Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 26 tháng 3, 2020

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN V MÙA CHAY

CHÚA NHẬT V MÙA CHAY, NĂM A

ĐỔI MỚI ĐỜI SỐNG TRONG ĐỨC GIÊSU KITÔ.
(Ga 11, 1-45)
Hôm nay Chúa nhật cuối cùng của Mùa Chay. Đây là lúc chúng ta cần nhìn lại chặng đường mà phụng vụ lời Chúa đã dẫn ta đi trong suốt những tuần qua.
Chúa nhật I MC: Đức Giêsu mời chúng ta đi vào sa mạc với Ngài để chay tịnh tâm hồn, rèn luyện ý chí, nâng cao đời sống tinh thần. Luôn lấy Lời Chúa làm vũ khí để chiến đấu với ba thù là xác thịt, thế gian và ma quỷ, dưới sự hướng dẫn của CTT. Tin rằng ta cũng sẽ chiến thắng vẻ vang như Đức Giêsu.
Chúa nhật II MC: Đức Giêsu mời gọi chúng ta cùng lên núi cao với Người. Trên núi cao ta sẽ dễ dàng tiếp xúc thân mật với Chúa ngang qua đời sống cầu nguyện, nhờ đó ta được biến đổi mỗi ngày nên tốt đẹp hơn nếu quyết tâm thi hành lời Con yêu dấu của Chúa Cha chỉ dạy.
Chúa nhật III MC: Chúa Giêsu mời gọi chúng ta ra đi đến vùng ngoại vi với Người, để gặp gỡ những người bất đồng tôn giáo, xa cách về quan niệm sống, mặc cảm về tội lỗi. Chính bên bờ giếng tổ phụ Gia-cóp, Chúa Giêsu đã đem đến nơi đây tinh thần hòa hợp dân tộc qua việc tiếp xúc chân tình với người phụ nữ và dân thành Samaria. Tại nơi đây Chúa Giêsu đã xác quyết việc tôn thờ TC không phải nơi này hay nơi kia mà phải trong Chân lý và Thần khí.  Và thật ngỡ ngàng, qua cuộc đối thoại với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng của tổ phụ Gia-cóp, Đức Giêsu tinh tế mạc khải cho chị và dân làng tin nhận ra Người chính là nguồn nước mới uống vào sẽ không còn khát nữa, nguồn nước trường sinh mang tên là “Giêsu”.
Chúa nhật IV MC: Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta theo chân Người rảo bước trên khắp nẻo đường đời, hòa nhập vào cuộc sống của những người đang gặp đau khổ do bệnh tật và tội lỗi gây nên, để đồng cảm và ra tay nâng đỡ, chăm sóc, cứu giúp họ bằng tất cả tấm lòng yêu thương với mong muốn đem lại ánh sáng niềm vui, hy vọng tươi sáng cho những ai tin nhận Đức Giêsu chính là Ánh sáng trần gian.
Chúa Nhật V MC hôm nay, phụng vụ Lời Chúa lại tiếp tục mời gọi chúng ta ra đi với Chúa Giêsu đến với những ai đang sống trong tình cảnh đau buồn vì mất đi người thân. Bằng tình thương và quyền năng, Chúa Giêsu đã phục sinh Lazarô mang lại niềm tin và hy vọng vào sự sống sau cái chết cho chị em Matta và Maria.
Như thế, Chúa Giêsu đã bước xuống trần gian và đã đi đến hết mọi nẻo đường, đã len lỏi vào mọi ngõ ngách của cuộc đời. Ngài đã sống và cảm nếm hết mọi nỗi buồn-vui, sướng-khổ, vinh-nhục, giàu- nghèo, sang-hèn…của kiếp người.
Ngài đã từng chiến đấu cam go với những cám dỗ do ma quỷ gây ra và đã chiến thắng nhờ vào sức mạnh Lời Chúa và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Ngài cũng vượt qua mọi khó nhọc để lên núi cao, tiếp xúc thân mật với Chúa Cha bằng đời sống cầu nguyện không ngừng nên dung nhan Ngài được biến đổi nên sáng ngời.
Ngài đã không ngần ngại ra đi đến vùng ngoại vi nhằm phá bỏ những bức tường ngăn cách, xây dựng lại nhịp cầu hiệp thông trong chân lý và niềm tin; nhất là ban cho họ nguồn nước trường sinh làm no thỏa mọi nỗi khát vọng vào chân lý.
Ngài cũng lân la vào những làng mạc, sải bước trên những con đường quanh co, gặp gỡ những con người đau đớn về thể xác và khổ sở về tinh thần, để chữa lành, phục hồi nhân phẩm, đem đến ánh sáng niềm vui và sự sống cho họ.
Ngài sẵn sàng hiện diện nơi những gia đình gặp hoạn nạn đau khổ, để an ủi, động viên đem lại niềm vui, hy vọng và khơi dậy lòng tin nơi họ. Với tấm lòng yêu thương, Ngài đã đến tận ngôi mộ chôn Lazarô để ban lại sự sống cho anh, bởi chính Ngài là Chủ của sự sống: "Ta là sự sống lại và là sự sốngAi tin vào Ta thì dầu có chết cũng sẽ được sống." (Ga 11, 25).
Mùa chay, Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy đi đến mọi ngã đường của cuộc sống, bước qua mọi ranh giới của nghi kị và đi vào tận bên trong tâm hồn của tha nhân, để nhận ra những lo toan, trăn trở, vất vả thường ngày của anh chị em mình; để chứng kiến những nỗi buồn, đau khổ và bất hạnh của những người già cả, bệnh tật, thiếu thốn, của những gia đình bất hòa, ly tán, thiếu vắng tình thân… mà cảm thông, chia sẻ và nâng đỡ họ vượt qua mặc cảm tội lỗi, nghèo khổ, thiếu thốn...
Chúa cũng thiết tha mời gọi chúng ta đến với bất cứ ai, dù là lương hay giáo; người thân quen hay xa lạ; với người dễ thương hay khó thương, người đồng thuận hay kẻ chống đối, người đau khổ thể xác hay tinh thần; bạn hay thù… Ta hãy lên đường đi đến mọi nơi, gặp gỡ mọi người bất chấp đường xa, lắm chông gai, thuận tiện hay khó khăn; bất luận đêm hay ngày, mưa hay nắng để ta thăm viếng, giải hòa, xua tan mặc cảm, ban tặng niềm vui và hy vọng bằng chính tình yêu chân thành của ta theo tinh thần của Chúa Giêsu.
Làm được như vậy mùa chay thánh mới thật sự mang lại nhiều ích lợi liêng liêng cho đời sống đức tin của chúng ta.
Sống được như thế chúng ta mới làm cho ánh sáng Tin mừng tình thương của Chúa được lan tỏa đến mọi người và mọi nơi.
Khi thi hành những điều trên là chúng ta đang can tân đời sống theo tinh thần sám hối của mùa chay, để rồi như thánh Phaolô, ta có thể hãnh diện nói rằng: Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Amen.

Thứ hai: Ga 8, 1-11
Trong tình yêu, người ta có những sáng kiến bất ngờ. Khi yêu, người ta có thể quên hết những khuyết điểm, lầm lỗi của người mình yêu. Khi yêu người ta tìm mọi cách làm vui lòng người mình yêu. Khi yêu người ta sẽ không ngần ngại giúp đỡ người yêu của mình được tốt đẹp hơn. Tình yêu là động lực thúc đẩy sự thăng tiến và biến đổi đời sống. Đó chính là điều mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta những người đuợc Chúa yêu, qua bài tin mừng hôm nay.
Nếu có ai đó còn nghi ngờ về tình yêu Thiên Chúa, thì sứ điệp lời Chúa hôm nay là lời giải đáp có sức thuyết phục, xua tan hết những nghi ngại trong lòng ta về lòng thương xót của Thiên Chúa.
Biết trước mình là tội nhân, bị liệt vào bản án tử hình, ai lại không cảm thấy run sợ khi đứng trước tòa xét xử. Đó là tâm trạng của người phụ nữ phạm tội ngoại tình trong bài Tin mừng hôm nay.
Vì không kiềm chế được bản năng sinh lý đòi hỏi và không tự chủ trước những nhu cầu hưởng thụ khoái lạc sai lầm, người phụ nữ trong bài Tin mừng hôm nay đã phạm trọng tội và phải lãnh lấy khung hình phạt cao nhất là bị tử hình.
Trước mắt chị bây giờ chỉ là 1 màn đêm vây kín. Cuộc đời chị coi như sắp kết thúc. Mạng sống của chị như ngàn cân treo sợi tóc vì bản án tử hình đã rõ. Bó tay!
Bó tay vì theo luật Môsê, ngoại tình công khai thì lãnh lấy án tử, không còn cách nào khác.
Bó tay vì không ai dám đứng về phía chị để bênh đỡ.
Bó tay vì những búa rìu dư luận nặng nề bổ lên đầu chị mà không ai có thể ngăn cản.
Nhưng trước những trói buộc của lòng người hiểm ác, của dư luật độc hại, của luật lệ cứng ngắt, tưởng chừng như không thể thoát khỏi, thì với Chúa Giêsu mọi bó buộc đã được tháo cởi.
Trước hết Chúa tháo cởi lòng người hiểm ác. Bằng khoảng lặng và cách đặt vấn đế: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!”. Tự vấn lương tâm, ai cũng nhận ra mình là tội nhân. Thay vì kết tội người khác họ quay về kết tội chính mình. Thế là Chúa đã cởi bỏ tính tự mãn, kiêu căng nham hiểm nơi lòng họ.
Đồng thời qua đó Chúa Giêsu cũng đã tháo cởi được những ánh mắt giận dữ, những lời nói độc ác, những búa rìu dư luận và lời kết án nặng nề trút lên người phụ nữ trước đó từ từ được rút lại. Khi ấy Chúa Giêsu mới lên tiếng hỏi: “Họ đâu rồi? không ai lên án chị sao?”.  Người đàn bà đáp:“Thưa ông, không có ai cả”.
Cuối cùng với lời tha thứ “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” Chúa Giêsu cởi trói tội lỗi cho chị và mở ra bầu trời hy vọng sáng ngời.
Sau khi cởi hết những trói buộc, Chúa Giêsu không quên khuyên bảo: “Thôi chị cứ về đi,  và từ nay đừng phạm tội nữa!”. Giờ đây tất cả những gánh nặng tội lỗi xưa nay của chị đã được trút bỏ. Từ đây chị có thể nhẹ nhàng tiến bước trong hân hoan với niềm vui và hạnh phúc của con người mới được Chúa yêu thương. Đồng thời từ nay chị cũng luôn quyết tâm đổi mới cuộc đời cho xứng đáng với tình yêu và ơn tha thứ của Chúa.
Chúng ta là những tội nhân đáng chết, nhưng được Chúa yêu thương tha thứ qua bí tích giao hoà. Xin cho mùa chay này, chúng ta can đảm từ bỏ đi những tính hư nết xấu và tội lỗi, canh tân đời sống, hầu xứng đáng với tình thương ơn tha thứ mà Chúa dành cho ta.

Thứ ba: Ga 8, 21-30
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta biết Ngài là ai, đến từ đâu và con đường nào Ngài phải đi. Xin cho chúng ta luôn vững tin vào Chúa và vững bước theo Ngài.
Một lần nữa, Chúa Giêsu lại kiên nhẫn cố gắng giúp cho những người Biệt Phái cứng lòng nhận biết Ngài là ai, đến từ đâu và còn đường Ngài đi là gì?
Đức Giêsu cho biết Ngài bởi thượng giới mà đến. Ngài không thuộc về thế gian này. Ngài Hằng Hữu. Những lời Ngài nói là những lời của Chính Thiên Chúa nói. Ai không tin nhận sẽ bị xét đoán và mang tội nơi mình mà chết.
Con đường Ngài đi người Do Thái nếu không chấp nhận sẽ không thể đi được. Nên có lần Chúa Giêsu nói với các môn đệ, con đường Ngài đi hiện giờ các ông không theo được. Vậy đó là đường nào? Người Do Thái cho rằng Ngài sẽ đi tự vẫn. Nhưng Ngài không xác định rõ ràng, còn trong bí ẩn. Giống như Ngài đã trả lời với các môn đệ: “sau này anh em sẽ hiểu”.
Ngày nay chúng ta đã hiểu con đường ấy là con đường thập giá. Chính Chúa Giêsu cũng đã nói về con đường ấy trong bài tin mừng hôm nay: “khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết tôi là Tôi Hằng Hữu”.
Con đường thập giá là con đường đẹp ý Chúa Cha. Nhưng lại ngược với tư tưởng và cảm nghĩ lựa chọn của con người tự nhiên.
Ai mà chẳng mong muốn được sống tiện nghi và giàu có. Ai mà chẳng mong được danh vọng chức quyền. Chẳng ai muốn thập giá của nghèo khổ, vất vả và cay đắng. Thực tế cho thấy, dù không muốn vẫn không tránh khỏi. Vì thế Chúa bảo chúng ta nếu tin vào Ngài và cầu xin với Ngài, Ngài sẽ ban ơn trợ giúp để chúng ta đủ sức mạnh vác lấy thập giá đời mình.
Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần kêu gọi: “Ai muốn theo ta hãy từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo”. Đã rõ, Đức Giêsu là Đấng Hằng Hữu đến từ Thiên Chúa và con đường cứu độ của Ngài là con đường Thập Giá. Vì thế để được cứu độ thì không có con đường nào khác mà ta chọn lựa ngoài con đường thập giá mà Chúa đã đi qua.
Xin cho chúng ta biết:
- Từ bỏ ý riêng không hợp ý Chúa để vâng nghe và thực thi ý Chúa.
- Vui vác thập giá mình bằng việc đón nhận những hy sinh vất vả khó khăn thử thách trong cuộc sống mà không kêu than, oán trách với niềm tin tưởng và yêu mến Thiên Chúa.
- Sẵn sàng bước đi theo Chúa Giêsu chứ không theo một ai khác, sao cho mỗi ngày ta thấy mình được gần Chúa và gần anh chị em hơn, bởi biết rằng chính Người là Đấng đã chết và sống lại vì yêu thương ta.
Sống được như thế chúng ta sẽ không bị luận phạt và không mang tội nơi mình mà chết. Trái lại sẽ được sống trong Chúa với niềm hạnh phúc viên mãn.

Thứ tư: Ga 8, 31-42
Thấy niềm tin của của những người Do Thái mới tin chưa trọn vẹn lắm nên Chúa Giêsu đề nghị họ cần phải “sống lời Chúa”. Để lời Chúa giải thoát họ khỏi nô lệ tội lỗi và xứng đáng trở thành môn đệ của Chúa. Nhưng những người này chưa đủ khiêm tốn để chấp nhận lời đề nghị của Chúa. Họ tự phụ cho mình là con cháu Abraham và không cần tiếp nhận thêm điều gì nữa. Xin cho chúng ta biết khiêm tốn lắng nghe và làm theo lời dạy của Chúa, nhờ đó ta được giải thoát khỏi xích xiềng tội lỗi, xứng đáng là môn đệ Chúa Giêsu.
Bài tin mừng hôm nay, Chúa kêu gọi những người Do Thái mới tin Chúa hãy: “Ở lại trong Lời Chúa”, vì Lời Chúa là lời chân lý có sức mạnh giải thoát họ. Nhưng những người Do Thái cho rằng: “Chúng tôi là dòng dõi ông Abraham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ”. Thế là họ hiểu sai lời Chúa. Không phải Abraham làm cho họ tự do nhưng tự do trước Chúa là sự sạch tội. Còn ai phạm tội là trở nên nô lệ.
Đức thánh cha Bênêđictô 16 trong buổi đọc Kinh Truyền Tin hôm Chúa Nhật 13/03/2011 đã nói: “Nô lệ nghiêm trọng và sâu xa nhất là nô lệ cho tội lỗi”. Đúng vậy, hể ai phạm tội tất nhiên là nô lệ cho tội. Bởi khi phạm tội là ta xua đuổi Chúa ra khỏi lòng mình và rước ác thần Satan vào cư ngụ thay thế cho Thiên Chúa. Để khỏi nô lệ cho tội hay ma quỷ, điều kiện là ta phải “ở lại trong Lời Chúa”. Bởi lẽ khi ở lại với Lời Chúa là chúng ta giữ Lời Chúa. Mà giữ lời Chúa là dấu hiệu nói lên lòng ta yêu mến Chúa, cũng đồng nghĩa là ta để cho Chúa ở lại trong ta. Vì “Chúa chính là đường là sự thật và là sự sống”, ai ở lại trong Chúa thì sự thật chiến hữu và giải thoát người ấy khỏi ràn buộc của tội lỗi, được đón nhận sự sống của Chúa.
Tin mừng cho ta biết sở dĩ họ không chịu ở lại trong lời của Chúa đó là vì họ tự mãn cho mình là con cháu Abraham là con cái Thiên Chúa. Tự mãn kiêu căng là tội đầu trong các tội. Chính vì kiêu căng tự mãn muốn bằng Chúa nên nguyên tổ đã đánh mất thiêng đàng và trở nên nô lệ cho ma quỷ. Chính kiêu căng tự mãn, thiên thần Luxiphe đã chống đối lại Chúa và bị trừng phạt trở nên Satan.
Ta cũng thường tự mãn vỗ ngực xưng tên là người Công giáo, nhưng nhiều lúc chúng ta không sống đúng với danh xưng ấy. Thay vì sống theo lời Chúa dạy, làm theo ý Chúa muốn, thì chúng ta lại làm theo ý riêng mình, sống theo những đam mê dục vọng mình. Thay vì làm tôi Chúa chúng ta lại làm tôi ma quỷ, xác thịt, thế gian.
Xin Chúa tha thứ những lầm lỗi chúng ta. Cho chúng ta biết vâng nghe và làm theo Lời Chúa để được tự do làm con cái Chúa.

Thứ năm: Ga 8, 51-59
Trong những cuộc đối thoại với người Do Thái, Chúa Giêsu kiên nhẫn mạc khải cho họ biết về thân thế của Ngài; cũng như về nếp sống phải có của những ai tin nhận Ngài. Nhưng với cái nhìn và kiến thức hạn hẹp và ỷ vào kinh nghiệm sống của mình, họ không thể nhận biết thân thế của Chúa Giêsu nên không chấp nhận sống theo Lời Chúa chỉ dạy.
Xin cho chúng ta đừng ỷ vào kiến thức và nếp sống đạo lâu nay của mình mà chối từ Lời chỉ dạy của Chúa và hướng dẫn của Giáo Hội. Nhưng xin cho chúng ta biết khiêm tốn lắng nghe và thực hành lời Chúa và Giáo Huấn của Giáo Hội hướng dẫn để có được sự sống sung mãn.
Tin mừng hôm nay có hai điểm cần lưu ý:
- Thứ nhất, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến mối tương quan giữa Ngài với Chúa Cha.
- Thứ hai, Chúa Giêsu nói đến giá trị cao quý của việc tuân giữ Lời Chúa.
1. Tin mừng hôm nay thánh Gioan cho biết: Chúa Giêsu quả quyết Ngài biết Thiên Chúa Cha, nhưng những người khác thì không biết. Chính Chúa Cha sai Ngài đến trần gian. Những lời Ngài dạy bảo là Lời của Chúa Cha. Chúa Giêsu không hề tìm vinh danh cho chính mình mà chỉ tìm vinh danh cho Đấng đã sai mình. Vì thế mà Ngài được Chúa Cha tôn vinh.

2. Mà Lời của Chúa Cha chính là “Lời ban sự sống đời đời”, vì thế Chúa Giêsu cho biết: “Nếu ai tuân giữ Lời Ngài, thì sẽ không bao giờ phải chết”.
Người Do Thái tự hào là con cháu Abraham nên họ xứng đáng thừa hưởng lời chúc phúc mà Chúa đã hứa với tổ phụ Abraham trước đây. Nhưng Chúa Giêsu cho họ biết là con cháu Abraham thôi chưa đủ điều kiện, mà còn phải là con cháu có đức tin giống như Abraham mới xứng đáng thừa hưởng gia nghiệp nước trời.
Tin Chúa nên Abraham đã nghe Lời chỉ dạy của Chúa mà sẵn sàng ra đi, dù không biết đi đâu. Như thế tin Chúa thì phải nghe lời Chúa. Mà Lời Chúa thì mang lại sự sống đời đời, nên ai tuân giữ Lời Chúa thì không chết bao giờ. Giống như cành nho gắn liền với thân nho, cành nho được sống vì tiếp nhận nhựa sống từ thân nho nuôi dưỡng. Gắn kết với Lời Chúa ta sẽ được Chúa thông truyền sự sống. Mà Chúa là sự sống vĩnh cửu, nên ta sẽ được tham dự vào sự sống đời đời của Chúa.
Xin cho chúng ta xác tín được giá trị cao quý Lời của Chúa và cố gắng thi hành để đón nhận sự sống đời đời Chúa thương ban.

Thứ sáu: Ga 10, 31-42
Trong suốt những ngày qua, chúng ta đọc những đoạn Tin mừng của thánh Gioan ghi lại các cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và những người Do Thái không tin vào Ngài. Cũng như các cuộc tranh luận trước, cuộc tranh luận trong tin mừng hôm nay, một lần nữa Chúa Giêsu mạc khải sự thật quan trọng về Ngài. Ngài xác định rõ ràng: Ngài là Con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa. Xin cho mọi người tin tưởng vào Đức Giêsu chính là Thiên Chúa làm người, cứu độ chúng ta.
Bài tin mừng hôm nay Chúa Giêsu mạc khải hai chân lý đức tin rất quan trọng đó là: “Tôi là Con Thiên Chúa” và “Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong chúa Cha”. Qua đây Chúa Giêsu cho biết Ngài chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Đây là một giáo lý rất quan trọng. Bởi vì nếu Chúa Giêsu chỉ là một người như bao người, thì lời giảng dạy của Ngài cũng chỉ là để nghe cho vui tai và chỉ được khen là hay ho cũng như lời giảng dạy của những nhà hùng biện, hay như các đấng hiền triết, hoặc như các vị sáng lập các tôn giáo khác mà thôi. Nhưng Ngài là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa nên lời giảng dạy của Ngài quý giá hơn bất cứ người nào trên trần gian. Nhưng mà người Do Thái không chấp nhận điều đó. Những phép lạ cả thể, những lời giảng dạy khôn ngoan nơi Chúa Giêsu, vậy mà không làm họ tin. Lý do vì họ cứng lòng và cố chấp.
Ngày nay không chỉ có những người cứng lòng tin như người Do Thái xưa mà còn đó những con người vô thần. Lối sống của họ chỉ nghĩ đến hưởng thụ vật chất, chỉ thích vui cuồng sống vội. Họ xem giáo huấn của Chúa thật rắc rối, là chướng ngại vật, là bức tường cản ngăn lối sống phóng túng, trụy lạc, tội lỗi của họ. Để rồi họ sẵn sàng ném đá tiêu diệt nhằm lọai bỏ Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn và cuộc sống họ như người Do Thái xưa.
Chúng ta hãy cầu xin cho những người vô thần. Vô thần trong tư tưởng, trong lập trường cũng như vô thần trong lối sống, biết nhìn vào thiên nhiên, nhìn vào vạn vật, nhìn vào các biến cố xảy ra nhất là nhìn vào bản thân mình mà khám phá ra sự hiện hữu của Chúa mà tin vào Chúa Giêsu. Với chúng ta cũng rất cần nhìn lại cách thế sống và thể hiện niềm tin vào Chúa như thế nào?

Thứ bảy: Ga 11, 45-56
Sự đố kị và lòng hận thù khiến người ta mù quáng không còn nhận ra lẽ phải và bất chấp mọi thủ đoạn, ngay cả giết người. Đó là cách thế hành xử của các Thượng Tế và Biệt Phái đối với Chúa Giêsu trong bài tin mừng hôm nay.
Jean de La Fontaine từng viết bài thơ ngụ ngôn “Le Loup et l’Agneau” kể về con chó sói và con cừu non cùng ra suối uống nước. Con sói muốn ăn thịt con cừu bèn tìm đủ cách buộc tội con cừu.
Đầu tiên con sói bảo con cừu làm bẩn nước suối của con sói.
Bị con cừu bẻ: “Thưa ông, ông uống ở thượng lưu, tôi uống ở hạ lưu, thì chỉ có ông làm bẩn nước của tôi chứ làm sao tôi có thể làm bẩn nước của ông được?”
Con sói nói: “Năm ngoái mày đã phỉ báng tao!”
Con cừu trả lời: “Thưa ông, năm ngoái tôi chưa ra đời.”
Con sói nói: “Thế thì thằng anh mày đã phỉ báng tao!”
Con cừu đáp: “Thưa ông tôi là con một.”
Con sói rống lên: “Thế thì một đứa trong lũ chúng mày đã nói xấu tao, thằng chăn chúng mày đã nói xấu tao, con chó chăn chúng mày đã nói xấu, tao phải trả thù!” Thế rồi con sói vồ con cừu nhai ngấu nghiến.
La Fontaine kết luận: “Lý lẽ kẻ mạnh bao giờ cũng thắng”
Đọc Tin mừng hôm nay, ta có cảm tưởng các Thượng Tế và Biệt Phái giống như con sói vậy. Họ tìm mọi cách, viện đủ mọi lý do để tiêu diệt Chúa Giêsu. Họ đã triệu tập một công nghị để bàn tính với nhau cách đối phó với Chúa Giêsu ra sao. Vì thấy Chúa làm được nhiều việc lành, có nhiều người tin theo Chúa, sợ mất ảnh hưởng nên họ ghen ghét muốn khử trừ Ngài cho xong. Sau khi viện đủ mọi lý do tôn giáo để kết tội Chúa Giêsu như: Chúa đã lộng ngôn phạm thượng xưng mình là Con Thiên Chúa. Rồi lại công khai tuyên bố phá hủy đền thờ Giêrusalem, nhất là đã liên tục vi phạm ngày sabát…nhưng những cáo buộc ấy không thành. Vì thế, họ chuyển sang ghép Ngài vào tội chính trị. Họ vu cáo Ngài vi phạm tới luật lệ của nhà nước và quyền của hoàng đế Rôma. Rồi họ ra chỉ thị truy nả Ngài trong toàn dân. Với lời khích động: “Thà một người chết thay cho toàn dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt”
Quyết định giết Chúa Giêsu để thay cho toàn dân quả là một quyết định do lòng ghen tỵ, hận thù… thật là bất công. Nhưng trong chương trình của Thiên Chúa, thì cái chết của Chúa Giêsu là để cho mọi người được sống đời đời. Thay cho hành động hận thù và bất công của các Thượng Tế và Biệt Phái là hành động bao dung và yêu thương của Thiên Chúa, nhằm quy tụ con cái tản mác khắp nơi về một mối, trong tình hiệp nhất yêu thương.
Xin cho chúng ta đừng vì ghen ghét, hận thù mà tìm đủ mọi cách để hãm hại người khác. Nhưng xin Chúa ban cho chúng ta có được lòng quảng đại, yêu thương tha thứ và sẵn sàng hy sinh, chịu gian lao khốn khó như Chúa Giêsu.



Thứ Bảy, 21 tháng 3, 2020

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN IV MÙA CHAY

CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY, NĂM A

1Sm 16, 1b.6-7. 10-13a; Ep 5, 8-14; Ga 9, 1-41

 Chúa nhật IV MC hôm nay được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Vui không bởi phẩm phục màu hồng nhưng vui vì GH sắp cử hành đại lễ phục sinh, kỷ niệm biến cố Con TC sống lại, mở ra cho nhân loại niềm hy vọng vào sự sống mai này. Vui vì ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô đã đến trần gian, xua tan bóng đêm tội lỗi và sự chết, ban lại cho nhân thế ánh sáng của niềm vui và sự sống mới. 

Xin cho chúng ta biết tích cực đón nhận ánh sáng của Chúa, bằng cách gắn bó mật thiết với Chúa, khiêm tốn lắng nghe và thực thi đường lối của Chúa với niềm hân hoan, tin tưởng và phó thác vào tình thương của Chúa.

“Ánh sáng” là chủ đề nổi bật trong Tin mừng của thánh Gioan. Nên ngay những trang đầu của Tin mừng, thánh Gioan cho biết Chúa Giêsu chính là “Ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9). Qua phép lạ chữa lành cho người mù được sáng mắt hôm nay, minh chứng cho thấy Đức Giêsu chính là ánh sáng thật đã đến trần gian, xua tan bóng tối tội lỗi và sự chết, mang lại niềm vui và sự sống cho con người: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12).

Xin cho chúng ta biết mở lòng tiếp nhận ánh sáng niềm vui Tin mừng của Chúa và tích cực bước theo ánh sáng Ngài soi dẫn, ngỏ hầu chúng ta trở nên con cái của sự sáng theo như lời thánh Gioan đã nói: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.” (Ga 1, 11-12).


Phụng vụ lời Chúa hôm nay cho thấy có những cái nhìn khác nhau về con người và sự kiện, khởi đi từ những quan điểm khác biệt nơi mỗi người.
1. Với tiên tri Samuel và ông Giétsê thì nhìn con người qua diện mạo bên ngoài nên khi ông được Thiên Chúa sai đến Belem để tìm Đavit (con út của ông Isai (Giétsê), thuộc chi tộc Giuđa) để xức dầu tấn phong đứa út này lên làm vua thay cho Saolê vì đã không tuân phục ý Chúa (1S 16,13), thì Samuel ông lại muốn xức dầu cho Êliab một người có dáng vóc cao lớn, khoẻ mạnh trong số 8 người con trai của Giétsê. Nhưng Chúa bảo: “Không phải người phàm nhìn sao, Thiên Chúa cũng nhìn thế, bởi người phàm chỉ trông thấy điều lộ trước mắt, còn Giavê trông thấy điều ẩn đáy lòng”. Cuối cùng, nghe theo sự soi sáng của Chúa, Samuel cũng đã chọn và xức dầu cho Đavít, đứa nhỏ nhất, đứa mà cả ông Giétsê cũng coi thường nên ban đầu không đưa ra giới thiệu cho Samuel.
Câu chuyện cho thấy cái nhìn của Thiên Chúa không giống cái nhìn của loài người, vì loài người quen nhìn đáng vẻ bề ngoài, còn Thiên Chúa nhìn tận đáy lòng.
2. Còn những người Biệt phái thì nhìn Đức Giêsu với cái nhìn định kiến nên họ không thể nhận ra được Thiên tính nơi Người.
Tin mừng hôm nay cho biết vì muốn phủ nhận uy quyền TC nơi Đức Giêsu nên những người Biệt phái đã tìm đủ mọi cách hầu chối bỏ phép lạ Chúa Giêsu đã làm khi cho người mù từ lúc mới sinh được sáng mắt.
- Trước hết họ mở cuộc điều tra rộng rãi từ đương sự đến những người láng giềng và cả cha mẹ của đương sự nữa. Họ hạch hỏi và đe dọa những người này đủ điều, với mục đích làm áp lực để người mù và cha mẹ anh ta sợ hãi mà chối bỏ phép lạ Chúa Giêsu đã làm. Nhưng vì phép lạ quá hiển nhiên nên không thể nào phủ nhận được.
- Biết xử dụng quyền lực không được, họ dùng đến lý lẽ để thuyết phục mọi người với cách lý luận rằng: “ông Giêsu đã chữa mắt cho người mù trong ngày hưu lễ vì luật trong hưu lễ là cấm làm việc. Ai vi phạm là kẻ có tội. Mà kẻ tội lỗi thì không thể là người bởi Thiên Chúa và không thể làm được phép lạ”. Nhưng cho dù họ có cố tình bẻ cong sự thật, thì sự thật vẫn hiển nhiên, bởi chính đương sự đã làm chứng: “Nếu đó là một người tội lỗi, tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy”.
- Thấy không thể đối chất lại cách lý luận đầy thuyết phục của anh mù, cuối cùng họ phải dùng đến thủ đoạn nham hiểm, bằng cách khơi lại tình trạng quá khứ mù lòa của anh, rồi dựa vào quan điểm mù quán mà cho rằng anh ta là người tội lỗi mà mạt sát anh: “Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư? Rồi trục xuất anh ra ngoài”. Với ý định qua đó cảnh báo mọi người đừng bao giờ tin vào lời chứng của người có tội. Nhưng tất cả những mưu hèn kế bẩn ấy cũng không làm thay đổi được niềm tin của người mù vào quyền năng TC nơi Đức Giêsu qua lời xác quyết của anh: “Xưa nay chưa từng nghe nói có ai mở mắt một người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì không làm được gì”. Vì thế sau khi Chúa Giêsu cho anh biết Người chính là Con Thiên Chúa thì anh liền “sấp mình thờ lạy Người”.
Trong khi người mù được Chúa ban cho ánh sáng thể lý và tâm hồn thì những người Biệt phái sáng mắt thể lý lại trở nên mù lòa về tâm hồn nên đã không tin nhận Chúa Giêsu là TC làm người. Sở dĩ như vậy là vì mắt tâm hồn họ còn bị quá nhiều ngăn cản bởi lòng đầy kiêu căng tự mãn; bởi những định kiến sẵn có về Chúa Giêsu khi cho rằng, Người không tuân thủ lề luật, dám làm việc ngày hưu lễ, cho dẫu họ biết rất rõ về những việc tốt lành Chúa Giêsu đã làm. Chính vì thế mà họ đáng bị Chúa Giêsu lên án: “Nếu các ngươi mù, thì các ngươi đã không mắc tội; nhưng các ngươi nói ‘Chúng tôi xem thấy’, nên tội các ngươi vẫn còn”.
Trước đại dịch Covid-19 đang hoành hành khắp nơi trên thế giới như hiện nay, có thể mỗi người chúng ta có những cái nhìn khác nhau tùy theo quan điểm tự do của mình. Nhưng với cái nhìn của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Ephêsô trong bài đọc 2 hôm nay, thì ngài khuyên chúng ta nên khiêm tốn nhận ra quyền năng của TC qua biến cố này mà chân thành sám hối từ bỏ nếp sống cũ là giả dối và tội lỗi mà nỗ lực thực thi giáo huấn của Đức Kitô qua đời sống lương thiện, công chính và chân thật, với ước mong làm mọi điều sao cho đẹp lòng Chúa. Được như vậy, tâm hồn chúng ta mới có được bình an mỗi khi đối diện với những biến cố vui buồn trong đời sống.

Thứ hai: Ga 4, 43-54
Đức tin chính là thần dược chữa lành mọi bệnh tật cho con người. Chính đức tin, viên sĩ quan đã đặt trọn vẹn lòng cậy trông và hy vọng vào Chúa. Nhờ đức tin mà phép lạ Chúa được thực hiện và con ông được cứu chữa. Xin Chúa ban thêm lòng tin nơi chúng ta.
Ông viên sĩ quan trong bài tin mừng hôm nay vì tin tưởng vào Chúa Giêsu nên ông đã đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa:
Hy vọng vào Chúa, nên ông đã ra đi tìm đến Chúa Giêsu.
Hy vọng nơi Chúa, ông đã không ngại kêu xin và kiên nhẫn nài nỉ Chúa đến nhà cứu sống con ông.
Hy vọng ở Chúa, ông đã khiêm tốn đón nhận mọi thử thách: “Các ông mà không thấy dấu lạ điềm thiêng thì các ông sẽ chẳng tin đâu”. Dẫu bị mỉa mai, nhưng ông vẫn khiêm tốn kiên nhẫn kêu xin.
Cũng chính vì hy vọng rất nhiều vào Chúa, ông tin nhận Lời Chúa: “Cứ về đi, con ông sống”, ông tin vào lời Đức Giêsu nói với mình và ông đã an tâm ra về.
Nhờ lòng tin mạnh mẽ của viên sĩ quan ngoại giáo mà con ông đã được Chúa cứu khỏi chết và cả gia đình ông được ơn đức tin.
Tin chính là đặt hết niềm hy vọng vào Chúa. Trao cho Chúa mọi lắng lo, khốn khó. Con cái là món quà quý giá và là kho báu vô tận.
Đau đớn, bệnh tật con cái là nỗi đau vô cùng của cha mẹ. Nhưng chính lúc đau khổ ấy, viên sĩ quan ngoại giáo đã có được niềm tin. Gặp gỡ Chúa niềm tin của ông lại vững mạnh hơn. Niềm tin của ông đã trở nên niềm tin cứu rỗi cho cả gia đình ông.
Chúng ta cũng vậy, niềm tin của chúng ta cần được trui rèn, để sau những thử thách đau thương, đức tin chúng ta được vững mạnh hơn. Không nhất thiết phải đón nhận ơn phúc qua phép lạ như người cha trong bài tin mừng hôm nay. Điều quan trọng là trong mọi biến cố, chúng ta cần nhìn về phía bên kia điều Chúa muốn, để vững tin hơn vào tình thương và uy quyền của Chúa. Nhờ thế mà những người chung quanh và trong gia đình ta mới được củng cố lòng tin, gia tăng lòng cậy trông nơi Chúa hơn qua niềm xác tín mạnh mẽ của chính ta.
Trong cuộc sống, chúng ta xin ơn Chúa rất nhiều nhưng lại quên xin ơn rất quan trọng là ơn Đức Tin. Chắc chắn đức tin chúng ta vẫn còn yếu kém. Mùa chay này, chúng ta hãy tha thiết xin Chúa gia tăng Đức Tin cho chúng ta.

Thứ ba: Ga 5, 1-3.5-16
Thiếu bác ái yêu thương, việc thực thi lề luật chỉ còn là cái xác không hồn và là những hành động của ta trở nên mù quáng. Tin mừng hôm nay kêu gọi chúng ta ý thức trách nhiệm đối với nhau trong cuộc sống, bằng việc thực thi tình bác ái, qua việc giúp đỡ những người nghèo khổ và bất hạnh. Đó là cách thức ta thể hiện tâm tình tôn vinh Chúa.
Người bị bại liệt suốt 38 năm dài được Tin mừng hôm nay nói đến. Chắc hẳn đã-đang và sẽ gặp rất nhiều khó khăn, đau khổ trong đời sống.
Khó khăn trong việc tự chăm sóc bản thân; khó khăn trong việc đi lại; khó khăn mỗi khi tiếp xúc với những người chung quanh.
Đau khổ vì bệnh tật hành hạ; đau khổ vì bị mọi người bỏ rơi, ngay cả những người thân “không có người đem xuống hồ…”. Đau khổ vì bị mọi người khinh ghét, bị xã hội xem thường. Anh bị liệt vào thành phần “mang kiếp cầm ca”, ăn bám xã hội. Nhưng có lẽ đau khổ nhất vẫn là nỗi đau mặc cảm vì bị mọi người xem là người tội lỗi.
Nỗi khát khao lớn nhất của anh là được làm người bình thường như bao người. Được xã hội tôn trọng; được mọi người quan tâm, yêu mến; được tự do đi lại; nhất là được khẳng định giá trị và phẩm giá làm người của mình.
Hôm nay Chúa Giêsu đã trao ban cho anh món quà vô giá mà anh hằng khao khát đêm ngày, đó là chữa anh khỏi căn bệnh bại liệt. Quả là niềm vui lớn lao, niềm vui chính đáng. Ấy vậy mà niềm vui ấy lại bị sự chống đối bởi những giới chức Do Thái giáo: “Hôm nay là ngày Sabát không được phép vác chõng”. Không những họ chống đối quyền đi lại và làm người của anh, mà họ còn chống đối cả Chúa Giêsu vì đã vi phạm ngày Sabát.
Lòng ích kỷ và luật lệ vô hồn, quả là một gánh nặng, một rào cản đáng sợ, đẩy con người đến chổ vô cảm và cư xử bất nhân với nhau, khiến người khác không thể vươn lên sống xứng đáng là con người được. Họ lại không hiểu rằng: “vinh quang Thiên Chúa là con người được sống”. Bất cứ nơi nào phẩm giá con người được nhìn nhận, bất cứ một con người nào được tôn trọng, thì nơi đó Thiên Chúa được tôn vinh.
Xin cho chúng ta ý thức rằng: khi chối bỏ và khước từ thể hiện lòng nhân ái đối với người khác là chúng ta đã xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Yêu thương và thực thi bác ái đối với người khác cũng là cách chúng ta đền bù tội lỗi trong mùa chay thánh này.

Thứ tư: Ga 5, 17-30
Người kitô hữu, là người có Chúa Kitô. Nghĩa là từng suy nghĩ, lời nói và hành vi của ta phải là của Chúa như chính Chúa Giêsu là hiện thân của Chúa Cha: “Ai thấy Ta là thấy Cha”. Xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng phản ánh trung thực dung mạo của Chúa Giêsu hơn, để qua ta, mà mọi người nhận biết Đức Giêsu.
Định luật tình yêu dạy chúng ta rằng: “Yêu ai thì ở gần người ấy. Yêu ai thì nên giống người ấy. Yêu ai thì muốn ở trong người ấy, và yêu ai thì sẵn sàng sống chết vì người ấy”. Chính vì yêu mến Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã trở nên giống Cha mọi đàng.
Mối bận tâm lớn nhất của Chúa Giêsu là thể hiện thánh ý Cha Ngài: “Lạy Cha, này con xin đến để thi hành thánh ý Cha”. Chúa Giêsu khẳng định, suốt cuộc đời, Ngài làm việc như Cha Ngài: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc”. Chúa Giêsu cũng xác định cho chúng ta biết, Ngài chính là hình ảnh của Thiên Chúa, vì “Ta và Cha là một”, và “Ai thấy Ta là thấy cha”.
Như vậy, lẽ sống của Chúa Giêsu là sống như Cha. Trong mọi sự, Ngài đều lấy Cha làm mẫu mực. Và Ngài muốn chúng ta cũng phải lấy Cha làm mẫu mực cho đời sống mình: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”. Do đó muốn nên giống Chúa Cha ta chỉ cần nên giống Chúa Giêsu, bởi chính Người là dung mạo đích thực của Chúa Cha.
Giống Chúa Giêsu trong mối bận tâm duy nhất là cứu độ nhân loại. Giống Chúa Giêsu ở thái độ khiêm nhường vâng phục thánh ý Chúa Cha. Giống Chúa Giêsu bằng cách sống thành thật: “Ta là đường là sự thật và là sự sống”. Sự thật trong lời nói, trong việc làm, trong yêu thương. Như trái tim không bao giờ ngừng đập, tình thương cũng không bao giờ ngơi nghỉ. Chúa Giêsu vẫn liên lỉ làm những việc tình thương. Bất chấp là ngày Sa-bát, vì ngày Sa-bát dù nghỉ ngơi, nhưng Chúa vẫn quang phòng vũ trụ và con nguời do chính Ngài yêu thương dựng nên.
Xin Chúa cho chúng ta mỗi ngày trở nên giống Chúa Giêsu hơn, để tâm hồn, trái tim, suy nghĩ vá cách sống của chúng ta ngày càng phản ánh trung thực dung mạo của Chúa. Nhờ đó mà mọi người nhận ra chúng ta là mộn đệ thật của Chúa. Và qua cách sống của ta mà danh Chúa được cả sáng và được mọi người yêu mến ngợi khen.

25/ 03. Lễ Truyền Tin: Lc 1, 26-38
Suy niệm 1:
Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta long trọng mừng Lễ Truyền Tin. Kỷ niệm biến cố Thiên Thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria, khởi đầu cho chương trình cứu độ đầy yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người. Để thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa đã chọn gọi Đức Maria cộng tác trong việc cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế và Đức Maria đã đáp lời bằng hai tiếng “xin vâng”.
Xin cho chúng ta cũng biết noi gương Đức Maria khiêm tốn và ngoan ngoãn vâng theo thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh, để chương trình cứu độ của Chúa nơi ta được hoàn thành tốt đẹp.
Mỗi khi đọc kinh Kính mừng là chúng ta nhắc lại lời truyền tin của sứ thần Gabriel cho Đức Maria năm xưa: “Kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phước lạ hơn mọi người nữ…”; cũng đồng nghĩa với lời Thiên Thần chào Đức Maria: “Mừng vui lên, Đấng đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng bà…”.
Lời truyền tin này là một lời chào chúc trân quý, mang giá trị hết sức cao trọng mà TC dành tặng cho Đức Maria. Bởi lẽ có ơn phúc nào cao lớn cho bằng ơn phúc được Thiên Chúa ở cùng (chính Chúa là nguồn mọi ơn phúc và Đấng ban ơn phúc. Được Thiên Chúa ở cùng thì có mọi ơn phúc nơi mình rồi). Và có hạnh phúc nào lớn lao cho bằng hạnh phúc được Thiên Chúa ưu ái chọn làm Mẹ Thiên Chúa. (Được chọn làm mẹ vua đã là vinh dự và ơn phúc trọng đại rồi huống chi là Mẹ Vua Trời).
Ý thức sứ mạng cao quý ấy trong vui mừng khôn tả vượt trí hiểu, Đức Maria đã bối rối và tự hỏi lời chào ấy có ý nghĩa như thế nào? Sau khi được nghe Thiên Thần giải thích, Đức Maria biết đó là ý định Thiên Chúa, cho dù không hiểu hết nhưng Đức Maria vẫn khiêm tốn ngoan ngoãn vâng phục.
Có nhiều điều xảy ra trong đời sống vượt ngoài trí hiểu và khả năng chúng ta, chúng ta thấy không thể thực hiện được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi chuyện đều có thể. Nhìn vào công trình sáng tạo vũ trụ vạn vật ta nhận ra điều ấy. Từ không Thiên Chúa đã tạo thành vũ trụ vạn vật chỉ bằng lời phán truyền. Chỉ cần bùn đất Thiên Chúa đã tác tạo nên con người giống hình ảnh Người. Và với quyền năng TC thì bà chị họ Isave dẫu son sẻ cũng đã mang thai được 6 tháng và sẽ sinh con trai trong lúc tuổi già. Như thế thì việc Đức Maria cưu mang Đấng Cứu Thế mà vẫn đồng trinh là chuyện rất đổi bình thường với quyền năng của TC. Điều quan trọng là chúng ta sẵn sàng để cho Chúa hành động nơi chúng ta như Đức Maria không?.
Tuy Thiên Chúa quyền năng làm được mọi sự. Nhưng Thiên Chúa lại yêu thích con người cộng tác với Thiên Chúa:
Để chọn gọi dân riêng, Chúa đã mời gọi tổ phụ Abraham cộng tác, và Abraham đã vâng lời bỏ xứ sở ra đi theo ý định Thiên Chúa. Thế là một dân riêng của Chúa đã hình thành.
Để cứu dân tộc Israel ra khỏi kiếp nô lệ bên Ai cập, Thiên Chúa đã mời gọi Môsê cộng tác, dù sợ hãi về sự kém cỏi của mình, Môsê vẫn vâng phục ý muốn của Chúa. Thế là cuộc giải phóng đã hoàn tất.
Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa chọn Đức Maria, một người thiếu nữ bình thường, nghèo khó làm mẹ Đấng Cứu Thế và Mẹ đã ngoan ngoãn tin tưởng vâng nghe. Thế là chương trình cứu độ từ ngàn đời của Thiên Chúa được thực hiện.
Để cứu độ mỗi chúng ta, Chúa cũng mời gọi chúng ta hợp tác với Chúa. Như thánh Augustinô đã nói: “Chúa dựng nên con Chúa không cần con, nhưng để cứ độ con Chúa cần con cộng tác”.
Xin cho chúng ta tích cự cộng tác với ơn cứu độ của Chúa để cứu chính mình và tha nhân.

Suy niệm 2:
Trước ơn phúc lớn lao, Đức Maria đã bối rối và muốn tìm hiểu xem sự việc sẽ xảy đến như thế nào? Một khi nhận biết là ý định của Thiên Chúa, Đức Maria sẵn sàng vâng theo chứ không hề nghi ngờ, hay kém tin.
Trước những thử thách, thất bại, đau buồn trong cuộc sống, nhiều lúc đức tin chúng ta cũng bị lung lay nên sinh ra nghi ngờ và than trách Chúa, ít khi chúng ta bắt chước Đức Maria tìm hiểu xem Chúa muốn gì qua những biến cố vui buồn, thành công thất bại, hạnh phúc hay bất hạnh ấy trong cuộc sống.
Ta hãy tin rằng mỗi biến cố đều có sứ điệp rất quan trọng Chúa muốn gởi đến ta và mong ta đọc ra thánh ý của Chúa để rồi chấn chỉnh lại đời sống của mình. Chúa luôn đi ngang qua cuộc đời chúng ta, nhưng chúng ta lại không gặp Ngài. Chúa luôn đồng hành với ta, nhưng ta lại không nhận ra Ngài. Chúa hằng gõ cửa nhà chúng ta, nhưng ta lại không nhận ra tiếng Ngài.
Xin cho chúng ta biết để tâm suy niệm các biến cố trong đời mà nhạy bén nhận ra lòng thuơng xót của Thiên Chúa theo tinh thần của Mẹ Maria. Amen
(Viết theo ý tưởng của cha Carôlô Hồ Bặc Xái, tổng đại diện Gp Cần Thơ)

Thứ năm: Ga 5, 31-47
Tin hay không tin là chấp nhận hay từ chối. Dù những người Do Thái, nhất là nhóm Biệt Phái đã chứng kiến biết bao điều lạ Chúa Giêsu đã làm, nhưng họ vẫn không tin nhận Chúa Giêsu đến từ Thiên Chúa. Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu kiên nhẫn đưa ra những bằng chứng xác thực để minh chứng về Ngài. Nhưng vì thiếu lòng yêu mến Chúa và cứng lòng, họ vẫn không tin.
Xin cho chúng ta biết nhận ra lời dạy của Chúa qua các dấu chỉ của thời đại, nhất là qua lời Chúa dạy nơi Thánh Kinh mà khiêm tốn thi hành với niềm tin tưởng vào ơn cứu độ Chúa ban.
Để ứng cử và thi hành nhiệm vụ HĐND hay Đại Biểu Quốc Hội, người ta cần được sự giới thiệu của địa phương và được cử tri tín nhiệm cao.
Để làm Linh Mục và thi hành sứ vụ tông đồ, cần có người giới thiệu, được đấng bản quyền chuẩn nhận, cho phép.
Còn Chúa Giêsu trái lại, khi thi hành sứ mạng Chúa Cha giao phó là cứu độ nhân loại, thì chẳng có sự chuẩn nhận nào của Giáo quyền cũng như Chính quyền. Nên không lạ gì Ngài luôn bị khước từ và chống đối. Nếu ta ở vào trường hợp của họ lúc ấy, chúng ta cũng khó lòng chấp nhận Đấng Cứu Thế là ông Giêsu đến từ Nazarét. Một Đấng Cứu thế xem ra không phù hợp với quan niệm, suy nghĩ của con người.
Thân thế và sứ mạng của Chúa Giêsu xem ra không hợp pháp theo quan niệm con người, nhưng đó lại phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Vì Đức Giêsu là Thiên Chúa nên Ngài vượt lên trên và không phụ thuộc vào những ràn buộc của thế quyền. Nhưng để cho thế quyền chấp nhận, Chúa Giêsu sẵn sàng đưa ra những bằng chứng xác thực để minh chứng về thân thế và sứ mạng của Ngài qua bài tin mừng hôm nay.
Thứ nhất: Bằng chứng của Gioan Tẩy Giả: “Đấng đến sau tôi, nhưng quyền thế hơn tôi. Tôi rửa anh em bằng nước, nhưng Đấng ấy sẽ rửa anh em trong Thánh Thần”.
Thứ hai: Chính lời Tôi nói và những việc Tôi làm: Có ai làm cho người mù mới sinh được khỏi như Chúa Giêsu. Có ai làm cho một người phong cùi được sạch. Có ai làm cho một đứa bé đã chết được sống lại. Có ai làm cho đứa con trai của bà goá thành Naim bị cột chặt trong vải liệm và đang khiêng đem chôn được hồi sinh. Có ai làm cho ông Lazarô chết 4 ngày được chỗi dậy. Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền làm những điều ấy.
Thứ ba: Chúa Cha làm chứng về Ngài: “Này là Con Chí Ái của Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”.
Thứ tư: Bằng chứng của Thánh Kinh và Môsê đã loan báo về Ngài chính là Đấng Messia.
Tuy Chúa đã đưa ra những bằng chứng xác thực như vậy, nhưng người Do Thái không nhìn nhận Ngài.
Lý do: Vì họ không có lòng yêu mến Thiên Chúa và vì tính ích kỉ, hám danh. Vì thế họ đã không còn khả năng mở lòng đón nhận Ngài.
Dù họ có tin hay không tin, thì sự thật Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm người. với tất cả nhân tính và Thiên tính nơi Ngài. Suốt hơn hai ngàn năm qua, không ai có thể để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử như Chúa Giêsu.
Không nhà cách mạng tài ba nào có thể biến đổi thế giới được như Ngài. Không có vị tôn sư nào có` một dòng dõi môn đệ đông đảo như Ngài. Không có tên ai được nhắc một cách cực trong như tên Ngài. Không có một ân nhân nào được yêu mến say mê như Ngài. Thế mới rõ Đấng vĩ đại ấy chính là một người, nhưng là người Chúa, vì Ngài là Con Thiên Chúa.
Xin cho chúng con và hết mọi người biết khiêm tốn tin nhận Đức Kitô là Chúa lòng mình và nổ lực hết lòng hết sức sống theo lời Người chỉ dạy với tình yêu mến. Amen.

Thứ sáu: Ga 7, 1-2.10.25-30
Tự mãn về sự hiểu biết của mình, dân Do Thái nói chung, cách riêng những người Biệt Phái đã trở nên mù quáng, không còn khả năng nhận ra Đức Giêsu chính là Đấng từ Thiên Chúa mà đến. Do đó họ đã không tin nhận Ngài và ra sức chống đối quyết liệt. Dù ngày nay chúng ta dễ dàng tin Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, nhưng nhiều lúc đức tin chúng ta cũng bị chao đảo.
Xin Chúa ban thêm lòng tin nơi chúng ta. Và cho nhiều người chưa tin Chúa cũng đón nhận ơn đức tin như chúng ta.
Càng ngày cuộc tranh luận về nguồn gốc và những phép lạ của Chúa Giêsu với người Do Thái, cách riêng với nhóm Biệt Phái càng trở nên gây gắt. Khiến họ đưa đến quyết định bắt và giết Ngài.
Bằng lời giảng dạy khôn ngoan đầy thuyết phục, dân chúng rất ngạc nhiên về Người. Những lời lẽ về đạo lý khôn ngoan ấy phải đến từ Thiên Chúa.
Bằng những bằng chứng cụ thể về ông Môsê đã truyền phải làm phép cắt bì và họ vẫn chịu cắt bì trong ngày Sabát. Vậy có người đã chịu phép cắt bì trong ngày Sabát để khỏi phạm luật Môsê, thì tại sao Chúa Giêsu cứu chữa người bệnh tật trong ngày Sabát lại phạm luật.
Chữa một phần cơ thể bị bất thường là việc bác ái đáng làm trong ngày Sabát. Tại sao với tình yêu thương cứu chữa toàn thân thể cho người bị bệnh tật trong ngày Sabát lại không được làm? Và Chúa Giêsu khẳng định: sở dĩ họ không tin nhận Ngài là do họ chỉ xét đoán theo bề ngoài.
Họ cho rằng họ biết quá rõ về lý lịch Đức Giêsu. Biết nơi sinh, chổ ở và còn biết cả cha mẹ, bà con họ hàng của Người nữa. Một người xuất thân từ một nơi chốn, một hoàn cảnh và một gia đình nghèo khó, tầm thường, nhỏ bé thì làm sao là Đấng Cứu Thế được.
Còn những người có chức quyền thì ghen tức vì thấy Ngài được dân chúng ái mộ. Nhất là họ không thể chịu nổi những lời tuyên bố về nguồn gốc xuất thân từ Thiên Chúa của Ngài. Nên đã quyết tâm trừ khử Ngài.
Thế đã rõ: Vì kiêu căng-tự mãn, không muốn đón nhận lời chân lý Chúa dạy nên đã có cái nhìn lầm lạc về Chúa. Và vì tự ái-tự phụ, không muốn người khác hơn mình, họ đã ghen ghét và tìm cách giết hại Chúa.
Xin Chúa giúp chúng con hết lòng tin kính Chúa là Đấng Cứu Độ Chúa Cha gởi đến cho chúng con. Và cho chúng con biết khiêm tốn ăn năn sám hối quay về với Chúa, để đón nhận tình thương ơn chữa lành những bệnh tật tâm hồn trong mùa chay thánh này.

Thứ bảy: Ga 7, 40-53
Sống theo cảm tính và nhận định chủ quan, khiến cho con người có cái nhìn sai lạc, dễ dàng đưa đến cách hành xử tàn bạo, độc ác. Đó là điều mà Tin mừng hôn nay muốn đề cập đến.
Trước những phép lạ và lời giảng dạy của Chúa Giêsu, người Do Thái có những phản ứng khác nhau: Người bình dân, đơn sơ thì tin Ngài là một ngôn sứ cao cả được Môsê báo trước. Một số người hiểu biết thì cho rằng: Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế như lời ngôn sứ Isaia đã loan báo. Còn những người thuộc giới lãnh đạo tôn giáo thì phủ nhận hoàn toàn, cho rằng: Ngài không phải là ngôn sứ, cũng không phải là Đấng Cứu Thế.
Có nhiều lý do:
1. Không hội đủ những điều kiện về địa dư và dòng tộc.
2. Sứ điệp lời Chúa có nguy cơ làm cho dân chúng sao lãng lý tưởng đấu tranh giải phóng dân tộc.
3. Lời giảng dạy và phép lạ Chúa Giêsu làm lu mờ hình ảnh và uy thế của họ. Vì thế họ quyết định nhổ “cái gai Giêsu” ra khỏi mắt họ.
Nhưng đối với những người am tường luật lệ và yêu mến sự thật thì có cái nhìn trong sáng và cách hành xử công minh. Ông Nicôđêmô là một điển hình. Ông là thành viên của hội đồng lập pháp, là tiến sĩ luật có thế giá và là người can đảm đứng ra biện hộ cho Chúa Giêsu, ông nói: “muốn bắt người ta, tức là Chúa Giêsu, thì trước hết phải đối diện thẩm vấn, phải có nhân chứng và xét xử theo luật lệ”. Nhưng lời đề nghị của ông chẳng ăn nhằm gì với số đông chỉ biết xử dụng luật rừng.
Thời nay cũng vậy. Chân lý thuộc về số đông và vận mạng con người nằm trong tay những kẻ có quyền. Công lý thường bị bẻ cong và hậu quả là những người sống theo sự thật, chân lý và tình thương bị xem là người khờ dại. Có nguy cơ đẩy toàn bộ thế hệ đi vào hướng nhìn lệch lạc, nhầm lẫn. Không còn phân biệt đâu là thật, đâu là giả; đâu là chính, đâu là phụ; đâu là điều ưu tiên phải thực hiện và đâu là điều cần bỏ qua nếu cần.
Xin cho chúng ta biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Biết làm theo ý Chúa hơn ý mình. Biết ưu tiên làm việc của Chúa, cho Chúa và vì Chúa. Nhất là biết chọn Chúa làm lẽ sống và là con đường để ta dấn bước. Xin đừng để ta sống theo cảm tính nhẹ dạ, cả tin vào những luồng tư tưởng, thông tin bên ngoài áp đặt, nhưng biết khôn ngoan lấy Lời Chúa và Giáo Huấn Giáo làm lẽ sống. Hy vọng chúng ta không phải đi vào vết xe đổ của người Do Thái khi xưa.

Thứ Sáu, 13 tháng 3, 2020

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN III MC

CHÚA NHẬT III MÙA CHAY, NĂM A
Ga 4, 5-42
SỨ ĐIỆP CHÚA GỬI TA QUA QUÝ CÔ
Kể từ sau Tết nguyên đán Canh Tý 2020 đến nay, cả thế giới nóng lên bởi đại dịch mang tên là Covid-19 (nhiều người gọi vui là Cô-Vy, 19 tuổi) hoành hành. Báo chí cho rằng nguồn gốc Covid-19 này phát xuất từ Vũ Hán, Trung Quốc. Nhưng vì sợ làm xấu đi hình ảnh của đất nước mình nên mới đây giới chức Trung Quốc có phản ứng mạnh mẽ về việc lấy tên đại dịch là “Virus Vũ Hán” gây ra.
Đại dịch viêm phổi cấp do Virus Corona chủng mới gây ra hiện nay được thế giới đồng ý gọi tên là Covid-19. Đây là loại Virus rất bé nhỏ, mắt thường không thể thấy được, rất nguy hiểm vì gây chết người. Tuy nhiên nó lại ủ bệnh khá lâu nên rất khó phát hiện trong thời gian đầu mắc phải, vì thế ai nấy đều lo sợ và tìm mọi cách đề phòng, xa tránh.
Cho dẫu cả thế giới đang cố gắng tìm ra mọi cách để ngăn chặn và tiêu diệt, nhưng Covid-19 lại không hề có dấu hiệu suy giảm và dừng lại, trái lại mỗi ngày nó lại biến thể khác hơn và trở nên nguy hiểm hơn; sức lan tỏa của nó cực kỳ nhanh và khôn lường, không gì có thể ngăn chặn được bước tiến thần tốc của nó. 
Theo tin tức của TG và VN, tính đến hôm nay, ngày 13/03/2020 thì đại dịch Covid-19 đã lan rộng ra 111 quốc gia và vùng lãnh thổ; đã gây bệnh cho 134. 300 người, và đã cướp đi sinh mạng của 5.043 người. Riêng tại Việt Nam, Bộ Y Tế cho biết có 47 ca bị nhiễm, trong đó có 16 người đã được chữa khỏi và xuất viện.
Như vậy Covid-19 có khả năng thâm nhập bất cứ môi trường nào và không trừ bất cứ ai nếu tiếp xúc với nó. Chỉ duy một lần gặp gỡ Covid-19 thì nguy cơ lây nhiễm rất cao, nên không thể xem thường Covid-19 được.
Tin mừng hôm nay cũng đã nhắc đến một Cô, nhưng không phải là Cô-Vy 19; cũng không phải là Cô N-17, nhân viên Khách Sạn, 29 tuổi, ở phố Trúc Bạch, quận Ba Đình, Hà Nội; càng không phải là Cô T-34, nữ doanh nhân vật liệu xây dựng, 51 tuổi, ngụ tại thành phố Phan Thiết, Bình Thuận mà là một Cô khác, quê quán cô này cách xa Việt Nam và cũng không sống cùng thời với chúng ta. Đó là Cô phụ nữ xứ Sa-ma-ri mà Tin mừng hôm nay nói đến.
Cô này đã nổi danh cách đây hơn 2000 năm. Tuy vậy vẫn không ai biết tên cô ta là gì và bao nhiêu tuổi. Lý do đơn giản là vì Tin mừng tế nhị không nói đến. Ta chỉ biết cô này sống ở làng quê Xy-Kha, thuộc vùng đất Sa-ma-ri, thuộc miền trung đất nước Do Thái vào thời Chúa Giêsu.
Cô nổi danh không bởi nhan sắc nghiêng thành đổ nước hay sự giàu sang tài giỏi tột cùng; lại càng không phải do cô đang bị lây nhiễm bởi Virus Covid-17, mà cô được biết đến là nhờ vào một lần gặp gỡ tình cờ với một vị thầy chí thánh mang tên là Giêsu, bên bờ giếng Gia-cóp vào một buổi trưa hè nắng nóng. Nhờ cuộc gặp gỡ này mà nhiều thông điệp được Chúa gửi đến cho chúng ta:
- Thông điệp về một TC giàu lòng thương xót nơi Đức Giêsu. Ngài luôn khao khát gặp gỡ con người, cho dù họ là người đang mang trong mình Virus của tội lỗi, muốn chôn mình vào môi trường cách ly với Chúa và mọi người, như người phụ nữ bên bờ giếng Gia-cóp hôm nay.
- Với sự hiện diện nơi vùng đất Sa-ma-ri và khiêm tốn xin nước uống của người phụ nữ bên bờ giếng Gia-cóp, Chúa Giêsu như muốn mời gọi mọi người hãy can đảm phá bỏ những bức tường ngăn cách để xây dựng chiếc cầu hiệp thông của sự hiểu biết, cảm thông và chia sẻ… Đây cũng là thông điệp mà Đức Thánh Cha Phanxicô muốn gửi đến các quốc gia trong thời đại hôm nay. (Giáo huấn của ĐGH phanxicô tại Vatican, trong buổi yết kiến hôm 09/02/2017). Thời đại mà chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai…xảy ra nhiều nơi. Tình trạng di dân bùng nổ chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Thì sự mở lòng để đón nhận và giúp đỡ những người di dân là nhu cầu cấp thiết và mang tính nhân đạo cao quý hơn bao giờ hết.
- Qua việc ngồi lại bên bờ giếng Gia-cóp để đối thoại với người phụ nữ đang mang trong người Virus tội lỗi, Chúa Giêsu muốn nói rằng, giá trị và phẩm của con người cần được coi trọng cho dù họ là tội nhân hay đang sống trong tình trạng bệnh tật, già yếu… gây bất lợi cho xã hội, thì cũng đừng bao giờ xa lánh và bỏ rơi họ trong cô đơn tuyệt vọng.
- Với cách thức tiếp cận tiệm tiến, đi từ nhu cầu thể lý bên ngoài như xin nước uống với người phụ nữ Sa-ma-ri, Chúa Giêsu đã tế nhị khơi lên nỗi khao khát sâu thẳm bên trong tâm hồn của chị một nhu cầu khác quan trọng hơn đó là nhận biết chân lý và lẽ sống đích thực. Qua đó, Chúa muốn nhắc nhở mọi người chúng ta đừng quá mãi mê chạy theo những đam mê dục vọng của đòi hỏi xác thịt bằng mọi giá mà quên đi nhu cầu sâu thẳm nơi tâm hồn, nơi đó Chúa đang âm thầm ngồi chờ đợi chúng ta. Chỉ khi nào gặp được Chúa, ta thỏa mãn được mọi khát vọng. Như thánh Augustinô đã từng thốt lên sau những ngày dài tìm kiếm vinh hoa phú quý và lạc thú ở đời: “Lạy Chúa, Ngài đã dựng nên chúng con để hướng về Ngài, và tâm hồn chúng con không nghỉ ngơi cho đến khi nghỉ yên trong Ngài”.
-  Với việc khai mở cho người phụ nữ hiểu biết về việc tôn thờ TC bây giờ không còn bị giới hạn trên núi này hay tại Giêrusalem nữa, mà “đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế.” Chúa muốn chúng ta có cái nhìn tích cực và tôn trọng hơn về quyền tự do tín ngưỡng và niềm tin tôn giáo; cũng như đừng quá chú trọng đến việc thờ phượng TC bằng hình thức bên ngoài mà quên đi tấm lòng bên trong như lời mời gọi của tiên tri Gio-en: “hãy xé lòng chứ đừng xé áo” (Ge 2, 13).
Nếu sứ điệp quan trọng của mùa chay là sám hối-trở về, thì chúng ta cần trở phải về với lòng mình nơi có Thiên Chúa hiện diện để nhận ra đời sống của mình còn những rào cản nào, đang ngăn cách ta với Chúa và tha nhân. Để từ đó xin Chúa giúp ta loại bỏ đi mọi bức tường ngăn cách mà đến với tha nhân và tìm về bên Chúa để ta đắm mình trong nguồn nước ân sủng do Chúa tặng ban, với mong muốn đổi mới cái nhìn, quan niệm và đời sống cho phù hợp với thánh ý của Chúa. Có như vậy đời ta mới cảm nhận được hạnh phúc đích thực mà tích loan truyền niềm vui tin mừng cứu độ của Chúa đến với mọi người như người phụ nữ Sa-ma-ri hôm nay. Amen

* Đọc thêm:
Khi tìm hiểu về lịch sử đất nước Do Thái, ta biết được vào năm 922 TCN, Giêrôbôam, người không thuộc hoàng tộc Đavid, đã lãnh đạo cuộc nổi loạn cùng với mười bộ tộc phương Bắc và đã lập nên vương quốc Israel lấy thủ đô là Samaria và thờ Chúa ở núi Garizim . Còn lại hai bộ tộc là Giuđa và Bengiamin trung thành với hoàng tộc Đavid lập thành vương quốc Giuđa ở phương Nam, nơi có ngôi đền thờ Giêrusalem, và lấy thủ đô tên là Giêrusalem. Từ đó có sự mâu thuẩn về tôn giáo.
Năm 720 TCN, vương quốc Israel phương Bắc bị xâm lăng bởi Đế quốc Assyria. Tất cả mười bộ tộc của vương quốc Israel phương bắc bị giết, và bị bắt đi lưu đày. Nhưng cũng có một số người ở lại. Quân Assyria đến ở đất Samari, lấy vợ người Do Thái rồi sinh con đẻ cái. Từ đó người Do Thái thuần chủng ở Giuđê không còn xem những người Do Thái ở Samari là đồng bào của mình nữa. Trong mắt họ những người ở phương Bắc là dân ngoại. Đôi bên nuôi mối hiềm khích lẫn nhau mãi đến thời Đức Giêsu vẫn còn. Nên họ không qua lại nhau vì sự khác biệt về vùng miền và sắc tộc.
Vương quốc Giuda phương Nam thì tồn tại lâu hơn trong sự lệ thuộc vào người Assyria rồi cuối cùng cũng bị các đạo quân xâm lăng Babylon hủy diệt vào năm 586 TCN. Thành phố Giêrusalem bị tàn phá, Ngôi Đền Giêrusalem bị san thành bình địa, dân nước Giuđa một số bị giết, một phần bị lưu đầy sang Babylon. Sự kiện này đánh dấu lần ly tán thứ nhất của dân tộc Do Thái cổ và cũng đánh dấu sự kết thúc thời kỳ được sách vở gọi là “Ngôi Đền thứ Nhất” (825-586 TCN).

Thứ hai: Lc 4, 24-30.
Chúa Giêsu đến trần gian là để cứu độ hết mọi người, vì ơn cứu độ là ơn phổ quát. Vì thế, không phải cứ là đồng hương hay đạo dòng là được Chúa ưu ái cứu độ. Trái lại, để được Chúa yêu thương cứu độ, đòi hỏi con người phải tin và sống niềm tin của mình. Xin cho chúng ta biết hết lòng tin yêu Chúa và nỗ lực làm theo lời Chúa dạy để xứng đáng đón nhận ơn cứu độ Chúa ban.
Quen quá, hóa nhàm. Gần chùa gọi bụt bằng anh. Đó thái độ của những người đồng hương với Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay.
Đối với những người Do Thái nói chung và dân làng Nazaret nói riêng, Đấng cứu độ phải là người siêu quần bạt chúng, thuộc dòng dõi Đa-vít, sinh ở một nơi quyền quý cao sang và phải là Đấng oai phong lẫn liệt, chứ không phải là một Đấng tầm thường, sinh ra trong gia đình nghèo nàn chẳng có danh phận gì như Đức Giêsu.
Từ thành kiến sai lạc, đưa đến thái độ hoài nghi rồi dẫn đến thử thách Chúa. Họ thử thách bằng cách đòi hỏi Chúa Giêsu làm phép lạ như đã làm ở những nơi khác, nhằm minh chứng uy quyền của Người, họ mới tin nhận. Trước thái độ hoài nghi, (bụt nhà không thiêng) của những người đồng hương Nazaret, Chúa Giêsu không thể làm gì ngoài việc kể lại cho họ nghe hai câu chuyện thời xưa.
- Vào lúc trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội nhưng tiên tri Êlia không giúp người nào trong bọn họ cả, mà lại giúp bà góa ngoại giáo ở Xa-rép-ta. 
- Và trong lúc nhiều người bị phong cùi, nhưng không ai được tiên tri Ê-li-sê chữa lành, chỉ ngoại trừ ông Na-a-man, người ngoại xứ Xy-ri-a. 
Nghe hai câu chuyện đó dân làng Nazaret hiểu Chúa Giêsu ám chỉ họ, nên họ bực tức, định đẩy Người lên núi rồi xô Người xuống vực sâu, nhưng Người bỏ họ mà đi. 
Vì thành kiến nên họ đóng khung Thiên Chúa theo quan niệm sẵn có trong đầu họ. Chính quan niệm sai lầm đưa đến hậu quả nguy hại là không còn khả năng đón nhận ơn Chúa. Thành kiến làm cho chúng ta ra mù quáng, không còn nhận định và phê phán khách quan đúng đắn được. Thành kiến cũng làm cho chúng ta không thể đối thoại cởi mở với nhau.
Xin cho chúng ta biết loại bỏ những thành kiến của mình về người khác, để luôn có cái nhìn ngay thẳng và trong sáng, một nhận xét chân thành và đời sống cởi mở. Loại bỏ được thành kiến, ta sẽ nhận ra tình thương cứu độ của Chúa dành cho mọi người không riêng cho ai cả. Chỉ cần mở lòng chấp nhận, tin tưởng Người thì có thể đón nhận được ơn cứu độ.
Xin Chúa cho chúng ta đừng bao giờ ỷ lại mình là người có đạo mà lơ là sống niềm tin. Trái lại xin cho chúng ta luôn giữ vững niềm tin, sống chết cho niềm tin bằng cách tích cực thi hành Lời Chúa dạy, nhờ thế ta xứng đáng đón nhận được tình yêu và ơn cứu độ Chúa thương ban.

Thứ ba: Mt 18, 21-35.
“Lấy oán báo oán, oán chồng chất. Ngược lại lấy đức báo oán, oán tiêu tan”. Ai trong chúng ta lại không lầm lỗi thiếu sót. Ai trong chúng ta lại không hơn một lần làm xúc phạm đến tha nhân. Chúng ta hãy lấy tình thương hóa giải hận thù, lấy lòng bao dung mà tha thứ lỗi lầm cho nhau, như chính Chúa bao dung và hằng tha thứ cho ta. Đó chính là sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta.
Khi muốn nói một điều khó nói, người ta dùng câu chuyện. Khi muốn diễn tả một điều gì đó khó diễn tả, người ta lại dùng câu chuyện. Khi diễn đạt một chân lý sâu sắc mà không ngôn từ nào nào lột tả hết, người ta hay dùng đến câu chuyện. Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dùng câu chuyện dụ ngôn để trình bày về tình thương tha thứ của Chúa và mời gọi con người bao dung tha thứ luôn mãi cho nhau. Đó là một người mắc nợ vua mười ngàn nén bạc, số nợ rất lớn y không có gì để trả. Ông van xin và được nhà vua tha hế cho anh. Vừa được tha, khi ra về anh ta lại gặp người bạn mắc nợ anh ta không bao nhiêu chỉ một trăm quan tiền. Nhưng ông không tha, mặc cho người ấy hết lời van xin. Ông lại bắt tù bạn mình. Câu chuyện tới tai nhà vua, vua thịnh nộ bắt giam anh ta cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng. Nhà vua chính là Thiên Chúa. Dù con người xúc phạm, thiếu nợ Thiên Chúa rất nhiều và thường xuyên, nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ. Còn chúng ta dù tha nhân đôi khi vô tình hay hữu ý xúc phạm nhỏ đến ta, ta lại khắc khe không tha thứ. 
Con người là con vật có xã hội tính. Không ai là một hòn đảo. Chúng ta sống là sống với, sống cùng, sống cho và sống vì người khác. Cuộc sống chung trong xã hội giúp ta thăng tiến và phát triển nhiều phương diện. Tuy nhiên đời sống chung cũng có khi gây nên không ít phiền hà, làm khổ cho nhau. Bởi bá nhân bá tính. Nhưng trong thẳm sâu lòng mỗi người vẫn là lòng bao dung tha thứ. Sự tha thứ không chỉ một lần, ba lần nhưng Chúa dạy chúng ta phải tha thứ luôn mãi, tha thứ không ngừng. Tha thứ cho nhau không là chuyện dễ, rất khó khi phải tha thứ hoài. Như để thực hiện được sự tha thứ cho nhau theo như ý muốn của Chúa ta cần ý thức: Trước mặt Chúa ta là con người đầy tội lỗi thường xuyên xúc phạm đến Chúa, nhưng được Chúa thứ tha luôn. Không ai hoàn hảo, chính ta cũng có nhiều sai sót, lầm lỗi với anh em. Nên ta cần thông cảm tha thứ lỗi lầm cho anh em. Đừng bao giờ nhìn vào sức nặng của xúc phạm, nhưng hãy nhìn vào tình thương của Thiên Chúa và nhìn vào cuốn sổ ghi lỗi của mình. Thù hận, bất hòa chỉ gây đau khổ và bất an cho chính ta mà thôi. Tha thứ hoà giải chúng ta sẽ cảm nhận niềm vui và hạnh phúc.
Trong mùa chay chúng ta hãy duyệt xét lại các mối tương quan của mình với tha nhân. Nếu thấy có điều bất hòa, chúng ta hãy hòa giải và tha thứ cho nhau để xứng đáng được Chúa thương tha tội cho ta.

Thứ tư: Mt 5, 17-19.
Chúa Giêsu đến trần gian không phải để phá hủy lề luật và lời các tiên tri, nhưng là để kiện toàn. Xin cho chúng ta hết lòng tuân giữ luật Chúa và Giáo huấn Giáo hội dạy bảo; đồng thời cũng giúp mọi người yêu mến và tuân giữ.
Những cuộc họp của quốc hội Việt Nam những năm gần đây được đánh giá là có nhiều tiến bộ và dân chủ. Nhiều dự luật mới được đệ trình để quốc hội và nhân dân bàn thảo, nhiều luật củ được đặt lại để chỉnh sửa cho hoàn chỉnh hơn theo hoàn cảnh xã hội, cũng như theo tinh thần chung của quốc tế. Sở dĩ có những sửa đổi và đệ trình những luật mới như thế cũng đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích cho con người (có thể cho một nhóm người nào đó hay cho tất cả mọi người). Nhưng càng phục vụ lợi ích cho nhiều người bao nhiêu thì giá trị của luật ấy càng có giá trị cao bấy nhiêu. 
Bất cứ xã hội nào, đất nước nào, tập thể nào, gia đình nào dù lớn hay nhỏ đều có những quy định và luật lệ của nó. Chính những quy định luật lệ sẽ đem lại tính ổn định xã hội và bảo vệ quyền lợi cho con người.
Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu khẳng định: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môisê hoặc các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn…”. Như thế đã có sai lạc nào đó về quan niệm, cách thế giữ luật của những người Biệt Phái nên Chúa Giêsu mới kiện toàn. Cần xác định lại những yếu tố cần thiết của luật:
Mục đích của luật: là nhằm đem lại lợi ích cho con người. Nếu luật nào không mang đến lợi ích cho con người thì xem như không cần thiết nữa. Ăn chay, cầu nguyện, bố thí là những phương tiện nhằm giúp con người nâng cao tâm hồn, liên kết mật thiết với Chúa và sống tình thân với nhau. Nếu luật ăn chay, cầu nguyện và bố thí không mang lại những giá trị trên, trái lại chỉ nhằm để lé mắt thiên hạ thì tốt nhất không nên giữ làm gì. “Ngày Sabbát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabbát” (Mc 2,27).
Ưu tiên của luật: Thiên luật là luật do Thiên Chúa ban thì trên hết và mọi người đều phải tuân giữ; còn nhân luật là luật do con người làm ra thì có tính tương đối vì bị điều kiện hoá bởi các hoàn cảnh thời gian, không gian, nền văn hoá… Luật của con người thì có thể thay đổi và cần được thay đổi, nhưng luật của Thiên Chúa thì bất biến. Chính vì thế cần phải ưu tiên tuân giữ luật của Thiên Chúa, khi nhân luật và thiên luật đòi buộc cùng lúc. Khi người ta nói đến chuyện Môsê cho phép ly dị thì Chúa Giêsu đã khẳng định sự bất cập của nhân luật và Người tái khẳng định sự bất biến và tính bó buộc của thiên luật về hôn nhân bất khả phân ly (x.Mt 19,1-9; Mc 10,1-12).
Tinh thần giữ luật: Rất nhiều lần Chúa Giêsu phê phán thái độ giữ luật bằng hình thức bên ngoài mà thiếu sự chân thành bên trong tâm hồn. Người đã dùng hình ảnh “mả tô vôi”, bên ngoài thì đẹp đẽ nhưng bên trong thì tanh hôi, để ví nhiều người giữ luật theo kiểu này. Người cũng đã dùng lời sứ ngôn Isaia để nhắc nhớ họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (x. Mt 15,7-8). Loài người chúng ta trong thân phận hữu hình thì các hành vi bên ngoài luôn có tính cần thiết như tất yếu. Tuy nhiên chính cái tấm lòng, cái ý hướng bên trong mới quyết định giá trị tốt xấu các hành vi bên ngoài.
Yêu thương là trên hết: Chúa Giêsu đã nhiều lần minh định về giới răn: “Kính mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn, đồng thời yêu thương tha nhân như chính mình” (x. Mt 22,34-40; Mc 12,28-34; Lc 10,25-28). Trong tình yêu, khi bỏ qua, không làm một điều tích cực trong khả năng và hoàn cảnh thì đã làm một điều tiêu cực mà thậm chí là xấu xa. Nhiều người phải trầm luân đời đời vì khi còn sống đã không làm những việc lành, việc tốt, việc phải làm cho một trong những kẻ bé mọn (x.Mt 25,31-46).
Mùa chay là dịp tốt để ta duyệt xét lại đời sống đạo qua cách thức giữ luật. Xin Chúa cho chúng ta không giữ luật bằng những hình thức bên ngoài, mà còn phải trung thành giữ luật bằng tấm lòng yêu mến.

Suy niệm 2: Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho các môn đệ cũng như chúng ta biết thêm về lý do quan trọng mà Ngài đến trần gian này là:“không phải hủy bỏ lề luật hay các tiên tri, nhưng là để kiện toàn”.
Do tác động thay đổi của xã hội qua dòng thời gian, nhất là vào thời Chúa Giêsu, các nhà lãnh đạo tôn giáo đã có sự giải thích sai lệch về lề luật Chúa nên cần phải kiện toàn. 
Luật của Chúa được ban cho nhân loại xuyên qua dân tộc Do Thái, bởi trung gian là ông Môsê. Luật đó được gìn giữ và bảo tồn qua thời các ngôn sứ. Nhưng đến thời Chúa Giêsu, luật Chúa được trao quyền cho các kinh sư giải thích và hướng dẫn cho dân chúng. Thay vì giúp người dân hiểu biết rõ về luật Chúa cũng như tinh thần đúng đắn phải có khi tuân giữ luật Chúa, thì trái lại các ông lại thêm thắc vào đó quá nhiều chi tiết từ 10 điều lên đến 613 điều khoản, khiến cho dân chúng rối ren không còn phân biệt đâu là điều chính đâu là điều phụ nữa.
Hơn nữa các ông lại quá chú trọng đến hình thức bên ngoài làm cho người dân có cảm giác luật Chúa quá nặng nề bởi những ràng buộc vượt quá khả năng của họ. Nên khi rao giảng, Chúa Giêsu đã nhiều lần đả kích lối sống vị luật của người Pharisêu; cũng như cảnh báo về mối nguy hiểm của những gánh nặng mà dân chúng phải chịu do các kinh sư chất chồng lên vai họ. Có lẽ vì đó mà nhiều người tưởng rằng Chúa Giêsu muốn phá bỏ lề luật và các tiên tri.
Để chỉnh sửa lại ý nghĩ sai lệch ấy, Chúa Giêsu đã khẳng định với các môn đệ về lý do mà Ngài đến thế gian này đó là nhằm để kiện toàn lề luật. Vậy Chúa muốn kiện toàn điều gì?
- Trước hết Chúa Giêsu kiện toàn về nội dung văn bản của luật: Phải giữ nguyên trạng giới luật của Chúa, dù một chấm, một phẩy cũng không được thay đổi hay bỏ sót.
- Thứ đến Chúa kiện toàn về hình thức thi hành luật: Nếu các kinh sư và người Pharisêu quá chú trọng bởi hình thức bên ngoài thì Chúa Giêsu nhấn mạnh đến trọng tâm giữ luật bên trong. Việc giữ luật chỉ có giá trị đích thực khi nó xuất phát từ trái tim và tấm lòng.
- Cuối cùng Chúa Giêsu kiện toàn về tâm tình phải có khi giữ luật:  Việc giữ luật không phải vì lo sợ. Sợ không giữ thì bị Chúa phạt; lo vì nếu không thi hành luật sẽ bị người đời khinh thường và lên án… nếu mang nặng tâm lý ấy thì quả thật luật trở nên gánh nặng đáng sợ cho đời sống con người.
Điều mà Chúa Giêsu mong muốn là mọi người hãy tuân giữ luật với tấm lòng yêu mến. Chính lòng mến Chúa chân thành sẽ giúp ta cảm thấy vui tươi, thoải mái khi thi hành luật Chúa; và nhờ động lực tình thúc đẩy mà chúng ta không còn sợ hãi do những ràn buộc của luật lệ nữa.
Mong cho mỗi người trong chúng ta hiểu được rằng: vì không muốn nhân loại phải đi lạc đường nên Chúa mới ban truyền lề luật để hướng dẫn. 
Xin Chúa cho chúng ta cảm nhận được tình thương lớn lao ấy của Chúa mà trung thành tuân giữ luật Chúa và GH chỉ dạy với tất cả tấm lòng trân quý và yêu mến của mình.

Đọc thêm:
Tin mừng hôm nay, thánh Matthêu cho biết Chúa Giêsu đã kiện toàn khá nhiều luật lệ như: luật giết người, luật hôn nhân, luật làm chứng…
1. Kiện toàn luật giết người:
Giết người thì ở đâu và thời nào cũng là tội nặng, vì Chúa mới là chủ sự sống. Đó là công lý. Lời Chúa dạy bảo trong bài Tin Mừng hôm nay còn vượt trên công lý nữa. Công lý hay luật pháp chỉ buộc tội khi một người phạm tội bằng hành vi cụ thể. Còn Chúa thì đi xa hơn, Chúa ngăn chặng ngay từ nguyên nhân, nguồn gốc đưa đến tội giết người.
Vì thế, “Ai giận anh em mình thì đáng bị tòa xét xử, ai mắng chửi anh em là đồ ngốc thì sẽ bị lên án trước công nghị và ai mắng chửi anh em mình là khùng thì đáng lửa trầm luân”.
Đúng như lời Chúa nói: Giận dỗi chính là nguyên nhân đưa đến tội giết người. Vì khi ta giận ai là ta muốn cho người đó khuất mắt ta; ta không muốn người đó hiện diện trên cõi đời này nữa. Cho nên giận như vậy thì chẳng khác nào giết người không dao.
Cũng thế, khi ta mắng chửi anh em là đồ ngốc là khùng thì chẳng khác nào ta xem thường anh em mình, để rồi hạ thấp họ xuống hàng con vật, không đáng là người nữa. Hành vi như thế là chiếm đoạt quyền phán xét của Thiên Chúa, nên đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt.
Như vậy, để khỏi bị Thiên Chúa luận phạt và kết án, Chúng ta phải có lòng quảng đại tha thứ. Tha thứ là điều kiện để tôn vinh Thiên Chúa một cách xứng đáng: "Nếu ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ anh em đang có điều bất bình với ngươi, hãy đặt của lễ trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em trước, rồi hãy đến mà dâng của lễ.".  Tha thứ là cách ta hàn gắn lại những vết thương lòng của ta và cho tha nhân. Tha thứ cũng là cách chúng ta bắt đầu lại mối tương quan tốt đẹp với anh em mình.
Xin Chúa cho chúng con biết giữ tâm hồn và môi miệng cẩn trọng để khỏi sa vào tội giết người không gươm. Xin Chúa cũng dạy chúng con biết yêu thương và tha thứ, như Chúa đã từng yêu thương và tha thứ cho chúng con. Amen.

2. Kiện toàn luật hôn nhân:
Chúa Giêsu tiếp tục kiện toàn giới luật một vợ một chồng. Để tránh đi tình trạng đỗ vỡ trong đời sống hôn nhân, chẳng những Chúa Giêsu cấm không được li dị mà Chúa còn ngăn chặn ngay cả nguyên nhân sâu xa đưa đến tình trạng bất trung trong đời sống hôn nhân nữa. “Anh  em đã nghe Luật dạy rằng: chớ ngoại tình, còn Thầy, Thầy bảo cho anh  em  biết : ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi…” (Mt 5:  27-28).
Như thế là dù chỉ thèm muốn trong lòng vợ hay chồng của người khác thì đã phạm tội ngoại tình trong tư tưởng rồi; vì trong lòng đã nuôi dưỡng ước muốn sai trái. Từ đó sẽ dễ dẫn đến hành động phản bội tình nghĩa vợ chồng.
Có thể nói mọi tội lỗi con người phạm, đều xuất phát từ trong lòng. Do đó, muốn tránh tội thì phải dứt khoát từ bỏ ước muốn bất chính ngay trong lòng. Nhưng để tránh được ước muốn bất chính trong lòng, chúng ta cần phải giữ gìn đôi mắt. Đôi mắt là của sổ tâm hồn nên mọi điều tốt xấu muốn vào được căn nhà tâm hồn đều phải qua cửa sổ của đôi mắt.
E-va chính vì đã không gìn giữ được đôi mắt nên đã hướng cái nhìn về trái cấm và đã nuôi dưỡng trong lòng sự thèm muốn. Từ ước muốn ấy bà đã cả lòng đưa tay hái trái cấm ăn, dầu biết rằng hành động ấy là phạm tội bất trung với Chúa.
Ða-vít cũng vì không giữ được đôi mắt nên đắm đuối nhìn người phụ nữ khỏa thân và có ước muốn khoái lạc. Từ đó đưa đến những hành vi tội ác: ngoại tình và giết người giấu tay.
Lạy chúa xin giúp chúng con biết gìn giữ đôi mắt luôn có cái nhìn trong sáng và can đảm dứt bỏ những nguyên nhân làm cớ chúng con lỗi đức trong sạch, cho dù đó là một phần của cơ thể như: là mắt, là tay... bởi vì Chúa đã phán: "thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hỏa ngục".

3. Kiện toàn về luật làm chứng:
Trong cuộc sống, ta thường nghe được những luồng thông tin khác nhau về một sự kiện nào đó xảy ra trong xã hội, cũng như trong Giáo Hội. Có những thông tin chính thống cần tin theo. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi, phe nhóm và thế lực của mình cũng không ít những thông tin sai lạc, ta cần phải dè chừng.
Hằng ngày trên báo chí, truyền thanh, truyền hình ta bắt gặp rất nhiều thông tin quảng cáo nhằm thu hút khách hàng và lợi nhuận. Bên cạnh những thông tin thật cũng có nhiều thông tin không thật. Sống trong một xã hội mà phải liên tục đề phòng hàng giả, người giả, thông tin giả thật là bất an.
Chắc chắc ai trong chúng ta cũng không muốn điều ấy xảy ra. Nhưng rồi chính cuộc sống chúng ta cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Nhiều lần vì sợ, vì tham, vì bị mua chuộc… ta lại chấp nhận im lặng hay từ chối làm chứng cho chân lý. Lắm khi vì ham mê tiền bạc, chức quyền… ta cũng sẵn sàng chối bỏ niềm tin cách dễ dàng.
Chúa Giêsu xác định: “Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37). Do đó để thuộc về Chúa chúng ta cần phải sống và làm chứng cho sự thật, vì sự thật mới giải phóng chúng ta khỏi những ràn buột của gian dối và bóng tối của sự dữ. "Sự thật sẽ giải phóng các ông" (Ga 8, 32). Vì thế, "hể có thì nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ".
Xin cho chúng ta biết vâng nghe lời Chúa, luôn can đảm nói và làm theo sự thật, để chúng ta khỏi sa vào cạm bẫy của ma quỷ. Nhờ đó cuộc sống mới được an vui, hạnh phúc.

Thứ năm: Lc 11, 14-23.
Trước một sự việc, có những phản ứng khác nhau tuỳ theo cái nhìn của mỗi người. Đồng thuận hay chống đối, tin nhận hay từ chối. Đó cũng là phản ứng lẫn lộn của đám đông dân chúng khi chứng kiến phép lạ trừ quỷ câm của Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay.
Xin cho chúng ta luôn có cái nhìn ngay thẳng và trong sáng để nhận ra giá trị đích thực của mọi biến cố xảy đến trong đời sống.
Cùng chứng kiến một phép lạ. Nhưng lại có những phản ứng trái chiều:
1. Đám đông lấy làm ngạc nhiên.
2. Một số người cho rằng: "Ông ấy dựa thế quỷ vương Beelzebul mà trừ quỷ".
3. Kẻ khác lại muốn thử Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời.
Trước những phản ứng trái chiều, nhất là thái độ chống đối của nhóm Biệt Phái. Chúa Giêsu lại kiên nhẫn lý giải cho họ hiểu rõ hai điều:
Thứ nhất: “Đòan kết là sức mạnh và là điều kiện chính để sinh tồn”, nên Satan không thể chống đối lẫn nhau. "Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nào tự chia rẽ thì sẽ đổ xuống. Nếu Satan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?”. Bởi thế cho rằng Chúa Giêsu dựa thế Beelzebul mà trừ quỷ câm là không đúng.
Thứ hai: Để tạo nên sức mạnh chống lại Thiên Chúa và hãm hại con người, ma quỷ không ngu dại gì mà làm hại thuộc hạ của nó. Bởi thế việc Chúa Giêsu trừ quỷ không phải là dựa vào thế của quỷ vương. Nếu việc đó không do quỷ vương thì do đâu? Thưa do một quyền lực mạnh hơn ma quỷ, tức là Thiên Chúa. Như thế phép lạ này là dấu chỉ rằng Nước Thiên Chúa đã đến gần.
Sở dĩ những người Biệt Phái không tin nhận phép lạ Chúa Giêsu thực hiện là do quyền năng đến từ Thiên Chúa là vì họ ganh tị và ghen ghét Chúa Giêsu. Lòng ganh tỵ, ghen gét làm cho con người trở nên mù quáng, không còn khả năng nhận ra chân giá trị của sự việc và sự thật về con người. Khi nuôi dưỡng hận thù trong lòng, người ta có thể tìm mọi cách để hạ bệ hãm hại người khác. Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Cố tình không đón nhận nó chỉ thiệt hại và làm đau khổ cho chính bản thân mình mà thôi.
- Câu chuyện:
Có một con đại bàng ganh tị với một con đại bàng khác vì con này bay cao hơn nó. Một hôm con đại bàng ganh tị gặp một xạ thủ. Nó xúi anh bắn hạ đối thủ của nó. Chàng xạ thủ đáp: “Được. Nhưng tôi không có tên.” Con đại bàng nhổ một cọng lông cánh đưa cho chàng xạ thủ làm tên. Nhưng chàng bắn hụt. Vì quyết tâm hại đối thủ của mình, con đại bàng ganh tị lại nhổ thêm một cọng nữa, rồi một cọng nữa... cho tới khi hai cánh nhỏ trụi nhẵn. Nó không bay được nữa. Chàng xạ thủ không bắn được con kia nên bắt lấy con đại bàng trụi cánh về làm thịt. Nếu bạn ganh tị muốn hại ai thì rốt cuộc bạn chỉ tổ hại chính bản thân mình.
Xin Chúa cho chúng con tấm lòng đơn sơ trong trắng để có cái nhìn ngay chính và trong sáng trước mọi biến cố xảy ra trong cuộc sống. Đừng để con vì ghen tỵ, thù ghét mà có thái độ tiêu cực, chỉ biết “vạch lá tìm sâu” và luôn nghi ngờ thiện chí của tha nhân. Xin cho chúng con luôn vững tin vào quyền năng Thiên Chúa và can đảm loại trừ thái độ làm tôi hai chủ trong cuộc đời này.

19/03: Kính Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria
Suy niệm 1: THÁNH GIUSE DẠY TA SÁM HỐI MÙA CHAY
Nếu mùa chay là mùa sám hối, trở về, thì có lẽ việc trở về sâu xa nhất là trở về cõi lòng mình trong thinh lặng để nhận ra Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương, nhận ra tha nhân là anh em mình, nhất là nhận ra con người thật của mình. Nhờ đó mà ta có những điều chỉnh cho đúng đắn phù hợp với ý Chúa hơn.
Nếu Giáo Hội đặt tháng kính Thánh Giuse vào Mùa Chay, thì mục đích đã rõ, bởi vì ngài là khuôn mẫu của con người nội tâm, thinh lặng.

Xin Chúa cho chúng ta biết trân trọng và yêu quý đời sống thinh lặng, nhất là biết học nơi thánh Giuse bài học về “đức thinh lặng”.
Không biết vô tình hay hữu ý, năm nào cũng vậy, GH lại mừng kính thánh Giuse vào đúng lịch PV mùa chay. Chắn hẳn GH rất có lý. Bời lẽ nếu mùa chay là mùa sám hối, trở về. Mà sự trở về sâu xa nhất lại chính là trở về chính mình và trở về với Thiên Chúa. Nói như vậy thì hơn ai hết Thánh Giuse chính là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta về sự trở về ấy.
1. Trước hết thánh Giuse dạy ta bài học trở về với chính mình trong thinh lặng.
Khi đọc  các sách Tin Mừng, ta không thấy thuật lại bất cứ lời nào của thánh Giuse, dù chỉ một lời nói với Mẹ Maria hay với Chúa Giêsu. Ngay cả khi gặp trẻ Giêsu ở trong Đền Thờ sau những ngày lo âu tìm kiếm cũng không có lời nào của ngài hé lộ. Có lẽ qua đó, Thánh Kinh nhằm đề cao giá trị của sự thinh lặng nơi thánh Giuse.
Đúng vậy thinh lặng là thái độ hết sức quý giá: Người đời thường nói: "lời nói là bạc, im lặng là vàng": thinh lặng hơn nói, vì nói chỉ là bạc mà im lặng mới là vàng; là vàng thì bao giờ cũng quí hơn bạc! Nhờ thinh lặng mà thánh Giuse có thời giờ gắn bó với Chúa cách sâu xa để nhờ đó ngài dễ dàng nhận ra ý Chúa và cũng dễ dàng chấp nhận thực thi thánh ý Chúa dẫu cho đó là điều không dễ dàng vì đụng chạm đến giá trị và quyền lợi cá nhân của ngài (cha chay và chồng chay). 
Thinh lặng là biểu hiện của sự hiểu biết: Ông bà ta vẫn nói “Ngôn giả bất tri, tri giả bất ngôn” : Người không biết thì lại lắm mồm vì tưởng người khác không biết như mình, ngườì biết thì lại không nói, vì nghĩ rằng mọi người đều biết. Heidegger khuyên chúng ta thực tập thinh lặng, bớt nói, bớt phát biểu, bớt bàn tán….không phải để ta nên ngu muội, vô tri, nhưng để cho tâm khảm suy nghĩ của chúng ta hoà quỵện với sinh linh vạn vật, và chỉ khi đó chúng ta mới có thể thấu đạt hết mọi ngóc ngách, thông tường mọi thế thái, biến chuyển trong sự biểu đạt khôn cùng của nhân sinh, của nhiên giới. Đó cũng là ý nghĩa mà nhà thơ tài danh của Ấn Độ Rabindranath Tagore muốn chuyển tải khi ông viết: “Nước trong chậu thì sóng sánh; nước trong biển cả thì thẫm đen.....”
Chính nhờ sự thinh lặng trong đêm vắng, Thánh Giuse đã nhận ra được ý muốn của Chúa, lắng nghe được Lời Chúa nói. Phân biệt được điều gì đúng, điều gì sai và chọn lựa cách thế thực hiện như thế nào đẹp ý Chúa nhất. Chính vì thế ngài đã hết lòng bảo vệ, chăm sóc Đức Maria và Hài Nhi Giêsu vượt qua những sóng gió của cuộc đời. Và trở nên “người công chính”.
Thinh lặng chính là thầy dạy sự khôn ngoan:
Nhìn vào đời sống, chúng ta thầy rằng mình đã sai lỗi quá nhiều trong lời nói. Bởi vì “đa ngôn thì đa quá”. Nói nhiều thì trở nên nói dai và kéo theo nói dở, nói ẩu và dại. Bởi đó hãy thận trọng trong lời nói. Ném một lông vịt vào trong gió, thì làm sao nhặt lại được. Một lời nói ra bốn ngựa đuổi theo cũng không kịp “tứ mã nan truy”. Vì vậy mà lời nói sẽ trở nên mối nguy cơ đánh mất tình thương, chia cắt tình thân và gây nên đau khổ cho nhau.
Hãy học cùng thánh Giuse bài học thinh lặng nhất là trong nhữn giây phút căng thẳng và sóng gió. Bởi nếu biết thinh lặng đúng lúc ta sẽ chặng được 90% đổ vỡ đáng tiếc, vì thinh lặng là thái độ khôn ngoan nhất của con người và là phương thuốc chữa lành những tội lỗi xấu xa.
Truyện kể rằng: Xưa một nhà vua Ấn Độ, muốn thử nhân tài của một nước Chư hầu liền gửi tới nước này ba pho tượng vàng, giống hệt nhau. Nhà vua Ấn Độ yêu cầu nhà vua Chư hầu cho biết trong ba pho tượng vàng này, đâu là pho tượng quí giá nhất.
Nhà vua nước Chư hầu cho triệu tập các nhà thông thái tới để đánh giá ba pho tượng vàng này, tìm ra xem pho tượng nào quí giá nhất. Các nhà thông thái nghĩ ngay tới giá trị của mỗi pho tượng sẽ căn cứ vào cân nặng nhẹ, hoặc vào tuổi vàng tốt xấu, hoặc căn cứ vào nghệ thuật tìm thấy trên ba pho tượng vàng! Nhưng rồi các nhà thông thái đành phải bó tay, vì ba pho tượng này giống hệt nhau về nghệ thuật, khối lượng và tuổi vàng.
Nhà vua nước Chư hầu rất buồn, vì không biết được giá trị hơn kém của ba pho tượng. Vua liền cho loan báo khắp nước: Ai tìm được bí mật giá trị của mỗi pho tượng sẽ được trọng thưởng.
Có một người tù, biết chuyện xin được xem ba pho tượng và nếu anh ta tìm ra giá trị hơn kém của ba pho tượng này thì anh chỉ xin một điều kiện là cho anh được tự do.
Lập tức nhà vua cho anh xem ba pho tượng. Vừa ngó xong ba pho tượng, anh ta xin một cọng rơm. Chỉ trong ít phút, anh đã khám phá ra giá trị hơn kém của ba pho tượng vàng.
Anh lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ nhất, thì thấy cọng rơm xuyên từ lỗ tai này sang lỗ tai kia, anh bảo: “ đây là pho tượng ít giá trị nhất, vì nó tượng trưng cho hạng người nghe điều gì, vừa vào tai nọ, đã ra tai kia, không biết ghi nhớ, không để tâm gì suy nghĩ điều đã nghe”.
Anh ta lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ hai, thì thấy cọng rơm đi từ lỗ tai chạy xuống miệng pho tượng. Anh bảo: “pho tượng này hơn pho tượng trước là vì nó tượng trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ nhưng mắc khuyết điểm là: vừa nghe được gì đã vội nói ngay, không suy nghĩ xem điều mình nghe đúng hay sai, nói ra có lợi hay có hại”.
Anh lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ ba, thì thấy cọng rơm đi từ lỗ tai chạy xuống bụng. Anh nói: “pho tượng này quý giá nhất, vì nó tượng trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ, biết để lòng suy nghĩ, biết ghi vào tâm dạ mình.
Vua nước lớn nghe được lời giải đáp của thần dân nước nhỏ thì vô cùng kính nể. Ông về nói với các quan trong triều: “Nước họ có người thông minh tài giỏi như vậy, hẳn nước họ là nước mạnh mẽ, hưng thịnh, ta nên giao hoà với họ chứ không nên giao chiến”.
2. Thứ hai thánh Giuse dạy ta bài học về sự tín thác và sự vâng phục Chúa.
Nếu ông Giacaria nghi ngờ về ý định của Thiên Chúa qua biến cố truyền tin của thiên thần Chúa nơi đền thờ và Mẹ Maria ngỡ ngàng trước lời mời gọi của Thiên Chúa nơi biến cố truyền tìn, thì Giuse lại hoàn toàn vâng phục không một lời chấp vấn hay bối rối gì cả.
Thánh Kinh thuật lại: khi biết được Đức Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, Thánh Giuse đã không ngần ngại nhận Đức Maria về nhà mình để chở che và nuôi dưỡng. Nhận lãnh hay bảo lãnh Đức Maria về nhà cũng đồng nghĩa Thánh Giuse giải cứu Đức Maria khỏi búa rìu dư luận và thoát khỏi án tử. Việc bảo trợ Đức Maria cũng có nghĩa là đồng bảo trợ Hài Nhi đang được cưu mang trong cung lòng Đức Maria. Việc nhận Đức Giêsu làm con cũng đồng nghĩa với việc bảo trợ cho Đức Giêsu sinh ra cách hợp pháp và đưa Đức Giêsu vào trong dòng tộc vua Đavít.
Vâng phục ý Chúa, không chỉ bảo trợ cho Hài nhi Giêsu sinh ra hợp pháp mà thánh Giuse còn bảo toàn mạng sống của Đức Giêsu khỏi nanh vuốt của vua Hêrôđê qua việc vâng theo lời báo mộng của Chúa trong đêm mà nhanh chóng đem mẹ Người và Hài Nhi Giêsu vượt đường xa hiểm trở gần 500 cây số xuyên qua sa mạc dài hơn 200 km không một bóng cây, không một ngọn cỏ, không một giọt nước, rất gian khổ để đến Ai-cập tị nạn.
Và khi tình hình yên ổn, một lần nữa Giuse lại nghe theo lời báo mộng bỏ Ai-cập đem gia đình trở về Palestine, định cư tại Nagiarét để chăm sóc nuôi dưỡng bằng chính công sức lao động chân chính của mình với nghề thợ mộc.
Còn chúng ta thì khác, chúng ta thường tìm ý mình hơn là ý Chúa. Và mỗi khi gặp phải những tai ương hoạn nạn, chúng ta thường kêu trách và xúc phạm đến Chúa, vì chúng ta cho rằng Chúa bất công và vâng lời chỉ là một hành động hèn nhát, mất tự do và chôn vùi nhân phẩm.
Chúng ta không phải lúc nào cũng biết được kế hoạch của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta chỉ biết rằng cách của Người thì khác với cách của chúng ta, nhưng cách của Người thì luôn luôn tuyệt vời nhất. Vì thế, hãy tín thác và vâng phục thánh ý Thiên Chúa, để chúng ta sẽ trở nên những tôi tớ trung thành và khôn ngoan như thánh cả Giuse ngày xưa.
Truyện kể rằng: Có 3 cái cây trên một ngọn đồi trong rừng, cùng tranh luận với nhau về những hi vọng và giấc mơ của chúng...
Cái cây đầu tiên nói: “Tôi hi vọng một ngày nào đó tôi sẽ trở thành tủ đựng vàng bạc châu báu. Tôi sẽ được nhét đầy vàng, bạc và ngọc quý, được trang hoàng với nghệ thuật chạm khắc cầu kỳ và mọi người sẽ thấy rằng tôi rất đẹp”.
Đến lượt mình cây thứ hai nói: "Tôi ao ước sẽ được là một con thuyền mạnh mẽ. Tôi sẽ chuyên chở các vị vua và hoàng hậu đến mọi nơi trên thế giới. Mọi người sẽ cảm thấy an toàn khi ngồi trên thuyền tôi vì thân tàu mạnh mẽ và vững chắc".    
Cuối cùng cây thứ ba mơ ước: "Tôi muốn được là một cây cao lớn và mạnh mẽ nhất trong rừng. Mọi người sẽ nhìn thấy tôi trên ngọn đồi, nhìn lên các cành của tôi và biết rằng tôi đang vươn cao và gần bầu trời đến mức nào. Tôi sẽ mãi là cái cây vĩ đại nhất và mọi người sẽ luôn nhớ đến tôi".
Sau nhiều năm cẩu nguyện, ngày mong đợi của chúng cũng đến - một nhóm người lấy gỗ đến khu rừng đó.
Một người trong bọn họ tiến đến bên cây thứ nhất và nói: "Cây này trông có vẻ chắc lắm đấy. Tôi nghĩ là tôi sẽ bán nó cho anh thợ mộc" và anh bắt đầu đốn cây. Cái cây cảm thấy rất hạnh phúc vì nó nghĩ rằng anh thợ mộc sẽ dùng nó để đóng thành một hộp đựng đồ quý giá...    
Nhìn thấy cây thứ hai, người thợ rừng bảo: "Cây này cũng chắc lắm đấy, ta sẽ bán nó cho một hãng đóng thuyền". Cây thứ hai vô cùng sung sướng vì nghĩ rằng mình sắp được đóng thành một con thuyền lớn.
Khi người thợ rừng tiến đến gần cây thứ ba, nó cảm thấy thật sợ hãi bởi vì nó biết rằng nếu ông ấy hạ nó giấc mơ của nó sẽ không thể nào thành hiện thực được. Một người thợ bảo "Tôi chưa có dự định gì đặc biệt cho số cây của tôi nhưng tôi sẽ chặt cái cây này". Và ông ta cưa nó.    
Khi cây thứ nhất đến tay người thợ mộc, ông đóng nó thành máng ăn cho ngựa. Sau đó ông ấy đặt nó trong chuồng ngựa và chất đầy cỏ khô lên. Đây không phải là điều cái cây mơ ước.
Còn cây thứ hai, nó được xẻ ra và đóng thành một cái thuyền câu cá nhỏ. Mơ ước được trở thành một con thuyền mạnh mẽ và được chở các vị vua đã kết thúc.
Cây thứ ba thì bị cưa thành những thanh gổ lớn và bị xếp vào một góc tối tăm, hôi hám.    
Rồi năm tháng trôi qua, những cái cây đã quên hết ước mơ của mình. Thế rồi một ngày nọ một người đàn ông và một phụ nữ đến bên chuồng ngựa. Cô ấy sinh nở tại đây và họ đặt đứa bé nằm trong lớp cỏ khô trong máng ăn được đóng từ cây thứ nhất. Người đàn ông ao ước có được một cái giường cũi cho đứa bé và ông ấy sẽ sử dụng cái máng với mục đích này. Cái cây cảm nhận được tầm quan trọng của việc này và nó biết rằng nó đang giữ trong tay một tài sản quý báu nhất.
Vài năm sau, có một nhóm người bước lên chiếc thuyền câu được làm từ cây thứ hai. Một người đàn ông mệt và ngủ thiếp đi. Trong khi họ đang lênh đênh trên biển, một cơn bão lớn nổi lên và cái cây không nghĩ rằng mình đủ mạnh để đưa họ qua cơn sóng to gió lớn này. Họ đánh thức người đàn ông đang nằm ngủ, ông ấy đứng dậy và nói: "Biển lặng". Ngay tức thì
cơn bão tan biến. Trong lúc này cây thứ hai biết rằng nó đang được chở vị vua của tất cả các vị vua trên thuyền.
Cuối cùng cũng có người đến và mang cái cây thứ ba đi. Nó được khiêng qua các con đường. Suốt dọc đường người ta nhạo báng người đàn ông đang khiêng nó. Khi họ lên đến đỉnh đồi, người đàn ông kia bị đóng đinh trên cây và bị treo ở đó cho đến chết. Ngày Chúa nhật đến, cái cây cảm thấy mình đủ mạnh để đứng trên đỉnh đồi và thật gần với Thượng Đế bởi vì Chúa đã bị đóng trên thân của nó.
Do vậy, khi mọi việc diễn tiến không đúng với những gì ta mơ ước, hãy luôn tin tưởng và phó thác vào Chúa bởi vì Người luôn luôn có sẵn kế hoạch cho chúng ta. Hãy vững tin rồi chúng ta sẽ nhận được quà tặng từ Người. Giống như những cây kia, cuối cùng cũng đạt được giấc mơ của mình tuy không hoàn toàn giống như những gì chúng nguyện cầu.
Lạy Chúa, giữa bao triết lý và lắm luồng tư tưởng trong xã hội này, con phải chọn lựa như thế nào?. Giữa những nền văn hóa đa dạng và những nền văn minh phức tạp, con biết đâu là đúng, đâu là sai? Xin cho con biết học nơi thánh Giuse bài học của thinh lặng để trở về với chính mình và với Chúa. Xin cho con biết chọn tiếng Chúa mời gọi hơn là tiếng đời thúc đẩy và nỗ lực thi hành tiếng Chúa với hy vọng được trở nên công chính theo gương thánh cả Giuse kính yêu. Amen.

* Tóm lược:
THÁNH GIUSE DẠY TA SỐNG TINH THẦN MÙA CHAY
Không biết vô tình hay hữu ý, năm nào cũng vậy, GH lại mừng kính thánh Giuse vào đúng lịch PV mùa chay.
Chắn hẳn GH rất có lý. Bời lẽ nếu mùa chay là mùa sám hối, trở về, thì sự trở về sâu xa nhất lại chính là trở về chính mình và trở về với Thiên Chúa. Nói như vậy thì hơn ai hết Thánh Giuse chính là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta về sự trở về ấy.
1. Trước hết thánh Giuse dạy ta bài học trở về với chính mình trong thinh lặng.
Khi đọc  các sách Tin Mừng, ta không thấy thuật lại bất cứ lời nào của thánh Giuse, dù chỉ một lời nói với Mẹ Maria hay với Chúa Giêsu. Ngay cả khi gặp trẻ Giêsu ở trong  Đền Thờ sau những ngày lo âu tìm kiếm cũng không thấy lời nào của ngài hé lộ. Có lẽ hơn ai hết thánh Giuse thấu hiểu về sự quý giá của thinh lặng. 
Đúng thế cha ông chúng ta đã từng nói: "lời nói là bạc, im lặng là vàng": nên chi thinh lặng giá trị hơn nói, vì nói chỉ là bạc mà im lặng mới là vàng; là vàng thì bao giờ cũng quí hơn bạc!
Hơn nữa thinh lặng còn là biểu hiện cho sự hiểu biết của một con người. Ông bà ta thường nói “Ngôn giả bất tri, tri giả bất ngôn” : Người không biết thì lại nhiều lời vì tưởng người khác không biết như mình, ngườì biết thì lại không nói, vì nghĩ rằng mọi người đều biết. Ông Heidegger khuyên chúng ta thực tập thinh lặng, bớt nói, bớt phát biểu, bớt bàn tán….không phải là ta ngu muội, vô tri, nhưng để cho tâm hồn của chúng ta hoà quỵện với sinh linh vạn vật, và chỉ khi đó chúng ta mới có thể thấu đạt hết mọi ngóc ngách, thông tường mọi thế thái, biến chuyển trong sự biểu đạt khôn cùng của nhân sinh, và của nhiên giới.
Nhưng thực tế đời sống cho thấy chúng ta lại thích nói và nói nhiều hơn là yêu mến sự thinh lặng. Chính vì thế mà chúng ta đã sai lỗi quá nhiều trong lời nói vì “đa ngôn thì đa quá”. Nói nhiều thì trở nên nói dai và kéo theo nói dở, nói ẩu và dại nữa. Do đó hãy thận trọng trong lời nói. Bởi lời nói sẽ trở nên mối nguy cơ đánh mất tình thương, chia cắt tình thân và gây nên đau khổ cho nhau.
Ném một lông vịt vào trong gió, thì làm sao nhặt lại được. Một lời nói ra bốn ngựa đuổi theo cũng không kịp “tứ mã nan truy”. Nên trong những lúc gặp phải những căng thẳng và sóng gió trong đời,  ta hãy học cùng thánh Giuse bài học thinh lặng để lắng nghe được tiếng Chúa khẻ nói với ta mà làm theo, nhờ đó chúng ta sẽ ngăn chặng được những đổ vỡ đáng tiếc xảy ra trong cuộc sống.
2. Thứ hai thánh Giuse dạy ta bài học sự tín thác và sự vâng phục Thiên Chúa.
Nếu ông Giacaria nghi ngờ về ý định của Thiên Chúa qua biến cố truyền tin trong đền thờ lúc dâng hương. Mẹ Maria thì ngỡ ngàng với biến cố truyền tin, thì Giuse lại hoàn toàn vâng phục thánh ý  Thiên Chúa mà không một lời chấp vấn hay bối rối gì cả.
Thánh Kinh thuật lại: khi biết được Đức Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, Thánh Giuse đã không ngần ngại nhận Đức Maria về nhà mình để chở che và nuôi dưỡng. Nhận lãnh hay bảo lãnh Đức Maria về nhà cũng đồng nghĩa Thánh Giuse giải cứu Đức Maria khỏi búa rìu dư luận và thoát khỏi án tử. Việc bảo trợ Đức Maria cũng có nghĩa là đồng bảo trợ Hài Nhi đang được cưu mang trong cung lòng Đức Maria. Việc nhận Đức Giêsu làm con cũng đồng nghĩa với việc bảo trợ cho Đức Giêsu sinh ra cách hợp pháp và đưa Đức Giêsu vào trong dòng tộc vua Đavít.
Vâng phục ý Chúa, không chỉ bảo trợ cho Hài nhi Giêsu sinh ra hợp pháp mà thánh Giuse còn bảo toàn mạng sống của Đức Giêsu khỏi nanh vuốt của vua Hêrôđê qua việc vâng theo lời báo mộng của Chúa trong đêm mà nhanh chóng đem mẹ Người và Hài Nhi Giêsu vượt đường xa hiểm trở gần 500 cây số xuyên qua sa mạc dài hơn 200 km không một bóng cây, không một ngọn cỏ, không một giọt nước, rất gian khổ để đến Ai-cập tị nạn.
Và khi tình hình yên ổn, một lần nữa Giuse lại nghe theo lời báo mộng bỏ Ai-cập đem gia đình trở về Palestine, định cư tại Nagiarét để chăm sóc nuôi dưỡng bằng chính công sức lao động chân chính của mình với nghề thợ mộc.
Còn chúng ta thì khác, chúng ta thường tìm ý mình hơn là ý Chúa. Mỗi khi gặp phải những nghịch cảnh xảy ra trong đời sống, ta thường kêu trách Chúa và lắm khi còn xúc phạm đến Chúa nữa. Vì chúng ta cho rằng vâng phục thánh ý Chúa là hành động hèn nhát, mất tự do và đánh mất nhân phẩm của mình. Thánh Giuse giúp chúng ta hiểu rằng:  không phải lúc nào chúng ta cũng biết được kế hoạch của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta chỉ biết rằng cách của Người thì khác với cách của chúng ta, nhưng cách của Người thì luôn luôn tuyệt vời nhất. Vì thế, hãy tín thác và vâng phục thánh ý Thiên Chúa, để chúng ta sẽ trở nên những tôi tớ trung thành và khôn ngoan theo gương thánh cả Giuse.

Lạy Chúa, giữa bao triết lý và lắm luồng tư tưởng trong xã hội này, con phải chọn lựa như thế nào?. Giữa những nền văn hóa đa dạng và những nền văn minh phức tạp, con biết đâu là đúng, đâu là sai? Xin cho con chúng con mùa chay thánh này biết đến với thánh cả Giuse để học nơi thánh nhân bài học của sự trở về trong thinh lặng mà nhận ra thánh ý Chúa và trở về với Chúa để vâng phục thánh ý Ngài  theo gương thánh cả Giuse kính yêu. Amen.

Suy niệm 2: NGƯỜI GIA TRƯỞNG TRUNG THÀNH 
Hòa nhịp cùng Giáo hội, hôm nay chúng ta long trọng mừng kính Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Maria. Ngài là bổn mạng Giáo Hội Việt Nam, là bổn mạng của quý anh em giới Gia trưởng, cách riêng một số anh em có thánh bổn mạng là Giuse. Nhân dịp này chúng ta cùng nhau hướng về thánh Giuse để chiêm ngưỡng đời sống tuyệt đẹp của Ngài mà học đòi bắt chước. 
Khi nhìn vào đời sống của thánh nhân, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đều đồng ý với nhau rằng: thánh Giuse là một con người trung thành. Đây là nhân đức tuyệt đẹp, đáng để cho chúng ta noi theo trong sứ mạng xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình. 
1. Thánh Giuse trung thành bảo vệ gia đình.
Sau khi nhận được thánh ý Thiên Chúa, Thánh Giuse đã sẵn sàng đứng ra để bảo trợ Thánh gia.
Thánh Kinh thuật lại: khi biết được Đức Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, Thánh Giuse đã không ngần ngại nhận Đức Maria về nhà mình để chở che và nuôi dưỡng. Nhận lãnh hay bảo lãnh Đức Maria về nhà cũng đồng nghĩa Thánh Giuse giải cứu Đức Maria khỏi búa rìu dư luận và thoát khỏi án tử.
Việc bảo trợ Đức Maria cũng có nghĩa là đồng bảo trợ Hài Nhi đang được cưu mang trong cung lòng Đức Maria. Việc nhận Đức Giêsu làm con cũng đồng nghĩa với việc bảo trợ cho Đức Giêsu sinh ra cách hợp pháp và đưa Đức Giêsu vào trong dòng tộc vua Đavít.
Không chỉ bảo trợ cho Hài nhi Giêsu sinh ra hợp pháp mà thánh Giuse còn bảo toàn mạng sống của Đức Giêsu khỏi nanh vuốt của vua Hêrôđê. Để bảo toàn mạng sống của Đức Giêsu, thánh Giuse phải vượt đường xa hiểm trở gần 500 cây số xuyên qua sa mạc dài hơn 200 km không một bóng cây, không một ngọn cỏ, không một giọt nước, rất gian khổ để đến Ai-cập tị nạn.
Ngoài việc bảo vệ sự sống, bảo vệ mạng sống, Thánh Giuse còn phải bảo vệ cho Đức Maria và Hài Nhi Giêsu được sống nữa. Ngài đã phải lao động vất vả tại xưởng mộc bé nhỏ tại làng Nazarét để mưu tìm miếng cơm, manh áo, tiền nong để nuôi sống gia đình.
Cuộc đời thánh Giuse quả không phải sung sướng, an nhàn, trái lại ngài phải trãi qua trăm chiều thử thách và đau khổ. Ý Chúa quan phòng để ngài nêu gương cho ta khi gặp gian lao, thử thách cũng biết vui lòng hy sinh như ngài để bảo vệ sự sống, mạng sống và tạo điều kiện cho gia đình mình được sống an bình.
Là người cha phải hết lòng bảo vệ con cái mình khỏi tay kẻ dữ, khỏi bầu khí hận thù và bất công. Đó là nhiệm vụ vô cùng to lớn của người gia trưởng.
Hằng ngày có biết bao hài nhi bị hủy diệt trong bào thai. Chúng ta cũng đã từng chứng kiến không ít những hài nhi vừa cất tiếng khóc chào đời lại bị chính cha mẹ chúng bỏ rơi, thật đau lòng!
Cách bảo vệ hài nhi an toàn nhất là chúng ta phải biết tỉnh thức để nghe tiếng Chúa nói trong lương tri như Thánh Giuse, dù khi ngủ, ngài vẫn thức tỉnh nhận ra tiếng Chúa nói trong giấc mộng.
2. Thánh Giuse trung thành giáo dục con cái.
Tin mừng thánh Luca đề cao nền giáo dục tuyệt vời của Thánh gia qua câu: “Hài nhi lớn lên càng mạnh khỏe, khôn ngoan và đầy ân sủng trước mặt Chúa và người ta” (Lc 2,40-52). Chỉ một lời ngắn ngủi của thánh sử Luca nhưng đã diễn tả hầu như trọn vẹn cách thế giáo dục của thánh Giuse và Đức Maria đối với con mình. Các ngài đã để ý và giáo dục con mình về mọi phương diện: Thể dục, trí dục, đức dục …
- Thể dục: Trẻ Giêsu càng lớn lên càng mạnh mẻ, đầy sức lực nhờ vào lao động nơi xưởng mộc Nazarét mà thánh Giuse đã dày công tạo dựng. Lên 12 tuổi trẻ Giêsu đã đi bộ suốt bốn năm ngày đàng lên Giêrusalem dự lễ, vậy mà không thấy Thánh kinh nói trẻ Giêsu mệt mỏi. Sau này giảng đạo, Đức Giêsu đã đi khắp cùng làng mạc, thành phố và cả những vùng lân cận nữa.
- Trí dục: Càng tuyệt vời hơn khi mới 12 tuổi, cậu bé Giêsu của làng Nazarét quê mùa, vô danh, ở tít vùng sâu, vùng xa đã đàng hoàng vào đền thờ ở thủ đô Giêrusalem, ngồi giữa các thầy tiến sĩ vừa nghe vừa hỏi. Ai cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp khôn ngoan của cậu. Nếu gia đình Thánh Giuse không quan tâm đến việc hướng dẫn con mình học hỏi và trao dồi Thánh kinh thì làm gì có sự hiểu biết như thế?
Mỗi ngày Sabát là dịp tốt để tìm hiểu Thánh kinh và nghiên cứu Luật Chúa. Như trở thành thói quen mà cha mẹ để lại. Sau này khi rao giảng Chúa Giêsu thường xuyên vào Hội Đường đọc Lời Chúa, giảng dạy và chữa bệnh. Có lẽ nhờ việc quan tâm đến giáo dục tri thức cho con mình nên Đức Giêsu đã thuộc lòng các khoản Luật và Lời Chúa.
- Đức dục: Ngoài đức công chính gắn liền với tên tuổi Thánh Giuse, chúng ta còn nhận thấy một nhân đức khác nổi bậc nơi ngài nữa đó là đức vâng lời. Vâng lời thánh ý Thiên Chúa, ngài đã bỏ ý riêng mình để đón nhận Đức Maria về nhà mình. Vâng lời Thiên Chúa, ngài đã mau mắn đem Đức Maria và Hài Nhi trốn sang Aicập.
Chính nhờ ảnh hưởng của một nền đạo đức như vậy mà Đức Giêsu trở nên người con hằng “đẹp lòng Chúa Cha”. Cuộc đời Chúa Giêsu cũng tiếp nối bằng hai chữ “xin vâng” theo thánh ý Chúa Cha như thánh Giuse và Đức Maria:
Vâng lời Chúa Cha từ trời cao Người xuống thế, từ Vị Thiên Chúa trở nên người phàm, từ Đấng Thánh Thiện lại gánh lấy tội nhân. Người vốn là giàu sang lại trở nên nghèo khó…; và Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Vì thế nên Người hằng xác quyết: “lương thực của Ta là làm theo Đấng đã sai Ta” (Ga 4,34). Ngoài việc vâng lời Chúa Cha, Đức Giêsu còn luôn vâng lời thánh Giuse và Đức Maria: “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazarét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2,51).
Vậy những bậc cha mẹ cũng hãy noi gương thánh Giuse, quan tâm giáo dục con mình phát triển toàn diện. Trung thành giáo dục như thế mới hy vọng con chúng ta trở nên tốt.
Cùng với Giáo Hội, chúng ta cũng đang sống trong tâm tình của mùa chay thánh. Nếu mùa chay Giáo Hội mời gọi chúng ta trở về, thì trước hết, chúng ta hãy bắt đầu trở về với chính mình, với những bổn phận của người chồng-vợ, người cha-mẹ, người gia trưởng-hiền mẫu trong gia đình mình, bằng việc noi gương thánh Giuse trung thành trong vai trò bảo trợ gia đình, trung thành trong trách nhiệm làm cha-mẹ và nhất là trung thành trong việc giáo dục con mình trở thành người và thành người con Chúa.
Vì sự sống và hạnh phúc gia đình, xin cho các gia trưởng-hiền mẫu quyết sống với hai chữ TRUNG THÀNH theo gương thánh Giuse. Amen.

Thứ sáu: Mc 12, 28b-34.
Cốt lõi của đạo Công giáo là Bác ái. Bác ái là đồng phục và là ngôn ngữ chung của người kitô hữu. Bác ái là dấu chứng để nhận ra môn đệ của Chúa, là ngôn ngữ cao trọng của loài người và các thiên thần, là ngôn ngữ độc nhất tồn tại trên thiên đàng.
Xin cho chúng ta biết giá trị cao quý của bác ái và nỗ lực thi hành đức ái trong đời sống để xứng danh là môn đệ Chúa.
Sống trong xã hội Do Thái thời bấy giờ, với ngổn ngang những luật lệ, làm cho con người không còn phân biệt đâu là chính, đâu là phụ. Vì thế, một người trong nhóm Kinh sư tới hỏi Chúa Giêsu xem điều răn nào là quan trọng nhất. Thời bấy giờ trên đất nước Do Thái cũng có nhiều phe nhóm. Tùy theo quan điểm cá nhân nên mỗi phe nhóm cũng đề cao một số luật lệ nào đó. Có lẽ vì thế mà nhân cơ hội này, họ cũng muốn biết Chúa Giêsu đứng về phe nhóm nào? Và cũng qua cách thức thăm dò đó, họ cũng muốn thử xem trình độ hiểu biết về Thánh kinh và luật lệ của Chúa Giêsu tới mức độ nào?. Qủa là thâm ý!
Chúa Giêsu thừa biết thâm ý của họ. Nhưng vì đây là vấn đề rất quan trọng trong đời sống đức tin nên cần phải xác định cho rõ ràng. Vì thế Chúa Giêsu đã không ngần ngại trả lời cho họ hiểu đâu là điều luật quan trọng nhất mà TC chỉ dạy. Bằng cách trích dẫn lại hai câu Thánh kinh, một trong sách Đệ Nhị Luật và một trong sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực ngươi”. Đó là điều quan trọng thứ nhất. Điều luật thứ hai cũng quan trọng không kém, đó là:“ Ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình”, Chúa Giêsu đã tóm lược cho biết điều luật căn bản và quan trọng nhất trong mọi điều luật đó là luật “tình yêu”. “Yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực ngươi” và “yêu thương người thân cận như chính mình”.
- Nhưng “yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực ngươi” thì phải làm gì? Thưa, yêu mến Đức Chúa thì phải siêng năng đến với Chúa, sống thân tình với Chúa, hân hoan vì được lắng nghe lời dạy của Chúa, nhất là vui thích làm theo điều luật của Người hướng dẫn; còn mến Chúa “hết”…nghĩa là đặt Chúa làm ưu tiên trong mọi giá trị mà ta chọn lựa và Chúa luôn là trung tâm của đời sống của ta.
- Còn việc “yêu người thân cận như chính mình” nghĩa là làm sao? Thưa đó là phải yêu thương hết mọi người không phân biệt tôn giáo, màu da, chủng tộc, ngôn ngữ.. bạn hay thù. “Yêu như chính mình” có nghĩa là phải đối xử với mọi người cùng một “tình yêu” như ta đối xử với chính ta, theo như tinh thần của thánh Phaolô dạy: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm.12,15). Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn đòi buộc chúng ta phải “yêu như Chúa yêu”, một tình yêu trao ban, cho đi nhưng không và sẵn sàng chết đi cho người mình yêu. "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13).
Để cụ thể hóa tình yêu đối với tha nhân, GH mời gọi chúng ta hãy tích cực thực hiện 14 mối yêu người (thương xác 7 mối; thương linh hồn 7 mối).
Xin Chúa cho chúng ta mùa chay này biết nỗ lực thực thi điều luật Giêsu Chúa chỉ dạy là mến Chúa yêu người cách sâu xa hơn, theo tinh thần mà Chúa Giêsu mong muốn.

Thứ bảy: Lc 18, 9-14.
Thái độ kiêu căng, phách lối làm cho người đời khinh thường, ghét bỏ và xa lánh. Khiêm nhường, nhận lỗi là hành động can đảm anh hùng, khiến mọi người mến phục. Xin cho chúng ta có được thái độ khiêm nhường như người thu thuế trong bài tin mừng hôm nay, để xứng đáng được Chúa yêu thương ban ơn tha thứ.
Bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta biết sức mạnh của lời cầu nguyện khiêm nhường như thế nào?
Hình ảnh của người thu thuế phía cuối đền thờ mà tin mừng hôm nay trình thuật là một hình ảnh tuyệt đẹp. Đẹp bởi dáng điệu rất đổi khiêm nhường, đẹp bởi tính cách hết sức đơn sơ và tâm tình rất chân thành nên lời cầu nguyện của anh ta đã vượt qua được mọi rào cản và chọc thủng mây trời mà chạm vào tận trái tim của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót. Nên đã được Thiên Chúa đón nhận: “Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không”.
Thứ bảy cũng là ngày GH hướng lòng về Mẹ Maria để tỏ lòng kính mến cách đặc biệt. Hơn ai hết Đức Maria là mẫu gương về lòng khiêm nhường thẳm sâu cho chúng ta noi theo. Bởi lúc nào Mẹ cũng ý thức mình chỉ là nữ tỳ của Thiên Chúa. “Phận nữ tỳ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới…” (Lc 1, 48). Chính lòng khiêm nhường ấy đã nâng Mẹ lên tận thiên đường với một hình ảnh tuyệt đẹp như sách khải huyền mô tả…
Ước mong mùa chay này, chúng ta can đảm loại trừ được thái độ kiêu căng tự mãn hay đề cao mình như người Biệt Phái để yêu thích mặc lấy chiếc áo khiêm nhường của người thu thuế và của Mẹ Maria. Được như thế lời cầu nguyện của chúng ta mới xứng đáng được Chúa nhận lời.






  SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXXIV THƯỜNG NIÊN Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN-B KÍNH TRỌNG THỂ CHÚA KITÔ, VUA VŨ TRỤ Đn 7,...