Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 3 tháng 5, 2022

 

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN IV PHỤC SINH

Lm. Vĩnh Hòa

CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH

CHÚA CHĂN CHIÊN LÀNH

Cv 13,14.43-52; Kh 7,9-14b-17; Ga 10,27-30 

Suy niệm 1: CHÂN DUNG NGƯỜI MỤC TỬ NHÂN LÀNH

Hôm nay Chúa nhật IV phục sinh, GH tôn kính Chúa Giêsu là mục tử nhân lành. Ngày cầu nguyện đặc biệt cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ.

Chúa Giêsu quả là vị mục tử nhân lành vì Ngài biết-chăm sóc-bảo vệ-và sẳn sàng hy sinh mạng sống mình để cho chiên được sống và sống dồi dào.

Xin Chúa ban cho quý linh mục tử sĩ luôn trung thành và nhiệt tâm với ơn gọi và sứ vụ Chúa ban; ta cũng cầu cho mỗi người chúng ta luôn là chiên ngoan của Chúa qua việc lắng nghe và hăng hái bước đi theo sự hướng dẫn của Chúa Giêsu Phục sinh, vì mục tử nhân lành. 

Tin mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu đã khắc họa lên bức chân dung đích thực của người mục tử nhân lành. Chân dung ấy đã được Chúa Giêsu chấm phá bằng những đường nét hết sức tinh tế và sống động như: “hy sinh” (x. Ga 10,11); “hiểu biết” (x. Ga 10,14); “quan tâm lo lắng” (x. Ga 10, 10); “thao thức tìm kiếm”…

Trong nhiều đường nét tinh tế ấy, nếu chiêm ngắm kỹ, ta sẽ bắt gặp ngay hai đường nét chủ đạo, làm nên cái hồn của bức chân dung người Mục Tử Nhân Lành. Hai nét chủ đạo ấy là: “biết” và “hy sinh”.

- Biết chiên: Để trở nên người mục tử nhân lành, trước hết phải “biết” rõ chiên mình: Biết từng con chiên một trong đàn. Biết khi nào chiên đói để cho ăn; khi nào chiên khát để cho uống. Biết con chiên nào lạc đàn để tìm về; con nào gặp nguy hiểm để tiếp cứu. Hơn thế nữa, người mục tử còn phải biết cảm thương những con chiên đang trong tình trạng mệt mỏi để dắt dìu và tận tâm yêu mến lo lắng những con chiên bị bệnh tật để tìm cách chữa trị…

- Hy sinh: Có thể nói hy sinh chính là nét nổi bậc thứ hai làm nên cái hồn của bức chân dung người mục tử nhân lành. Sức hấp dẫn và lôi cuốn nơi bức chân dung người mục tử chính là “hy sinh” cho đoàn chiên: Hy sinh sức khỏe, thời giờ để đi tìm đồng cỏ xanh tốt; ra sức khai thác nguồn nước mát trong lành cho chiên uống no thỏa. Không quản khó nhọc để tắm rửa cho chiên được sạch sẽ; không ngần ngại thức khuya dậy sớm để đưa chiên đi ăn và tối đưa chiên về nghỉ ngơi. Sẵn sàng hy sinh giấc ngủ để canh giữ cho đoàn chiên được an giấc. Trên hết người mục tử nhân lành còn phải anh dũng dám liều mạng sống mình chống lại sói dữ và kẻ trộm để bảo vệ cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. (x. Ga 10, 16).

Chúa Giêsu không chỉ khắc họa chân dung tuyệt mỹ về người mục tử nhân lành bằng lời nói suông, bằng những nét vẽ vô hồn.  Nhưng Người còn khắc họa bức chân dung ấy bằng chính đời sống trong suốt ba năm rao giảng Tin mừng, mà đỉnh cao là cái chết đau thương trên thập giá. Trên đỉnh cao thập giá, Chúa Giêsu đã sẵn sàng đổ hết máu và nước mình ra hầu hoàn thiện nét vẽ cuối cùng làm nên bức chân dung mục tử không thể hoàn hảo hơn. Vì thế, Ngài không ngần ngại tự xưng mình là đấng Mục Tử Nhân Lành, chẳng những cho dân Israel mà cho toàn thể nhân loại ( x Ga 10,11-16). “Tôi chính là mục tử nhân lành, mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11). “Tôi chính là mục tử nhân lành, Tôi biết chiên của Tôi và chiên Tôi biết Tôi” (Ga 10, 15). “Để nhờ danh Người mà chúng ta được ơn cứu độ” (x. Cvtđ 4, 12).

Hiểu theo một nghĩa nào đó, thì cha mẹ cũng chính là mục tử nhân lành nơi gia đình và là chủ chăn của con cái mình. Vì thế, cha mẹ cũng được kêu gọi trở nên người mục tử nhân lành theo mẫu gương của Chúa Giêsu.

Xin cho bậc làm cha mẹ biết quan tâm lắng nghe, tìm hiểu con cái để nhận ra tình trạng, tâm tư, nguyện vọng thầm kín…của chúng mà chia sẻ, chăm sóc và hướng dẫn chúng kịp thời. Biết kiến tạo gia đình mình trở thành mái ấm yêu thương hiệp nhất trong Chúa. Biết sẵn sàng hy sinh bảo vệ con cái mình khỏi sa vào lưới ba thù: xác thịt, thế gian, ma quỷ. Nhất là xin cho những bậc làm cha mẹ cũng biết hy sinh quảng đại dâng hiến những người con ưu tú của mình cho Chúa và Giáo hội trong ơn gọi tu trì, cũng như ước mong có nhiều bạn trẻ mạnh dạn dấn thân đáp lại tiếng Chúa kêu mờiAmen.

Trong tin mừng Chúa Giêsu đã khắc họa lên bức chân dung đích thực của người mục tử nhân lành bằng nhiều đường nét tinh tế và sống động như: “hy sinh” (x. Ga 10,11); “hiểu biết” (x. Ga 10,14); “quan tâm lo lắng” (x. Ga 10, 10); “thao thức tìm kiếm”…

Trong nhiều đường nét tinh tế ấy, nếu chiêm ngắm kỹ, ta sẽ bắt gặp ngay hai đường nét chủ đạo, làm nên cái hồn của bức chân dung người Mục Tử Nhân Lành mà tin mừng hôm nay khắc họa. Đó là: “biết chiên” và “trao ban” cho chiên sự sống đời đời.

- Biết chiên: Để trở nên người mục tử nhân lành, trước hết phải “biết” rõ chiên mình: Biết từng con chiên một trong đàn. Biết khi nào chiên đói để cho ăn; khi nào chiên khát để cho uống. Biết con chiên nào lạc đàn để tìm về; con nào gặp nguy hiểm để tiếp cứu. Hơn thế nữa, người mục tử còn phải biết cảm thương những con chiên đang trong tình trạng mệt mỏi để dắt dìu và tận tâm yêu mến lo lắng những con chiên bị bệnh tật để tìm cách chữa trị… Cái biết của người mục tử nhân lành không theo kiểu cái biết của lý trí trên danh sách hay số liệu…mà là cái biết của trái tim, của tình thương. Bởi lẽ chỉ có cái biết trong tình yêu thì mới thấu hiểu, cảm thông, nâng đỡ, chăm lo cho nhau. Biết bằng yêu thương thì mới dám sống chết đoàn chiên của mình.

- Trao ban: Có thể nói “trao ban” sự sống đời đời, chính là nét nổi bậc thứ hai làm nên cái hồn của bức chân dung người mục tử nhân lành. Sức hấp dẫn và lôi cuốn nơi bức chân dung người mục tử chính là “trao ban” cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào: trao ban sức khỏe, thời giờ để đi tìm đồng cỏ xanh tốt; ra sức khai thác nguồn nước mát trong lành cho chiên uống no thỏa. Không quản khó nhọc để tắm rửa cho chiên được sạch sẽ; không ngần ngại thức khuya dậy sớm để đưa chiên đi ăn và tối đưa chiên về nghỉ ngơi. Sẵn sàng hy sinh giấc ngủ để canh giữ cho đoàn chiên được an giấc. Trên hết người mục tử nhân lành còn phải anh dũng dám liều mạng sống mình chống lại sói dữ và kẻ trộm để bảo vệ cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. (x. Ga 10, 16).

Chúa Giêsu không chỉ khắc họa chân dung tuyệt mỹ về người mục tử nhân lành bằng lời nói suông, bằng những nét vẽ vô hồn. Nhưng Người còn thể hiện bằng chính đời sống trong suốt ba năm rao giảng Tin mừng, mà đỉnh cao là cái chết đau thương trên thập giá. Trên đỉnh cao thập giá, Chúa Giêsu đã sẵn sàng đổ hết máu và nước mình ra hầu hoàn thiện nét vẽ cuối cùng làm nên bức chân dung mục tử không thể hoàn hảo hơn! Vì thế, Ngài không ngần ngại tự xưng mình là đấng Mục Tử Nhân Lành, chẳng những cho dân Israel mà cho toàn thể nhân loại ( x Ga 10,11-16). “Tôi chính là mục tử nhân lành, mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11). “Tôi chính là mục tử nhân lành, Tôi biết chiên của Tôi và chiên Tôi biết Tôi” (Ga 10, 15). “Để nhờ danh Người mà chúng ta được ơn cứu độ” (x. Cvtđ 4, 12).

Phần chúng ta là chiên của Ngài thì chúng ta cần phải lắng nghe và sẵn sàng đi theo sự hướng dẫn của Ngài. Tựa như con cái cần nghe lời cha mẹ thì đoàn chiên cũng cần phải nghe lời Chúa.

Vậy ta nghe lời Chúa thế nào? Mỗi ngày ta dành bao nhiêu thời giờ để nghe lời Chúa? Khi tham dự thánh lễ không ta có để tâm nghe và sống lời Chúa không? Hay đi lễ cho có, cho qua. Nhưng chưa bao giờ ta ước muốn lắng nghe lời Chúa. Chỉ khi nào ta yêu mến Chúa thật sự, mới hy vọng ta mới có thể bó đời mình với Chúa và mới nghe theo sự hướng dẫn của Ngài.

Chúa Nhật này cũng là dịp đặc biệt để chúng ta cầu nguyện cho ơn thiên triệu, xin cho có nhiều người dâng hiến đời mình cho Chúa và Giáo Hội. Cầu xin cho Giáo hội có nhiều linh mục giống Chúa Giêsu mục tử nhân lành.

Cầu xin cho mỗi người trong chúng ta thật sự là chiên ngoan của Chúa qua việc tích cực lắng nghe lời Chúa chỉ dạy, gắn bó mật thiết đời mình với Chúa và can đảm bước theo con đường Chúa đã đi qua. Amen.


Suy niệm 2: LINH MỤC - NGƯỜI MỤC TỬ NHÂN LÀNH

“Công cuộc canh tân Hội Thánh cần được bắt đầu từ hàng Linh mục, vì thế, ước mong các Giám mục và Linh mục Việt Nam không chỉ là người quản trị giỏi, nhưng trước hết là người của Chúa và là những mục tử nhân lành”. (Sứ điệp Đại hội Dân Chúa Việt Nam 2010, số 5). Xin cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh là những chủ chăn đích thực như lòng Chúa mong ước, nhờ thế Hội Thánh Chúa được canh tân mỗi ngày nên tốt đẹp hơn.

Nhờ bí tích truyền chức, linh mục trở nên “Alter Christus” và được tham dự vào đức ái mục tử, tự hiến bản thân mình để phục vụ Hội Thánh theo gương hiến thân của Đức Kitô.

Như Đức Kitô đã cảm thương với dân chúng khi nhọc mệt, đuối sức ( x. Mt 9, 35-36; Ga 6, 15). Linh mục cũng phải biểu lộ lòng cảm thương của mình cách chân thành và cụ thể đối với mọi người mà mình gặp gỡ “anh em hãy vui với người vui, khóc với người khóc” ( Rm 12, 15).

Như Đức Kitô đã yêu mến những con chiên lạc đàn và vui mừng khi tìm gặp ( x. Mt 18, 12-14; Ga 8,11). Linh mục cũng phải tìm đến những ngưuời đang sống trong cô đơn thất vọng; những người tội lỗi, nhất là những người không mấy cảm tình với Giáo Hội…, vì họ cũng là đối tượng của lòng thương xót Thiên Chúa. “Con Người đến để tìm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Lc 19,10).

Như Đức Kitô hằng biết rõ và gọi tên từng người một (x. Ga 10, 3). Linh mục phải nỗ lực quan tâm và phục vụ từng người trong Họ đạo mình, không loại trừ một ai.

Như Đức Kitô đã hy sinh hiến thân vì tình yêu nhân loại (x. Ga 10, 15). Linh mục cũng hãy yêu thương chăm sóc cộng đoàn mà Chúa trao phó. Người mục tử nhân lành không chỉ dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi và suối mát (x. Tv 23, 22),  mà còn phải nuôi dưỡng đàn chiên bằng chính sự sống mình qua việc hiến tế theo gương Chúa Giêsu (x. Ga 6, 56). Để có thể nói được như Chúa Giêsu đã nói: “Ta đến để chiên được sống và sống dồi dào”. (Ga 10,10).

Như ngọn nến cháy hao mòn theo tháng ngày để chiếu giãi ánh sáng; như hạt lúa mục nát để phát sinh sự sống mới, Linh mục cũng phải chấp nhận tiêu hao đời mình từng giây phút để phục vụ cộng đoàn dân Chúa. Người Linh mục giống Đức Kitô thì không trách khỏi qui luật “vượt qua” chết để được sống (x. Ga 12, 25). Chính thánh Phanxicô Assisi cảm nghiệm quy luật này và đã thốt lên những lời nghịch lý trong bài ca bất hủ: “Chính lúc hiến thân là khi được nhận lãnh… Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.  Trên hết để thực hiện được vai trò người mục tử nhân lành, Linh mục phải có Đức Ái Mục Tử vì đó là nguyên lý và động lực thúc đẩy Linh mục sống xứng danh vai trò mục tử của mình.

Lạy Chúa Giêsu là mục tử tối cao, chúng con là những Linh mục bước theo Chúa trong vai trò người mục tử. 

Xin cho trái tim chúng con thuộc thuộc về Chúa và thuộc về mọi người. Xin cho trái tim chúng con biết yêu bằng tình yêu hiến dâng. Xin cho trái tim chúng con mở rộng đủ lớn để chứa mọi người và từng người một. Xin cho chúng  con có trái tim của Chúa để con say mê Chúa và say mê con người. Xin cho chúng con luôn yêu Chúa, vì khi yêu Chúa chúng con mới sẵn sàng hy sinh đời mình bảo vệ đoàn chiên và dẫn đưa đoàn chiên đến với Chúa là nguồn sống đích thực. Amen.

 

Suy niệm 3:

Hàng năm GH dành ngày Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh để suy tôn Chúa Giêsu vị Mục Tử  tối cao. Sứ điệp Lời Chúa cho chúng ta biết: Chúa Giêsu sống lại, Ngài là Mục tử nhân lành, Ngài biết rất rõ từng người chúng ta là chiên của Ngài, Ngài chăm sóc, gìn giữ và ban cho chúng ta sự sống dồi dào.

Hôm nay cũng là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và Tu sĩ, chúng ta sốt sắng hiệp dâng Thánh Lễ. Xin Chúa ban cho nhiều bạn trẻ quảng đại đáp lại tiếng Chúa sống ơn gọi Linh mục và Tu sĩ. Nhất là xin cho mỗi người chúng ta trở nên chiên ngoan của Chúa, biết nghe tiếng Chúa, sẵn sàng dấn thân làm chứng cho tình yêu Chúa trong cuộc sống hàng ngày

Tin mừng chúng ta vừa nghe vẽ nên hai nét cơ bản tạo nên chân dung của người mục tử nhân lành, đó là: biết chiên và hy sinh mạng sống vì chiên.

1. Biết chiên: cái biết ấy không chỉ là sự hiểu biết về kiến thức trên bàn giấy mà là cái biết của con tim, cái biết của tình yêu hai chiều “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi.” Chỉ có cái biết ấy, người ta mới có thể thấu hiểu, cảm thông, nâng đỡ và quan tâm chăm lo cho nhau.

2. Hy sinh vì chiên. Cha ông ta thường nói: “Mạng sống hơn đống vàng". Vì thế, ai cũng sợ chết. Được sống lâu sống khỏe là mong ước lớn nhất của con người. Tuy nhiên nếu chỉ sống lâu và khỏe về thể chất thì chưa đủ, điều quan trọng nhất vẫn là sống sao cho có giá trị và ý nghĩa.

Tin mừng cho thấy có 2 lối sống tương phản: Người làm thuê vì chỉ nhắm đến lối sống thể xác và vị kỷ nên sẵn sàng chạy bỏ chiên miễn sao bảo toàn được  bản thân mình. Còn người mục tử nhân lành thì sẵn sàng hy sinh, ngay cả mạng sống mình để bảo vệ, chăm sóc cho chiên được sống và sống dồi dào.

Chúa Giêsu đã tự xưng mình là mục tử nhân lành bởi Ngài không sống cho mình mà sống vì mọi người, đã sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để cứu độ nhân loại với mong muốn mọi người được hạnh phúc đời này lẫn đời

Qua bí tích rửa tội, mọi người được tham dự sứ vụ mục tử của Chúa Giêsu. Thế nên, mỗi người đều được mời gọi tiếp bước Chúa Giêsu mục tử nhân lành: Biết quan tâm tìm hiểu và phục vụ mọi người nhất là những ai Chúa trao phó cho chúng ta chăm sóc. Và nếu đòi buộc phải hy sinh mạng sống mình để bảo vệ gia đình, GH nhất là con cái mình khỏi những sức mạnh của sự dữ thì cũng phải can đảm bảo vệ.  

 

Thứ hai: Cv 11, 1-18; Ga 10,1-10

Suy niệm 1:

Đoạn sách Cvtđ hôm nay ghi lại cuộc đối thoại giữa Phêrô và những người tín hữu gốc Do thái về vấn đề: có nên mở cửa để tiếp nhận dân ngoại vào ngôi nhà Hội Thánh theo lệnh truyền của Chúa Giêsu Phục sinh các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19-20);  hay là đóng chặt cửa để bảo toàn những giá trị truyền thống?

Với những người tín hữu gốc Do Thái thì không được vượt ra những luật lệ truyền thống như: vào nhà dân ngoại, ăn uống những thức ăn bị xem là ô uế; nhất là phải giữ luật cắt bì. Nên nghe biết sự việc ông Phêrô vào nhà ông Cornêliô là người ngoại ăn uống, giảng dạy giáo lý và rửa tội cho ông và cả gia đình mà không phải giữ luật cắt bì, đã làm cho họ khó chịu. Do đó, ngay khi Phêrô đặt chân về Giêrusalem thì họ kéo đến để phản đối việc làm của Phêrô.

Nhưng sau khi lắng nghe Phêrô giải thích về những gì ông làm không phải là sáng kiến của ông mà là do ý muốn của Thiên Chúa. Bằng việc trưng dẫn hai thị kiến kỳ lạ đã xảy ra với ông và với ông Cornêliô đã làm cho chính Phêrô đã hiểu ra rằng:“Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta”. Sau khi lắng được lời giải thích của Phêrô, các tín hữu ở Giêrusalem đã bị thuyết phục và họ đã thay đổi cái nhìn về dân ngoại. Họ cũng nhận ra rằng: “Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn sám hối để được sự sống”.

Bế quan tỏa cảng để gìn giữ và bảo toàn hay là mở rộng cửa nhằm tiếp nhận cái mới làm phong phú và hoàn thiện hơn? đó luôn là vấn đề được đặt ra để bàn luận không những trên bình diện vĩ mô mà còn vấn đề được đặt ra trên bình diện vi mô, cụ thể nơi các gia đình hôm nay, khi mà quyền chính kiến mỗi người được tôn trọng.

Xin cho các thành viên trong gia hiểu rằng: gìn giữ bảo vệ những giá trị truyền thống cha ông là điều đáng trân quý, nhưng nếu vì tục lệ truyền thống mà gây bất ổn xã hội và làm tổn hại đến môi trường thì cũng nên xét lại. Nhất là với các gia đình Công giáo khi có những bất đồng quan điểm xảy ra thì phải biết lấy Lời Chúa và đường hướng của GH làm nền tảng để giải quyết vấn đề. Bởi ta tin rằng Lời Chúa là chân lý và Giáo huấn GH là lẽ khôn ngoan hướng dẫn chúng ta. Đó cũng là chọn lựa khôn ngoan của thánh Phêrô: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”(Cvtđ 5,32).

 

Suy niệm 2: 

Đoạn tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta biết những đặc tính cần phải có của người mục tử nhân lành:

1. Dám hy sinh mạng sống mình: Đoàn chiên không phải là của người chăn thuê, nên anh ta không thiết tha gì để bảo vệ đàn chiên. Mục tiêu của người chăn thuê thường là vì lợi ích của bản thân. Vì thế khi có sói dữ tấn công, anh ta sẽ dễ dàng bỏ mặt chiên cho sói dữ ăn thịt, còn anh ta thì sẽ tìm cách thoát thân. Còn mục tử chân chính thì sẵn sàng đứng ra chống lại sói dữ để bảo vệ đàn chiên mình, dù phải đối mặt với hiểm nguy, cho dù phải hy sinh mạng sống.

2. Biết chiên của mình: Cái biết của người mục tử không chỉ là cái biết chung chung về số lượng, hời hợt về tên gọi. Nhưng mục tử đích thực phải biết chất lượng: tình trạng, nhu cầu, ước muốn sâu xa của chiên mình. Cái biết đến độ đồng thân, đồng phận, đồng cảm và đồng tử với chiên mình.

3. Quan tâm và đưa những chiên xa lạc về đàn: Vì chiên cần có chủ chiên nên chủ chiên phải quy tụ chiên vào cùng một đàn để chăm sóc, bảo vệ và nuôi dưỡng cho chúng được sống và sống dồi dào. Do đó chủ chiên không chỉ quan tâm đến chiên trong đàn mà còn tìm cách để đem các chiên ngoài đàn về, để chúng được hiệp nhất trong cùng một đàn dưới sự hướng dẫn của cùng một chủ chiên.

Xin cho các vị chủ chăn sẵn sàng hy sinh không chỉ thời giờ sức khoẻ mà cả mạng sống để phục vụ cho cộng đoàn được lớn mạnh trong sức sống của Chúa. 

Xin cho các vị chủ chăn cũng khiêm tốn tìm hiểu và lắng nghe những tâm tư nguyện vọng chính đáng của mọi người trong cộng đoàn mà sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu ấy bằng tình thương của người mục tử nhân từ. Đừng vì tự cao, tự ái mà bỏ ngoài tai những đòi hỏi, nhu cầu chính đáng của giáo dân. Xin cho các vị chủ chăn ngoài việc lo lắng chăm sóc cho đàn chiên mình cho tốt, còn phải quan tâm đến những con chiên ngoài đàn. Tìm mọi cách để dẫn đưa họ về với Chúa, hầu họ cũng được sống trong tình thương chăm sóc của tình yêu Chúa.

 

Suy niệm 3:

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về cửa chuồng chiên. Nhưng cửa này không phải là vật dụng bằng gỗ hay đá mà là chính bản thân Ngài. Ngài tự ví mình là cửa chuồng chiên vì muốn nói lên tình yêu Ngài dành cho đàn chiên. Ngài là cửa chuồng chiên nên Ngài luôn bảo vệ cho chiên được nghỉ ngơi an toàn. Ngăn chặn sói rừng vào sát hại chiên cũng như không để cho kẻ trộm cướp vào bắt chiên.

Đức Kitô còn đưa ra hai hình ảnh trái ngược, người chăn chiên nhân lành, và người chăn chiên thuê mướn.

Người chăn chiên nhân lành, ngày đêm chăm sóc, bảo vệ đàn chiên, dẫn chúng đến nguồn nước trong lành, đồng cỏ xanh tươi. Người chăn chiên nhân lành luôn sẵn sàng bảo vệ đàn chiên khỏi bị thú dữ sát hại và anh dũng dấn thân vào chốn nguy hiểm để bảo vệ cho đàn chiên được sống dồi dào. Mục tử nhân lành còn biết rõ từng con chiên và chấp nhận mang lấy mùi chiên, hiểu biết và gọi đúng tên từng con chiên. Ngược lại chiên ngoan cũng nhận ra bóng dáng và tiếng gọi của chủ mình mà nghe theo.

Qua cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô minh chứng cho một tình yêu vĩ đại mà Đức Kitô, mục tử nhân lành dành cho chúng ta là đàn chiên của Người.

Vì là cửa chuồng chiên nên Đức Kitô để cho chúng ta có quyền tự do lựa chọn. Những ai tin yêu, chọn bước theo Ngài thì sẽ đón nhận được tình yêu hy hiến của Ngài. Ngược lại những ai chọn theo ý riêng mình thì không bao giờ đón nhận được tình yêu hy sinh của Người. 

Ai chọn yêu mến và tin theo Đức Kitô sẽ không mất gì cả mà còn nhận được nhiều ơn phúc của Chúa ban tặng. Cuộc sống họ trở nên phong phú, tinh thần thảnh thơi, tâm tư thoải mái và luôn sống trong vui, ngay cả khi gặp gian nan thử thách.

Chuồng chiên chỉ bảo vệ cho những ai yêu mến, tín trung còn những kẻ bất tín thì chuồng chiên không thể bảo vệ được. Vì lòng nhân lành, Chúa Kitô đã sẵn sàng mở cửa chuồng chiên để đón nhận bất cứ ai biết hồi tâm, thống hối quay trở về cùng đàn chiên Người chăn dắt. 

Đức Kitô không chỉ là người gác cửa mà Ngài còn là người đi tìm những con chiên lạc, khi tìm được thì vui mừng vác trên vai mang về đàn (Lc 15,5) với mong sao chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên duy nhất.

Trộm cắp dùng nhiều hình thức dụ dỗ để bắt chiên; còn sói dữ thì luôn rình rập cắn xé chiên. Người chăn chiên mướn là người làm thuê, chủ chiên trả công. Nếu người đó không hoàn thành nhiệm vụ được trao phó; người đó hành động khác chi kẻ trộm cướp hay sói rừng, trá hình, đội lốt, chăn chiên để cầu lợi, để ngầm cấu xé và cắn phá chiên.

Chúng ta dâng lời tạ ơn Đức Kitô, Đấng chăn chiên nhân lành đã yêu thương và hy sinh mạng sống vì ta. Xin cho chúng ta trở thành chiên ngoan luôn biết nghe lời của Chúa mà sống hiệp thông với nhau trong tình yêu thương  của Chúa. Amen.

 

Thứ ba: Cv 11, 19-26; Ga 10, 22-30.

Suy niệm 1: 

Đoạn sách Cvtđ hôm nay gồm 2 phần:

Phần thứ nhất: ghi lại thành quả tốt đẹp của GH sau những ngày tháng lo sợ chạy trốn vì cuộc bách hại xảy ra nhân sự kiện phó tế Stêphanô tử đạo tại Giêrusalem. Các môn đệ phải tản mác đến các miền Phênixi, đảo Syp và thành Antiôkhia để trú ẩn.  Tại những nơi đây, các môn đệ chỉ rao giảng cho người Do Thái. Tuy nhiên trong đó, có mấy người gốc Syp và Kyrênê, những người này, khi đến Antiôkhia, đã mạnh dạn loan Tin mừng của Chúa cho người Hy-lạp nữa. Kết quả thật bất ngờ là “một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa”. Nhờ đâu mà có nhiều người ngoại giáo tin theo Chúa như vậy? Thánh Luca cho biết đó là nhờ“bàn tay Chúa ở với họ”. Nghĩa là nhờ vào sức mạnh và quyền năng Thiên Chúa phù giúp họ. Chính tại Antiokhia mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu.

Phần thứ hai: Đề cao đến tình hiệp thông trong Hội Thánh. Khi nghe biết một số đông dân ngoại tại Antiokhia tin theo đạo, thì các vị hữu trách của Hội Thánh tại Giêrusalem cử ông Barnaba đến để chia sẻ niềm vui và củng cố đức tin cho các tín hữu ở đây bằng cách khuyên nhủ họ hãy bền lòng gắn bó với Chúa. Rồi ông lên đường đi Tácxô để tìm Saolô về để cộng tác với ngài lo cho giáo đoàn tại đây. Nhờ đó, giáo đoàn Antiokhia càng thêm lớn mạnh. Qua đây cho thấy sự quan tâm, nâng đỡ kịp thời của Hội Thánh. Điều này làm nổi bậc lên tính phổ quát và tình hiệp thông của GH Công giáo.

Với cái nhìn của con người thì sự kiện Hội Thánh bị bách hại gắt gao ở Giêrusalem là nỗi đau, nhưng với Thiên Chúa thì đó lại là cơ hội để Tin mừng đến được với dân ngoại. Nhất là trong mọi hoàn cảnh GH luôn biết quan tâm tìm hiểu để nâng đỡ cách tốt nhất trong tình hiệp thông.

Xin cho chúng ta luôn biết phó thác vào đường lối khôn ngoan của Chúa và tin tưởng vào đường hướng của GH. Phần ta hãy luôn biết tận dụng mọi hoàn cảnh để làm chứng tin mừng của Chúa theo gương các tín hữu Hy Lạp hóa theo tinh thần nhiệt tâm của thánh Barnaba và Phaolô: Hãy rao giảng Lời Chúahãy lên tiếnglúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiệnhãy biện báchãy khiển tráchhãy khuyên lơnhết tình đại lượng và dụng tâm dạy dỗ” (2 Tim 4, 2).

 

Suy niệm 2:

Nhờ bí tích rửa tội, chúng ta trở thành chiên của Chúa. Xin cho chúng ta hết lòng tin kính, vâng lời và sẵn sàng đi theo sự hướng dẫn của Chúa Giêsu, vị chủ chăn tốt lành chúng ta.

Dù được nghe những lời giảng dạy và chứng kiến biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng những người Do Thái, cách riêng Biệt Phái và Kinh Sư vẫn không tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Do đâu mà họ không tin nhận và nghe theo lời của Chúa Giêsu?

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho biết, vì họ không thuộc về đoàn chiên của Ngài. Theo nghĩa phổ quát, mọi người đều là chiên của Chúa, vì mọi người đều được Chúa yêu thương dựng nên và hy sinh đổ máu cứu chuộc. Tuy nhiên để trở thành chiên thật thuộc về Chúa thì cần phải thỏa mãn hai điều kiện:

1. Tin nhận Chúa và chịu phép rửa tội. Vì giáo lý công giáo dạy: nhờ bí tích rửa tội, chúng ta được thanh tẩy mọi tội lỗi, được làm con Chúa, được gia nhập vào đoàn chiên Chúa là Giáo Hội.

2. Phải nghe theo lời Chúa là mục tử tối cao, cũng như tuân giữ mọi điều răn và luật lệ Chúa truyền dạy với tình yêu mến.

Nhiều người Do Thái đã không thành tâm yêu mến Chúa, nên cho dù Chúa Giêsu ở giữa họ, có giảng dạy và làm nhiều phép lạ, họ vẫn không tin nhận, vì họ không thuộc đoàn chiên đích thực của Chúa.

Như Chúa Giêsu đã nói: chỉ những ai thuộc đoàn chiên Chúa, thì mới được Chúa gìn giữ và ban cho sự sống đời đời .

Xin cho chúng ta biết tin kính và yêu mến Chúa Giêsu, đấng chăn chiên tốt lành của chúng ta. Đồng thời cho chúng ta luôn là những con chiên ngoan hiền của Chúa. Biết lắng nghe, vâng lời và thi hành điều Chúa chỉ dạy với tình con thảo.

 

Thứ tư: Cv 12, 24-13,5a; Ga 12, 44-50

Suy niệm 1:

Như chúng ta đã biết, sách Cvtđ ghi lại những sự việc xảy ra trong GH lúc ban đầu, cũng như trình bày về những hoạt động truyền giáo của các tông đồ, khởi đi từ “Giêrusalem trong khắp miền Giuđê, Sammari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1,8), nhằm thực thi lệnh truyền của Chúa Giêsu phục sinh, trước khi Người lên trời.

Dựa vào nội dung những gì thánh Luca ghi lại, người ta có thể chia sách Cvtđ ra làm 2 phần (hoặc 3 phần) tùy theo cái nhìn của đọc giả.

A. Nếu chia sách Cvtđ thành 2 phần thì:

1. Phần thứ nhất (chương 1- 12): nói về những sự việc xảy ra của GH và nhấn mạnh đến sứ vụ làm chứng của các tông đồ tại Giêrusalem và những vùng phụ cận như: Samaria (8,4-40), Xêdarê Duyên Hải (10,1-11,18), Phênixi và Sýp (11,19, và Antiokhia (11,22-26).

2. Phần thứ hai (chương 13-28): nói nhiều về hoạt động của thánh Phaolô và nhấn mạnh đến 3 cuộc hành trình truyền giáo của ngài:

- Hành trình truyền giáo thứ nhất (13,4-14,28): bắt đầu từ An-ti-ô-khi-a miền Xy-ri-a đến tận Lý-tra, Đéc-bê, rồi trở về An-ti-ô-khi-a (13,1) vào những năm 46-48.

- Hành trình truyền giáo thứ hai (15, 36-18,22): Bắt đầu từ An-ti-ô-khi-a miền Xy-ri-a đến A-thê-na (Hy lạp), Cô-rin-tô qua Giê-ru-sa-lem và về An-ti-ô-khi-a (18, 22) vào những năm 49 đến 52.

- Hành trình truyền giáo thứ ba (18,23-21,16): Bắt đầu từ An-ti-ô-khi-a đến Cô-rin-tô, rồi về Giê-ru-sa-lem (20,1-6).

Nói đến sự kiện Phaolô bắt giam tại Giêrusalem, rồi tại Xê-da-rê Duyên Hải (21,17-26,32), nhưng vì Phaolô có quốc tịch Rôma (16,21.37) nên ngài được bị dẫn độ về Rôma xét xử. (Lm. Tanila Hoàng Đắc Ánh, OP).

B. Còn nếu chia sách Cvtđ làm 3 phần thì:

1. Phần thứ nhất (1-7): Phêrô và các tông đồ làm chứng tại Giêrusalem.

2. Phần thứ hai (8-12): Phêrô và các phó tế làm chứng tại Giuđê và Sammaria.

3. Phần thứ ba (13-28): Phaolô làm chứng cho dân ngoại đến tận cùng thế giới (Rôma), mà theo cái nhìn thời bấy giờ thì đế quốc Rôma được coi là hùng mạnh nhất trên trái đất, nên cũng xem như là tận cùng của thế giới. (Lm. Phêrô Lê Tấn Lợi).

Khi nhìn lại như thế, ta dễ dàng nhận ra bài đọc 1 được trích đọc trong thánh lễ hôm nay được ví như là bản lề hay cánh cửa thời gian để khép lại giai đoạn thứ nhất trong sứ vụ “làm chứng” của các tông đồ tại Giêrusalem, Giuđê và Sammaria và mở ra giai đoạn thứ hai trong sứ vụ “làm chứng” cho Chúa đến tận cùng thế giới, theo như lệnh truyền của Chúa Giêsu phục sinh.

- Giai đoạn 1 (1- 12, 25): Nhìn lại giai đoạn đầu, các tông đồ chỉ làm chứng cho Chúa tại Giêrusalem và những vùng phụ cận thôi, nhưng các ngài cũng gặp rất nhiều khó khăn thử thách. Tuy nhiên với lòng nhiệt thành và với ơn ban của Thánh Thần nên lời Chúa vẫn được lớn lên (6,7), phát triển (12, 24), lan tràn và vững mạnh (19,20) cả về số lượng lẫn chất lượng. Nghĩa là Tin Mừng của Chúa đã được nhiều người đón nhận và niềm tin của các tín hữu ngày thêm vững mạnh. GH có thêm 3000 người theo đạo (2, 41), số người đàn ông hôm sau thêm đến 5000 người (4,4), số môn đệ thêm đông (6,1), thêm rất nhiều (6,7). Rất đông người Do Thái và Hylạp tin theo đạo (14, 1).

- Giai đoạn 2 (13, 1-5tt): Bắt đầu sứ vụ làm chứng cho Chúa đến tận cùng thế giới. Đây sẽ là giai đoạn mà các tông đồ sẽ đối mặt với nhiều gian nan thử thách vì phải “làm chứng” cho dân ngoại, nơi những miền xa xôi.

Ý thức được điều đó nên trước khi bắt đầu cuộc hành trình truyền giáo đầy khó khăn này, cộng đoàn An-ti-ô-khi-a đã họp nhau trong bầu khí phụng vụ thờ phượng Chúa, để lắng nghe lời Chúa hướng dẫn. Và khi ấy họ đã nghe được tiếng Thánh Thần phán: “Hãy dành Barnaba và Saolô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy”.

Cộng đoàn Antiokhia hiểu rằng sứ vụ truyền giáo của Phaolô và Barnaba trong chuyến hành trình thứ nhất này sẽ phải gặp nhiều gian khổ, nên họ đã hiệp thông cầu nguyện và phó dâng hai ông cho TC, qua việc “ăn chay, cầu nguyện, và đặt tay trên hai ông và tiễn đưa hai ông lên đường”.

Hình ảnh hiệp nhất thờ phượng Chúa qua cầu nguyện và ăn chay ấy của giáo đoàn Antiokhia thật tuyệt đẹp và cũng là bài học quý giá cho chúng ta ngày hôm nay, khi phải đối mặt với cơn đại dịch Covid-19, và trong những lúc gặp gian lao, đau khổ trong cuộc sống.

Xin Chúa cho chúng ta biết dành nhiều thời gian để hiệp thông với nhau trong cầu nguyện và chay tịnh hãm mình để đủ sức mạnh của Chúa mà vượt thắng mọi trở ngại. Xin Chúa cũng cho chúng ta cũng biết tích cực góp phần vào việc truyền giáo của GH theo khả năng của mình.  Đồng thời phải luôn ý thức rằng công cuộc truyền giáo hay loan báo tin mừng không phải là việc làm tùy tiện mang tính cá nhân nhưng phải được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần qua sự điều phối chính thức của GH, thì sứ mạng loan báo tin mừng hay “làm chứng” cho Chúa mới mang lại những kết quả tốt đẹp.

 

Suy Niệm 2:

Ánh sáng rất cần thiết trong cuộc sống tự nhiên. Ánh sáng đem lại niềm vui tươi sinh động. Ở đây bài Tin Mừng muốn nói đến ánh sáng siêu nhiên, tượng trưng sự hiện diện của Thiên Chúa. Ðức Giêsu chính là ánh sáng. Ai không tin vào Ðức Giêsu, không giữ lời Ngài thì sống trong tối tăm bất hạnh. Ðức Giêsu được sai đến không để xét xử nhưng để ban ơn cứu độ. Bởi thế, nếu khước từ Lời Ngài, là tự lên án chính mình, tự tách mình ra khỏi ánh sáng vinh quang Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con hằng khao khát hạnh phúc. Mà chỉ có Chúa mới cho chúng con được hạnh phúc đích thực và trường tồn. Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng con gặp những trở ngại, khó khăn, u ám. Xin cho chúng con biết tìm đến Chúa. Nhờ ánh sáng của Chúa, chúng con sẽ tìm ra con đường đem lại hạnh phúc: Ðó là chúng con biết tin tưởng phó thác và sống theo sự hướng dẫn của Chúa. Amen.

 

Suy niệm 3:

Sống trong xã hội vàng thau lẫn lộn, con người không còn khả năng phân biệt đúng sai, tốt xấu, thật giả…vì thế, hơn bao giờ hết con người ngày hôm nay cần có ánh sáng thật soi đường, chỉ lối.

Chúa Kitô, ánh sáng thật, đến trần gian để soi đường chỉ lối. Xin cho chúng ta tin nhận và sống theo sự hướng dẫn của Ngài.

Ánh sáng là chủ đề tài nổi bậc trong tin mừng.

Ngay những trang đầu của tin mừng, thánh Gioan đã cho biết Chúa Giêsu chính “là ánh sáng, ánh sáng thật, ánh sáng đến trần gian và chiếu soi mọi người”.

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự xưng là ánh sáng thế gian và Ngài mời gọi con người đi trong ánh sáng của Ngài.

Từ hai ngàn năm qua, Ngôi Lời Thiên Chúa đã chiếu ánh sáng Thiên Chúa vào trần gian. Người mang lửa xuống trần gian. Người mong ước cho ngọn lửa ấy cháy bừng lên, lan rộng ra. Nhưng nhìn vào tình hình thế giới hôm nay, ta thấy bóng tối vẫn còn vây phủ con người.

 Bóng tối chết chóc của chiến tranh, hận thù, của ô nhiễm môi trường, của đói nghèo, áp bức, phân biệt chủng tộc, của nền văn hóa sự chết giết hại cả những mầm mống sự sống.

Bóng tối tội lỗi. Tội lỗi vẫn tiếp tục lan tràn. Sự dữ nổi lên dưới nhiều hình thức khác nhau. Nguy hiểm nhất là người ta đánh mất cảm thức về tội lỗi, thản nhiên sống trong tội, sống chung với tội lỗi.

Bóng tối của hận thù ghen ghét. Trong thế giới văn minh mà con người hô hào hôm nay, vẫn còn có những người say máu giết hại đồng bào của mình, gây nên tội ác diệt chủng. Vẫn có những thế lực đen tối ngấm ngầm gây chia rẽ giữa các quốc gia, dân tộc, giữa các cộng đoàn, hội thánh...

Sống trong xã hội tràn ngập bóng tối của sự chết, của tội lỗi và hận thù…như thế, Chúa Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta phải chiếu giãi  trước mặt mọi người.

“Các con là ánh sáng thế gian”. Ngày nhận lãnh bí tích rửa tội, Giáo Hội trao cho ta cây nến sáng để nhắc nhớ chúng ta hãy gìn giữ ngọn nến ấy luôn cháy sáng mãi trong suốt cuộc đời.

Cây nến phục sinh mà người kitô hữu chúng ta thắp lên trong đêm lễ phục sinh nhắc nhở chúng ta nhiệm vụ mang ánh sáng Chúa Kitô chia sẻ cho mọi người chung quanh.

Xin Chúa giúp chúng ta tẩy sạch mọi bóng tối tội lỗi, để thực sự được sinh lại cùng với Đức Giê-su. Trở nên con cái sự sáng bằng đời sống tươi vui, an hoà, khiêm nhường, nhịn nhục, yêu thương, đoàn kết đến cho anh em. 

 

Thứ năm: Cv 13, 13-25; Ga 13, 16-20.

Suy niệm 1:

Sách Cvtđ hôm nay tiếp tục ghi lại cuộc hành trình truyền giáo lần thứ I của Phaolô và Barnaba nơi vùng đất dân ngoại, ngoài lãnh thổ Giêrusalem. Có lẽ cuộc hành trình truyền giáo này gặp rất nhiều vất vả, khó khăn nênmôn đệ Gioan-Márcô đã rời bỏ nhóm mà trở về Giêrusalem, chỉ còn lại Phaolô và Barnaba. Hai ông rời bỏ Paphô để vượt biển đến Antiokhia xứ Pisiđia. Tại đây, vào ngày Sabath, Phaolô cùng với Barnaba vào hội đường người Do Thái để cử hành nghi thức phụng vụ (đọc và nghe giải thích thánh kinh, học hỏi lề luật và cầu nguyện). Tận dụng cơ hội này, Phaolô đã đứng lên giảng dạy. Nội dung bài giảng của Phaolô chủ yếu là điểm lại những chặng đường lịch sử mà dân tộc Israel đã đi qua:

- Từ Aicập cho đến xuất hành khỏi cảnh nô lệ.

- Từ vượt qua hành trình 40 năm trong sa mạc cho đến vào đất hứa.

- Từ thời các thủ lãnh đến thời quân chủ

- Cuối cùng là thời Messia đã được Gioan Tẩy Giả loan báo. Đấng Messia ấy chính là Đức Giêsu-Kitô. Người đến để hoàn tất kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ.

Sau khi tóm tắt lại những chặng đường lịch sử mà dân tộc Israel đã đi qua, Phaolô muốn chứng minh cho khán giả thấy rằng: Thiên Chúa là Đấng luôn trung tín trong lời hứa với tổ phụ Abraham nên đã ban cho Israel Đấng Cứu Độ xuất thân từ giòng dõi vua Đavid và Đất hứa làm gia nghiệp.

Xin cho chúng ta luôn ý thức: Lời hứa rất quan trọng trong đời sống. Nếu một người biết giữ lời hứa và thực hiện lời hứa, chứng tỏ người ấy sống có trách nhiệm với bản thân và người khác, sẽ được người khác quý mến, tôn trọng và tín nhiệm. Ngược lại, nếu nói mà không làm, thường xuyên thất hứa, chứng tỏ người ấy sống thiếu trách nhiệm, không biết tôn trọng bản thân và người khác, chắc chắn sẽ không được tôn trọng. Nên trước khi hứa với ai điều gì ta nên cẩn trọng xem mình có khả năng thực hiện được không? Và nếu một khi đã hứa, hãy cố gắng thực hiện!

Trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, ta (hay cha mẹ thay ta) đã hứa với Chúa và GH là từ bỏ tà thần và tuyên xưng đức tin, trung thành sống với Chúa trong tình con thảo. Xin cho mỗi chúng ta luôn ý thức sống trung thành với lời đã thề hứa ấy. Nhất là xin cho các đôi vợ chồng trẻ luôn biết tôn trọng và tuân giữ lời mình đã tự nguyện thề hứa trước mặt Thiên Chúa và cộng đoàn trong ngày cử hành bí tích hôn phối mà trung thành với nhau trong đời vợ chồng, cho dẫu phải đối mặt với những nghịch cảnh trong đời sống.

 

Suy niệm 2: 

Các nhà xã hội học định nghĩa con người là con vật có xã hội tính. Thật vậy “không ai là một hòn đảo”. Con người sống là sống với, sống cùng, sống cho và sống nhờ… người khác. Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mở lòng đón tiếp những sứ giả Chúa với tấm lòng yêu mến và hy sinh phục vụ. Yêu mến phục vụ các ngài chính là yêu mến và phục vụ Chúa.

“Tôi tớ không lớn hơn chủa nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi” (Ga 13, 16). Các tông đồ là môn đệ Chúa nên các ông không thể bằng Chúa. Nhưng các ngài diễm phúc được Chúa Giêsu đặt ngang hàng với Người. “Ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy”. Như thế, Chúa mời gọi chúng ta phải lưu tâm đón tiếp và phục vụ những sứ giả của Chúa sai đến là các tông đồ. Tiếp nối các tông đồ là các Linh mục. Các ngài cũng là những Chúa Kitô thứ hai. Do đó đón tiếp các ngài là đón tiếp chính Chúa.

Trong Thánh Kinh chúng ta thấy còn ghi lại một vài nét đẹp của sự tiếp đón đáng cho chúng ta bắt chước. Những gương sáng này vẫn luôn giữ được tính cách thời sự của nó.

1.  Ông Abraham.

Ông là một con người hiếu khách và quảng đại. Khi thấy ba khách lạ đang đi trong sa mạc nắng cháy, không những ông mời mà còn năn nỉ họ vào nhà nghỉ và ân cần săn sóc họ một cách chu đáo. Ba người khách lạ đó là ai ? Đó là ba sứ giả của Thiên Chúa. Đáp lại tấm thịnh tình và lòng quảng đại của ông, ba sứ giả ban cho vợ chồng hiến muộn này một đứa con trai đầu lòng. Đó là cậu Isáac.

2.  Một gia đình ở Su-nêm.

Khi tiên tri Elia qua Su-nêm, một bà giầu có rất hiếu khách đã mời Elia vào nhà dùng bữa với sự săn sóc tỉ mỉ. Bà còn dọn cho tiên tri một phòng trên gác đầy tiện nghi để tiên tri có thể lui tới tự do. Đáp lại tấm lòng quảng đại của bà, Elia cũng hứa ban cho bà một đứa con vì bà son sẻ: ‘Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng”

3.  Gia đình ba chị em ở Bêtania.

Chúa Giêsu rất thương ba chị em này, mỗi khi đi qua Bêtania, Chúa và các môn đệ thuờng ghé thăm chị em và nghỉ ngơi. Chị cả Matta rất hiếu khách, dọn cho Chúa những bữa ăn ngon. Còn cô em Maria  đón tiếp Chúa bằng cách ngồi dưới chân Chúa mà nghe Ngài dạy dỗ, cách đón tiếp này cũng làm cho Chúa rất hài lòng. Còn Lagiarô là đàn ông thì tiếp theo kiểu đàn ông là ăn uống và chuyện trò với Chúa. Đáp lại sự đón tiếp ân cần và thành thực của ba chị em, Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô sống lại sau khi chết bốn ngày.

Khi tiếp đón các tông đồ của Chúa, dĩ nhiên chúng ta phải mất mát : mất thì giờ, mất tiền của, mất công... Nhưng tất cả sẽ được Chúa thưởng công cho ở đời này hay đời sau. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa, đã tiên liệu cho chúng ta có những người kế tiếp Chúa, là các Linh mục, để đem Chúa đến cho chúng ta và dạy bảo chúng ta về đời sống đạo.

 Chúng ta cầu xin cho các linh mục biết sống và thể hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trước mặt Chúa cho xứng đáng, để mọi người nhận ra khuôn mặt Đức Kitô qua đời sống linh mục.

 

Thứ sáu: Cv 13, 26-33; Ga 14, 1-6.

Suy niệm 1: 

Sau khi nhắc lại những chặng đường lịch sử mà dân Israel đã trãi qua dưới sự dẫn dắt đầy khôn ngoan của TC, Phaolô tiếp tục dùng khung bài giảng Kerygma (bài giảng truyền giáo) để khái quát về cuộc đời của Đức Giêsu nơi trần thế và khẳng định mọi điều Thiên Chúa hứa ban nay đã được thành toàn nơi Đức Kitô qua cái chết và sự Phục Sinh vinh hiển của Người.

- Về sự phục sinh của Đức Giêsu: Phaolô khẳng định chính Đức Kitô đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ: "Trong nhiều ngày, Đức Giêsu đã hiện ra với những kẻ từng theo Người từ Galilê lên Giêrusalem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người trước mặt dân". Và Phaolô và Barnaba chính là chứng nhân cho tin mừng ấy: "Còn chúng tôi, chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: Điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Đức Giêsu sống lại, đúng như lời đã chép trong Thánh vịnh 2: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2, 7).

- Về cái chết của Đứcc Giêsu: Phaolô nhấn mạnh cái chết của Đức Giêsu là do "dân cư thành Giêrusalem và các thủ lãnh của họ” gây nên. Nhưng cũng như Phêrô, ngài cho biết sở dĩ họ giết Đức Giêsu là vì họ không nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ.

+ Từ đó, Phaolô hướng mọi người nhìn về cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu là kế hoạch cứu độ đầy khôn ngoan của TC, vì đã ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã nói về Người Tôi Trung của TC. Và ông kêu gọi mọi người sám hối, tin nhận Đức Giêsu để đón nhận ơn cứu độ.

Với cái nhìn đức tin, Phaolô cho thấy: dù con người có từ chối và đóng đinh Chúa Giêsu trên Thập Giá, họ cũng không tài nào vô hiệu hóa được kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, để từ nay, không những dân Israel mà mọi người đều có thể nhận được ơn cứu độ.

Xin cho chúng ta biết phó thác đời mình cho kế hoạch đầy khôn ngoan và giàu lòng yêu thương của TC. Để cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu vẫn phải chấp nhận ngang qua con đường thập giá. Vì thế thập giá chính là con đường mà chúng ta phải bước theo nếu muốn được cứu độ. Xin cho chúng ta luôn can đảm sống tinh thần của thánh Phaolô để sẵn sàng "cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống lại như Người".

 

Suy niệm 2: 

Ngày xưa chưa có đường. Nhưng do đi lại nên trở thành đường mà thôi. Muốn đi và đạt đến đỉnh hạnh phúc vinh quang ta cần có con đường để đi. Con đường ấy chính là Đức Giêsu Kitô, Ngài đi từ trời xuống và từ đất lên và trở nên đường đưa dẫn chúng ta về trời sum họp cùng với Ngài trong nhà Cha. Xin cho chúng ta biết đi trên con đường mà chính Chúa đã vạch ra hầu chúng ta đạt tới quê trời vinh phúc.

Sau một thời gian rời bỏ Việt Nam để tìm cho mình cuộc sống tự do nơi quê hương xứ sở mới. Nay cuộc sống của hầu hết Việt Kiều ở nước ngoài đều ổn định và sung túc. Trong khi đó những người thân của họ ở lại thì phải sống trong cảnh khó khăn, vất vã. Với chính sách đoàn tụ gia đình, những năm gần đây, nhiều việt kiều đã về nước để bảo lãnh người thân của mình sang để sum họp gia đình và hưởng được cuộc sống tiện nghi thoải mái. Tuy nhiên để được đoàn tụ với người thân bên nước ngoài, công dân việt nam phải thoả mãn nhiều điều kiện....

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho các tông đồ biết : Ngài sẽ ra đi để dọn chỗ cho các ông, rồi một ngày nào đó, Chúa sẽ trở lại, đem các ông lên ở với Chúa trên nhà Cha trên trời, để hưởng vinh phúc đời đời. Tuy nhiên để được đoàn tụ với Chúa Giêsu trên quê hương thiêng đường, Chúa cũng đòi hỏi chúng ta phải thoả mãn các điều kiện mà Chúa đưa ra. Đó là đi đúng con đường của Chúa đã đi, tuân giữ chân lý mà Chúa đã truyền và hiệp thông trong sự sống của Chúa.

Con đường mà Chúa Giêsu đi là con đường hẹp, con đường thập giá. Chấp nhận hy sinh, gian khổ để thi hành những giời răn mà Chúa đã chỉ dạy. Biết khiêm tốn, hạ mình chấp nhận thiệt thòi để phục vụ tha nhân với tình yêu mến.

Cố gắng sống theo chân lý mà Chúa đã dạy. Chân lý ấy là sống yêu thương. Yêu không chỉ những người thân cận, không phải những kẻ yêu mình mà tình yêu phải quy chiếu vào tình yêu của Chúa Giêsu: “Yêu như Chúa yêu”, tình yêu ấy phải dành cho hết mọi người, không phân biệt một ai, ngay cả kẻ thù.

Ý thức nổ lực sống hiệp thông với Chúa, bằng việc lắng nghe và thi hành Lời Chúa cũng như tha thiết kết hiệp với Chúa qua việc kính yêu và năng đón nhận Mình Thánh Chúa. Nhờ thế sự sống và sức mạnh Chúa tuôn chảy trong ta. Như nhựa cây cần thiết để nuôi sống cây nho và cành nho thế nào thì linh hồn chúng ta cũng cần đến Lời Chúa và Mình Thánh Chúa như thế.

 Mục đích một đời sống đạo là hạnh phúc thiêng đàng. Nhưng để đạt được điều mong đó, không gì khác hơn là chúng ta phải đi theo đường Chúa đã đi, sống theo chân lý mà Chúa đã sống và chỉ dạy, nhất là phải luôn sống bằng sức sống của Chúa qua việc thi hành Lời Chúa và năng kết hiệp với Chúa nơi bàn tiệc Thánh Thể.

 

Thứ bảy: Cv 13, 44-52; Ga 14, 7-14.

Suy niệm 1: 

Với chủ đích ban đầu của các môn đệ là loan báo Tin mừng Cứu độ chủ yếu cho người Do Thái nên Phaolô và Barnaba luôn tận dụng Hội đường để rao giảng. Lần này cũng vậy, Phaolô và Barnaba đến Hội đường vào ngày Sabath để rao giảng theo lời mời của một số người Do Thái. Tuy nhiên lần này hai ông lại bị chống đối quyết liệt bởi những người Do Thái quá khích.

Hai lý do họ chống đối Phaolô và Barnaba là:

- Thứ nhất vì ghen tương: Họ không muốn Phaolô và Barnaba có ảnh hưởng trên đám đông; vì nếu đám đông nghe theo Phaolo va Barnaba thì họ sẽ không còn ảnh hưởng trên dân chúng nữa. Họ không muốn thấy ai được phép bằng họ.

- Thứ hai vì quan niệm hẹp hòi: Truyền thống Do Thái quan niệm chỉ có họ mới là con Thiên Chúa và có đặt quyền nghe lời của Thiên Chúa. Giờ đây cả dân ngoại cũng được làm con Thiên Chúa và được nghe lời Thiên Chúa thì họ đâu còn chi đặc biệt nữa. Nên khi “thấy đám đông dân chúng, thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy”.

Cách giải quyết của Phaolô và Barnaba trước sự chống đối:

1. Bình tĩnh can đảm giải thích: Lẽ ra "Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân Ngoại".

2. Dùng Lời Chúa để minh chứng: Phaolô và Barnaba đã trích lại lời Thiên Chúa trong sách Isaia để cho thấy việc rao giảng Lời của Chúa cho dân ngoại chính là lệnh truyền của Thiên Chúa: “Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dânđể ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất." (Is 49, 6).

Nhưng khi nghe những lời đó, họ càng phẩn nộ, đã xách động và xúi dục nhóm phụ nữ thượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, ngược đãi ông Phaolô và ông Barnaba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ.

Trước thái độ cố chấp của họ, cuối cùng hai ông đành phải cắt đứt liên hệ với họ qua cử chỉ“giũ bụi chân phản đối họ và đi tới Icôniô”, theo như lời Chúa Giêsu đã dạy:“Nếu người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi thành ấy, anh em hãy giũ bụi chân lại” (Mt 10,14). Chính nhờ đó mà Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy và dân ngoại được hân hoan ca tụng Lời Chúa.

Xin cho chúng ta biết noi gương hai thánh tông đồ Phaolô và Barnaba luôn nhiệt tâm rao giảng Tin mừng cho mọi người dù gặp phải nhiều gian nan thử thách. Nhất là cho mỗi người Kitô hữu chúng ta biết tích cực góp phần cho công cuộc truyền giáo với hết khả năng của mình. Đừng vì tính ích kỷ, ghen tị, tự mãn… hay bất cứ lý do nào làm ngăn cản cho sứ vụ loan báo Tin Mừng.

 

Suy niệm 2: 

 "Xin cho chúng con thấy Chúa Cha" (Ga 14,8). Đó không chỉ là khao khát của tông đồ philipphê mà là mỗi chúng ta, những người tin Chúa. Khao khát đó sẽ được Đức Giêsu làm thoả mãn qua sứ điệp của lời Chúa hôm nay.

 Tin Mừng hôm nay, Philipphê xin với Chúa Giêsu: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện" (Ga.14:8). Khao khát của Philipphê, cũng là khao khát mỗi chúng ta.

Thiên Chúa đã đáp lại khát vọng đó qua việc cho Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử Giêsu” (Dt 1, 1- 20). Nơi Đức Giêsu Kitô, chúng ta gặp được Thiên Chúa, dễ gần, dễ thấy, dễ quen.

Thiên Chúa đâu chỉ ở nơi cao thẳm ngàn trùng, Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Giữa Ngài và Thiên Chúa Cha có một gắn bó lạ lùng đến nỗi Đức Giêsu dám nói: "Ai biết Thầy là biết Cha" (Ga 14, 7). "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (Ga 14, 9) vì "Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy"(Ga 14, 10).

Lời nói và việc làm của Đức Giêsu chính là lời nói và việc làm của Thiên Chúa (x. Ga 14, 10). Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu được Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt, phản chiếu khuôn mặt và trái tim Thiên Chúa, đầy nhân ái và bao dung với hết mọi người. Kitô hữu là người có Chúa Kitô nên được mời gọi trở nên giống Chúa Giêsu để có thể nói rằng: Ai biết tôi là biết Đức Kitô, ai thấy tôi là thấy Đức Kitô.

Lạy Chúa Giêsu! Ðã bao lần con làm cho khuôn mặt Chúa trở méo mó, biến dạng và có thể là rất khó thương vì đời sống không tốt đẹp của con. Xin cho con biết nhìn lên Chúa như một khuôn mẫu tuyệt vời để tu tập thành con người mới, con người có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và tình yêu thương, để nhờ đó con trở thành hình ảnh trung thực về Chúa cho thế giới hôm nay. Amen.

 

* 14/05 : KÍNH THÁNH MÁTTHIA, TÔNG ĐỒ

Cv 1, 15-17. 20-26; Ga 15, 9-17

Hòa nhịp cùng với GH, hôm nay chúng ta mừng kính thánh Matthia, tông đồ. Về thân thế, sự nghiệp và hoạt động của tông đồ Matthia chúng ta không biết gì cả, bởi lẽ các sách Tin mừng không nói đến. Ta chỉ biết được một chút thông tin về thánh Matthia qua đoạn sách Cvtđ hôm nay.

Đoạn Sách Cvtđ hôm nay, thánh Luca trình bày lại sự việc các tông đồ muốn đề cử người nào đó vào thay thế chỗ cho tông đồ Giuđa Iscariốt còn bỏ trống lại sau khi chết.

Với tư cách là tông đồ trưởng và là người đại diện Hội Thánh, Phêrô đã đứng lên phát biểu trước cộng đoàn khoảng 120 người về số phận và cái chết bi thương của tông đồ Giuđa Iscariốt. Cái chết ấy xảy ra là vì ông ta đã cố ý chọn cho mình con đường gian ác mà phản bội lại Chúa Giêsu. Rồi Phêrô đề nghị cộng đoàn hãy chọn ra một người để thay thế cho Giuđa Iscariốt cho đủ con số 12 tông đồ như ngay từ đầu Chúa Giêsu đã thành lập, nhưng phải thỏa mãn với hai tiêu chí sau đây:

(1) Phải là người theo Chúa Giêsu từ khi bắt đầu Người rao giảng: “kể từ phép rửa của Gioan cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời”.

(2) Người ấy phải là chứng nhân cho sự Phục sinh của Chúa: “phải có một người trở thành chứng nhân cùng với chúng tôi về cuộc Phục Sinh của Người”.

Xét theo hai tiêu chuẩn trên thì chỉ có ông Giuse (biệt danh là Basaba, cũng gọi là Giútô) và ông Mátthia là hội đủ hai điều kiện đề ra. Sau khi cộng đoàn cầu nguyện và rút thăm, thì ông Matthia trúng thăm và được chọn vào vị trí tông đồ thay cho Giuđa Iscariốt đã bỏ trống.

Như vậy Matthia là tông đồ được chọn sau cùng để lấp vào chỗ trống của tông đồ Giuđa Iscariốt để lại. Ngài cũng là vị tông đồ âm thầm nhất, bởi các sách Tân Ước không hề nhắc đến tên, tiếng nói hay một hoạt động nào của ngài cả.

Tuy nhiên nếu dựa vào hai tiêu chuẩn được đề ra để chọn lựa vị trí tông đồ thay cho Giuđa Iscariốt ở trên, thì ta có thể biết được tông đồ Matthia là một người trung thành theo Chúa Giêsu từ đầu cho đến cùng; và là chứng nhân can đảm về sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Nên ngài xứng đáng được cộng đoàn tin tưởng đề cử và được Thiên Chúa yêu mến tuyển chọn.

Là con người, tự nhiên ai trong chúng ta cũng thích được đứng đầu và muốn làm lớn để được nổi danh. Sẽ rất buồn nếu là người đội sổ và bị người khác xem là kẻ bé nhỏ. Nhưng với thánh Matthia thì điều đó không quan trọng; điều mà ngài quan tâm là trung thành đi theo Chúa đến cùng để được “ở lại trong tình yêu của Thầy”.

Nếu như người đời ai cũng thích làm nổi, để được nhiều người biết đến và được tung hô ca tụng, thì với thánh Matthia, tông đồ chỉ mong muốn được làm chứng nhân âm thầm cho Chúa Phục sinh với hy vọng mọi người tin nhận mà sống theo lệnh truyền yêu thương của Chúa chỉ dạy. Đó chính là con đường đúng đắn nhất và theo con đường ấy chắn chắn ta sẽ trở nên bạn hữu của Chúa Giêsu và sẽ được vinh dự thừa hưởng niềm vui và hạnh phúc trọn vẹn hôm nay và mai này.

Nhờ lời chuyển cầu của thánh tông đồ Matthia, xin Chúa ban cho chúng ta có được niềm tin kiên vững theo Chúa đến cùng; nhất là biết tích cực làm chứng nhân cho Tin mừng Phục sinh của Chúa bằng chính đời sống yêu thương như Chúa truyền dạy theo gương thánh Matthia tông đồ, mà GH mừng kính hôm nay.

 

TÌM HIỂU THÊM LỜI CHÚA TUẦN IV PHỤC SINH

ĐGM. Stêphanô Tri Bửu Thiên

* Thứ hai: Ga 10,11-18

Chương 10:  Đg Tại Đền Thờ Giêrusalem

1.    ĐG  tự nhận mình là vị Mục Tử Nhân Lành

Vị Mục Tử nhân lành

  Khi nhận mình là vị mục tử nhân lành ĐG không có ý nhằm đến cương vị lãnh đạo, người lãnh đạo, nhưng qua tước hiệu này một lần nữa ĐG khẳng định căn tính đích thật của mình: Ngài chính là Ngôi Hai Con Thiên Chúa Làm Người, Ngài được Chúa Cha sai đến để thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa Ba Ngôi bằng chính cái chết đau thương của Ngài trên thập giá và sự Phục sinh vinh quang. Ngài được Chúa Cha sai đến để thiết lập vương quốc vĩnh cửu là Nước Trời. Vương quốc này mời gọi mọi người không trừ ai, tuy nhiên để vào được vương quốc Nước Trời là phải tin vào ĐG,

Ngài chính là Vị trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và toàn thể nhân loại, Ngài chính là vị cứu tinh duy nhất mà Thiên Chúa Cha đã sai đến để cứu vớt nhân loại lầm than. Tin vào ĐG Đấng cứu độ duy nhất là điều kiện tất yếu để vào được vương quốc vĩnh cửu là Nước Trời. Chuồng chiên ám chỉ vương quốc vĩnh cửu là Nước Trời, Cửa chuồng chiên ám chỉ ĐG Đấng được Chúa Cha sai đến để thiết lập Nước Trời, và là Chủ của vương quốc mới, đàn chiên là những công dân của Vương Quốc mới là Nước Trời này.

  Ở đây ĐG muốn rằng tất cả mọi người đều được cứu độ, đều được thuộc về đàn chiên của Ngài đều được trở thành công dân của vương quốc mới là Nước Trời.

 

"Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử.

Đức Giê-su lại nói: "Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào.8 Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ. 9 Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.10 Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi.

 

2. Lễ cung hiến đền thờ.

Lễ cung hiến đền thờ là lễ gì? Người Do-thái cử hành lễ này vào tháng 12 (mùa đông). Lễ này kéo dài tám ngày nhằm kỷ niệm việc tẩy uế Đền Thờ và khánh thành bàn thờ mới do ông Giu-đa Ma-ca-bê tổ chức sau cuộc chiến thắng vua An-ti-ô-khô IV (x. 1 Mcb 4,36-59 ; 2 Mcb 1,9.18 ; 10,1-8).

 

* Thứ ba: Ga 10, 22-30

3. ĐG  tự xưng mình là Con TC (Tại Giêrusalem, nhân dịp lễ cung hiến đền thờ Giêrusalem thứ hai do Nêhêmi xây dựng).

“Khi ấy, ở Giê-ru-sa-lem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa đông. 23 Đức Giê-su đi đi lại lại trong Đền Thờ (đền thờ thứ ba đang được xây dựng do vua Hêrôđê) , tại  hành lang Sa-lô-môn.(bản đồ 168-338)

Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha

24 Người Do-thái vây quanh Đức Giê-su và nói: "Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết."25 Đức Giê-su đáp: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi.26 Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi.27 Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi.28 Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.29 Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.30 Tôi và Chúa Cha là một."

Người Do-thái đáp: "Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa.

Qua đoạn Thánh Kinh này người Do Thái muốn ĐG khẳng định một cách rõ ràng và công khai Ngài có phải là Con TC không?

Qua đoạn Tin Mừng này ĐG  đã chính thức công khai và khẳng định một cách rõ ràng rằng Ngài chính là Ngôi Hai Con Thiên Chúa Làm Người. Ngài đích thực là con người thật và cũng là một vì Thiên Chúa thật. Ngài được Chúa Cha sai đến để thực hiện chương trình cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi và ách thống trị của ma quỷ.

Ngoài những lời giảng dạy, ĐG cũng đã thực hiện rất nhiều những dấu lạ mà không một người phàm nào có thể thực hiện nổi: những việc chữa lành lạ lùng, những lần xua trừ ma quỷ, cho Lazarô chết bốn ngày được sống lại… vậy mà những luật sĩ và biệt phái Do Thái đồng thời với ĐG , tuy họ thấy cách rõ ràng tất cả những điều trên như họ vẫn không chịu tin và vẫn không chịu chấp nhận ĐG là Thiên Chúa thật. Ngoài ra họ còn tìm cách giết ĐG  vì cho rằng ĐG  phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa” .

4. ĐG rút lui sang bên kia sông Giođan

Đức Giê-su lại ra đi, sang bên kia sông Gio-đan, đến chỗ trước kia ông Gio-an đã làm phép rửa, và Người ở lại đó...Nhiều người đến gặp Đức Giê-su. Họ bảo nhau: "Ông Gio-an đã không làm một dấu lạ nào cả, nhưng mọi điều ông ấy nói về người này đều đúng." 42 Ở đó, nhiều người đã tin vào Đức Giê-su” (BĐ Israel Thời CGS)

 

* Thứ tư: Ga 12, 44-50

Chúa.44 Đức Giê-su lớn tiếng nói rằng: "Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi;45 ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi.46 Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối.47 Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian.48 Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết.

Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì.50 Và tôi biết: mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi."

 

*  Thứ năm: Ga 13, 16-20.

16 Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi.17 Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em!18 Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con.19 Thầy nói với anh em điều đó ngay từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, anh em tin là Thầy Hằng Hữu.20 Thật, Thầy bảo thật anh em: ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy."

 

* Thứ sáu: Ga 14, 1-6.

Chương 14Tâm Trạng Của Đức Giêsu  Và Các Môn Đệ Trong Bữa Tiệc Ly.

1. Đức Giêsu an ủi các môn đệ

Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.2 Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em.3 Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.4 Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi."

Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường? "6 Đức Giê-su đáp: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.7 Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.“

 

*  Thứ bảy: Ga 14, 7-14.

7 Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.“

Ông Phi-líp-phê nói: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện."9 Đức Giê-su trả lời: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha"?10 Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?

2. Đức Giêsu khuyên bảo các môn đệ

Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy.16 Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi.17 Đó là Thần Khí sự thật

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XIV THƯỜNG NIÊN Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN B Ed 2,2-5; 2Cr 12,7-10; Mc 6,1-6 Suy niệm 1: ...