Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2022

 

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN III PHỤC SINH

 

Lm. Vĩnh Hòa

Nếu chỉ còn một ngày để sống,

hãy để cho Lời Chúa được sống trong tim mình

và lòng thương xót Chúa được lan tỏa khắp nơi!

 

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH C

Cv 5,27b-32.40b-41; Kh 5,11-14; Ga 21, 1-14

Suy niệm 1:

Tin mừng hôm nay tường thuật lại sự kiện Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với các tông đồ ở biển hồ Tibêria, giúp các ông đánh bắt được một mẻ cá đầy. Xin Chúa ban ơn và trợ giúp chúng ta, để những công việc hàng ngày của chúng ta đạt được nhiều kết quả tốt đẹp theo như ý Chúa muốn.

Khi hiện ra với các bà phụ nữ sau khi phục sinh, Chúa Giêsu bảo các bà về báo tin cho các môn đệ đến Galilê để gặp Người. Nghe theo lời loan báo những người phụ nữ các môn đệ trở về Galilê. Trong tâm trạng buồn bã, các ông rủ nhau đi đánh cá. Tuy các ông là những những đánh cá chuyên nghiệp, vậy mà cả đêm hôm ấy các ông chẳng bắt được con cá nào. Thất vọng, mệt mỏi nên các ông cuốn lưới định nghỉ ngơi, thì ngay lúc đó, Chúa Giêsu hiện đến, bảo các ông thả lưới bên phải thuyền, nơi gần bờ. Các ông tin vào Lời ấy mà tiếp tục thả lưới. Kết quả, các ông đã đánh được một mẻ cá đầy, không sao kéo lên nỗi. Bấy giờ, Gioan mới nhận ra nói đó là chính Chúa, Phêrô nhanh chóng mặc ngay áo vào, rồi nhảy xuống biển, bơi nhanh vào bờ.

Trên bờ, Chúa Giêsu đã chuẩn bị sẵn bữa ăn sáng cho các ông với cá nướng và bánh. Trong bữa ăn Người cầm bánh và cá trao cho các ông, một cử chỉ quen thuộc, giúp các ông xác tín thật sự Chúa đã Phục sinh.
Lời Chúa hôm nay nhằm xác quyết cho chúng ta hiểu rằng: “không có Ta, các ngươi không làm gì được”. Bằng chứng, Các môn đệ đã vất vã, cực nhọc suốt đêm mà chẳng có gì. Nhưng khi có sự hiện diện của Chúa, các ông bắt được rất nhiều cá.

Xin cho chúng ta đừng bao giờ kiêu căng, tự mãn về những hiểu biết về khả năng của mình, nhưng luôn biết khiêm tốn nhìn nhận giới hạn của mình mà biết tin tưởng và khiêm tốn vâng nghe theo sự hướng dẫn của Chúa.

 

Suy niệm 2:

Tin mừng hôm nay trình thuật lại kiện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với bảy môn đệ bên biển hồ Tibêria, miền Galilêa. Như chúng ta biết, khi Chúa phục sinh hiện ra với các bà phụ nữ đạo đức, sau khi chấn an và ban niềm vui phục sinh cho các bà, Chúa Giêsu nhắn với các bà về hãy loan báo cho các môn đệ của Người đến Galilêa để gặp Người ở đó.

Nghe theo lời của các bà loan báo, các tông đồ cùng nhau đi về vùng Galilê để chờ đợi gặp gỡ Chúa. Nhưng trong lúc chờ đợi, với tâm trạng buồn chán, ông Simon Phêrô đề nghị các ông khác xuống thuyền để đánh cá. Tuy nhiên suốt đêm ấy, các ông không đánh bắt được con nào, dẫu rằng các ông là những ngư phủ chuyên nghiệp.

Một buổi sáng thất vọng và mệt mỏi cần sự nghỉ ngơi lấy sức lại sau một đêm dài thức trắng. Bổng nhiên một sáng tia hy vọng lé lên, bởi một ai đó từ trên bờ quan tâm gửi lời thăm hỏi yêu thương, sau đó lại ân cần đề nghị các ông tiếp tục thả lưới bên phải thuyền. Lời đề nghị ấy như có ma lực thúc bách các ông làm theo mà không chút suy tính. Và kìa, thật bất ngờ! chỉ với một mẻ lưới đầu tiên của bình minh ngày mới mà các ông đã bắt được rất nhiều cá “hầu không kéo nổi lưới lên”.

Với cái nhìn đức tin và sự cảm nhận sâu xa của con tim nhạy bén, ngay tức khắc Gioan đã nhận ra đó là Thầy mình nên đã nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Rất đổi vui mừng “Phêrô liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo”.

Trên bờ, Chúa Giêsu đã nhóm ngọn lửa hồng ấm áp và nướng cá sẵn sàng để chuẩn bị cho các tông đồ một bữa ăn sáng thơm ngon vì bụng đói. Khi ngồi ăn quây quần bên nhau, nhưng không ai dám hỏi: "Ông là ai? Vì mọi người đã biết là Chúa”. “Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại”.

Chúa Phục sinh luôn hiện diện bên đời chúng ta, ngài hiện diện nơi làm việc thường ngày của ta. Ngài thấy và thấu hiểu những ước muốn cũng như về tất cả những gì chúng ta gặp phải trong đời sống. Điều quan trọng là chúng ta phải luôn ý thức sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa trong đời mình. Nhất là những lúc gặp khó khăn thất bại, chúng ta hãy vững tin rằng Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Trong những lúc ấy chúng ta đừng quên Chúa nhưng hãy tích cực chạy đến với Người với tất cả niềm tin tưởng phó thác vào tình thương và uy quyền của Chúa. Bởi lẽ chỉ có Chúa mới yêu thương ta nhất và Người mới có quyền thay đổi số phận và cuộc đời chúng ta, “ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 127,1).

 

Thứ hai

Suy niệm 1: Cv 6, 8-15

Sách công vụ tông đồ thuật lại cuộc tranh luận giữa thầy phó tế Stêphanô với những người thuộc nhóm hội đường, gọi là hội đường của “nhóm nô lệ được giải phóng”, gốc Cyrene và Alexandria, cùng với một số người gốc Cilicia và Asia.

- Nguyên nhân xảy ra tranh luận là vì bất đồng quan điểm, chung quanh vấn đề: đền thờ và lề luật. Khi ấy ông Stêphanô được đầy ân sủng và quyền năng, đã làm những điềm thiêng dấu lạ lớn lao trong dân. Những lời lẽ khôn ngoan do Thánh Thần ban cho ông khiến làm cho kẻ thù ông không thể nào địch nổi.

- Kết quả là khi nghe những lời ấy, lòng họ giận điên lên, và họ nghiến răng căm thù ông Stêphanô. Để hả cơn giận dữ vì đuối lý trước lời lẽ khôn ngoan của Stêphanô, họ đã dùng đến hạ sách là xách động những con người gian dối tố cáo Stêphanô về tội lộng ngôn, phạm thượng tới Thiên Chúa và Maisen, để có cớ ném đá ông (x. Cv 6,14). Nhưng cho dù họ có dùng sức mạnh của "tâm lý đám đông" hay chiêu trò tiểu nhân bỉ ỏi nhằm che đậy chân lý, thì chân lý không hề bị dập tắt, trái lại vẫn chiếu sáng rạng ngời như ánh sáng Thiên Thần trên khuôn mặt của vị phó tế Stêphanô mà họ nhìn thấy.

Trong đời sống cộng đoàn Họ đạo không thể nào mà không xảy ra những bất đồng quan điểm về nhiều vấn đề. Những bất đồng này có thể làm phương hại đến tình hiệp nhất. Đây đó, không ít những trường hợp chống đối và tìm cách bôi xấu nhau.

Xin cho mỗi người trong Họ đạo chúng ta biết giữ được một thái độ khách quan và thiện chí mở lòng tìm đến sự thật, dưới sự hướng dẫn của lời Chúa nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần. Nhờ đó cộng đoàn Họ đạo chúng ta sẽ tránh được những cuộc cải vả hận thù đáng tiếc xảy ra.

Xin cho cộng đoàn họ đạo chúng ta luôn biết noi gương cộng đoàn kitô hữu đầu tiên, biết hy sinh ý riêng, ích lợi cá nhân để xây dựng tình hiệp nhất huynh đệ chân thành.

 

Suy niệm 2: Ga 6, 22-29

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến hai loại thức ăn. Thức ăn nhanh và thức ăn thường tồn. Thức ăn nhanh thì chỉ nuôi sống thể xác nhưng mau qua, còn thức ăn thường tồn thì chẳng những nuôi dưỡng thể xác mà cả tâm hồn; chẳng những bảo đảm sự sống đời này mà cả sự sông mai sau. Nhưng vì chạy theo lối sống vội vàn nên chúng ta không thích chọn lựa thức ăn thường tồn để ăn. Xin Chúa cho chúng ta đủ tỉnh táo để khôn ngoan chọn lựa.

Làm việc để tìm kiếm cơm bánh, nuôi dưỡng thân xác là mục tiêu cơ bản nhất của con người. Nhưng con người không chỉ có nhu cầu ăn uống mà con người còn có nhu cầu tinh thần và tâm linh nữa.

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải vượt lên những cái tầm thường của cuộc sống mau qua mà vươn lên những giá trị vĩnh cửu. Muốn vươn lên giá trị sự sống vĩnh cửu, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy “Đến” với Chúa và hãy “Tin” vào Ngài.

Đức Giêsu đã làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám đông. Cho thấy Ngài quan tâm đến nhu cầu của thân xác của con người. Nhưng Ngài không dừng lại ở việc thỏa mãn nhu cầu cơ bản là “đói cho ăn, khát cho uống.” Cơm bánh chỉ là thứ lương thực mau qua dành cho thân xác, chứ không phải là thứ lương thực đem lại sự sống đời đời. Do đó, Ngài muốn ban cho con người thứ lương thực trường tồn, đem lại sự sống vĩnh cửu.

Để có được của ăn mau qua, nuôi dưỡng thân xác, con người phải ra công làm việc vất vã “đổ mồ hôi sót con mắt ” mới có của ăn. Để có của ăn vĩnh cửu, nuôi dưỡng tinh thần và tâm linh, con người chỉ cần làm hai việc: Đến với Chúa Giêsu và Tin vào” Ngài.

Cái đói của thân xác không cồn cào bằng cái đói tinh thần. Con người đói công bằng và hạnh phúc, đói yêu thương và kính trọng…Con người khát niềm vui và bình an, cảm thông và sự thật.

Trong nơi sâu thẳm, con người đói khát “ai đó” để mình yêu mến tôn thờ. Đức Giêsu mời ta hãy tin vào Ngài là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Hãy đến với Giêsu để bắt đầu được nếm thử tấm bánh của Ngài, vì chính Ngài là Tình yêu, sự thật và bình an.

Xin cho chúng ta biết siêng năng đến với Chúa Giêsu với niềm tin yêu, để chúng ta được chính Chúa nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Bánh Thánh, là thứ lương thực không hư nát và đem lại sự sống đời đời.

 

Thứ ba

Suy niệm 1: Cv 7, 51-8,1a

Chính vì đặt trọn niềm tin vào Chúa Giêsu, bánh trường sinh đem lại sự sống đời đời (x. Ga 6,35), mà thầy phó tế Stêphanô đã sẵn sàng chấp nhận chịu nhiều thiệt thòi ngay cả hy sinh mạng sống mình, đó là điều mà bài sách Cvtđ hôm nay nói đến.

- Với niềm tin vững vàng vào Đức Giêsu, bánh ban sự sống, Thầy phó tế Stêphanô đã say mê rao giảng Tin mừng Đức Giêsu đã truyền dạy, cho dù gíao huấn ấy có đi ngược lại với quan niệm cố hữu của hàng lãnh đạo tôn giáo Do Thái thời bấy giờ.

- Với lòng tin mạnh mẽ vào Chúa Giêsu, nguồn sống đích thực, ngài đã không ngần ngại nói lên sự thật, dù phải đối mặt với bao hiểm nguy: thù ghét, đàn áp, khống chế, lên án và giết hại của giới chức lãnh đạo Do Thái thời bấy giờ.

- Với đức tin kiên trung vào Đức Giêsu, tấm bánh nuôi sống đời đời, nên cho dù phải đứng trước pháp đình, Stêphanô cũng mạnh dạn minh chứng về Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đã đến trần gian và đã chịu chết trên thập giá để cứu chuộc loài người. Ngài cũng không ngần ngại vạch trần tội vong ân, bội nghĩa của cha ông họ và của họ; đồng thời ngài cũng không ngừng nhắc đến lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa dành cho dân Người.

Lời lẽ khôn ngoan minh chứng niềm tin, cũng như lời biện hộ đanh thép tố cáo tội ác của những kẻ muốn hãm hại ngài, càng khiến cho đối phương tức giận đến sôi máu và quyết định đưa ngài ra ném đá tử hình. Dù chịu cực hình đau đớn, nhưng lòng ngài vẫn chan chứa niềm vui, sự cảm thông và tình yêu tha thứ theo gương vị Thầy Chí Thánh. Nên trước khi tắt thở, thánh Stêphanô đã không quên cầu nguyện cho những kẻ giết hại ngài: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này. Nói thế rồi, ông an nghỉ".

Nguyện cho mỗi người trong chúng ta luôn xác tín mạnh mẽ vào Chúa Giêsu là tấm bánh hằng sống, để chúng ta biết can đảm noi gương Stêphanô sẵn sàng làm chứng cho niềm tin của mình. Và cũng xin cho chúng ta cũng biết noi gương thánh Stêphanô có lòng bao dung sẵn sàng tha thứ cho những ai làm hại ta. Biết can đảm lấy tình thương xóa bỏ hận thù, theo như lời dạy và gương lành của Chúa Giêsu.

 

Suy niệm 2: Ga 6, 30-35

Giúp đỡ cơm áo gạo tiền, chỉ là phương tiện chứ không phải là mục đích của các nhà truyền giáo. Mục đích của nhà truyền giáo là tạo điều kiện để người khác có đủ sức đến gặp gỡ Chúa, đón nhận Chúa là lương thực đích thực, mang lại sự sống vĩnh cửu. Đó là sứ điệp lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta.

Để đủ sức tiến về đất hứa, Thiên Chúa đã ban cho dân Do Thái manna làm của ăn. Nhưng họ cứ tưởng đó là bánh do Môsê ban cho họ. Để có của ăn mang lại sự sống đời đời, Chúa Giêsu mời gọi dân chúng hãy tin vào Ngài. Nhưng dân chúng lại đòi hỏi phép lạ như Môsê. Chúa Giêsu giải thích cho họ biết Manna ngày xưa họ hưởng dùng nơi sa mạc không phải do Môsê ban cho, mà là do chính Chúa thương ban để nuôi sống họ. Nhưng Manna chỉ là lương thực nuôi dưỡng thể xác. Cha ông họ đã ăn Mana nhưng rồi cũng chết. Còn lương thực bảo đảm đem lại cho họ sự sống vĩnh cửu mà Thiên Chúa ban cho họ chính là Đức Giêsu (bánh trường sinh). Bởi lẽ Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa làm người. Trong Đức Giêsu được kết hợp bởi nhân tính và Thiên tính mang sự sống vĩnh cửu. Do đó khi hiến thân mình làm của ăn, Chúa Giêsu trở nên lương thực mang sự sống vĩnh cửu. Ai tin nhận và ăn lấy tấm bánh Đức Giêsu thì đồng nghĩa với việc tham dự vào sự sống vĩnh cửu nơi Chúa Giêsu.

Nếu ngày xưa, Chúa ban cho dân Do Thái Manna làm của ăn, nhờ đó họ đủ sức vượt qua sa mạc, tiến vào đất hứa; thì ngày nay, Chúa cũng ban cho chúng ta lương thực là Mình Thánh Chúa, Bánh Bởi Trời đích thực làm của ăn nuôi dưỡng chúng ta đủ sức tiến về nhà Cha.

Xin cho chúng ta đừng quá bận tâm vào cơm bánh, thứ lương thực mau qua nuôi dưỡng thân xác ở đời này, bởi ăn rồi cũng phải chết. Nhưng cho chúng ta biết lưu tâm tìm kiếm thứ lương thực làm no thỏa tâm hồn, mang lại sự sống đời đời, đó chính là Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô.

 

Suy niệm 3: Kính Thánh Philipphê Và Giacôbê Tông Đồ

 1Cr 15, 1-8; Ga 14, 6-14

Khi xây một ngôi nhà, trước hết trong đầu chúng ta phải có mô hình, rồi mới thể hiện mô hình đó ra bản vẽ, sau đó chúng ta mới dựa vào bản vẽ đó mà thực hiện. Tương tự như thế, để xây dựng người con Chúa, ta phải theo mô hình. Mô hình đó là Đức Giêsu Kitô “Con Chúa” và “là đường, là sự thật và là sự sống”.  Thánh Philipphê và Giacôbê đã nghe lời Chúa và đã xây dựng con người mình theo mô hình Đức Giêsu Kitô nên được thừa hưởng gia tài hạnh phúc nước trời. Xin cho chúng ta biết xây dựng đời mình theo mô hình Đức Giêsu Kitô theo gương hai thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ.

Ước nguyện được nhìn thấy Thiên Chúa không chỉ là ước nguyện của Philipphê và các tông đồ nhưng còn là ước mong của mỗi chúng ta.

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đáp ứng mong ước đó của chúng ta bằng cách cho biết chính Người là hiện thân và là Thiên Chúa : “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”, “ Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy”.

Do đó lời Người nói là nói lời Chúa Cha. Những việc làm của Người chính là Chúa Cha làm trong Người. Nếu ai tin vào Người thì sẽ làm được những việc Người làm và còn lớn lao hơn nữa, vì Người về cùng Chúa Cha và sẽ ban ơn cho những ai tin vào Người.

Theo Đức Dalai-Lama có một điều cần quan tâm trong giáo dục. Ngài nói: “trong Phật giáo, khi nói đến giáo huấn hay giáo thuyết, chúng tôi nhìn ở hai mức độ:

-  Mức độ thứ nhất liên quan đến các bản văn.

-  Mức độ thứ hai liên quan đến sự thể nghiệm.

Liên quan đến sự thể nghiệm, điều rất quan trọng là một người muốn dạy người khác, thì chính mình phải có kinh nghiệm tối thiểu về điều mình giảng dạy, phải hoàn tất đoạn đường nào đó trong sự thể nghiệm thiêng liêng. Như thế nó hoàn toàn khác với loại hình truyền thông khác, khi người ta kể lại câu chuyện lịch sử hoặc một sử gia tuờng thuật lại những biến cố đã qua. Trong trường hợp đó, người ta kể lại sự kiện mà không hề sống. Còn việc giảng dạy về đời sống tâm linh, điều thiết yếu là người giảng dạy phải có một chút thể nghiệm và kinh nghiệm bản thân”.

Chúa Giêsu không chỉ thể nghiệm mà Người còn chính là mô hình là khuôn mẫu để mọi người noi theo “ Thầy là đường là sự thật và là sự sống”. Chỉ những ai tin nhận và xây dựng cuộc sống mình trên mô hình Đức Giêsu Kitô thì mới có được sự sống đời đời.

Xin cho chúng ta biết xây dựng đời kitô hữu mình trên khuôn mẫu là Đức Giêsu Kitô. Nghĩa là khi nói phải nói lời của Chúa. Khi làm thì làm việc trong Chúa và vì Chúa. Trong mọi sự luôn tin nhận và đi theo con đường Chúa Giêsu hướng dẫn.

* Lễ Kính Thánh Philipphê và Giacôbê, Tông Đồ 

Thánh Philipphê thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế chúng con mãn nguyện”(Ga 14,8). Ước muốn của Thánh Philipphê cũng chính là niềm khát khao của con người mọi thời vì: “chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 62,1). Thế nên, dọc dài thời gian, xuất hiện rất nhiều bậc hiền nhân đưa ra những phương cách, lời hay ý đẹp để giúp con người thấu đạt Thượng Đế. Nhưng không một ai đưa con người đến được với Thiên Chúa; ngoại trừ Chúa Giêsu, Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúa Giêsu xuất phát từ Thiên Chúa, là dung nhan lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Chúa biết cách nói về Thiên Chúa, dạy cho con người chân lý yêu thương đích thực. Hơn hết, Chúa Giêsu chính là Con Đường để con người bước vào sự sống của Thiên Chúa.

Con Đường Giêsu đã được khẳng định rõ nét qua lời nói và hành động của Chúa trong những tháng năm trên trần thế.

Người đời cho rằng của cải đời này là sự đảm bảo cho cuộc sống thì Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn sẽ về tay ai?” (Lc 12, 20).

Con người cứ lo kiếm tìm danh lợi thú trần gian, Chúa Giêsu lại đến trần không một nơi gối đầu để phục vụ và hy sinh mạng sống vì đàn chiên.

Con người đối xử với nhau bội bạc, vô tình, tàn nhẫn; Chúa Giêsu đến với mọi người bằng tình yêu và chân thành: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10).

Con người những tưởng đã tha thứ đủ khi tha đến bảy lần thì Chúa Giêsu dạy phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy.

Con người vô ơn quên tình yêu Thiên Chúa, bất tuân lệnh Thiên Chúa; Chúa Giêsu vâng lời Chúa Cha và thực thi mọi phán quyết của Thiên Chúa: “Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 9).

Chúa Giêsu là Đường Hoàn Hảo mà Chúa Cha gửi đến cho con người với tất cả lòng thương xót. Chúa đã chết trên thập giá để cứu độ con người: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,12). Và Chúa Giêsu đã Phục Sinh để minh chứng lời Chúa nói là chân thật: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân” (Lc 24, 46-47).

Lạy Chúa Phục Sinh, đường đời trăm phương ngàn lối, tất cả đều dẫn chúng con đi vào sự diệt vong. Chỉ duy Chúa là Đường đích thực đưa chúng con đến sự sống nơi cung lòng Chúa Cha vì Chúa là Thiên Chúa, là Đấng giàu lòng thương xót đã chết và phục sinh sự sống cho chúng con. Amen. St

* Lễ Kính Thánh Philipphê và Giacôbê, Tông Đồ

Khao khát được biết Thiên Chúa Cha là khát vọng chính đáng của con người, và cùng đích của con người chính là được đời đời chiêm ngưỡng thánh nhan Cha. Chính vì thế mà sau khi Chúa Giêsu nói về Thiên Chúa Cha, thánh Philípphê đã không ngần ngại thưa với Chúa Giêsu rằng: “Xin Thầy tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con đã mãn nguyện”.

Thấy Thiên Chúa Cha ư? Con mắt phàm tục không thể nhìn thấy Thiên Chúa. Đó là điều được nói đến trong Cựu Ước, rằng không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa mà còn sống: Môsê phải che mặt khi đối diện, Êlia chỉ được nhìn thấy phía sau, các tổ phụ, thẩm phán và ngôn sứ chỉ được thấy Chúa qua các thiên sứ hoặc các biến cố như mây, lửa… Và chính Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng phải nhờ Chúa Con mặc khải cho”.

Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.

Như thế, chỉ có Chúa Giêsu là mặc khải tròn đầy về Thiên Chúa Cha. Câu trả lời cho Philípphê hôm nay chứng minh điều đó, đồng thời mạc khải chắc chắn về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi: Ba Ngôi vừa hiện hữu tại thân vừa hiện hữu hướng về đến duy nhất, như Chúa Giêsu nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha, Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”.

Vì thế Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta hiểu rằng:

- Không phàm nhân nào nhìn thấy Thiên Chúa mà còn sống.

- Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ, trừ khi Chúa Con mặc khải cho.

- Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.

- Chúa Giêsu là mặc khải tròn đầy về Chúa Cha, nên tất cả mọi mặc khải khác đều phải quy về Chúa Giêsu và vâng phục Giáo Hội.

- Chúa Giêsu làm tất cả những gì mọi người cầu xin với Chúa Cha nhân danh Chúa Giêsu.

Đó là tất cả những gì được nói tới trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Đó là đức tin tông truyền của Giáo Hội, vì thế không có con đường chui nào khác mà không qua Chúa Kitô là Đấng Trung Gian duy nhất.

Những linh đạo qua Đức Mẹ và các thánh đều quy hướng về Chúa Kitô. Mọi điều lớn lao mà các Kitô hữu làm được không phải do công chính mình, mà là do niềm tin vào Đức Kitô.

Vì Chúa Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha để ban ơn và chuyển cầu, nên những ai tin vào Người còn làm được những việc lớn lao hơn. Cụ thể là như các tông đồ, chỉ trong một bài giảng của Phêrô mà có tới 5000 người trở lại, thậm chí có những lần khi thánh Phêrô đi qua cái bóng của ngài cũng làm cho bệnh nhân khỏi bệnh…

Lạy Chúa Giêsu, với niềm khao khát như thánh Philípphê chúng con mừng kính hôm nay, xin cho chúng con được nhìn thấy Thiên Chúa Cha hiện hữu trong mọi nơi mọi lúc, đặc biệt trong mọi biến cố cuộc đời, để chúng con sống trọn niềm thảo hiếu với Người. Amen. St

 

Thứ tư

Suy niệm 1: Cv 8, 1-8

Cái chết của thầy phó tế Stêphanô là tiếng chuông báo động khởi đầu cho cuộc bách hại gắt gao mà Gíao hội sơ khai phải gánh chịu.

Nguyên nhân chính gây ra cuộc bách hại là vì Giáo hội sơ khai phát triển theo hướng tách ra khỏi Do Thái giáo. Bài giảng của phó tế Stêphanô nêu lên tính cách tạm thời chuyển tiếp của tôn giáo Do Thái (x. Cv 7). Nó phải nhường chỗ cho giá trị vĩnh cửu của tôn giáo do Đức Giêsu Kitô thiết lập, một tôn giáo phổ quát không còn bị giới hạn trong một quốc gia hay một đền thờ nào cả. Vì lời lẽ đó, Stêphanô phải trả giá cho sự thật mà ngài đã rao giảng bằng chính mạng sống mình. Ngài đã bị ném đá cho đến chết và tiếng chuông báo động cho những cuộc bách hại kitô hữu khốc liệt bắt đầu được khai mào.

Dưới cái nhìn tự nhiên, thì cuộc bách hại này là biến cố đau thương của Gíao hội sơ khai. Nhưng với cái nhìn đức tin thì chính cuộc bách hại ấy lại mang một ý nghĩa hết sức to lớn trong sự quan phòng kì diệu của Thiên Chúa.

- Qua cuộc bách hại ấy cho thấy lời Chúa Giêsu phán: "Tôi tớ không trọng hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ anh em; nếu họ tuân giữ lời Thầy, thì họ cũng tuân giữ lời anh em. Tại vì danh Thầy mà họ sẽ làm cho anh em tất cả những điều đó, bởi vì họ không biết Ðấng đã sai Thầy." (Ga 15, 20) đã được ứng nghiệm.

- Chính cuộc bách hại ấy mà các môn đệ và các tín hữu phải tản mác về các vùng miền quê của Giuđa và Samaria để hoạt động. Phó-tế Philipphê thì xuống vùng Samaria và thành công trong việc rao giảng Tin Mừng tại đó. Cuộc phân tán này trở thành cơ hội cho các Kitô hữu đem hạt giống Tin Mừng đi gieo vãi khắp nơi (x. Cv 11, 19-21).

- Trong cuộc bách hại ấy cho thấy một đức tin kiên trung vào Chúa Giêsu của các Kitô hữu non trẻ. Họ sẵn sàng chịu mọi gian lao thử thách và can đảm nhận lấy cái chết để minh chứng cho niềm tin. Đúng như ai đó đã nói: "Thiên Chúa vẽ đường thẳng với những nét cong"; hay “khi Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ”.

Tin tưởng vào sự quan phòng kì diệu của Chúa, nên những khi gặp đau khổ, chúng ta đừng bao giờ phàn nàn, kêu trách Chúa; cũng đừng bao giờ than thân trách phận hoặc chán nản, buông xuôi, nhưng hãy tin tưởng, cậy trông và gia tăng cầu nguyện xin Chúa trợ giúp.

Xin cho tất cả chúng ta biết cảm tạ Chúa vì đã ban cho Gíao Hội những vị chứng nhân anh dũng đã can đảm gieo vãi Tin Mừng của Chúa khắp nơi. Xin cho mỗi người trong Họ đạo chúng ta luôn ý thức bổn phận loan báo tin mừng để mọi người có cơ hội nhận biết và tin vào Đức Kitô.

 

Suy niệm 2: Ga 6, 35-40

Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, Chúa Giêsu đến trần gian là để thi hành thánh ý Chúa Cha: Cứu độ và ban cho con người sự sống muôn đời. Tuy nhiên chỉ những ai đến và tin nhận Ngài là Đấng Thiên Sai là bánh bởi trời mới đáng được hưởng sự sống trường sinh Ngài mang đến. Xin Chúa củng cố niềm tin nơi chúng ta để ta năng đến với Người.

Để giúp dân chúng hiểu về thứ bánh trường sinh là chính Người, Chúa Giêsu đã mạc khải cho họ biết về nguồn gốc, mục đích và ý nghĩa về Người. Chúa Giêsu khẳng định cho dân chúng biết nguồn gốc về Người: “Tôi từ trời mà xuống”. Ngầm ý minh chứng rằng: Nếu ngày xưa Thiên Chúa ban Manna từ trời xuống, thì ngày nay, Thiên Chúa cũng ban Chúa Giêsu xuống từ trời. Như thế Chúa Giêsu chính là Bánh bởi trời ban. Nếu xưa kia mục đích Thiên Chúa ban manna là để làm lương thực nuôi tất cả dân Do Thái lưu lạc trong sa mạc, thì ngày nay, Chúa Giêsu cũng cho biết mục đích Ngài đến sa mạc trần gian cũng là để thi hành ý Cha, nuôi sống tất cả mọi người, không để mất một ai. Nếu xưa kia trong sa mạc, dân chúng đã tin vào Thiên Chúa và nghe lời Môsê xem Manna là bánh nuôi sống họ trên đường về đất hứa; thì hôm nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi họ đón nhận và tin vào Ngài chính là tấm bánh trường sinh nuôi dưỡng và thêm sức để họ tiến về quê trời mà Chúa hứa ban.

Khi Chúa Giêsu khẳng định: “Chính Tôi là bánh trường sinh”, Ngài muốn quả quyết rằng, chỉ duy mình Ngài mới là lương thực và là sự sống cho mọi người, vì chính Ngài là Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và thông ban sự sống cho muôn loài.

Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống trần gian và sự sống đời đời. Sự sống trần gian được nuôi dưỡng bằng Manna và cơm bánh. Sự sống đời đời phải được nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Chúa.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa chính là nguồn sống và là Đấng ban sự sống đời đời. Xin cho chúng con biết gắn bó mật thiết với Chúa qua việc tin và đón nhận Thánh Thể Chúa vào lòng, để chính nguồn sự sống đời đời của Chúa nơi bí tích Thánh Thể nuôi dưỡng chúng con.

 

Thứ năm

Suy niệm 1: Cv 8, 26-40

Muốn biết Đấng Ki-tô là ai? thì phải tìm đến Kinh Thánh, như thánh Giê-rô-ni-mô đã quả quyết: "Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Ki-tô".

Trong bài đọc I, cho biết: Viên thái gíam Ethiopia chỉ có thể biết được Chúa Kitô khi ông yêu thích tìm đọc Thánh kinh. Nhưng nếu đọc Thánh kinh mà không được giải thích bởi Gíao Hội thì cũng không thể hiểu đúng ý nghĩa điều mà Thánh kinh muốn nói. Nhờ sự hướng dẫn của vị phó tế Philipphê và dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần nên viên Thái Gíam đã hiểu đúng đoạn sách (x. Is 53,7-8 ) mà ông đang đọc ám chỉ về "Chúa Giêsu là Người Tôi Trung, Ngài chịu đựng đau khổ cho con người, để cứu chuộc con người khỏi chết và cho con người được sống muôn đời. Để được hưởng những đặc quyền này, con người phải tin vào Đức Kitô và chịu Phép Rửa." Nên viên Thái Gíam đã tin và xin nhận lãnh phép rửa với lòng đầy hoan hỷ, tiếp tục cuộc hành trình…

Đúng như điều Chúa Giêsu quả quyết: "Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy." (Ga 6,44). Viên Thái Gíam được sự lôi kéo bời Thiên Chúa nên ông đã tìm đến đọc Thánh kinh, nhờ sự giải thích của vị phó tế Philípphê, người của Gíao hội, dưới sự tác động của Thánh Thần nên ông đã tin và chịu phép rửa.

Xin cho chúng ta biết bắt chước viên thái giám: siêng đọc Lời Chúa, khiêm tốn lắng nghe lời Chúa qua sự hướng dẫn của các vị chủ chăn. Và nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần càng ngày chúng ta thêm hiểu biết lời Chúa, yêu mến Chúa và đặt trọn niềm tin vào Chúa hơn, hầu xứng đáng đón nhận ơn cứu độ mà Chúa thương ban.

 

Suy niệm 2: Ga 6, 44-51

Tiếp tục đề tài Bí Tích Thánh Thể, Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu xác quyết chính Ngài là bánh từ trời xuống, bánh hằng sống, ai ăn sẽ được sống muôn đời. Nhưng để đến và đón nhận sự sống của Ngài cần phải được Chúa Cha ban ơn trợ giúp. Xin Chúa thương ban ơn giúp sức cho chúng ta, để chúng ta tin nhận và đến cùng Chúa Giêsu nguồn ban sự sống đời đời.

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục kêu gọi chúng ta đến với Ngài và tin vào Ngài. Bởi chính Người là bánh từ trời, bánh hằng sống. Ai đón nhận Ngài thì sẽ được sống đời đời. Nhưng để đến được với Chúa, chúng ta phải được Chúa Cha lôi kéo. Tự sức ta không thể đến với Chúa được, vì con người chúng ta hèn mọn và tội lỗi. Mà muốn được Chúa Cha lôi kéo, chúng ta phải đón nhận giáo huấn của Chúa qua việc lắng nghe và thi hành Lời Chúa dạy. Chính Chúa Giêsu là Lời của Chúa Cha. Lời Chúa Cha là Lời ban sự sống cho con người. Vì thế đến được với Chúa Giêsu là “Lời”, ta tiếp nhận sự sống từ nơi Chúa Cha.

Nhiều người cho mình đã chọn Chúa, tin kính Chúa và thường xuyên đến với Chúa là do khả năng và nổ lực của bản thân mình. Nhưng thật sai lầm, vì không ai có thể tin nhận và đến với Chúa nếu không cậy nhờ ơn ban của Chúa Cha lôi kéo người ấy.

Xin Chúa thương lôi kéo chúng ta siêng năng đến với Chúa nơi Bí Tích Thánh Thể, cũng như trung thành lắng nghe và thực hành lời Chúa dạy. Nhờ đó chúng ta được Chúa ban sự sống đời đời.

 

Thứ sáu

Suy niệm 1: Cv 9, 1-20

Mỗi ngày có 24 giờ, trong đó có biết bao là thay đổi. Sự thay đổi số phận con người có khi cũng lắm bất ngờ! Hôm qua tội lỗi, hôm nay trở nên tốt lành; hôm qua nghèo khổ, hôm nay trở nên giàu sang, hôm qua đầy tớ, hôm nay là ông chủ…và có thể ngược lại. Vận mạng con người thay đổi cũng bởi nhiều lý do khác nhau: có khi do một lời nói, một ánh mắt, một nụ cười, một gương sáng, một lời cầu nguyện chân thành hay một biến cố vui buồn, thành công thất bại nào đó xảy ra trong cuộc sống.

Xin đừng để chúng ta quá đau buồn về những thất bại xảy ra trong cuộc sống, cũng như đừng quá tự mãn về những thành công của mình. Nhưng trên hết hãy khiêm tốn “ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Mt 6, 25-34).

Sách Cvtđ hôm nay thuật lại biến cố ngã ngựa bất ngờ, làm thay đổi cuộc đời của Sao-lô, nhờ gặp gỡ Đức Giêsu. Sách Cv cho biết: Sao-lô, quê ở Tác xô, là người Do-thái trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do-thái và Hy Lạp. Vốn là một biệt phái nhiệt thành, Saolô thường đi lùng sục bắt bớ đạo Chúa, tham gia vào vụ giết thánh Stêphanô. Sau khi nhận được thư giới thiệu của vị thượng tế, chàng trai Sao-lô hăng máu phóng ngựa như bay rong ruổi khắp các nẻo đường thành Đa-mát để truy bắt các Ki-tô hữu đem về Giê-ru-sa-lem trị tội. Hành động ấy Sao-lô xem là nhiệt thành với lề luật Do Thái giáo đúng như lời Chúa Giêsu đã nói: “Có lúc, những người bắt bớ các con, cứ tưởng rằng đó là việc tôn thờ Thiên Chúa” (Ga16, 2). Nhưng không ngờ đang lúc ông hăng máu phóng ngựa truy cùng, diệt tận các kitô hữu trên đường Đa-mat, bất ngờ một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao pbủ lấy ông, khiến ông ngã xuống đất. Lúc đó ông nghe có tiếng nói:"Sa-un, Sa-un, tại sao người bắt bớ Ta?". Ông hỏi: "Thưa Ngài, Ngài là ai?". Người ấy đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ". Nhưng không ai trông Chúa Giêsu. Sau đó Sao-lô được người ta đưa vào một căn nhà trong thành Đa-mát với tình trạng mắt ông bị mù. Tại đây Sao-lô được chữa lành đôi mắt và nhận lãnh Chúa Thánh Thần, nhờ việc đặt tay của Kha-na-ni-a, người được Chúa Giêsu sai đến. Thế là sau ba ngày ông không nhìn thấy, cũng chẳng ăn uống được gì nay ông đứng dậy chịu phép rửa, rồi ăn uống và khỏe lại. Từ đó đời ông được thay đổi!

Từ một con người trung thành với quan niệm duy Do Thái giáo, nay Phaolô lại thay đổi trở nên con người say mê Giêsu đến độ ngài nói: “kể từ khi tôi biết Đức Giêsu Phục Sinh, tôi coi mọi sự như phân bón. Kể từ khi biết Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi cả trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô Chúa tôi” (Pl 3, 8-9).

Nếu trước đây Sao-lô tìm mọi cách để tiêu diệt những người theo Chúa Giêsu, thì nay Phao-lô lại hăng say rao giảng Tin mừng để đưa mọi người đến cùng Giêsu. Lòng nhiệt thành rao giảng Tin mừng của Chúa đã trở thành phương châm sống của ông: "khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng tin mừng." (1Cr 9,16).

Trong cuộc đời chúng ta cũng vậy, lắm khi một biến cố, một dấu chỉ nào đó xảy ra làm ta cảm thấy khó chịu, đau đớn lòng, nhưng có khi đó lại chính lại là hồng ân đổi mới. Giúp chúng ta trưởng thành hơn trong đức tin và dạng dày hơn trong cuộc sống nhờ ơn ban của Chúa.

Xin Chúa cho con biết nhìn các biến cố bằng cặp mắt đức tin, để chúng con không ngã lòng, buông xuôi khi gặp thử thách, thất bại; Và xin cho chúng con cũng đừng bao giờ tự mãn khi thành công. Vì cuộc đời có lắm đổi thay!.

 

Suy niệm 2: Ga 6, 52-59

Thiên Chúa dựng nên con người có hồn và xác. Phần xác muốn sống phải ăn cơm bánh hằng ngày; phần hồn muốn sống phải rước Mình Máu Thánh Chúa. Mình Máu Thánh Chúa chính là của ăn nuôi sống linh hồn ta. Xin cho chúng ta biết yêu mến và quý trọng của ăn thiêng liêng mà Chúa Giêsu tặng bằng cách dọn mình xứng đáng và siêng năng đến rước Chúa nơi bàn tiệc Thánh.

Nhân gian thường nói “Ăn gì thì bổ cái đó”, là một thực tế của sự sống luân chuyển trong thân xác con người và các tạo vật.

Nếu ăn nhiều thịt thì áp xuất máu sẽ tăng lên và tính tình thường hay nóng nảy. Ngược lại ăn rau, củ, quả nhiều, thì cơ thể cảm thấy nhẹ nhàng, tính tình cũng điềm đạm hơn. Đó là kinh nghiệm bình thường ở những cơ thể cũng bình thường, ngoại trừ những cơ thể bất thường thì có thể khác.

Căn cứ vào kinh nghiệm đó, chúng ta có thể hiểu được lời Chúa Giêsu phán dạy: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống... Ai ăn Thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy". Đúng vậy, Chúa Giêsu Kitô không chỉ có bản tính nhân loại, mà còn mang bản tính Thiên Chúa trong Ngài, nên thịt và máu Ngài ở trong trạng thái của sự sống đời đời.

Khi ăn thịt và uống máu Ngài, một kiểu nói khiến những người Do Thái đương thời với Chúa Giêsu phải rùng mình sợ hãi và bỏ đi, và những người thời nay không tin Chúa Giêsu thì cho đầu óc những người Công Giáo là điên rồ. Nhưng ngược lại, lại rất quen thuộc thường tình và trở nên vô cùng quan trọng đối với sự sống tinh thần và thiêng liêng của mọi Kitô hữu, nhất là những người Công Giáo.

Người công giáo chẳng những tin vào Lời Chúa Giêsu phán về việc ăn thịt và uống máu Ngài, nhưng còn có kinh nghiệm ăn thịt và uống máu ấy hằng ngày, để cảm nghiệm sự trưởng thành trong đời sống tinh thần của mình ở mức độ đời đời thế nào. Vì thế trên cả thế giới, cứ vài giây đồng hồ lại có một Thánh Lễ để cung cấp cho trên 1 tỷ người Công giáo sự sống trường sinh là thịt và máu Chúa Giêsu. Bất cứ ai đến ăn thịt và uống máu Ngài, đều cảm nhận sự bình an khôn tả, nhiều khi nhận được cả sự chữa lành thể xác nữa.

Bí tích Thánh Thể, lương thực thần lương mang sự sống đời đời. Xin cho chúng ta biết tin tưởng và khao khát tìm đến đón nhận chính nguồn lương thực này, hầu đem lại cho chúng ta nguồn bình an và sự sống đời đời. (st)

 

Thứ bảy: Ga 6, 60-79

“Anh em có muốn bỏ Thấy không?”. Đây không chỉ là câu hỏi Giêsu dành cho các tông đồ xưa nhưng còn cho mỗi chúng ta hôm nay. Ta có theo Chúa hay không? Phải dứt khoát không thể nửa chừng, nước đôi. Chọn theo Chúa ta sẽ được sống. Chính Chúa mới đem lại cho chúng ta phúc trường sinh.

Xin cho chúng ta biết thân thưa với Chúa như thánh Phêrô: “Bỏ thầy con biết đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.

Kết quả diễn từ về Bí Tích Thánh Thể của Chúa Giêsu hầu như bị thất bại. Dân chúng thì bỏ đi. Nhiều môn đệ thì cảm thấy khó chịu, lẩm bẩm: “Lời gì mà chướng tai thế?”. Ông ta làm sao lấy thịt mình cho người ta ăn được? họ tỏ ra chán ngán và rút lui. May thay, Simon Phêrô thay mặt nhóm 12 tuyên tín vào Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” Thật là an ủi và ấm lòng Chúa Giêsu biết bao!

Tin vào Bí Tích Thánh Thể luôn là thử thách lớn lao chẳng những đối với dân chúng và các môn đệ xưa, mà cho cả những người kitô hữu chúng ta ngày nay. Làm sao chúng ta có thể tin nhận Chúa Giêsu lại hiện diện nơi tấm bánh đơn sơ, bé nhỏ? Làm sao Chúa Giêsu lại biến bánh và rượu trở nên thịt và máu Ngài để nuôi sống chúng ta? Nếu không được Chúa ban ơn đức tin.

Tin Chúa quyền năng làm được mọi sự. Tin vào tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta: Chính vì tình yêu, Chúa dựng nên chúng ta; chính vì tình yêu Chúa xuống thế làm người ở với chúng ta; chính vì tình yêu Ngài đã hiến thân chịu chết để cứu chuộc chúng ta; chính vì quá yêu loài người nên Ngài đã biến bánh và rượu trở nên thịt máu Ngài nuôi dưỡng và ở lại mãi trong ta, để ban sự sống đời đời cho những ai tin nhận Ngài.

Xin cho mỗi lần tham dự thánh lễ, chúng cảm nhận được tình thương vô vàn mà Chúa dành cho chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể; cho chúng ta ý thức dọn tâm hồn cho xứng đáng để đón nhận Chúa vào ở trong lòng chúng ta.

Thứ Tư, 20 tháng 4, 2022

 

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN II PHỤC SINH

Lm. Vĩnh Hòa 

CHÚA NHẬT II PHỤC SINH

KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

Cv 5,12-16; Kh 1,9-11a.12-13.17-10; Ga 20, 19-31

Suy niệm 1:

Hàng năm Giáo Hội dành một ngày Chúa nhật II Phục sinh để suy tôn Lòng Thương Xót Chúa. Tin Mừng hôm nay trình thuật lại sự kiện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các tông đồ, nhất là đối với Tôma để bày tỏ lòng thương xót của Người ngang qua các vết thương mà Người mang lấy vì tội lỗi chúng ta.

Xin Chúa phục sinh củng cố lại niềm tin, trao ban bình an và sức mạnh của CTT, để chúng ta can đảm thực thi sứ mạng lòng thương xót của Chúa cho mọi người, với mong muốn ai nấy đều được đón nhận lời chúc phúc của Chúa phục sinh: “phúc cho những ai không thấy mà tin”.

 Theo như lịch phụng vụ, thì cứ vào Chúa nhật II Phục sinh hàng năm, GH suy tôn lòng thương xót Chúa. Vậy lý do nào mà GH lại chọn Chúa nhật hôm nay mà không phải những ngày khác trong năm để tôn kính lòng thương xót Chúa? Có 3 lý do chính:

-  Thứ nhất là do chính Chúa Giêsu mạc khải cho nữ tu Faustina.

Ngày 22/02/1931, Chúa Giêsu đã hiện ra và mặc khải cho nữ tu Faustina, thuộc dòng Đức Mẹ Từ Bi ở Balan về lòng thương xót của Chúa và dạy chị phải rao truyền lòng thương xót đó qua bức ảnh thánh cũng như chọn ngày Chúa nhật II Phục sinh làm ngày lễ kính lòng thương xót của Chúa. Chúa Giêsu nói với chị Faustina rằng: “Hãy vẽ bức ảnh như con nhìn thấy đây với hàng chữ: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa.  Ta hứa, nếu ai tôn kính ảnh này sẽ không bị hư mất.  Ta cũng hứa sẽ giúp linh hồn đó toàn thắng các kẻ thù trong cuộc sống, nhất là trong giờ lâm tử. Ta sẽ bảo vệ, gìn giữ linh hồn nó. Ta mong muốn tấm ảnh này được tôn kính trên toàn thế giới.” Theo lệnh của cha linh hướng, chị Faustina có hỏi Chúa về ý nghĩa hai màu sắc của hai luồng sáng đó, thì Chúa trả lời: “Hai luồng sáng đó biểu thị cho máu và nước, luồng trắng chỉ nước, nó làm cho linh hồn nên công chính. Luồng đỏ chỉ máu, đó là sự sống của linh hồn. Hai luồng sáng này được ban ra do lòng thương xót vô bờ của trái tim Ta, mà người lính đã lấy đòng đâm thâu khi Ta bị treo trên Thập giá. Phúc thay những linh hồn nào luôn biết nương náu trong nơi trú ẩn này, vì cánh tay công thẳng của Thiên Chúa sẽ không đánh phạt họ.”.

-  Thứ hai là do chính thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thiết lập. 

Ngày 30/04/2000, Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phong hiển thánh cho chị nữ tu Faustina, tông đồ của lòng thương xót và đã lập lễ kính lòng thương xót của Chúa trên toàn Giáo hội vào chúa Nhật II Phục sinh, đúng như ước muốn của Chúa nói với chị Faustina: “Ta ao ước là lễ kính lòng thương xót của Ta phải được cử hành vào Chúa nhật 2 Phục sinh”. Như vậy thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chính thức công nhận việc tôn sùng lòng thương xót của Chúa, để mọi người, đặc biệt là các tội nhân biết tin tưởng mau mắn chạy đến với tình yêu đầy nhân ái của Người, như Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ Faustina rằng: “không một linh hồn nào phải sợ sệt khi đến gần Ta, dù tội lỗi của nó có đỏ như máu đi nữa...”.

-  Thứ ba do phụng vụ lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến lòng thương xót Chúa.

1.  Tin mừng hôm nay cho biết cả hai lần hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu phục sinh đều trao chúc bình an cho các ông. Bình an phải là món quà quý giá nhất mà các tông đồ đang cần trong lúc hoang mang, sợ hãi vì những người Do Thái đang tìm cách giết hại. Với lòng thương xót, Chúa Giêsu thấu hiểu điều ấy nên Người đã hiện ra chấn an các ông, trao ban ơn CTT và bình an, để củng cố niềm tin cho các ông.

2. Cũng vì lòng thương xót, Chúa đã không hề chấp nhất thái độ thách thức của tông đồ Tôma. Trái lại, Người cảm thông tha thứ cho Tôma và còn đã chiều ý Tôma mà hiện ra lần hai để củng cố thêm đức tin cho ông.

3. Mỗi lần hiện ra Chúa đều mời gọi tông đồ nhìn vào những vết đinh nơi tay và vết giáo nơi cạnh sườn Người. Chính những vết thương ấy là dấu chứng hùng hồn của một vị TC giàu lòng thương xót, đã sẵn sàng ôm lấy hết những vết thương do tội lỗi con người gây ra vào thân thể Người, để đóng đinh nó vào thập giá. Và sẵn sàng đổ đến giọt máu cuối cùng từ trái tim nhằm tẩy xóa mọi vết nhơ tội lỗi của con người. Và từ cạnh sườn, Người đã để cho nước và máu tuôn trào đến giọt cuối hầu khơi nguồn ân sủng và sự sống mới qua các bí tích Người đã lập.

4. Lòng thương xót Chúa không chỉ dừng lại nơi các tông đồ mà Người còn muốn trao ban cho hết mọi người nên sau khi trao ban bình an và củng cố đức tin cho các tông đồ, Chúa phục sinh tiếp tục trao ban Thánh Thần và năng quyền tha tội cho các tông đồ, để qua các tông đồ, nhờ sự tác động của Thánh Thần, Chúa yêu thương ban ơn tha thứ cho kẻ có tội thật lòng ăn năn. Chính vì thế mà GH đã xác quyết: “Tha thứ chính là đỉnh cao của lòng thương xót”.

Xin Chúa cho chúng ta cũng biết luôn tin tưởng vào Chúa trong mọi hoàn cảnh, biết sống yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho nhau; nhất là biết luôn nghĩ đến mưu cầu lợi ích cho tha nhân mà tận tình hy sinh phục vụ với niềm tín thác vào lòng thương xót Chúa.

 

Suy niệm 2: BÀN TAY CỦA YÊU THƯƠNG

Truyện kể:

Trong một tiết dạy vẽ, cô giáo bảo các em học sinh lớp một vẽ điều gì đã làm các em thích nhất trong đời. Cô thầm nghĩ: “chắc rồi các em cũng lại vẽ những gói quà, những ly kem hoặc những món đồ chơi, hay quyển chuyện tranh nào đó…”.  Thế nhưng cô hoàn toàn ngạc nhiên trước một bức tranh lạ của em học sinh tên là Douglas: Bức tranh vẽ một bàn tay!

Nhưng đây là bàn tay của ai? Cả lớp bị cuốn hút bởi hình ảnh đầy biểu tượng này. Một em đoán: “Đó là bàn tay bác nông dân”. Một em khác cho rằng: “Bàn tay thon thả thế này phải là bàn tay của một bác sĩ giải phẩu”. Cô giáo đợi cả lớp bớt xôn xao dần rồi mới hỏi tác giả. Douglas cười ngượng ngịu: “Thưa cô, đó là bàn tay của cô ạ!”.

Cô giáo ngẫn ngơ. Cô nhớ lại những giờ ra chơi, cô thường dùng bàn tay để dìu dắt Douglas bước ra sân, bởi em là một cô bé khuyết tật, khuôn mặt không được xinh xắn như các bạn nhỏ khác, gia cảnh em từ lâu rất nghèo. Cô chợt hiểu ra, tuy cô vẫn làm điều tương tự ấy với các em khác, nhưng hóa ra đối với Douglas, bàn tay cô lại mang một ý nghĩa sâu xa, một biểu tượng của tình yêu thương lớn lao như vậy.

Nếu bàn tay của cô giáo là hình ảnh đẹp nhất trong tâm hồn của em bé khuyết tật Douglas, thì Bàn Tay Chúa Giêsu phải là hình ảnh tuyệt vời nhất đối với nhân loại. Bởi lẽ bàn tay ấy mang đầy những dấu vết tích của lòng thương xót. Cho nên mỗi lần hiện ra với các tông đồ, đặc biệt với Tôma, Chúa Giêsu đều mời gọi các tông đồ xem đôi bàn tay và cạnh sườn Người.

1. Đó là bàn tay mang vết tích vì yêu mến Chúa Cha.

Chúa Giêsu luôn hướng về Chúa Cha bằng một tình yêu mật thiết, được thể hiện qua đôi bàn tay của cầu nguyện.

Đôi bàn tay hướng về Cha trong tư thế cầu nguyện mỗi khi bắt đầu ngày sống, xin Cha hướng dẫn và ban ơn giúp sức để những việc làm trong ngày sống được hoàn thành tốt đẹp theo ý Cha. 

Đôi bàn tay hướng về Cha suốt đêm dài, mỗi khi quyết định những việc làm quan trọng. Xin Cha ban ơn sáng suốt để chọn lựa điều tốt nhất, theo ý muốn của Cha. 

Đôi bàn tay từng cầm bánh và rượu đưa lên cao hướng về Chúa Cha để chúc tụng, tạ ơn. Xin Cha chúc lành cho những lương thực hưởng dùng. 

Đôi bàn tay đưa cao hướng lên trời, kêu xin sự sống cho La-da-rô. 

Bàn tay chấp lại trong lo sợ, thiết tha khẩn cầu xin Cha cất khỏi chén đắng trong tinh thần phó thác.

Bàn tay dang rộng trên thập giá đau đớn vang xin Chúa Cha tha thứ cho những người giết hại mình.

2. Đó là bàn tay mang vết tích vì yêu thương nhân loại.

Đôi bàn tay Chúa Giêsu luôn hướng đến con người để cảm thông chia sẻ và giúp đỡ bằng tình yêu hy sinh.

Bắt đầu bằng đời sống lao động vất vả nơi gia đình Nazarét. Bàn tay từng cầm cưa, búa, đục để làm mộc cùng với thánh Giuse lo của ăn cho gia đình.

Bàn tay sẵn sàng mở ra ban ơn tha thứ biết bao tội nhân biết ăn năn sám hối như Maria Macdala, cho ngưuời phụ nữ ngoại tình, cho Giakêu…

Bàn tay đã chữa lành biết bao người đau ốm, đặt tay trên mắt người mù bẩm sinh, trên tai và lưỡi của người câm điếc, trên thịt da lỡ lóet của người mắc bệnh hủi, trên trán giá lạnh của con gái Giai-rô, trên tay nóng sốt của bà nhạc mẫu Phêrô….

Bàn tay quyền thế đã truyền khiến giông tố và sóng gió yên lặng, đã cầm roi xua đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đến thờ, đã xua trừ ma quỷ, đã chúc dữ cho những người biệt phái.

Bàn tay bị đâm thủng, nơi ấy vẫn còn lỗ đinh được ghi lại tình yêu Chúa dành muôn thế hệ. 

Bàn tay bị nộp cho lý hình, bị đóng đinh vào thập giá và phải mang lấy thân xác nặng nề đau xé suốt ba giờ liền trên thập giá. Tất cả chỉ vì tình yêu con người.

Khi mời gọi các tông đồ nhìn xem tay Chúa vừa để chứng thực chính Người là Thiên Chúa giàu lòng thương xót; vừa để mời gọi các ông học lấy bài học yêu thương “như Người đã yêu”.

Khi mời gọi các tông đồ nhìn vào đôi bàn tay của Chúa là để nhắc nhở các ông không chỉ thi hành mệnh lệnh loan báo tin mừng trên môi miệng mà còn phải thực hiện lời rao giảng trên đôi tay mở ra để giúp đỡ những người bé nhỏ, nghèo nàn, yếu đau. An ủi những ai đau khổ, bất hạnh và vỗ về những ai cô đơn, tội lỗi. Hàn gắn những gia đình bị rạng nứt và đổ vỡ.

Nhìn bàn tay Chúa để các tông đồ hiểu rằng việc truyền giáo sẽ không bao giờ đạt kết quả, nếu thiếu đời sống cầu nguyện nên “hãy xin với chủ ruộng” .

Đôi bàn tay giơ cao hướng về Chúa để xin ơn. Xin Chúa ban ơn soi sáng, lòng nhiệt thành và sức mạnh cho những nhà truyền giáo. Xin Chúa đánh đọng lòng người tiếp nhận tin mừng. Xin Chúa chúc lành cho công cuộc truyền giáo.

Đôi bàn tay dang rộng hướng về tha nhân, bằng cách chấp nhận chịu đâm thủng của những dấu đinh vất vả, hy sinh, đau khổ vì tình yêu.

Bàn tay yêu thương đó được minh chứng nơi cộng đoàn tín hữu đầu tiên. Họ đồng tâm hướng đôi bàn tay lên Chúa bằng đời sống cầu nguyện, bằng lắng nghe Lời Chúa và lời giảng dạy của các tông đồ, cùng hiệp thông trong nghi lễ bẻ bánh.

Họ cũng dùng bàn tay hướng về anh em để chia sẻ trong tình bác ái. Tự nguyện dâng cúng tài sản riêng làm của chung. Chấp nhận bán hết tài sản để trợ giúp cho người túng thiếu. Họ cư xử với nhau như anh em một nhà. Chính đời sống ấy lôi cuốn biết bao người xin gia nhập Kitô giáo.

Sứ mạng loan báo Tin mừng tình thuơng được Chúa phục sinh trao ban cho các tông đồ, qua các tông đồ cho các kitô hữu đầu tiên và hôm nay sứ mạng ấy Chúa trao lại cho mỗi người chúng ta.

Xin Chúa cho đôi bàn tay của chúng con luôn biết nắm chặt lấy bàn tay Chúa bằng đời sống cầu nguyện để chúng con không cảm thấy mệt mỏi khi thực thi sứ mạng của lòng thương xót Chúa qua những bổn phận hàng ngày.

 

Suy niệm 3: LÝ TRÍ VÀ ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH

 

Chủ đề: "Lý trí chấp nhận những gì Thánh Kinh kể lại cho chúng ta: đó chính là Đức Giêsu đã thực sự sống lại" 

1. Giả như chúng tôi mời một anh chị em lên toà giảng và bịt mắt anh chị em đó lại, rồi chúng tôi đặt một xô nước trước mắt anh chị em đó, và hỏi anh chị em đó đoán xem nó chứa nước hay không? Có ba cách trả lời câu hỏi này mà không cần phải cởi khăn bịt mắt ra. Ba cách đó thế nào?

- Cách thứ nhất là đến thẳng xô nước và thò tay vào xem có nước trong đó không. Nói cách khác, anh chị em có thể Kinh nghiệm trực tiếp xem xô ấy đầy hay rỗng. Cách này được gọi là Kinh nghiệm. đây là tri thức mà chúng ta có được bằng Kinh nghiệm trực tiếp. Đó là tri thức do giác quan.

- Cách thứ hai để biết cái xô ấy có chứa nước hay không là thả vào đó một vật, chẳng hạn một đồng xu. Nếu vật ấy chạm vào đáy xô tạo nên một âm thanh vang và to, anh chị em sẽ biết ngay cái xô ấy rỗng. Nhưng nếu đồng xu ấy va chạm tạo nên âm thanh không rõ hoặc có những hạt nước bắn toé ra, anh chị em biết ngay cái xô ấy có nước. Tri thức này có được là nhờ lý luận.

- Cách thứ ba để biết xem cái xô ấy có nước hay không là hỏi thăm người nào mà anh chị em tin cậy. Người ấy có thể nhìn vào cái xô và nói cho anh chị em biết trong ấy có nước hay không. Cách biết này là tin vào người khác mà biết. Đó chính là tri thức có được do niềm tin.

Kinh nghiệm, lý luận, và tin tưởng đó chính là ba cách thức để biết ở đời này.

2. Bây giờ chúng ta hãy xét đến một câu hỏi khác, câu hỏi thứ hai.

Trong ba cách để biết ấy, có cách nào giúp chúng ta biết được nhiều hơn cả? Chúng ta biết được điều này điều kia phần nhiều là do Kinh nghiệm bằng giác quan, hay do đầu óc suy luận hay do tin tưởng vào ngưòi khác?

Nếu anh chị em trả lời là do niềm tin, do sự tin tưởng nơi người khác, thì anh chị em đúng hoàn toàn. Hầu hết chúng ta biết được điều này điều kia là do chúng ta tin vào những gì người khác nói với chúng ta, có một nhà chuyên môn ước lượng rằng 80% những kiến thức của chúng ta là do tin tưởng vào người khác mà có.

Chẳng hạn, trong chúng ta ít có ai được may mắn du hành quanh thế giới. Cách duy nhất để chúng ta biết về phần lớn các quốc gia trên thế giới là do người khác nói cho chúng ta biết. Nói cách khác, chúng ta tin vào những người đã từng đến những nơi ấy. Nếu họ kể cho chúng ta rằng có một xứ sở nọ tên là Trung Hoa, và dân chúng ở đó thế này thế kia, chúng ta sẽ tin họ.

Phương cách để chúng ta có được những tri thức thông thường còn chân thực như thế, thì cách thức để chúng ta có được những tri thức tôn giáo càng chân thực hơn nữa. Phần lớn các tri thức tôn giáo mà chúng ta có là do chúng ta tin vào những gì Kinh Thánh kể lại cho chúng ta. Nói cách khác, phần lớn tri thức tôn giáo của chúng ta là do niềm tin.

3. Bây giờ chúng ta xét đến câu hỏi thứ ba. Chúng ta có thể hiểu biết những thực tại tôn giáo bằng ba cách mà chúng ta thường dùng để hiểu biết những thực tại thông thường không?

Chẳng hạn, chúng ta có thể biết Đức Giêsu sống lại từ cõi chết không phải chỉ nhờ tin những gì Kinh Thánh nói, mà còn nhờ vào suy luận nữa không? Có nhiều ngừơi nghĩ rằng được. Họ giải thích rất hấp dẫn. Họ lập luận rằng sau khi Đức Giêsu chết, các môn đệ bị khủng hoảng tinh thần tột độ. Họ chỉ còn là một nhóm người đại bại, một nhóm người thất chí, một nhóm người nhát sợ. Thế rồi, vào Chúa nhật Phục sinh, có một biến cố nào đó đã biến đổi họ một cách không thể tưởng tượng được. Có một biến cố nào đó đã thay đổi con người họ một cách thật lạ lùng. Bỗng nhiên lòng họ bùng lên niềm vui, niềm hạnh phúc thực sự. Họ không thể cầm lòng được. Họ vội chạy đi loan báo cho mọi người họ gặp rằng Đức Giêsu đã sống lại và hiện đang sống. Họ tin điều ấy một cách chắc chắn đến độ họ thà sẵn sàng chịu bắt bớ bách hại đủ kiểu đủ cách, dầu là phải chết, còn hơn phải chối bỏ Đức Giêsu đã phục sinh của họ.

Đời sống và lời giảng của nhóm người này đã thay đổi cục diện lịch sử nhân loại. Không một giả thuyết nào có thể giải thích được tại sao đời sống của họ lại có thể biến đổi như thế, ngoại trừ cách giải thích của chính họ: họ đã thấy Đức Giêsu hiện còn sống.

Giả như nhóm người thất học này đã phịa chuyện về Đức Giêsu và sự phục sinh của Ngài thì chắc chắn ta phải chấp nhận rằng sớm hay muộn, ít nhất phải có một người trong bọn sẽ phải nói ra sự thật, vì không chịu nổi sự bách hại và giết chóc.

Nhưng không một ai trong nhóm ấy đã làm thế. Lời chứng của họ về Đức Giêsu sống lại không bị lay chuyển chút nào, không bị giảm cường độ chút nào. Ngược lại, lời chứng ấy càng ngày càng mạnh mẽ và ảnh hưởng tới mọi người hơn. Họ đã cảm nghiệm được một năng lực mới lạ và dịu kỳ đã khiến họ thực hiện được nhiều phép lạ. Chính sự biến đổi không thể nào giải thích được nơi các môn đệ Đức Giêsu khiến cho nhiều người nói rằng chính lý trí cũng minh chứng rằng Chúa Giêsu đã phục sinh. Nói cách khác, lý trí thuần lý cũng xác quyết rằng một biến cố nào đó rất ngoạn mục đã xảy ra làm biến đổi các môn đệ Đức Giêsu lý trí thuần lý xác nhận rằng sự phục sinh của Đức Giêsu thực sự xẩy ra.

Anh chị em cũng như tôi đều không được đặt tay vào cạnh sườn Chúa Giêsu như thánh Tôma, để trực tiếp cảm nghiệm được Đức Giêsu phục sinh từ cõi chết. Tuy nhiên, chúng ta có thể tin tưởng vào chứng cứ của Thánh Kinh, chúng ta cũng có thể làm hơn thế nữa. Chúng ta có thể sử dụng tặng phẩm Chúa ban là lý trí để xác quyết thêm điều Kinh Thánh đã truyền dạy chúng ta. Và rồi, chúng ta cũng có thể quì gối xuống như thánh Tôma đã làm và thưa với Chúa Giêsu: "Lạy Chúa Con, lạy Thiên Chúa của con". Đáp lại, Chúa Giêsu sẽ nói với chúng ta: "Hạnh phúc biết bao cho kẻ chẳng thấy mà tin".

Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:

Lạy Chúa, bất cứ khi nào đức tin chúng con bị chao đảo, giống như trường hợp của thánh Tôma, thì xin Ngài hãy nhắc chúng con nhớ lại những lời Kinh Thánh thuật lại về những biến cố đã xảy ra vào ngày Chúa Nhật Phục Sinh. Cũng xin Chúa nhắc chúng con nhớ biến cố này không chỉ gây ảnh hưởng trên các môn đệ Chúa Giêsu mà còn trên toàn dòng lịch sử. Và nhất là, xin nhắc chúng con biết tham dự vào Tin Mừng Phục sinh của Ngài với tha nhân quanh chúng con, giống như các môn đệ đã chia xẻ niềm vui ấy với quần chúng quanh họ. Chúng con nguyện xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

Cha Mark Link, S.J.

Thứ hai: 1 Pr 5, 5b-14; Mc 16, 15-20

25/ 04: Kính Thánh Marcô, Tác Giả Tin Mừng

"Công cuộc truyền giáo mãi mãi là vấn đề sống còn của Hội Thánh trên đất nước chúng ta". Đó là lời mở đầu của UB Loan Báo Tin Mừng/HĐGMVN sau 50 năm (1960-2010) nỗ lực truyền giáo.

Vì thế truyền giáo hay loan báo tin mừng là nhiệm vụ hàng đầu của Gíao Hội. Gíao Hội có được lớn mạnh hay không tùy thuộc vào việc loan báo tin mừng.

Công đồng Vatican II khẳng định rõ rằng: “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành là truyền giáo” (Ecclesia peregrinans natura sua missionaria est, Ad gentes 2).

Sẽ không là Gíao hội hay là người kitô hữu nữa nếu không loan báo tin mừng.

Trên hết truyền giáo hay loan báo tin mừng là lệnh truyền tâm quyết của Chúa Giêsu. Nên trước khi về trời Ngài đã di chúc lại cho các tông đồ: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án " (Mc 16, 15).

Vậy đã rõ mục đích của việc loan báo tin mừng là để người khác tin vào Chúa Giêsu, nhận lãnh phép rửa và được cứu độ.

Nhưng làm thế nào để việc loan báo tin mừng mang lại hiệu quả?

Thư I của thánh Phêrô, trong bài đọc I hôm nay cho ta biết những điều tóm lượt quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm để sống:

"Lấy đức khiêm nhường đối xử với nhau". Muốn đối xử khiêm nhường với nhau, trước hết phải tự khiêm hạ trước Chúa.Không khiêm hạ trước Chúa làm sao ta dễ khiêm nhường với anh em. Kiêu ngạo luôn là cám dỗ nguy hiểm đánh mất hạnh phúc thiêng đàng mà nguyên tổ Adam và Eva đã mắc phải.  

"Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em". Nghĩa là phải đặt trọn niềm tin vào sự quan phòng của Chúa đầy yêu thương chúng ta.

-  "Hãy sống tiết độ và tỉnh thức": sống đúng với ơn gọi và chu toàn tốt bổn phận mà Chúa trao phó cho  mình.

"Hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự". Trong mọi hoàn cảnh, ngay cả cái chết cũng luôn trung thành làm chứng niềm tin của mình. Vì phần thưởng mà Chúa ban tặng chính là được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường; nhất là được hưởng vinh quang đời đời trong Đức Kitô.

Xin Chúa cho chúng ta ý thức được tầm quan trọng của việc truyền giáo, để như thánh Mác-cô, ta biết tận mọi khả năng, hoàn cảnh mà góp phần tich cực cho việc truyền giáo.

Xin cho chúng ta trở nên chứng nhân trung thành của Chúa Giêsu nhờ biết siêng năng tìm hiểu học hỏi và sống theo lời Chúa dạy trong các sách Tin Mừng, trong đó có Tin Mừng thánh Mác-cô để lại bằng đời sống khiêm nhường, phó thác, tiết độ, tỉnh thức và kiên vững đức tin cho dẫu phải đối mặt với bao gian lao thử thách, nhờ đó mà Tin mừng của Chúa mới có sức thuyết phục và ơn cứu độ của Chúa mới được lan tỏa đến mọi người ở khắp nơi.

 

Suy niệm 2:

Mỗi khi tưởng nhớ hay tôn kính một vị thánh nào đó, GH thường nhắc lại thân thế và sự nghiệp của các ngài để tri ân công đức, nêu gương bắt chước đời sống tốt lành và khấn xin các ngài khấn cầu cùng Chúa ban ơn cho ta. Do đó trong ngày mừng kính thánh Marcô tác giả Tin mừng hôm nay, chúng ta cũng hãy nhìn lại thân thế và sự nghiệp của thánh Marcô.

1. Thân thế:

Chúng ta không biết nhiều về quãng đời niên thiếu của thánh Marcô. Chỉ biết rằng ngài là một trong bốn vị thánh sử đã ghi chép Phúc Âm. 

Tên đầy đủ của ngài là Gioan Marcô (x.Cv 12,12). Thánh nhân là người Do Thái, thuộc dòng họ Lêvi. Mẹ của ngài là bà Maria, một góa phụ giàu có, nơi ngôi nhà này, các tín hữu tiên khởi Giêrusalem hay đến tụ họp để cầu nguyện (x. Cv 12, 12tt). Cũng vì thế mà sau khi ra khỏi tù Phêrô đã về đây trú ẩn: “Mở cổng ra, thấy ông, họ kinh ngạc. Ông giơ tay làm hiệu cho họ im lặng, rồi kể cho họ nghe Chúa đã đưa ông ra khỏi tù thế nào” (Cv 12, 16-17).

Trong ba năm Chúa Giêsu đi rao giảng Tin mừng, ta không thấy nhắc đến tên ngài, nhưng trong biến cố Chúa Giêsu bị bắt thì ngài có mặt ở đó, nhưng vì sợ liên lụy, ngài đã bỏ chạy thục mạng, đến tuột cả quần ra (x. Mc 14,  51-52).

2. Sự nghiệp:

Vâng theo lệnh truyền của Chúa Giêsu trước khi về trời, Marcô đã đi theo tông đồ Barnaba và Phaolô để loan báo Tin mừng. Nhưng trong chuyến truyền giáo thứ nhất có vì gặp quá nhiều gian lao, vất vả nên Marcô đã bỏ về Giêrusalem (x. Cv 13, 13). Do đó mà trong chuyến truyền giáo thứ hai, Phaolô nhất quyết không cho Marcô theo, mặc dù Barnaba tha thiết yêu cầu. Sự kiện này đã gây đổ vỡ đến sự cộng tác giữa Phaolô và Barnaba (x. Cv 15, 36-40).

Nhưng nhờ thế mà sau đó Marcô lại theo Phêrô đến Rôma và làm thông dịch cho Phêrô, nên trong bức thư thứ nhất, Phêrô đã gọi Marcô là người con của ngài. (x. 1Pr 5, 13).

Là người thông ngôn cho Phêrô nên Marcô lãnh trách nhiệm chép lại những lời Phêrô giảng dạy và là người đầu tiên soạn thảo “sách Tin Mừng”, vào khoảng năm 64-70, với nhiều mục đích:

- Nhằm lưu lại lời rao giảng của các tông đồ cùng với những truyền thồng tiên khởi của GH vì e rằng thế hệ chứng nhân “mắt thấy tai nghe” sắp qua đi.

- Nhằm nâng đỡ và củng cố đức tin cho các tín hữu gốc lương dân, sống ngoài lãnh thổ Palestin, đang sống trong hoàn cảnh bị bách hại dữ dội bởi hoàng đế Nêron.

- Nhằm để giúp tín hữu mới theo đạo có được cảm nghiệm về Chúa Giêsu như thánh Phêrô. Cảm nghiệm ấy được Marcô trình bày một cách tiệm tiến qua ba giai đoạn được tóm lược vào câu đầu tiên trong Tin Mừng của ngài: “Khởi đầu Tin mừng Đức Giêsu-Kitô-Con Thiên Chúa”. Trước hết Chúa Giêsu là một người, tiếp đến Người là Đức Kitô như lời tuyên xưng của Phêrô (x. Mc 8, 29), Sau cùng Marcô trình bày cho thấy Đức Kitô ấy chính là Con TC, qua lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng Rôma dưới chân thập giá (x. Mc 15, 39),

Nếu so sánh với các Thánh sử khác, thì Phúc âm của Thánh Marcô là ngắn nhất (16 chương). Trong khi đó Matthêu có đến 28 chương, Luca 24 chương, và Gioan 21 chương. Lối trình bày của Ngài đơn sơ, mộc mạc, mang tính kể chuyện về cuộc đời của Chúa Giêsu, thích hợp cho mọi độc giả, đặc biệt cho những anh chị em bình dân.

Người ta quen vẽ hình ngài là một con sư tử, một trong bốn con vật được tiên tri Ezekiel xem thấy trong thị kiến. Quả thật sách Tin Mừng của Marcô khởi đầu bằng việc trình bày Gioan Tẩy Giả như là tiếng hô trong sa mạc (x. Mc 1,3).

Theo một tài liệu không chắc lắm cho biết thánh nhân được ủy phái đi truyền giáo ở Ai Cập sau đó. Với cuốn Phúc Âm, ngài đã đưa nhiều người trở về với Chúa. Ngài là vị sáng lập và là Giám Mục đầu tiên giáo đoàn Alexandria. Nhờ tài lợi khẩu, trí thông minh và sự thánh thiện, ngài đã dẫn đưa được nhiều người về cùng Chúa.

Cũng như các tông đồ, thánh nhân cũng gặp nhiều gian lao thử thách trong sứ mạng làm chứng cho Chúa. Cuối cùng ngài cũng chịu bách hại bởi những lương dân tại giáo đoàn ngài đang phục vụ. Họ đã bắt ngài điệu qua các phố với mục đích bêu xấu ngài, và lôi kéo ngài trên đường đá gồ ghề cho tới khi tắt thở. Hôm đó là ngày 25/04/67.

Ngài mất đi để lại một sự nghiệp vô giá. Phúc Âm do ngài biên soạn vẫn còn mãi. Danh ngài sẽ luôn được nhắc đến trong Giáo Hội, nhưng quan trọng hơn hết là phần thưởng bội hậu mà Thiên Chúa đã ban cho ngài trên Thiên Quốc.

Nguyện xin Chúa qua lời chuyển cầu của thánh nhân ban cho mỗi người chúng ta biết tích cực cộng tác với GH trong sứ mạng loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Ðức Kitô phục sinh trong những bổn phận hằng ngày với hết khả năng của mình bằng con tim cháy lửa yêu mến theo gương thánh Marcô tác giả của Tin mừng, mà chúng ta mừng kính hôm nay.

 

Thứ hai: Ga 3,1-8.

Tin mừng hôm nay thuật lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Nicôđêmô. Qua cuộc đối thoại này, Chúa giải thích cho ông Nicôđêmô hiểu được ý nghĩa của việc “tái sinh”; đồng thời Chúa Giêsu cũng cho ông ta biết giá trị và mục đích của việc “tái sinh”  là để được làm con Chúa và được vào nước trời.

Xin cho chúng ta biết quý trọng những ơn ích Chúa ban trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội mà sống xứng danh làm con Chúa.

Nếu phụng vụ lời Chúa trong tuần bát nhật phục sinh nhằm củng cố cho các tín hữu mới tòng đạo xác tín niềm vững vàng vào sự phục sinh Chúa Giêsu; thì phụng vụ lời Chúa tuần II phục sinh nhằm giúp các kitô hữu hiểu rõ hơn về giá trị, ý nghĩa và mục đích của bí tích rửa tội mà sống niềm tin sao cho phù hợp với ơn gọi của người kitô hữu.

Nicôđêmô, thủ lãnh người Do Thái, có địa vị, có học thức cao và là thành phần trong công nghị, được mọi người kính nể. Nghe những lời giảng dạy và chứng kiến những phép lạ Chúa Giêsu làm, ông cảm phục, tin nhận Chúa Giêsu là tôn sư đến từ Thiên Chúa. Tuy nhiên vì có nhiều điều không hiểu nên trong đêm khuya ông không ngần ngại tìm đến để gặp Chúa Giêsu để xin Người giải đáp.

Nghe những lời giảng hay, chứng kiến nhiều phép lạ nếu để vui tai, thích mắt thì chẳng ích lợi gì nếu bản thân chúng ta không thay đổi trở nên tốt hơn. Giảng dạy và phép lạ chỉ là phương tiện, nước trời mới là đích điểm.

Nhưng làm thế nào để đạt được nước trời?

Trong cuộc đàm đạo với Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã chỉ cho ông cách thức rất cụ thể để vào nước trời đó là phải “tái sinh”. Nicôđimô, chỉ hiểu tái sinh theo nghĩa xác thịt, theo cách thức tự nhiên nên ngây ngô thốt lên: “Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh ra được? chẳng lẽ người đó có thể trở vào lòng mẹ lần thứ hai để sinh ra sao?”. Chứng tỏ ông không hiểu việc tái sinh theo nghĩa siêu nhiên mà Chúa Giêsu đề cập đến : “Tái sinh bởi nước và Thần Khí”.

Để là người, chúng ta phải được sinh ra bởi cha mẹ. Các ngài đã truyền cho chúng ta sự sống tự nhiên. Để trở nên người, chúng ta phải được hướng dẫn giáo dục nhờ gia đình và xã hội. Nhưng để trở thành người con Chúa, chúng ta phải được sinh lại trong Chúa Thánh Thần nhờ bí tích rửa tội. Qua bí tích rửa tội Chúng ta được Chúa ban cho sự sống siêu nhiên.

Như thế, để làm người và nên người, chúng ta phải được sinh ra theo lối tự nhiên bởi cha mẹ. Nhưng để là người con Chúa, chúng ta phải được sinh ra theo lối siêu nhiên bởi nước và Thánh Thần qua bí tích rửa tội. Nhờ tái sinh qua bí tích rửa tội, chúng ta được Chúa tha thứ tội lỗi, được làm Con Chúa, được gia nhập vào Hội Thánh, được trở nên tạo vật mới mặc lấy Đức Kitô và được kêu mời trở nên ánh sáng giữa trần đời.

Chúa Giêsu đã chết để tiêu diệt sự chết và sống lại để phục hồi sự sống cho chúng ta. Vì thế chúng ta được Chúa kêu mời chết đi cho con người cũ bất tòan, tội lỗi để sống con người mới hoàn hảo nhờ được tái sinh trong Chúa.

Xin cho chúng ta biết ý thức gìn giữ và phát huy ơn trọng đại làm con Chúa trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội.  Biết chừa bỏ tội lỗi, tính hư nết xấu mà sống con người mới thánh thiện tốt lành, trở nên ánh sáng tin mừng phục sinh soi chiếu vào trần đời còn nhiều bóng tối, hầu xứng đáng được vào Nước Chúa.

 

Thứ ba: Ga 3,7b-15.

Suy niệm 1:

Xây dựng Họ đạo trở thành một cộng đoàn hiệp thông là một trong những tiêu chí mà GH luôn hướng đến. Điều này đã được HĐGM VN nhấn mạnh đến trong thư mục vụ năm 2015,  “Tân phúc âm đời sống Giáo xứ”.

Nhưng làm thế nào để xây dựng Họ Đạo trở thành một cộng đoàn hiệp thông?

Thư mục vụ 2015 mời gọi chúng ta hãy chiêm ngắm và noi gương đời sống cộng đoàn tín hữu thời GH ban đầu được sách CVTĐ hôm nói đến. Đó là một cộng đoàn tín hữu không những hiệp thông bên ngoài: “…đối với họ, mọi sự đều là của chung”, nhưng trên hết là bên trong “một lòng một ý”. Qủa là cộng đoàn tín hữu tuyệt đẹp, đáng mơ ước!

Vậy nhờ vào đâu mà cộng đoàn GH non trẻ làm được điều kỳ diệu ấy?

Có phải nhờ tài năng lãnh đạo của các tông đồ không? Chắc chắn là không. Vì các tông đồ đa phần là những người bình dân học vụ, kiến thức và kinh nghiệm lãnh đạo non nớt.

Có phải nhờ vào tình trạng dân trí cao và hiểu biết giáo lý sâu rộng không? Chắn chắn là trình độ hiểu biết về giáo lý, kinh thánh cũng như kiến thức khoa học của các kitô hữu bấy không sánh được như ngày nay…

Có phải nhờ vào nền kinh tế phát triển phồn vinh và đời sống vật chất dân chúng bấy giờ dư đầy không? Chắn chắn là không!

Vậy nhờ đâu?

Thưa nhờ sức mạnh của đức tin.

Tin vào quyền năng của Thiên Chúa nên họ không ngại từ bỏ ý riêng để cùng tùng phục ý Chúa.

Tin vào cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô do các tông đồ làm chứng nên họ đã vượt lên những ích lợi vật chất đời này mà mưu tìm giá trị vĩnh cửu mai sau.

Tin vào uy tín và thế giá của các tông đồ nên họ sẵn sàng gom góp của cải mình có đem đến đặt dưới chân các tông đồ làm của chung.

Trên hết là vì họ tin vào tình yêu chân thành của nhau và xem nhau như là anh em một nhà nên mong muốn “không ai phải thiếu thốn điều gì”.

Đã có thời nhiều quốc gia, nhiều triết thuyết muốn xây dựng xã hội thành một cộng đoàn hiệp thông như cộng đoàn của các Kitô hữu đầu tiên, nhưng đều thất bại. Bởi lẽ sự hiệp thông ấy không đến từ sức mạnh con người, nhưng đến từ sức mạnh bởi ơn trên. Chính vì thế mà trong bài Tin mừng hôm qua Chúa Giêsu xác quyết mạnh mẽ với Nicôđêmô: “…không ai có thể thấy nước Thiên Chúa , nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên”.(Ga 3, 3). Chính nhờ ơn ban của Thiên Chúa và sức mạnh biến đổi của Chúa Thánh Thần, con người mới có thể tin nhận vào Chúa Giêsu, Đấng từ trời xuống, nhờ đó mà được sống muôn đời như lời Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô trong bài Tin mừng hôm nay .

Như thế để xây dựng Họ đạo thành một cộng đoàn hiệp thông theo mô hình của các kitô hữu ban đầu, cần phải có đức tin: Tin vào Thiên Chúa quyền năng, tin vào uy tín và thế giá của GH cũng như tin vào sự chân thành của nhau. Mà đức tin là một ân ban từ trên cao và từ bên trong. Vì thế chúng ta tha thiết xin Chúa củng cố niềm tin nơi mỗi người chúng ta.  Nhờ đó chúng ta mới có thể xây dựng Họ đạo trở thành một cộng đoàn hiệp thông như cộng đoàn các tín hữu ban đầu.

 

Suy niệm 2:

Qua cuộc đàm đạo với Nicôđêmô trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác nhận cho biết về nguồn gốc và vai trò của Người trong việc cứu độ con người.

- Trước hết Chúa Giêsu minh chứng về nguồn gốc của Người.

Nguồn gốc của Người đến từ trời cao, nên Người biết và thấy hết những điều kiện cần thiết để được sự sống đời đời. Điều kiện cần thiết ấy chính là “phải được sinh lại bởi ơn trên”. Bởi vậy trước khi lên trời, Chúa Giêsu đã truyền dạy các tông đồ đi loan báoTin Mừng và rửa tội cho muôn dân: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép Rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án…” (Mc 16, 15-16).

- Tiếp đến Chúa Giêsu cho biết vai trò của Người trong việc cứu độ.

Với hình ảnh con rắn đồng được treo trong sa mạc thời Mô-sê đã cứu chữa những người bị rắn lữa cắn khỏi chết, nhờ tin nhận và nhìn lên rắn đồng, Chúa Giêsu mời gọi Nicôđêmô hãytin vào Ngài để được cứu độ.

Nếu xưa kia nguyên tổ đã nghe lời cám dỗ của ma quỷ, đưa tay hái trái cấm trên cây mà ăn để rồi nhận lấy án tử, thì nay với cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, Thánh Giá trở thành cây quả phúc, Chúa Giêsu trở nên trái chín thơm lành, mang lại sự sống trường sinh cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài và can đảm ăn lấy Ngài.  

Tin tưởng nhìn lên Ngài và ăn lấy Ngài, đồng nghĩa với việc chấp nhận đồng thân, đồng phận, và đồng tử với Chúa Giêsu trên con đường khổ giá.

Như thế để được sự sống đời đời ngoài điều kiện được sinh lại bởi ơn trên nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta còn phải can đảm dấn bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá, qua việc chấp nhận những thử thách, gian nan, khốn khó ở đời này với lòng tin tưởng vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta trong mùa phục sinh này, biết ý thức sống trọn vẹn ơn tái sinh làm con Chúa, dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần; nhất là luôn can đảm chấp nhận vác thập giá mình, bước theo Chúa Giêsu trong niềm xác tín: “Nếu chúng ta cùng chết với Ðức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người…” (Rm 6,8).

 

Thứ tư: Ga 3, 16-21

Suy niệm 1:

Cùng với GH chúng ta đang sống trong năm thánh của lòng thương xót Chúa.

Lòng thương xót của Thiên Chúa thể hiện qua suốt chiều dài lịch sử và rộng khắp mọi nơi, mọi thời. Lòng thương xót của Chúa cũng thể hiện qua muôn vàn cách thế với nhiều hình thức khác nhau. Cụ thể phụng vụ lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhận ra một vài cách thế của lòng thương xót Chúa.

 Bài đọc I cho biết: lòng thương xót Chúa được thể hiện qua sự quan phòng kỳ diệu bằng việc giải thoát các tông đồ ra khỏi ngục tù trong đêm tối, nhờ vào sự hướng dẫn của vị Thiên Sứ Chúa sai đến; cũng như qua sức mạnh hỗ trợ của dân chúng, khiến cho các thượng tế phải dè chừng trước những hành động sai trái của họ.

Còn bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho Nicôđêmô biết về lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa qua việc trao ban chính Người Con yêu dấu của Ngài “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi dã ban chính người con của Ngài là đức kitô. Để ai tin vào người con ấy thì không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời”.

Lòng thương xót của Chúa thật vô biên. Đáng lẽ vì phạm tội con người phải nhận lấy đau khổ và án chết đời đời, nhưng vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã hy sinh chính con mình là Đức Giêsu. Để nhờ và qua Người Con ấy, con người được cứu độ.

Thánh Gioan xác quyết: Đức Kitô chính là Ánh Sáng. Chúa đã đến thế gian nhằm xua tan bóng tối của tội lỗi và sự chết. Vì thế từ nay ai tin nhận và bước theo Ánh Sáng ấy soi dẫn thì sẽ không chết trong bóng đêm tội lỗi, nhưng sẽ được sự sống đời đời trong ánh sáng vinh quang.

Nhưng khốn thay thế gian lại sợ ánh sáng và thích bóng tối, bởi vì ánh sáng phơi bày tội ác xấu xa của họ. Vì thế mỗi chúng ta hãy can đảm bước vào vùng sáng chân lý, hãy mạnh dạn khướt từ bóng tối của đam mê dục vọng và sự dữ, nhờ đó ánh sáng của lòng thương xót Chúa mới được lan tỏa đến mọi người và mọi nơi.

Xin ánh sáng Chúa Kitô phục sinh được thắp lên trong lòng của mỗi chúng ta để ta lan tỏa ánh sáng lòng thương xót Chúa đến những nơi còn sống trong bóng tối tử thần với hy vọng mọi người tin nhận ánh sáng của lòng thương xót Chúa mà được cứu độ..

 

Suy niệm 2:

Ánh sáng và bóng tối, sống và chết luôn tồn tại nơi trần gian và trong mỗi người chúng ta. Muốn bước đi trong ánh sáng để được sự sống đời đời, chúng ta cần phải đến cùng Đức Giêsu, nguồn ánh sáng và là Đấng ban sự sống.

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh Ánh Sáng để chỉ về Người.

Ánh sáng là thứ quan trọng và gần gũi với con người. Ánh sáng rất cần thiết cho sự sống. Không có ánh sáng thì không có sự sống. Thảo mộc , súc vật và con người nếu không có ánh sáng thì sẽ chết.

Ánh sáng giúp cho con người thấy nhau, thấy được vẽ đẹp vũ trụ vạn vật, phân biệt được màu sắc và cảnh vật.

Trong lãnh vực siêu nhiên, Chúa Giêsu muốn nói đến sự cần thiết của Ngài như ánh sáng không thể thiếu. Không có Người thì tạo vật không được tạo thành. Không có Người không có ơn cứu rỗi. Không có Người không có sự sống đích thực nơi con người.

Nhưng con người chúng ta lại sợ ánh sáng và ngại đến cùng ánh sáng vì ánh sáng phơi bày tội lỗi chúng ta trước mặt Chúa và mọi người, nên chúng ta yêu bóng tối hơn ánh sáng.

Xin Chúa giúp chúng ta biết can đảm đẩy lui những bóng tối của gian dối, bất công, chia rẽ hận thù và sự chết ra khỏi tâm hồn và môi trường sống của ta.

Xin cho chúng ta luôn yêu thích tắm dội ánh sáng chân lý, tình thương và sự sống của Chúa Giêsu vào cuộc đời ta.

 

Suy niệm 3:

Sống trong xã hội vàng thau lẫn lộn, con người không còn khả năng phân biệt đúng sai, tốt xấu, thật giả…vì thế, hơn bao giờ hết con người ngày hôm nay cần có ánh sáng thật soi đường, chỉ lối.

Chúa Kitô, ánh sáng thật, đến trần gian để soi đường chỉ lối. Xin cho chúng ta tin nhận và sống theo sự hướng dẫn của Ngài.

Ánh sáng là chủ đề tài nổi bậc trong tin mừng:

Ngay những trang đầu của tin mừng, thánh Gioan đã cho biết Chúa Giêsu chính là “ánh sáng, ánh sáng thật, ánh sáng đến trần gian và chiếu soi mọi người”.

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự xưng là ánh sáng thế gian và Ngài mời gọi con người đi trong ánh sáng của Ngài.

Từ hai ngàn năm qua, Ngôi Lời Thiên Chúa đã chiếu ánh sáng Thiên Chúa vào trần gian. Người mang lửa xuống trần gian. Người mong ước cho ngọn lửa ấy cháy bừng lên, lan rộng ra. Nhưng nhìn vào tình hình thế giới hôm nay, ta thấy bóng tối vẫn còn vây phủ con người.

 Bóng tối chết chóc của chiến tranh, hận thù, của ô nhiễm môi trường, của đói nghèo, áp bức, phân biệt chủng tộc, của nền văn hóa sự chết giết hại cả những mầm mống sự sống.

Bóng tối tội lỗi. Tội lỗi vẫn tiếp tục lan tràn. Sự dữ nổi lên dưới nhiều hình thức khác nhau. Nguy hiểm nhất là người ta đánh mất cảm thức về tội lỗi, thản nhiên sống trong tội, sống chung với tội lỗi.

Bóng tối của hận thù ghen ghét. Trong thế giới văn minh mà con người hô hào hôm nay, vẫn còn có những người say máu giết hại đồng bào của mình, gây nên tội ác diệt chủng. Vẫn có những thế lực đen tối ngấm ngầm gây chia rẽ giữa các quốc gia, dân tộc, giữa các cộng đoàn, hội thánh...

Sống trong xã hội tràn ngập bóng tối của sự chết, của tội lỗi và hận thù…như thế, Chúa Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta phải chiếu giãi trước mặt mọi người.

“Các con là ánh sáng thế gian”. Ngày nhận lãnh bí tích rửa tội, Giáo Hội trao cho ta cây nến sáng để nhắc nhớ chúng ta hãy gìn giữ ngọn nến ấy luôn cháy sáng mãi trong suốt cuộc đời.

Cây nến phục sinh mà người kitô hữu chúng ta thắp lên trong đêm lễ phục sinh nhắc nhở chúng ta nhiệm vụ mang ánh sáng Chúa Kitô chia sẻ cho mọi người chung quanh.

Xin Chúa giúp chúng ta tẩy sạch mọi bóng tối tội lỗi, để thực sự được sinh lại cùng với Đức Giê-su. Trở nên con cái sự sáng bằng đời sống tươi vui, an hoà, khiêm nhường, nhịn nhục, yêu thương, đoàn kết đến cho anh em.

 

Thứ năm: Ga 3, 31-36.

Suy niệm 1:

Cuộc sống là một chuỗi những lựa chọn. Chọn đúng làm cho cuộc sống trở hạnh phúc. Chọn lựa sai sẽ làm cho ta bất hạnh. Chọn lựa là quyền tự do căn bản của con người. Chính quyền ấy đã được Thiên Chúa ban tặng và luôn tôn trọng. Vì thế chúng ta phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn ấy. Phụng vụ lời chúa hôm nay đặt ra cho các tông đồ và Nicôđêmô những lựa chọn.

- Bài đọc I đặt ra cho các tông đồ đứng trước giữa hai chọn lựa:

Chọn nghe theo lời các thượng tế im lặng trước sự thật về sự kiện phục sinh của Chúa Giêsu thì được an phận. Còn nếu lên tiếng rao giảng và làm chứng cho sự thật ấy thì sẽ nguy hại đến bản thân. Nhưng nhờ ơn sức mạnh của Chúa Thánh Thần thúc đẩy, các ngài đã mạnh mẽ chọn đứng về sự thật: “Vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”.

Còn bài tin mừng hôm nay thì Chúa Giêsu lại đặt ra cho Nicôđêmô về hai chọn lựa: tin hay không tin vào Ngài. Chúa Giêsu nói:“Ngài chính là  Đấng được Thiên Chúa sai đến, Ngài nói những lời của Thiên Chúa… ai tin vào Ngài thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào Ngài, thì sẽ không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy”. Ta không biết sau đó ông đã chọn lựa thế nào, bởi tin mừng bỏ ngỏ. Điều này khiến chúng ta lại phải nghĩ đến quyết định lựa chọn của mỗi người chúng ta.

- Đúng vậy, chọn lựa luôn gắn liền với đời sống chúng ta. Nhìn lại cuộc sống thường ngày, chúng ta thấy mình thích chọn lựa những gì xem ra nhẹ nhàn, dễ dãi, không thích chọn gian khổ hy sinh; chúng ta thích chọn nghe những lời ngon ngọt, a dua, ngợi khen chúc tụng hơn là những lời chân thật, bởi lời thật thì đắng lòng. Cũng thế chúng ta thường thích nói những lời của con người hơn là nói những Lời của Chúa. Chúng ta thích chọn lựa đứng về lợi ích nhóm hơn là đứng về những ai cô thế cô thân. Chúng thường hay chọn im lặng trước dối trá hơn là bên vực cho công lý... Nhất là chúng ta hay chọn an phận hơn là làm chứng nhân cho Chúa.

Xin Chúa Giêsu Phục sinh ban dồi dào ơn khôn ngoan và sức mạnh của Chúa Thánh Thần trên chúng ta, để chúng ta biết chọn lựa sao cho đúng ý Chúa và can đảm sống theo sự lựa chọn ấy cho dẫu phải hy sinh và thiệt thòi vì biết rằng mình đã làm đẹp lòng Chúa như các tông đồ xưa. Có như vậy ta mới xứng đáng đón nhận ơn cứu độ do Chúa Giêsu phục sinh đem đến.

 

Suy niệm 2:

Bằng những hình ảnh đối lập: Cao- thấp, trời-đất, Chúa Giêsu muốn xác định thiên tính của Ngài và mời gọi chúng ta dấn bước theo Ngài để được sự sống đời đời. Bởi lẽ Ngài đến từ trên cao nên cao trọng hơn hết mọi người. Ngài được Thiên Chúa sai đi nên Ngài là Người của Thiên Chúa. Ngài được Thiên Chúa yêu thương trao ban thần khí vô ngần vô hạn và được Chúa Cha trao ban mọi sự trong tay Ngài, điều này xác nhận Ngài chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa.

Vì ngài đến từ trời cao, là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa làm người, nên Ngài thấy hết, biết hết các việc trên trời. Do đó lời chứng của Ngài là chân thật, để ai tin vào Ngài thì được sự sống đời đời, kẻ nào không tin thì sẽ bị luận phạt.

Là Thiên Chúa làm người và đã trãi qua kiếp người bằng cái chết đau thương để rồi phục sinh vinh hiển trở về cùng Thiên Chúa, nên ai tin theo con đường Ngài đã đi thì sẽ không sợ lạc đường về quê trời.  

Chúa Giêsu không chỉ vạch ra cho ta con đường đạt đến sự sống đời đời, mà Ngài còn dấn thân tiến bước trên con đường ấy. Vì thế chúng ta hãy vững tin tiến bước theo Ngài. Đường dẫn về quê trời đã có, người dẫn đường đã sẵn sàng, điều quan trọng là tùy thuộc nơi mỗi chúng ta có dám dấn thân bước theo hay không? Chúa không thể bắt ép ta bước đi trên con đường ấy, nếu như ta không muốn.

Xin cho chúng ta biết ngước vọng về trời cao và hướng lòng trí về quê trời vĩnh cửu mà xin cho lòng được ái mộ những sự trên trời. Nhờ đó ta sẵn sàng dấn thân bước theo con đường mà Chúa Giêsu đã vạch ra mà thoát khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa để được Chúa thương ban cho chúng ta sự sống đời đời.

 

Thứ sáu: Ga 6, 1-15.

Suy niệm 1:

“Hãy tín thác vào lòng thương xót Chúa”, đó là sứ điệp mà Chúa Giêsu gửi đến nhân loại qua thánh nữ Faustina. Sứ điệp ấy càng được xác tín qua phụng vụ lời Chúa hôm nay.

Bài đọc I hôm nay cho biết: trong lúc mà các giới chức lãnh đạo tôn giáo triệu tập họp hội đồng Do Thái để tìm cách tiêu diệt các tông đồ nhằm dập tắt đạo Giêsu. Thì Chúa lại quan phòng cho một người Pharisêu tên là Gamaliên đứng ra giữa hội đồng để phân tích thiệt hơn nếu ra tay giết hại các tông đồ.

Sau khi ông nhắc lại các phong trào mang tính nhân loại thuần túy nổi lên trước đây nhưng đến nay tất cả đều bị tan rã. Thì ngay sau đó ông xác tín rằng:“Còn quả thật là do Thiên Chúa thì không thể nào phá hủy được, không khéo lại quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa”. Nghe những lời đó nên họ chùng bước, chỉ quyết định đem các tông đồ ra đánh đòn và cấm không cho nói đến danh Đức Giêsu nữa, rồi thả đi. Dẫu bị đánh đập nhưng các tông đồ cảm thấy “lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu và tiếp tục rao giảng và loan báo tin mừng tại tư gia và trong đền thờ”.

Còn bài tin mừng thì tường thuật lại những hoạt động của Chúa Giêsu bên kia biển hồ Ga-li-lê. Chiêm ngắm về tất cả những lời nói, cử chỉ, việc làm của Chúa Giêsu được thể hiện trong bài tin mừng hôm nay, ta nhận thấy Chúa Giêsu không chỉ quan tâm đến nhu cầu tâm linh mà còn cả nhu cầu vật chất của dân chúng nữa. Với lòng thương xót trước sự bơ vơ và đói khát của đám đông dân chúng theo Ngài nên Ngài đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống họ.

Như thế lời Chúa hôm nay giúp chúng ta hiểu rằng một khi can đảm tín thác vào lòng thương xót Chúa qua việc dấn bước theo và nghe Lời giảng dạy của Ngài (bài tin mừng), cũng như hy sinh làm chứng cho tin mừng phục sinh của Ngài (bài đọc I) thì Chúa không bỏ rơi bao giờ.

Xin cho chúng ta luôn biết tín thác mạnh mẽ vào lòng thương xót của Chúa để can đảm loan truyền tình thương của Ngài cho mọi nơi dẫu phải gặp nhiều thử thách với niềm tin rằng: “có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại chúng ta?”.  

 

Suy niệm 2:

Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám đông. Cho thấy Ngài quan tâm đến nhu cầu của thân xác của con người. Nhưng Ngài không dừng lại ở việc thỏa mãn nhu cầu cơ bản là “đói cho ăn, khát cho uống”. Cơm bánh chỉ là thứ lương thực mau qua dành cho thân xác, chứ không phải là thứ lương thực đem lại sự sống đời đời. Do đó Ngài muốn ban cho con người thứ lương thực trường tồn đem lại sự sống vĩnh cửu.

Để có được của ăn mau qua, nuôi dưỡng thân xác, con người phải ra công làm việc vất vã “đổ mồ hôi sót con mắt ”, cũng như biết nhường cơm xẻ áo cho nhau.

 Để có của ăn vĩnh cửu, nuôi dưỡng tinh thần và tâm linh, con người chỉ cần làm hai việc: Đến với Chúa Giêsu và Tin vào Ngài.

Cái đói của thân xác không cồn cào bằng cái đói tinh thần.

Con người đói công bằng và hạnh phúc, đói yêu thương và kính trọng.

Con người khát niềm vui và bình an, cảm thông và sự thật.

Trong nơi sâu thẳm, con người đói khát Ai đó để mình yêu mến tôn thờ.

Đức Giêsu mời ta hãy tin vào Ngài là Đấng được Thiên Chúa sai đến.

Hãy đến với Giêsu để bắt đầu được nếm thử tấm bánh của Ngài, vì chính Ngài là Tình yêu, Sự thật và Bình an.

Xin cho chúng ta biết siêng năng đến với Chúa Giêsu với niềm tin yêu, để chúng ta được chính Chúa nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Bánh Thánh, là thứ lương thực không hư nát và đem lại sự sống đời đời cho chúng ta.

 

Thứ bảy: Ga 6, 16-21

Suy niệm 1:

Các nhà xã hội học định nghĩa: “con người là con vật có xã hội tính”. Do đó không ai là một hòn đảo. Chúng ta sống là sống với, sống cùng, sống cho, sống vì và sống nhờ nhau… Nhờ đời sống cộng đồng mà con người được lớn lên, phát triển và thành toàn hơn do sự tương trợ lẫn nhau. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng bởi đời sống chung mà cuộc sống chúng ta gặp phải không ít khó khăn và thử thách.

- Bài đọc I hôm nay cho thấy có một vấn đề khó khăn được đặt ra trong đời sống của cộng đoàn sơ khai. Đó là sự ghen tỵ, phân bì xảy ra, bởi lẽ vì những bà góa Do Thái gốc Hy Lạp phải chịu thiệt thòi bởi không được các tông đồ quan tâm nhiều. Điều này có nguy cơ đưa đến sự chia rẻ, hận thù và trở thành gương mù. Sáng suốt nhận ra nguy hại ấy nên các tông đồ đã tìm cách giải quyết. Thay vì dùng quyền bính của mình để chống chế hoặc tìm cách loại trừ họ ra khỏi cộng đoàn, thì trái lại các tông đồ lại biết khiêm tốn nhận ra sự thiếu xót của mình vì đã không quan tâm đủ để chăm lo cho mọi người. Để giải quyết cho nhu cầu chính đáng ấy cho mọi thành phần, các tông đồ đã đề nghị bầu chọn thêm 7 phó tế để nhằm phụ giúp các ngài chăm lo phục vụ cho các bà góa, cho dẫu đây thành phần này không được xã hội đề cao thời bấy giờ. Nhờ đó mà cuộc sống của cộng đoàn bấy giờ trở nên êm đẹp.

- Bài Tin mừng hôm nay thì nêu lên những sóng gió mà các tông đồ gặp phải khi xuống thuyền sang bờ bên kia biển hồ trong đêm tối. Trong bóng đêm ngoài việc phải vất vả chống chọi với sóng to gió lớn, các ông còn phải đối mặt với sự sợ hãi kinh hồn khi thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với họ, vì tưởng là ma. Nhưng nhờ lời trấn an của Chúa Giêsu: “Thầy đây mà, đừng sợ!”,  bấy giờ các ông mới tìm lại được sự bình an và con thuyền cũng được cập bến an toàn.

- Cuộc đời ta của chúng ta cũng tựa như một cuộc hải trình vượt biển trần, có lúc thuyền đời của ta cảm thấy bình yên nhưng cũng có lúc bất an sợ hãi vì sóng gió nổi lên. Nhưng nếu chúng ta nhận ra có Chúa cùng đồng hành trong mọi cảnh huống của cuộc đời, ta sẽ cảm thấy bình an cho dẫu phải dối mặt với nhiều sóng gió.

Xin Chúa phục sinh luôn ở bên để bảo vệ, che chở và hướng dẫn chúng ta biết chọn lựa sống theo thánh ý Chúa, nhờ đó thuyền đời của ta sẽ dễ dàng vượt qua mọi sóng gió hiễm nguy mà đạt đến bến bờ của an vui và hạnh phúc nhờ quyền năng của Chúa.

 

Suy niệm 2:

Suy niệm về bài tin mừng hôm nay, ta nhận ra rằng:

- Các môn đệ chính là mỗi người chúng ta.

- Con thuyền là hình ảnh của Giáo Hội.

- Biển Hồ là hình ảnh trần gian.

- Đêm tối, bảo tố, gió mạnh là những thử thách do ma quỷ gây nên.

- Bờ bên kia là hạnh phúc nước trời mà con người cần vươn tới.

Cũng như các môn đệ xưa, chúng ta đã bước vào con thuyền của Giáo Hội khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy. Cùng với con thuyền Giáo hội, chúng ta đang tiến bước trên biển đời trần gian.

Giống như con thuyền của các môn đệ bị những cơn sóng to, gió lớn đánh dữ dội, thì ở mọi thời, mọi nơi Giáo Hội cách chung, cách riêng mỗi chúng ta cũng đương đầu với những chống đối, những vu khống, bôi nhọ và loại trừ do thế lực ma quỷ gây ra.

Có khi những bóng tối, những vết đen đáng tiếc xảy ra trong Giáo Hội cách chung hay những đau khổ, những thất bại và những bất hạnh xảy đến cho bản thân, làm cho ta dao động, mất hướng sống. Khi đó là lúc thuyền đời của ta đang đi trong đêm tối đức tin, đến nỗi ta muốn buông xuôi tất cả.

Quan trọng là Chúa Giêsu phục sinh không bỏ rơi chúng ta khi gặp gian nan thử thách. Chính lúc đó, Chúa sẽ ra tay cứu giúp chúng ta, không để cho sóng gió nhận chìm chúng ta vì “Ơn Ta đủ cho con”. Ngài vẫn ở bên Giáo Hội. Ngài luôn đồng hành và hiện diện bên mỗi người chúng ta. Ngài ban Chúa Thánh Thần hướng dẫn Giáo Hội và ban ơn trợ giúp chúng tađủ sức lướt thắng mọi sóng to gió lớn và dìu bước chúng tacập bến bình an, nếu chúng ta tin tưởng cậy trông phó thác vào Ngài.

Xin Chúa phục sinh ban thêm lòng tin kiên vững nơi chúngcon, để dù trong bất cứ hoàn cảnh thử thách nào, ngay cả những lúc bước đi trong đêm tối của đức tin, chúng con vẫn an tâm tiến bước trên biển đời. Xin Chúa luôn hiện diện và đồng hành với chúng con, để đưa dẫn chúng con đạt tới bến bờ bình an.

 

  SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXXIV THƯỜNG NIÊN Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN-B KÍNH TRỌNG THỂ CHÚA KITÔ, VUA VŨ TRỤ Đn 7,...