SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN
V PHỤC SINH
Lm
Vĩnh Hòa
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH C
Cv 14,21b-27; Kh 21,1-5a; Ga 13,31-33a.34-35
Trước khi về cùng Thiên Chúa Cha,
Chúa Giêsu đã để lại cho các môn đệ cũng như cho tất cả chúng ta lời nhắn nhủ
yêu thương: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy
đã yêu thương anh em”.
Yêu thương theo lệnh truyền của
Chúa không chỉ là yêu thương người thân cận như chính mình, nhưng còn là yêu
thương tất cả mọi người bằng một tình yêu “như Chúa yêu”. “Như Chúa yêu” là bao
dung tha thứ là khiêm tốn phục vụ và sẵn sàng hy sinh chính mạng sống mình cho
người mình yêu. Xin cho chúng ta có được tình yêu như Chúa để xứng đáng được
gọi là bạn hữu của Chúa.
“Yêu như Thầy”(Ga 15,12). Nghĩa là Chúa Giêsu
mong muốn nơi các môn đệ của Ngài, trong đó có tôi và bạn, phải yêu giống như
Ngài. Yêu giống Ngài là biết chấp nhận tất cả những cái hay cái dở,
những cái tố cái xấu và tất cả những sự bất toàn, yếu đuối … của tha nhân.
"Yêu như Thầy" là phải biết kiên nhẫn trước những
yếu đuối lỗi lầm, trước những giới hạn về niềm tin cũng như về mặt nhân bản của
tha nhân.
"Yêu như Thầy" là biết quan tâm tới những nhu cầu
cần thiết của tha nhân. Sự quan tâm ấy không phải chỉ bằng lời nói, nhưng
còn bằng những hành động rất cụ thể và thiết thực.
"Yêu như Thầy" là biết bao dung và sẵn sàng tha thứ
mọi lỗi lầm của những ai xúc phạm đến ta.
"Yêu như Thầy" là sẵn sàng cúi xuống rửa chân và
khiêm tốn phục vụ tha nhân như Thầy Giêsu; mà đỉnh cao của tình yêu như Thầy là
sẵn sàng hy sinh thí mạng sống mình cho người mình yêu được sống và sống dồi
dào. Bởi "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí
mạng vì bạn hữu mình" (Ga 15,13).
Vì muốn tình yêu của Chúa được
thấm nhập vào tâm hồn mỗi người và được lan tỏa khắp nơi nên Chúa Giêsu tha
thiết mời gọi các môn đệ Ngài, trong đó có mỗi chúng ta "hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương".
Xin Chúa cho chúng ta có được tình yêu như Chúa để mọi
người nhận ra Chúa nơi mỗi người chúng ta. Được như thế chúng ta mới xứng danh
là môn đệ của Chúa.
Thứ hai: Cv 14, 5-18; Ga 14,
21-26.
Suy niệm 1:
Tuần này, phụng vụ lời Chúa bài đọc 1 tiếp
tục mời gọi chúng ta đồng hành với Phaolô và Barnaba trên những nẻo đường
truyền giáo cho dân ngoại lần thứ nhất. Đoạn sách Cvtđ hôm nay nói đến những
vui buồn, sướng khổ khi thi hành sứ mạng truyền giáo.
- Vui vì được nhiều người dân
ngoại đón nhận Tin mừng của Chúa.
- Sướng vì những khả năng làm phép lạ do
Chúa ban để củng cố niềm tin cho tín hữu và góp phần thuận lợi cho việc loan
báo Tin mừng.
Nhưng bên cạnh đó cũng gặp rất nhiều đau
khổ.
- Đau vì bị hiểu lầm bởi dân ngoại, bị
ghi kỵ, làm nhục và chống đối liên tục của những người gốc Do Thái.
- Khổ vì ném đá, bị bắt và bị đánh đập đến
nữa sống nữa chết và bị trục xuất ra khỏi thành của họ.
Nhưng cho dù sướng hay khổ, vui hay buồn,
thành công hay thất bại vẫn không thể nào làm sờn lòng nản chí tông đồ Phaolô
và Barnaba. Bởi hai ông luôn ý thức được truyền giáo chính là lệnh truyền tâm
quyết của Chúa Giêsu phục sinh trao ban cho các ngài trước khi về
trời: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa
cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần" (Mt 28,19).
Loan báo Tin mừng còn mang một giá trị cao
quý khác gắn liền với đời sống của Phaolô, nên nếu không thi hành sứ vụ ấy ngài
sẽ cảm thấy đau khổ: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.”(1
Cr 9,16).
Làm chứng nhân cho Chúa là một vinh dự cao
quý do Chúa Phục Sinh trao ban, nhưng đây lại là nhiệm vụ đầy dẩy cam go thử
thách. Để thi hành nhiệm vụ này, Phaolô và Barnaba đã phải hy sinh bằng mồ hôi,
nước mắt và sức lực, ngay cả phải hy mạng sống mình. Nhiệm vụ này không chỉ khó
khăn đối với các tông đồ vào thời GH ban đầu, mà ngay cả ngày nay nhiệm vụ ấy
lại càng trở nên khó khăn hơn đối với GH, bởi cuộc sống con người hôm nay có
quá nhiều rào cản... Vì thế mà đòi hỏi con cái GH phải nổ lực và hy sinh rất
nhiều.
Xin cho chúng ta biết noi gương
hai thánh tông đồ Phaolô và Barnaba mà góp phần tích cực vào công cuộc truyền
giáo của GH, cho dù gặp phải những chống đối, ghi kỵ, loại trừ của thế gian, vì
tin rằng Chúa luôn ở bên ta để nâng đỡ, bảo vệ, dự liệu và ban ân sủng cho ta
trong khi thi hành nhiệm vụ cao cả này. Như Lời Chúa phán với Phaolô:“Ơn Ta đủ
cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối” (2Cr 12,9).
Đọc thêm:
Để dễ nắm bắt đoạn sách Cvtđ này, ta có
thể chia làm 3 phần:
1. Sự việc xảy ra tại
Icôniô.
Sau khi giũ bụi chân nhằm phản đối cách
hành xử của những người gốc Do Thái tại Antiokhia miền Pixiđia. Phaolô và
Barnaba đến Icôniô. Dù đoạn tuyệt với người Do Thái, nhưng hai ông vẫn
gắn bó với hội đường. Tại đây hai ông tiếp tục giảng dạy. Tương tự như những
lần trước, tại đây bên cạnh thành công vì có rất đông người Do Thái và Hy Lạp
tin theo nhưng cũng có người không đón nhận, nên họ mưu toan làm nhục và ném đá
hai ông. Biết thế hai ông lánh sang các thành miền Lycaonia: Lytra, Đécbê, và
vùng phụ cận.
2. Phép lạ tại Lýtra.
Tại đây hai ông tiếp tục rao giảng và làm
phép lạ chữa cho một người bại hai chân từ lọt lòng mẹ được khỏi. Anh ta đứng
dậy và đi được.
Lời tung hô dân chúng sau phép lạ: sau khi
chứng kiến phép lạ đã tung hô hai ông như thần linh mặc lốt người phàm. Họ gọi
ông Barnaba là thần Dớt (Zeus), ông Phaolô là thần Hécme (Hermes), vì ông là
người phát ngôn. Họ đã đem bò và vòng hoa đến trước cổng thành, và cùng với đám
đông, muốn dâng lễ tế.
(Zeus và Hermes là hai thần của
người Hy-lạp. Zeus được xem như vua của các thần Hy-lạp, và quan thầy của những
người làm nghề trồng cấy. Có lẽ vì lý do này mà Phaolô muốn nói với dân thành:
không phải Zeus ban mưa từ trời và mùa màng; nhưng là chính Thiên Chúa ban.
Hermes là con của Zeus với Maia; được xem là quan thầy của những người lữ hành,
tội nhân, và gái điếm. Hermes là sứ giả và đem những sứ điệp của các thần cho
con người.)
3. Phản ứng của Phaolô và
Barnaba.
- Barnaba và Phaolô xé áo mình ra: Tỏ thái
độ tức giận vì họ đã đặt mình ngang hàng với TC và buồn phiền vì cảm thấy bản
thân xúc phạm đến Thiên Chúa.
- Sau đó hai ông giải thích cho họ hiểu
rằng: “Chúng tôi đây cũng chỉ là người phàm, cùng thân phận với các
bạn”. Rồi kêu gọi họ: “hãy bỏ những cái hão huyền này đi, mà trở
lại cùng Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã tạo thành trời đất với biển khơi cùng
muôn loài trong đó”.
Suy niệm 2:
Có yêu nhau thì mới sẵn sàng lắng
nghe và làm theo điều người yêu mình mong muốn. Đứa con có yêu cha mẹ thì mới
trân trọng lắng nghe lời cha mẹ khuyên dạy và vui mừng thực hiện điều cha mẹ
chỉ bảo. Cũng vậy chúng ta có yêu mến Chúa thì mới nghe lời và sẵn lòng làm
theo lời Chúa.
Không phải bất cứ ai lãnh nhận bí tích rửa
tội thì hẳn nhiên trở nên con cái đích thực của Thiên Chúa. Nhưng để nên con
cái đích thực của Chúa, trước hết chúng ta phải có lòng yêu mến Chúa,
bằng cách đặt Chúa vào vị trí cao nhất trong cuộc đời của ta. Ưu tiên chọn Chúa
làm giá trị hàng đầu trong cuộc sống mình.
Thứ đến, yêu mến Chúa thì phải gắn
bó với Chúa mật thiết. Định luật tình yêu dạy ta hiểu rằng: Yêu ai thì
“ở gần” người đó, yêu ai thì muốn “ở bên” người đó và yêu ai thì muốn “ở với”
và “ở trong” người mình yêu để trở nên một với người ấy.
Cuối cùng dấu hiệu người có lòng yêu mến Chúa
đích thực đó là luôn tuân giữ lời Chúa. Thước đo của lòng yêu
mến nơi chúng ta nhiều hay ít hệ tại ở việc chúng ta có tuân giữ lời Chúa nhiều
hay ít. Nếu chúng ta nói chúng ta yêu mến Thiên Chúa mà chúng ta không thực
hành lời Chúa dạy, thì có khác gì đứa con “gọi dạ bảo vâng”, nhưng chỉ vâng
vâng, dạ dạ mà không làm theo lời cha mẹ chỉ dạy, thì tình yêu đó chỉ là thứ
tình yêu giả hình, thứ tình yêu đầu môi trót lưỡi. Tình yêu đó chỉ là nhãn
hiệu, là cái mác mà thôi. Vì thế, Chúa Giêsu luôn nhấn mạnh đến lợi ích và giá
trị của việc nghe và làm theo lời Chúa: “Nghe và thực hành lời Chúa
giống như người khôn xây nhà trên nền đá”; “hãy làm theo lời Chúa chứ đừng nghe
suông mà lừa dối chính mình”. Lý thuyết và thực hành phải đi đôi mới giá
trị và có ích lợi, bởi vì nếu “đức tin không việc làm là đức tin
chết” (Gc 2, 17).
Xin Chúa cho chúng ta luôn hết
lòng tuân giữ và thực hành lời Chúa bằng tình yêu mến. Biết đặt Chúa vào vị trí
quan trọng trong cuộc sống và sẵn sàng chọn Chúa làm gia nghiệp đời ta. Làm được
như thế chứng tỏ là chúng ta yêu mến Chúa và xứng danh là con cái đích thực của
Chúa.
Thứ ba: Cv 14, 19-28; Ga 14,
27-31a.
Suy niệm 1.
Nhìn lại trong suốt cuộc hành trình truyền
giáo lần thứ nhất của Phaolô và Barnaba, chúng ta nhận thấy những điểm đáng chú
ý sau:
- Lòng nhiệt tâm truyền giáo của Phaolô và
Barnaba: Hai ông miệt mài rao giảng Tin mừng cho dân ngoại dù gặp phải biết bao
nhiêu là khó khăn: Phải vượt qua đường sá xa xôi, cách trở; kiên trì chịu đựng
bao là nguy hiểm: chống đối, bắt bớ, ghen tị, tù đày, ném đá …; luôn thao thức
ra đi tìm đến những vùng đất mới để gieo vãi hạt giống đức tin,.
- Đến đâu rao giảng các ông cũng đều bị
những người Do Thái kéo đến để chống phá. Đoạn sách Cvtđ hôm nay là một ví
dụ: "Bấy giờ có những người Do-thái từ Antioch và Iconium đến
Lystra, thuyết phục được đám đông. Họ ném đá ông Phaolô rồi lôi ông ra ngoài
thành, vì tưởng ông đã chết. Nhưng khi các môn đệ xúm lại quanh ông, ông đứng
dậy và vào thành. Hôm sau, ông trẩy đi Đécbê cùng với ông Barnaba". Tại
đây các ông tiếp tục rao giảng và giúp nhiều người tin vào Chúa Giêsu.
- Điều đáng nói là cứ sau một chuyến
truyền giáo khi trở về Giêrusalem, Phaolô và Barnaba đều ghé lại thăm viếng một
số nơi mà các ông đã đi qua. Với mục đích là khích lệ và củng cố đức tin cho
họ; tổ chức lại cộng đoàn và chỉ định các kỳ mục thay mặt các ông coi sóc và
chăn dắt cộng đoàn; sau đó các ông cầu nguyện và phó dâng các cộng đoàn cho
Thiên Chúa.
- Khi điểm lại hành trình truyền giáo lần
thứ nhất này ta nhận thấy hai ông đã đi qua tất cả 8 thành. (Bắt đầu từ
Antiôkhia của Syria đến Xalamin và Paphô của đảo Sýp, đến Pécghê, Antiôkhia của
Pixiđia, đến Icôniô, Lýtra, Đécbê, và theo đường cũ trở lại Pécghê, rồi từ
Pécghê đến Áttalia, trở về Pécghê và dùng thuyền trở về Antiôkhia của Xyria). Đây
là cuộc hành trình ngắn nhất trong 3 cuộc hành trình của Phaolô rao giảng Tin
mừng cho dân Ngoại. Khi trở về Antiôkhia, hai ông tập họp Hội Thánh và kể lại
tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông, và việc Người đã mở cửa cho
các dân ngoại đón nhận đức tin. Rồi hai ông ở lại một thời gian khá lâu với các
môn đệ trước khi bắt đầu cuộc hành trình thứ hai.
Tạ ơn Chúa đã ban cho GH những
nhà truyền giáo nhiệt tình, đã sẵn sàng chịu mọi gian lao thử thách, ngay cả
tính mạng, để gieo vãi hạt giống đức tin khắp mọi nơi. Nhờ ơn Chúa mà hạt giống
quý giá ấy được gieo vào lòng đất Việt Nam. Cha ông chúng ta đã tiếp nhận, củng
cố và nuôi dưỡng bằng máu nhờ thế mà hạt giống đức tin được sinh hoa trái dồi
dào. Xin cho chúng ta biết trân trọng bảo vệ, nuôi dưỡng và gieo vãi hạt giống
đức tin ấy khắp nơi và vào mọi tâm hồn, ngỏ hầu mọi người đón nhận được niềm
vui Tin mừng cứu độ của Chúa.
Suy niệm 2.
Thiên tai, dịch bệnh, nghèo đói,
đam mê tội lỗi, hận thù ghen ghét… tất cả những mối hiểm họa ấy như dâng tràn
trong thế giới ngày nay, khiến cho lòng người đầy sóng gió và bất an. Xin Chúa
thương ban bình an của Chúa cho chúng con, sự bình an đích thực trong tâm hồn
như lời Chúa đã hứa.
Chưa bao giờ con người lại phải đối diện
trước những lo âu, bối rối, sợ hãi và bất an như ngày hôm nay. Chiến tranh,
thiên tai, dịch bệnh… xảy ra hàng ngày trên khắp cùng trái đất. Thất nghiệp,
vật giá leo thang, trộm cắp… gia tăng đến mức báo động. Ly dị, phá thai,
bất trung, tệ nạn xã hội …không ngừng gia tăng. Vì thế hơn lúc nào hết, con
người ngày hôm nay luôn khao khát có được cuộc sống bình an đích thực.
Để chốn chạy nỗi lo sợ, buồn phiền, bất
an, con người thường chỉ biết dựa vào của cải vật chất để trấn an tâm hồn đấy
bất an. Chẳng hạn như: Mua bảo hiểm xe cộ, nhà cửa, nhân mạng, y
tế…Hằng đêm mơ mộng để đánh con số đề, mua tấm vé kiến thiết hy vọng bớt đi
những lo âu về tiến bạc. Kẻ thì lao mình vào rượu chè và những thú vui khác để
tìm những phút giây thoải mái quên đi chuyện đời. Người thì uống thuốc an thần
để đi tìm giấc ngủ hy vọng quên đi những muộn phiền. Kẻ dễ tin thì đi tìm thầy
bói, thầy tướng, thầy số… để kiếm tìm hậu vận cho tương lai. Người giàu có thì
gởi tiền và vàng vào ngân hàng để được an tâm… Nhưng tất cả những việc làm ấy
chỉ là giải pháp tạm thời, thiếu căn cơ và không bền vững nên không thể đem lại
nguồn bình an đích thực cho tâm hồn. Vì thế, Chúa Giêsu nói với các tông
đồ: “sự bình an của Thầy. Thầy ban cho anh
em không như thế gian ban tặng” (Ga 14, 27).
Bình an của Ngài không phải là thứ bình an
bên ngoài, giả tạo. Nhưng là bình an bên trong, nghĩa là không giống như sự yên
ổn hay hòa bình, vì yên ổn hay hòa bình là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên
trong.
Bình an là tình trạng tâm hồn đang tương
quan tốt với Thiên Chúa và tha nhân. Bình an của Chúa là bình an khi có Chúa
làm chủ đời sống mình, luôn tin tưởng, phó thác và vâng theo ý Chúa trong mọi
cảnh huống của cuộc đời. Bình an của Chúa là có một tâm hồn trong sạch, được
giao hòa với Chúa và anh em. Bình an của Chúa ban tặng còn được hiểu là bình an
với anh em mình. Sống hoà thuận với nhau, không thấy mình có điều gì làm phiền
lòng anh em và thấy anh em không có điều gì làm phiền lòng mình.
Chỉ có bình an của Chúa mới làm cho chúng
ta được hạnh phúc. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhờ
thông hiệp mật thiết với Thiên Chúa Cha nên Ngài luôn thấy bình an ngay khi kẻ
thù đang đến gần và sắp giết chết Ngài.
Thế giới ngày hôm nay như đang sống trên
một lò lửa. chíến tranh, khủng bố, thiên tai, động đất, khủng hoảng kinh tế, ô
nhiễm môi trường…, thế gian chưa có bình an nên Bình An của Chúa Giêsu ban tặng
vẫn còn nguyên giá trị cho nhân loại, cho những tâm hồn đang khắc khoải tìm
kiếm bình an trong cuộc sống. Mỗi người phải có bình an của Chúa mới có thể
sống an bình với mọi người. Muốn có bình an ở bình diện lớn thì phải bắt đầu từ
những bình diện nhỏ, là nơi mỗi người chúng ta. Không ai cho cái mình không có.
Sự bình an bắt đầu từ lòng mình rồi mới lan tỏa ra xã tắc nhân quần, như cổ
nhân nói: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Thứ tư.
Suy niệm 1: Cv 15, 1-6
Công cuộc truyền giáo cho dân ngoại của
Phaolô và Barnaba luôn vấp phải những khó khăn và chống đối.
- Khó khăn trong chọn lựa: cần phải giữ
những gì và nên bỏ những gì khi người dân gốc Do Thái và dân ngoại gia nhập
Kitô giáo? Cụ thể là 2 vấn đề chính: Dân ngoại có phải cắt bì và giữ Lề Luật
như người gốc Do Thái khi tin theo Kitô Giáo không? Nếu buộc dân ngoại tuân giữ
thì lại ảnh hưởng đến truyền thống văn hóa của họ. Còn nếu chuẩn miễn thì gặp
phải sự chống đối của người gốc Do Thái.
- Chống đối bởi người Do Thái: Đọan sách
Cvtđ hôm nay nói đến sự chống đối quyết liệt của người Do Thái nhằm bảo vệ quan
điểm mình. Họ từ Giuđa đã đến tận Antiôkhia để tỏ thái độ chống đối Phaolô và
Barnaba bằng cách buộc những tín hữu gốc dân ngoại phải cắt bì: "Nếu
anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu
độ". Chính vì lý do này đã khiến cho Phaolô và Barnaba phản ứng
lại mạnh mẽ với họ. Cuối cùng, Phaolô và Barnaba cùng với một vài người khác
phải về Giêrusalem gặp các Tông đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh
luận này.
Điều này làm cho chúng ta nghĩ đến việc
truyển giáo tại quê hương Việt Nam lúc đầu cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là
trong việc thờ cúng tổ tiên. Nhưng tạ ơn Chúa vì Giáo Hội chúng ta đã nhận ra
và đã hội nhập dễ dàng nên công cuộc truyền giáo tại Việt Nam đã lan tỏa nhanh
chóng.
Là người Việt Nam, xin cho chúng
ta biết trân quý những giá trị truyền thống, văn hóa tốt đẹp của cha ông để
lại. Tuy nhiên, nếu có sự khác biệt không thể dung hòa giữa truyền thống dân
tộc và đức tin, chúng ta cần tìm đến ánh sáng Lời Chúa soi dẫn, nhất là đến
những nhà hữu trách để được hướng dẫn để chúng ta có cách ứng xử theo đúng ý
muốn của Chúa và GH.
Suy niệm 2: Ga 15,1-8.
Khi rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu thích dùng những hình
ảnh cụ thể, những câu chuyện gần gũi để trình bày những chân lý cao sâu
và những bí nhiệm về nước trời. Nhờ đó, dân chúng dễ dàng nắm bắt những sứ điệp do Chúa truyền tải.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu nói đến mối tương
quan mật thiết giữa chúng ta với Chúa qua hình ảnh thân nho và cành nho: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào
gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh
hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn” (Ga
15,1-2).
Giáo Hội là vườn nho, người trồng nho là Chúa Cha, cây
nho chính là Chúa Giê-su, những người làm vườn nho là các vị mục tử, cha mẹ,
thầy cô... và các cành nho là những người Ki-tô hữu.
Với hình ảnh cây nho
và cành nho cho thấy việc gắn kết
sâu xa không thể tách rời giữa Chúa Giêsu với chúng ta. Với sự gắn kết
này nhắc chúng ta
hiểu rằng: theo Đạo không chỉ là tuân giữ những điều răn như ăn ngay ở lành, mà
cốt lõi của Đạo chúng
ta là
gắn kết đời mình với Chúa cách mật
thiết đến
độ: “Các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con.” Trở nên máu thịt
trong nhau đến nỗi trở thành một với nhau “mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai”.
Nhờ sự gắn
kết với Chúa nguồn sự sống đích thực, chúng ta mới được sự sống dồi dào của
Chúa nuôi dưỡng mà trổ “sinh nhiều hoa trái” tốt tươi.
Hoa trái tốt
tươi chính là những việc lành phúc đức. Mà những việc lành phúc đức trổ sinh không nhằm vì lợi ích cho mình mà là vì ích lợi cho tha nhân. Việc sinh nhiều hoa
trái tốt lành ấy cũng không vì thế mà
ta hãnh diện và tự mãn, nhưng trên hết là nhằm để tôn vinh danh thánh Thiên Chúa, Đấng trồng nho.
Ý thức điều này nên mỗi người chúng ta cần phải sống khiêm nhường khi thành
công và không chán nản thất
vọng khi gặp khó
khăn, gian khổ.
Xin Chúa cho chúng ta biết luôn gắn kết mật
thiết với Chúa trong mọi nơi mọi lúc để đời ta trổ sinh thật nhiều hoa trái tốt lành là những việc
làm bác ái yêu thương, những nghĩa cử hy sinh phục vụ với hy vọng mang đến niềm vui và hạnh phúc cho đời, cho người và tôn vinh danh thánh
TC.
Thứ năm: Cv 15, 7-21; Ga 15,
9-11.
Suy niệm 1.
Bài đọc 1, sách công vụ tông đồ hôm nay đề
cập đến cuộc xung đột xảy ra giữa Phaolô và Barnaba với những tín hữu gốc Do
Thái, và hướng giải quyết của Hội Thánh.
1. Xung đột xảy xa.
Như chúng ta biết hành trình truyền giáo
lần thứ nhất của Phaolô và Barnaba gặp phải một khó khăn lớn, phát xuất từ hai
phía:
- Từ phía dân ngoại: Họ cũng có những văn
hóa truyền thống tốt đẹp của cha ông họ cần phải tôn trọng.
- Từ phía tín hữu gốc Do Thái giáo: Họ
cũng muốn gìn giữ bảo vệ những tập tục và luật lệ truyền thống của cha ông họ
như: cắt bì, không ăn thịt cúng, và giữ luật Môsê.
Để hội nhập vào nền văn hóa của dân ngoại,
Phaolô và Barnaba đã chuẩn miễn cho những người tin theo Chúa gốc ngoại giáo
không phải cắt bì và giữ truyền thống một số luật Môsê. Nhưng việc này đã gây
ra sự chống đối mạnh mẽ đối với tín hữu gốc Do Thái. Họ đã đến giáo đoàn
Antiôkhia tuyên truyền rằng: (1) Phaolô và Barnaba không phải là người hợp pháp
do các tông đồ từ cộng đoàn mẹ Giêrusalem gửi đến và kêu gọi mọi người đừng
nghe theo. (2) Để được cứu độ không chỉ tin vào Chúa Giêsu mà còn phải cắt bì
và giữ luật Môsê nữa. Chính vì thế mà đã xảy ra xung đột nảy lửa giữa Phaolô,
Barnaba với những người tín hữu gốc Do Thái.
2. Cách giải quyết xung đột.
Các tông đồ triệu tập họp công đồng chung
tại Giêrusalem, để lắng nghe tiếng nói mọi người, nhằm đưa ra những quyết định
thực hành.
- Lắng nghe:
Lời phát biểu của Phêrô là tông đồ
trưởng: ông nhắc lại kinh nghiệm mà ông có được khi là người đầu tiên được TC
mời gọi đem Tin Mừng cho dân ngoại, cụ thể là gia đình ông Cornêliô. Rồi khuyên
mọi người đừng “quàng vào cổ các môn đệ một cái ách”. Với lời
khẳng định nhờ tin vào Chúa Giêsu mà được cứu độ chứ không phải chỉ giữ một số
luật lệ truyền thống: “chính nhờ ân sủng Chúa Giêsu mà chúng ta tin
mình được cứu độ”.
Lời phát biểu của Phaolô và Barnaba: Hai
ông chỉ kể lại những biến cố mà hai ông trãi qua trong quá trình truyền giáo.
Cho thấy chính Thiên Chúa đã dùng hai ông để rao giảng, làm dấu lạ cho dân
ngoại và họ đón nhận ra sao. Tất cả như để xác tín và củng cố cho lập trường
của Phêrô.
- Hướng giải quyết.
Tông đồ Giacôbê, Giám mục Giêrusalem đã
dung hòa bằng phán quyết: "Không được gây phiền hà cho các tín hữu gốc dân
ngoại, nghĩa là không đòi buộc họ cắt bì và giữ luật Môsê. Khuyên họ giữ một ít
tập tục: kiêng thức ăn ô uế, tránh gian dâm, kiên găn tiết hay loài vật không
cắt tiết (vật chết ngạt)."
Lời đề nghị này đã làm hài lòng các tín
hữu gốc dân ngoại cũng như gốc Do Thái.
Đời sống đạo của chúng ta có lúc
cũng gặp phải những khó khăn, ước gì chúng ta cũng biết tìm đến các vị
hữu trách để xin sự hướng dẫn của các ngài. Cũng vậy nếu trong đời sống gia
đình hay cộng đoàn chẳng may xảy ra xung đột, ước gì chúng ta cũng biết bình
tỉnh ngồi lại để lắng nghe và thông cảm cho nhau. Nhất là biết dựa trên giới
luật tình yêu của Chúa và giáo huấn của GH mà tìm đến lợi ích chung trong đời
sống.
Suy niệm 2.
Người đời thường nói: “Yêu là
khổ, không yêu thì lỗ, thà chịu khổ chứ không chịu lỗ”. Nhưng cái khổ lớn nhất
không phải là yêu, mà là bị người mình yêu từ chối tình yêu. Đúng vậy, yêu mà
bị phản bội thì đau tê tái lòng! Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã
thí mạng mình vì chúng ta và mong muốn chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài.
Nhưng nhân loại hình như đã hững hừ trước tình yêu của Chúa. Vì thế, Ngài tha
thiết kêu mời chúng ta: “Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”, bằng cách
tuân giữ giới răn của Ngài. Khi ấy ta cảm nhận được niềm vui trọn vẹn.
Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu tha thiết mời
gọi: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy.” Chúa Giêsu
là tình yêu hữu hình của Chúa Cha dành cho chúng ta những người con yêu dấu của
Chúa.
Vì tình yêu, Chúa Giêsu chấp nhận sinh ra
mang thân phận con người để ở giữa loài người chúng ta.
Vì tình yêu, Chúa Giêsu đã chấp nhận chịu
đói, chịu khát… và bôn ba đi khắp các nẻo đường đất nước Do Thái để rao giảng
Tin mừng, làm phép lạ cứu chữa những ai đau khổ.
Cũng chính vì yêu, Chúa Giêsu đã chấp nhận
đi vào con đường thập giá chịu đau khổ và sẵn sàng đón nhận cái chết đau thương
trên thập giá vì tội lỗi chúng ta. Rồi Chúa đã phục sinh vinh hiển mang lại
niềm vui và hy vọng lớn lao cho tất cả chúng ta. Nhưng vì muốn ở lại mãi với
nhân loại, Chúa Giêsu đã ban lời giáo huấn và giới luật yêu thương. Đặc biệt
với sáng kiến tuyệt diệu, Người đã thiết lập các bí tích nhất là bí tích Thánh
Thể, để qua đó ở lại mãi mà ban ân sủng dồi dào cho chúng ta.
Tình yêu Chúa thật quá cao vời. Sẵn sàng
chấp nhận mọi gian lao đau khổ, ngay cả hy sinh tính mạng mình để được “ở lại”
với chúng ta. Vì thế, Chúa cũng mong mỏi chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài,
nên tha thiết mời gọi tất cả chúng ta: “Hãy ở lại trong tình thương của
Ngài”.
Ở lại trong tình thương của Chúa, được thể
hiện qua việc tuân giữ giới răn của Ngài. Bởi lẽ thánh Phaolô trong
gửi tín hữu Rôma đã nói: “Không sống theo luật, luật mới do Thánh Linh
là sống phản với Thánh Linh, mà Thánh Linh chính là tình yêu Thiên Chúa”.
Thánh Gioan cũng nói: “Ai giữ luật Chúa thì ở lại trong Ngài và Ngài ở
lại trong kẻ ấy”. Không ai có thể nói tôi yêu mến Chúa mà không thực hiện
lời Ngài.
Kinh nghiệm cho thấy, khi tôi yêu mến ai
thì bất cứ việc to, việc nhỏ, việc nặng, việc nhẹ người ấy nhờ tôi, tôi sẵn
sàng làm, có khi người ấy không nhờ tôi cũng làm miễn sao đẹp lòng người mình
yêu. Như thế muốn ở lại trong tình yêu Chúa, chúng ta phải thực hành lời Chúa.
Nghĩa là thực hiện điều Chúa truyền dạy, mà lời dạy của Chúa là giới răn yêu
thương.
Trung thành sống trọn tình mến Chúa, yêu
người là ta đã ở lại trong Chúa và khi đó chúng ta sẽ được Chúa ban cho niềm
vui trọn vẹn là được sống mật thiết với Chúa ngay ở đời này và cho đến đời sau.
Suy niệm 3:
Thứ năm GH có
thói quen tưởng niệm việc Chúa Giêsu lập BTTT, Truyền chức LM và trao ban giới
luật yêu thương. Xin cho chúng ta cảm nhận được tình yêu Chúa dành cho ta và
cho ta biết “ở lại trong tình yêu Chúa”, qua việc để tâm lắng nghe và tuân giữ
lời Chúa truyền dạy, nhờ đó mà ta mới có được niềm vui trọn vẹn.
Cuộc sống cần niềm
vui. Nhưng chưa bao giờ niềm vui ở đời này nên trọn vẹn cả. Bởi lẽ tiền bạc, của
cải, danh vọng, lạc thú… ở trần gian đều là phù hoa mau tàn. Như lời của tác giả
Nguyên Kha trong một bài thánh ca: “Hoa nào không phai tàn? Trăng nào không
khuyết? Ngày nào mà không có đêm? Yến tiệc nào không có lúc tàn???” (Phù hoa nối
tiếp phù hoa).
Tuy nhiên tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho các môn đệ cũng như chúng ta biết có một thứ niềm vui nên thành toàn và trọn vẹn. Niềm vui ấy chỉ có được khi chúng ta biết “ở lại trong tình yêu của Chúa”. Nhưng làm thế nào ta được ở lại trong tình yêu Chúa? Thưa đó là tuân giữ lệnh truyền của Chúa Giêsu. Đó là tuân giữ và sống giới luật yêu thương mới: “Yêu như Chúa yêu”.
Xin cho chúng ta biết ở lại trong tình yêu của Chúa qua việc chuyên chăm cầu nguyện, siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ, tích cực lắng nghe và thực hiện lệnh truyền yêu thương của Chúa để niềm vui nên trọn vẹn trong tâm hồn ta.
Thứ sáu: Cv 15, 22-31; Ga 15,
12-17.
Suy niệm 1.
Để dễ nhớ đoạn sách Cvtđ hôm nay, ta có
thể chia đoạn này làm hai phần:
- Phần đầu: liệt kê danh sách phái đoàn được các
tông đồ và kỳ mục của Hội Thánh Giêrusalem cử đến Antiôkhia gồm có: Ngoài
Phaolô và Barnaba, còn có ông Giuđa và Xila là những người có uy tín
trong Hội Thánh. Khi đến nơi, các ông triệu tập cộng đoàn lại để công bố bức
thư.
- Phần thứ hai: nội dung của bức thư, gồm ba điểm:
1. Lời chào thăm của các tông đồ và kỳ mục
gửi đến anh em gốc dân ngoại tại Antiokhia, tại Xyria và Kilikia. Ngay sau đó
là 3 lời xác nhận chính thức: (1) Những người Do Thái đến gây rối trước đây làm
xáo trộn và gây hoang mang cho các tín hữu là những người bất hợp pháp. (2)
Phaolô và Barnaba chính là người anh em thân mến với chúng tôi và đã cống hiến
cuộc đời vì danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. (3) Xác nhận ông Giuđa và
Xila chính là người được Hội Thánh cử đến để trình bày trực tiếp về những quyết
định của công đồng.
2. Quyết định chính thức của Công đồng
dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần như sau: Không bắt tín hữu gốc dân ngoại
cắt bì và giữ luật Môsê, nhưng khuyên giữ vài điều cần thiết như: tránh gian
dâm, không uống tiết, không ăn thịt không cắt tiết và đồ cúng cho ngẫu tượng.
3. Cuối cùng là lời khuyên nhủ họ cẩn thận
giữ những điều mà Hội Thánh hướng dẫn và chúc họ được an mạnh.
* Sau khi nghe xong bức thư, họ vui mừng
vì lời khích lệ đó.
Những xung đột xảy ra trong cuộc sống là
không tránh khỏi. Ngay trong cộng đoàn Họ đạo hay gia đình cũng thường xuyên
xảy ra. Vậy ta làm thế nào để giải quyết êm đẹp những xung đột ấy? Sách Cvtđ
hôm nay gợi mở cho chúng ta đường hướng tốt nhất:
- Trước tiên, cùng nhau ngồi lại để tìm
cách giải quyết vấn đề.
- Thứ đến, theo sự hướng dẫn của Thánh
Thần để tìm ra đâu là sự thật nền tảng mọi người phải giữ, những gì có thể dung
hòa, và những gì có thể chuẩn chước được.
- Sau đó, phải khiêm nhường bỏ thói quen
của mình, hy sinh chấp nhận ý kiến chung, và giải quyết vấn đề trong tình yêu
thương anh em; chứ không ra lệnh theo thói cha ông.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết
khiêm tốn nghe theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để tìm ra sự thật. Nếu mình có
sai trái, lỗi lầm thì can đảm nhận lỗi mà sửa đổi. Nếu người khác có sai trái
thì hãy dùng tình thương mà sửa lỗi cho nhau theo lời dạy của Chúa và tinh thần
của Công đồng Giêrusalem.
Suy niệm 2.
Trước khi về cùng Thiên Chúa Cha,
Chúa Giêsu đã để lại cho các môn đệ cũng như cho tất cả chúng ta lời nhắn nhủ
yêu thương: “Đây là điều răn của Thầy, anh em hãy yêu thương nhau như Thầy
đã yêu thương anh em”.
Yêu thương như Chúa là yêu thương
tất cả mọi người không phân biệt bạn hay thù bằng một tình yêu “như Chúa
yêu”. Yêu như Chúa là sẵn sàng hy sinh ngay cả mạng sống mình cho người
mình yêu. Xin cho
chúng ta có được tình yêu như Chúa, ngỏ hầu xứng danh với tên gọi là bạn hữu
của Chúa.
“Anh em hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 15, 12).
Yêu thương nhau không thôi thì chưa
đủ, Chúa Giêsu còn muốn các môn đệ của Ngài, trong đó có tôi và bạn, phải yêu “như
Chúa yêu” nữa. Nghĩa là biết chấp nhận tất cả những cái hay cái dở,
những tính hư nết xấu và tất cả những sự bất toàn và yếu đuối … của tha nhân.
Yêu thương như Thầy là phải biết kiên nhẫn
trước những yếu đuối lỗi lầm, trước những giới hạn về niềm tin cũng như về mặt
nhân bản của người khác.
Yêu như Chúa Giêsu là biết quan tâm
tới những nhu cầu cần thiết của tha nhân. Sự quan tâm ấy không phải chỉ
bằng lời nói, nhưng còn bằng những hành động rất cụ thể và thiết thực.
Chính Chúa Giêsu đã yêu chúng ta nên
đã chấp nhận, kiên nhẫn trước tất cả mọi ưu khuyết điểm của ta: cái hay cũng
như cái dở, cái đẹp cũng như cái xấu, cái giỏi cũng như cái dở của chúng ta…
Ngài đã không ngừng quan tâm và đáp ứng lại những nhu cầu chính đáng và không
ngừng mời gọi chúng ta hãy noi gương bắt chước Ngài bằng một tình yêu giống như
Ngài đã yêu thương chúng ta.
Thứ bảy: Cv 16, 1-10; Ga
15,18-21.
Suy niệm 1.
Làm thế nào để việc loan báo Tin mừng đạt
được kết quả tốt đẹp? Đoạn sách Cvtđ hôm nay sẽ soi sáng chúng ta một vài gợi ý
quý giá:
1. Biết quan tâm gắn kết giáo
đoàn địa phương với hội thánh.
Sau khi chia tay với Barnaba tại
Antiôkhia, Phaolô chọn Xila để trở lại thăm viếng các giáo đoàn cũ như Đécbê và
Lýtra. Tại đây ông công bố về những quyết định của công đồng Giêrusalem liên
quan đến các tín hữu gốc dân ngoại như: không đòi buộc họ phải cắt bì và giữ luật
Môsê nữa, nhưng phải giữ một số tập tục như kiêng thức ăn ô uế, tránh
gian dâm và kiêng ăn tiết hay loài vật không cắt tiết. Tại mỗi nơi đến thăm,
các ông đều truyền lại cho họ những chỉ thị của công đồng Giêrusalem ban bố và
khuyên nhủ họ tuân giữ. Nhờ đó mà “các Hội Thánh được vững mạnh trong
đức tin và mỗi ngày thêm đông số".
2. Tìm kiếm nhân sự để đào tạo
cho cộng tác truyền giáo.
Trở lại Lytra Phaolô đã tìm thấy Timôthê,
mẹ ông là người Do-thái đã tin Chúa, còn cha là người Hy-lạp. Ông được các anh
em ở Lytra và Icônia chứng nhận là tốt. Nên Phaolô muốn Timôthê cộng tác truyền
giáo với mình. Phaolô đã đem ông đi làm phép cắt bì vì là người gốc Do Thái.
Tại sao phải cắt bì vì công đồng Giêrsalem
đã bãi bỏ? Có nhiều lý do: (1) đã được nói ở đây là vì nể các người Do-thái ở
những nơi ấy. (2) Vì mẹ của anh ta là người Do Thái nên con sinh ra phải giữ
luật Do Thái. (3) Nhằm giúp cho Timôthê dễ dàng hơn khi rao giảng trong các hội
đường người Do Thái, như Phaolô đã nói trong thư gửi tín hữu Corintô: “Trở
nên người Do Thái để chinh phục người Do Thái…” (1Cr 9, 19-23).
3. Phải lắng nghe sự hướng dẫn
của Chúa Thánh Thần .
Dự tính ban đầu các ông là đi sang miền
Phygia va Galát để rao giảng tại Asia, nhưng Thánh Thần ngăn cản nên các ông
lại tiếp tục tới sát ranh giới Myxia và thử vào miền Bithynia, nhưng Thần Khí
Đức Giêsu cũng không cho phép. Các ông bèn đi qua miền Mysia mà xuống Troa. Tại
đây “ban đêm, ông Phaolô thấy một thị kiến: một người miền Makêđônia đứng đó,
mời ông rằng: “Xin ông sang Makêđônia giúp chúng tôi!”.“Sau khi thấy thị
kiến đó, lập tức các ông tìm cách đi Makêđônia, vì hiểu ra rằng TC kêu gọi các
ông loan báo Tin Mừng cho họ”.
Qua hai lần ngăn cản của Thánh Thần, nhất
là nhìn thấy thị kiến, Phaolô đã nhận ra ý Thiên Chúa nên ông đã lập tức tìm
cách đi Makêđônia, vì hiểu ra rằng Thiên Chúa muốn ông đem Tin Mừng của Chúa
đến Âu Châu, bắt đầu với các thành phố Hy-lạp.
Xin cho chúng ta biết mở rộng tâm
hồn để nghe theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong công cuộc loan báo Tin
Mừng. Nhất là luôn biết gắn kết với GH để hiệp nhất với nhau trong những đường
hướng truyền giáo; cũng như tích cực quan tâm đến việc đào tạo nhân sự kế thừa
theo tinh thần của Thánh Phaolô.
Suy niệm 2.
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu báo
trước cho các môn đệ biết cuộc sống theo Chúa sẽ gặp nhiều gian lao thử thách,
bởi lẽ “Nếu thế gian ghét anh em, anh em biết rằng nó đã ghét Thầy trước”.
Xin cho chúng ta luôn vững tin và
trung thành bước theo Chúa đến cùng cho dẫu bị người đời ghen ghét và bách hại,
vì như thế ta mới xứng đáng thuộc về Chúa.
Không phải ngày hôm nay, thế gian mới ghét
bỏ và bách hại những Kitô hữu, nhưng từ xưa, Chúa Giêsu cũng đã bị bao người
khinh bỉ, hiểu lầm và giết hại. Các nhà cầm quyền xã hội thì nghi ngờ, giới
lãnh đạo tôn giáo thì thù ghét chống đối; những người đồng hương thì xem
thường, chối bỏ… cuối cùng khi lên đến đỉnh điểm thì họ ra tay bắt bớ, hành hạ,
kết án và giết chết Chúa đi.
Đến thời các tông đồ, các môn đệ thi hành
sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa cũng gặp phải nhiều khó khăn và đau khổ, đúng
như những gì mà Chúa Giêsu đã nói trước đó. Khi thi hành sứ vụ rao giảng, các
tông đồ và các môn đệ luôn bị người Do Thái, chính quyền và giới chức lãnh đạo
Do Thái giáo cấm đoán, đe dọa, bắt bớ, hành hạ đủ mọi thứ cực hình… Cuối cùng,
các ngài cũng kết thúc cuộc đời bằng cái chết bi thương vì danh Chúa Giêsu.
Nối tiếp các tông đồ là Giáo hội trong mọi
thời ở khắp mọi nơi đều bị các nhà cầm quyền ghét bỏ, loại trừ, bách hại... Cụ
thể ở Việt Nam trong khoảng gần 300 năm đầu (1638-1886) đã
có hàng trăm ngàn tín hữu chịu đổ máu và hiến mạng sống mình để làm chứng cho
niềm tin vào Chúa.
Ngày nay dù đã trãi qua hơn 2000 năm, ấy
vậy mà Giáo hội nói chung và các Kitô hữu nói riêng vẫn không ngừng bị xiết
chặt, ghét bỏ, trù dập, bắt bớ và giết hại khắp nơi trên thế giới. Khiến chúng
ta là những người theo Chúa không ngừng phải lo lắng, sợ hãi và bất an…Nhưng
với niền tin tưởng vào sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa. Chúng ta hãy an
tâm phó thác vào bàn tay uy quyền của Chúa là Cha giàu lòng thương xót chúng
ta. "Lạy
Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài
bảo bệ, con vững dạ an tâm." (Tv 23,4)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét