SUY NIỆM
LỜI CHÚA TUẦN XXX TN, 2018
CHÚA NHẬT
XXX TN B
Tin mừng hôm nay trình thuật lại phép
lạ Chúa Giêsu chữa cho đôi mắt mù lòa của anh chàng Bartimê được sáng, nhờ vào
lòng tin kiên vững và lời kêu xin tha thiết của anh ta. Với lòng tin tưởng cậy
trông vào quyền năng Chúa, trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cũng hãy thiết tha
cầu xin Chúa thương cứu chữa con mắt tâm hồn còn mù lòa của chúng ta để ta nhận
ra Chúa là Cha giàu lòng thương xót, nhận ra tha nhân là anh em và nhận ra
những tính hư tật xấu, tội lỗi của chúng ta mà thành tâm ăn năn sám hối để xứng
đáng tham dự vào mầu nhiệm thánh.
Anh mù được tin mừng hôm nay nhắc đến
rất đổi quen thuộc: Địa chỉ thường trú của anh là ở thành Giêricô. Tên đích
danh của anh ta là Bartimê, ai cũng biết. Cha của anh là ông Timê, chẳng xa lạ
gì. Hằng ngày anh mù Bartimê này phải mò mẫm đi lại nơi đây để xin lòng thương
xót của mọi người.Vì thân phận mù lòa, trót mang kiếp sống "cầm ca"
nên anh ta đã bị xã hội loại trừ và mọi người xa lánh. Tiếng kêu xin của anh ta
đã trở thành âm thanh chói tai đối với mọi người qua chốn ấy nên không ai quan
tâm lắng nghe và muốn đến gần anh ta.
Nhưng người đời thường nói “có tật,
có tài”. Cho dù mọi nguời xa tránh làm ngơ, nhưng anh mù vẫn biết Đức Giêsu
hằng quan tâm và yêu thương đến anh. Nên cho dẫu mọi người hôm đó không nhận ra
sứ mạng Thiên Sai của ông Giêsu, còn anh mù với con mắt nhạy bén của tâm
hồn, anh lại sáng suốt nhận ra sứ mạng bí mật Thiên Sai của Đức Giêsu. Vì vậy,
anh ta đã không ngần ngại lớn tiếng kêu vang xin Người:“Lạy ông Giêsu, con
vua Đavit. Xin dủ lòng thương tôi”. Bằng cảm nhận trực giác, anh ta nhận ra
quyền năng chữa lành nơi Đức. Vì thế, dù bị cản ngăn, cấm đoán anh càng kêu xin
thiết tha hơn.
Thật tinh tường, anh ta còn
thấy nơi Đức Giêsu có một kho báu rất quý giá mà trần gian chẳng ai có, đó là
quyền cứu chữa. Vì thế, anh ta đã không hề xin Người tiền bạc, cơm gạo, bánh
trái… như mọi ngày; trái lại anh ta chỉ xin Người cho anh được sáng mắt: “xin
cho tôi được sáng”.
Nhờ nổ lực cảm nhận thế giới và con
người bằng đôi mắt của tâm hồn, của đức tin và rồi nổ lực hết sức mình để thể
hiện cảm nhận đó nên lời kêu xin tha thiết của anh đã được Chúa lắng nghe và
nhận lời. Do đó, Người đã ra tay cứu chữa đôi mắt mù lòa của anh được sáng.
Hằng ngày các môn đệ vẫn thấy,
vẫn nghe Chúa Giêsu nói. Các ông đã chứng kiến bao là phép lạ Người làm, nhưng
vì mơ tưởng địa vị cao sang, chức cao quyền trọng nên đôi mắt họ đã bị che mờ,
không còn khả nhận ra sứ mạng Messia nơi Chúa Giêsu.
Xin Chúa cho chúng ta có được đôi mắt
của đức tin để ta nhận ra những kỳ công lạ lùng của Chúa trong vũ trụ này,
cũng như nhìn thấy được những ân huệ lớn lao mà Chúa thương ban trên cuộc đời
ta.
Xin Chúa loại trừ khỏi những áng mây
đen của vô tình, hững hờ và khinh khi… đang che phủ đôi mắt tâm hồn chúng ta,
để ta nhìn thấy đời, nhận ra người bằng ánh mắt của cảm thông, bao dung và trân
quý.
Xin Chúa đừng bao giờ để ta hành xử
vô duyên đối với nhau bằng những lời nói xúc phạm đến nổi đau khiếm khuyết của
tha nhân; hay bởi những hành vi ngăn cản, cấm đoán, tẩy trừ những ước muốn
chính đáng của người khác. Trái lại, xin ban cho chúng ta có những hành vi thật
đẹp bởi những lời nói cảm thông, những việc làm bác ái, những hy sinh phục vụ
quên mình. Nhất là đừng bao giờ để ta có thái độ hay hành vi ngăn cản những
người yếu đuối, sa ngã tìm đến với Chúa.
Thứ hai:
Lc 12, 13-21
Trang Tin mừng hôm nay, gợi lên cho
chúng ta nhiều bài học quý:
1. Nơi Đức Giêsu.
Vẫn biết rằng việc chữa bệnh cho
người đàn bà bị còng lưng trong ngày Sabat là gặp phải sự phản ứng mạnh mẻ của
nhiều phe nhóm, cụ thể là thái độ phản đối của ông trưởng hội đường hôm nay.
Thế mà Chúa Giêsu lại không chùn bước và sợ hãi. Trái lại với tình yêu
thúc đẩy và luật bác ái đòi buộc, Chúa Giêsu đã ra tay cứu chữa cho bà. Hành
động này của Chúa Giêsu gợi lên trong ta nhiều suy nghĩ:
- Khi thực thi tình bác ái đối với
tha nhân, nhiều lúc tôi cũng bị người đời gièm pha chỉ trích hoặc giả bị ngăn
cản chống đối. Vậy tôi có chùn bước không?
- Để an phận, để a- dua theo cái nhìn
sai lạc của thói đời, tôi có thường dửng dưng trước những đau khổ của tha nhân
không?
- Đã bao lần tôi có đủ can đảm để
thực thi luật tình yêu, bằng cách tận tâm giúp đỡ những người gặp khốn khổ
chung quanh tôi?
2. Nơi ông trưởng hội đường.
Với danh phận là người đứng đầu của
Hội đường, đáng lẽ ông phải là người đầu tiên cảm thương cho số phận khốn khổ
của người chị em mình, vì suốt 18 năm dài lưng chị bị còng không ngẩng đầu lên
nổi.
Hơn ai hết ông phải là người vui nhất
khi nhìn thấy người chị em mình được cứu chữa; ấy vậy mà khi chứng kiến
người chị em này được Chúa Giêsu chữa lành, ông ta lại tỏ ra khó chịu.
Như "Giận cá chém thớt", ông quay về phía dân chúng
trút xuống cơn mưa giận dữ khi tuyên bố: "có sáu ngày người ta
phải làm việc: vậy thì các người hãy đến xin chữa bệnh trong những ngày đó, chứ
đừng đến trong ngày Sabat.".
Để cởi trói cái nhìn và quan niệm sai
lạc về việc giữ luật ngày Sabat, Chúa Giêsu đã không ngần ngại lên án mạnh
mẽ lối sống giả hình của ông, rồi xác định cho mọi người thấy được giá trị cao
quý của phẩm giá con người khi tuyên bố: "chớ thì trong ngày
Sabat, mỗi người trong các ông không thả bò hay lừa của mình ra khỏi chuồng mà
dẫn nó đi uống nước nước sao? Phương chi người con gái của Abraham này, Satan
đã cột trói nó đã 18 năm nay, chớ thì không nên tháo xiếng xích buộc nó trong
ngày Sabat sao?". Súc vật mà còn được tháo cởi trong ngày Sabat
để chúng tự do đi lại ăn uống, thì tại sao người đàn bà này là con gái
của tổ phụ Abraham và là con Thiên Chúa lại không được thừa hưởng quyền tự do
cơ bản đó!.
Qua đây Chúa Giêsu minh chứng rằng:
chỉ có một lề luật duy nhất để tuân giữ, đó là luật yêu thương, và chỉ có một
giá trị cao cả nhất để sống và chết cho đó là tự do làm người và làm con Chúa.
Xin Chúa loại trừ nơi chúng ta những
đố kỵ, ghen ghét tầm thường để chúng ta có được cái nhìn trong sáng đúng đắn.
Và xin Chúa giúp chúng ta luôn biết sống nhân ái bao dung với hết mọi người như
Chúa đã hằng nhân ái với chúng ta. Amen
3. Nơi người đàn bà bị còng lưng 18
năm.
Với hình ảnh người đàn bà bị còng
lưng 18 năm trời, cho thấy nổi đau mà bà phải cam chịu trong suốt thời gian
dài, thật khổ!
Khổ vì không ngước mặt lên được để
nhìn người, nhìn đời.
Khổ vì không thể nhìn xa, ngước cao
dù chỉ một lần.
Khổ vì mang gánh nặng mặc cảm tội lỗi
mà người đời gán ghép cho. (người Do Thái cho rằng bệnh tật là do tội lỗi gây
nên).
Khổ vì hằng ngày phải đối diện với
bao lời xì xầm nhạo cười của bao người chung quanh, do tướng mạo khác người.
Việc bà được Chúa Giêsu chữa khỏi quả
là một niềm vui lớn lao. Vui vì từ nay gánh nặng trên lưng bà được cất khỏi sau
18 năm trời mang lấy. Vui vì khối u tội lỗi đè nặng tâm hồn bà nay được gỡ bỏ.
Từ nay bà có thể ngước nhìn đời và nhìn người cách dễ dàng. Hạnh phúc nào
bằng khi hôm nay bà có thể hòa nhập với mọi người trong các sinh hoạt xã hội và
tôn giáo. Từ nay bà tự do hướng nhìn về trời cao và có quyền mơ ước những điều
cao quý như bao người!
Tội lỗi, tính hư tật xấu là gánh nặng
vô hình nhiều lúc cũng đè nặng tâm hồn và cuộc sống chúng ta. Mong được giải
thoát, trút khỏi gánh nặng nề ấy để lòng được thanh thản, an vui là nổi khát
khao lớn lao của mỗi người. Nhưng tự sức ta nhiều lúc không đủ sức vượt thoát
khỏi những trói buộc vô hình ấy. Chỉ có quyền lực của Chúa mới có thể cởi
trói và giải thoát ta khỏi ràng buộc của ma quỷ mà thôi.
Xin Chúa thương đụng chạm đến con
người đầy yếu đuối của ta mà cất đi những gánh nặng do bệnh tật thể xác và tâm
hồn do ma quỷ gây ra. Nhờ đó đem lại cho ta nguồn tự do đích thực của đời làm
con Chúa.
Thứ ba: Lc
13,18-21
Khi muốn nói những điều khó nói,
người ta hay dùng cách nói ví von. Khi muốn bộc bạch những tâm tình sâu kín,
khó nói thành lời, người ta hay nhờ đến những câu truyện. Còn khi mạc khải về
mầu nhiệm nước trời cho dễ hiểu, Chúa Giêsu lại hay dùng đến những dụ ngôn. Có
thể nói, dụ ngôn là con đường ngắn nhất, thực tế nhất, gần gũi nhất và cũng hữu
hiệu nhất đưa dẫn chúng ta tiếp nhận được những giá trị thiêng liêng và thực
tại vô hình.
Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu dùng đến
hai dụ ngôn: Dụ hạt cải và tấm men để mạc khải về mầu nhiệm nước trời. Với hai
dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta biết: nước trời khởi đầu bé tí ti như
hạt cải, âm thầm như tấm men. Nhưng với thời gian nó dần dần lớn lên, vững mạnh
và có sức lan tỏa đến bất ngờ!
Với hạt cải nhỏ bé, nhưng khi được
gieo vào lòng đất, nó lại âm thầm lớn lên vững mạnh, to lớn đến nổi làm chổ
nương tựa cho chim trời ẩn trú an toàn.
Với tấm men ít ỏi, nhưng khi trộn lẫn
vào ba đấu bột thì nó lại kích thích ba đấu bột dậy men, trở thành một khối bột
to lớn.
Giống như hạt cải ban đầu nhỏ tí ti,
nhưng khi gieo vào lòng đất nó mọc lên và trở thành cây cao bóng cả, trở nên
nơi trú ẩn an toàn cho chim trời những khi mõi mệt và gặp hiểm nguy; GH khởi
đầu rất khiêm tốn, nhỏ bé chỉ với nhóm tông đồ 12 nhỏ nhoi. Nhưng trãi
qua hơn 2000 năm qua, GH đã không ngừng phát triển và lớn mạnh. Đến nay đã có
trên 2 tỷ người kitô giáo, chiếm 1/3 dân số thế giới. GH đã trở thành nơi tựa
nương cho bao nhiêu người yếu đuối, nghèo khổ tựa nương; trở nên bóng mát cho
những ai mệt nhòai trên đường đời ẩn náo. Bởi lúc nào GH cũng đứng về phía
người nghèo, cô thế cô thân để bênh vực chở che, nhằm đem lại cho họ nguồn bình
an đích thực. Như lời mời gọi của Chúa Giêsu: "những ai vất
vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt
11, 28).
Tựa như tấm men rất ít ỏi, nhưng khi
được trộn vào ba đấu bột nó lại âm thầm kích thích cho ba đấu bột dậy men thành
một khối to; làm thành những tấm bánh thơm ngon mang lại niềm vui và nguồn sức sống
cho con người. Số tín hữu trong GH ban đầu cũng rất ít ỏi, lại phải sống hòa
nhập với mọi người trong một thế giới rộng lớn. Vậy mà chỉ với thời gian ngắn,
Tin mừng của Chúa đã thấm nhập và lan tỏa đến mọi người trên khắp cùng thế
giới, nhờ vào đời sống hiệp nhất yêu thương và gương chứng nhân đức tin anh
hùng của các kitô hữu.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết
tích cực cộng tác với GH trong sứ mạng mở mang nước trời bằng đời sống
chứng nhân của tình yêu Chúa; trở thành men Tin mừng thấm nhập vào mọi tâm hồn
và lan tỏa đến mọi nơi. Nhờ đó mà GH của Chúa mỗi ngày được lan rộng và vững
vàng hơn.
Thứ tư: Lc 13, 22-30
Được cứu độ hay vào được nước trời nhiều hay ít? có lẽ là nỗi
trăn trở của không ít người thời Chúa Giêsu. Với nỗi ưu tư đó nên tin mừng hôm
nay cho biết có một người đến đặt vấn đề với Chúa Giêsu: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ? ".
Để trả lời cho vấn nạn này, Chúa Giêsu không cho anh ta biết
số lượng vào nước trời nhiều hay ít. Nhưng Chúa Giêsu lại đưa ra phương cách
cần thiết để được cứu độ.
Mặt tích cực, Chúa Giêsu kêu gọi:
- "Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp" (Lc 13,24), vì "cửa hẹp dẫn đến sự sống" (Mt
7,14). Thật ra cửa vào sự sống không hẹp, nhưng hẹp vì cái tôi của tôi to
quá. Cần nỗ lực liên tục để giữ cho cái tôi nhỏ lại, khiêm hạ trước Thiên Chúa,
cởi mở trước anh em. Cần có một cái tôi như trẻ thơ mới được vào Nước Trời (Mt
18, 3).
Cái tôi của chúng ta luôn có khuynh hướng bành trướng nhờ thu
tích nơi mình tri thức, tiền bạc, khả năng. Cả kinh nghiệm, tuổi tác, đạo đức,
chức vụ, cũng có thể làm cái tôi xơ cứng và phình to. Ðể "người lớn"
trở nên bé nhỏ như trẻ thơ, cần phải biến đổi và tự hạ (x. Mt 18, 3-4). Ðây
thật là một cố gắng không ngừng. Khi hủy mình ra không, ta sẽ dễ dàng đi qua
cửa hẹp.
- Phải thể hiện đời sống như các tổ phụ: Nghĩa là phải noi gương Abraham, Isaac và Giacóp, vững vàng
trong đức tin và trung kiên trong đức mến.
Mặt tiêu cực, Chúa Giêsu cảnh báo những điều nên tránh:
- Tránh ảo tưởng mình là người Kitô hữu đương nhiên được cứu.
Gioan Tẩy Gỉa đã chẳng cảnh báo với những người Biệt phái và nhóm Sađucêô:
"Đừng ỷ mình là con cháu tổ phụ Abraham…”(Mt 3, 7t); cũng như Chúa đã khuyến cáo: đừng tưởng rằng đã từng
ăn uống trước mặt Ngài, và từng nghe Ngài giảng dạy là được cứu. Nhưng để
được cứu độ, ta còn phải biết lắng nghe và thực hành Lời của Chúa: "Mẹ
và anh em của Ta là những người nghe Lời Chúa và đem ra thực hành" (Lc
8, 21).
- Tránh quan niệm “sống lâu năm lên lão làng”. Nghĩa là ỷ vào
công trạng giữ đạo lâu năm mà chễnh mãng trong đời sống đức tin, xem thường đạo
lý và Lời Chúa. Điều này có nguy cơ sẽ bị loại khỏi nước trời. Ơn cứu độ chỉ
dành riêng cho những ai kiên trung sống đức tin đến cùng. Vì thế, Chúa Giêsu đã
không ngại tuyên bố: " kẻ sau hết sẽ trở nên trước hết...".
Xin cho chúng ta biết loại bỏ đi những suy nghĩ theo kiểu
người đời. Nhưng biết kiên trì không ngừng nổ lực thực thi Lời Chúa dạy
bảo, với tinh thần khiêm tốn, để xứng đáng được vào số người được cứu độ.
Thứ năm:
Mt 5, 1-12a
LỄ CÁC
THÁNH NAM NỮ
CON ĐƯỜNG
NÀO DẪN ĐẾN HẠNH PHÚC ĐÍCH THẬT?
Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta
hướng vọng lên cao để chiêm ngắm vinh quang rạng ngời nơi các Thánh Nam Nữ. Các
ngài đã trung thành bước theo con đường “tám mối phúc thật” mà Chúa Giêsu chỉ
dạy, cho dẫu phải chịu nhiều đau thương thử thách. Nên các ngài xứng đáng được
Chúa ân thưởng hạnh phúc nước trời.
Dâng thánh lễ hôm nay, một mặt chúng
ta chúc tụng ngợi mừng các thánh; mặt khác chúng ta cũng không quên xin Chúa
qua lời chuyển cầu của các thánh nam nữ nơi vinh phúc ban cho chúng ta biết
nghe theo lời Chúa dạy mà can đảm bước theo con đường 8 mối phúc thật như các
thánh, để mai sau chúng ta cũng được chung hưởng niềm vinh phúc nước trời như
các ngài.
Ở đời luôn có hai mặt thật và giả.
Hạnh phúc cũng vậy. Có những thứ đem đến cho con người hạnh phúc thật. Tuy
nhiên cũng có những thứ chỉ đem đến cho con người hạnh phúc giả tạo, không bền
lâu. Điều nghịch lý là ai cũng mong muốn có được hạnh phúc thật, nhưng rồi lại
thích đi tìm những thứ chỉ mang đến hạnh phúc giả tạo, chóng qua.
Xã hội ngày nay, nhiều người cho rằng
hạnh phúc là có 1,2,3,4,5 ( một là vợ đẹp, hai là con ngoan, ba là nhà 3 tấm,
bốn là xe 4 bánh và năm là du lịch 5 châu). Thế nhưng thực tế cho thấy, khi đạt
được những điều mong ước ấy, con người vẫn không tìm thấy hạnh phúc thật.
Như thế thì tiền bạc của cải, vật
chất tiện nghi, đam mê lạc thú nơi trần gian không lấp đầy được khát vọng sâu
xa nơi cỏi lòng con người và không là phương thế đưa đến hạnh phúc thật. Vậy ta
phải làm gì để có hạnh phúc thật?
Bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ
cho chúng ta biết những phương cách để đạt đến hạnh phúc đích thật. Đó chính là
thực thi 8 mối phúc thật.
Điều đáng nói là con đường 8 mối phúc
thật mà Chúa Giêsu đề ra hình như đi ngược lại với suy nghĩ thực tế của con
người thời nay và lắm khi trở thành xa lạ ngay cả đối với người Kitô hữu chúng
ta. Vì con người thời nay vẫn còn bám víu quá nhiều vào tiền bạc, của cải, danh
vọng... nên không dám chấp nhận những phương cách mà Chúa Giêsu đề ra: là tinh
thần khó nghèo, từ bỏ, đau khổ ngay cả hy sinh vì chính đạo để phục vụ tha nhân
và nước Chúa.
Con đường 8 mối phúc không phải là
viễn vong, mơ hồ hay bất khả thi nhưng là con đường chính đạo. Bởi vì chính Đức
Giêsu đã kinh qua và đã đạt đến hạnh phúc vinh quang. Do đó muốn có hạnh phúc
thật chúng ta không thể đi theo con đường nào khác ngoài con đường Đức Giêsu đã
đi và đã chỉ dạy. Con đường khiêm hạ, khó nghèo, hi sinh từ bỏ và hiến thân cho
tha nhân bằng tình yêu.
Các thánh nam nữ mà chúng ta
mừng kính hôm nay, tất
cả đã hân hoan bước vào con đường 8 mối phúc mà Chúa Giêsu đã vạch ra
và hâm hở tiến bước với lòng đầy niềm tin, nên tất cả đã đi đến đích điểm và đã
lãnh nhận triều thiêng vinh quang nước trời do Chúa tặng ban.
Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, ngoài việc
chúng ta tôn vinh chúc tụng các ngài là cha ông, bạn bè, người thân của chúng
ta đã đi trọn con đường 8 mối phúc và nay đã khải hoàn vinh hiển trong vinh
quang; chúng ta còn phải nổ lực nên thánh giữa đời theo gương các ngài, với
niềm xác tín như Thánh Augustinô: “Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi tại sao
lại không được?”.
Xin các thánh ngự bên tòa Chúa hằng thương nguyện giúp cầu
thay cho chúng ta luôn can đảm bước theo con đường các Thánh Nam Nữ đã đi, bằng cách trung thành thực thi 8 mối phúc mà Chúa
Giêsu vạch ra, nhờ đó chúng ta đạt được điều mà mình hằng khao khát là hạnh
phúc thật. Amen.
LÀM GÌ ĐỂ
GIÚP ĐỠ CÁC ĐẲNG LINH HỒN?
Để nhắc nhở chúng ta siêng năng “đi
viếng nhà thờ” mà cầu nguyện cho các linh hồn vào tháng 11, tháng Các
Linh Hồn, người ta thường kể cho nhau nghe câu chuyện sau đây:
Ở một họ đạo nọ, có một người
đàn ông sống đạo rất khô khan. Ít khi anh ta tự đi nhà thờ đọc kinh xem lễ một
mình. Anh chỉ đi nhà thờ, khi nào đứa con trai cưng độc nhất của anh lên bảy
tuổi đòi đi nhà thờ mà thôi. Số là vào một buổi chiều trong Tháng Các Linh Hồn,
khi đứa con thấy bạn bè mình đều được cha mẹ dẫn đi “viếng nhà thờ” để đọc kinh
cầu nguyện cho ông bà tổ tiên đã qua đời, nó cũng đòi đi cho bằng được, để cầu
nguyện cho ông bà nội đã qua đời. Sau khi đưa hết lý lẽ để cản ngăn con đừng đi
nhà thờ mà không thành công, anh ta bèn chiều lòng con và đưa nó đến nhà thờ.
Nhưng khi đến nhà thờ, anh ngồi chờ con ngoài hành lang nhà thờ, chứ không vào
đọc kinh trong nhà thờ với con. Anh dặn con: “Khi nào con đọc kinh xong thì ra,
ba sẽ đưa con về!”.
Nhưng vì ngồi chờ con quá lâu ở ngoài
nhà thờ, anh ta đã ngủ quên và không biết giờ kinh đã xong lúc nào. Trong khi
ngủ, anh mơ thấy một đoàn các Thiên Thấn đông vô kể, từ trên trời bay xuống, vị
nào cũng ì ạch mang đầy những bao chứa đầy những thứ có màu trắng như bông và
bốc mùi thơm ngon không thể diễn tả được. Quá tò mò, anh chạy theo một vị Thiên
Thần và hỏi nhỏ đó là thứ gì vậy. Vị thiên Thần trả lời đó là các ơn thánh mà
các người trên thế gian đã kiếm được qua việc đọc kinh, lần hạt và « đi viếng
nhà thờ », và gửi xuống cho các linh hồn thân nhân của họ đang bị giam trong
Ngục Luyện Tội. Bây giờ các Thiên Thần được lệnh của Chúa đi giao cho mỗi
người. Nghe thế anh cũng rón rén đi theo các Thiên Thần và thấy các linh hồn
rất vui mừng khi nhận được nhiều quà “ơn thánh” mà bà con thân thuộc của
họ gửi đến và cám ơn rối rít.
Sau cùng, còn lại một món quà nho
nhỏ, các Thiên Thần tìm đến một phòng giam trông rất hoang vắng và gõ cửa”,
“Này, ông bà cụ, có quà của cháu nội gửi cho đây, ra lãnh!”. Bổng nhiên anh nghe
có tiếng trong nói vọng ra vừa vui mừng vừa ngạc nhiên: “Trời ơi, chúng tôi mà
còn có người tưởng nhớ tới chăng ! Vì từ khi chết cho tới nay đã bao năm rồi mà
chúng tôi đâu có ai gửi quà gì cho đâu! Thật đứa cháu nội quý hóa biết chừng
nào!”. Nhưng khi mở cửa tù ra lãnh quà “ơn thánh” của đứa cháu nội gửi, hai ông
bà trông dáng người hốc há gầy còm, nhưng rất mừng và cám ơn các Thiên Thần rối
rít.
Sau đó, khi hai ông bà trông thấy anh
chàng đi theo các Thiên Thần là chính con trai mình, ông bà quá tức giận, bèn
lấy cái gậy đang cầm trong tay phang vào đầu anh ta một cái thật mạnh và quát
lớn : “Thằng con bất hiếu, mi còn mò tới đây làm gì nữa! Mi quả là đứa con vô
phúc! Mi coi gương đứa con của mi mà ăn ở cho phải đạo … !”. Bị đánh một cú quá
bất ngờ và đau điếng cả người, anh chàng bèn tỉnh giấc và thấy ông từ coi nhà
thờ đang đứng trước mặt và la : “Mi là ai mà giờ này còn nằm trước cửa nhà thờ
ngủ như thế này ?”.
Bấy giờ anh ta mới biết là mình
mơ. Và cú gậy vừa rồi là do ông từ đánh, chứ không phải ba mẹ anh đánh. Vì sau
khi tan giờ đọc kinh thì trời cũng đã khuya, nên ông từ phải đi đóng cửa nhà
thợ lại, và khi đi ngang thấy có người đàn ông nằm ngủ quên trước cửa nhà thờ
như thế, ông từ đã lấy cây gậy đang cầm trong tay gõ vào đầu để đánh thức !
Trên đường lủi thủi về nhà,
người đàn ông đã suy nghĩ về giấc mơ rất nhiều. Cuối cùng anh ta cương quyết
đổi đời, cương quyết sống đạo đức hơn, siêng năng đi xem lễ thường xuyên hơn và
cầu nguyện cho cha mẹ anh ta nhiều hơn !
Câu chuyện trên là lời nhắc nhớ chúng
ta hãy siêng năng cầu nguyện cho các linh hồn, nhất là trong tháng 11 này, vì
các ngài đang chờ đợi nơi những người còn sống chúng ta “quà ơn thánh” mà
Thiên Chúa sẽ ban cho họ chính là các việc lành, kinh nguyện, những hy sinh
chay tịnh và nhất là Thánh Lễ mà chúng ta chân thành dâng lên Chúa, trong sự
thông hiệp với nhau với niềm xác tín vào công nghiệp cứu chuộc của Ðức Kitô!.
Thứ
bảy: Lc 14, 1.7-11
Tin mừng hôm nay ghi lại
những lời khuyến cáo của Chúa Giêsu dành cho những kẻ sống kiêu
ngạo và khích lệ cho những ai biết sống khiêm nhường. Nhưng làm thế nào để ta
phân biệt được đâu là kẻ kiêu ngạo và đâu là người sống khiêm nhường?
Dựa vào câu nói cuối cùng
của Chúa Giêsu trong đoạn tin mừng hôm nay:“ai nhắc mình lên, sẽ bị hạ
xuống, và ai họ mình xuống sẽ được nhắc lên”, chúng ta biết được đâu
là kẻ kiêu ngạo và đâu là người sống khiêm nhường.
Như
thế thì dấu
hiệu của kẻ kiêu ngạo là “tự nhắc mình lên”. Và dấu hiệu của
người khiêm nhường là “tự hạ mình xuống”.
1. Người kiêu
ngạo “tự nhắc mình lên” bằng cách nào? Thưa là họ:
- Luôn cho mình là kẻ lớn nhất, nên ưa thích “chọn chỗ nhất” trong đám tiệc.
- Luôn khoe khoang thành tích của bản thân.
- Hay phàn nàn và luôn chê bai người khác là ngu dốt hơn mình.
- Luôn khăng khăng giữ ý kiến của mình. Không có khả năng lắng nghe và hợp tác với người khác.
- Mặt thì vênh váo, nhẫn tâm chà đạp những ai yếu thế hơn mình và thích dạy đời người khác.
- Luôn tìm kiếm hư danh nên rất ưa nịnh nọt, luồn cúi và tâng bốc bề trên. Nhưng sau lưng thì lại chê bai, nói xấu…
- Luôn cho mình là kẻ lớn nhất, nên ưa thích “chọn chỗ nhất” trong đám tiệc.
- Luôn khoe khoang thành tích của bản thân.
- Hay phàn nàn và luôn chê bai người khác là ngu dốt hơn mình.
- Luôn khăng khăng giữ ý kiến của mình. Không có khả năng lắng nghe và hợp tác với người khác.
- Mặt thì vênh váo, nhẫn tâm chà đạp những ai yếu thế hơn mình và thích dạy đời người khác.
- Luôn tìm kiếm hư danh nên rất ưa nịnh nọt, luồn cúi và tâng bốc bề trên. Nhưng sau lưng thì lại chê bai, nói xấu…
Hậu quả của kẻ kiêu ngạo
là bị mọi người khinh ghét; bị bạn bè xa lánh… Còn Tin mừng hôm nay thì Chúa
Giêsu cho biết: họ sẽ bị chủ tiệc làm bẻ mặt khi mời họ nhường chỗ cho người
khác: “xin ông nường
chỗ cho người này”. Nhất là họ còn bị Thiên Chúa hạ bệ: “Vì hễ ai nhắc mình lên sẽ bị hạ
xuống”.
2. Người khiêm nhường “tự hạ mình xuống” ra
sao? Thưa đó là người:
- Biết tôn trọng sự thật, dám nói và sống đúng sự thật.
- Biết nhận ra giới hạn bản thân, dám chấp nhận thiếu sót và tội lỗi của mình trước Chúa và tha nhân.
- Luôn sống chân thành cởi mở với mọi người. Sẵn sàng lắng nghe những lời giáo huấn của Chúa và GH. Luôn mở lòng đón nhận những lời góp ý chân thành và chỉ bảo tốt đẹp của mọi người.
- Biết ý thức những gì mình “là” và “có” đều do ân ban của Chúa nên luôn biết cảm tạ và tôn vinh Chúa, và sẵn sàng hy sinh chia sẻ với mọi người về vật chất lẫn tinh thần…
+ Tóm lại: Người sống khiêm nhường là người biết mình là ai? Vị trí của mình đang ở đâu? Và công việc của mình là gì?...
- Biết tôn trọng sự thật, dám nói và sống đúng sự thật.
- Biết nhận ra giới hạn bản thân, dám chấp nhận thiếu sót và tội lỗi của mình trước Chúa và tha nhân.
- Luôn sống chân thành cởi mở với mọi người. Sẵn sàng lắng nghe những lời giáo huấn của Chúa và GH. Luôn mở lòng đón nhận những lời góp ý chân thành và chỉ bảo tốt đẹp của mọi người.
- Biết ý thức những gì mình “là” và “có” đều do ân ban của Chúa nên luôn biết cảm tạ và tôn vinh Chúa, và sẵn sàng hy sinh chia sẻ với mọi người về vật chất lẫn tinh thần…
+ Tóm lại: Người sống khiêm nhường là người biết mình là ai? Vị trí của mình đang ở đâu? Và công việc của mình là gì?...
Vì
thế mà người sống khiêm nhường luôn được mọi người yêu mến, tôn trọng và thích
kết giao. Tin mừng hôm nay còn cho biết họ thật vinh dự khi được chủ tiệc mời
lên trên “Hỡi
bạn, xin mời bạn lên trên”. Nhưng điều vinh dự lớn nhất của người sống
khiêm nhường là được chính Thiên Chúa yêu thương và nâng đỡ như lời Chúa Giêsu
phán: “ai hạ
mình xuống, sẽ được nhắc lên”.
Ta hãy mượn lại tâm tình bài
hát sinh hoạt rất hay của nhạc sĩ linh mục Thái Nguyên mà dâng lên Chúa tâm
tình cầu nguyện: “Xin cho con biết luôn tự hạ, sống khiêm như Giêsu từ ái. Lòng
đơn sơ, chân thành cởi mở. Đời hồn nhiên như hoa nở thắm tươi”. Nhờ đó ta mới xứng đáng được Chúa yêu thương nâng đỡ và chúc lành; cũng như
được mọi người trân trọng và yêu mến.