SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN III MÙA VỌNG
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG A
Mt 11, 2-11
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG A
Mt 11, 2-11
Chúa nhật thứ III MV là Chúa nhật màu hồng; Chúa
nhật của niềm vui; vui vì Chúa sắp đến. Thật ra Chúa Giêsu đã đến trần gian
cách nay hơn 2000 rồi, nơi hang đá Bêlem. Tuy nhiên có thể Chúa chưa đến được
trong tâm hồn của chúng ta. Vì thế mà chúng ta hãy ngoan ngoãn mở lòng ra để
Chúa bước vào đời ta bằng cách thống hối tội lỗi và tích cực làm nhiều việc
lành, phúc đức, nhờ đó Chúa mới dễ dàng đến được với ta để ban lại niềm
vui và ơn cứu độ.
Tin mừng hôm nay gồm 2 phần:
1. Cho chúng ta biết được khuôn mặt đích thực
của Đấng Cứu Thế.
2. Giới thiệu cho chúng ta biết về khuôn mặt
tuyệt đẹp của Gioan Tẩy Gỉa.
Trước hết chúng ta hãy nhớ lại tin mừng tuần
trước. Gioan Tẩy Gỉa đã giới thiệu khuôn mặt của đấng Messia là vị thẩm phán
hết sức nghiêm khắc bằng những lời lẽ hết sức cứng rắn: “Đây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh
trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa…Ngài cầm nia trong tay mà sảy lúa của
Ngài, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt".
Vì vậy mà ông đã không ngần ngại kêu gọi mọi người phải sám hối chừa bỏ đàng
tội lỗi. Ông cũng sẵn sàng lên án mạnh mẽ lối sống vô luân của vua Hêrôđê vì ông
ta đã cướp lấy bà Hêrôđia là vợ của anh mình làm vợ của ông. Do đó mà Gioan đã
bị nhà vua bắt bỏ tù.
Trong hoàn cảnh bị cầm tù như thế, ông nhận thấy
sự bất công lên ngôi, vậy mà đấng Messia ông đã từng loan báo lại không ra tay
để trừng trị. Điều này khiến ông trở nên nghi ngờ không biết Đức Giêsu có phải
là Đấng phải đến không?. Nên hôm nay mặc dù đang trong cảnh tù đày ông vẫn tìm
cách sai 2 môn đệ của mình đến để hỏi xem Chúa Giêsu có thật sự là Đấng Messia
mà ông loan báo và muôn dân đang trông đợi hay không?: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn
phải đợi Đấng nào khác?".
Tuy Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp cho môn
đệ Gioan biết Ngài là Đấng Messia, nhưng qua việc Ngài bảo họ về và thuật lại cho
Gioan Tẩy Gỉa nghe biết những điều Ngài đã và đang làm: " người mù được thấy, người què đi được, người
phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng
được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta",
chắc hẳn Gioan sẽ rõ. Bởi lẽ đó là những việc làm đúng với những gì mà tiên tri
Isaia đã loan báo trước đó khoảng 800 năm. Tiên tri Isaia khi ấy đã loan báo về
một thời đại tươi sáng, trong thời đại ấy Đấng Messia sẽ làm cho :“ người mù nhìn thấy, người điếc sẽ được nghe, người
què nhảy nhót như nai…”
Như thế một mặt Chúa Giêsu vừa xác nhận cho các
môn đệ Gioan biết Ngài chính là Đấng Messia. Nhưng mặt khác, Ngài cũng cho họ
biết Đấng Messia mà Gioan Tẩy Gỉa đã loan báo không phải là một vị thẩm phán
khắc khe hay trừng phạt mà là một Đấng đầy lòng từ ái, sẵn lòng tha thứ cho
những ai biết ăn năn sám hối. Đấng ấy không phải là một vị thẩm phán thích lên
án và muốn giết chết nhưng là một Đấng yêu mến sự sống, nên Ngài“đến là để tìm kiếm, cứu chữa những gì đã hư
mất”. Và đó mới thạt là khuôn mặt đích thực của Đấng Messia, Người tôi tớ
của Giavê Thiên Chúa mà Isaia đã loan báo từ ngàn xưa.
Dẫu rằng trong lúc bị tù đày, Gioan Tẩy Gỉa có
chút xao xuyến, nghi ngờ về Chúa Giêsu, nhưng Chúa Giêsu không hề trách móc
ông, bởi Ngài hiểu và thông cảm về hoàn cảnh đau khổ mà ông đang phải chịu. Vì
vậy mà sau khi các môn đệ Gioan đi rồi, Chúa Giêsu đã không ngớt lời ca ngợi về
con người và sứ mạng cao cả của Gioan Tẩy Gỉa:
- Đó là một con người đầy cương trực và can đảm.
Ông dám sống và chết cho sứ mạng mà ông đã loan báo. Ông cũng rất mạnh mẻ sẵn
sàng hy sinh mạng sống mình để làm chứng cho sự thật và công lý, chứ không
giống như hình ảnh cây sậy phất phơ trước gió cách nhu nhược, uốn mình theo dư
luận và áp lực của thế quyền.
- Đó là một con người biết sống hy sinh khổ chế,
dám chọn cho mình đời sống nghèo khó nơi hoang địa, khác với những người chỉ
biết nuông chiều xác thịt và thỏa mãn với những vật chất sa hoa và vui thích
thời trang lả lướt nơi cung điện giàu sang.
- Cho dẫu Gioan Tẩy Giả chọn lấy cách sống cô
tịnh và khắc khổ, nhưng ngài được mọi người kính phục và được Chúa Giêsu khen tặng
là người cao trọng nhất trong các con cái do người nữ sinh ra. Gioan Tẩy Gỉa
trở nên cao trọng bởi vì ông chính là ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước và là người trực
tiếp dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến.
Tuy vậy, Gioan Tẩy Giả vẫn nhỏ hơn những con
người sống trong thời đại Tân ước, thời kì mà những người Kitô hữu được thừa
hưởng và đón nhận ơn cứu độ của Chúa Giêsu mang đến.
Xin cho chúng ta cảm nhận được tình thương của
Chúa và biết nỗ lực đáp lại tình thương của Người bằng cách luôn sống trung tín
và can đảm làm chứng cho Chúa, can đảm sống cho những giá trị của tin
mừng cho dẫu phải chịu nhiều hy sinh thử thách.
Cụ thể trong trong những
ngày này, xin cho chúng ta biết dành nhiều thời
giờ hơn để dọn lòng sám hối, xưng thú tội lỗi mà đón nhận tình thương và ơn tha
thứ của Chúa, hầu chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón mừng Chúa đến ban tặng cho ta niềm vui trọn vẹn.
Thứ
hai: Mt 21, 23-27
Trong cuộc sống ngày nay, việc nhận ra được chân lý đã là
khó, nói chi sống theo chân lý quả là không dễ chút nào. Xin Chúa cho chúng ta
có được đôi tai sâu lắng như Đức Maria, để chúng ta cũng có thể nhận ra lời
chân lý từ Chúa. Và xin cho chúng ta có được sức mạnh nội tâm như Đức Maria, để
can đảm sống theo lời chân lý của Chúa dạy.
Khi thấy đời sống độc
thân-khiến tịnh của các linh mục, anh em chính quyền thường hay thắc mắc và đặt
câu hỏi: Làm sao các vị ấy có thể sống khiết tịnh được?
Nếu là người có thiện chí,
thì lời giải thích của ta sẽ làm cho họ hiểu và dễ chấp nhận. Ngược lại, nếu họ
hỏi để đã kích, bôi nhọ, chế nhạo thì dù cho ta giải thích thế nào đi nữa họ cũng
không tin.
Sau khi Chúa đánh đuổi
những người buôn bán và đổi tiền ra khỏi đền thờ. Các Thượng Tế, Kinh Sư và Đầu
Mục cảm thấy khó chịu nên họ muốn nhổ bỏ "cái gai Giêsu" ra khỏi mắt
họ. Thế là họ họp lại với nhau, bàn luận cách thế nhằm hạ bệ Ngài.
Sau cuộc hội thảo, họ thống
nhất đưa ra hai câu hỏi để bẫy Chúa Giêsu vướng vào khung luật tử hình, đó là:
1. “Ông lấy quyền nào mà
làm các điều ấy?
2. “Ai đã cho ông quyền đó
để ông làm?”
Hai câu hỏi trên không phải
vì họ thiện chí muốn tìm hiểu sự thật, nhưng là vì họ muốn gài bẫy để hạ bệ và
tiêu diệt Đức Giêsu. Điều này không chỉ xảy ra một lần trong đời Chúa Giêsu mà
ít nhất là ba lần.
Trước những câu hỏi nhằm
tìm cách gài bẫy như thế này, Chúa Giêsu không bao giờ trả lời trực tiếp? Bởi
nếu trả lời trực tiếp quyền ấy là do từ trời là sẽ phạm vào khung luật cao nhất
thời bấy giờ; còn nếu trả lời không biết, thì sẽ đánh mất niềm tin của dân
chúng. Đàng nào cũng nguy!
Nhưng “võ quít dày có móng
tay nhọn”. Thay vì trả lời trực tiếp, Chúa đảo ngược tình thế nhằm đưa họ về
chính cõi lòng, để tự vấn lương tâm bằng cách đặt câu hỏi ngược lại: “Tôi xin hỏi các ông một điều, nếu các ông
trả lời đúng thì tôi sẽ nói cho các ông biết, tôi lấy quyền ai mà làm việc đó.
Vậy phép rửa của ông Gioan bởi Thiên Chúa hay bởi loài người?.”
Nếu họ trả lời phép rửa của
Gioan bởi trời, thì tại sao không tin Chúa? vì chính Gioan làm chứng và loan
báo về Đấng Cứu Thế là do Thiên Chúa sai đến nên có uy quyền Thiên Chúa. Còn
nếu họ trả lời là do bởi người ta, thì sẽ gặp phải phản ứng mạnh của dân chúng,
bởi họ tin ông Gioan là ngôn sứ từ trời đến nhằm dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến.
Đàng nào cũng không được, nên họ chọn giải pháp an toàn nhất là nói: “chúng tôi không biết” cho xong chuyện.
Dù họ biết rõ, nhưng lại phải dối lòng!
Xin Chúa cho chúng ta luôn
biết can đảm sống và làm chứng cho chân lý qua việc tích cực dấn thân cho những
giá trị của Tin mừng tình thương với niềm tin tưởng và phó thác vào quyền năng
của Chúa. Amen.
17/12.
Thứ ba: Mt 1, 1-17
Theo lịch phụng vụ, hôm nay chúng ta bước vào
giai đoạn thứ hai của mùa vọng. Giai đoạn này kéo dài một tuần lễ, từ ngày 17
đến 24 tháng 12, nhằm chuẩn bị gần để mừng đại lễ Giáng Sinh, tưởng niệm biến
cố Chúa Kitô đã ngự đến trần gian lần thứ nhất trong lịch sử nhân loại.
Khởi đầu cho gia đoạn này, GH cho chúng ta
nghe lại bảng gia phả của Chúa Giêsu Kitô do thánh sử Matthêu trình bày. Có lẽ
mỗi khi đọc hay nghe bảng gia phả này, chúng ta cảm thấy không có gì lý thú.
Nhưng nếu đọc kỹ với tâm tình cầu nguyện, chúng ta cũng cảm nhận nhiều điều
Chúa muốn nói với ta. Rất riêng, tôi cảm nhận 3 điều:
1. Trước hết bảng gia phả này muốn minh chứng Đức Giêsu là Đấng Messia và là Người Con của lời hứa.
- Theo Tin mừng của thánh Luca thì gia phả của
Chúa Giêsu được tính từ thời thánh Giuse lên đến thời tổ tông loài người là ông
Ađam. Còn bảng gia phả của thánh Matthêu lại bắt nguồn từ tổ phụ Abraham trở
xuống. Nhưng lại nhấn mạnh đến tước vị của Đức Giêsu là Chúa Giêsu Kitô là con
vua David và con của Abraham.
- Rồi đến con số 14. Matthêu chia bảng gia phả
thành 3 phần bằng nhau, với 3 thời kỳ. Mỗi thời kỳ gồm có 14 đời: từ Abraham
đến vua David, 14 đời. Từ vua David đến thời lưu đày Babylon, 14 đời. Từ thời
lưu đày Babylon đến Chúa Giêsu Giáng sinh, 14 đời. Có thể cách chia như vậy
không chính xác lắm, nhưng Matthêu muốn nhấn mạnh đến con số 14 là để minh
chứng nguồn gốc xuất thân của Đức Giêsu gắn liền với dòng tộc vua David. Bởi
theo tiếng Hy Bá Lai thì người ta chỉ viết các phụ âm thôi, còn người đọc phải
thêm các nguyên âm vào sau phụ âm theo ý nghĩa của mạch văn. Mà tên David được
viết là D+V+D. Nếu tính theo giá trị con số thì D=4; V=6; D=4, như vậy tổng giá
trị của các phụ âm này là 4+6+4= 14.
* Những điều trên, Matthêu ngầm minh chứng cho
người Do Thái hiểu rằng: Đức Giêsu chính là đấng Messia, bởi được sinh ra trong
dòng tộc vua David; đồng thời Ngài cũng là con của Abraham, nghĩa là
Người Con của lời Chúa hứa.
2. Tiếp đến bảng gia phả nhấn mạnh đến tình
thương và ơn cứu độ phổ quát của TC.
Trong bảng gia phả, Matthêu nêu tên rất nhiều
hạng người. Trong đó có những người tốt lành thánh thiện nhưng cũng không ít
những người xấu xa, tội lỗi. Đặc biệt trong đó có nêu tên 4 người phụ nữ. Mà
những người phụ nữ này đều có vấn đề.
- Nàng Thamar: là con dâu của gia đình Giu-đa.
Nhưng sau khi chồng nàng chết, gia đình Giuđa lại không cưới nàng cho người con
út theo tập tục Do Thái, nên nàng đã giả dạng làm kỹ nữ mà ăn ở với ba chồng là
ông Giuda để sinh con nối dõi tông đường (St 38).
- Nàng Rahab: là kỹ nữ người Giêricô. Nàng có
công trong việc che giấu những người thám thính thời ông Giô-sê. (x. Gs
6,22-25)
- Nàng Rút: là thiếu nữ dân ngoại, người
Mô-áp. Nhưng vì lòng hiếu thảo với mẹ chồng đã về chung sống tại Bêt-lem và kết
hôn với Booz là ông cố nội của vua Đavit.
- Nàng Bat-sa-ba vợ của Uria: Nhưng bà đã
ngoại tình với vua Đavit và đã sinh ra vua Salomon (x. 2Sm 11, 2-12,25).
Cho dẫu dòng tộc ấy có nhiều bất toàn, nhưng
Đức Giêsu đã sẵn sàng đi vào dòng tộc đó. Người chấp nhận gắn kết đời mình với
những con người tội lỗi và ngoại giáo. Tất cả nhằm minh chứng cho một tình yêu
lớn lao và ơn cứu độ phổ quát mà TC dành cho hết mọi người.
3. Cuối cùng bảng gia phả xác quyết Đức Giêsu
chính là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế.
Ngay từ đầu nếu để ý, ta nhận thấy bảng gia
phả trình bày theo thứ tự ông này sinh ra ông kia. Nhưng khi đến Chúa Giêsu thì
Matthêu lại không trình bày theo nguyên tắc ấy mà Matthêu lại cho biết Đức
Giêsu được sinh ra bởi một người nữ tên là Maria, do quyền năng của Thánh Thần.
Điều này minh chứng cho biết Đức Giêsu được sinh ra không bởi người nam, nhưng
do quyền năng của Thánh Thần. Nên Ngài thuộc dòng dõi thần linh, là Con Thiên
Chúa và là Đấng Cứu Thế mà TC đã hứa ban cho nhân loại ngay sau khi nguyên tổ
phạm tội.
Kế hoạch của TC thật vĩ đại, khó hiểu với đầu
óc hạn hẹp của con người. Từ một dân tộc bất trung, phát xuất từ những con
người nhiều tội lỗi, nhưng TC lại chấp nhận đi vào dòng lịch sử và dòng đời có
nhiều bất toàn ấy, để hoàn thành chương trình cứu độ theo lời hứa của Người một
cách kì diệu đến ngỡ ngàng!
Trước kế hoạch kì diệu của TC, xin cho chúng
ta biết khiêm tốn mở lòng đón nhận mầu nhiệm ơn cứu độ của Người bằng tâm
tình cảm mến tri ân. Nhất là biết sống bao dung, tha thứ và hòa hợp với hết mọi
người, bởi ý thức rằng Chúa đã chấp nhận đi vào cuộc đời ta là những kẻ tội
lỗi, để Người yêu thương tha thứ và cứu độ ta.
Suy niệm 2:
Khi đọc và suy niệm về bảng gia phả của Đức
Giêsu, chúng ta không khỏi ngạc nhiên, bởi vì: Đức Giêsu là Thiên Chúa thánh
thiện, tốt lành vô cùng. Nhưng vì quá yêu thương nhân loại lỗi lầm nên Chúa đã
chấp nhận xuống thế làm người và đã sinh ra trong một dòng tộc bao gồm đủ mọi
thành phần. Trong đó có người tốt, nhưng đa phần lại là những người xấu và tội
lỗi như: tổ phụ Giacóp đã giành quyền trưởng nam của anh mình; Đavít vị
vua tốt lành nhưng lại cướp vợ Uriagia; Salômôn vị vua khôn ngoan nhưng lại sa
đọa; bà Rút là dâu hiền nhưng lại là dân ngoại; Tama là gái
điếm; Bathsheba vợ của ông Urigia nhưng lại chấp nhận cho vua Đavít
cưỡng đoạt … Qua đó cho ta hiểu rằng: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn,
ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5, 20). Chúa chấp nhận đi
vào dòng lịch sử nhân loại với đầy những khiếm khuyết để chia sẻ, đồng cảm nhằm
cứu độ nhân loại tội lỗi. Đó quả là ân sủng lớn lao mà Thiên Chúa dành cho con
người.
Mỗi người chúng ta khi sinh ra cũng được Thiên
Chúa sắp xếp trong một đất nước, một dân tộc và một gia cảnh khác nhau. Nơi ấy
người tốt và người xấu cùng sống chung với nhau. Là những Kitô hữu, Chúa còn
đặt chúng ta vào trong môi trường, hoàn cảnh gia đình và Họ đạo, xã hội… khác
nhau. Môi trường, hoàn cảnh ấy bao giờ cũng có người tốt kẻ xấu; thánh thiện và
tội lỗi; công chính và bất lương... Môi trường và hoàn cảnh mà chúng ta đang
sống có khi thuận lợi, nhưng lắm khi cũng gặp phải rất nhiều khó khăn, bất lợi.
Dẫu vậy, chúng ta phải luôn tin rằng: “Ơn Ta đủ cho con” (2Cr
12,9).
Xin Chúa cho chúng ta biết vui lòng đón nhận
tất cả mọi người, mọi nghịch cảnh xảy ra nơi gia đình cũng như xã hội chúng ta
đang sống, mà không kêu ca, phản kháng. Trái lại luôn biết đặt tin tưởng phó
thác vào đường lối nhiệm mầu của Thiên Chúa để nỗ lực thi hành tốt ơn gọi và
bổn phận của mình theo thánh ý Chúa, Ngõ hầu mang niềm vui Tin mừng của Chúa
đến cho mọi người.
Thánh Giuse được GH gọi là thánh cả, bởi nơi
ngài có rất nhiều nhân đức cao trọng. Nhưng nếu đặt biến cố thiên thần Gabriel
truyền tin cho thánh Giuse trong bố cảnh mùa vọng, thì lời Chúa hôm nay như mời
gọi chúng ta hãy học nơi thánh Giuse mẫu gương của cầu nguyện và thi hành đức
bác ái, nhằm chuẩn bị tâm hồn xứng hợp để đón mừng mầu nhiệm giáng sinh gần kề.
1. Thánh Giuse mẫu gương
của cầu nguyện.
Để nhận ra thánh ý Chúa,
điều kiện tiên quyết phải là gắn bó mật thiết với Chúa bằng đời sống cầu
nguyện. Nói như thế, thì thánh Giuse chính là mẫu gương của cầu nguyện. Chắc hẳn cả đời thánh Giuse phải là lời cầu nguyện liên lỉ, nhờ đó
mà ngài dễ dàng nhận ra thánh ý Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời.
Tin mừng cho biết ít nhất có 3
lần thánh Giuse được Thiên Thần Chúa báo mộng:
- Lần thứ nhất: Tin mừng cho biết,
trước khi về chung sống với Đức Maria, thì Đức
Maria đã mang thai. Nhận ra điều đó, thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ bà cách kín
đáo. Nhưng nhờ âm thầm gắn bó với Chúa bằng đời sống cầu nguyện mà thánh Giuse
đã nhạy bén nhận ra Đức Mẹ chịu thai là bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Còn Hài
Nhi mà Đức Maria đang mang là Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng
ta. Vâng theo lệnh truyền của Chúa, ngay lập tức thánh Giuse đã đón nhận Maria
về nhà làm bạn mình.
Lần thứ hai: Vì lo sợ mất ngai
vàng nên nhà vua Hêrôđê đã ra lệnh tìm cách giết Hài Nhi. Nhận biết điều đó qua
lời mộng báo của Thiên Thần, thánh Giuse đã nhanh chóng đưa Hài Nhi và Mẹ Người
trốn sang Ai Cập để lánh nạn.
Lần thứ ba: Sau khi vua Hêrôđê
băng hà, lập tức thánh Giuse lại được thiên thần Chúa báo mộng lần nữa là đem
Hài Nhi trở về lại quê hương. Thánh nhân đã vâng phục thánh ý
Chúa, đưa gia đình về Palestin và sống ẩn dật tại làng quê Nagiarét.
Như thế thì trong bất cứ hoàn
cảnh nào, thánh Giuse cũng đều nhạy bén nhận ra thánh ý của Chúa và mau mắn thi
hành. Có được như vậy là vì ngài luôn sống mật thiết với Chúa trong bầu khí của
âm thầm cầu nguyện.
2. Thánh Giuse mẫu gương
đời sống bác ái.
Biết được Đức Maria mang
thai mà tác giả không phải là của mình, thay vì theo phản ứng tự nhiên thánh
Giuse chỉ cần đưa Đức Maria ra tố cáo. Chắc chắn Đức Maria sẽ bị ném đá cho đến
chết chiếu theo luật Do Thái thời bấy giờ. Nhưng thánh Giuse đã không hành xử
như thế. Trái lại, ngài chọn giải pháp âm thầm rút lui bằng cách “định
tâm lìa bỏ bà cách kín đáo”. Cách xử như thế cho thấy thánh Giuse là
một con người độ lượng và giàu lòng bác ái.
Hơn thế nữa để chăm sóc Đức
Maria không phải là vợ của ngài đúng nghĩa và nuôi dưỡng Chúa Giêsu không phải
là con ruột ngài, trong một hoàn cảnh khó nghèo nơi làng quê Nazareth sẽ không
dễ dàng chút nào. Cuộc sống ấy đòi hỏi thánh Giuse phải hy sinh rất nhiều. Nếu
không có tình bác ái cao thượng, chắc hẳn ngài sẽ không chu toàn tốt được sứ
mạng mà Thiên Chúa trao phó.
Mùa vọng sắp kết thúc, đây
là thời điểm chúng ta phải chuẩn bị mọi thứ linh tinh bên ngoài để mừng đại lễ
Giáng sinh. Là những người kitô hữu, xin cho chúng ta đừng quá mãi mê thế sự mà
quên đi chuẩn bị tâm hồn xứng hợp để cho Chúa ngự vào. Cách chuẩn bị xứng hợp
nhất trong những ngày này là ta hãy cố gắng chu toàn tốt bổn phận cầu nguyện và
nỗ lực sống tình bác ái với nhau, theo mẫu gương của Thánh Giuse.
19/12
. Thứ năm: Lc 1, 5-25
Gần đến lễ giáng sinh sẽ có rất nhiều niềm vui
bất ngờ đến với ta. Niềm vui khi nhận được những cánh thiệp giáng sinh xinh
xinh của những người quen. Niềm vui khi đọc được những dòng tin nhắn chúc mừng
giáng sinh thật ý nghĩa của người thân yêu. Niềm vui khi đón nhận được những
món quà giá trị do bạn bè gửi tặng. Vui vì được sum hợp bên gia đình với những
bữa cơm đầm ấm của ngày lễ…
Tin mừng hôm nay cũng nói đến niềm vui bất ngờ
mà TC hứa sẽ tặng ban cho ông bà Giacaria và Elisabeth. Đó là bà "Elisabeth vợ
ngươi sẽ hạ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên trẻ là Gioan”.
Đây quả là một món quà vô cùng lớn lao mà TC thương
ban cho ông bà. Cao quý bởi vì quà TC ban tặng không phải là món quà vật chất,
nhưng chính là người con mà ông bà luôn hằng mong mỏi đợi chờ. Cao quý vì với
qùa tặng này TC sẽ làm tan biến hết mọi nỗi tủi nhục mà hai ông bà đã gánh chịu
suốt bao năm dài. “Chúa đã làm cho tôi thế nầy, trong những ngày Người
đoái thương, cất nổi khổ nhục tôi khỏi người đời”.
Có lẽ chính vì quá bất ngờ trước hồng ân lớn
lao mà TC thương ban, nên đã làm cho ông Giacaria vui mừng đến ngỡ ngàng đến
nỗi không thể thốt nên lời! Chỉ có thinh lặng trong cầu nguyện, Giacaria mới có
thể cảm nếm được thế nào là mầu nhiệm tình thương cao cả của TC.
Tuy nhiên, để đón nhận được món quà cao quý và
tận hưởng niềm vui lớn lao ấy, ông Giacaria và bà Elisabeth đã phải nỗ lực sống
đời công chính và âm thầm cầu nguyện trong gần hết cuộc đời.
Muà giáng sinh này chắc mỗi chúng ta cũng có
những niềm vui. Nhưng niềm vui lớn nhất vẫn là niềm vui được Thiên Chúa yêu
thương nên đã ban tặng cho ta chính Người Con yêu quý của Người là Hài
Nhi Giêsu. Xin cho chúng ta cảm nhận được niềm vui lớn lao đó mà kiên tâm sống
đời công chính và kiên trì cầu nguyện để đón nhận được niềm vui ơn cứu độ.
20/12.
Thứ sáu: Lc 1, 26-38
Tin mừng hôm nay thuật lại biến cố Thiên Thần
Gabriel truyền tin cho Đức Maria, khởi đầu cho chương trình cứu độ đầy yêu
thương của Thiên Chúa dành cho con người. Để thực hiện chương trình cứu độ,
Thiên Chúa đã chọn gọi Đức Maria cộng tác trong việc cưu mang và sinh hạ Đấng
Cứu Thế và Đức Maria đã đáp lời bằng hai tiếng “xin vâng”.
Mỗi khi đọc “kinh kính mừng” là chúng ta nhắc
lại lời sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria khi xưa: “kính mừng
Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phước lạ hơn mọi người nữ….” .
Lời truyền tin này là một lời chào chúc quý
giá và mang giá trị hết sức cao cả. Bởi lẽ, có ơn phúc nào cao lớn cho bằng ơn
phúc được Thiên Chúa ở cùng (chính Chúa là nguồn mọi ơn phúc và Đấng
ban ơn phúc. Được Thiên Chúa ở cùng thì có mọi ơn phúc nơi mình rồi). Và có
hạnh phúc nào lớn bằng hạnh phúc được Thiên Chúa ưu ái chọn làm Mẹ Thiên
Chúa. (Được chọn làm mẹ vua đã là vinh dự và ơn phúc quá lớn rồi huống
chi là Mẹ Vua Trời).
Ý thức sứ mạng cao quý ấy trong vui mừng khôn
tả vượt trí hiểu, Đức Maria đã bối rối và tự hỏi lời chào ấy có ý nghĩa như thế
nào? Nhưng sau khi được Thiên Thần giải thích, Đức Maria biết đó là ý định
Thiên Chúa, dù không hiểu hết, nhưng Đức Maria vẫn khiêm tốn ngoan ngoãn vâng
nghe.
Có nhiều điều xảy ra trong đời sống vượt
ngoài trí hiểu và khả năng chúng ta, chúng ta cảm thấy không thể thực hiện
được, nhưng “đối với Thiên Chúa thì mọi chuyện đều có thể”. Từ
không, Chúa đã sáng tạo nên vũ trụ vạn vật chỉ bằng lời phán truyền. Từ bùn
đất, Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Bằng quyền năng,
Thiên Chúa đã làm cho bà Isave cao niên và son sẻ mang thai và sinh con.
Nên việc cưu mang và hạ sinh Đấng Cứu Thế vẫn đồng trinh đối với Đức Maria là
chuyện bình thường. Do đó, nếu ta biết tin tưởng và khiêm tốn để Chúa hành động
nơi cuộc đời của ta như Đức Maria, thì Chúa cũng sẽ làm những điều kì diệu trên
đời ta.
Tuy dẫu Thiên Chúa quyền năng làm được mọi
sự. Nhưng Thiên Chúa lại yêu thích con người cộng tác với Chúa.
Để chọn gọi dân riêng, Chúa đã mời gọi tổ phụ
Abraham cộng tác, và Abraham đã vâng lời bỏ xứ sở ra đi theo ý định Thiên Chúa.
Thế là một dân riêng của Chúa đã hình thành.
Để cứu dân tộc Israel ra khỏi kiếp nô lệ bên
Ai cập, Thiên Chúa đã mời gọi Môsê cộng tác, dù sợ hãi về sự kém cỏi của mình,
Môsê vẫn vâng phục ý muốn của Chúa. Thế là cuộc giải phóng đã hoàn tất.
Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa chọn Đức
Maria, một người thiếu nữ bình thường, nghèo khó làm mẹ Đấng Cứu Thế và Mẹ đã
ngoan ngoãn tin tưởng vâng nghe. Thế là chương trình cứu độ từ ngàn đời của
Thiên Chúa được thực hiện.
Để cứu độ mỗi chúng ta, Chúa cũng mời gọi
chúng ta hợp tác với Chúa. Như thánh Augustinô đã nói: “Chúa dựng nên
con Chúa không cần con, nhưng để cứ độ con Chúa cần con cộng tác”.
Xin cho chúng ta biết noi gương Đức Maria
biết khiêm tốn và ngoan ngoãn vâng theo thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh
mà tích cực cộng tác với ơn cứu độ của Chúa để cứu chính mình và qua ta ơn
cứu độ đến được với tha nhân.
21/12.
Thứ bảy: Lc 1, 39-45
Sự kiện Đức Maria ra đi thăm viếng
bà Isave để lại cho chúng ta hai bài quý giá.
1. Bài học của từ bỏ hy sinh
Khi chấp nhận ra đi thăm người chị họ Isave
là Đức Maria đã sẵn sàng chấp nhận từ bỏ:
- Bỏ mái ấm gia đình với những gì đang có, như sự yên hàn, những tiện nghi,
dẫu là tiện nghi tối thiểu.
- Bỏ lại những công
việc gia đình hàng ngày và những thói quen nhỏ nhặt.
- Bỏ những bận tâm lo
lắng cho bản thân và gia đình mình.
Từ bỏ những gì quen thuộc
với mình là điều rất khó. Thế nhưng, nếu không dám từ bỏ thì không thể lên
đường.
Sự cất bước lên lên đường
của Đức Maria cần phải hy sinh.
- Hy sinh chỗ ở thân
quen, chỗ nằm êm ấm cho dẫu là nhà tre vách lá, chiếu rách giường xiêu.
- Hy sinh mang lấy hành
trang nặng nề trên vai gầy và tiến bước nặng nhọc đang lúc lòng mang dạ chữa.
- Hy sinh chịu gian lao
thử thách để băng qua những vùng đồi núi, sa mạc, giữa bầu trời nắng gắt với
bao là hiểm trở, đói khát dọc đường.
Đến với những nơi phồn
hoa phố thị, vào với những biệt thự sang trọng, gặp gỡ những đại gia, được đón
tiếp nồng hậu, được thết đãi bởi những bữa ăn cao lương mỹ vị đã là một hy
sinh; huống chi ra đi đến những nơi đèo dốc hiểm trở, vào ở trong ngôi nhà
nghèo nàn như nhà của Giacaria có lẽ chẳng ai muốn bao giờ. Hơn nữa đến viếng
thăm gia đình của Giacaria chẳng phải được phục vụ, trái lại Đức Maria còn phải
phục vụ chăm sóc cho bà Isave trong lúc sắp sinh nở quả là một hy sinh lớn lao.
Nhưng điều mà con người
không muốn ấy, thì Đức Maria lại thực hiện nhanh chóng bằng cách "vội
vả lên đường".
Động lực nào đã thúc đẩy
Đức Maria ra đi thăm viếng bà Isave? Nếu không phải xuất phát từ tình yêu.
Chính tình yêu là động lực giúp cho Đức Maria sẵn sàng từ bỏ, chấp nhận hy sinh
để ra đi thăm viếng và giúp đỡ người chị họ mình trong lúc khó khăn. Chính tình
yêu thúc bách Đức Maria ra đi để chia sẻ niềm vui. Vui vì đang cưu mang Đấng
Cứu Thế. Niềm vui ấy mong muốn được chia sẻ cùng người chị họ và cho gia đình
Giacaria. Vui vì "có Chúa ở cùng".
2. Bài học của yêu thương
phục vụ.
Không chỉ đơn thuần thăm viếng để chia sẻ
niềm vui, Mẹ còn chấp nhận hy sinh thời giờ và công việc gia đình để ở lại với
người chị họ, không phải một giờ, hai giờ, một ngày, hai ngày mà là suốt ba
tháng dài.
Ở lại không phải để được phục vụ, để sống
trong cảnh nệm êm chăn ấm, nhưng là để giúp đỡ người chị họ đang mang thai và
sinh con trong lúc tuổi già. Đức Maria "đến để phục vụ chứ không
phải được phục vụ".
Ngày nay, thời đại văn minh, tiến bộ con
người không còn nhiều thời gian thăm viếng nhau. Có chăng người ta chỉ thăm
nhau bằng một cú điện thoại hay vài hàng chữ qua Email, họa hiếm lắm người ta
mới đến với nhau với tính cách xã giao, hời hợt. Giữa cuộc sống bộn bề lo toan
cơm áo gạo tiền, vất vả nhọc nhằn, việc đến thăm nhau chân tình là điều rất
quý. Nhất là thăm viếng mục vụ, lại là việc làm cao quý biết bao.
Thăm viếng một bệnh nhân để lắng nghe họ tâm
sự cũng là góp phần chữa lành họ. Có mặt bên cạnh một một gia đình đang gặp
chuyện bất hoà để chia sẻ nỗi niềm của họ cũng là góp phần hàn gắn gia đình họ
trước nguy cơ rạn vỡ. Thăm viếng những gia đình trễ nãi, ngụi lạnh để hâm nóng
lại tình người, tình Chúa, cần thiết lắm thay! Thăm viếng những gia đình nghèo
khổ, những người bệnh nhân già yếu để chia sẻ, an ủi, động viên và cũng cố đức
tin là nhiệm vụ hết sức quan trọng của người kitô hữu và rất cần thiết trong
những ngày cuối mùa vọng này.
Xin Chúa cho chúng ta biết noi gương Mẹ Maria
trong mùa vọng và giáng sinh này biết tích cực lên đường đem Chúa đến với tha
nhân trong niềm vui chia sẻ và phục vụ chân thành. Hầu niềm vui ơn cứu độ
của Chúa được lan tỏa đến với mọi người và mọi nơi.
22/12 :
Lc 1, 46-56
Trong những ngày cuối cùng
của mùa vọng này, có lẽ không có tâm tình nào xứng hợp hơn cho bằng tâm tình tạ
ơn. Nhưng tâm tình tạ ơn cao đẹp nhất vẫn là tâm tình ngợi khen của Đức Mẹ qua
lời kinh Magnificat.
Chính vì thế mà giờ phút
này, chúng ta cùng hiệp với tâm tình của Mẹ Maria trong lời kinh ngợi khen
(Magnificat) để dâng lên Thiên Chúa lời tôn vinh cảm tạ vì “biết bao
điều trọng đại Chúa đã làm” trên cuộc đời chúng ta. Một trong muôn
điều trọng đại ấy là Chúa đã thương ban cho chúng ta được làm người và làm con
Chúa.
Xin cho chúng ta biết noi gương Mẹ Maria, sẵn
sàng mở lòng đón nhận mọi ơn ban của Chúa, và tích cực đáp trả cách trọn vẹn ơn
gọi và sứ mạng Chúa trao ban, để cộng tác tích cực vào công trình cứu độ của
Thiên Chúa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét