Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 28 tháng 5, 2020

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN IX THƯỜNG NIÊN

LỄ VỌNG CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG
Xh 19, 3-8a. 16-20b; Rom. 8, 22-27; Ga 7, 37-39
Chiều hôm nay, chúng ta cùng quy tụ nhau đây để cử hành lễ vọng, mừng kính trọng thể lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết vai trò rất quan trọng của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta và GH. Chính Ngài là Đấng khai sinh và nuôi sống GH. Ngài cũng chính là nguyên lý tạo nên sự hiệp nhất trong GH và chính là nguồn sự sống đích thực của chúng ta.
Xin cho chúng ta biết khiêm tốn mở lòng đón nhận nguồn nước sự sống của Chúa Thánh Thần và ngoan ngoãn để cho CTT hướng dẫn cuộc sống chúng ta. Nhờ đó đời ta mới có thể trổ sinh được nhiều hoa trái tốt lành.  
Bài đọc 1, trích sách Xuất hành: nhấn mạnh đến sự nguy hiểm của sự chia rẽ. Trình thuật trong sách xuất hành hôm nay nhắc lại câu chuyện tháp Babel thời ông Nôe. Sau trận lục đại hồng thủy, con cháu ông Noe còn sống sót. Họ tập họp nhau lại  không phải là để tạ ơn và tìm cách tôn thờ Chúa cho phải đạo; trái lại họ quy tụ với nhau để bàn kế sách đối phó chống lại Thiên Chúa. Họ cùng nhau quyết định xây dựng cây tháp ở Babel cao ngút lên tận trời, nhằm thách thức Thiên Chúa có thể làm gì được họ. Nhưng khi họ tiến hành xây dựng được nữa chừng thì Chúa liền cho họ trở nên bất đồng về ngôn ngữ. Khiến họ không còn hiểu nhau nữa, gây nên sự chia rẽ nhau. Vì thế kế hoạch xây tháp Babel của họ bất thành.
Câu chuyện cho thấy rằng nếu con người kiêu căng muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống, sẽ nhận lấy hậu quả tai hại đó là sự chia rẽ, chống đối nhau và sẽ bị thất bại trong mọi việc làm. Chia rẽ còn đồng nghĩa với sự chết.
- Trái lại với sự chia rẽ gây nên cái chết về tình yêu thương, hiệp nhất của nơi con cháu Noe ngày xưa, thì bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến sự sống nhờ sự hiệp nhất trong  nguồn nước CTT.
Nói đến sự sống là phải nói đến nước và sự hiệp nhất. Chúa Giêsu sánh ví CTT chính là nguồn nước. Nguồn nước ấy được tuôn tràn trên các tông đồ và thế gian vào ngày lễ ngũ tuần. Ngày ấy từ Giêrusalem mới sẽ tuôn tràn nguồn suối nước mát, mang lại sự sống dồi dào cho thế gian.
Thật ra CTT là nguyên lý của sự sống đã được Thánh Kinh diễn tả khá nhiều.
Trong cựu ước, ngay từ chương đầu sách Sáng Thế đã cho thấy CTT là hơi thở Thần Khí mà TC đã thổi vào hồn con người của Ađam. Và sự sống vạn vật được hình thành kể từ khi “Thần Khí Chúa bay là trên mặt nước”. (St 1,2)
Trong sách 1 Xh 17,6-7, cho biết:  Từ trong tảng đá Mêriba ở Masa nơi sa mạc khô cằn đã tuôn ra dòng nước nuôi sống dân Do Thái trên hành trình tiến về đất hứa. Tảng đá Mêriba ấy chính là hình ảnh của Giêsu. Từ tảng đá Giêsu cũng tuôn tràn một dòng nước chính là CTT sẽ nuôi sống cho dân Chúa vượt qua hành trình tiến về quê trời.
Còn trong sách Edekiel  47, 1-9. 12,  thì mô tả. “Tôi đã thấy Nước từ bên phải Đền Thờ chảy ra, và Nước ấy chảy đến đâu thì tất cả đều được cứu rỗi…”. (Ed 47, 1-9. 12).  Đền Thờ đó chính là hình ảnh của Chúa Giêsu và từ nơi Chúa Giêsu Đền Thờ Mới ấy lại tuôn tràn dòng nước mang sự sống sung mãn đến mọi người và mọi nơi. Dòng nước ban  sự sống ấy chính là CTT.
Mừng lễ Chúa Thánh thần hôm nay, xin cho chúng ta biết nhìn nhận vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần trong GH và trong đời sống mỗi người chúng ta.  Xin cho chúng ta biết khiêm tốn mở lòng đón nhận dòng nước ân thiêng của Chúa Thánh Thần tuôn đổ vào tâm hồn chúng ta. Nhờ đó mà chúng ta được hiệp nhất với nhau trong cùng một Thánh Thần  và được tưới dội cùng một dòng nước sự sống của CTT. Nhờ đó mà hoa trái CTT là bác ái, bình an và hoan lạc được trổ sinh trong cuộc đời mỗi chúng ta.

DANH XƯNG-BIỂU TƯỢNG-VAI TRÒ CỦA CTT
Cùng với toàn thể GH, hôm nay chúng ta hân hoan mừng trọng thể lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Đánh dấu chính thức ngày khai sinh của GH, dưới sự hướng dẫn của CTT. Chính CTT là Đấng ban tràn đầy ân sủng, sự sống và sức mạnh cho GH. Ngài cũng là tác nhân tạo nên sự hiệp nhất, bình an và tình yêu trong lòng GH.
Hiệp dâng Thánh lễ hôm nay, xin Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng ta, để Ngài sửa lại mọi sự trong ngoài chúng ta. Xin CTT ban cho chúng ta biết sốnghiệp nhất với nhau trong cùng một đức tin, đức cậy và đức mến, nhất là luôn hăng say sống và làm chứng cho Tin Mừng tình thương cứu độ của Chúa.  
1. Danh xưng:
- Chúa Thánh Thần là tên gọi của Ngôi Thứ Ba trong Ba Ngôi Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Con, cùng được phụng thờ và tôn vinh với Chúa Cha và Chúa Con. (khi đọc kinh tin kính và khi làm dấu Thánh giá là chúng ta tuyên xưng uy danh ấy).
- Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, là Trạng Sư mà Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ.
- Chúa Thánh Thần cũng còn được gọi Đấng An Ủi, Thần Chân Lý (Ga 16,13), Thần Khí của Thiên Chúa (Rm 8,9; 15,19; 1Cr 6,11; 7,40), Thần Khí của Chúa Kitô (Rm 8,11), Thần Khí Vinh Hiển (1P 4,14), Thần Khí của Lời hứa (Gl 3,14: Ep 1,13), Thần Khí làm cho ta nên nghĩa tử (Rm 8,15; Gl 4,6)…
2. Biểu tượng:
Chúa Thánh Thần được nhắc đến trong Kinh Thánh dưới nhiều biểu tượng khác nhau như: nước, dầu, lửa, áng mây và ánh sáng, chim bồ câu…
- Gió, hơi thở: (Tiếng Hipri: Ruah; tiếng Hylạp: Pneuma) là sinh khí, sức sống mà Thiên Chúa ban để con người tham dự vào sự sống của Người (Ds 16,22; Cv 2,2; Ga 3,8)
- Nước: có ý nghĩa về hoạt động của Chúa Thánh Thần để thanh tẩy. Chúa Thánh Thần là nước nguồn vọt ra từ Chúa Kitô bị đóng đinh trên thập giá rửa ta sạch mọi tội lỗi và sinh ra lại làm con Chúa; trong bí tích Thánh Tẩy, Chúa Thánh Thần thanh tẩy tội lỗi và sinh ta lại làm con Thiên Chúa (Ga 3,5)
- Dầu: nói lên sức mạnh đặc biệt Thiên Chúa ban, cách riêng cho những kẻ Người chọn. Việc xức dầu rất có ý nghĩa đối với Chúa Thánh Thần, người “được xức dầu” đồng nghĩa với được “Thánh Thần ngự đến” (Is 61,1tt; Lc 4,16tt)
- Áng mây và ánh sáng: Hai biểu tượng này nói lên sự tỏ hiện của Chúa Thánh Thần mặc khải về sự hiện diện và quyền năng của Thiên Chúa hằng sống và cứu độ (Ds 11,24–25; Lc 9,28–36)
- Bàn tay: Thánh Thần được thông ban nhờ việc đặt tay của Đức Giêsu (Mc 6,5; 8,23; 10,16; 16,18) và của các Tông đồ (Cv 5,12; 8,17-19; 13,3; 14,5; 19,6). Giáo Hội cũng đặt tay khẩn cầu Thánh Thần trong các bí tích.
- Chim bồ câu: Hình ảnh chim bồ câu biểu tượng Thánh Thần xuống trên Đức Giêsu khi chịu phép Rửa sám hối ở sông Jođan, nói lên sứ mạng của Đức Giêsu. Chúa Thánh Thần cũng sẽ ngự xuống và ở lại trong tâm hồn tín hữu đã lãnh nhận bí tích Thánh tẩy.
3. Vai trò của Chúa Thánh Thần:
- Chúa Thánh Thần đóng một vai trò rất quan trọng cho sự hình thành và phát triển vũ trụ vạn vật. Sách Sáng thế viết: khi đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.
- Trong biến cố truyền tin Thiên Chúa nhập thể nơi cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria thì Chúa Thánh Thần là tác nhân chính. Tin mừng Luca khẳng định: Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.
- Khi Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan thì Chúa Thánh Thần dưới hình chim bồ câu hiện đến để thông truyền cho nhân loại biết Đức Giêsu quả thật là Con yêu dấu của Thiên Chúa.
- Đặc biệt, trong ngày Lễ Ngũ Tuần, chính Chúa Thánh Thần lấy hình lưỡi lửa đậu xuống trên các tông đồ và làm cho các tông đồ nhớ lại mọi điều Đức Giêsu đã nói với các ngài, đồng thời khiến các ngài đang từ những kẻ nhút nhát, sợ sệt đã trở nên những con người can đảm, mạnh mẽ, sẵn sàng ra đi làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh.
* Ngày nay, Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động trong đời sống của Giáo hội. Sự tác động của Chúa Thánh Thần sẽ làm Giáo hội không ngừng phát triển, nhất là Người luôn luôn đồng hành với mỗi người chúng ta. Thế nên, trước khi chúng ta bắt tay vào làm bất kỳ công việc nào, chúng ta đều khởi đầu bằng việc nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, đồng thời cầu xin sự soi sáng và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để tất cả mọi việc từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa.
Như vậy, vai trò của Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng trong công cuộc sáng tạo và cứu chuộc. Hơn thế nữa, Chúa Thánh Thần còn không ngừng thánh hóa toàn thể nhân loại. Người sẽ thúc đẩy tâm hồn con người hành động theo sự hướng dẫn của Người để có thể đưa nhân loại tiến vào con đường hoàn thiện trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Như lời Đức Giêsu đã nói với các môn đệ xưa về sự xuất hiện của Chúa Thánh Thần sau khi Ngài về với Chúa Cha cũng là đang nói với mỗi người chúng ta hôm nay. Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta quên mất vai trò của Chúa Thánh Thần, hay nói một cách khác là chúng ta bỏ rơi Chúa Thánh Thần, chẳng quan tâm đến sự hiện hữu của Người trong cuộc đời chúng ta.
Xin cho mỗi người chúng ta biết đón nhận Lời Chúa và mở rộng con tim để Chúa Thánh Thần đến và hoạt động trong tâm hồn chúng ta. Chắc chắn Chúa Thánh Thần sẽ luôn đồng hành, gìn giữ và thánh hóa mỗi người, đồng thời Người sẽ thúc đẩy chúng ta hăng say làm chứng nhân cho Đức Kitô Phục Sinh trong chính cuộc sống hằng ngày.

Thứ Hai: Mc 12, 1-12.
Khi rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu thích dùng những hình ảnh gần gũi nhưng sâu sắc, đơn sơ nhưng thực tế nhằm diễn tả mầu nhiệm nước trời và khơi lên những thực trạng của đời sống con người. Dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe trong đoạn Tin mừng hôm nay là một ví dụ. Để nêu lên quá khứ đáng chê trách của dân Do Thái thời cựu ước, nhất là sự tắc trách của các kỳ mục, kinh sư và biệt phái thời bấy giờ, Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn những tá điền sát nhân.
- Hình ảnh ông chủ vườn nho chính là Thiên Chúa.
- Vườn nho được xem là dân Israel; sau này là GH; cũng có thể hiểu đó là những ân huệ về vật chất và tinh thần nơi mỗi chúng ta.
- Bồn nho, tháp canh và rào dậu… tất cả là những giáo huấn, lề luật và ân huệ của Chúa ban.
- Tá điền chính là những giới chức đạo-đời.
- Những đầy tớ chính là các ngôn sứ, hay những người đại diện nói Lời Chúa.
- Người con của ông chủ chính là Đức Giêsu.
Tất cả những hình ảnh mà Chúa Giêsu đề cập trong dụ ngôn trên đây nhằm phản ánh sự đối lập giữa một vị Thiên Chúa giàu lòng yêu thương và sự bất trung của con người.
-  Vì yêu thương TC tin tưởng trao ban: hình ảnh tận tụy của ông chủ vườn nho như: trồng nho, đào bồn ép, xây tháp canh, rào dậu chung quanh… rồi tin tưởng giao cho tá điền chăm sóc mà trẩy đi xa; cho thấy Thiên Chúa luôn tin tưởng chúng ta là những tá điền của Chúa. Người không đứng cạnh bên ta dòm ngó như viên cảnh sát, nhưng để ta tự do sáng kiến làm việc. Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ vạn vật và trao cho chúng ta “giữ và canh tác vườn” như đã từng trao cho Adam và Eva xưa, nên ta phải yêu mến đáp lại sự tin tưởng của Chúa dành cho chúng ta bằng cách tích cực chu toàn tốt nhất nhiệm vụ Chúa trao. Dân Israel được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Người như là vườn nho được Người yêu thương. Ngừơi đã tin tưởng trao phó dân Israel cho các giới chức tôn giáo chăm sóc hướng dẫn, nhưng họ đã lười biếng và tắc trách nên đã làm hư hoại dân Người.
-  Vì yêu thương TC kiên trì nhắc nhở: như người chủ khi thấy sự lười biếng của tá điền liền sai những người đầy tớ của ngài đến nhắc nhở họ. Thiên Chúa không chỉ sai 1 tiên tri mà nhiều tiên tri; không chỉ sai một lần mà nhiều lần các ngôn sứ đến để nhắc nhở dân Do Thái về sự bất trung của họ. Nhưng họ vẫn bưng tai bịt mắt làm ngơ trước lời mời gọi của Chúa. Thiên Chúa cũng nín chịu hết mọi tội lỗi của con người chúng ta và kiên nhẫn chờ đợi chúng ta ăn năn đổi mới. Dân chúng và các giới chức lãnh đạo đời Do Thái tượng trưng cho những tá điền. Nhiều lần Chúa gửi các ngôn sứ đến nhắc nhở sai lầm và kêu gọi họ sống theo đường lối Chúa, nhưng họ không nghe mà còn ra tay sát hại các ngôn sứ của Chúa.
-  Vì yêu thương TC hy sinh Người Con yêu quý: Các tá điền không chỉ ngược đãi đánh đập những đầy tớ của chủ sai đến, mà còn nhẫn tâm bắt trói và quăng xác Con Ông Chủ ra khỏi vườn nho, rồi giết đi.  Đó là lời tiên tri mà Chúa Giêsu báo trước về cái chết của Người ngoài thành Giêrusalem, do lòng hận thù của dân chúng và những giới chức tôn giáo Do Thái.
-  Vì yêu thương TC phán xử công thẳng: Cuối cùng thì ông chủ cũng lấy lại vườn nho và trao lại cho người khác canh tác. Tương tự như thế, Thiên Chúa phán xét thật công thẳng vì “ác giả thì ác báo”. Thiên Chúa sẽ lấy khỏi tay những ai chểnh mảng tự hào về tài năng Chúa ban cho mình mà không lo chu toàn tốt bổn phận Chúa trao để trao lại cho những ai biết tích cực làm việc cho Chúa. Chúng ta cũng sẽ phải trả lời về những hành vi của mình trước mặt Thiên Chúa về cách chúng ta thi hành những bổn phận mà Chúa trao ban.
Xin Chúa cho chúng ta có được con mắt tinh tường để nhận ra những ơn huệ Chúa ban; đôi tai sâu lắng để nghe được Lời dạy của Chúa cùng trái tim nhạy bén để cảm nhận được tình yêu tận hiến đến cùng mà Thiên Chúa dành  cho chúng ta. Xin đừng để chúng ta trở nên kẻ vô ơn bạc nghĩa như những tá điền bất trung, nhưng trở nên những tá điền trung thành và khôn ngoan để thi hành tốt bổn phận Chúa trao ban, nhằm sinh lợi nhiều hoa trái tốt lành cho vườn nho của Chúa là bản thân, gia đình và GH.

Thứ Ba: Mc 12, 13 -17.
Sau nhiều lần gài bẫy Chúa Giêsu không thành, lần này những người Pharisêu sẵn sàng phối hợp với nhóm người Hêrôđê tạo thành sức mạnh gọng kìm nhằm tấn công triệt hạ cho bằng được Chúa Giêsu, cho dầu hai nhóm này không cùng chung một lý tưởng và quan niệm sống:
- Phe Pharisêu: Chủ trương chống lại mọi thế lực ngoại bang, cũng như phản đối việc nộp thuế cho đế quốc Rôma.
- Phe Hêrôđê: thì chủ trương thỏa hiệp với Rôma để được an phận. Vì lợi ích cá nhân, họ sẵn sàng cộng tác làm việc cho đế quốc Rôma nhằm bóc lột dân tộc mình.
Nhưng vì hôm nay họ có cùng một đối tượng nhắm đến để triệt tiêu là Chúa Giêsu, nên họ sẵn sàng kết thân với nhau.
Trước đây, những người Pharisêu cũng đã không ít lần giăng bẫy để cho Chúa Giêsu vướn vào khung hình phạt cao nhất của luật Do Thái giáo là tử hình, nhưng Người đã khôn khéo vượt thoát. Hôm nay, với quyết tâm cao nhất là không để Chúa Giêsu vượt thoát lưới giăng như những lần trước, nên họ liên minh với phe Hêrôđê nhằm đẩy Chúa Giêsu vướn khung hình phạt cao nhất của luật dân sự là phản động, chống lại đế quốc Rôma. Như thế phe Hêrôđê sẽ tóm lấy và lên án tử cho Người.
Nhưng để gài bẫy được Chúa Giêsu không phải dễ dàng. Nên trước khi đặt bẫy họ bày ra miếng mồi thơm ngon bằng những lời khen tặng dành cho Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật không vị nể ai…” nhằm cho thấy thiện chí và chân thành của họ. Nhưng liền ngay đó, bất ngờ họ đưa ra câu hỏi chết người: “có nên nộp thuế cho Xêda không?”.  Trả lời “không” cũng chết mà trả lời “phải” cũng chết. Nếu Chúa trả lời “Phải!” họ sẽ xui giục dân chúng chống Chúa vì toa rập với thế lực nước ngoài. Nếu Chúa trả lời “Không” họ sẽ nộp Chúa cho quân đội Rôma vì xui giục dân phản chính quyền. Nhưng vì quá hiểu về lòng dạ thâm hiểm của họ, Đức Giêsu nói với họ: "Tại sao các người lại thử tôi? Đem một đồng bạc cho tôi xem!". Họ liền đưa cho Người. Người hỏi: "Hình và danh hiệu này là của ai đây?" Họ đáp: "Của Xê-da." Đức Giêsu bảo họ: "Của Xê-da.", trả về Xê-da."; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa". Câu trả lời thật tuyệt vời làm họ hết sức ngạc nhiên về Người. Như vậy “lưới giăng đã đứt rồi, thế là ta thoát nạn” (Tv  124, 7).
Qua câu trả lời khôn ngoan ấy, ngoài việc Chúa Giêsu đã vượt thoát khỏi án tử họ giăng, Người còn minh định cho họ hiểu về hai vấn đề quan trọng:
-  Thứ nhất: Tôn giáo và chính trị tách biệt nhau. Chính trị không thể trở thành tôn giáo hoặc bắt tôn giáo làm nô lệ cho chính trị. Tôn giáo cũng không thể đi vào chính trị, đánh mất bản chất của mình.
-  Thứ hai: Mỗi người phải chu toàn hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ đối với xã hội là “trả cho Xê-da” những gì của Xê-da. Nhiệm vụ đối với Thiên Chúa: “trả cho Thiên Chúa” những gì thuộc về Thiên Chúa.
Hình và huy hiệu khắc trên đồng tiền là hình của hoàng đế Xê-da, vì thế phải trả lại cho ông ta. Nhưng linh hồn con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nên linh hồn phải được trả về cho Thiên Chúa.
 Xin cho chúng ta biết khiêm nhường nhìn nhận chúng ta không khôn ngoan hơn Thiên Chúa nên hãy ngoan ngoãn  vâng lời và làm theo những gì Ngài truyền dạy. Điều quan trọng là lo chu toàn tốt bổn phận tôn thờ Thiên Chúa; đồng thời cũng không quên bổn phận đóng góp công sức tiền của để xây dựng GH và xã hội trần thế theo tinh thần Phúc âm, hầu trở nên người công dân tốt và người Kitô hữu trưởng thành.

Thứ TưMc 12, 18-27.
Đa phần con người tin có sự sống lại và cuộc sống đời sau. Nhưng cũng phần lớn cho rằng sự sống đời sau cũng giống như sự sống đời này. Còn quan niệm người Kitô hữu chúng ta thế nào về vấn đề này? Đó là điều mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin mừng hôm nay. Chúng ta lắng nghe lời Chúa dạy để có quan niệm đúng đắn hơn trong vấn đề này.
Thời Chúa Giêsu có khá nhiều nhóm: Pharisêu, Biệt phái, Hêrôđê và Saduceo. Mỗi nhóm theo đuổi 1 lý tưởng khác nhau, và cũng có những quan niệm khác biệt. Nhóm Saducêo mà Tin mừng hôm nay nhắc đến không tin vào sự sống lại giống như những người theo duy vật chủ nghĩa thời nay. Do đó họ tìm mọi cách để đối chất với Chúa Giêsu nhằm hạ nhục và loại trừ quan niệm vào sự sống lại mà Chúa Giêsu rao giảng. Họ đặt ra 1 câu chuyện lố bịch về 1 gia đình có 7 người anh em. Theo luật Môisen thì nếu người anh lớn cưới vợ mà chẳng may chết đi không con, thì người em phải cưới lấy người vợ góa đó, để sinh con nối dõi tông đường. Vậy có cả thảy 7 người anh em cùng cưới 1 bà vợ. Nhưng lần lượt cả thảy 7 người anh em đó đều chết đi và không con. Cuối cùng người vợ góa đó cũng chết. Vậy nếu có sự sống lại thì ai sẽ là người chồng của chị ta?
Tình thế họ đặt ra xem ra rất hóc búa, nhưng Chúa Giêsu đã dựa trên nền tảng Thánh Kinh đoạn nói về Môisen diện kiến Thiên Chúa nơi bụi gai cháy sáng, để minh chứng cho biết: “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống”. Bởi lẽ Người là “Thiên Chúa hằng hữu”. Thứ hai sự sống mai sau là sự sống vĩnh cửu nên không còn phải lấy vợ cưới chồng để duy trì giống nòi nữa. Thứ ba tình trạng sự sống mai sau không giống như sự sống trần gian mà như các Thiên Thần.  Với câu trả lời ấy, Chúa Giêsu đã làm cho họ phải câm miệng không còn vênh váo, khoát lát nữa.
Trong cuộc sống trần gian này mỗi người có cái nhìn khác nhau nên đưa đến những quan niệm niềm tin khác nhau. Do đó cần tránh thái độ kiêu căng xem thường quan niệm niềm tin của người khác; trái lại phải tìm cách dung hòa trong tinh thần tôn trọng những khác biệt. Là người Kitô hữu chúng ta phải tin tưởng vào Lời Chúa dạy và GH hướng dẫn nên phải xác tín vững chắc vào sự sống lại và sự thưởng phạt đời sau.
Xin cho chúng ta luôn biết gắn kết với Chúa trong lời cầu nguyện, siêng năng tham dự thánh lễ và kết hợp với Chúa trong Bí tích Thánh Thể, nhất là khiêm tốn lắng nghe và thực thi lời Chúa trong việc trung thành sống giới luật yêu thương mà Chúa chỉ dạy. Nhờ đó ta mới có thể hưởng được tình trạng hạnh phúc viên mãn như các Thiên Thần mai này. 

Thứ NămMc 12, 28b-34.
Cốt lõi của đạo Công giáo là Bác ái. Bác ái là đồng phục và là ngôn ngữ chung của người kitô hữu. Bác ái là dấu chứng để nhận ra môn đệ của Chúa Kitô, cũng là ngôn ngữ cao trọng của loài người và các Thiên Thần; Và là ngôn ngữ độc nhất tồn tại trên thiên đàng.  Xin cho chúng ta biết giá trị cao quý của Bác ái và nỗ lực thi hành đức ái trong đời sống để xứng danh là môn đệ Chúa.
Sống trong xã hội Do Thái thời bấy giờ, với ngổn ngang những luật lệ, làm cho con người không còn phân biệt đâu là chính, đâu là phụ. Vì thế, một người trong nhóm Luật sĩ tới hỏi Chúa Giêsu xem điều răn nào là quan trọng nhất?
Thời bấy giờ lại có nhiều phe nhóm, mỗi phe nhóm đề cao một số luật lệ. Có lẽ, nhân cơ hội này họ cũng muốn biết Chúa Giêsu đứng về phe nhóm nào? Bằng cách thăm dò đó, họ cũng muốn thử xem trình độ hiểu biết về Thánh Kinh và Luật Lệ của Chúa Giêsu ở mức độ nào? Chúa Giêsu trích dẫn hai câu Thánh Kinh, một trong sách Đệ Nhị Luật và một trong sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực ngươi”. Đó là điều quan trọng thứ nhất. Điều luật thứ hai cũng quan trọng không kém, đó là: “Ngươi phải yêu thương người tha nhân như chính mình ngươi”.
1. Yêu mến Chúa:
- Yêu mến Chúa hết lòng: Nghĩa là ta phải yêu Chúa chân thật, tình yêu phát xuất từ đáy lòng. Yêu hết lòng cũng có nghĩa là yêu trung thuỷ, trước sau như một, không bao giờ thay lòng đổi dạ, không một cản trở nào làm giảm bớt hay sức mẻ, dù có phải hy sinh vẫn chấp nhận.
- Yêu mến Chúa hết linh hồn: Nghĩa là tình yêu ta dành cho Chúa có sự can thiệp của những tài năng linh hồn Chúa ban: lý trí, ý chí và nhất là tự do. Chứ không phải là tình yêu mù quáng.
2. Yêu thương người:
- Tha nhân là ai ?
Trong Cựu ước chỉ có nghĩa là người gần gũi với người Do thái về huyết thống và chủng tộc. Nhưng “tha nhân”  mà Đức Giêsu dùng ở đây có ý hiểu về hết mọi người, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, người nghĩa thiết hay kẻ thù…
- Như chính mình là sao?
Không có nghĩa là ngươi phải làm cho kẻ khác những gì ngươi làm cho ngươi, nhưng đúng hơn là phải đối xử với kẻ khác cùng một “tình yêu” như ngươi đã xử với ngươi. Đó là một nét độc đáo của tình yêu Kitô giáo, thứ tình yêu đạp đổ mọi hàng rào ngăn cách chủng tộc, mầu da, vượt lên trên óc phân biệt quốc gia hay tôn giáo, quên đi mọi hiềm khích hay những thành kiến cá nhân hoặc cổ truyền.
* Mến Chúa và yêu người, đó là hai mặt của một tình yêu. Giống như đồng tiền hai mặt, bỏ một mặt cũng đồng nghĩa là bỏ cả hai.
Xin Chúa cho chúng ta biết sống trọn vẹn điều luật Chúa dạy bằng cách đặt Chúa vào vị trí quan trọng nhất trong cuộc đời của ta và luôn biết đối xử với tha nhân bằng tình yêu chân thành như chính Chúa đã yêu thương chúng ta. Thực hiện được như thế chúng ta mới xứng danh là môn đệ của Chúa Giêsu và xứng đáng đón nhận phần thưởng nước trời.

Thứ Sáu: Mc 12, 35-37
Như chúng ta đều biết, Tin mừng thánh Marcô là quyển tin mừng ngắn nhất, chỉ gồm 16 chương; trong khi đó Tin mừng Matthêu chương 28, Luca 24 chương, và Gioan 21 chương. Tuy ngắn nhưng Tin mừng Marcô lại ghi lại 5 cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với :
(1) các Thượng tế, Kinh sư và Kỳ mục về quyền bính của Chúa Giệsu sau khi đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ (Mc 11,27-33);
(2) với nhóm Pharisêu và mấy người thuộc phe Hêrôđê về việc có nên nộp thuế cho Xêda không? (12, 13-17);
(3) với nhóm Xađốc về kẻ chết sống lại (12, 18-27); 
(4) với một vị Kinh sư về điều răn nào trọng nhất? (12, 28-34);
(5) Và hôm nay là cuộc tranh luận thứ 5 về vấn đề Đức Kitô và vua Đa vít. (12, 35-37).
Cuộc tranh luận hôm nay được diễn ra trong đền thờ, trước đám người đông đảo. Vấn đề được đặt ra là “các Kinh sư nói Đấng Kitô là con vua Đa-vít”. Đây không chỉ là quan niệm của các Kinh sư mà còn là quan niệm hầu hết những người Do Thái thời bấy giờ. Tại sao họ có quan niệm như vậy?
Thưa bởi vì họ không muốn tin nhận Đấng Kitô là Thiên Chúa. Họ chỉ muốn tin nhận Đấng Kitô theo nghĩa chính trị, Ngài đến để lãnh đạo dân chúng làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma.
Bằng việc trích lại lời của thánh vương Đa-vít nói: “Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con.” (Tv 110, 1), Chúa Giêsu minh chứng cho họ thấy, Đấng Kitô ấy không chỉ là người được sinh ra bởi dòng tộc Đa-vít, mà Đấng ấy còn là Chúa Thượng của vua Đa-vít nữa. Và Chúa Thượng đó chính là Ngài.
Theo như lời của thánh vương Đa-vít nói ở trên, ta phải ngầm hiểu rằng bao địch thù là tội lỗi, ma quỷ và sự chết… phải được đặt dưới chân Ngài qua cuộc khổ nạn và phục sinh, rồi mới lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Nên Ngài không phải là Đấng Kitô theo quan niệm chính trị như những Kinh sư đã nói, mà Ngài chính là Thiên Chúa làm người để cứu độ nhân loại.
Ngày nay vẫn còn đó nhiều người vẫn quan niệm về một Đức Kitô rất trần tục như các Kinh sư và nhiều người Do Thái xưa. Họ chỉ xem Ngài như là một thần tượng như bao thần tượng khác, khá hơn là một siêu nhân, hay một ông thần như bao nhiêu Bụt thần khác. May mắn thay, chúng ta đã tin nhận Đức Kitô là Chúa Thượng nhưng Người đã chấp nhận đi qua con đường đau khổ thập giá, con đường của hi sinh tận hiến, của khiêm tốn phục vụ đến cùng vì yêu thương chúng ta.
Xin cho chúng ta biết can đảm chọn lựa chọn con đường tình mà Chúa đã đi qua, và luôn hằng vững bước theo Ngài với niềm tin yêu và phó thác vào tình thương và quyền năng của Chúa.

Thứ bảy: Mc 12, 38-44
Có lẽ hai hình ảnh đẹp được Chúa Giêsu yêu thích và khen ngợi nức lòng nơi đền thờ khi Ngài còn ở tại thế, đó là hình ảnh của người thu thuế và người đàn bà góa nghèo.
1.  Người thu thuế khi lên đền thờ cầu nguyện là hình ảnh đẹp. Đẹp bởi tâm tình thống hối chân thành và thái độ khiêm nhường thẳm sâu: “Đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Nên khi ra về ông được Chúa tha thứ và trở nên công chính. Vì “Ai nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên”.
2. Người đàn bà góa nghèo bỏ “hai đồng tiền là một phần tư xu” vào hòm tiền hôm nay. Hình ảnh của bà thật tuyệt đẹp làm Chúa Giêsu phấn khích đến nỗi đã gọi ngay các môn đệ lại chỉ cho thấy và dạy các ông : “Thầy nói thật với các con: trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà góa này đã bỏ nhiều hơn hết”. Nết đẹp của bà không đến từ dáng vẻ bên ngoài như những vị Luật sĩ với những bộ áo thụng đắc tiền, hay bởi có chức cao quyền trọng được mọi người kính trọng…Nhưng nét đẹp của bà được ẩn bên trong, đó là nét đẹp của tấm lòng. Một tấm lòng quảng đại, yêu thương cho đi mà không cần tính toán. Đúng như ông bà ta thường nói: của ít lòng nhiều; giá trị của quà tặng không tùy thuộc vào số lượng mà là ở tấm lòng.
Việc dâng cúng của người đàn bà góa nghèo hết sức bé nhỏ, nhưng lại vô cùng to lớn trước mặt Chúa, vì bà đã cho tất cả những gì bà có, ngay cả hai đồng xu đó chính là thứ nuôi sống bà “đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống”.
Tinh thần cho đi của bà góa nghèo phải là khuôn mẫu cho tinh thần bác ái người Kitô giáo chúng ta. Đó là tinh thần vô vị lợi, không màng đến danh lợi, cũng không nhằm phô trương đánh bóng tên tuổi. Bác ái Kitô giáo không phải là cho đi những thứ dư thừa, nhưng là cho đi những gì thiết thân nhất cho đời sống của mình, nhưng lại là nhu cầu cần thiết nhất của tha nhân.
Thật ra làm bác ái không khó. Không khó, bởi vì thông thường chúng ta chỉ cho đi những gì dư thừa. Chúng ta chỉ cần mặc ba bốn bộ đồ hay mang vài ba đôi dép… là đủ. Nhưng thực tế, nhiều người trong chúng ta lại sở hữu lên đến vài chục bộ đồ, hàng chục đôi giày dép, mà những thứ dư thừa này luôn nằm im trong tủ, không bao giờ ta sử dụng đến. Nên khi cho đi những thứ ấy không khó chút nào, nhưng cho đi với tình thần bác ái Kitô giáo thì không dễ, bởi nó đòi hỏi chúng ta phải chia sẻ những gì chúng ta cần, chứ không phải những gì dư thừa. Tuy nhiên nếu chúng ta có được niềm tin và tình yêu vào Chúa thì chúng ta sẽ làm được.
Xin cho chúng ta đừng bao giờ có thái độ trọng phú, khinh bần cũng như đánh giá tha nhân qua dáng vẻ bên ngoài. Nhưng xin cho chúng ta luôn biết trân quý tấm lòng bên trong của mỗi con người. Nhất là xin cho chúng ta hằng để tâm giúp đỡ những ai đang gặp khốn khó, nghèo khổ bằng tinh thần bác ái Kitô giáo chân thành.

Thứ Bảy, 23 tháng 5, 2020

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN VII PHỤC SINH

CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN NĂM A
Mt 28, 16-20
Hôm nay cùng với Giáo Hội chúng ta long trọng mừng kính lễ Chúa thăng thiên. Vậy thăng thiên là gì?
Theo wikipedia, thăng thiên có hai nghĩa:
1. Lên trời, bay lên trời. Ví dụ: Ngày ông táo thăng thiên.
2. Còn có nghĩa là đã chết. Ví dụ: Bà tôi đã thăng thiên rồi.
Như vậy Chúa Giêsu thăng thiên nghĩa là Ngài lên trời sau khi đã chết và sống lại. Vì thế lễ thăng thiên được cử hành sau lễ Phục sinh 40 ngày (tính từ Chúa nhật Phục sinh). Sau khi sống lại, Chúa Giêsu còn ở lại với các môn đệ 40 ngày nữa, rồi Ngài mới lên trời, kết thúc sự hiện diện cách hữu hình ở trần gian.
Trong 40 ngày sau khi sống lại ấy, Chúa Giêsu Phục sinh đã nhiều lần tỏ mình ra cho các môn đệ, nhằm minh chứng Ngài đang sống (Cv 1, 3). Ngài đã hiện ra với những người phụ nữ (Mt 28, 9-10), với các tông đồ và với hai môn đệ trên đường Emmau (Lc 24, 11-43), với hơn 500 người khác (1 Cr 15, 6)… Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ về nước Trời (Cv 1, 3). Ngài cũng đã an ủi, khích lệ, trao ban Thánh Thần, bình an và sứ mạng loan báo Tin mừng cho các ông. Sau đó, Ngài mới thăng thiên về thiêng đàng (Lc 24, 50-51; Cv 1, 9-11).
Kinh thánh cho biết sự kiện thăng thiên của Đức Giêsu chính là sự trở về thiên đàng. Đức tin cũng dạy cho ta biết, thiêng đàng hay nước trời không phải là nơi chốn mà là tình trạng hay trạng thái. Nên sự kiện Đức Giêsu thăng thiên cho thấy từ đây Ngài không còn hiện diện cách hữu hình nữa mà hiện diện cách thiêng liêng, Ngài không còn bị sự chi phối bởi thế giới vật chất nên Ngài không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian nữa. Vì thế, cho dẫu Ngài đã thăng thiên, nhưng Ngài vẫn hiện diện cách tích cực và nhiệm mầu với các môn đệ và trong thế giới này.
Nhưng ta tự hỏi xem, sự kiện Chúa Giêsu thăng thiên có ý nghĩa gì đối với ta?
1. Báo hiệu sứ vụ cứu độ của Ngài ở trần gian đã kết thúc tốt đẹp. Tuy nhiên ơn cứu độ ấy có đến được với mọi người hay không còn tùy thuộc rất nhiều vào mỗi người chúng ta. Vì thế trước khi thăng thiên, Chúa Giêsu đã trao ban sứ vụ loan báo tin mừng lại cho các môn đệ, với ơn trợ giúp của Ngài, dưới sự hướng dẫn của CTT.
2. Cho thấy sự vinh hiển thần tính của Đức Giêsu. Sự vinh hiển thần tính của Ngài trước đây đã bị che khuất trong suốt khoảng thời gian 33 năm ở thế gian, chỉ ngoại trừ lúc Ngài biến hình chốc lát trên núi Tabor (Mt 17,1-9).
3. Mang đến niềm hy vọng tương lai sáng ngời cho nhân loại chúng ta, bởi ta tin rằng sau khi kết thúc cuộc sống này ở trần gian, chúng ta cũng sẽ được về trời với Chúa. Và Chúa Giêsu chính là niềm hy vọng vào sự sống vinh hiển cho chúng ta mai sau, bởi vì Ngài đã chết, đã sống lại và lên trời trong vinh quang mở ra con đường đến quê trời vinh hiển, nơi đó Ngài cũng đã chuẩn bị chỗ để đón nhận chúng ta về với Người. (Ga 14, 2).
4. Sự kiện Chúa Giêsu thăng thiên và ngự bên hữu Chúa Cha trong nước trời còn cho thấy Ngài là TC uy quyền, mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao cho Ngài. Nên ta hãy tin tưởng và phó thác cuộc đời mình trong bàn tay đầy yêu thương và quyền năng của Ngài.
5. Khát vọng được về trời là khát vọng lớn lao nhất của con người cách chung và của người kitô hữu chúng ta cách riêng. Tuy nhiên để đạt được khát vọng sâu xa ấy, ta cần phải tích cực thi hành sứ loan báo tin mừng hay làm chứng nhân cho Chúa. Bởi đây là lệnh truyền tâm huyết cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi về với Chúa Cha. Sứ mạng ấy ngày xưa Chúa trao cho các môn đệ : “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, nhưng nay sứ mạng ấy, Chúa lại trao ban cho mỗi người tín hữu chúng ta, với lời hứa có Chúa ở cùng, nhờ sự hướng dẫn tích cực của Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu chỉ về trời sau khi đã hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại ở trần gian. Xin cho chúng ta biết ý thức về bổn phận và sứ mạng của mình do Chúa giao phó mà nỗ lực chu toàn với niềm hy vọng vào hạnh phúc vinh hiển mai sau trong nhà Cha trên trời. Amen.

Thứ hai: Ga 16, 29-33
Tin mừng hôm nay ghi lại cuộc đối thoại chân tình giữa Chúa Giêsu với các môn đệ trong một bố cảnh hết sức đặc biệt, trước khi Chúa Giêsu rời khỏi các môn đệ để bước vào cuộc khổ nạn. Tuy nhiên trong bầu khí trầm buồn, ngậm ngùi này lại loé lên tia sáng của niềm vui, hy vọng và tin tưởng.
- Vui là bởi vì các môn đệ đã hiểu rõ về Thầy mình chính là Đấng bởi Thiên Chúa mà đến. Các ông nói rằng:“Bây giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự…Bởi đó chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra”.
- Hy vọng, vì cho dù các môn đệ sẽ sợ hãi chạy trốn bỏ Thầy một mình trong cuộc khổ nạn, “các con sẽ tản mác mỗi người một ngả và bỏ mặt Thầy một mình”, nhưng Chúa Cha hằng ở với Thầy nên Thầy sẽ không cô đơn.
- Tin tưởng, bởi vì cho dẫu nhiều gian lao, thử thách và bách hại sẽ xảy đến với các môn đệ, nhưng Chúa Giêsu chấn an các môn đệ hãy an tâm vì có Ngài hằng ở cùng các ông. Và mời gọi các ông hãy đặt niềm tin tưởng vào Ngài “vì Thầy đã thắng thế gian” .
Nước mắt và nụ cười, đau khổ và hạnh phúc là những sợi chỉ đa sắc màu được đan dệt chặt chẽ vào nhau, làm nên tấm thảm của cuộc đời. Bao giờ còn sống giữa thế gian thì còn giới hạn và bất toàn. Chính điều đó đã khiến con người cảm thấy đau khổ.
Có những đau khổ vốn từ bản chất, vì ảnh hưởng bởi tội nguyên tổ; tuy nhiên cũng có những đau khổ do chính mình, hay do người khác hoặc bởi hoàn cảnh gây nên. Nhưng nếu ngồi đó mà nguyền rủa, chắc chắn cũng không tránh được. Bóng tối sẽ không tan biến nếu chúng ta không thắp lên ánh sáng. Ánh sáng của niềm tin, hy vọng và phó thác trọn vẹn vào tình yêu và uy quyền nơi Chúa Giêsu phục sinh.
Cuộc đời chúng ta sẽ bình an khi đối mặt với những thử thách và đau khổ nếu chúng ta biết đặt trọn niềm tin, hy vọng và phó thác vào Chúa Phục sinh. Bởi Chúa Giêsu chỉ phục sinh vinh quang sau khi đã trãi qua thập giá với niềm tin tưởng và phó thác hoàn toàn vào thánh ý Chúa Cha.

Thứ ba: Ga 17,1-11a
Tin mừng hôm nay ghi lại những lời cầu nguyện tha thiết của Chúa Giêsu. Đây được gọi là lời cầu nguyện hiến tế. Bởi lẽ lời cầu nguyện này quy hướng về Chúa Cha để dâng hiến đời mình; và cũng hướng về các môn đệ những người còn ở lại thế gian, hầu xin ơn giải thoát cho họ khỏi quyền lực của thế gian, để họ thuộc trọn về Chúa.
- Hướng về Chúa Cha, Chúa Giêsu làm tất cả những gì có thể với ý hướng để danh Cha cả sáng. Chúa Giêsu xác tín về nguồn gốc và bản chất đích thực của Ngài là bởi từ Chúa Cha mà đến và vốn Ngài là Đấng vinh hiển. Nên những lời nói, việc làm và đời sống của Ngài chính là của Chúa Cha. Nơi Ngài khuôn mặt đích thực của Chúa Cha được tỏa hiện trong thế gian này, "ai thấy Thầy là Thấy Cha" (Ga 14, 9).
- Hướng về những người tin nhận Chúa, những người còn ở lại thế gian. Mà sống trong thế gian, họ sẽ phải đối diện với bao nhiêu là thử thách, phải chiến đấu khắc nghiệt giữa bóng tối và ánh sáng, giữa điều thiện và điều ác, giữa ý Chúa hay ý mình... Nếu không được Cha ban ơn và không thuộc trọn vẹn trong Cha, họ khó mà chống đỡ. Chính thánh Phaolô đã cảm nhận điều này: “ Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm.” (Rm 7,19). “Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này. Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta!” (Rm 24-25).
Lời nguyện hiến tế và hy lễ dâng hiến ngày nay luôn được Chúa Giêsu thực hiện mỗi ngày trên bàn thờ trong mỗi thánh lễ, nhằm nhắc nhở chúng ta về hy tế tình yêu vĩ đại mà Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha trong sự vâng phục và dành cho con người bằng tình yêu cao quý qua cái chết đau thương trên thập giá. Với tình yêu hy hiến ấy, Chúa Giêsu đã kết nối con người lại với Thiên Chúa để tất cả được hiệp nhất trong Chúa Cha, nhờ đó ta mới có thể vượt thắng khỏi những mưu chước cám dỗ của Satan.

Thứ tư: Ga 17, 11b-19
Như một người cha trước lúc lìa đời trăn chối những điều quan trọng và tâm quyết nhất cho con cái, thì Chúa Giêsu với tư cách là Chúa và là Thầy của các môn đệ, trước khi lìa bỏ thế gian, Ngài cũng mong muốn và cầu xin những điều tâm quyết nhất với Chúa Cha cho những môn đệ của Ngài.
- Lời tâm quyết thứ nhất mà Chúa Giêsu cầu xin cho các môn đệ của Người là gìn giữ các môn đệ hiệp nhất nên một như Người với Chúa Cha. 
- Lời tâm quyết thứ hai mà Chúa Giêsu cầu xin cho các môn đệ là khỏi hư mất. Vì theo ý định của Thiên Chúa là yêu thương cứu độ mọi người.
Lý do mà Chúa Giệsu quan tâm đến những điều trên là vì thế gian ghét các môn đệ, vì các ông không thuộc về thế gian, cũng như chính Chúa Giêsu không thuộc về thế gian.
Nhưng làm sao các môn đệ vượt thắng được sự thù ghét của thế gian và hiện thực hóa được những lời cầu xin của Chúa Giêsu? Thưa, qua lời cầu nguyện, Chúa Giêsu cho biết các môn đệ phải sống theo Lời Chúa vì Lời Chúa là chân lý. Sống theo chân lý là các môn đệ sẽ có đủ sức mạnh để vượt thắng những quyến rủ của thế gian mà thuộc trọn về Chúa.
Xin cho chúng ta biết can đảm sống theo lời Chúa chỉ dạy để chúng con được hiệp nhất trong Chúa và nhờ sức mạnh của lời Chúa hướng dẫn chúng ta đi đúng con đường mà Chúa Giêsu đã đi để không bị hư mất.

Thứ năm: Ga 17, 20-26
Tin mừng hôm nay tiếp tục ghi lại những lời cầu nguyện chân thành và tha thiết của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha.
Lời cầu nguyện tha thiết này Chúa Giêsu hướng cách đặc biệt về những người tin nhận Chúa, với mong muốn cho họ được hiệp nhất nên một. Bởi hiệp nhất chính là sức mạnh; có hiệp nhất mới có niềm vui và bình an. Trái lại, sự chia rẽ làm cho cuộc sống trở nên buồn bã, đau khổ và mất sức sống. Hiệp nhất trong cùng một đức tin còn là dấu chứng khả tín nhất cho việc loan báo tin mừng.
Nhưng lời cầu xin của Chúa Giêsu hình như đã bị con người khướt từ bởi tính kiêu căng, tự mãn. Do vậy mà trong GH đã từng xảy ra những cuộc sự chia rẽ đáng tiếc, làm mất đi tinh thần hiệp nhất trong cùng một thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô. Chính những cuộc chia rẽ ấy đã gây nên những vết thương lòng đau đớn và đã trở nên gương mù, gương xấu trong GH Chúa, nhất là làm mất đi tính khả tin của Tin mừng tình yêu.
Ý thức điều đó, nên hàng năm GH luôn dành một tuần lễ để cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu. Nhưng để cho Chúa nhậm lời ước nguyện hiệp nhất ấy, trước hết mọi người Kitô hữu chúng ta phải cầu xin Chúa ban cho mình có được lòng khiêm tốn, bao dung để biết mở lòng đón nhận những khác biệt của nhau; cũng như tích cực cộng tác với nhau thực hiện những giá trị căn bản mà Chúa chỉ dạy, với tinh thần tôn trọng và lòng yêu mến chân thành.

Thứ sáu: Ga 21, 15-19
Lòng khiêm tốn và tình yêu, chính là điều kiện tiên quyết và quan trọng nhất để chu toàn tốt nhiệm vụ Chúa trao. Đó là sứ điệp mà lời chúa hôm nay gửi đến chúng ta.
Bài tin mừng hôm nay cho chúng ta biết: trước khi trao phó sứ vụ quan trọng làm đầu Hội Thánh cho Phêrô, Chúa Giêsu đã tế nhị tận dụng bầu khí cởi mở trong một bữa ăn thân tình giữa Thầy và trò, để  rồi tinh tế mời gọi Phêrô đảm nhận vai trò quan trọng trong GH Chúa. Nhưng trước khi đặt Phêrô vào vị trí chăn dắt đoàn chiên, Chúa Giêsu muốn ý thức Phêrô về 2 điều rất quan trọng cần phải có trong vai trò lãnh đạo. Đó là lòng khiêm tốn và tình yêu mến. 
Bằng cách đặt câu hỏi đến những 3 lần: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy… không?”.
- Trước hết Chúa Giêsu như muốn Phêrô khẳng định Tình Yêu kiên vững và trọn vẹn (kiềng 3 chân; tam tài) của mình dành cho Chúa và cho tha nhân. Bởi tình yêu chính là động lực thúc  đẩy con người dám hy sinh phục vụ cách vô vị lợi.
- Thứ đến cũng là để nhắc nhớ Phêrô về 3 lần ông đã chối Thầy. Nhờ đó ông  ý thức được thân phận yếu đuối mõng giòn của mình có thể sa ngã bất cứ lúc nào, nhờ đó mà khiêm tốn trước Chúa và mọi người trong sứ vụ lãnh đạo đoàn chiên Chúa.
Một cách nào đó mỗi người chúng ta cũng được Chúa trao phó cho nhiệm vụ lãnh đạo. Người lãnh đạo GH, người lãnh đạo cộng đoàn, người lãnh đạo gia đình và mỗi người đều có bổn phận lãnh đạo chính bản thân mình. Do đó, Chúa cũng đòi hỏi chúng ta phải luôn mang trong mình 2 đặc tính là khiêm tốn và tình yêu, nhờ đó ta mới có thể chu toàn tốt trách nhiệm của mình.

Thứ bảy: Ga 21, 20-25
Mỗi người đều được Chúa Thánh Thần ban cho những đặc sủng khác nhau. Thánh Phaolô diễn tả cuộc sống theo ơn Chúa Thánh Thần rất đa dạng, nhưng lại hài hòa với nhau tựa như các chi thể trong một thân thể. Mỗi chi thể làm việc riêng nhưng đều hướng về lợi ích của toàn thân. Ngài nói: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung…… Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người”. (1Cr 12, 4-11).
GH được ví là thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô. Chúa Kitô là Ðầu của Giáo Hội và Giáo Hội là Thân thể của Người (x. Cl 1,18 ; Ep 1,22 ; 4,15 ; 5,23). Nên mỗi người trong GH đều có bổn phận xây dựng GH thân thể Chúa Kitô theo khả năng của mình trong khiêm tốn. Đó là điều cần thiết không thể thiếu được như lời Thánh Phaolô nói: "Giả như chân có nói: "Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể.". Giả như tai có nói: Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể”, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi? Nhưng Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn. Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một. Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận. (1Cr 12, 15-20).
Theo gương thánh Gioan ta có thể tích cực xây dựng GH Chúa bằng cách ghi lại những cảm nhận sâu xa về tình yêu Chúa dành cho ta và tình yêu ta dành cho Chúa qua những kinh nghiệm gặp gỡ thân tình với Chúa, và chia sẻ cảm nghiệm ấy cho nhiều người. Chính nhờ cách thức ấy mà Tin mừng Tình yêu của Chúa được loan báo cho mọi người, khắp mọi nơi và tồn tại mãi nơi Tin mừng của thánh Gioan.
Ta cũng có thể noi gương thánh Phêrô, xây dựng GH Chúa bằng cách can đảm “theo Thầy” trên mọi nẻo đường của cuộc sống, cho dẫu gặp phải mọi gian lao, thử thách ngay cả hy sinh mạng sống mình để minh chứng cho Tin mừng cứu độ bằng một đức tin kiên vững trong vai trò là đầu Hội Thánh. Nhờ đó mà Hội Thánh Chúa tồn tại vững mạnh và phát triển không ngừng.  
Xin cho mỗi người chúng ta biết tôn trọng sự khác biệt của nhau; biết mở lòng tích cực cộng tác với người khác theo hết khả năng của mình trong tình hiệp nhất. Nhờ đó mà GH Chúa ngày thêm vững mạnh và Tin mừng của Chúa được lan tỏa đến mọi người.

  SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXXIV THƯỜNG NIÊN Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN-B KÍNH TRỌNG THỂ CHÚA KITÔ, VUA VŨ TRỤ Đn 7,...