Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 28 tháng 4, 2011

CHÚA NHẬT II PHỤC SINH NĂM A

KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
( Ga 20,19-31)

BÀN TAY CỦA YÊU THƯƠNG

Truyện kể
Trong một tiết dạy vẽ, cô giáo bảo các em học sinh lớp một vẽ điều gì đã làm các em thích nhất trong đời. Cô thầm nghĩ: “ chắc rồi các em cũng lại vẽ những gói quà, những ly kem hoặc những món đồ chơi, quyển chuyện tranh…”. Thế nhưng cô đã hoàn toàn ngạc nhiên trước một bức tranh lạ của em học sinh tên là Douglas: Bức tranh vẽ một bàn tay!
Nhưng đây là bàn tay của ai? Cả lớp bị cuốn hút bởi hình ảnh đầy biểu tượng này. Một em đoán: “ Đó là bàn tay bác nông dân”. Một em khác cho rằng: “ Bàn tay thon thả thế này phải là bàn tay của một bác sĩ giải phẩu…”. Cô giáo đợi cả lớp bớt xôn xao dần rồi mới hỏi tác giả. Douglas cười ngượng ngịu: “ Thưa cô, đó là bàn tay của cô ạ!”.
Cô giáo ngẫn ngơ. Cô nhớ lại những phút ra chơi, cô thường dùng bàn tay để dắt Douglas bước ra sân, bởi em là một cô bé tật nguyền, khuôn mặt không được xinh xắn như các bạn trẻ khác, gia cảnh từ lâu lâm cảnh ngặt nghèo. Cô chợt hiểu ra, tuy cô vẫn làm điều tương tự với các em khác, nhưng hóa ra đối với Douglas, bàn tay cô lại mang một ý nghĩa sâu xa, một biểu tượng của tình yêu thương.

Nếu bàn tay cô giáo là hình ảnh đẹp nhất trong tâm hồn em bé khuyết tật Douglas, thì Bàn Tay Chúa Giêsu phải là hình ảnh tuyệt vời nhất đối với nhân loại. Bởi lẽ  bàn tay ấy mang đầy những dấu vết của lòng yêu thương. Vì thế mỗi lần hiện ra với các tông đồ, đặc biệt với Tôma qua đoạn tin mừng hôm nay, Chúa đều mời gọi các tông đồ xem đôi bàn tay của Người.

BÀN TAY  MANG DẤU VẾT TÌNH YÊU ĐỐI VỚI CHÚA CHA

Chúa Giêsu luôn hướng về Chúa Cha bằng một tình yêu mật thiết, được thể hiện qua đôi bàn tay của cầu nguyện.
Đôi bàn tay hướng về Cha trong tư thế cầu nguyện mỗi khi bắt đầu ngày sống, xin Cha hướng dẫn và ban ơn giúp sức để những việc làm trong ngày sống được hoàn thành tốt đẹp theo ý Cha.
Đôi bàn tay hướng về Cha suốt đêm dài, mỗi khi quyết định những việc làm quan trọng. Xin Cha ban ơn sáng suốt để chọn lựa điều tốt nhất, theo ý muốn của Cha.
Đôi bàn tay từng cầm bánh và rượu đưa lên cao hướng về Chúa Cha để chúc tụng, tạ ơn. Xin Cha chúc lành cho những lương thực hưởng dùng.
Đôi bàn tay đưa cao hướng lên trời, kêu xin sự sống cho La-da-rô.
Bàn tay chấp lại trong lo sợ, thiết tha khẩn cầu xin Cha cất khỏi chén đắng trong tinh thần phó thác.
Bàn tay dang rộng trên thập giá đau đớn vang xin Chúa Cha tha thứ cho những người giết hại mình.

BÀN TAY MANG DẤU VẾT YÊU THƯƠNG CON NGƯỜI

Đôi bàn tay Chúa Giêsu luôn hướng đến con người để cảm thông chia sẻ và giúp đỡ bằng tình yêu hy sinh.
Bắt đầu bằng đời sống lao động vất vả nơi gia đình Nazarét. Bàn tay từng cầm cưa, búa, đục để làm mộc cùng với thánh Giuse lo của ăn cho gia đình.
Bàn tay sẵn sàng mở ra ban ơn tha thứ biết bao tội nhân biết ăn năn sám hối như Maria Macdala, cho ngưuời phụ nữ ngoại tình, cho Giakêu…, đã chữa lành biết bao người đau ốm, bằng cách đặt tay trên mắt người mù bẩm sinh, trên tai và lưỡi của người câm điếc, trên thịt da lỡ lóe của người mắc bệnh hủi, trên trán giá lạnh của con gái Giairô, trên tay nóng sốt của bà nhạc mẫu Phêrô….
Bàn tay quyền thế đã truyền khiến giông tố và sóng gió yên lặng, đã cầm roi xua đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đến thờ, đã xua trừ ma quỷ, đã chúc dữ cho những người biệt phái.
Bàn tay bị đâm thủng, nơi ấy vẫn còn lỗ đinh được ghi lại tình yêu Chúa dành muôn thế hệ.
Bàn tay bị nộp cho lý hình, bị đóng đinh vào thập giá và phải mang lấy thân xác nặng nề đau xé suốt ba giờ liền trên thập giá. Tất cả chỉ vì tình yêu con người.

Khi mời gọi các tông đồ nhìn xem tay Chúa vừa để chứng thực chính Người là Thiên Chúa Tình Yêu; vừa để mời gọi các ông học lấy bài học yêu thương “như Người đã yêu”.
Khi mời gọi các tông đồ nhìn vào đôi bàn tay của Chúa là để nhắc nhở các ông không chỉ thi hành mệnh lệnh loan báo tin mừng trên môi miệng mà còn phải thực hiện lời rao giảng trên đôi tay mở ra để giúp đỡ những người bé nhỏ, nghèo nàn, yếu đau. An ủi những ai đau khổ, bất hạnh và vỗ về những ai cô đơn, tội lỗi. Hàn gắn những gia đình bị rạng nứt và đổ vỡ.
Nhìn bàn tay Chúa để các tông đồ hiểu rằng việc truyền giáo sẽ không bao giờ đạt kết quả, nếu thiếu đời sống cầu nguyện.
“ Hãy xin với chủ ruộng” 
Đôi bàn tay giơ cao hướng về Chúa để xin ơn. Xin Chúa ban ơn soi sáng, lòng nhiệt thành và sức mạnh cho những nhà truyền giáo. Xin Chúa đánh đọng lòng người tiếp nhận tin mừng. Xin Chúa chúc lành cho công cuộc truyền giáo.
Đôi bàn tay dang rộng hướng về tha nhân, bằng cách chấp nhận chịu đâm thủng của những dấu đinh vất vả, hy sinh, đau khổ vì tình yêu.

Bàn tay yêu thương đó được minh chứng nơi cộng đoàn tín hữu đầu tiên.
Họ đồng tâm hướng đôi bàn tay về Chúa bằng đời sống cầu nguyện, bằng lắng nghe Lời Chúa và lời giảng dạy của các tông đồ, cùng hiệp nhau trong nghi lễ bẻ bánh.
Họ cũng dùng bàn tay hướng về anh em để chia sẻ trong tình bác ái. Tự nguyện dùng tài sản riêng làm của chung. Chấp nhận bán hết tài sản để trợ giúp cho người túng thiếu. Họ cư xử với nhau như anh em một nhà. Chính đời sống ấy lôi cuốn biết bao người xin gia nhập Kitô giáo.
Sứ mạng loan báo tin mừng tình thuơng được Chúa phục sinh trao ban cho các tông đồ, qua các tông đồ cho các kitô hữu đầu tiên và hôm nay sứ mạng ấy Chúa trao lại cho mỗi người chúng ta!
Lạy Chúa trong cuộc sống thường ngày, xin cho chúng ta biết xử dụng đôi bàn tay của mình. Một bàn tay nắm chặt bàn tay Chúa bằng đời sống cầu nguyện. Bàn tay kia nắm chặt lấy tay tha nhân bằng những hành động bác ái yêu thương, để rồi chúng con đặt bàn tay của nhau vào bàn tay Chúa nhờ thế tình yêu Chúa được đơm bông kết trái khắp nơi.


LÝ TRÍ VÀ ÐỨC GIÊSU PHỤC SINH
 
Lm. Mark Link S.J

     Giả như chúng tôi mời một anh chị em lên tòa giảng và bịt mắt anh chị em đó lại, rồi chúng tôi đặt một sô nước trước mặt anh chị em đó, và hỏi anh chị em đó đoán xem nó rỗng hay đầy. Có ba cách trả lời câu hỏi đó mà không cần phải cởi khăn bịt mắt ra. Ba cách đó thế nào?
     Cách thứ nhất là đến thẳng xô nước và thò tay vào xem có nước trong đó không. Nói cách khác, anh chị em có thể kiểm nghiệm trực tiếp xem xô ấy đầy hay rỗng. Cách này được gọi là kinh nghiệm. Ðây là tri thức mà chúng ta có được bằng kinh nghiệm trực tiếp. Ðó là tri thức do giác quan.
     Cách thứ hai để biết cái xô ấy có chứa nước hay không là thả vào đó một vật, chẳng hạn một đồng xu. Nếu vật ấy chạm vào đáy xô tạo nên một âm thanh vang và to, anh chị em sẽ biết ngay cái xô ấy rỗng. Nhưng nếu đồng xu ấy chạm tạo nên âm thanh không rõ hoặc có những hạt nước bắn tóe ra, anh chị em biết ngay cái xô ấy có nước. Tri thức này có được là nhờ lý luận.
     Cách thứ ba để biết xem cái xô ấy có nước hay không là hỏi thăm người nào mà anh chị em tin cậy. Người ấy có thể nhìn vào cái xô và nói cho anh chị em biết trong ấy có nước hay không. Cách biết này do tin vào người khác mà biết. Ðó chính là tri thức có được do niềm tin.
     Kinh nghiệm, lý luận và tin tưởng đó chính là ba cách thức để biết ở đời này.
     Bây giờ chúng ta hảy xét đến một câu hỏi khác, câu hỏi thứ hai.
     Trong ba cách để biết ấy, có cách nào giúp chúng ta biết được nhiều hơn cả
   Chúng ta biết được điều này điều kia là do kinh nghiệm bằng giác quan, hay do đầu óc suy luận, hay do tin tưởng vào người khác?
     Nếu anh chị em trả lời là do niềm tin, do sự tin tưởng nơi người khác, thì anh chị em đúng hoàn toàn. Hầu hết chúng ta biết được điều này điều kia là do chúng ta tin vào những gì người khác nói với chúng ta. Có một nhà chuyên môn ước lượng rằng 80% những kiến thức của chúng ta là do tin tưởng vào người khác mà có.
     Chẳng hạn, trong chúng ta ít có ai được may mắn du hành quanh thế giới. Cách duy nhất, để chúng ta biết về phần lớn các quốc gia trên thế giới là do người khác nói cho chúng ta biết. Nóí cách khác, chúng ta tin vào những người đã từng đến nhữmg nơi ấy. Nếu họ kể cho chúng ta rằng có một xứ sở nọ tên là Trung Hoa, và dân chúng ở đó thế này thế kia, chúng ta sẽ tin họ.
     Phương cách để chúng ta có được những tri thức thông thường còn nhận thức như thế, thì cách thức để chúng ta có được những tri thức tôn giáo càng chân thực hơn nữa. Phần lớn tri thức tôn giáo mà chúng ta có là do chúng ta tin vào những gì Kinh thánh kể lại cho chúng ta. Nói cách khác, phần lớn tri thức tôn giáo của chúng ta là do niềm tin.
     Bây giờ chúng ta xét đến câu hỏi thứ ba. Chúng ta có thể hiều biết những thực tại tôn gíao cũng bằng ba cách mà chúng ta thường dùng để hiều biết những thực tại thông thường không?     Chẳng hạn, chúng  ta có thể biết Ðức Giêu sống lại từ cõi chết không phải chỉ nhờ tin những gì Kinh Thánh nói, mà còn nhờ vào suy luận nữa không? Có nhiều người nghĩ rằng được. Họ giải thích rất hấp dẫn. Họ lập luận rằng sau khi Ðức Giêsu chết, các môn đệ bị khủng hoảng tinh thần tột độ. Họ chỉ còn là một nhóm người đại bại, một nhóm người thất chí, một nhóm người nhát sợ. Thế rồi vào Chúa nhật Phục Sinh, có một biến cố nào đó đã xảy ra cho đám người đang bị khủng hoảng, thất chí, sợ hãi này. Có một biến cố nào đó đã biến đổi họ một cách không thể tưởng tượng được. Có một biến cố nào đó thay đổi con người họ một cách thật lạ lùng, Bỗng nhiên lòng họ bừng lên niềm vui, niềm hạnh phúc thật sự. Họ không thể cầm lòng được. Họ vội chạy đi loan báo cho mọi người rằng  Ðức Giêsu đã sống lại và hiện đang sống. Họ tin điều ấy một cách chắc chắn đến độ họ thà sẵn sàng chịu bắt bớ bách hại đủ kiểu đủ cách, dầu là phải chết, còn hơn phải chối bỏ Ðức Chúa đã Phục sinh của họ.
     Ðời sống và lời giảng của nhóm người này đã thay đổi cục diện lịch sử nhân loại. Không một giả thuyết nào có thể giải thích được tại sao đời sống họ lại có thể biến đổi như thế, ngoại trừ cách gỉai thích của chính họ: Họ đã thấy Ðức Giêsu hiện còn sống.
     Giả như nhóm người thất học này đã phịa chuyện về Ðức Giêsu và sự Phục sinh của Ngài thì chắc chắn ta phải chấp nhận rằng sớm hay muộn, ít nhất phải có một người trong bọn sẽ phải nói ra sự thật, Vì không chịu nổi sự bách hại và giết chóc.
     Nhưng không một ai trong nhóm ây đã làm thế, lời chứng của họ về Ðức Giêsu sống lại không bị lay chuyển chút nào. Ngược lại, lời chứng ấy càng ngày càng mạnh mẽ và ảnh hưởng tới mọi người hơn. Họ đã cảm nghiệm được một năng lực mới lạ và diệu kỳ đã khiến họ thực hiện được nhiều phép lạ. Chính sự biến đổi không thể nào giải thích được nơi các môn đệ Ðức Giêsu khiến cho nhiều người nói rằng chính lý trí cũng minh chứng rằng Ðức Giêsu đã phục sinh. Nói cách khác, lý trí thuần lý cũng xác quyết rằng một biến cố nào đó rất ngoạn mục đã xảy ra làm biến đổi các môn đệ Ðức Giêsu. Lý trí thuần lý xác nhận rằng sự Phục Sinh của Ðức Giêsu thực sự đã xảy ra.
     Anh chị em cũng như tôi đều không được đặt tay vào cạnh sườn Chúa Giêsu như Thánh Tôma, để trực tiếp cảm nghiệm được Ðức Giêsu đã phục sinh từ cõi chết. Tuy nhiên chúng ta có thể tin tưởng vào chứng cứ của Thánh Kinh. Chúng ta cũng có thể làm hơn thế nữa. Chúng ta cũng có thể sử dụng tặng phẩm Chúa ban là lý trí để xác quyết thêm điều Kinh Thánh đã truyền dạy chúng ta. Và rồi, chúng ta cũng có thể quỳ gối xuống như Thánh Tôma đã làm và thưa với Chúa Giêsu: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con". Ðáp lại Chúa Giêsu nói với chúng ta: "hạnh phúc biết bao cho kẻ chẳng thấy mà vẫn tin".
     Ðể kết thúc chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
     Kính lạy Chúa, bất cứ khi nào đức tin chúng con bị chao đảo, giống như trường hợp của Thánh Tôma, thì xin Ngài hãy nhắc chúng con nhớ lại những lời Kinh thánh thuật lại về những biến cố đã xảy ra vào ngày Chúa Nhật Phục Sinh. Cũng xin Chúa nhắc chúng con nhớ biến cố này không chỉ gây ảnh hưởng trên các môn đệ Chúa Giêsu mà còn trên toàn dòng lịch sử. Và nhất là, xin nhắc cho chúng con biết tham dự vào Tin Mừng Phục Sinh của Ngài với tha nhân chung quanh chúng con, giống như các môn đệ đã chia sẻ niềm vui ấy cho quần chúng quanh họ. Chúng con nguyện xin nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XIV THƯỜNG NIÊN Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN B Ed 2,2-5; 2Cr 12,7-10; Mc 6,1-6 Suy niệm 1: ...