Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 27 tháng 8, 2020

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXII THƯỜNG NIÊN 

CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN A

Gr 20,7-9; Rm 12,1-2; Mt 16,21-27

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết những điều kiện căn bản để trở nên môn đệ chân chính của Chúa Giêsu. Đó là “từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” Xin cho mỗi ngày chúng ta biết từ bỏ ý mình để vâng theo ý chúa, từ bỏ lối sống vị kỉ để sống vị tha, nhất là luôn sẵn sàng hy sinh vác thập giá mình hằng ngày để tiến bước theo Chúa Giêsu, đấng chúng ta tin tưởng và yêu mến.

Cuộc sống chúng ta là một chuỗi những chọn lựa. Chính vì những lựa chọn cách tự do mà đưa đến những hệ lụy tốt-xấu, thành công-thất bại, hạnh phúc- đau khổ… cho cuộc đời của ta. Lựa chọn nào cũng đòi buộc chúng ta phải từ bỏ, mà từ bỏ lại đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, mà hy sinh nào cũng dẫn đến mất mác và đau đớn.

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu mong muốn chúng ta cần phải có thái độ dứt khoát trong chọn lựa khi theo làm môn đệ Ngài: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo.”

Khi gọi các môn đệ, Chúa Giêsu luôn đòi hỏi các ông phải chấp nhận từ bỏ mọi sự: Bỏ tình thân, tiền bạc của cải, nghề nghiệp, danh vọng, lạc thú, nhất là con người củ với những tật xấu để bước theo Ngài. Không được nhượng bộ xác thịt, không được dung dưỡng sự lười biếng và sự thỏa hiệp với lòng ham muốn ích kỉ… Nhưng từ bỏ trên hết và trước hết là từ bỏ chính mình, bởi lẽ nếu có bỏ tất cả mà chưa từ bỏ mình thì coi như chưa từ bỏ gì cả, từ từ ta sẽ gom lại tất cả những gì mà mình đã bỏ rơi.

Trong kho tàng văn hóa thần bí của nước Ấn độ, người ta đọc thấy một câu chuyện răn đời rất lý thú:

Sau một thời gian dài kiên nhẫn chịu đựng để hướng dẫn tu luyện, một vị linh sư Ấn giáo nọ rất hài lòng về sự tiến bộ của người đệ tử ruột của ông. Nhận thức rằng người đệ tử không cần đến sự dìu dắt huấn luyện của mình nữa, nên một ngày kia, vị linh sư mới bỏ mặc anh trong một túp lều tranh rách nát bên cạnh một bờ sông.

Thực hiện huấn dụ của vị linh sư, mỗi buổi sáng khi thức dậy, người đệ tử dìm mình xuống dòng sông để thanh tẩy theo đúng nghi thức Ấn giáo, rồi anh giặt chiếc áo rách của mình. Chiếc áo rách : Ðó là tất cả tài sản duy nhất của anh.

Một ngày kia, người đệ tử buồn bực xót xa vô hạn khi phát giác chiếc áo duy nhất của mình phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn rách tả tơi! Không còn cách nào khác, người đệ tử đành phải gõ cửa dân làng để xin một chiếc áo khác.

Chẳng bao lâu, chiếc áo này cũng bị chuột cắn nát! Lúc đó anh mới nảy sinh ý nghĩ vào làng xin cho kỳ được một con mèo. Từ nay anh khỏi phải lo lắng về sự quấy phá của mấy chú chuột nữa. Nhưng thay vì xin áo mặc, người đệ tử thuộc môn phái khất thực cũng vẫn phải ngày ngày vào làng xin cơm bánh cho mình.

Tháng này qua năm khác, anh vẫn phải vác bị đi khất thực! Một ngày kia, bỗng nhiên người đệ tử cảm thấy xấu hổ vì bao năm qua, anh đã vô tình trở thành một thứ gánh nặng cho dân làng! Nghĩ thế, anh đã tìm đủ mọi cách để tậu cho bằng được một con bò lấy vốn làm ăn. Nhưng có bò rồi thì cũng phải liệu sao có cỏ cho bò ăn. Những ngày đầu, anh tự mình đi cắt cỏ cho bò. Nhưng về lâu về dài, nhận thấy không còn thời giờ để ngồi thiền và cầu nguyện, anh đành phải thuê một người cắt cỏ cho bò.

Con bò ngày càng sinh sản ra nhiều. Chẳng bao lâu đã trở thành một đàn bò đông đúc, nên số người cắt cỏ cũng phải gia tăng theo nhịp độ phát triển của đàn bò. Mấy năm sau, mảnh đất chung quanh túp lều tranh của anh ngày xưa đã biến thành một nông trại trù phú lớn lao.

Con người đã một thời muốn từ bỏ tất cả mọi sự để trở thành một tu sĩ, một vị linh sư trong Ấn giáo, thì nay đã nghiễm nhiên trở thành một ông chủ nông trại giàu có danh tiếng. Có tiền, có tất cả mọi sự, nên anh nghĩ phải có một người tâm đầu ý hợp để cùng anh chia sẻ công việc. Sau cùng anh đành phải cưới một người vợ trẻ đẹp. Không bao lâu, anh đã trở thành một trong những ông chủ nông trại giàu có quyền thế nhất trong vùng.

Hai mươi năm sau, trong một dịp trở lại thăm ngôi làng cũ, vị linh sư Ấn giáo xưa đã một thời dẫn dắt anh trên đường tu trì, vô cùng ngạc nhiên vì thay cho túp lều tranh rách nát nghèo nàn bên bờ sông ngày nào, nay đã là cả một cơ nghiệp đồ sộ lớn lao.

Thăm hỏi dân làng để biết được tung tích người chủ nông trại giàu có uy quyền hống hách khắp vùng, vị linh sư mới ôn tồn lên tiếng hỏi người đệ tử cũ của mình: " Thế này nghĩa là gì hả con?! ".

Người đệ tử suy nghĩ hồi lâu rồi hối hận trả lời: "Thưa Thày, có lẽ Thày không tin. Nhưng tất cả cơ nghiệp này, được như hôm nay, cũng chỉ vì con đã không đủ can đảm tìm mọi cách để giữ được chiếc áo rách!"

Câu chuyện trên giúp ta hiểu rằng: từ bỏ mọi sự phải là từ bỏ cách dứt khoát và trọn vẹn để đi theo Chúa.

Đi theo Chúa, nghĩa là đi chứ không đứng, là thực hiện chứ không ước muốn, vì “hoả ngục thuờng được lát bằng những thiện chí.”

Đi theo Chúa là tiến bước chứ không được lùi hay đứng tại chỗ, nghĩa là mỗi ngày ta phải thấy mình được gần Chúa và gần anh em hơn.

Đi theo Ngài cũng có nghĩa là không bao giờ được theo ai khác. Phải xác định cách chắc chắn rằng: “Đức Giêsu Kitô phải là thần tượng của cuộc đời tôi, đó là một Đức Giêsu Kitô đã sống, đã chịu đóng đinh và đã chết nhưng Ngài đã phục sinh vì tình yêu cứu độ.”

Đi theo Ngài cũng đồng nghĩa là không được bắt Ngài phải đi theo tôi.

Ước gì mỗi chúng ta biết bỏ đi ý riêng để vâng theo ý Chúa. Biết bỏ đi những ước muốn và toan tính của mình để vâng theo ý định của Chúa. Biết ưu tiên làm việc Chúa hơn việc mình. Biết sống cho và vì Chúa hơn sống cho và vì mình. Bởi ta biết rằng ý Chúa, việc Chúa, cho Chúa, vì Chúa… thì thiện hảo và ích lợi cho ta hơn những gì chúng ta ước muốn.

 

Thứ hai: Lc 4, 16-30

Nếu khởi đầu cho sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã thi ân giáng phúc cho những người sống trong vùng đất u tối của dân ngoại, thì Tin mừng hôm nay cho biết Chúa Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy trở về quê nhà là Nazareth, để công bố chương trình hành động của mình. Đó là: “Loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó…, công bố năm hồng ân và ngày khen thường”. Như vậy, chương trình hành động của Chúa Giêsu là ưu tiên hướng về người nghèo. Nên rất hợp lòng dân. Vì thế, mà Ngài đã được dân chúng đón nhận cách nhiệt tình “mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người”. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là chương trình ấy rất đẹp lòng Đức Chúa Cha, bởi đã ứng nghiệm đúng như những gì mà tiên tri Isaia đã loan báo từ ngàn xưa về vai trò của Đấng Messia.

Nếu chương trình hành động của Chúa Giêsu là nhằm đem lại niềm vui, hạnh phúc và hồng ân cứu độ cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ. Vậy thử hỏi chương trình hành động ưu tiên của tôi là gì?

Mỗi người chúng ta rất cần sắp xếp lại chương trình sống hàng ngày của mình. Mong sao những ưu tiên chọn lựa hành động trong chương trình sống của chúng ta luôn phù hợp với thánh ý của Chúa.  

Xin Chúa cho chúng ta biết quan tâm yêu thương hết mọi người, nhất là những người nghèo khổ đang sống chung quanh chúng ta. Bằng những lời nói yêu thương và những việc làm bác ái cụ thể. Làm được như thế là ta đã góp phần đưa chương trình hành động yêu thương của Chúa đến được với mọi người nhất là những người nghèo khổ.

 

Thứ ba: Lc 4, 31-37

Năm 1983, trong cuộc nói chuyện với liên hội đồng Giám Mục Châu Mỹ La-tinh, Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đã khẳng định "Tân phúc âm hóa", không phải là Phúc âm mới, nhưng là "mới về lòng nhiệt thành, mới trong phương pháp và mới trong các diễn tả",  vì "Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời" (Dt 13,8). Như vậy "Tân phúc âm hóa" không phải là Phúc âm mới; cũng không phải là một sáng kiến mới của Giáo Hội trong việc loan báo Tin mừng ngày nay, mà công cuộc "Tân phúc âm hóa" đã được Đức cố GH Gioan Phaolô II đề cập cách nay khá lâu. Nhưng trên hết công cuộc "Tân phúc âm hóa" này là do chính Chúa Giêsu khởi xướng và thực hiện cách nay hơn 2000 năm, ngay khi bắt đầu sứ vụ loan báo Tin mừng. Đó là điều mà Tin mừng hôm nay nói đến.

- Chúa Giêsu luôn làm mới lòng nhiệt thành. Vì thế, cho dù bị thất bại ngay trong lần trở về quê nhà Nazareth, nhưng Chúa Giêsu không hề nản lòng trước thái độ khướt từ chống đối của dân làng. Trái lại càng làm cho Ngài nhiệt thành hơn. Bằng chứng là Ngài đã bình tâm rời bỏ nơi đó mà sẵn sàng đi đến các thành khác (Capharnaum) để tiếp tục thi hành sứ mạng đã được Chúa Cha trao phó, với lòng nhiệt tâm mới mẻ như ban đầu.

- Chúa Giêsu làm mới trong phương pháp giảng dạy. Không biết nội dung Chúa Giêsu giảng dạy như thế nào tại hội đường Capharnaum, nhưng lời rao giảng của Ngài đã làm cho dân chúng hôm đó hứng khởi đến sửng sốt. Tin mừng chỉ cho biết việc giảng dạy của Chúa Giêsu rất mới lạ và rất uy quyền. Chắc chắn rằng phong thái và phương pháp giảng dạy của Chúa Giêsu không giống như các Kinh sư. Các Kinh sư khi giảng dạy thì chỉ giải thích Kinh Thánh và Luật Lệ cách dài dòng, nhằm chất lên vai người khác những gánh nặng. Còn giáo huấn của Chúa Giêsu thì ngắn gọn, cụ thể, gần gủi nên dễ hiểu; hơn nữa lời giảng dạy của Ngài luôn hướng đến những người nghèo khổ, những người bị loại ra bên lề xã hội, đúng như chương trình hành động mà Ngài đã công bố nơi hội đường Nazareth. Vì thế mà lời giảng dạy của Ngài đã đụng chạm đến trái tim người nghe.

- Cuối cùng Chúa Giêsu đã làm mới trong cách diễn tả. Chúa Giêsu không chỉ nói suông như những Kinh sư và Biệt phái "họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào." (Mt 23, 3-4). Còn Chúa Giêsu thì trái lại lời giảng dạy luôn đi đôi với việc làm cụ thể. Bằng phép lạ chữa một người bị quỷ ám, ngoài việc minh chứng cho biết Ngài chính là Thiên Chúa uy quyền; còn cho thấy cách thế diễn tả mới mẻ của Chúa Giêsu trong việc rao giảng Tin mừng, nên đã thu hút được người nghe. Đúng là “lời nói lung lay, gương lành lôi kéo”Hay như đức cố Giáo hoàng Phaolô VI đã nói: "ngày nay người ta cần chứng nhân hơn thầy dạy."

Xin Chúa ban cho mỗi chúng ta luôn biết làm mới lại lòng nhiệt tâm tông đồ, luôn biết thao thức tìm ra những phương cách phù hợp để đem Tin mừng đến được với người nghe, nhất là biết tích cực sống những giá trị của Tin mừng phù hợp với thời đại mới. Nhờ thế sức sống của Tin mừng của Chúa mới có thể lan tỏa mạnh mẻ đến mọi người và mọi nơi.

 

Suy niệm 2:

Bài Tin mừng hôm nay dạy chúng ta hai bài học.

1. Bài học thứ nhất: Thắng không kêu bại không nản.

Dẫu trong ngày tiếp xúc cử tri tại quê nhà, để công bố chương trình hành động, Chúa Giêsu đã bị thất bại vì những định kiến cố hữu của họ. Nhưng không vì thế mà Người nản lòng, bỏ cuộc. Bởi vì Chúa Giêsu hiểu rằng: "không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình". (Lc 4, 24). Nhưng Tin mừng phải được rao giảngnên Người bỏ nơi đó mà xuống thành Capharnaum, vào hội đường và tiếp tục thi hành sứ vụ. Tại đây Ngài đã thành công rực rỡ vì được dân chúng đón nhận hồ hởi, nên đã gây được tiếng vang lớn khắp cả vùng. Đây cũng là bài học quý gia cho chúng ta. Đừng nản lòng khi gặp thất bại, nhưng cũng đừng quá hãnh diện khi thành công may mắn. Điều quan trọng là khiêm tốn tạ ơn Chúa trong mọi lúc.

2. Bài học thứ hai: Lời nói phải đi đôi với việc làm.

Nếu lời giảng dạy của các Biệt phái và Kinh sư không được dân chúng đón nhận là vì "họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào". (Mt 23, 3-4). Lối sống giả hình của họ khiến dân chúng chán ngán, mệt mỏi. Thì với Chúa Giêsu lại khác. Lời giảng dạy của Ngài đã được dân chúng đón nhận cách nhiệt tình. Với phép lạ trục xuất ma quỷ ra khỏi người bị nó ám hại, Chúa Giêsu không những minh chứng mạnh mẻ uy quyền của Thiên Chúa mà còn gây sửng sốt cho mọi người, vì lời Ngài nói luôn đi đôi với việc Ngài làm. Vì vậy, để có thể thuyết phục người khác tin vào Chúa, chúng ta không chỉ rao giảng suông bằng lời, nhưng đòi hỏi chúng ta phải thực hiện bằng những việc làm cụ thể.

Nguyện xin Chúa Giêsu, Ðấng giảng dạy với uy quyền, giúp chúng con biết thống nhất giữa lời nói và việc làm để những giá trị Tin mừng luôn được người nghe đón nhận và tin tưởng. Xin Chúa củng cố niềm tin, gia tăng đức mến và bảo toàn niềm trông cậy nơi chúng ta để dẫu khi thành công hay khi thất bại chúng ta vẫn luôn an vui sống trong vòng tay đầy yêu thương của Chúa.

 

Thứ tư: Lc 4, 38-44

Tin mừng hôm nay thuật lại một ngày sống tiêu biểu của Chúa Giêsu ở Caphácnaum với biết bao công việc: “Vào Hội đường giảng dạy, rồi đến nhà chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô; mãi đến lúc mặt trời lặn Ngài vẫn còn tất bật chữa lành đủ mọi loại bệnh hoạn, tật nguyền. Sáng sớm tinh mơ, Chúa lại tìm đến nơi hoang vắng để cầu nguyện cùng Chúa Cha.” Ngày sống tiêu biểu của Chúa Giêsu phải trở nên khuôn mẫu cho ngày sống của mỗi người kitô hữu chúng ta.

- Noi gương Chúa Giêsu chúng ta hãy bắt đầu ngày mới bằng việc cầu nguyện. Cầu nguyện để gặp gỡ Chúa, được sống thân tình bên Chúa, để lắng nghe lời Chúa chỉ dạy. Trên hết cầu nguyện để nhận lấy nguồn ơn sức mạnh nâng đỡ của Chúa nhằm chu toàn tốt bổn phận hằng ngày. Một ngày sống khởi đầu với kinh nguyện, thánh lễ, chúng ta được gia tăng lòng Tin Cậy Mến, nhờ đó mà nhiệt thành làm mọi việc trong ngày sáng danh Chúa.

- Học nơi Chúa Giêsu, chúng ta hãy chuyên chăm làm việc. Con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa để sống trong thế giới hữu hình và được đặt trong thế giới này để "làm chủ trái đất"; vì thế, ngay từ đầu con người đã được kêu gọi để lao động. Chính Chúa Giêsu cũng đã nêu gương cho ta: "cho đến nay, Cha tôi làm việc, thì Tôi cũng làm việc" (Ga 5, 17). Làm việc để có của nuôi sống bản thân và gia đình; đóng góp vào sự tiến bộ liên tục của khoa học kỹ thuật, nhất là làm cho cộng đồng xã hội anh em của mình luôn luôn thăng tiến về văn hóa và đạo đức, đó là ý định của Chúa và mong muốn của con người.

Tóm lại: Chúa Giêsu đã đi bước trước trong đời sống lao động và cầu nguyện. lao động mà không cầu nguyện sẽ làm cuộc sống con người mệt mỏi và đơn điệu; ngược lại cầu nguyện mà không lao động, khiến con người trở nên sống hình thức, lười biếng và ỷ lại.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết kết hợp cách hài hoà giữa lao động và cầu nguyện để nhờ đó nhân loại không chỉ biết trân trọng những giá trị do lao động mang lại, mà còn biết trân trọng những hiệu quả lớn lao của đời sống kết hiệp với Thiên Chúa.

 

Thứ năm: Lc 5, 1-11

Trên báo điện tử Trí Thức Trẻ ngày 12.8.2014 có đăng tải bài viết: Gái Miền Tây, và 3 chữ "N" nổi danh thiên hạ. (3 chữ "N": Ngon, Ngoan và Ngu), đã bị dân cư mạng phản đối cực lực, khiến cho bộ VHTT phải vào cuộc và xử lý nghiêm khắc. Bởi vì tác giả đã bôi nhọ và xúc phạm đến giá trị nhân phẩm của gái Miền Tây, cũng như chia rẻ người vùng miền. Trái với nội dung bài viết trên báo điện tử Tri Thức Trẻ trên, bài viết và nội dung của tác giả thánh Luca trong bài Tin mừng hôm nay đã để lại cho người đọc một ấn tượng tuyệt đẹp, khi đề cao nhân vật Giêsu với 3 chữ "L" (lạ) nổi danh thiên hạ.

1. "Lạ" về nơi giảng dạy.

Lạ là ở đời ai lại dùng thuyền đánh cá để ngồi trên đó mà giảng dạy; cũng chưa từng thấy ai quy tụ dân chúng nơi bãi biển để giáo huấn. Vậy mà Chúa Giêsu đã không ngần ngại tận dụng phương tiện và nơi chốn ấy để rao giảng Lời Chúa. Quả là lạ thường!

2. "Lạ" về mẻ cá bất thường.

Với kinh nghiệm lành nghề về việc đánh bắt cá biển, Sinmon cùng các bạn đồng nghiệp đã trãi qua một đêm vất vả, nhưng chẳng được con cá nào. Trong khi giữa lúc ban ngày, thầy Giêsu chẳng có chút kinh nghiệm gì về việc ra khơi bám biển, lại đề nghị Simon thả lưới bắt cá, quả là chuyện đùa! Nhưng để làm vui lòng thầy Giêsu, Simon đành miễn cưỡng làm theo; vật mà thật bất ngờ, kết quả lại ngoài sức tưởng tượng. Một mẻ cá lạ đầy ấp những cá là cá. Ấy mới là sự lạ!

3. "Lạ" về việc chuyển đổi nghề nghiệp bất ngờ.

Trước một mẻ cá lạ lùng, Sinmon đã hò reo sung sướng, nhưng cũng đầy sợ hãi khi nhận ra thân phận yếu hèn tội lỗi của mình nên đã sụp lạy thầy Giêsu đầy quyền năng. Không ngờ chính lúc đó, Chúa Giêsu lại nhẹ nhàng chấn an, rồi bất ngờ kêu gọi ông chuyển đổi ngành nghề: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta". Sinmon đã không cưỡng lại được lời mời gọi chân tình tha thiết ấy của Đấng quyền năng, nên đã"bỏ mọi sự mà theo Người". Ôi lạ lùng biết mấy!

Với 3 chữ "lạ" nơi con người Giêsu mà thánh Luca tường thuật trong bài Tin mừng hôm nay, như dạy chúng ta những bài học quý:

- Phải tận dụng mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh để loan báo Tin Mừng.

- Luôn biết tin tưởng, trông cậy vào quyền năng Chúa trong mọi lúc vì "mọi kẻ tin vào Ngài sẽ không thất vọng bao giờ". (Tv 90).  Biết cậy dựa vào Chúa, ta có thể làm được những điều kì diệu, như thánh Phaolô đã nói: "Tôi có thể làm mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi". (Pl 4,13).

Mỗi người mỗi hoàn cảnh, mỗi người mỗi kinh nghiệm, mỗi người mỗi khả năng, tính cách..., nhưng Chúa đều tin tưởng mời gọi để cộng tác với Chúa để cứu rỗi các linh hồn.

Xin cho chúng ta biết mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa cách tích cực, sẵn sàng từ bỏ mọi sự để thi hành thánh ý Chúa với lòng tin tưởng cậy trông vào quyền năng của Người.

 

Thứ Sáu: Lc 5, 33-39

Nhân cơ hội giải thích cho những người Pharisêu lý do vì sao các môn đệ Chúa không ăn chay, Chúa Giêsu mạc khải cho họ biết về bản thân và sứ mạng của Ngài.

Trong cựu ước Thiên Chúa tự ví Người là chàng rể và Israel là nàng dâu. Như thế khi đem trường hợp tiệc cưới ra để giải thích về việc ăn chay, Chúa Giêsu muốn cho họ biết rằng: Người là chàng rể và Israel là nàng dâu. Qua đó mặc nhiên tuyên bố Người chính là Thiên Chúa đã đến giữa lòng nhân loại.

Hơn nữa, mục đích chính của việc ăn chay bấy giờ là mong đợi Đấng Messia đến. Mà Chúa Giêsu chính là Đấng Messia (chàng rể) đã đến với loài người (nàng dâu) rồi, thì cớ gì phải ăn chay. Việc ăn chay phải gắn liền với cuộc đời của Đức Giêsu. Do đó lúc Người vui thì con người phải chia vui với Người. Khi Người khổ thì con người cùng chung đau khổ. Lúc Người chết thì con người phải cùng chấp nhận chịu chết với Người. Khi Người sống lại thì con người cũng cùng sống lại với Người.

Tóm lại, Chúa Giêsu không hề phủ nhận việc ăn chay, nhưng qua lời giải đáp thắc mắc trên, Chúa Giêsu muốn cho biết: Người chính là chàng rể Chúa Cha sai đến kết hôn với loài người, yêu thương loài người và cứu độ loài người. Cũng như xác định rõ cho chúng ta biết việc ăn chay là để dọn lòng tiếp rước Chúa. Một khi đã tiếp nhận Chúa rồi thì không cần ăn chay nữa, trái lại phải vui mừng phấn khởi trong niềm tin yêu Chúa.

Xin cho chúng ta biết lo ăn chay hãm mình, để dọn lòng xứng đáng đón nhận Chúa qua bàn tiệc Thánh Thể mỗi ngày, nhờ đó mà được thông hiệp với Chúa nguồn hạnh phúc đời ta.

 

Thứ bảy: Lc 6, 1-5

Tin mừng hôm nay tường thuật về cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và những người Pharisêu. Lý do xảy ra cuộc tranh luận là vì các môn đệ Chúa Giêsu bứt bông lúa ăn cho đỡ đói vào ngày Sabát. Nguyên nhân chính của cuộc tranh luận này là vì bất đồng quan điểm.

- Với những người Pharisêu giữ ngày Sabát là điều hết sức quan trọng. Ai vi phạm ngày này có thể bị xử tử (Xh 31, 14), bị ném đá (Ds 15, 32-36). Vì thế hành động bứt bông lúa để ăn đối với người Pharisêu là một hành động không thể chấp nhận được, mặc dù theo sách Đệ Nhị Luật thì hành động này là được phép: “Khi vào đồng lúa của người đồng loại, anh em có thể lấy tay bứt bông lúa” (Đnl 23, 26). Tuy nhiên vì đố kỵ, ghen ghét Chúa Giêsu nên họ cho rằng việc bứt lúa và vò trong tay cũng giống với hành vi gặt và xay lúa là một trong ba mươi chín việc không được phép làm trong ngày Sabát.

- Còn theo quan điểm của Chúa Giêsu thì Thiên Chúa lập nên ngày Sabát để loài người có thời gian nghỉ ngơi hầu nhớ đến công trình tạo dựng và giải phóng của TC (Đnl 5, 14-15). Ngày Sabát đúng là ngày của Chúa, dành cho Chúa, nhưng nó cũng là ngày phục vụ nhu cầu lợi ích cho con người và vì con người "Ngày Sabát được đặt ra vì con người". Do đó, việc các môn đệ Chúa bứt lúa ăn cho đỡ đói trong ngày Sabát là một nhu cầu chính đáng vì nó phục vụ cho nhu cầu lợi ích chính đáng cho con người. Chính vua Đa-vít và đoàn tùy tùng cũng đã vào đền thờ và đã lấy bánh dâng tiến để ăn khi bụng đói! Nhưng vì ghen ghét và hận thù đã làm cho những người Pharisêu trở nên mù quáng mà quên đi mục đích chính của việc giữ luật.

Để giúp cho những người Pharisêu có cái nhìn đúng đắn về mục đích của luật, Giêsu đã không ngần ngại đối đầu với họ cho đến cùng, dù có phải trả giá bằng cái chết trên Thập giá, tất cả là để minh chứng rằng: chỉ có một lề luật duy nhất để tuân giữ, đó là luật yêu thương, và chỉ có một giá trị cao cả nhất để sống và chết cho, đó là tình yêu. Sống "yêu thương là chu toàn lề luật". (Rm 13,10).

Xin Chúa loại trừ nơi chúng ta những đố kỵ, ghen ghét tầm thường để chúng ta có được cái nhìn trong sáng đúng đắn. Và xin Chúa giúp chúng ta luôn biết sống nhân ái và bao dung với hết mọi người như Chúa đã yêu thương chúng ta. Amen.

Thứ Năm, 20 tháng 8, 2020

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXI THƯỜNG NIÊN 

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN A

Mt 16, 13-20

Sau một thời gian Chúa Giêsu rao giảng Tin mừng và thi hành sứ vụ đây đó, nhiều người cũng đã biết đến Ngài. Nhưng để xem sự hiểu biết của họ như thế nào? Nên hôm nay, Chúa Giêsu muốn làm một cuộc thăm dò dư luận, mang tính xã hội học. Vì thế, bất ngờ Ngài hỏi các môn đệ: Người ta bảo Con Người là ai ?” Qua những lần thăm dò và nghe ngóng tin tức trong dân chúng, các môn đệ biết được có 3 luồng dư luận đánh giá về Thầy Giêsu của mình:

- Một số người cho rằng Thầy Giêsu là Gioan Tẩy Giả, bởi lẽ Chúa Giêsu cũng có đời sống chay tịnh khắc khổ và lên án mạnh mẽ lối sống giả hình của những người Pharisêu; hơn nữa lời rao giảng về sự sám hối của Chúa Giêsu cũng giống như Gioan Tẩy Gỉa.

- Một số khác thì cho rằng Thầy Giêsu là Êlia, vì Chúa Giêsu cũng đã từng làm phép lạ tựa như Êlia xưa kia.

- Phần đông còn lại thì xem Chúa Giêsu là Giêrêmia hay một vị tiên tri nào đó, bởi họ cũng nghe thấy Đức Giêsu rao giảng lời Chúa, tiên báo về những vấn đề tương lai như các tiên tri trước đây.

Nhưng có lẽ điều mà Chúa Giêsu quan tâm, không phải là dân chúng nghĩ về Ngài như thế nào? Mà quan trọng nhất là Ngài muốn biết các môn đệ hiểu về Ngài ra sao? Cho nên Ngài mới đặt câu hỏi thứ 2: “phần các con, các con bảo Thầy là ai?”.  Phêrô lại nhanh nhẹn thay mặt anh em tuyên xưng niềm tin: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Tuy lời tuyên xưng ấy chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời,” nhưng vẫn làm cho Chúa Giêsu cảm thấy rất hài lòng.

Sau đó, Chúa Giêsu mạc khải về con đường đau khổ mà Ngài phải đi để hoàn thành sứ mạng, thì lập tức Phêrô lại phản ứng quyết liệt, vì ông không thể chấp nhận Chúa Giêsu đi vào con đường ấy, cho nên Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: “Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu.” Tuy nhiên, hành động và lời can ngăn ấy của Phêrô đã làm cho Chúa Giêsu rất khó chịu nên Ngài đã khiển trách ông rất nặng lời: Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người.”

Điều này giúp ta hiểu rằng, cho dẫu Phêrô đã tin vào “Thầy là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa”. Nhưng ông lại mong muốn một Đấng Messia theo quan niệm trần tục theo ý muốn của mình. Ông không thích đón nhận một Đấng Kitô phải đi vào con đường thập giá để cứu độ nhân loại, theo thánh ý của Chúa Cha.

Ngẫm đi nghĩ lại, nhiều lúc chúng ta cũng có quan niệm giống như Phêrô về một Đức Giêsu. Đó là khi ta mong muốn Người phải là một vị TC theo ý muốn của mình. Buộc Người phải đáp ứng tất cả những gì chúng ta đòi hỏi. Chính vì thế mà không ít người trong chúng ta chỉ tin yêu Chúa và giữ đạo khi thuận lợi, thành công, may lành…; bằng ngược lại, chúng ta dễ dàng đánh mất niềm tin, bỏ đạo và xa rời Thiên Chúa khi gặp phải những khó khăn, thử thách, thất bại…trong đời sống.

Xin Chúa nâng đỡ và ban thêm lòng tin còn non kém của chúng ta, nhất là khi chúng ta phải đối mặt với những gian nan, thử thách và hoạn nạn trong cuộc sống.

 

Thứ hai: Kính Thánh Barthôlômêô Tông Đồ

Ga 1, 45-51

Tin mừng hôm nay tường thuật lại sự kiện ông Philipphê giới thiệu Đấng Messia cho ông Nathanaen, cũng gọi là Barthôlômêô. Khi nghe nói về Đức Giêsu, ông Nathanaen không tin và cho rằng Ngài chẳng có gì nổi bật, vì xuất thân từ làng quê Nadarét. Nhưng sau khi gặp Đức Giêsu, ông đã thay đổi cách nghĩ. Vậy điều gì đã làm cho niềm tin của ông thay đổi?

Thời Đức Giêsu, dân Do Thái hiểu cách nói “vua Ít-ra-en” theo nghĩa: nhà vua sẽ thực hiện cuộc cách mạng dân tộc, giải phóng Ít-ra-en khỏi ách nước ngoài, mà cụ thể là đế quốc Rôma. Ở Ga 1, 49, ông Nathanaen cũng không hiểu xa. Ông Nathanaen nghĩ vua Ít-ra-en phải trổi vượt, phải là một nhân vật nổi bật hay ít ra cũng phải sinh ra trong một gia đình giàu có, quí phái ở một thành đô hoa lệ. Nên khi Philipphê báo cho ông biết Đấng mà muôn dân đang mong chờ đã xuất hiện là người làng Nadarét, Nathanaen đã không tin. Ông đã phản bác “Từ Nadarét có thể có cái gì hay được”. Tuy nhiên, sau khi gặp mặt Đức Giêsu và trò chuyện với Ngài thì ông đã bị thuyết phục và đã tuyên xưng đức tin:“Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là vua Ít-ra-en”. 

Dẫu ông đã tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng ông lại hiểu tước hiệu này một cách rất mập mờ. Cho mãi sau ngày Chúa Phục Sinh, ông mới hiểu cách rõ ràng về tước hiệu này.

Như thánh philipphê đã không ngần ngại giới thiệu Đức Giêsu cho người bạn của mình, thì ngày nay, giữa một thế giới, xã hội đa văn hóa và tôn giáo, chúng ta có ngần ngại giới thiệu Chúa Giêsu cho những người xung quanh không? Và chúng ta phải giới thiệu Đức Giêsu thế nào cho phù hợp với thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 và sự bùng nổ của công nghệ 5G như hôm nay? 

Sau khi gặp Chúa Giêsu, tông đồ Barthôlômêô đã thay đổi suy nghĩ, biến đổi cuộc đời, trở thành môn đệ Chúa Giêsu. Sau ngày Chúa Giêsu phục sinh, ông còn hăng say ra đi loan báo Tin mừng và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để làm chứng cho Chúa. Còn chúng ta thì sao? Hằng ngày khi nghe lời Chúa, chúng ta có để cho lời Chúa tác động, thâm nhập và đem ra thực hành không? Và mỗi khi rước lấy Thánh Thể Chúa, chúng ta đã biến đổi cuộc đời như thế nào ?

Lạy Chúa Giêsu, niềm tin của chúng con còn non yếu nên chưa xác tín vững mạnh vào Chúa. Xin Chúa củng cố niềm tin cho chúng con mỗi khi gặp gỡ Chúa qua tha nhân, qua cầu nguyện, qua các biến cố...nhất là qua việc tham dự thánh lễ hàng ngày. Nhờ đó mà cuộc đời chúng con được biến đổi nhờ lời giáo huấn và Thánh Thể Chúa. 

 

Thứ ba: Mt 23, 23-26

Tiếp nối bài Tin mừng hôm qua, tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục lên án mạnh mẻ thói giả hình của những luật sĩ và biệt phái. Thói giả hình của họ được biểu hiện ra bên ngoài qua hai hành vi lầm lạc sau đây:

- Biến những điều phụ thành điều chính.

Sách Đệ nhị luật quy định: “Mỗi năm anh (em) phải trích một phần mười tất cả hoa lợi lấy từ những gì anh (em) gieo, những gì mọc lên ngoài đồng.  Anh (em) sẽ dùng trước nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ở nơi Người chọn cho Danh Người ngự…để mọi ngày anh (em) học cho biết kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) (Đnl 14, 22). Như vậy, nộp thuế thập phân và hoa màu ruộng đất là cách thức giúp người Do Thái nhớ rằng: ruộng đất họ có và hoa màu mà họ thu hoạch được là do ân ban của Thiên Chúa. Nhưng các Luật sĩ và Biệt phái lại quá ham mê tiền bạc nên họ đã thu vào hơn những gì theo sáchluật quy định, từ đó đánh mất đi ý nghĩa tôn giáo của bổn phận nộp thuế. Họ ham tiền đến nổi đã đánh thuế luôn cả những luống rau thơm như :bạc hà, hồi hương và thì là”. Trong khi đó lại sao lãng “những điều quan trọng trong lề luật, là đức công bình, lòng nhân từ và lòng tin thì các ngươi lại bỏ qua; đáng lẽ phải làm những điều này và không bỏ các điều kia”. 

- Quan tâm đến hình thức mà quên đi tấm lòng.

Vì quá đề cao bản thân nên lúc nào cũng muốn mọi người xem mình là người đạo đức nên họ cố ý phô trương những việc làm nhỏ nhặt như quá bận tâm đến việc rửa sạch chén đĩa bên ngoài mà lại không lo thanh tẩy tâm địa gian tham và nhơ bẩn bên trong tâm hồn. Khiến cho Chúa Giêsu phải lên tiếng vạch trần tâm địa xấu xa của họ và không ngần ngại quở trách rất nặng lời “khốn cho các ngươi”; với hy vọng giúp họ nhận ra sai lầm mà sửa đổi.

Những lời quở trách của Chúa Giêsu dành cho những Luật sĩ và Biệt phái khi xưa, có lẽ cũng là những lời cảnh tỉnh chúng ta hôm nay.

Xin Chúa ban cho chúng ta ơn khôn ngoan để nhận ra những điều quan trọng trong đời sống. Từ đó can đảm từ bỏ những lợi lộc vật chất thấp hèn đi ngược lại với đức công bình, lòng nhân từ và trung tín với Chúa. Đồng thời cũng xin Chúa cho ta biết lo thanh tẩy tâm hồn khỏi những bợn nhơ của tính ích kỷ, lòng tham lam làm vẩn đục tâm hồn.  

 

Thứ tư: Mt 23, 27-32

Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho ta biết đâu là yếu tố căn bản để đem lại cho những việc làm có được giá trị trước mặt Thiên Chúa. 

Vì quá chú tâm đến hình thức bên ngoài nên những người Biệt phái và Kinh sư cảm thấy khó chịu khi thấy các môn đệ CG không rửa tay trước khi dùng bữa. Nên họ đã tố cáo các môn đệ Người là đã “vi phạm truyền thống của tiền nhân”.  Như vậy đã rõ, rửa tay chỉ là truyền thống của cha ông họ để lại, chứ không liên quan gì đến việc tôn thờ Thiên Chúa. Từ đó CG cho thấy họ giữ luật quá nặng hình thức nên Người đã dùng Kinh Thánh mà cảnh cáo họ: “Tiên tri Isaia nói rất đúng: dân này thờ Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Rồi Người lên án: “Các ông là những kẻ đạo đức giả”. 

Thật vậy, những người Biệt phái và Kinh sư chỉ tôn thờ Thiên Chúa bằng môi miệng chứ không phải bằng tấm lòng. Họ chỉ đọc kinh cho lâu giờ nhằm nuốt tiền các bà góa chứ không phải vì yêu mến Chúa. Như vậy, đạo đức giả là quá chú trọng đến những việc bề ngoài mà quên đi động lực chính yếu là tình yêu bên trong.

CG cũng không ngần ngại chỉ ra sai lầm của họ là: “các ông bỏ lề luật của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”. Rồi nhắc nhở họ phải ưu tiên sống và dạy người khác sống theo luật Thiên Chúa chứ không được tùy tiện bỏ qua. Ấy thế mà họ vẫn ngang nhiên xem thường luật Chúa để thay vào đó luật phàm nhân, khi bảo"Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được là Corban rồi (nghĩa là của dâng cho Chúa)", và các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi huỷ bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau. Và các ngươi còn làm nhiều điều khác giống như thế". (Mc 7, 11-13).  

Suy niệm và cầu nguyện với lời Chúa hôm nay như nhắc nhở chúng ta cần phải chấn chỉnh lại thái độ sống đạo của mình sao cho phù hợp với ý muốn của Chúa. Với mong muốn tất cả những hành vi thờ phượng Thiên Chúa của ta đều được phát xuất từ một tình yêu tinh tuyền, trong sáng. Vì yêu Chúa, ta đi lễ; vì yêu Chúa, ta siêng năng đọc kinh hôm kinh mai; vì yêu Chúa ta sẵn sàng từ bỏ những thói hư, tật xấu… Nói tóm lại, vì yêu Chúa nên ta tuân giữ những điều luật của Chúa và GH.

Trong tương quan với người khác cũng vậy, ta hãy đối xử với nhau bằng một tình yêu chân thành. Chính sức mạnh tình yêu chân thành sẽ thúc đẩy chúng ta biết phải làm gì tốt nhất cho anh em mình. Một khi chúng ta biết đặt tình yêu trong sáng, tinh tuyền vào các mối tương quan với Chúa, với người khác và công việc… thì chúng ta sẽ biết mình phải làm gì? và như thế nào? để thống nhất đời sống. Bởi tất cả hành vi của ta đều được định hướng khởi nguồn từ tình yêu của Chúa nên những gì ta làm chắn chắn sẽ đẹp lòng Chúa và đem đến ích lợi cho tha nhân.

Xin Chúa đong đầy tình yêu nơi tâm hồn chúng con, để những hành vi thờ phượng Chúa và những việc làm bác ái cho tha nhân của chúng con đều phát xuất từ một tình yêu tinh tuyền và trong sáng. Nhờ đó, mang lại ơn ích thiêng liêng cho chúng con.

 

Thứ năm: Mừng Nhớ Thánh Mônica

† Suy niệm 1: Hc 26, 1-4. 13-16; Lc 7, 11-17

Tin mừng hôm nay trình thuật lại phép lạ Chúa Giêsu cứu sống con trai người đàn bà góa thành Naim. Qua đây, minh chứng cho biết Đức Giêsu chính là Thiên Chúa quyền năng và giàu lòng thương xót. Xin cho chúng ta luôn vững tin vào Người, nhất là trong những lúc gặp gian nan thử thách.

Phép lạ của Chúa Giêsu cứu sống đứa con trai người đàn bà góa thành Naim hôm nay muốn nói với chúng ta 2 điều:

- Đức Giêsu chính là Thiên Chúa quyền năng: Sự sống con người là quý giá nhất. Sự sống ấy do chính Chúa tạo nên và ban tặng cho con người. Nên không ai có quyền trên sự sống ấy, ngoại trừ Thiên Chúa. Sự sống của đứa con trai bà góa thành Naim hôm nay đã mất, không ai trên trần gian này có thể phục hồi được, trừ một mình Thiên Chúa là chủ của sự sống. Nên khi Chúa Giêsu phục hồi sự sống của đứa con trai bà góa thành Naim, minh chứng cho biết Đức Giêsu chính là vị Thiên Chúa quyền năng.

- Đức Giêsu là Thiên Chúa giàu lòng thương xót: Với quan niệm của người Do Thái thời Chúa Giêsu thì người phụ nữ và con trẻ là thành phần thấp kém vì bị xã hội khinh thường. Người phụ nữ không được tham gia vào các công việc trong xã hội cũng như tôn giáo vì thế mà mất đi nguồn thu nhập cho cuộc sống nên tình cảnh sẽ rất khó khăn và nghèo khổ. Đứa con trai chính là niềm vui và hy vọng lớn lao của bà góa này. Nhưng nay niềm hy vọng của cuộc sống bà ta đã mất vì đứa con trai bà ta đã chết. Nhìn thấy tình cảnh đau thương ấy, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương và quyết định ra tay cứu sống đứa con trai duy nhất của bà góa và trao nó lại cho bà, cho dẫu đây là trường hợp không ai kêu xin Người. Trao đưa đứa con trai sống lại cho bà góa, cũng đồng nghĩa với việc trạo ban lại cho bà ánh sáng hy vọng và niềm vui.

Qua phép lạ này cho thấy: Đức Giêsu chính là vị Thiên Chúa quyền năng, nhưng cũng rất giàu lòng thương xót. Ngài đã dùng quyền năng của Ngài để thực thi lòng thương xót qua việc phục sinh đứa con trai của bà góa thành Naim, đem lại cho bà ta niềm niềm vui và hy vọng sáng tươi.

Xin cho chúng ta nhận ra được khuôn mặt của Thiên Chúa giàu lòng thương xót nơi Chúa Giêsu, để chúng ta luôn biết yêu mến, vâng nghe và sống theo sự hướng dẫn của Người. Đặc biệt trong những lúc đau khổ và thất vọng, xin cho chúng ta biết tìm đến nương tựa vào cánh tay uy quyền năng của Người.

 

 Suy niệm 2:

Hôm nay cùng với GH chúng ta hân hoan mừng kính thánh nữ Mônica, bổn mạng của các chị em hiền mẫu công giáo. Đây là dịp thuận lợi GH mời gọi chúng ta hướng nhìn về gia đình của thánh nữ Mônica khi xưa mà nhận diện ra những thách đố đang và sẽ xảy ra nơi gia đình chúng ta ngày nay. Từ đó học cách vượt qua những thách đố ấy, bằng cách noi gương thánh nữ Mônica: Biết đặt niềm tin cậy vào quyền năng của Chúa qua việc kiên trì cầu nguyện; cũng như nổ lực chu toàn tốt bổn phận của mình trong vai trò: làm dâu con, làm vợ và làm mẹ trong gia đình.

- Với bổn phận làm dâu con, thánh Mônica rất mực yêu mến và hiếu kính cha mẹ chồng, cho dẫu ngài phải đối mặt với bà mẹ chồng chanh chua, đanh đá.

- Với trách nhiệm làm vợ, thánh Mônica đã hết lòng yêu thương kính trọng và chung thủy với chồng mình, cho dẫu phải chung sống cùng với người chồng bất trung, thô lỗ, cộc cằn.

- Với ơn gọi làm mẹ, thánh nhân rất mực yêu thương con cái, chấp nhận vắt kiệt sức để chăm sóc và giáo dục con cái đến hơi tàn, sức kiệt với mong muốn nhìn thấy những đứa con mình nên người và trở thành con Chúa; nhất là tìm đủ mọi cách để giúp cho đứa con hư hỏng của mình là Augustinô được ăn năn trở lại con đường ngay chính.

Ước mong các chị em hiền mẫu chúng ta cũng có được những nhân đức sáng ngời như thánh nữ Mônica để dẫn đưa mọi thành viên trong gia đình mình vượt qua những chặng đường đầy chông gai thử thách mà thẳng tiến về đích điểm của niềm vui, an bình và hạnh phúc trong Chúa.

 

Suy niệm 3:

Mỗi khi chiêm ngắm lại cuộc đời của thánh nữ Mônica, khiến chúng ta cảm thấy chạnh lòng và cảm phục vì những đức tính cao đẹp của ngài: 

- Kiên tâm chu toàn bổn phận của mình. Trong ơn gọi làm vợ thánh nhân đã hết lòng quý trọng, yêu thương và trung thủy với chồng. Với vai trò làm mẹ, thánh nhân hết mực yêu thương, hy sinh tất cả cho con cái. Tận tụy nuôi dạy và giáo dục con cái nên người và con người con Chúa. Khi không được như ý, ngài vẫn không thua buốn bỏ cuộc. Trái lại thánh nhân đã nhẫn nại hy sinh liên lỷ cho con. Nhờ đó mà ngài đã cải hóa được Augustinô trở về với Chúa và Giáo Hội.

- Nêu cao những đức tính cao đẹp của người phụ nữ. Khi bị ngược đãi bởi mẹ chồng và chồng, thánh nhân đã nêu cao gương khiêm nhường, yêu thương và tha thứ. Sẵn lòng thông cảm cho tính khí bất thường của người mẹ chồng và chồng mình. Yêu thương, phục vụ, khiêm nhường và tha thứ chính là lựa chọn của thánh nhân trong những lúc gặp khó khăn hay những khi gặp phải những chuyện chẳng may lành xảy đến.

- Kiên trì cầu nguyện với lòng tin tưởng cậy trông vào Chúa. Thánh nhân đã kết hợp với Chúa cách liên lỉ và hoàn toàn phó thác vào Chúa với lòng tin tưởng cậy trông. Cuộc đời của ngài được kết dệt bởi mồ hôi và nước mắt. Vui ít buồn nhiều, nhưng lúc nào ngài cũng gắn bó và phó thác mọi sự trong bàn tay uy quyền của Thiên Chúa.

Quả thật, cả cuộc đời của thánh nhân đã để lại cho những người vợ, người mẹ và cho hết mọi người chúng ta những bài học cao đẹp, đáng khâm phục nên cần phải noi gương:

- Noi gương thánh Mônica, chúng ta hãy tích cực chu toàn bổn phận hằng ngày của mình với lòng mến. Ý thức làm những việc tầm thường một cách phi thường trong sự kết hợp với Chúa và tín thác cho Người.

- Noi gương thánh Mônica, chúng ta hãy dùng gương sáng làm phương thế ưu tiên để cảm hóa người khác, nhất là những người ngang tàng mất nết.

-  Noi gương thánh Mônica, chúng ta phải hiểu rằng: “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên,nên hãy làm mọi việc trong tâm tình tín thác vào quyền năng Chúa. Sẵn sàng đón nhận mọi nghịch cảnh, miễn sao điều đó đẹp lòng Chúa và ích lợi cho phần rỗi linh hồn của mọi người.

- Noi gương thánh Mônica, chúng ta hãy luôn chu toàn thật tốt bổn phận hàng ngày của mình với lòng yêu mến Chúa với hy vọng sinh thật nhiều nén bạc quý giá cho mình và tha nhân.  

Lạy Chúa, xin nhận lời thánh nữ Mônica chuyển cầu mà ban cho chúng con, là những người vợ, người mẹ trong các gia đình có được đời sống thánh thiện, hiền lành, khiêm nhường, nhẫn nhịn, trung thành, tin tưởng và phó thác… theo gương thánh nữ Mônica, bổn mạng giới hiền mẫu chúng con. Amen.

 

Thứ sáu: Nhớ Thánh Augustinô.

Mt 25, 1-13

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục nhắc nhở chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng trong thời gian chờ đợi ngày Chúa đến, để khi Chúa đến bất ngờ, ta mới có thể ra nghênh đón Người và theo Người vào chung hưởng  niềm vui nước trời.

Hình ảnh 10 cô trinh nữ trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu nói đến trong bài tin mừng hôm nay ám chỉ tất cả mọi người kitô hữu chúng ta. Trong đó có những người khôn như năm cô khôn ngoan, nhưng rất có thể có những người khờ như năm cô khờ dại.

Hình ảnh chú rể tượng trưng cho Chúa Kitô.

Sự chậm trễ tượng trưng cho thời gian Chúa đến không biết lúc nào. Chúa có thể đến sớm hay chậm, đêm hay ngày đó là quyền của Chúa.

Đèn tượng trưng cho đức tin.

Dầu tượng trưng cho tình yêu.

Còn phòng cưới thì tượng trưng cho nước trởi.

Có lẽ khi nghe dụ ngôn quen thuộc này, ai trong chúng ta cũng mong muốn mình là người khôn ngoan chứ không ai muốn mình trở thành kẻ khờ dại. Nhưng làm thế nào để ta nên người khôn ngoan?

Xin thưa đó là biết sẵn sàng. Năm cô khôn ngoan là những người biết chuẩn bị sẵn sàng. Các cô không chỉ mang đèn mà mang theo chai dầu. Còn năm cô khờ dại thì không biết phòng xa. Các cô chỉ mang đèn mà không mang dầu theo. Nên trong thời gian chờ đợi chàng rể đến chậm, đèn các cô khờ dại đã hết dầu và tắt lịm. Giờ đã điểm, các cô khờ dại không thể cậy dựa vào ai được, nên các cô đành phải chấp nhận số phận bị loại bỏ bên ngoài, vì cửa phòng cưới đã đóng lại. Còn các cô khôn ngoan thì vui mừng cầm đèn sáng trong tay ra đón chàng rể và hân hoan bước vào phòng cưới trong hạnh phúc.

Xin Chúa cho chúng con hiểu rằng ngày Chúa đến rất bất ngờ, không ai biết trước được. Vậy xin Chúa đong đầy dầu tình yêu của Chúa vào trong tâm hồn chúng con để ngọn đèn đức tin của chúng con luôn cháy sáng mãi cho đến khi ngày Chúa đến.

 

Thứ Bảy: Nhớ Thánh Gioan Tẩy Gỉa Bị Trảm Quyết

Mc 6, 17-29

Người đời thường nói: “Hùm chết để da người chết để tiếng”, để nhằm khuyên dạy chúng ta hãy sống sao cho thật có ích. Tin mừng hôm nay thuật lại cái chết anh dũng của Gioan Tẩy Gỉa để minh chứng cho chân lý và bảo vệ luân thường đạo lý qua việc tố cáo tội ác của vua Hêrôđê.

Xin cho chúng ta cũng can đảm làm chứng cho chân lý và dám hy sinh tất cả để bảo vệ nền đạo đức luân thường theo gương thánh Gioan Tẩy Gỉa.

Cái chết anh dũng của Gioan Tẩy Gỉa được tin mừng trình thuật hôm nay, cho thấy lòng người còn nhiều góc tối:

- Góc tối của đam mê dục vọng.  Đắm chìm trong dục vọng, vua Hêrôđê đã xem thường đạo lý luân thường nên đã cướp đi người vợ của anh mình. Đắm chìm trong đam mê, nhà vua chỉ còn biết buông mình theo những thú vui thấp hèn trong những tiệc tùng náo nhiệt, đầy rượu và thịt.

- Góc tối của hận thù ghen ghét. Không chịu nổi lời nhắc nhở của Gioan Tẩy Gỉa trước hành động vô luân của mình, bà Hêrôdia đã căm thù Gioan Tẩy Gỉa đến tận xương tủy. Nên khi cơ hội đến, bà lập tức mách bảo con gái xin vua cha cái đầu Gioan Tẩy Giả thay cho nửa giang sơn.

- Góc tối của nhác đảm sợ hãi. “Vẫn biết Gioan Tẩy Gỉa là người công chính thánh thiện; vua che chở ông. Khi nghe Gioan nói, nhà vua rất phân vân nhưng lại cứ thích nghe. Nhưng rồi lại không can đảm làm theo tiếng lương tâm của mình”. Vì sợ tiếng nói lương tâm, sợ nghe những lời chân lý, sợ mất uy tín với lời hứa bồng bột trước bá quan văn võ trong lúc ngà ngà… nên nhà vua đã đi đến quyết định ngông cuồng là ra lệnh chém đầu Gioan Tẩy Gỉa.

- Góc tối của ngây ngô dại khờ. Salômê một cô con gái có tài và sắc nhưng lại không có đức. Cô đã dùng sắc đẹp và tài múa giỏi của mình thay vì phục vụ niềm vui và hạnh phúc cho đời, cho người; thì trái lại với sự ngây ngô dại khờ của mình, cô đã dùng những thứ ấy cho sự lợi dụng nhằm phục vụ cho nền văn hóa của sự chết.

Xin cho ánh sáng chân lý của Chúa chiếu giãi vào mọi ngõ ngách của lòng người, hầu xua tan những góc tối nguy hại đang còn ẩn nấp đâu đó nơi cỏi lòng con người hôm nay.

Xin cho chúng ta dám can đảm sống và làm chứng cho ánh chân lý như Gioan Tẩy Gỉa dầu phải hy sinh mạng sống, để bảo vệ cho đạo lý luân thường và làm chứng cho nền văn hóa tình thương.

 

Thứ Sáu, 14 tháng 8, 2020

 

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XX THƯỜNG NIÊN

 

CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN A

Mt 15, 21-28

Trình thuật Tin mừng hôm nay để lại tâm trí chúng ta về hình ảnh của một người phụ nữ tuyệt đẹp về đức tính, cách ứng xử và đức tin thật đáng trân quý. Xin cho chúng ta biết học đòi bắt chước gương sáng của bà, để chúng ta cũng được Chúa ban ơn và chúc phúc.

Nét đẹp của người phụ nữ cách chung và của người phụ nữ Á đông chúng ta nói riêng, xưa nay luôn được nhân loại trân quý bởi những đức tính chịu thương chịu khó, khiêm tốn hiền hòa và nhẫn nại. Nói như thế thì người phụ nữ ngoại giáo được tin mừng hôm nay nói đến quả là tuyệt vời, vì hầu như bà có đầy đủ những đức tính ấy.

Với đức tính chịu thương của người phụ nữ, người mẹ ngoại giáo này rất khổ tâm khi phải từng ngày chứng kiến nỗi đau quằn quại của đứa con yêu quý mình mỗi khi ma quỷ ám hại nó. Rất có thể trước nay, bà ta đã tiêu tốn không ít tiền của, sức lực, thời gian… để tìm thầy, chạy thuốc khắp nơi với mong muốn cứu chữa cho đứa con yêu quý của bà thoát khỏi tình trạng khốn khổ này. Chính nhờ sức mạnh tình thương mẫu tử ấy đã giúp bà đủ can đảm và sức mạnh để vượt qua mọi rào cản ngăn cách, để tìm đến gặp gỡ Thầy Giêsu. 

Với đức tính chịu khó, bà đã không ngần ngại vượt qua làn ranh giới địa lý xa cách, nhiều hiểm trở và làn biên ngăn cách của luật lệ cấm kỵ giữa người Do Thái và dân ngoại, cũng như bức tường ngăn cách về quan niệm tâm lý giữa người nam và người nữ, để gặp cho bằng được Thầy Giêsu, với mong muốn duy nhất là cứu chữa cho đứa con mình khỏi thần ô uế ám hại.

Với lòng khiêm tốn thẳm sâu, bà ta đã không ngần ngại đến trước mặt Chúa Giêsu và phục lạy Người với lời khấn xin tha thiết: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Lòng khiêm tốn ấy càng sâu thẳm hơn khi sẵn sàng nhìn nhận mình chỉ là chó con trước mặt Chúa“Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái”. Bởi bà hiểu rằng, trước mặt Chúa bà chỉ là thụ tạo chẳng là gì khi hiện diện trước một TC sáng tạo, quyền năng và giàu lòng thương xót.

Với tinh thần nhẫn nại, bà đã không nản lòng trước lời từ chối khó nghe của Chúa Giêsu “Hãy để con cái ăn no trước đã vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó”.  Những lời đắng lòng ấy đã không làm cho bà tự ái, nản lòng và bỏ cuộc; trái lại còn làm cho bà thêm nhẫn nại và kiên cường hơn nên bà đã van xin cho tới cùng: “Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống.”

Tất cả những đức tính cao quý trên sẽ không có được nơi người phụ nữ nếu không có được đức tin mạnh mẻ. Chính nhờ lòng tin mạnh mẻ của bà mà đứa con con yêu quý của bà được Chúa Giêsu cứu chữa, như lời Chúa Giêsu xác nhận: “Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy.”.

Suy gẫm về hình ảnh của người phụ nữ ngoại giáo tuyệt đẹp hôm nay, ta cảm thấy hổ thẹn vì nhiều người trong chúng ta không còn giữ được những đức tính cao đẹp và đáng yêu như: chịu thương chịu khó, lòng khiêm tốn và sự kiên nhẫn trong tương quan với Chúa, với nhau và với công việc như người đàn bà ngoại giáo; nhất là đức tin của chúng ta cũng chưa đủ mạnh để dám tin tưởng, phó thác hoàn toàn vào tình thương và quyền năng của Chúa, Đấng chúng ta tôn thờ.

Xin Chúa giúp chúng ta có được đức tin mạnh mẽ để trong mọi hoàn cảnh ta luôn sẵn sàng tín thác vào lòng thương xót. Đồng thời cũng cho chúng ta ý thức sống tốt những đức tính nhân bản cần thiết trong đời sống làm người.

 

Thứ hai: Mt 19, 16-22.

Có lẽ khát vọng lớn nhất của con người là sự sống đời đời. Nhưng làm thế nào để có được sự sống ấy? Lời Chúa hôm nay sẽ khai mở cho chúng ta biết cách thức để đạt đến khát vọng cao quý ấy.

Sách Giáo Lý Công Giáo thường được chia thành 4 phần: Tín lý (tuyên xưng đức tin), luân lý (sống đức tin), bí tích (cử hành đức tin) và cầu nguyện (đức tin cầu nguyện). Nhưng hình như đa phần người Công giáo chúng ta chỉ chú trọng đến phần luân lý (sống đức tin) mà ít quan tâm đến phần tín lý (tuyên xưng) và những phần còn lại nên có sự sai lệch trong cái nhìn và cách sống đạo.

Nền luân lý Công giáo luôn nhấn mạnh đến Mục đích và Phương tiện phải song hành trong cái nhìn đạo đức sinh học. Theo cái nhìn này, thì một hành vi luân lý được chấp nhận khi thỏa mãn hai diều kiện: phương tiện và mục đích đều đúng và trúng. Nếu một trong hai yếu tố ấy không đúng và trúng thì hành vi đó bị xem là sai lạc.

Ví dụ: Vì nhân danh mục đích giúp đỡ người nghèo mà ta đi cướp bóc của cải người giàu để chia cho người nghèohoặc vì muốn giúp cho bệnh nhân thoát khỏi tình trạng đau đớn cùng cực về thể xác mà ta tiêm cho họ một mũi thuốc an tử thì không đúng, vì làm như thế là ta đã xử dụng phương tiện sai trái để biện minh cho mục đích tốt. Lý do là vì sự sống bắt nguồn từ Thiên Chúa nên quyền quyết định sinh tử đều nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. Con người không có quyền can thiệp vào sự sống-chết cho mình hay cho người khác.

Anh thanh niên trong bài Tin mừng hôm nay mặc dù giàu có và giữ luật rất tốt. Nhưng xem ra anh ta vẫn không an lòng, bởi vì luật lệ và của cải hình như không phải là phương thế thật sự để đưa anh đạt đến vinh quang nước trời. Vì thế anh ta đã tìm đến với Chúa Giêsu để hỏi xem: “phải làm việc lành gì để được sống đời đời?”. Thật bất ngờ với lời đề nghị của Chúa Giêsu: "hãy bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo khó...rồi đến theo Ta". Như vậy yêu thương và chia sẻ cho người nghèo mới chính là phương thế để được sự sống đời đời. Do không muốn hy sinh chia sẻ cho người nghèo theo lời đề nghị của Chúa Giêsu nên anh ta buồn và quay mặt bỏ đi trong thất vọng.

Tóm lại, phương tiện để đạt đến mục đích sự sống đời đời không phải là tiền bạc, cũng không chỉ là tuân giữ một số luật lệ chay cứng vô hồn, nhưng là phải tích cực thi hành những việc làm bác ái, chia sẻ cho tha nhân với niềm tin yêu và phó thác vào Chúa.

Tin Chúa, thì phải sống cậy trông phó thác vào Chúa chứ không phải là tiền bạc của cải. Nên Chúa bảo: “hãy bán tất cả …mà theo Ta”.

Yêu người, là phải biết rộng lượng chia sẻ với anh chị em, đặc biệt những người nghèo khó “hãy bán hết của cải mà bố thí cho người nghèo…”.

Lạy Chúa, cả đời sống đạo là để được hạnh phúc nước trời, xin cho chúng con biết phụng sự Chúa với tấm lòng yêu mến; và biết yêu thương tha nhân bằng những hành vi bác ái, chia sẻ chân tình. Nhờ đó, chúng con mới có được hạnh phúc ở đời này và cả đời sau . Amen

 

Thứ ba: Mt 19, 23-30

Tiếp nối bài tin mừng hôm qua, sau khi người thanh niên giàu có từ chối bán tài sản của mình để đổi lấy sự hoàn thiện (hay sự sống đời đời) thì ngay sau đó, Chúa Giêsu đưa ra kết luận: “người giàu có khó vào được Nước Trời”Bên cạnh đó, Chúa Giêsu còn cho biết phần thưởng lớn lao cho những ai dám chấp nhận từ bỏ mọi sự vì danh Ngài. Đó là sự sống đời đời làm gia nghiệp.

Khi nói tới hai chữ “từ bỏ” tức là không còn hoặc mất đi một cái gì đó mà trước đây mình đã có hay đã sở hữu. Tâm lý con người thường không chịu thua thiệt, luôn luôn đòi hỏi sự cân xứng với phương châm "có qua có lại mới toại lòng nhau". Nên tông đồ Phêrô đã hỏi thay cho chúng ta: “chúng con đã từ bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?”.

Tin tưởng vào Đức Giêsu là Chúa uy quyền và giàu tình thương nên Ngài sẽ không để cho những ai theo Ngài phải chịu thiệt thòi. Chắc chắn Ngài sẽ ban lại cho những ai dám từ bỏ, hy sinh và cho đi vì Ngài một phần thưởng lớn lao hơn, đó là “được gấp bội và được sống đời đời”. Đây quả là một phần thưởng cao quý mà lòng người chẳng dám ước mong.

Ngày hôm nay, nếu ai đó bỏ cha mẹ, anh chị em, hay con cái, hoặc nhà cửa, ruộng đất… mà theo Chúa thì bị xem là người không bình thường, mất tính nhân bản vì đi ngược lại với đạo lý làm người. Nếu hiểu theo nghĩa đen thì đúng như thế, nhưng việc theo Chúa không phải hiểu như thế. Theo Chúa là biết chọn Chúa làm ưu tiên số một, làm lẽ sống cho đời ta, còn những giá trị khác ngoài Chúa chỉ là thứ yếu. Bởi lẽ nếu xét cho đến cùng thì mọi thứ trên trần gian này đều do Chúa dựng nên và tất cả cũng chỉ là phù vân, tạm bợ, chóng qua... Duy chỉ có mình Chúa và nước trời mới là vĩnh hằng và hạnh phúc thật. Chính vì thế mà Chúa Giêsu không ngần ngại nhắc nhở chúng ta đừng quá bám víu vào của cải, vật chất, tiền bạc... như người thanh niên giàu có, mà loại trừ Chúa ra khỏi những chọn lựa ưu tiên trong đời sống của mình.

Lạy Chúa, xã hội càng ngày càng văn minh, đầy đủ tiện nghi vật chất, vì thế mà cuộc sống con người cũng được cải thiện và sung túc hơn. Nhưng chính vì thế mà con người ngày nay dễ dàng quên và xa Chúa do không cưỡng lại sức hút của đồng tiền. Xin Chúa đừng để chúng con sa vào ma lực của đồng tiền mà xa rời bước đường theo Chúa và lý tưởng hạnh phúc nước trời.

 

Thứ tư: Mt 20, 1-16a.

Thiên Chúa là Đấng công bằng, nhưng cũng đầy lòng yêu thương vô cùng. Đó là chân lý mà lời Chúa hôm nay khẳng định với chúng ta qua dụ ngôn những người làm vườn nho.

1. Thiên Chúa rất ư là công bằng.

Những người thợ vườn nho đi làm từ sáng sớm, tỏ ra bất bình và khó chịu trước cách thức trả lương của ông chủ. Họ cho rằng đã làm nhiều giờ, vất vã đổ mồ hôi nhiều thì chủ phải trả tiền nhiều. Kẻ làm ít giờ, chịu nắng mưa và đổ mồ hôi ít thì tiền công phải ít. Vậy mà tất cả đều được ông chủ trả như nhau, là một đồng. Làm như vậy ông chủ có công bằng không?.

Tưởng như không công bằng trước cách thức trả tiền công của chủ. Nhưng qua lời giải thích của ông chủ, ta thấy việc trả công của ông quá ư là công bằng. Bởi lẽ ngay từ đầu họ đã thoả thuận và chấp nhận với chủ ngày công là một đồng. Như thế ông chủ đã trả cho họ đúng với những gì họ đã thỏa thuận và xứng với những gì họ đã làm. Còn ông chủ có trả cho thợ làm vào giờ chót bằng số tiền của họ là vì tình thương của ông chủ. Chẳng lẽ ông chủ không được làm điều ấy sao?

Thiên Chúa là Đấng công bằng vô cùng. Do đó, Ngài sẽ ban thưởng hay luận phạt chúng ta theo công việc tội phúc mà chúng ta đã làm. Dĩ nhiên chúng ta không nên đòi hỏi nơi Ngài sự công thẳng "vì nếu chấp tội nào ai đứng vững".

2. Thiên Chúa còn là Đấng giàu lòng thương xót.

Thiên Chúa của chúng ta không chỉ công bằng mà Người còn giàu lòng yêu thương. Những người thợ được ông chủ kêu gọi vào làm vườn nho ngay từ sáng sớm đã là một vinh dự và là niềm an vui lớn lao rồi. Bởi lẽ họ không phải lo lắng và chờ đợi việc làm. Kẻ được mời gọi vào những giờ chót trong ngày, họ phải sống trong tâm trạng phập phòng lo lắng và phải lang thang suốt cả ngày đi tìm việc làm. Cuối cùng tất cả đều được kêu gọi vào làm cùng một việc và trong cùng vườn nho của chủ. Đó không chỉ là niềm vui lớn lao của người những thợ làm vườn sau chót mà còn là vinh hạnh cao quý của người được gọi làm từ ban mai. Sở dĩ ông chủ mời gọi tất cả vào làm vườn nho của ông, đó là vì Ngài giàu lòng yêu thương, muốn tạo công ăn việc làm và cuộc sống cho mọi người. Hình ảnh ông chủ ấy là Thiên Chúa và vườn nho là Giáo Hội của Người.

Chúng ta là những người thợ vinh dự được Thiên Chúa mời gọi vào vườn nho Giáo hội. Có thể trong chúng ta, có những người được mai mắn gia nhập vào vườn nho Chúa rất sớm, ngay từ khi ban mai của cuộc đời; cũng có những người vì hoàn cảnh hay lý do nào đó, họ chỉ được mời gọi vào vườn nho Giáo Hội trong thời điểm của ngày tàn. Nhưng điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là chúng ta đã được Chúa yêu thương mời gọi vào vườn nho Giáo Hội của Chúa, nên hãy ý thức cố gắng làm việc hết mình và hết sức trước tình yêu mời gọi của Người.

Lạy chúa, xin cho chúng con đừng tự hào về những công việc chúng ta đã làm, nhưng cho chúng con biết tự hào vì chúng con có một người Cha giàu lòng xót thương. Người sẽ ban thưởng cho chúng con hơn những gì chúng con đã làm.

 

Thứ năm: Mt 22, 1-14.

Dụ ngôn tiệc cưới cho hoàng tử mà Chúa Giêsu nói đến trong đoạn tin mừng hôm nay hơi lạ.

Lạ vì những người được nhà vua ưu ái mời đến đều từ chối vì nhiều lý do: “Người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi”.

Lạ là sau khi những người được mời khướt từ thì vua lại sai đầy tớ ra các ngả đường để mời gọi tất cả mọi người không phân biệt tốt xấu vào tham dự tiệc cưới.

Lạ vì bất ngờ nhà vua lại trừng phạt nặng nề đối với người không mặc y phục lễ cưới “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!”. Chính vì những điều lạ như thế nên ta hiểu rằng đây không phải là tiệc cưới bình thường mà là tiệc cưới nước trời.

Bàn tiệc nước trời được mở ra và lời mời gọi của Chúa được gửi đến tất cả mọi người. Được tham dự bữa tiệc nước trời là khao khát lớn nhất của con người. Tuy nhiên để xứng đáng tham dự vào bữa tiệc ấy, cần phải hội đủ hai điều kiện:

- Biết trân quý lời mời gọi của Chúa mà tích cực đáp lại.

- Phải “mặc y phục lễ cưới”. Nghĩa là mặc lấy con người mới trong Chúa Kitô là sống công chính và thánh thiện: “Anh em hãy mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Eph 4,24).

Xin cho chúng ta biết tích cực đáp lại lời mời gọi của Chúa qua việc siêng năng đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể do Chính Chúa Giêsu thết đãi hằng ngày trên bàn thờ và luôn sống công chính, thánh thiện trước thiên nhan Chúa hầu chuẩn bị tâm hồn xứng hợp cho việc tham dự vào bữa tiệc viên mãn trong nước trời mai ngày.

 

Thứ sáu: Mt 22, 34-40.

Xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu ngổn ngang những luật lệ, khiến dân chúng không còn phân biệt đâu là chính, đâu là phụ. Ngay cả những người Biệt phái còn cảm thấy rối não huống chi là giới bình dân. Tận dụng cơ hội ấy để làm bẻ mặt Chúa Giêsu, nhóm Biệt phái đã cử một người thông luật đến với Chúa Giêsu để hỏi thử xem điều luật nào là quan trọng nhất? Với câu hỏi ấy, họ không nhằm tìm hiểu chân lý cho bằng nhắm đến hai mục tiêu:

1. Thử xem trình độ am hiểu về thánh kinh luật lệ của Chúa Giêsu ra sao? Để bắt bẻ và hạ nhục nếu Người không giải thích thỏa đáng.

2. Nhân dịp này, họ cũng biết được Chúa Giêsu đang đứng về phe nhóm nào? Bởi lẽ, thời bấy giờ có khá nhiều phe nhóm, mỗi phe nhóm đề cao một số luật lệ.

Chúa Giêsu dư biết dã tâm của họ. Nhưng vì muốn xác định lại tính chất tinh tuyền của lề luật nên Chúa Giêsu đã trích dẫn lại hai câu Thánh kinh, một trong sách Đệ-nhị-luật và một trong sách Lê-vi để trả lời cho họ: “Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.”(Đnl 6, 5). Đó là điều quan trọng thứ nhất. Điều luật thứ hai cũng quan trọng không kém, đó là: “Ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18). Rồi Người kết luận: “Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”. Như vậy là đã rõ, điều luật quan trọng nhất mà TC ban cho nhân loại chính là tình yêu…

Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn nghĩa là tình yêu ta dành cho Chúa phải chân thành và luôn trung thành, trước sau như một, không bao giờ thay lòng đổi dạ, không một cản trở nào làm giảm bớt hay sức mẻ, dù có phải hy sinh vẫn chấp nhận. Tình yêu ấy phải được hướng dẫn bởi những tài năng của linh hồn như: lý trí, ý chí và nhất là tự do; chứ không phải là tình yêu mù quáng.

-   Yêu thương người khác như chính mình nghĩa là phải đối xử với người khác cùng một “tình yêu” như ta đã xử với bản thân mình. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn mời gọi chúng ta quy hướng đến tình yêu “như Chúa yêu”. Đó là một tình yêu phổ quát dành cho hết mọi người. Đó là một tình yêu trao ban nhằm phục vụ nhu cầu chính đáng cho tha nhân: “người mù được sáng, kẻ què đi được, người điếc nghe được, người câm nói được...”. Và trên hết đó là một tình yêu hy hiến, sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì tha nhân với mong muốn tha nhân được hạnh phúc, vui sướng và "được sống dồi dào". 

Lạy Chúa, yêu Chúa thì còn dễ nhưng yêu người khác như chính mình quả là khó; mà yêu người khác như Chúa yêu thật khó biết bao nếu không có ơn Chúa giúp. Xin Chúa ban ơn giúp sức và đong đầy sức mạnh tình yêu của Chúa vào trong tâm hồn chúng con, để mỗi người chúng con can đảm sống và ứng xử với nhau bằng chính tình yêu như Chúa yêu chúng con. Amen.

 

Thứ bảy: Lc 1, 26-38.

Lễ nhớ ĐỨC MARIA NỮ VƯƠNG

Mừng lễ Đức Maria Nữ Vương hôm nay, GH mời gọi chúng ta hướng tâm hồn về Mẹ, vì Mẹ là một phần tử ưu việt của GH, đã sống với Thiên Chúa cách trọn hảo, và đã luôn xin vâng theo thánh ý Thiên Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời.

Thánh Bênađô đã khẳng định rằng "nói về Mẹ thì không bao giờ đủ"; bởi vì các nhân đức của Mẹ thật tuyệt vời. Một trong những nhân đức ấy, là sự khiêm nhường của Mẹ. Thánh sử Luca cho biết, khi kết thúc biến cố truyền tin, Mẹ đã đáp lại "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói".  Trong bài ca Magnificat, Mẹ cũng nhìn nhận mình là ‘phận nữ tỳ hèn mọn’. Nơi mái ấm gia đình Na-da-rét, Mẹ đã sống âm thầm lặng lẽ phục vụ thánh Giuse và Hài Nhi Giêsu. Vâng, Nữ tỳ của Chúa là người thuộc nữ giới, hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa, chỉ biết thực hiện mọi ý của Chúa, chứ không làm theo ý riêng. Vì thế, Mẹ đã để cho Chúa hướng dẫn cuộc đời của Mẹ, trong mọi hoàn cảnh sống, Mẹ sẵn sàng phó thác tất cả cho sự quan phòng của Chúa.

Sống khiêm nhường là một nhân đức, nhưng thật là khó để tập nhân đức này. Bởi vì, mỗi người trong chúng ta vốn ‘mang gen’ kiêu ngạo, luôn tự cho mình là tài giỏi và trên hết. Càng có chức có quyền thì cái tôi càng lớn, theo đó tính kiêu ngạo cũng càng cao. Được làm ông này bà nọ thì coi mọi người chỉ là hạng thứ dân. Người có chút tài năng thì sinh tính kiêu ngạo, mang cái ‘bệnh của sao’ và coi người khác chẳng ra gì… thật vậy, ai cũng muốn sống khiêm nhường trước mặt mọi người và Thiên Chúa, vì nó là một khát vọng chính đáng, nhưng nhiều khi ta không biết cách thực hành như thế nào, vậy phải làm sao đây?

Thiết nghĩ, muốn sống khiêm nhường thì cần phải diệt cái tôi của bản thân. Cha Vincente Lebbe cho rằng, chúng ta cần phải chiến đấu với cái tôi hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, nên phải luôn đánh tôi, đánh ngã tôi, và đánh chết tôi. Nói như thế, cái tôi trong mỗi người chúng ta thật là lớn, và rất khó để diệt nó. Chỉ khi nào chúng ta làm chủ được cái tôi thì ta mới có thể sống khiêm nhường được. Một tâm hồn khiêm nhường thì dễ lắng nghe tiếng Chúa và sẵn sàng đáp lại thánh ý Ngài, và rồi ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.

Mừng lễ Đức Maria Nữ Vương hôm nay, chúng ta cùng nhau xin Mẹ luôn chở che nâng đỡ mỗi người chúng ta trên hành trình dương thế này. Xin cho mỗi người chúng ta cũng biết thưa tiếng xin vâng như Mẹ trước thánh ý của Thiên Chúa, và để cho thánh ý của Chúa được hoàn thiện nơi bản thân chúng ta.

Mẹ đã sống khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Noi gương Mẹ chúng ta hãy sống khiêm tốn trở nên người tôi tớ trung tín của Chúa, và phục vụ tha nhân cách chân thành. Cùng với Mẹ, ta hãy trở nên thành phần thánh thiện trong Hội thánh.

 

 

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XIII THƯỜNG NIÊN CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN-NĂM B Kn 1,13-15; 2,23-24; 2Cr 8,7.9.13-15; Mc 5,21-43 Suy niệm 1: ...