tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, dẫn đến việc chúng quên mất Ngài đang hiện
diện và đồng hành với chúng ta.
Tham
dự thánh lễ an táng hôm nay, ước gì mỗi người trong chúng ta biết thức tỉnh mà
mau mắn đến gặp gỡ Chúa trong Thánh lễ hàng ngày và đón rước Chúa vào cung lòng
mình, nhờ đó mà tâm hồn của chúng ta cảm nếm được bình an và hạnh phúc vì có
Chúa ở cùng.
Mới đây các nhà khảo cổ đã
tìm ra một thành phố cổ xưa đã bị chôn vùi trong lòng đất hàng ngàn năm, do núi
phun lửa làm cho nham thạch bất ngờ ập xuống thành phố. Rất nhiều người đã bị
chôn vùi trong lớp nham thạch nóng bỏng và chết lập tức.
Nhiều xác chết đã được đào
thấy bị chết khi đang ở trong những tư thế khác nhau: Có người chết khi đang
ngủ trên giường, người khác chết khi đang ngồi bàn ăn. Đặc biệt người ta đào
được xác của một người lính bị chết trong tư thế đang đứng gác và đang cầm một
cây giáo dài trên tay.
Tựa như người lính chiến,
ông Phêrô cũng đã từng cầm lấy khí giới của ánh sáng đức tin và sức mạnh của
cầu nguyện để canh phòng và chiến đấu chống lại mọi âm mưu hãm hại chống phá
của kẻ thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt để bảo vệ cho linh hồn mình được an
toàn, ngang qua
đời sống lương thiện, công bằng, yêu thương và tận tâm phục vụ tha nhân trong
bổn phận hàng ngày.
Và như thế, chúng ta tin rằng ông thật xứng đáng được Chúa ghi nhận và ban thưởng cho ông triều thiên chiến thắng vinh quang trong nước của Ngài.
* VINH
DỰ LỚN LAO LÀ ĐƯỢC CHẾT VÌ CHÚA
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu (Mt 10,17-22)
17 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
Tông đồ rằng: “Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công
nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. 18 Các con sẽ bị điệu
đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại
được biết. 19 Nhưng khi người ta
bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì.
Vì
trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì: 20 vì chưng, không phải
chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con. 21 Anh sẽ nộp em, cha sẽ
nộp con, con cái sẽ chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết.
22 Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen
ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ”. Đó là lời
Chúa.
Suy niệm:
Bài
Tin mừng chúng ta vừa nghe được trích đọc trong ngày hôm nay, ngày mà GH mừng kính Thánh Stêphanô Phó Tế Tử Đạo Tiên Khởi.
Xét
theo góc độ con người với cái nhìn tự nhiên thì khi nghe bài Tin Mừng hôm nay,
hẳn mỗi người trong chúng ta cảm thấy buồn buồn!
Buồn bởi vì niềm vui mừng, hân hoan của cả thế
giới đón chào Chúa Giáng Sinh chưa hết, thì hôm nay, lời Đức Giêsu làm chúng ta
những người làm môn đệ Chúa cảm thấy ngỡ ngàng, khi Ngài phán: “Hãy coi chừng người đời. Họ
sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của
họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy”.
Lời loan báo của Đức Giêsu hình như đi ngược lại với những lời hứa
hẹn của các nhà lãnh đạo thế gian. Thật vậy, khi muốn chiêu mộ ai đó, người đời
thường đưa ra những lời đường mật, an ủi; họ mở ra những con đường đầy hoa thơm
rực rỡ, với đầy những lời hứa hẹn dễ dãi để chiêu dụ chúng ta theo họ. Nhưng với
Chúa Giêsu thì khác hẳn, Ngài lại đưa ra những những thử thách, đau thương và
đôi khi cả cái chết khi làm môn đệ Ngài.
Kinh nghiệm cho thấy, trải qua biết bao thế hệ, hàng hàng, lớp lớp
những môn đệ của Đức Giêsu khắp năm châu đã phải đón nhận những hệ quả tang
thương đó. Tuy nhiên, những đau khổ đó không thể làm chùn chân bước của các môn
đệ. Lớp này ngã xuống, lớp kia đứng lên, đến nỗi những người gây ra những tội
ác đó cũng phải ngỡ ngàng và không hiểu nổi!
Tuy nhiên, đối với chúng ta, những Kitô hữu, thì chúng ta hiểu
được nguyên lý đó, vì: “Hạt lúa cuộc đời
phải mục nát đi thì mới sinh được nhiều bông hạt khác”; hay “Máu các thánh
tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu”. Đây là nguyên lý bất hủ và trường tồn
vĩnh viễn nơi những người con của Chúa. Vì thế, không ai và không có gì có thể
dập tắt được tình yêu của những người “say men Giêsu”.
Mừng kính lễ thánh Têphanô hôm nay, GH cho thấy thánh nhân là một con
người can đảm, anh hùng hào kiệt. Chắc hẳn, thánh nhân đã cảm nghiệm được sâu
xa nguyên lý của hạt lúa trong thân phận tự hủy để trổ sinh nhiều hoa trái.
Chính sự hào hùng, can trường đã làm toát lên đặc tính của những
người thuộc về Đức Kitô là: không bao giờ và không thể chấp nhận thỏa hiệp với
sự dữ, với sự tội. Vì thế, thánh nhân đã hăng say rao giảng về Đức Giêsu, và
sẵn sàng đón nhận chính cái chết để làm chứng về Đấng mà mình yêu mến và tin
thờ. Nên thánh Têphanô xứng đáng lãnh nhận lời khen ngợi của Kinh Thánh
là người “đầy lòng tin và đầy Thánh Thần”.
Trong xã hội ngày nay, nhiều người trong chúng ta còn ái ngại, dè
dặt sống đạo và làm chứng cho niềm tin của mình. Có khi vì cảm thấy sợ hãi,
liên lụy đến tính mạng mà im hơi lặng tiếng để cho qua cầu; hoặc cũng có thể
rơi vào tình trạng như đức Hồng Y Thuận đã nói: họ là những hạng người: “Sợ
tiếng chửi và ăn mày tiếng khen”, nên khi không có lợi cho bản thân là họ sẵn
sàng trở thành kẻ nịnh thần để cho xong chuyện.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta can đảm, trung thành làm
chứng nhân cho Chúa dẫu có gặp nhiều thử thách gian truân. Noi gương thánh
Têpphanô, ta cũng hãy anh dũng sống chết cho niềm tin của mình và hăng hái thi
hành sứ vụ loan báo tin mừng tình thường cứu chuộc của Chúa đến cho nhiều người. Nhờ đó
ta mới xứng là người môn đệ của Chúa, với niềm tin rằng ta cũng sẽ được diễm
phúc lãnh nhận vòng hoa chiến thắng vinh quang trong nước trời như vị phó tế
Stêphanô mà GH mừng kính hôm nay.
Trong suốt hành trình sống đức tin, chắc hẳn ông Phêrô đã cũng
hiểu được chân lý ấy và đã tích cực sống đức tin cũng như cố gắng thi sứ vụ của
người môn đệ Chúa. Cho dầu thuận hay nghịch, vui hay buồn, thành công hay thất
bại trong đời sống, thì đến giây phút cuối đời ông vẫn trung thành với niềm tin
của mình. Ông sẵn sàng chọn Chúa làm lẽ sống và cùng đích của đời mình. Nên
chúng ta có quyền tin tưởng và hy vọng vào lời hứa của Chúa: "ai
bền đỗ đến cùng sẽ được cứu rỗi" (Mt 10,22).
Nguyện xin Chúa giàu lòng thương xót thanh tẩy hết mọi vêt nhơ tội đời của ông Phêrô nếu còn vướn mắc và sớm ban thưởng vòng hoa chiến thắng là hạnh phúc muôn đời cho linh hồn ông Phêrô trong nhà Cha trên trời. Amen. (St)
CHU TOÀN BỔN PHẬN-LỐI SỐNG
KHÔN NGOAN
TIN MỪNG: Mt 25,1-13
Sáng nay,
trong tình hiệp thông, chúng ta quy tụ nhau nơi đây để tiếp đón cụ bà Maria, và
hiệp dâng thánh lễ cuối cùng với bà trước khi tiển đưa bà đến nơi an nghỉ cuối
cùng.
Với cái nhìn
đức tin, chúng ta cùng với bà dâng lời cảm tạ Thiên Chúa về những chuỗi ngày mà
cụ đã được sống trên trần gian này. Được Chúa cho làm người và người con Chúa.
Được sống trong lòng GH, được cộng đoàn Họ đạo thương mến, đỡ nâng; được lời Chúa
hướng dẫn và được Mình Thánh Chúa nuôi dưỡng…
Ý thức những
hồng ân của Chúa, bà cũng đã nỗ đáp lại bằng niềm tin kiên vững vào Chúa, đã
tích cực sống theo lời Chúa dạy, đã không ngừng hy sinh phục vụ, đã gắn kết với
Chúa bằng đời sống cầu nguyện trong suốt cả gần một thế kỷ qua trở nên bà xứng
đáng được Chúa đón nhận vào nước trời.
Tuy nhiên vì mang thân
phận con người nên bà cũng không tránh khỏi những lầm lỗi thiếu sót trong cuộc
sống, thì với lời cầu nguyện và những của lễ hy sinh của chúng ta, xin Chúa
thương tha thứ để bà sớm được hưởng niềm vui muôn đời trong nước trời.
Tin mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu báo trước cho
các môn đệ và dân chúng biết rằng Ngài sẽ trở lại trần gian trong ngày sau
hết, nên mọi người phải chuẩn bị sẵn sàng để đón Ngài. Nhưng điều khiến mọi
người phải lưu ý là Ngài sẽ trở lại rất bất ngờ, không ai có thể đoán
được. Để nói lên tính chất bất ngờ ấy, Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn về năm cô trinh
nữ khôn ngoan và năm cô trinh nữ khờ dại đi đón chàng rể.
Mười cô trinh nữ trong dụ ngôn, tượng trưng cho
tất cả chúng ta: nam cũng như nữ, giáo dân, tu sĩ hay giáo sĩ. Có người khôn
ngoan vừa đem đèn vừa mang dầu, nhưng lại có người dại khờ đem đèn mà không đem
dầu theo.
Dụ ngôn nhấn mạnh đến việc chàng rể đến chậm, nghĩa là
không biết giờ nào Chúa đến, nên cần phải sẵn sàng.
Trong dụ ngôn, có một vài chi tiết đáng lưu ý như
là: cửa đóng lại, hay như câu đáp của chú rể với các cô khờ dại xem ra không
bình thường trong một đám cưới tự nhiên. Nhưng chính những chi tiết bất
thường ấy lại làm nổi bật lên ý nghĩa thiêng liêng là: người ta chỉ chết có một
lần mà thôi, không có cơ hội để làm lại nếu không chuẩn bị sẵn sàng.
Năm cô khôn ngoan cũng ngủ như năm cô khờ dại,
thế mà được coi là có thái độ tỉnh thức, bởi vì tuy ngủ nhưng họ đã chuẩn bị
sẵn sàng những thứ cần thiết. Như thế, tỉnh thức không phải là lúc nào cũng
lăng xăng làm việc, tỉnh thức cũng không phải là không được nghỉ ngơi. Tỉnh
thức là chu tòan trách nhiệm. Khi trách nhiệm chưa xong thì phải lo cho xong,
khi đã xong rồi thì có quyền nghỉ ngơi. Cách sống của 5 cô khờ dại là “mặc kệ,
tới đâu thì tính tới đó”. Đó là cách sống của những người gần chết mới nghĩ tới
việc lo cho linh hồn mình.
Ai cũng phải chết, đó là chân lý. Tác giả Thánh vịnh
102 đã nói đến điều đó:
Kiếp phù sinh tháng ngày vắn vỏi
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng
Một cơn gió thỏang là xong
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình. (Tv 102,15)
Qủa vậy, chết là một thực tại, không ai chối cãi được.
Nên rất cần phải dọn mình để chết lành. Muốn chết lành phải sống lành. Sống lành là chu toàn tốt những bổn
phận của mình hàng ngày trước mặt Chúa.
Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta phải làm những việc lớn
lao, hiển hách vượt quá sức chúng ta, mà Ngài chỉ đòi buộc chúng ta cố gắng làm
lành qua việc chu toàn tốt những bổn phận do Chúa trao phó. Đối với người Kitô hữu chúng ta, chu toàn bổn phận chính là thái
độ của người tỉnh thức đón chờ Chúa đến.
Trải qua chặng đường khá dài 91 năm trên trần gian này, cụ
bà Maria đã cố gắng làm những việc lành bằng cách chu toàn thật tốt những bổn
phận Chúa trao.
Với Chúa bà đã kiên vững gìn giữ ngọn đèn đức tin của
mình luôn cháy sáng cho đến giây phút cuối cùng, dẫu biết rằng trên cuộc hành
trình đức tin, lắm khi bà cũng phải đối mặt với những phong ba bảo táp bên trong
và bên ngoài gây ra.
Với mọi người, bà luôn vâng nghe theo lời Chúa dạy thực
thi đức công bình và sống tình bác ái, yêu thương. Nhất là nơi gia đình, bà đã
hoàn thành tốt bổn phận làm vợ, làm mẹ, làm bà trong hy sinh phục với tất cả
trách nhiệm với tình yêu mến.
Với những hy sinh cố gắng làm
những việc lành bằng cách chu toàn những bổn phận hàng ngày trong suốt hành trình sống trên trần gian này với lòng tin tưởng
và yêu mến Chúa, chúng ta có quyền tin rằng bà
sẽ được đứng vào
hàng ngũ các cô khôn ngoan, và xứng đáng được chàng rể Giêsu đưa vào nước trời
tham dự bàn tiệc vui muôn đời.
Để kết thúc, tôi xin mượn câu chuyện sau đây để nhắc
nhở chúng ta những người còn sống:
Người kia có
ba người bạn: trong đó có 2 người bạn rất thân, người bạn thứ ba bình thường
vậy thôi. Ngày kia, anh bị bị bắt và đưa ra tòa bắt xử, khi ấy anh liền xin 3
người bạn đi theo để biện hộ.
Người bạn
thứ nhất từ chối ngay, diện lý do là bận việc quá không đi được.
Người thứ
hai bằng lòng đi nhưng khi đến cửa quan anh lại không dám vào.
Chỉ có người
thứ ba tuy không được anh yêu thích nhưng người bạn này lại trung thành vào tận
tòa án để biện hộ cho anh ta, không những trắng án mà còn được thưởng nữa.
Người bạn
thứ nhất là Tiền bạc. Khi chết, tiền bạc bỏ rơi ta, chỉ để lại cho ta một chiếc
chiếu và một cái hòm.
Người bạn
thứ hai là Bà con Bạn hữu. Họ khóc lóc đưa ta tới huyệt rồi cũng ra về.
Người bạn thứ ba là các việc lành. Chúng sẽ theo ta đến tận tòa phán xét và chính nhờ những việc lành ấy mới đưa ta vào cửa Thiên đàng để được Chúa ban thưởng vinh phúc đời đời.
THẦY ĐI ĐỂ DỌN CHỖ CHO CÁC CON
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thết tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc
đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon. Trên núi này, Người sẽ cất khăn
tang bao trùm muôn dân và tấm khăn liệm trải trên mọi nước. Người tiêu diệt sự
chết đến muôn đời. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt, và cất
bỏ khỏi toàn mặt đất sự tủi hổ của dân Người, vì Người đã phán. Ngày đó, người
ta sẽ nói: Này đây Chúa chúng ta. Đây là Chúa, nơi Người, chúng ta đã tin
tưởng, chúng ta hãy hân hoan và vui mừng vì ơn Người cứu độ, vì Chúa sẽ đặt tay
của Người trên núi này. Đó là lời
Chúa.
Tin mừng: Ga 14,1-6
1 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ
rằng: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.
2 Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu
không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. 3 Và
khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với
Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó.
4 Thầy đi đâu, các con đã biết đường
rồi”. 5 Ông Tôma thưa Người rằng: “Lạy Thầy, chúng
con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi ?”
6 Chúa Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. Đó là lời Chúa.
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, chúng ta quy tụ
nơi đây để tiễn đưa bà Têrêsa về nơi an nghỉ cuối cùng. Có lẽ ai trong chúng ta
cũng đều mang tâm trạng buồn bã, xót thương. Tuy nhiên, bên cạnh nỗi buồn, tiếc
thương ấy chúng ta vẫn có niềm hy vọng vì tin tưởng vào sự sống mai sau, sự
sống vĩnh hằng.
Bài Tin Mừng mà chúng ta
vừa nghe mang đến cho chúng ta niềm an ủi và hy vọng tràn đầy. Vì chính Chúa
Giêsu đã hứa với các môn đệ cũng như tất cả chúng ta rằng: "Nhà
Cha của Thầy có nhiều chỗ ở. Nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi
dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem
anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó."
Lời hứa này của Chúa Giêsu
mang một ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Nó cho chúng ta biết rằng, Thiên đàng, nhà
Cha của mỗi người chúng ta là một nơi vô cùng rộng lớn, có thể chứa đựng tất
cả mọi người. Nơi đó, không còn sự đau khổ, bệnh tật, chết chóc, tang chế, nước
mắt nữa. Thay vào đó, chỉ có niềm vui, sự bình an và hạnh phúc vĩnh cửu, đúng như
lời tiên tri Isaia đã tiên báo trong bài đọc 1.
Vì mang lấy thân phận con
người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi nên Chúa Giêsu cũng đã chết, tuy nhiên Ngài
đã phục sinh và thăng thiên về nhà Cha, nhằm dọn sẵn chỗ ở cho chúng ta, rồi
Ngài cũng sẽ trở lại để đón nhận chúng ta về nơi ấy ở với Ngài, hưởng niềm hạnh
phúc muôn đời trong nhà Cha muôn đời.
Vì thế trong niềm tin vào
mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu, người kitô hữu chúng ta xác tín rằng sự
chết không phải là kết thúc tất cả mà chỉ là cửa ngỏ bước vào một cuộc sống mới
trong vinh quang, là lúc chúng ta được giải thoát khỏi mọi đau khổ trần gian,
được vào thiên đàng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong nhà Cha trên trời.
Vì thế cho dẫu sự ra đi của bà Têrêsa đã để lại cho chúng ta, nhất là cho con cháu và người thân trong gia đình của bà những nỗi buồn luyến tiếc vì còn đó biết bao kỷ niệm đẹp mà bà đã dành cho những người thân của bà trong suốt 86 năm qua. Giờ đây, tuy bà đã rời ra xa chúng ta, nhưng tôi tin rằng những ký ức về bà sẽ không bao giờ chết đi. Những lời nói, cử chỉ, việc làm chan chứa tình yêu thương; sự quan tâm, chăm sóc ân cần của bà dành cho con cháu sẽ luôn sống mãi trong tâm trí của mỗi người chúng ta.
Chúng ta hãy trân quý và lưu giữ mãi những kỉ niệm đẹp ấy về bà và hãy cố gắng bắt chước bà sống nhân ái, chan hòa với mọi người, nhất là luôn yêu thương và hy sinh phục vụ hết mình cho gia đình, trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc cho những người thân yêu của mình.
Sự ra đi của bà Tê-rê-sa là một mất mát to lớn đối với gia đình và mọi người xung quanh. Tuy nhiên, chúng ta cũng tin rằng bà sẽ được Chúa cho sống lại và an hưởng bình an trong bàn tay yêu thương của Chúa trong hạnh phúc vĩnh cửu.
Hiệp nhất trong thánh lễ
hôm nay, chúng ta hãy tha thiết xin Chúa thanh tẩy linh hồn bà Tê-rê-sa khỏi mọi
vết nhơ bụi trần nếu bà còn vướn mắc, nhờ đó bà mới xứng đáng được Chúa cho vào
hưởng hạnh phúc muôn đời trong nhà của Ngài thiên quốc.
Chúng ta cũng không quên cầu xin cho những người thân yêu của bà có thêm sức mạnh đức tin và niềm hy vọng vào quyền năng và tình thương Chúa, để mọi người sớm vượt qua nỗi buồn mất mác lớn lao này. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét