SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN IV
MÙA CHAY
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY, NĂM A
1Sm 16, 1b.6-7. 10-13a; Ep
5, 8-14; Ga 9, 1-41
Chúa nhật IV MC hôm nay được gọi là Chúa nhật của niềm
vui. Vui không bởi phẩm phục màu hồng nhưng vui vì GH sắp cử hành đại lễ phục
sinh, kỷ niệm biến cố Con TC sống lại, mở ra cho nhân loại niềm hy vọng vào sự
sống mai này. Vui vì ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô đã đến
trần gian, xua tan bóng đêm tội lỗi và sự chết, ban lại cho nhân thế ánh sáng
của niềm vui và sự sống mới.
Xin cho chúng ta biết tích cực đón nhận ánh sáng của Chúa, bằng
cách gắn bó mật thiết với Chúa, khiêm tốn lắng nghe và thực thi đường lối của
Chúa với niềm hân hoan, tin tưởng và phó thác vào tình thương của Chúa.
“Ánh sáng” là chủ đề nổi bật trong Tin mừng của thánh Gioan. Nên ngay
những trang đầu của Tin mừng, thánh Gioan cho biết Chúa Giêsu chính là “Ánh
sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9). Qua
phép lạ chữa lành cho người mù được sáng mắt hôm nay, minh chứng cho thấy Đức
Giêsu chính là ánh sáng thật đã đến trần gian, xua tan bóng tối tội lỗi và sự
chết, mang lại niềm vui và sự sống cho con người: “Tôi là ánh sáng thế
gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng
đem lại sự sống.” (Ga 8,12).
Xin cho chúng ta biết mở
lòng tiếp nhận ánh sáng niềm vui Tin mừng của Chúa và tích cực bước theo ánh
sáng Ngài soi dẫn, ngỏ hầu chúng ta trở nên con cái của sự sáng theo như lời
thánh Gioan đã nói: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón
nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho
họ quyền trở nên con Thiên Chúa.” (Ga 1, 11-12).
Phụng
vụ lời Chúa hôm nay cho thấy có những cái nhìn khác nhau về con người và sự
kiện, khởi đi từ những quan điểm khác biệt nơi mỗi người.
1.
Với tiên tri Samuel và ông Giétsê thì nhìn con người qua diện mạo bên ngoài nên
khi ông được Thiên Chúa sai đến Belem để tìm Đavit (con út của ông Isai
(Giétsê), thuộc chi tộc Giuđa) để xức dầu tấn phong đứa út này lên làm vua thay
cho Saolê vì đã không tuân phục ý Chúa (1S 16,13), thì Samuel ông lại muốn xức
dầu cho Êliab một người có dáng vóc cao lớn, khoẻ mạnh trong số 8 người con
trai của Giétsê. Nhưng Chúa bảo: “Không phải
người phàm nhìn sao, Thiên Chúa cũng nhìn thế, bởi người phàm chỉ trông thấy
điều lộ trước mắt, còn Giavê trông thấy điều ẩn đáy lòng”. Cuối cùng, nghe
theo sự soi sáng của Chúa, Samuel cũng đã chọn và xức dầu cho Đavít, đứa nhỏ
nhất, đứa mà cả ông Giétsê cũng coi thường nên ban đầu không đưa ra giới thiệu
cho Samuel.
Câu
chuyện cho thấy cái nhìn của Thiên Chúa không giống cái nhìn của loài người, vì
loài người quen nhìn đáng vẻ bề ngoài, còn Thiên Chúa nhìn tận đáy lòng.
2.
Còn những người Biệt phái thì nhìn Đức Giêsu với cái nhìn định kiến nên họ
không thể nhận ra được Thiên tính nơi Người.
Tin
mừng hôm nay cho biết vì muốn phủ nhận uy quyền TC nơi Đức Giêsu nên những người
Biệt phái đã tìm đủ mọi cách hầu chối bỏ phép lạ Chúa Giêsu đã làm khi cho
người mù từ lúc mới sinh được sáng mắt.
-
Trước hết họ mở cuộc điều tra rộng rãi từ đương sự đến những người láng giềng
và cả cha mẹ của đương sự nữa. Họ hạch hỏi và đe dọa những người này đủ điều,
với mục đích làm áp lực để người mù và cha mẹ anh ta sợ hãi mà chối bỏ phép lạ
Chúa Giêsu đã làm. Nhưng vì phép lạ quá hiển nhiên nên không thể nào phủ nhận
được.
-
Biết xử dụng quyền lực không được, họ dùng đến lý lẽ để thuyết phục mọi người
với cách lý luận rằng: “ông Giêsu đã chữa mắt cho người mù trong ngày
hưu lễ vì luật trong hưu lễ là cấm làm việc. Ai vi phạm là kẻ có tội. Mà kẻ tội
lỗi thì không thể là người bởi Thiên Chúa và không thể làm được phép lạ”. Nhưng
cho dù họ có cố tình bẻ cong sự thật, thì sự thật vẫn hiển nhiên, bởi chính
đương sự đã làm chứng: “Nếu đó là một người tội lỗi, tôi không biết;
tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy”.
-
Thấy không thể đối chất lại cách lý luận đầy thuyết phục của anh mù, cuối
cùng họ phải dùng đến thủ đoạn nham hiểm, bằng cách khơi lại tình trạng quá khứ
mù lòa của anh, rồi dựa vào quan điểm mù quán mà cho rằng anh ta là người tội
lỗi mà mạt sát anh: “Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?
Rồi trục xuất anh ra ngoài”. Với ý định qua đó cảnh báo mọi
người đừng bao giờ tin vào lời chứng của người có tội. Nhưng tất cả những
mưu hèn kế bẩn ấy cũng không làm thay đổi được niềm tin của người mù vào quyền
năng TC nơi Đức Giêsu qua lời xác quyết của anh: “Xưa nay chưa từng
nghe nói có ai mở mắt một người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi
Thiên Chúa thì không làm được gì”. Vì thế sau khi Chúa Giêsu cho anh
biết Người chính là Con Thiên Chúa thì anh liền “sấp mình thờ lạy
Người”.
Trong
khi người mù được Chúa ban cho ánh sáng thể lý và tâm hồn thì những người Biệt
phái sáng mắt thể lý lại trở nên mù lòa về tâm hồn nên đã không tin nhận Chúa
Giêsu là TC làm người. Sở dĩ như vậy là vì mắt tâm hồn họ còn bị quá nhiều ngăn
cản bởi lòng đầy kiêu căng tự mãn; bởi những định kiến sẵn có về Chúa Giêsu khi
cho rằng, Người không tuân thủ lề luật, dám làm việc ngày hưu lễ, cho dẫu họ
biết rất rõ về những việc tốt lành Chúa Giêsu đã làm. Chính vì thế mà họ đáng
bị Chúa Giêsu lên án: “Nếu các ngươi mù, thì các ngươi đã không mắc
tội; nhưng các ngươi nói ‘Chúng tôi xem thấy’, nên tội các ngươi vẫn còn”.
Trước
đại dịch Covid-19 đang hoành hành khắp nơi trên thế giới như hiện nay, có thể
mỗi người chúng ta có những cái nhìn khác nhau tùy theo quan điểm tự do của
mình. Nhưng với cái nhìn của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Ephêsô trong
bài đọc 2 hôm nay, thì ngài khuyên chúng ta nên khiêm tốn nhận ra quyền năng
của TC qua biến cố này mà chân thành sám hối từ bỏ nếp sống cũ là giả dối và
tội lỗi mà nỗ lực thực thi giáo huấn của Đức Kitô qua đời sống lương thiện,
công chính và chân thật, với ước mong làm mọi điều sao cho đẹp lòng Chúa. Được
như vậy, tâm hồn chúng ta mới có được bình an mỗi khi đối diện với những biến
cố vui buồn trong đời sống.
Thứ
hai: Ga 4, 43-54
Đức
tin chính là thần dược chữa lành mọi bệnh tật cho con người. Chính đức tin,
viên sĩ quan đã đặt trọn vẹn lòng cậy trông và hy vọng vào Chúa. Nhờ đức tin mà
phép lạ Chúa được thực hiện và con ông được cứu chữa. Xin Chúa ban thêm lòng
tin nơi chúng ta.
Ông
viên sĩ quan trong bài tin mừng hôm nay vì tin tưởng vào Chúa Giêsu nên ông đã
đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa:
Hy
vọng vào Chúa, nên ông đã ra đi tìm đến Chúa Giêsu.
Hy
vọng nơi Chúa, ông đã không ngại kêu xin và kiên nhẫn nài nỉ Chúa
đến nhà cứu sống con ông.
Hy
vọng ở
Chúa, ông đã khiêm tốn đón nhận mọi thử thách: “Các ông mà
không thấy dấu lạ điềm thiêng thì các ông sẽ chẳng tin đâu”. Dẫu bị
mỉa mai, nhưng ông vẫn khiêm tốn kiên nhẫn kêu xin.
Cũng
chính vì hy vọng rất nhiều vào Chúa, ông tin nhận Lời Chúa: “Cứ về đi,
con ông sống”, ông tin vào lời Đức Giêsu nói với mình và ông đã an tâm
ra về.
Nhờ
lòng tin mạnh mẽ của viên sĩ quan ngoại giáo mà con ông đã được Chúa cứu khỏi
chết và cả gia đình ông được ơn đức tin.
Tin
chính là đặt hết niềm hy vọng vào Chúa. Trao cho Chúa mọi lắng lo, khốn khó.
Con cái là món quà quý giá và là kho báu vô tận.
Đau
đớn, bệnh tật con cái là nỗi đau vô cùng của cha mẹ. Nhưng chính lúc đau khổ
ấy, viên sĩ quan ngoại giáo đã có được niềm tin. Gặp gỡ Chúa niềm tin của ông
lại vững mạnh hơn. Niềm tin của ông đã trở nên niềm tin cứu rỗi cho cả gia đình
ông.
Chúng
ta cũng vậy, niềm tin của chúng ta cần được trui rèn, để sau những thử thách
đau thương, đức tin chúng ta được vững mạnh hơn. Không nhất thiết phải đón nhận
ơn phúc qua phép lạ như người cha trong bài tin mừng hôm nay. Điều quan trọng
là trong mọi biến cố, chúng ta cần nhìn về phía bên kia điều Chúa muốn, để vững
tin hơn vào tình thương và uy quyền của Chúa. Nhờ thế mà những người chung
quanh và trong gia đình ta mới được củng cố lòng tin, gia tăng lòng cậy trông
nơi Chúa hơn qua niềm xác tín mạnh mẽ của chính ta.
Trong
cuộc sống, chúng ta xin ơn Chúa rất nhiều nhưng lại quên xin ơn rất quan trọng
là ơn Đức Tin. Chắc chắn đức tin chúng ta vẫn còn yếu kém. Mùa chay này, chúng
ta hãy tha thiết xin Chúa gia tăng Đức Tin cho chúng ta.
Thứ
ba: Ga 5, 1-3.5-16
Thiếu
bác ái yêu thương, việc thực thi lề luật chỉ còn là cái xác không hồn và là
những hành động của ta trở nên mù quáng. Tin mừng hôm nay kêu gọi chúng ta ý
thức trách nhiệm đối với nhau trong cuộc sống, bằng việc thực thi tình bác ái,
qua việc giúp đỡ những người nghèo khổ và bất hạnh. Đó là cách thức ta thể hiện
tâm tình tôn vinh Chúa.
Người
bị bại liệt suốt 38 năm dài được Tin mừng hôm nay nói đến. Chắc hẳn đã-đang và
sẽ gặp rất nhiều khó khăn, đau khổ trong đời sống.
Khó
khăn trong việc tự chăm sóc bản thân; khó khăn trong việc đi lại; khó khăn mỗi
khi tiếp xúc với những người chung quanh.
Đau
khổ vì bệnh tật hành hạ; đau khổ vì bị mọi người bỏ rơi, ngay cả những người
thân “không có người đem xuống hồ…”. Đau khổ vì bị mọi người
khinh ghét, bị xã hội xem thường. Anh bị liệt vào thành phần “mang kiếp cầm
ca”, ăn bám xã hội. Nhưng có lẽ đau khổ nhất vẫn là nỗi đau mặc cảm vì bị mọi
người xem là người tội lỗi.
Nỗi
khát khao lớn nhất của anh là được làm người bình thường như bao người. Được xã
hội tôn trọng; được mọi người quan tâm, yêu mến; được tự do đi lại; nhất là
được khẳng định giá trị và phẩm giá làm người của mình.
Hôm
nay Chúa Giêsu đã trao ban cho anh món quà vô giá mà anh hằng khao khát đêm
ngày, đó là chữa anh khỏi căn bệnh bại liệt. Quả là niềm vui lớn lao, niềm vui
chính đáng. Ấy vậy mà niềm vui ấy lại bị sự chống đối bởi những giới chức Do Thái
giáo: “Hôm nay là ngày Sabát không được phép vác chõng”. Không những họ chống
đối quyền đi lại và làm người của anh, mà họ còn chống đối cả Chúa Giêsu vì đã
vi phạm ngày Sabát.
Lòng
ích kỷ và luật lệ vô hồn, quả là một gánh nặng, một rào cản đáng sợ, đẩy con
người đến chổ vô cảm và cư xử bất nhân với nhau, khiến người khác không thể
vươn lên sống xứng đáng là con người được. Họ lại không hiểu rằng: “vinh quang
Thiên Chúa là con người được sống”. Bất cứ nơi nào phẩm giá con người được nhìn
nhận, bất cứ một con người nào được tôn trọng, thì nơi đó Thiên Chúa được tôn
vinh.
Xin
cho chúng ta ý thức rằng: khi chối bỏ và khước từ thể hiện lòng nhân ái đối với
người khác là chúng ta đã xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Yêu thương và thực thi
bác ái đối với người khác cũng là cách chúng ta đền bù tội lỗi trong mùa chay
thánh này.
Thứ
tư: Ga 5, 17-30
Người
kitô hữu, là người có Chúa Kitô. Nghĩa là từng suy nghĩ, lời nói và hành vi của
ta phải là của Chúa như chính Chúa Giêsu là hiện thân của Chúa Cha: “Ai thấy Ta
là thấy Cha”. Xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng phản ánh trung thực dung
mạo của Chúa Giêsu hơn, để qua ta, mà mọi người nhận biết Đức Giêsu.
Định
luật tình yêu dạy chúng ta rằng: “Yêu ai thì ở gần người ấy. Yêu ai thì nên
giống người ấy. Yêu ai thì muốn ở trong người ấy, và yêu ai thì sẵn sàng sống
chết vì người ấy”. Chính vì yêu mến Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã trở nên
giống Cha mọi đàng.
Mối
bận tâm lớn nhất của Chúa Giêsu là thể hiện thánh ý Cha Ngài: “Lạy Cha,
này con xin đến để thi hành thánh ý Cha”. Chúa Giêsu khẳng định, suốt
cuộc đời, Ngài làm việc như Cha Ngài: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm
việc, thì tôi cũng làm việc”. Chúa Giêsu cũng xác định cho chúng ta biết,
Ngài chính là hình ảnh của Thiên Chúa, vì “Ta và Cha là một”, và “Ai
thấy Ta là thấy cha”.
Như
vậy, lẽ sống của Chúa Giêsu là sống như Cha. Trong mọi sự, Ngài đều lấy Cha làm
mẫu mực. Và Ngài muốn chúng ta cũng phải lấy Cha làm mẫu mực cho đời sống mình:
“Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”. Do đó
muốn nên giống Chúa Cha ta chỉ cần nên giống Chúa Giêsu, bởi chính Người là
dung mạo đích thực của Chúa Cha.
Giống
Chúa Giêsu trong mối bận tâm duy nhất là cứu độ nhân loại. Giống Chúa Giêsu ở
thái độ khiêm nhường vâng phục thánh ý Chúa Cha. Giống Chúa Giêsu bằng cách
sống thành thật: “Ta là đường là sự thật và là sự sống”. Sự thật
trong lời nói, trong việc làm, trong yêu thương. Như trái tim không bao giờ
ngừng đập, tình thương cũng không bao giờ ngơi nghỉ. Chúa Giêsu vẫn liên lỉ làm
những việc tình thương. Bất chấp là ngày Sa-bát, vì ngày Sa-bát dù nghỉ ngơi,
nhưng Chúa vẫn quang phòng vũ trụ và con nguời do chính Ngài yêu thương dựng
nên.
Xin
Chúa cho chúng ta mỗi ngày trở nên giống Chúa Giêsu hơn, để tâm hồn, trái tim,
suy nghĩ vá cách sống của chúng ta ngày càng phản ánh trung thực dung mạo của
Chúa. Nhờ đó mà mọi người nhận ra chúng ta là mộn đệ thật của Chúa. Và qua cách
sống của ta mà danh Chúa được cả sáng và được mọi người yêu mến ngợi khen.
25/
03. Lễ Truyền Tin: Lc 1, 26-38
Suy
niệm 1:
Cùng
với Giáo Hội, hôm nay chúng ta long trọng mừng Lễ Truyền Tin. Kỷ niệm biến cố
Thiên Thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria, khởi đầu cho chương trình cứu độ
đầy yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người. Để thực hiện chương trình cứu
độ, Thiên Chúa đã chọn gọi Đức Maria cộng tác trong việc cưu mang và sinh hạ
Đấng Cứu Thế và Đức Maria đã đáp lời bằng hai tiếng “xin vâng”.
Xin
cho chúng ta cũng biết noi gương Đức Maria khiêm tốn và ngoan ngoãn vâng theo
thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh, để chương trình cứu độ của Chúa nơi ta được
hoàn thành tốt đẹp.
Mỗi
khi đọc kinh Kính mừng là chúng ta nhắc lại lời truyền tin của sứ thần Gabriel
cho Đức Maria năm xưa: “Kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng bà,
bà có phước lạ hơn mọi người nữ…”; cũng đồng nghĩa với lời Thiên Thần chào Đức
Maria: “Mừng vui lên, Đấng đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng bà…”.
Lời
truyền tin này là một lời chào chúc trân quý, mang giá trị hết sức cao trọng mà
TC dành tặng cho Đức Maria. Bởi lẽ có ơn phúc nào cao lớn cho bằng ơn phúc được
Thiên Chúa ở cùng (chính Chúa là nguồn mọi ơn phúc và Đấng ban ơn phúc. Được
Thiên Chúa ở cùng thì có mọi ơn phúc nơi mình rồi). Và có hạnh phúc nào lớn lao
cho bằng hạnh phúc được Thiên Chúa ưu ái chọn làm Mẹ Thiên Chúa. (Được chọn làm
mẹ vua đã là vinh dự và ơn phúc trọng đại rồi huống chi là Mẹ Vua Trời).
Ý
thức sứ mạng cao quý ấy trong vui mừng khôn tả vượt trí hiểu, Đức Maria đã bối
rối và tự hỏi lời chào ấy có ý nghĩa như thế nào? Sau khi được nghe Thiên Thần
giải thích, Đức Maria biết đó là ý định Thiên Chúa, cho dù không hiểu hết nhưng
Đức Maria vẫn khiêm tốn ngoan ngoãn vâng phục.
Có
nhiều điều xảy ra trong đời sống vượt ngoài trí hiểu và khả năng chúng ta,
chúng ta thấy không thể thực hiện được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi chuyện
đều có thể. Nhìn vào công trình sáng tạo vũ trụ vạn vật ta nhận ra điều ấy. Từ
không Thiên Chúa đã tạo thành vũ trụ vạn vật chỉ bằng lời phán truyền. Chỉ cần
bùn đất Thiên Chúa đã tác tạo nên con người giống hình ảnh Người. Và với quyền
năng TC thì bà chị họ Isave dẫu son sẻ cũng đã mang thai được 6 tháng và sẽ
sinh con trai trong lúc tuổi già. Như thế thì việc Đức Maria cưu mang Đấng Cứu
Thế mà vẫn đồng trinh là chuyện rất đổi bình thường với quyền năng của TC. Điều
quan trọng là chúng ta sẵn sàng để cho Chúa hành động nơi chúng ta như Đức
Maria không?.
Tuy
Thiên Chúa quyền năng làm được mọi sự. Nhưng Thiên Chúa lại yêu thích con người
cộng tác với Thiên Chúa:
Để
chọn gọi dân riêng, Chúa đã mời gọi tổ phụ Abraham cộng tác, và Abraham đã vâng
lời bỏ xứ sở ra đi theo ý định Thiên Chúa. Thế là một dân riêng của Chúa đã
hình thành.
Để
cứu dân tộc Israel ra khỏi kiếp nô lệ bên Ai cập, Thiên Chúa đã mời gọi Môsê
cộng tác, dù sợ hãi về sự kém cỏi của mình, Môsê vẫn vâng phục ý muốn của Chúa.
Thế là cuộc giải phóng đã hoàn tất.
Để
cứu độ nhân loại, Thiên Chúa chọn Đức Maria, một người thiếu nữ bình thường,
nghèo khó làm mẹ Đấng Cứu Thế và Mẹ đã ngoan ngoãn tin tưởng vâng nghe. Thế là
chương trình cứu độ từ ngàn đời của Thiên Chúa được thực hiện.
Để
cứu độ mỗi chúng ta, Chúa cũng mời gọi chúng ta hợp tác với Chúa. Như thánh
Augustinô đã nói: “Chúa dựng nên con Chúa không cần con, nhưng để cứ độ con
Chúa cần con cộng tác”.
Xin
cho chúng ta tích cự cộng tác với ơn cứu độ của Chúa để cứu chính mình và tha
nhân.
Suy
niệm 2:
Trước
ơn phúc lớn lao, Đức Maria đã bối rối và muốn tìm hiểu xem sự việc sẽ xảy đến
như thế nào? Một khi nhận biết là ý định của Thiên Chúa, Đức Maria sẵn sàng
vâng theo chứ không hề nghi ngờ, hay kém tin.
Trước
những thử thách, thất bại, đau buồn trong cuộc sống, nhiều lúc đức tin chúng ta
cũng bị lung lay nên sinh ra nghi ngờ và than trách Chúa, ít khi chúng ta bắt
chước Đức Maria tìm hiểu xem Chúa muốn gì qua những biến cố vui buồn, thành
công thất bại, hạnh phúc hay bất hạnh ấy trong cuộc sống.
Ta
hãy tin rằng mỗi biến cố đều có sứ điệp rất quan trọng Chúa muốn gởi đến ta và
mong ta đọc ra thánh ý của Chúa để rồi chấn chỉnh lại đời sống của mình. Chúa
luôn đi ngang qua cuộc đời chúng ta, nhưng chúng ta lại không gặp Ngài. Chúa
luôn đồng hành với ta, nhưng ta lại không nhận ra Ngài. Chúa hằng gõ cửa nhà
chúng ta, nhưng ta lại không nhận ra tiếng Ngài.
Xin
cho chúng ta biết để tâm suy niệm các biến cố trong đời mà nhạy bén nhận ra
lòng thuơng xót của Thiên Chúa theo tinh thần của Mẹ Maria. Amen
(Viết
theo ý tưởng của cha Carôlô Hồ Bặc Xái, tổng đại diện Gp Cần Thơ)
Thứ
năm: Ga 5, 31-47
Tin
hay không tin là chấp nhận hay từ chối. Dù những người Do Thái, nhất là nhóm
Biệt Phái đã chứng kiến biết bao điều lạ Chúa Giêsu đã làm, nhưng họ vẫn không
tin nhận Chúa Giêsu đến từ Thiên Chúa. Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu kiên nhẫn
đưa ra những bằng chứng xác thực để minh chứng về Ngài. Nhưng vì thiếu lòng yêu
mến Chúa và cứng lòng, họ vẫn không tin.
Xin
cho chúng ta biết nhận ra lời dạy của Chúa qua các dấu chỉ của thời đại, nhất
là qua lời Chúa dạy nơi Thánh Kinh mà khiêm tốn thi hành với niềm tin tưởng vào
ơn cứu độ Chúa ban.
Để
ứng cử và thi hành nhiệm vụ HĐND hay Đại Biểu Quốc Hội, người ta cần được sự
giới thiệu của địa phương và được cử tri tín nhiệm cao.
Để
làm Linh Mục và thi hành sứ vụ tông đồ, cần có người giới thiệu, được đấng bản
quyền chuẩn nhận, cho phép.
Còn
Chúa Giêsu trái lại, khi thi hành sứ mạng Chúa Cha giao phó là cứu độ nhân
loại, thì chẳng có sự chuẩn nhận nào của Giáo quyền cũng như Chính quyền. Nên
không lạ gì Ngài luôn bị khước từ và chống đối. Nếu ta ở vào trường hợp của họ
lúc ấy, chúng ta cũng khó lòng chấp nhận Đấng Cứu Thế là ông Giêsu đến từ
Nazarét. Một Đấng Cứu thế xem ra không phù hợp với quan niệm, suy nghĩ của con
người.
Thân
thế và sứ mạng của Chúa Giêsu xem ra không hợp pháp theo quan niệm con người,
nhưng đó lại phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Vì Đức Giêsu là Thiên Chúa nên
Ngài vượt lên trên và không phụ thuộc vào những ràn buộc của thế quyền. Nhưng
để cho thế quyền chấp nhận, Chúa Giêsu sẵn sàng đưa ra những bằng chứng xác
thực để minh chứng về thân thế và sứ mạng của Ngài qua bài tin mừng hôm nay.
Thứ
nhất: Bằng chứng của Gioan Tẩy Giả: “Đấng đến sau tôi, nhưng quyền thế
hơn tôi. Tôi rửa anh em bằng nước, nhưng Đấng ấy sẽ rửa anh em trong Thánh
Thần”.
Thứ
hai: Chính lời Tôi nói và những việc Tôi làm: Có ai làm cho người mù mới sinh
được khỏi như Chúa Giêsu. Có ai làm cho một người phong cùi được sạch. Có ai
làm cho một đứa bé đã chết được sống lại. Có ai làm cho đứa con trai của bà goá
thành Naim bị cột chặt trong vải liệm và đang khiêng đem chôn được hồi sinh. Có
ai làm cho ông Lazarô chết 4 ngày được chỗi dậy. Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền
làm những điều ấy.
Thứ
ba: Chúa Cha làm chứng về Ngài: “Này là Con Chí Ái của Ta, các ngươi
hãy nghe lời Người”.
Thứ
tư: Bằng chứng của Thánh Kinh và Môsê đã loan báo về Ngài chính là Đấng Messia.
Tuy
Chúa đã đưa ra những bằng chứng xác thực như vậy, nhưng người Do Thái không
nhìn nhận Ngài.
Lý
do: Vì họ không có lòng yêu mến Thiên Chúa và vì tính ích kỉ, hám danh. Vì thế
họ đã không còn khả năng mở lòng đón nhận Ngài.
Dù
họ có tin hay không tin, thì sự thật Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm người.
với tất cả nhân tính và Thiên tính nơi Ngài. Suốt hơn hai ngàn năm qua, không
ai có thể để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử như Chúa Giêsu.
Không
nhà cách mạng tài ba nào có thể biến đổi thế giới được như Ngài. Không có vị
tôn sư nào có` một dòng dõi môn đệ đông đảo như Ngài. Không có tên ai được nhắc
một cách cực trong như tên Ngài. Không có một ân nhân nào được yêu mến say mê
như Ngài. Thế mới rõ Đấng vĩ đại ấy chính là một người, nhưng là người Chúa, vì
Ngài là Con Thiên Chúa.
Xin
cho chúng con và hết mọi người biết khiêm tốn tin nhận Đức Kitô là Chúa lòng
mình và nổ lực hết lòng hết sức sống theo lời Người chỉ dạy với tình yêu mến.
Amen.
Thứ
sáu: Ga 7, 1-2.10.25-30
Tự
mãn về sự hiểu biết của mình, dân Do Thái nói chung, cách riêng những người
Biệt Phái đã trở nên mù quáng, không còn khả năng nhận ra Đức Giêsu chính là
Đấng từ Thiên Chúa mà đến. Do đó họ đã không tin nhận Ngài và ra sức chống đối
quyết liệt. Dù ngày nay chúng ta dễ dàng tin Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người,
nhưng nhiều lúc đức tin chúng ta cũng bị chao đảo.
Xin
Chúa ban thêm lòng tin nơi chúng ta. Và cho nhiều người chưa tin Chúa cũng đón
nhận ơn đức tin như chúng ta.
Càng
ngày cuộc tranh luận về nguồn gốc và những phép lạ của Chúa Giêsu với người Do
Thái, cách riêng với nhóm Biệt Phái càng trở nên gây gắt. Khiến họ đưa đến
quyết định bắt và giết Ngài.
Bằng
lời giảng dạy khôn ngoan đầy thuyết phục, dân chúng rất ngạc nhiên về Người.
Những lời lẽ về đạo lý khôn ngoan ấy phải đến từ Thiên Chúa.
Bằng
những bằng chứng cụ thể về ông Môsê đã truyền phải làm phép cắt bì và họ vẫn
chịu cắt bì trong ngày Sabát. Vậy có người đã chịu phép cắt bì trong ngày Sabát
để khỏi phạm luật Môsê, thì tại sao Chúa Giêsu cứu chữa người bệnh tật trong
ngày Sabát lại phạm luật.
Chữa
một phần cơ thể bị bất thường là việc bác ái đáng làm trong ngày Sabát. Tại sao
với tình yêu thương cứu chữa toàn thân thể cho người bị bệnh tật trong ngày
Sabát lại không được làm? Và Chúa Giêsu khẳng định: sở dĩ họ không tin nhận
Ngài là do họ chỉ xét đoán theo bề ngoài.
Họ
cho rằng họ biết quá rõ về lý lịch Đức Giêsu. Biết nơi sinh, chổ ở và còn biết
cả cha mẹ, bà con họ hàng của Người nữa. Một người xuất thân từ một nơi chốn,
một hoàn cảnh và một gia đình nghèo khó, tầm thường, nhỏ bé thì làm sao là Đấng
Cứu Thế được.
Còn
những người có chức quyền thì ghen tức vì thấy Ngài được dân chúng ái mộ. Nhất
là họ không thể chịu nổi những lời tuyên bố về nguồn gốc xuất thân từ Thiên
Chúa của Ngài. Nên đã quyết tâm trừ khử Ngài.
Thế
đã rõ: Vì kiêu căng-tự mãn, không muốn đón nhận lời chân lý Chúa dạy nên đã có
cái nhìn lầm lạc về Chúa. Và vì tự ái-tự phụ, không muốn người khác hơn mình,
họ đã ghen ghét và tìm cách giết hại Chúa.
Xin
Chúa giúp chúng con hết lòng tin kính Chúa là Đấng Cứu Độ Chúa Cha gởi đến cho
chúng con. Và cho chúng con biết khiêm tốn ăn năn sám hối quay về với Chúa, để
đón nhận tình thương ơn chữa lành những bệnh tật tâm hồn trong mùa chay thánh
này.
Thứ
bảy: Ga 7, 40-53
Sống
theo cảm tính và nhận định chủ quan, khiến cho con người có cái nhìn sai lạc,
dễ dàng đưa đến cách hành xử tàn bạo, độc ác. Đó là điều mà Tin mừng hôn nay
muốn đề cập đến.
Trước
những phép lạ và lời giảng dạy của Chúa Giêsu, người Do Thái có những phản ứng
khác nhau: Người bình dân, đơn sơ thì tin Ngài là một ngôn sứ cao cả được Môsê
báo trước. Một số người hiểu biết thì cho rằng: Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai,
là Đấng Cứu Thế như lời ngôn sứ Isaia đã loan báo. Còn những người thuộc giới
lãnh đạo tôn giáo thì phủ nhận hoàn toàn, cho rằng: Ngài không phải là ngôn sứ,
cũng không phải là Đấng Cứu Thế.
Có
nhiều lý do:
1.
Không hội đủ những điều kiện về địa dư và dòng tộc.
2.
Sứ điệp lời Chúa có nguy cơ làm cho dân chúng sao lãng lý tưởng đấu tranh giải
phóng dân tộc.
3.
Lời giảng dạy và phép lạ Chúa Giêsu làm lu mờ hình ảnh và uy thế của họ. Vì thế
họ quyết định nhổ “cái gai Giêsu” ra khỏi mắt họ.
Nhưng
đối với những người am tường luật lệ và yêu mến sự thật thì có cái nhìn trong
sáng và cách hành xử công minh. Ông Nicôđêmô là một điển hình. Ông là thành
viên của hội đồng lập pháp, là tiến sĩ luật có thế giá và là người can đảm đứng
ra biện hộ cho Chúa Giêsu, ông nói: “muốn bắt người ta, tức là Chúa
Giêsu, thì trước hết phải đối diện thẩm vấn, phải có nhân chứng và xét xử theo
luật lệ”. Nhưng lời đề nghị của ông chẳng ăn nhằm gì với số đông chỉ
biết xử dụng luật rừng.
Thời
nay cũng vậy. Chân lý thuộc về số đông và vận mạng con người nằm trong tay
những kẻ có quyền. Công lý thường bị bẻ cong và hậu quả là những người sống
theo sự thật, chân lý và tình thương bị xem là người khờ dại. Có nguy cơ đẩy
toàn bộ thế hệ đi vào hướng nhìn lệch lạc, nhầm lẫn. Không còn phân biệt đâu là
thật, đâu là giả; đâu là chính, đâu là phụ; đâu là điều ưu tiên phải thực hiện
và đâu là điều cần bỏ qua nếu cần.
Xin
cho chúng ta biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Biết làm theo ý Chúa hơn ý
mình. Biết ưu tiên làm việc của Chúa, cho Chúa và vì Chúa. Nhất là biết chọn
Chúa làm lẽ sống và là con đường để ta dấn bước. Xin đừng để ta sống theo cảm
tính nhẹ dạ, cả tin vào những luồng tư tưởng, thông tin bên ngoài áp đặt, nhưng
biết khôn ngoan lấy Lời Chúa và Giáo Huấn Giáo làm lẽ sống. Hy vọng chúng ta
không phải đi vào vết xe đổ của người Do Thái khi xưa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét