Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 5 tháng 11, 2019

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXXII TN

CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN C
Lc 20, 27-38
Có sự sống sau khi chết hay không? Và nếu có thì tình trạng sự sống mai sau như thế nào? Đó là hai vấn nạn được đặt ra bởi những người thuộc nhóm Saduceo cũng như nhiều người trong chúng ta ngày nay. Hai vấn nạn này sẽ được Chúa Giêsu giải đáp như thế nào? Chúng ta hãy để tâm lắng nghe lời Chúa chỉ dạy hôm nay, để từ đó có được cái nhìn đúng đắn hơn về vấn đề này.
Vào thời Chúa Giêsu, trong xã hội Do Thái xuất hiện nhiều đảng phái khác nhau: Pharisêu, Biệt phái, Hêrôđê và Saducêo… Mỗi nhóm như vậy theo đuổi 1 lý tưởng nên có những quan niệm khác biệt. Nhóm Saducêo mà Tin mừng hôm nay nói đến thì lại không tin vào sự sống lại. Như vậy có thể nói nhóm này chính ông tổ của những người chạy theo chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nên không lạ gì họ tìm mọi cách để phủ nhận giáo huấn của Chúa Giêsu về sự sống lại.
Và để chống lại quan niệm có sự sống lại, những người thuộc nhóm Saducêo mới bịa ra 1 câu chuyện lố bịch như sau: Trong một gia đình nọ có 7 người anh em trai. Theo luật Môisen quy định thì nếu người anh lớn cưới vợ nhưng chẳng may chết đi mà không con, thì người em kế đó phải cưới lấy người vợ góa đó, để sinh con nối dõi tông đường. Vậy có cả thảy 7 người anh em trai đều cưới lấy cùng 1 bà vợ, bởi vì cả thảy 7 người anh em đó lần lượt đều chết đi mà không con. Cuối cùng người vợ góa đó cũng chết. Vậy nếu có sự sống lại thì ai sẽ là người chồng của người vợ ấy sau này?
Tình huống họ đặt ra xem ra khá hóc búa, tuy nhiên để giúp họ chấp nhận chân lý vào sự sống lại sau khi chết, Chúa Giêsu đã dựa vào nền tảng Thánh Kinh. Ngài đã trích dẫn đoạn thánh kinh nói về sự kiện ông Môisen diện kiến Thiên Chúa nơi bụi gai cháy sáng lạ thường mà người Do Thái nào cũng biết và tin nhận. Từ đó Chúa Giêsu giúp cho những người Saducêo nhận ra 3 điều:
Thứ nhất: “Thiên Chúa là Đấng hằng hữu”, bởi vì “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là của người sống; vì hết thảy đều sống cho Người” (1)..
Thứ hai: Sự sống mai sau là sự sống vĩnh cửu nên không còn phải lấy vợ cưới chồng để duy trì giống nòi nữa (2).
Thứ ba: Tình trạng của sự sống mai sau không giống như sự sống nơi trần gian mà là như các Thiên Thần (3).
Trong cuộc thần hiện của TC nơi bụi gai với ông Môisen, TC cho biết Người là “TC của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, và Thiên Chúa của Yacob”. Mặc dầu các tổ phụ ấy đã chết từ lâu nhưng sao TC lại nói với Môisen rằng: “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của người sống”. Như vậy là TC muốn khẳng định cho biết hiện nay các tổ phụ ấy vẫn đang sống chứ không phải chết. Đây cũng là niềm tin của mọi người Do Thái thời bấy giờ. Vậy nếu những người Saducêo không tin vào sự sống lại thì họ đang phủ nhận lời mạc khải của TC; nếu thế là họ đang chống lại niềm tin của cha ông họ, và một cách mặc nhiên họ đang mâu thuẫn với niềm tin của chính mình.
Nhưng Chúa Giêsu không chỉ chứng minh cho họ biết có sự sống lại mà Người còn mạc khải cho họ hiểu thêm về tình trạng sau khi sống lại như thế nào nữa. Tình trạng sống ấy viên mãn trọn vẹn như các Thiên Thần vậy. Nên không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian nữa. Do đó mà không cần phải dựng vợ gả chồng sinh con đẻ cái để duy trì nòi giống như trong cuộc sống đời này nữa.
Bằng những lời giải đáp đầy thuyết phục ấy, Chúa Giêsu đã làm cho những người thuộc phái Saducêo phải cúi đầu câm miệng bởi vì họ không còn lý lẽ nào nữa để chống lại giáo huấn của Chúa Giêsu.
“Bá nhân bá tính”, mỗi người được sinh ra, lớn lên và được giáo dục trong những môi trường, hoàn cảnh khác nhau nên có những cái nhìn và quan niệm về niềm tin khác biệt. Hiểu được như vậy nên chúng ta đừng bao giờ tỏ ra thái độ kiêu căng, tự mãn xem thường các giá trị niềm tin của người khác. Nhưng trên hết cần phải biết cởi mở đón nhận và trân quý các giá trị niềm tin của các tôn giáo khác nhau.
Là những người Kitô hữu một mặt chúng ta tìm mọi cách để dung hòa niềm tin trong những điểm khác biệt; mặt khác chúng ta cần phải xác tín vững vàng niềm tin của mình trong kinh tin kính do chính Chúa và GH chỉ dạy; trong đó có niềm tin vào sự sống lại và thưởng phạt đời sau.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống thân tình với Chúa qua việc yêu thích cầu nguyện, siêng năng tham dự thánh lễ và năng rước lễ; biết noi gương Đức Maria sống khiêm tốn luôn sẵn sàng lắng nghe và thực hành giới luật yêu thương do Chúa chỉ dạy, với hy vọng sau khi trãi qua cuộc sống đời này, chúng ta sẽ được Chúa ân thưởng hạnh phúc thiên đàng.

CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN C
Blaise Pascal (1623-1662), là nhà toán học cũng là triết gia thời danh đã cho rằng người khôn ngoan chính là người tin vào sự sống đời sau. Ông lý luận như sau:
Có hai người tạm đặt tên là anh “A” và anh “B”.
Anh “A” tin có Thiên Chúa, tin có đời sau. Nên Anh “A” luôn cố gắng tuân giữ và sống những điều Chúa dạy: Tôn thờ Thiên Chúa, tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật, yêu mến anh em hết lòng và hay giúp đỡ những người nghèo khó. Anh sống công bằng và bác ái. Khi lỗi phạm anh tìm cách thống hối ăn năn. Nhờ thế, gia đình anh hạnh phúc, anh được bà con trân trọng, quí mến. Và đặc biệt anh được bình an trong tâm hồn.
Anh “B” không tin có Thiên Chúa, không tin có đời sau. Nên Anh “B” thường sống buông thả, giả hình. Anh vi phạm lỗi công bằng. Anh cố che đậy những điều sai quấy, miễn sao pháp luật không biết là được. Kết quả gia đình mất đi hạnh phúc; dân làng chê bai; mọi người chỉ sợ anh chứ không trọng anh! Anh không có sự bình an thực sự trong tâm hồn.
Và Pascal đưa ra hai giả thuyết về Thiên Chúa và đời sau:
- Giả thuyết thứ nhất: Không có Thiên Chúa và cũng không có đời sau. Nếu không có Thiên Chúa và đời sau thì ngay ở đời này anh “A” đã hơn anh “B”, bởi vì gia đình anh hạnh phúc, mọi người quí mến và tâm hồn anh được bình an. Còn gia đình anh “B” thì mất hạnh phúc, dân làng chê cười và anh cũng không có bình an trong tâm hồn. Còn sau khi chết cả anh “A” và “B” huề nhau.
Giả thuyết thứ hai: Có Thiên Chúa và có đời sau. Có Thiên Chúa và có đời sau thì anh “A” được hưởng trọn vẹn; trong lúc anh “B” mất trắng không được gì cả.
Rồi Pascal kết luận: Khi ta tin vào Thiên Chúa và sự sống đời sau ta được cả đời nay lẫn đời sau, chỉ chịu thiệt đôi chút về chức quyền, danh vọng thôi. Nếu ta không tin vào Thiên Chúa ta mất cả đời này lẫn đời sau. Như thế, người tin vào Thiên Chúa và sự sống đời sau là người khôn ngoan; người không tin vào Thiên Chúa là những người vô cùng dại dột.
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại sự kiện những người thuộc phái Xa-đốc không tin có sự sống lại, nên họ dựa vào luật “thế huynh" của Môisen (Đnl 25, 5-6), để bịa ra câu chuyện lố bịch như sau: “Nhà kia có 7 anh em trai. Người anh cả cưới vợ rồi chết không con. Theo luật Môsê, người em phải lấy chị goá để có con nối dõi, và cả 7 anh em đều chết không con. Khi sống lại, chị goá đó vợ sẽ là của ai ?”.  Nếu có thế giới mai sau thì bà vợ ấy thuộc về ai trong số 7 ông chồng? Chẳng lẽ 7 ông đánh nhau để dành 1 bà trên thiên đàng sao?
Đây là kiểu lý luận hàm ẩn một quan niệm về một thế giới mai sau gần giống như quan niệm bình dân của đa sống Người Việt Nam chúng ta. Nên nhiều người có thói quen đốt vàng mã, đốt đôla, đốt xe honda, đốt nhà lầu…cho người cõi âm xài…, bởi lẽ người ta tin rằng thế giới mai sau cũng giống như thế giới mình đang sống nên người chết cũng cần xe, cần tiền, cần ăn uống và vợ con…để sống thoải mái trong thế giới bên kia.
Tuy nhiên qua câu trả lời của Chúa Giêsu với những người thuộc nhóm Xa-đốc trong bài Tin mừng hôm nay xác quyết với chúng ta hai điều:
1. Có sự sống lại sau khi chết là điều hiển nhiên.
2. Tình trạng sống lại khác với tình trạng hiện nay.
- Trước hết Chúa Giêsu minh chứng cho biết tình trạng sống lại mai sau khác với cuộc sống hiện tại. Ngài nói: “Con cái đời này cưới vợ gả chồng” vì lẽ đời sống con người có sinh có tử, và vì thế nên con người cần phải dựng vợ gả chồng để truyền sinh và nối dõi tông đường. Nhưng trong đời sống mai hậu, họ không còn cưới vợ gả chồng vì hai lý do: một là vì họ sẽ không chết nữa, và họ được sống trong tình trạng như các thiên thần; hai là vì họ trở nên con cái Thiên Chúa, và là con cái của sự sống lại, nghĩa là được thừa hưởng một thế giới mới trong Thiên Chúahằng sống.  Nên họ sẽ không còn lo lắng việc đời nữa, chỉ còn việc là  phụng sự và ngợi khen Thiên Chúa, giống như nhiệm vụ của các thiên thần.
- Còn khi nói về việc kẻ chết sống lại thì Chúa Giêsu dựa vào nền tảng Thánh kinh để chứng minh. Ngài nêu ra một đoạn được ghi trong sách Xuất hành mà nhóm Xa-đốc cũng tin nhận. Đó là đọan nói về sự kiện TC hiện ra với ông Maisen nơi bụi gai đang rực cháy, khi ấy Thiên Chúa đã tự xưng với Môisen Ngài chính là Thiên Chúa của tổ phụ Abraham, Isaác và Giacóp (x. Xh 3,6).  Người còn nhắc xác quyết với Môisen rằng: Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống. Nên cho dẫu các tổ phụ Abraham, Isaac và Giacop bấy giờ đã qua đời, nhưng với lời xác quyết của Thiên Chúa với Maisen cho biết các vị ấy hiện thời vẫn còn đang sống.
Vì Thiên Chúa là Đấng hằng sống đang điều khiển lịch sử loài người. Ngài không thể là Thiên Chúa của những kẻ chết, mà phải là của những kẻ sống. Con người gồm cả hồn lẫn xác, nên không những linh hồn con người thiêng liêng không bao giờ chết được, mà cả thân xác con người, dù có hoá thành bụi đất, thì nhờ quyền năng của Thiên Chúa Hằng Sống, cũng sẽ được sống lại trong ngày tận thế (x. Ga 11,23-26).
Nhưng tiếc thay lại có những kẻ sống như thể mình không bao giờ phải chết, họ ung dung hưởng thụ những lạc thú trần tục. Họ đã chết ngay khi còn đang sống. Cũng có những kẻ sống như thể chỉ có đời này, trong đầu của họ không có từ “đời sau”. Họ đang sống mà như đã chết.
    Cuộc đời này tuy ngắn ngủi, nhưng lại rất quan trọng: nó quyết định đến vận mạng trong cuộc sống mai hậu. Một người sống đầy tình người, đầy yêu thương ở đời này chắc chắn tình trạng đời sau sẽ khác hẳn với người đời này sống ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình.
    Đời này là nhân, đời sau là quả: nhân nào sinh quả nấy, cây nào sinh trái nấy, “Cây tốt thì sinh trái tốt, cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, cũng như cây xấu không thể sinh trái tốt” (Mt 7,17-18). Người làm tốt sẽ được thưởng, người làm điều xấu sẽ bị phạt theo như lời thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tuỳ theo việc họ làm” (Rm 2,6; Kh 2,23). Nói đến nguyên tắc “gieo gì thì gặt nấy”, phương Tây có một câu ngạn ngữ rất hay:
Nếu bạn muốn hạnh phúc một ngày, hãy mua một cái áo mới.
Nếu bạn muốn hạnh phúc một tuần, hãy làm thịt một con heo.
Nếu bạn muốn hạnh phúc một năm, hãy cưới vợ lấy chồng.
Nếu bạn muốn hạnh phúc một đời, hãy làm người sống tử tế.
Nếu bạn muốn hạnh phúc muôn đời, hãy làm người có đạo tốt.
   Vậy chúng ta tự hỏi: Tôi sẽ chọn cho mình cách sống nào? Sống để chiếm lấy vĩnh cửu hay là chỉ những kẻ chọn lấy đời này và đánh mất đời sau? Hãy luôn tâm niệm rằng ‘sống là để chết’. Mà chết là ta đang đi về đời sau để gặp Đấng mà mình tin yêu. Vì thế, cái chết không làm cho chúng ta bi quan, ngược lại, cái chết dạy ta biết cách sống. Ta hãy sống như sẽ chết, để khi chết, ta trở về nguồn cội đích thật của mình là quê hương vĩnh cửu. Nơi đó Chúa đang chờ để ban hạnh phúc muôn đời cho những ai đã “xét đáng được dự phần đời sau”.
Xin mượn lại lời của thánh Augustinô để chúng ta cùng dâng lên Thiên Chúa của sự sống lời nguyện cầu: Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, và chúng con còn khắc khoải mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa. Amen. (St)

CHÚA NHẬT XXXII TN NĂM C
Xưa nay người ta không coi chết là chấm hết mà tin rằng chết vẫn có một nơi hay một chốn để đến hay để về mà tiếp tục sống trong một tình trạng nào đó. Nơi ấy hay chốn ấy được nhạc sĩ tài danh Trịnh Công Sơn gọi là “một cõi đi về”. Người Trung quốc thì gọi nơi ấy là chốn Cửu tuyền hay Hoàng tuyền. Còn người Do thái thì gọi là Sheol. 
Đối với người Việt Nam thì gọi cái chết bằng những ngôn từ khác nhau như : "băng hà", “khuất núi”, “ra đi”, “mất”, “về nơi chín suối”, “quy tiên”, “chầu trời”, “qua đời”… Những từ ngữ trên nói lên niềm tin cho rằng chết không phải là hết, mà là đi về với Tổ Tiên, về cõi Trời, vào chốn Niết bàn... Thế nên mới có câu: “Sinh kí tử quy”, sống là gửi, thác mới là về là vậy!.
Riêng với người Kitô hữu chúng ta thì tin vào Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên sự sống, nên Người là chủ của sự sống. Ý định của Thiên Chúa là thông ban sự sống chứ không phải sự chết. Vậy sự chết bởi đâu mà có ?
 Kinh Thánh trả lời rằng: “sự chết là hậu quả của tội lỗi” (Rm 5,12; 6,23). Nhưng Thiên Chúa “vì quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài để những ai tin vào Người Con ấy sẽ không phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Đúng vậy trước khi làm cho Lazarô sống lại Chúa Giêsu phán với Mác-ta rằng: “Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Lời tuyên bố ấy của Chúa Giêsu chính là lời mặc khải quan trọng về sự sống lại nơi con người. Nhưng lời ấy khiến cho nhiều người không tin, trong đó có những người thuộc nhóm Xa-đốc.
Để bảo vệ cho quan điểm không có sự sống lại, những người thuộc phái Xa-đốc đã bịa ra câu chuyện về một người phụ nữ có tới 7 đời chồng. Theo luật “thế huynh” của Môsê cho phép nếu người anh lấy vợ mà không con thì người em kế đó có quyền lấy người đàn bà ấy làm vợ. Như vậy có cả thảy 7 anh em đều lấy cùng một người đàn bà làm vợ vì tất cả đều lần lượt chết đi mà không con. Cuối cùng người đàn bà ấy cũng chết. Vậy vấn đề họ đặt ra với Chúa Giêsu là: Đời sau người bà ấy sẽ sống với ông nào? Phải chọn 1 ông chứ chả nhẽ sống cùng một lúc với 7 ông chắc không ổn rồi!
Trước hết Chúa Giêsu khẳng định cho họ biết con người sẽ sống lại, nhưng sự sống đời sau khác hẳn đời này và không còn cảnh dựng vợ gả chồng nữa, bởi tình trạng bấy giờ giống như thiên thần. Tựa như con sâu chết đi hóa kiếp thành cánh bướm đẹp lung linh sắc màu. Đời bướm khác hẳn kiếp sâu.
Qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu là bảo chứng hùng hồn nhất cho niềm tin vào sự sống lại cho con người. Nhờ niềm tin ấy mà những người tín hữu ở đời này lúc nào cũng cố gắng nói và làm tất cả những gì tốt lành như thánh Phaolô căn dặn: Dù không biết chắc khi nào tận thế và Chúa lại đến, nhưng các tín hữu phải sống trong niềm hy vọng và mong chờ Chúa đến. Chính niềm hy vọng và sự mong chờ này sẽ là động lực giúp họ sống tốt. Hơn nữa chính nhờ sức mạnh của niềm tin vào sự sống lại mai sau nên bà mẹ và cả thảy 7 anh em nhà Macabê đã sẵn sàng chấp nhận cái chết chứ không phạm tội, họ nhất quyết vâng lời Vua vũ trụ hơn là vâng lời vua trần gian. 
Như thế, niềm tin vào sự sống đời đời giúp con người vượt thắng mọi sợ hãi và vươn lên sống tốt lành ngay ở đời này bởi họ tin vào sự sống vĩnh cửu mai sau. (St)

Thứ hai: Lc 17, 1-6
Mạnh Tử nói: "Nhân tri sơ tính bổn thiện". Tuân Tử lại nói: "Nhân tri sơ tính bổn ác". Cùng bàn về tính thiện ác trong con người, một nhà triết học phương Tây là Honbach cũng đưa ra quan điểm: “con người khi sinh ra vốn không thiện cũng không ác. Thiện hay ác là do hoàn cảnh tạo nên”. Còn Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay thì không bàn về tính thiện- ác nơi con người. Ngài cũng không theo quan điểm trung dung, nhưng khuyên chúng ta đừng làm gương mù, gương xấu mà làm ảnh hưởng đến tha nhân, nhất là với những người bé nhỏ.
Gương xấu là gì? Gương xấu là một lời nói hay một hành động không thích hợp làm cớ, tạo dịp cho người khác vấp phạm, sa ngã, phạm tội.
Có hai hình thức gây gương mù, gương xấu: Trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp là một hành động hay lời nói chủ ý, cố tình làm vậy để tạo dịp cho người khác sa ngã. Gián tiếp là hành vi hay lời nói vô ý, sơ suất có thể làm cho người khác hiểu lầm mà sa ngã, nhưng thực chất người làm không muốn. Dù trực tiếp hay gián tiếp làm gương xấu thì cả hai hình thức này đều phải tránh vì nó lôi kéo người khác vào những sai lầm, tội lỗi.
Chúa Giêsu lên án rất mạnh mẻ về việc làm này. Án phạt mà Chúa Giêsu đưa ra cho những ai cố tình làm gương xấu là tử hình “Cột cối đá mà quăng xuống nước”.
Để tránh gây gương mù gương xấu cho tha nhân không là điều dễ dàng nên Chúa Giêsu đòi hỏi cần phải có lòng tin. Lòng tin chính là sức mạnh vượt thắng những khó khăn trong đời. Sống lòng tin mọi nơi mọi lúc, ta mới có thể hóa giải được những khuynh hướng xấu nơi chính bản thân. Nhờ đó ta tránh gây ra những nguyên cớ làm thiệt hại cho tha nhân.
Xin Chúa ban thêm lòng tin nơi chúng con để chúng con đủ can đảm thi hành những điều tốt lành Chúa chỉ dạy, nhờ đó chúng con loại trừ được những hành vi và lời nói xấu xa, tội lỗi gây chia rẽ bất hòa trong đời sống.

Thứ ba: Lc 17, 7-10
Để nói một điều gì khó nói, người ta hay dùng cách nói ví von
Để thổ lộ một tâm tình sâu kín, người ta hay bộc bạch qua một câu chuyện.
Để diễn tả một chân lý nào đó, người ta hay dùng một dụ ngôn.
Dụ ngôn là cách thế Chúa Giêsu hay dùng trong lời rao giảng nhằm dạy chúng ta về chân lý của lẽ sống.
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng câu chuyện dụ ngôn về người đầy tớ để dạy chúng ta về thái độ khiêm tốn phải có trong bổn phận phục vụ.
Như người đầy tớ, sau khi đã đi cày hay đi chăn chiên về, sẽ tự thấy có bổn phận phải tiếp tục phục vụ bữa tối cho chủ, rồi sau cùng mới được ăn mà không hề kêu ca.
Chúng ta cũng vậy, khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm theo ý Chúa, thì hãy nói : "Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi" (Lc 17,10), chứ không được tự mãn, khoe khoang về những thành quả do công khó của mìnhmà đòi hỏi Chúa phải trả công như người làm thuê. Vì xét cho cùng, tất cả những gì chúng ta “có” và chúng ta “là” đều do Chúa ban: Sự sống, sức khỏe, tài năng, điều kiện hoàn cảnh…; cũng như những thành công trong công việc đều nhờ bởi ơn Chúa. Như lời Người phán: “Không có Thầy, anh em không làm được gì” (Ga 15,5).
Tạ ơn Chúa vì chúng ta thật danh dự được Chúa tin tưởng trao phó nhiệm vụ phụng thờ Chúa và phục vụ anh em.
Xin Chúa ban cho chúng ta thái độ khiêm tốn trước Chúa, trước anh em và bản thân trong khi thi hành những bổn phận hằng ngày. Để khi thành công chúng ta không kêu căng tự mãn đòi hỏi công sức; cũng như khi thất bại chúng ta không buồn tủi, chán nản, bỏ cuộc trong trách niệm phục vụ.

Thứ tư Lc 17, 11-19
Người mắc bệnh cùi thời Chúa Giêsu phải chịu nhiều đau khổ.
- Đau về thể xác:
Vì không có thuốc chữa trị, nên bệnh cùi hành hạ thân xác rất nhức nhối.
Vi trùng cùi Hansen ăn vào da thịt dần mòn làm lỡ loét mặt mày, tay chân đau buốt.
Gân cốt tay chân thường bị co vấp lại, không còn khả năng làm việc như người bình thường. Tình cảnh họ rất là đau thương.
- Khổ về tâm hồn:
Quan niệm bệnh là do tội lỗi lỗi gây nên. Cùi là bệnh nan y thời bấy giờ chứng tỏ tội của người cùi phải rất nặng.
Người cùi bị mọi người xem thường, khinh bỉ và xa lánh vì sợ lây uế. Người cùi bị buộc phải sống tách biệt với cộng đồng và bị xã hội đẩy ra bên lề cuộc sống.
Người bị bệnh cùi luôn phải sống nương tựa vào người khác nên bị xem là thành phần ăn bám của xã hội. Thật chua xót!
Việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh cùi chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa quyền năng và giàu lòng thương xót.
Việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh cùi đồng nghĩa với việc Chúa phục hồi phẩm giá làm người của họ, trả lại cho họ tình trạng tốt đẹp thuở ban đầu mà Thiên Chúa đã tác tạo.
Việc Chúa chữa lành bệnh cùi, tạo điều kiện cho họ hòa nhập vào xã hội. Đó cũng chính là sứ điệp mời gọi mọi người hãy mở rộng vòng tay đón nhận nhau trong tình anh em, dù họ là ai.
Việc Chúa chữa lành bệnh cùi còn là mời gọi tha thiết đối với những ai đang mang nặng những nỗi đau về thể xác hay những vết thương nơi tâm hồn hãy mạnh dạn đến với Chúa để kêu xin ơn cứu chữa của Ngài; qua đó giúp họ tự tin can đảm hòa nhập vào cộng đồng xã hội tận hưởng niềm vui, nguồn an ủi sẻ chia tình người.
Có lẽ chúng ta không mắc phải bệnh cùi về thể lý vì ngày nay đã có thuốc đặc trị. Nhưng rất có thể chúng ta lại mắc phải bệnh cùi về tâm linh:
Cùi tâm linh là khi chúng ta vô ơn đối với Thiên Chúa. Sống xa cách Chúa, không quan tâm đến thánh lễ Chúa nhật, không còn biết cám ơn Chúa qua giờ kinh sáng-tối nơi gia đình, không để tâm học hỏi Thánh kinh và giáo lý….
Cùi tâm linh là khi chúng ta tự tách rời khỏi anh em trong các sinh hoạt của họ đạo. Có thể vì mặc cảm hay vì tự cao mà ta sống cu ki một mình, không còn khả năng hòa nhập với cộng đoàn họ đạo.
Cùi tâm linh là khi chúng ta vô tâm, thờ ơ, dửng dưng, ích kỷ, tư lợi mà không biết chạnh lòng thương trước nỗi đau của người khác. Những thứ đó chính là triệu chứng bệnh cùi tâm linh rất nguy hiểm.
Vậy mỗi người chúng ta hãy ý thức về bệnh cùi tâm linh của mình và xin Chúa cứu chữa.
Xin Chúa cho chúng con biết khiêm tốn nhận ra bệnh tình nguy hiểm mà ta đang mang trong người. Và xin Chúa thương cứu chữa cho lành sạch. “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!”.

Thứ năm: Lc 17, 20-25
Bao giờ triều đại Thiên Chúa đến và đến ở đâu? Đó không chỉ là thắc mắc của người Pharisêu mà là của tất cả chúng ta.
Qua câu trả lời, Chúa Giêsu như muốn nói với ta rằng: Bao giờ triều đại Thiên Chúa đến hay đến ở đâu không quan trọng. Quan trọng là làm sao chúng ta cảm nhận được triều đại Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta.
Làm thế nào chúng ta cảm nhận được triều đại Thiên Chúa đang ở giữa hay ở nơi chúng ta?
- Phải sống yêu thương.
Thánh Gioan định nghĩa: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Như vậy ai sống yêu thương thì người ấy giống Thiên Chúa; giống Thiên Chúa thì tất nhiên được ở trong triều đại của Chúa; mà ở trong triều đại Chúa có nghĩa là triều đại Thiên Chúa đang đến ở giữa người đó. Linh mục Vinh Hạnh đã sáng tác một bài hát “Đâu có tình yêu thương” rất hay. Lời của bài hát viết rằng: “Đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa trời”. Vậy nơi nào có tình yêu, thì Đức Chúa Trời hiện diện nơi đó. Và nơi đó chính là triều đại của Thiên Chúa đang đến.
- Phải đặt niềm tin vào Đức Giêsu.
Trong cuộc đàm luận với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã khẳng định: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”(Ga 3,1-21). Nên những ai tin tưởng vào Đức Giêsu, Thiên Chúa làm Người sẽ đón nhận được ơn cứu độ. Đón nhận được cứu độ cũng đồng nghĩa với triều đại Thiên Chúa đang đến giữa họ.
- Phải sống công chính.
Thánh Phaolô xác định mạnh mẻ: “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Do đó, ai biết sống đời công chính, kiến tạo bình an và gieo rắc niềm vui trong Chúa Thánh Thần, người ấy xứng đáng là công dân của nước Chúa. Là công dân nước Chúa thì tất nhiên triều đại Thiên Chúa đang đến ở giữa họ.
Tóm lại: Niềm tin, tình yêu, công chính... là những điều kiện nền tảng mà mỗi người chúng ta phải nỗ lực thực hiện, mới mong đón nhận được triều đại Thiên Chúa đang đến với ta.
Xin Chúa cũng cố niềm tin, tình yêu và sự công chính của Chúa nơi mỗi chúng ta, ngõ hầu chúng ta cảm nhận được bình an, hạnh phúc và niềm vui nơi tâm hồn. Khi đó chúng ta sẽ nhận thấy triều đại Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta. Amen.

Thứ sáu: Lc 17, 26-37
“Bao giờ triều đại Thiên Chúa đến?” (Lc 17, 20) hoặc bao giờ đến ngày tận thế? Đó không chỉ là nỗi quan tâm của những người Pharisêu mà còn là của các môn đệ Chúa Giêsu: “Thưa thầy, ở đâu vậy?” (Lc 17,37). Trãi qua mọi thời đại, con người lúc nào cũng quan tâm đến vấn đề này.
Vào những thời kì đầu của Giáo Hội, các tín hữu Thessalonica đã nghe theo những luận điệu tuyên truyền sai lạc về ngày tận thế sắp đến. Do đó họ tỏ ra chán nản, lười biếng buông xuôi hết mọi thứ, không còn lo làm việc nữa. Đến nổi thánh Phaolô phải viết thư khuyên họ, đừng tin theo những luận điệu sai lạc ấy.
Ta vẫn còn nhớ khi bước vào năm 2000, nhiều người cho rằng ngày tận thế sẽ đến, họ lo lắng và chuẩn bị đủ mọi chuyện: dự trữ lương thực, mua đèn cầy để xin làm phép, lo đi xưng tội, cố gắng sống tốt... nhằm chờ đón ngày tận thế đến.
Cũng vậy, cách đây vài năm, người ta đồn đoán rằng: theo lịch Maya, thì vào ngày 21/12/2012 là ngày tận thế, do đây là ngày kết thúc niên lịch của họ. Nhưng tất cả những đồn đoán ấy đều qua đi, mà không hề xảy ra ngày tận thế.
Vậy bao giờ thì tận thế?
Không ai biết trước được. Cả Chúa Giêsu cũng không mạc khải về thời giờ cụ thể của ngày này, chỉ có Chúa Cha biết thôi: “Còn về ngày hay giờ đó, thì dù các thiên sứ trên trời, hay cả Con Người đi nữa, cũng không ai biết được trừ một mình Chúa Cha mà thôi”(Mc 13, 32). Chúa Giêsu chỉ nói sẽ có ngày tận thế. Ngày ấy đến một cách rất là nhanh chóng và bất ngờ như “ánh chớp chói lòa chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia” (Lc 17, 24).
Và để minh họa cho tính bất ngờ của ngày tận thế ấy, bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hai sự kiện cụ thể trong thời cựu ước đó là: lụt Đại Hồng Thủy thời Nô-e và Mưa lửa, Diêm sinh từ trời xuống thời ông Lót để mời gọi chúng ta phải có thái độ sẵn sàng cho ngày ấy.
Cũng như ngày tận thế đến bất ngờ và nhanh chóng thế nào, thì cái chết cũng đến với mỗi chúng ta cũng mang tính cách bất ngờ như vậy. Vì thế, điều quan trọng là hãy nghe theo lời dạy của Chúa mà chuẩn bị sẵn sàng. Có sẵn sàng thì cho dù cái chết có đến bất ngờ, ta cũng không hề sợ hãi; trái lại, ngày ấy sẽ là ngày hân hoan vui mừng của ta, vì triều đại Thiên Chúa thuộc về ta.
Lạy Chúa, sống trên đời này, ai trong chúng con cũng tất bật lo cho cơm áo gạo tiền; cũng như muốn vui chơi hưởng thụ. Nhưng xin Chúa đừng để chúng con quá ham mê của cải và đam mê hưởng thụ mà quên đi nhiệm vụ chính yếu là chuẩn bị sẵn sàng cho ngày Chúa đến.

Thứ bảy: Lc 18, 1-8
Phải nói rằng cầu nguyện chính là biểu lộ của đức tin. Có tin mới cầu xin. Tin ít thì cầu xin ít, tin nhiều cầu xin nhiều. Tin vững vàng thì cầu xin kiên trì.
Vì thế, chúng ta mới hiểu tại sao Chúa Giêsu phải thốt lên: “khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”. Nói cách khác là liệu Ngài có còn thấy con người cầu nguyện khi ngày Ngài ngự đến nữa chăng?
Với hình ảnh bà góa trong bài tin mừng hôm nay, chúa Giêsu muốn dạy chúng ta phải kiên trì trong cầu nguyện để biểu lộ đức tin mạnh mẻ của mình.
Kiên trì là gì?
Kiên trì là: bền bỉ, giữ vững, không bỏ.
Bền bỉ cầu xin như người đàn bà góa bất hạnh trong bài tin mừng hôm nay. Như thánh nữ Mônica hơn 20 năm cầu nguyện cho chồng, cho con….
Nếu bà góa kiên vững đặt hết niềm tin và lời cầu xin của mình vào ông quan tòa bất chính, thì chúng ta càng phải kiên gan giữ vững niềm tin với lời nguyện xin của chúng ta vào Thiên Chúa là người Cha chúng ta.
Nếu ông quan tòa bất chính còn đáp lại nguyện vọng của người đàn bà góa nhờ sự kiên trì không chán nản bỏ cuộc của bà ta, thì Thiên Chúa, người cha nhân ái chắc chắn sẽ không bao giờ làm ngơ trước lời cầu xin liên tục của con cái mình. Nhưng liệu lòng tin chúng ta có đủ mạnh để kiên trì cầu xin hay là chúng ta dễ dàng nản lòng bỏ cuộc?
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết biểu lộ lòng tin của mình cách mạnh mẻ bằng việc cầu nguyện kiên trì. Để khi vui hay lúc buồn, thành công hay thất bại, mưa hay nắng, mạnh khỏe hay đau yếu… lúc nào con cũng gắn kết với Chúa qua việc cầu nguyện. Xin cho con cũng ý thức cầu nguyện là nhu cầu rất cần thiết cho đời sống đức tin như hơi thở cần cho sự sống vậy!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XIV THƯỜNG NIÊN Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN B Ed 2,2-5; 2Cr 12,7-10; Mc 6,1-6 Suy niệm 1: ...