Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2025

 SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN VII PHỤC SINH

Lm. Nguyệt Giang

CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN-NĂM C

Cv 1, 1-11; Ep 1, 17-23;  Lc 24, 46-53

Suy niệm 1: LOAN BÁO TIN MỪNG HY VỌNG CỦA CHÚA GIÊSU-LÀ SỨ MẠNG CỦA MỖI KITÔ HỮU

1. Hiệp thông cùng với Hội Thánh, hôm nay chúng ta mừng kính trọng thể lễ Chúa Giê-su thăng thiên. Chúa Giêsu chỉ thăng thiên sau khi Ngài đã hoàn thành sứ mạng loan báo Tin Mừng theo chương trình cứu chuộc nhân loại do Chúa Cha giao phó. Sứ mạng cứu chuộc của Chúa Giêsu mặc dù đã hoàn thành, nhưng ơn cứu chuộc ấy vẫn chưa được mọi người đón nhận. Vì thế, sứ mạng ấy Chúa trao lại cho các tông đồ và cho tất cả chúng ta với sự trợ giúp của Ngài và dưới sự hướng dẫn của CTT. Xin Chúa cho chúng ta biết tìm kiếm những phương thức thích hợp và tận dụng mọi hoàn cảnh cách hiệu quả; nhất là biết sống theo "sự khôn ngoan của Con tim": Hướng tới một truyền thông nhân bản trọn vẹn" theo như tinh thần mời gọi của ĐTC Phan-xi-cô trong ngày thế giới truyền thông xã hội lần thứ 58 được ban hành vào ngày 24/01/2024.

2. Chúa Giêsu lên trời không phải diễn tả chiều cao không gian cùa vật lý cho bằng chiều cao của tinh thần và tầm nhìn. Cũng không phải diễn tả về chiều rộng của đia lý nhưng là chiều rộng của tâm hồn và con tim đúng như tinh thần của sứ điệp của Đức Cố Giáo Hoàng Phanxicô đã nói nhân ngày thế giới  truyền thông lần thứ 58, với chủ đề : “Trí tuệ nhân tạo và Sự khôn ngoan của Con tim: Hướng tới một truyền thông nhân bản trọn vẹn”.

Một thắc mắc đặt ra là: Mừng lễ Đức Kitô Thăng Thiên, nghĩa là Ngài không còn hiện diện hữu hình với chúng ta, Ngài đã về trời nhưng tại sao trong ngày này, Hội Thánh lại chọn làm ngày thế giới truyền thông mà không phải là những ngày khác?

Thưa bởi vì phụng vụ lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến sứ vụ truyền thông Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người, theo như lệnh truyền của Chúa Giêsu phục sinh trước khi Ngài về trời.

- Bài đọc I là phần mở đầu sách Công vụ Tông đồ cho biết Chúa ban lệnh sai đi: "Các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất".

- Bài Tin Mừng được trích đọc hôm nay là phần kết thúc Tin Mừng theo thánh Luca, tác giả cũng ghi lại lời căn dặn tâm quyết của Chúa Giêsu trước lúc Ngài về trời: “Như đã ghi chép là Ðức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy.”

Điều này giúp chúng ta hiểu rằng: mặc dù Chúa Giêsu về trời, nhưng sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục Sinh của Giáo hội không hề kết thúc, với mong muốn mang ơn thánh hóa và cứu chuộc của Chúa đến cho hết mọi người trên trần gian này..

Đó cũng là sứ mạng của mỗi người kitô hữu chúng ta. Xin cho chúng ta biết tích cực tham gia vào sứ mạng cao quý này, bằng cách nhiệt tâm sống chứng nhân Tin Mừng của tình thương và tích cực ra đi loan báo Tin Mừng hy vọng của Chúa Giêsu đến cho mọi người ở khắp mọi nơi cho đến ngày tận thế. Để nhờ tin, và chịu phép rửa trong Chúa Thánh Thần ai mấy đều đón nhận được ơn cứu chuộc của Chúa. Amen.

 

Suy niệm 2: CHÚA GIÊSU LÊN TRỜI-NIỀM HY VỌNG CỦA CHÚNG TA

Truyện vui:

Một người đàn ông khi còn sống chuyên môn làm nghề quảng cáo, đến lúc chết ông ta xuống gặp Diêm Vương.

- Diêm Vương ân cần hỏi: “Muốn ở thiên đàng hay hỏa ngục”.

- Người đàn ông ngập ngừng đáp: “Chưa thấy thiên đàng hay hỏa ngục như thế nào thì làm sao mà chọn”.

- Diêm Vương bèn dẫn ông ta đến một nơi và chỉ cho thấy cảnh thiên đàng: đó là một nơi mát mẻ, yên lặng, người người đi đi lại lại, nói chuyện nhẹ nhàng, chơi cờ thanh thản…

Đoạn dẫn đến một nơi gọi là hỏa ngục thì thấy vui nhộn hơn, có những đám ăn nhậu với đủ thứ thức ăn và rượu ngon, có cả văn nghệ với điệu nhạc xập xình, có các cô đào trẻ đẹp múa hát…

- Sau khi đã nhìn thấy hai nơi rồi, ông ta mau mắn trả lời: “Ở thiên đàng buồn quá, tôi thích chọn hỏa ngục vui hơn”.

- Thế là Diêm Vương sai hai thằng quỉ ném ông ta vào hỏa ngục. Vừa đến nơi ông ta la hoảng lên vì nóng quá, chả có văn nghệ, chả có ăn nhậu gì cả, mà chỉ thấy toàn lũ quỉ đen, nham nhở đang hành hạ các tội nhân. Ông ta sững sờ quay lại hỏi Diêm Vương: “Thế hỏa ngục lúc nãy Ngài cho tôi thấy nó ở đâu?”.

- Diêm Vương khoái chí cười ha hả đáp: “Ngu ơi là ngu, quảng cáo mà con!”.

Đời là thế đấy! đúng là “sinh ư tử nghiệp” “sống sao thác vậy”. Nói một cách rõ ràng hơn thì người đàn ông trong câu chuyện đã bị “gậy ông đập lưng ông” vì khi còn sống ông ta đã dùng mánh khóe, xảo thuật để quảng cáo đánh lừa người khác làm lợi cho mình. Đến khi chết đi, ông ta vẫn mang dòng máu tham lam, ham lợi nên đã bị Diêm Vương cao tay hơn dùng chính lối quảng cáo đánh lừa ông ta.

Hôm nay cùng với Giáo Hội chúng ta long trọng mừng kính lễ Chúa thăng thiên. Vậy thăng thiên là gì? Theo wikipedia, Thăng Thiên có hai nghĩa:

1. Lên trời, bay lên trời. Ví dụ: Ngày ông táo thăng thiên.

2. Còn có nghĩa là đã chết. Ví dụ: Bà tôi đã thăng thiên rồi.

Như vậy Chúa Giêsu thăng thiên nghĩa là Ngài lên trời sau khi đã chết và sống lại. Vì thế lễ thăng thiên được cử hành sau lễ Phục sinh 40 ngày (tính từ Chúa nhật Phục sinh). Sau khi sống lại, Chúa Giêsu còn ở lại với các môn đệ 40 ngày nữa, rồi Ngài mới lên trời, kết thúc sự hiện diện cách hữu hình ở trần gian.

Trong 40 ngày sau khi sống lại ấy, Chúa Giêsu Phục sinh đã nhiều lần tỏ mình ra cho các môn đệ, nhằm minh chứng Ngài đang sống (x. Cv 1, 3). Ngài đã hiện ra với những người phụ nữ (x. Mt 28, 9-10), với các tông đồ và với hai môn đệ trên đường Em-mau (x. Lc 24,11-43), với hơn 500 người khác (x. 1Cr 15, 6)… Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ về nước Trời (x. Cv 1,3). Ngài cũng đã an ủi, khích lệ, trao ban Thánh Thần, bình an và sứ mạng loan báo Tin mừng cho các ông. Sau đó, Ngài mới thăng thiên về thiêng đàng (x. Lc 24, 50-51; Cv 1,9-11).

Kinh thánh cho biết sự kiện thăng thiên của Đức Giêsu chính là sự trở về thiên đàng. Đức tin cũng dạy cho ta biết, thiêng đàng hay nước trời không phải là nơi chốn mà là tình trạng hay trạng thái. Nên sự kiện Đức Giêsu thăng thiên cho thấy từ đây Ngài không còn hiện diện cách hữu hình nữa mà hiện diện cách thiêng liêng, Ngài không còn bị sự chi phối bởi thế giới vật chất nên Ngài không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian nữa. Vì thế, cho dẫu Ngài đã thăng thiên, nhưng Ngài vẫn hiện diện cách tích cực và nhiệm mầu với các môn đệ và trong thế giới này.

Nhưng ta tự hỏi xem, sự kiện Chúa Giêsu thăng thiên có ý nghĩa gì đối với ta?

1. Báo hiệu mùa xuân cứu độ của Ngài ở trần gian đã kết thúc tốt đẹp. Tuy nhiên ơn cứu độ ấy có đến được với mọi người hay không còn tùy thuộc rất nhiều vào mỗi người chúng ta. Vì thế trước khi thăng thiên, Chúa Giêsu đã trao ban sứ vụ loan báo tin mừng lại cho các môn đệ, với ơn trợ giúp của Ngài, dưới sự hướng dẫn của CTT.

2. Biểu tỏ vinh quang thần tính nơi Đức Giêsu. Sự vinh hiển thần tính của Ngài trước đây đã bị che khuất trong suốt khoảng thời gian 33 năm ở thế gian, chỉ ngoại trừ lúc Ngài biến hình chốc lát trên núi Tabor (Mt 17,1-9).

3. Mang đến niềm hy vọng tươi sáng cho nhân loại, bởi ta tin rằng sau khi kết thúc cuộc sống này ở trần gian, chúng ta cũng sẽ được về trời với Chúa. Và Chúa Giêsu chính là niềm hy vọng vào sự sống vinh hiển cho chúng ta mai sau, bởi vì Ngài đã chết, đã sống lại và lên trời trong vinh quang mở ra con đường đến quê trời vinh hiển, nơi đó Ngài cũng đã chuẩn bị chỗ để đón nhận chúng ta về với Người. (Ga 14, 2).

4. Xác tín uy quyền của Đức Giêsu. Sự kiện Chúa Giêsu thăng thiên và ngự bên hữu Chúa Cha trong nước trời còn cho thấy Ngài là TC uy quyền, mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao cho Ngài. Nên ta hãy tin tưởng và phó thác cuộc đời mình trong bàn tay đầy yêu thương và quyền năng của Ngài.

5. Hướng nhân loại đến khát vọng cõi trời vinh phúc. Có thể nói khát vọng lớn lao nhất của con người cách chung và của người Kitô hữu chúng ta cách riêng là hạnh phúc nước trời. Tuy nhiên để đạt được khát vọng sâu xa ấy, ta cần phải tích cực thi hành sứ loan báo tin mừng hay làm chứng nhân cho Chúa. Bởi đây là lệnh truyền tâm huyết cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi Ngài về với Chúa Cha. Sứ mạng ấy ngày xưa Chúa trao cho các môn đệ : “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”; ngày nay sứ mạng ấy, Chúa trao ban cho mỗi người tín hữu chúng ta, với lời hứa có Chúa ở cùng, nhờ sự hướng dẫn tích cực của Chúa Thánh Thần.

Chúa Giêsu chỉ về trời sau khi đã hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại ở trần gian. Xin cho chúng ta ý thức được tầm quan trọng của sứ vụ loan báo Tin Mừng cứu độ do chính Chúa Giêsu Phục sinh trao phó mà nhiệt tâm thi hành sứ vụ quan trọng này với niềm tin tưởng và  hy vọng vào hạnh phúc vinh hiển mai sau trong nhà Cha trên trời. Amen.

Giã từ Chúa dạy thiết tha:

“Yêu thương chia sẻ, đi ra cứu đời”.

Tôn vinh, Chúa ngự cõi trời,

Sai đi rao giảng cứu đời lầm than.

HÃY ĐI RAO GIẢNG CHO MUÔN DÂN

Giêsu nay đã thăng thiên.

Ngài trao Giáo Hội toàn quyền giảng rao,

Thánh Thần nguồn lực hiến trao.

Nhân danh Đức Chúa đón bao con người.

 

Thánh Thần ngự xuống con ngưởi,

Bằng hình Lưỡi lửa giúp người an tâm.

“Lưỡi là: lời nói “Phúc âm”.

“Lửa là: tình ái yên tâm, nhiệt thành.

 

Phao lô gợi ý thực hành:

Thăng thiên, Chúa ngự đồng hành Chúa Cha.

Những lời Chúa hứa với ta:

Sai đi loan báo “Ý Cha nhiệm mầu”.

 

Ngài luôn hỗ trợ thẫm sâu:

"Nhân Danh Thiên Chúa, quỷ sầu chạy xa,

Tiếng lạ, “Ý Chúa phát ra”.

Rắn cầm có độc, nhưng mà không sao,

 

Uống phải chất độc hôm nay,

Cũng không bị hại, Chúa rài chữa cho.

Đặt tay, chữa bệnh Chúa lo.

Đó là sứ vụ, trao cho môn đồ.

 

Lạy Chúa, Thiên Chúa toàn năng,

Xin cho con biết giữ phần Chúa trao. 


Giã từ Chúa dạy thiết tha:

“Yêu thương chia sẻ, đi ra cứu đời”.

Tôn vinh, Chúa ngự cõi trời,

Sai đi rao giảng cứu đời lầm than.

 

HÃY ĐI RAO GIẢNG CHO MUÔN DÂN

Giêsu nay đã thăng thiên.

Ngài trao Giáo Hội toàn quyền giảng rao,

Thánh Thần nguồn lực hiến trao.

Nhân danh Đức Chúa đón bao con người.

 

Thánh Thần ngự xuống con người,

Bằng hình Lưỡi lửa giúp người an tâm.

“Lưỡi là: lời nói “Phúc âm”.

“Lửa là: tình ái yên tâm, nhiệt thành.

 

Phao lô gợi ý thực hành:

Thăng thiên, Chúa ngự đồng hành Chúa Cha.

Những lời Chúa hứa với ta

Sai đi loan báo “Ý Cha nhiệm mầu”.

 

Ngài luôn hỗ trợ thẫm sâu:

Nhân Danh Thiên Chúa, quỷ sầu chạy xa,

Tiếng lạ, “Ý Chúa phát ra”.

Rắn cầm có độc, nhưng mà không sao,

 

Chất độc uống phải chẳng nao,

Sẽ không bị hại, Chúa rài chữa cho.

Đặt tay, chữa bệnh Chúa lo.

Vững tin vào Chúa tham gia nhiệt tình

 

Giảng rao Lời Chúa hết mình

Niềm vui cứu độ thắm tình mọi nơi.

Hai Lúa

Suy niệm 3: HÀNH TRÌNH GẶP GỠ ĐẤNG PHỤC SINH – LỜI MỜI GỌI SỐNG MỚI

Chúng ta đang ở Chúa Nhật cuối cùng của mùa Phục Sinh – một mùa hân hoan kéo dài suốt 50 ngày để cử hành niềm vui chiến thắng của Chúa Kitô.

Hôm nay, chúng ta nhìn lại hành trình 6 tuần qua, để khám phá điều Chúa và Giáo Hội muốn nói với chúng ta: đó là hãy để Đấng Phục Sinh biến đổi đời sống chúng ta thành một cuộc sống mới – cuộc sống kết hiệp, yêu thương và sứ vụ.

1. Từ Tôma cứng lòng đến đức tin sống động (CN II)

Khởi đầu mùa Phục Sinh là hình ảnh Tôma – người đã từng cứng lòng không tin cho đến khi được chạm vào những dấu đinh nơi thân thể Chúa. Nhưng từ đó, ông đã thốt lên một lời tuyên xưng tuyệt vời: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28).

Chúa muốn dạy ta rằng: Đức tin không phải là thấy rồi mới tin, mà là tin để rồi được thấy. Và đức tin ấy phải được đặt nơi lòng thương xót, nơi bình an và ơn tha thứ mà Đấng Phục Sinh mang lại.

2. Chúa đồng hành và mở lòng ta (CN III)

Tiếp đến, ta thấy Chúa đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau – những người buồn chán, thất vọng, đang bỏ cuộc. Chúa không quở trách, nhưng ngồi lại, giải thích Kinh Thánh và bẻ bánh. Họ đã nhận ra Ngài khi lòng họ bừng cháy lên.

Chúa mời gọi chúng ta hôm nay: Đừng sống đạo cách nguội lạnh. Hãy để Lời Chúa và Thánh Thể trở nên ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn ta.

3. Người Mục Tử Nhân Lành (CN IV)

Chúa Giêsu tự giới thiệu mình là Mục Tử Nhân Lành, biết rõ từng con chiên, gọi tên từng người. Ngài hy sinh mạng sống vì đoàn chiên.

Trong một thế giới đầy tiếng ồn và chia rẽ, Chúa đang gọi từng người chúng ta: hãy lắng nghe tiếng Ngài, để khỏi lạc đường, để biết rằng có một Đấng luôn dõi theo và chăm sóc ta.

4. Ở lại trong Thầy (CN V)

Chúa dùng hình ảnh cây nho và cành nho để dạy ta: không thể sống đời Kitô hữu đích thực nếu không kết hiệp với Chúa.

Không cầu nguyện, không Thánh Thể, không Lời Chúa – thì như cành lìa khỏi cây, sẽ khô héo và không sinh hoa trái.

Chúa đang mời gọi chúng ta sống “gắn bó” – không phải vì bổn phận, mà vì yêu thương.

5. Tình yêu là giới răn (CN VI)

"Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" – lời mời gọi của Chúa thật tha thiết. Ngài không gọi ta là tôi tớ, mà là bạn hữu.

Tình yêu ấy không chỉ là cảm xúc, mà là một chọn lựa: hy sinh, phục vụ, tha thứ. Sống yêu thương là điều kiện để ở lại trong Chúa và sinh nhiều hoa trái.

 

6. Chúa cầu nguyện cho Hội Thánh (CN VII)

Hôm nay, Tin Mừng cho thấy: trước khi về Trời, Chúa Giêsu cầu nguyện. Ngài không xin Cha cất Hội Thánh khỏi thế gian, nhưng gìn giữ chúng ta khỏi ác thần, để chúng ta sống hiệp nhất và thánh hiến trong sứ mạng loan báo Tin Mừng hy vọng của Chúa.

Mùa Phục Sinh không chỉ là một mùa trong năm phụng vụ, mà là một lối sống mới – sống như người đã gặp gỡ Chúa, đã được biến đổi.

Vậy ta hãy tự hỏi:

- Tôi có để Chúa Phục Sinh chạm vào những nghi ngờ và vết thương trong lòng tôi không?

- Tôi có để Lời Chúa và Thánh Thể đốt nóng trái tim mình?

- Tôi có sống gắn bó thật sự với Chúa, như cành với cây?

- Tôi có dám yêu như Chúa yêu – yêu đến hy sinh, đến cùng?

- Và tôi có sống tinh thần hiệp nhất, thánh thiện và sứ vụ trong cộng đoàn Hội Thánh không?

Xin Chúa ban cho chúng ta ơn tin mạnh, mến nồng và sống kết hiệp, để như các môn đệ xưa, chúng ta trở thành những chứng nhân sống động của Đấng Phục Sinh trong thế giới hôm nay. Amen.

 

Suy niệm 4: LỄ THIẾU NHI

Hôm nay, toàn thể Hội Thánh hân hoan mừng lễ Chúa Thăng Thiên, kết thúc hành trình tại thế của Chúa Giêsu sau khi Người đã hoàn tất sứ mạng cứu chuộc nhân loại qua cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh.

Sự kiện Chúa Giêsu về trời không phải là một cuộc chia ly, nhưng là một lời mời gọi chúng ta hướng lòng về trời, nơi Người đang ngự bên hữu Chúa Cha và tiếp tục cầu bầu cho nhân loại.

Lễ Thăng Thiên cũng là lời nhắc nhở mỗi người chúng ta về sứ mạng được Chúa trao phó: “Anh em hãy làm chứng cho Thầy... đến tận cùng trái đất.” Chúa lên trời là để dọn chỗ cho chúng ta và sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng, sống niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu.

Giờ đây, chúng ta cùng hiệp dâng Thánh lễ trong tâm tình tạ ơn, tin yêu và sẵn sàng dấn thân thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng, để ngày sau được cùng Người hưởng phúc vinh hiển nơi thiên quốc.

Các con thiếu nhi thân mến,

- Hỏi: Hôm nay, toàn thể Giáo Hội mừng một lễ rất đặc biệt, đố các con là lễ gì?

- Thưa: là lễ Chúa Thăng Thiên.

- Giỏi! Nhưng thăng thiên có nghĩa là gì các con biết không?

- Thưa: Đó là Chúa Giêsu lên trời, trở về với Chúa Cha, sau khi sống lại được 40 ngày.

- Đúng rồi! hoan hô con.

Tin mừng thuật cho ta biết sau khi Chúa Giêsu sống lại, Ngài còn hiện diện với các môn đệ 40 ngày nữa để động viên, an ủi, dạy dỗ, ban Thánh Thần và bình an cho các ông, nhất là sai các ông ra đi làm chứng cho Chúa. Và hôm nay Ngài đã được rước lên trời ngay trước mặt các môn đệ.

- Vậy Chúa Giêsu về trời có bỏ rơi các môn đệ và chúng ta không?

- Thưa: không ạ.

1. Đúng rồi! Chúa Giêsu lên trời không phải là Chúa bỏ rơi chúng ta. Chúa Giêsu lên trời nhưng không phải là để xa cách chúng ta, nhưng là để ở gần gũi hơn, hiện diện khắp mọi nơi qua lời Chúa, qua bí tích Thánh Thể, nơi Thánh Thần của Ngài, nhất là nơi Giáo Hội do Chúa thiết lập.

Ngày xưa, Chúa Giêsu chỉ ở một nơi một lúc, nhưng bây giờ, Chúa có thể ở trong trái tim của mỗi người, cùng đi với chúng ta trong cuộc sống hằng ngày.

 2. Chúa giao nhiệm vụ cho chúng ta: làm chứng cho Chúa

Trước khi lên trời, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em là chứng nhân về những điều này.” (Lc 24,48)

Nói cách khác, Chúa muốn các môn đệ kể lại tất cả những gì họ đã thấy, đã nghe, đã cảm nghiệm và đã sống với Chúa, để người khác cũng biết đến Chúa.

Và hôm nay, Chúa cũng muốn chúng con là thiếu nhi cũng hãy làm chứng cho Chúa bằng:

Một lời nói dễ thương, lễ phép.

Một hành động bác ái chia sẻ với bạn bè.

Một việc chu toàn tốt bổn phận ở nhà, ở trường, ở nhà thờ.

Dù còn nhỏ, nhưng các con vẫn có thể làm chứng cho Chúa bằng những điều bé nhỏ nhưng chân thành.

 3. Chúa hứa ban Thánh Thần để giúp chúng ta sống tốt

Chúa biết rằng sống theo Chúa không dễ, nên Ngài hứa sẽ gửi Chúa Thánh Thần đến để giúp các môn đệ – và chúng ta – can đảm, mạnh mẽ, và khôn ngoan.

 Tuần sau, chúng ta sẽ mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống – là ngày Chúa giữ lời hứa ấy. Chúa không để chúng ta một mình bao giờ!

Các con thân mến,

Lễ Chúa Thăng Thiên là lễ hy vọng. Chúa lên trời để chuẩn bị chỗ cho chúng ta, và Ngài vẫn ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế.

Tuần này, mỗi thiếu nhi hãy làm một việc tốt để làm chứng cho Chúa, ví dụ như:

Giúp cha mẹ việc nhà.

Cầu nguyện mỗi tối.

Nói một lời xin lỗi, hay một lời cảm ơn thật lòng.

Đó chính là cách các em “làm chứng cho Chúa Giêsu” ngay hôm nay.

Chúng ta cùng nhớ:

- Chúa Giêsu lên trời – không bỏ rơi ta,

- Chúa giao nhiệm vụ – ta sống yêu thương,

- Chúa Thánh Thần đến – giúp ta can đảm sống đức tin và hăng say loan báo Tin mừng hy vọng của Chúa Giêsu! AMEN.

 

Thứ hai: Cv 19,1-8; Ga 16,29-33

Suy niệm 1: 

Tin mừng hôm nay ghi lại cuộc đối thoại chân tình giữa Chúa Giêsu với các môn đệ trong một bố cảnh hết sức đặc biệt, trước khi Chúa Giêsu rời khỏi các môn đệ để bước vào cuộc khổ nạn. Tuy nhiên trong bầu khí trầm buồn, ngậm ngùi này lại loé lên tia sáng của niềm vui, hy vọng và tin tưởng.

- Vui là bởi vì các môn đệ đã hiểu rõ về Thầy mình chính là Đấng bởi Thiên Chúa mà đến. Các ông nói rằng: “Bây giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự…Bởi đó chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra”.

- Hy vọng, vì cho dù các môn đệ sẽ sợ hãi chạy trốn bỏ Thầy một mình trong cuộc khổ nạn, “các con sẽ tản mác mỗi người một ngả và bỏ mặt Thầy một mình”, nhưng Chúa Cha hằng ở với Thầy nên Thầy sẽ không cô đơn.

- Tin tưởng, bởi vì cho dẫu nhiều gian lao, thử thách và bách hại sẽ xảy đến với các môn đệ, nhưng Chúa Giêsu chấn an các môn đệ hãy an tâm vì có Ngài hằng ở cùng các ông. Và mời gọi các ông hãy đặt niềm tin tưởng vào Ngài “vì Thầy đã thắng thế gian”.

Nước mắt và nụ cười, đau khổ và hạnh phúc là những sợi chỉ đa sắc màu được đan dệt chặt chẽ vào nhau, làm nên tấm thảm của cuộc đời. Bao giờ còn sống giữa thế gian thì còn giới hạn và bất toàn. Chính điều đó đã khiến con người cảm thấy đau khổ.

Có những đau khổ vốn từ bản chất, vì ảnh hưởng bởi tội nguyên tổ; tuy nhiên cũng có những đau khổ do chính mình, hay do người khác hoặc bởi hoàn cảnh gây nên. Nhưng nếu ngồi đó mà nguyền rủa, chắc chắn cũng không tránh được. Bóng tối sẽ không tan biến nếu chúng ta không thắp lên ánh sáng. Ánh sáng của niềm tin, hy vọng và phó thác trọn vẹn vào tình yêu và uy quyền nơi Chúa Giêsu phục sinh.

Cuộc đời chúng ta sẽ bình an khi đối mặt với những thử thách và đau khổ nếu chúng ta biết đặt trọn niềm tin, hy vọng và phó thác vào Chúa Phục sinh. Bởi Chúa Giêsu chỉ phục sinh vinh quang sau khi đã trãi qua thập giá với niềm tin tưởng và phó thác hoàn toàn vào thánh ý Chúa Cha.

 

Suy niệm 2:

Khoảng cách giữa lễ Thăng Thiên và lễ Hiện Xuống là thời gian Hội Thánh mời gọi chúng ta cầu nguyện, suy gẫm và chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Thánh Thần như các Tông đồ năm xưa.

- Trong bài đọc 1, thánh Phaolô hỏi các môn đệ tại Êphêsô: “Anh em đã nhận được Thánh Thần chưa?” Đây không chỉ là câu hỏi dành cho các môn đệ ở Êphêsô, mà còn là lời chất vấn dành cho mỗi chúng ta: Tôi có thực sự để cho Thánh Thần ngự vào đời sống mình chưa? Hay tôi chỉ dừng lại ở mức độ hiểu biết và giữ đạo theo hình thức?

Thánh Thần luôn là nguồn sinh lực của Giáo Hội, là sức mạnh giúp ta sống và làm chứng cho Đức Kitô trong thế gian đầy thử thách.

- Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu báo trước: “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó.” Điều này là chắc chắn không ai có thể tránh khỏi. Tuy nhiên ngay sau đó, Người nói tiếp: “Hãy can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian.” Đây là một lời hứa đầy hy vọng và nâng đỡ cho những ai bước theo Chúa.

Không giống như những lời hứa hảo huyền dễ dàng của thế gian, khi đi theo làm môn đệ Chúa, Chúa lại nói đến những khốn khó, thách đố. Tuy nhiên bên cạnh đó Ngài cũng hứa sẽ ở cùng chúng ta. Và qua Chúa Thánh Thần, Người cũng sẽ ban cho chúng ta sự bình an nội tâm, niềm vui trong đau khổ, sức mạnh trong yếu đuối, lòng trung tín trong thử thách.

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết đặt trọn niềm tin tưởng vào sức mạnh ơn thiêng của Chúa Thánh Thần, để giữa những khó khăn, thử thách trong cuộc sống, chúng ta hằng kiên vững trong đức tin và can đảm làm chứng nhân cho niềm vui Tin Mừng hy vọng của Chúa Giêsu trong cuộc sống hàng ngày. Amen.

 

Thứ ba: Cv 20,17-27; Ga 17,1-11a

Nhớ Thánh Ca-rô-lô Loan-ga và các bạn tử đạo.

Suy niệm 1:

Tin mừng hôm nay ghi lại những lời cầu nguyện tha thiết của Chúa Giêsu. Đây được gọi là lời cầu nguyện hiến tế. Bởi lẽ lời cầu nguyện này quy hướng về Chúa Cha để dâng hiến đời mình; và cũng hướng về các môn đệ những người còn ở lại thế gian, hầu xin ơn giải thoát cho họ khỏi quyền lực của thế gian, để họ thuộc trọn về Chúa.

- Hướng về Chúa Cha, Chúa Giêsu làm tất cả những gì có thể với ý hướng để danh Cha cả sáng. Chúa Giêsu xác tín về nguồn gốc và bản chất đích thực của Ngài là bởi từ Chúa Cha mà đến và vốn Ngài là Đấng vinh hiển. Nên những lời nói, việc làm và đời sống của Ngài chính là của Chúa Cha. Nơi Ngài khuôn mặt đích thực của Chúa Cha được tỏa hiện trong thế gian này, "Ai thấy Thầy là Thấy Cha." (Ga 14, 9).

- Hướng về những người tin nhận Chúa, những người còn ở lại thế gian. Mà sống trong thế gian, họ sẽ phải đối diện với bao nhiêu là thử thách, phải chiến đấu khắc nghiệt giữa bóng tối và ánh sáng, giữa điều thiện và điều ác, giữa ý Chúa hay ý mình... Nếu không được Cha ban ơn và không thuộc trọn vẹn trong Cha, họ khó mà chống đỡ. Chính thánh Phaolô đã cảm nhận điều này: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm.” (Rm 7,19). “Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này. Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta!” (Rm 24-25).

Lời nguyện hiến tế và hy lễ dâng hiến ngày nay luôn được Chúa Giêsu thực hiện mỗi ngày trên bàn thờ trong mỗi thánh lễ, nhằm nhắc nhở chúng ta về hy tế tình yêu vĩ đại mà Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha trong sự vâng phục và dành cho con người bằng tình yêu cao quý qua cái chết đau thương trên thập giá. Với tình yêu hy hiến ấy, Chúa Giêsu đã kết nối con người lại với Thiên Chúa để tất cả được hiệp nhất trong Chúa Cha, nhờ đó ta mới có thể vượt thắng khỏi những mưu chước cám dỗ của Satan.

 

Suy niệm 2:

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến sứ mạng rao giảng Tin Mừng và lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho sự hiệp nhất của các môn đệ.

1. Bài đọc I: Thánh Phaolô, trong bài diễn từ tại Milêtô, khi nói lời chia tay với các kỳ mục Hội Thánh ở Êphêxô, ngài đã kể lại cuộc hành trình rao giảng Tin Mừng của mình. Trong cuộc hành trình ấy, ngài phải đối mặt với nhiều gian nguy thử thách, nhưng ngài đã không ngại hy sinh ngay cả mạng sống mình để làm chứng cho Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa.

Điều này thúc đẩy chúng ta kiểm điểm lại đời sống của chính mình: Tôi có sống trọn vẹn ơn gọi Kitô hữu trong sứ mạng dấn thân loan báo Tin Mừng cho người khác không?

2. Bài Tin Mừng: Thánh Gioan ghi lại “lời nguyện hiến tế” của Chúa Giêsu, dâng lên Chúa Cha trước khi Ngài bước vào cuộc khổ nạn. Nội dung của lời cầu nguyện hiến tế này bao gồm hai phần:

- Phần một: Chúa Giêsu xin Chúa Cha tôn vinh Ngài để Ngài tôn vinh Cha. Người xin được tôn vinh nhưng không phải là vinh quang trần thế, mà là vinh quang thập giá, nơi đó biểu lộ tình yêu cứu độ của Ngài dành cho nhân loại chúng ta.

- Phần hai: Ngài cầu nguyện cho các môn đệ còn ở lại thế gian được hiệp nhất và trung thành với danh Chúa. Sự hiệp nhất trong danh Cha chính là dấu chỉ mạnh mẽ nhất để thế gian tin rằng Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến. Mà nhận biết Chúa Giêsu không chỉ là hiểu biết lý thuyết, mà là một mối tương quan sâu sắc, sống động qua cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa và tham dự bí tích.

Trong bối cảnh thế giới hôm nay đầy chia rẽ, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu nhắc chúng ta xây dựng sự hiệp thông trong gia đình, cộng đoàn và Giáo hội; cũng như mời gọi chúng ta can đảm làm chứng cho Chúa, ngay cả khi đối mặt với những khó khăn thử thách, qua đời sống yêu thương, tha thứ và chia sẻ đức tin trong cuộc sống hằng ngày.

Xin Chúa cho chúng ta biết noi gương thánh Phaolô, can đảm loan báo Tin Mừng bằng đời sống chứng tá. Xin cho chúng ta biết sống hiệp nhất với nhau như Chúa và Chúa Cha là một, để thế gian nhận biết tình yêu của Chúa. Amen.

 

Suy niệm 3:

Bài Tin Mừng hôm nay mở đầu lời nguyện hiến tế của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha trước khi bước vào cuộc Thương Khó. Đây là giây phút nội tâm sâu lắng, nơi trái tim của Đấng Cứu Thế bộc lộ trọn vẹn tình yêu và sứ mạng của Người.

Chúa Giêsu biết giờ của Ngài đã đến, giờ để yêu đến cùng, giờ để hiến mình cho nhân loại. Trong lời cầu nguyện này, Người không chỉ hướng về Cha, mà còn nghĩ đến các môn đệ, đến Giáo Hội, đến từng người chúng ta hôm nay.

“Lạy Cha, xin tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha.”  Vinh quang mà Chúa Giêsu nói đến không phải là sự rạng rỡ trần thế, nhưng là vinh quang của tình yêu tự hiến. Trên thập giá, Người bị treo lên trong nỗi ô nhục, nhưng đó chính là vinh quang đích thực: vinh quang của tình yêu cứu độ, của lòng trung tín trọn vẹn với ý muốn của Chúa Cha.

- Chúa Giêsu còn nói: “Con đã làm cho Danh Cha rạng rỡ nơi trần gian...” Danh Thiên Chúa được tỏ lộ qua sự sống và hành động của Đức Giêsu. Người sống hoàn toàn quy hướng về Cha, không mưu cầu danh vọng, nhưng chỉ muốn thi hành sứ mạng yêu thương và cứu độ. Danh Cha được tỏ hiện nơi người Con khi Người cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, khi Người chữa lành, tha thứ, và nhất là khi Người vâng phục đến chết.

- Trong lời nguyện này, chúng ta cũng nghe thấy một tình yêu bao la dành cho các môn đệ. Chúa Giêsu nói: “Con cầu nguyện cho họ... vì họ thuộc về Cha.” Được sống với Chúa, được nghe lời Chúa, được thông phần vào sự sống đời đời, đó là ân ban lớn lao mà mỗi chúng ta, như các môn đệ xưa, được lãnh nhận.

Lời nguyện hiến tế của Chúa Giêsu cũng là lời mời gọi mỗi người chúng ta hãy tự vấn lại chính mình:

- Tôi có nhận ra vinh quang thật sự không nằm trong những thành công chóng qua, mà nằm trong việc sống yêu thương, phục vụ và trung thành với Chúa không?

- Tôi có sẵn sàng để Danh Chúa được rạng rỡ nơi cuộc đời mình qua từng cử chỉ nhỏ của lòng vị tha, sự tha thứ, lời nói yêu thương không?

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết sống gắn bó với Chúa mỗi ngày, biết làm rạng danh Chúa qua đời sống yêu thương và phục vụ tha nhân. Xin Chúa ban cho chúng ta lòng can đảm để sống cho Chúa giữa thế gian đầy thử thách này. Xin Chúa giữ gìn chúng ta trong chân lý và bình an của Chúa. Amen.

 

Suy niệm 4: XIN ƠN HIỆP NHẤT

Nếu phải chọn một từ để diễn tả Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thì ta nên dùng từ "hiệp nhất"

Trước khi rời xa các môn đệ để bước vào cuộc Thương Khó, Chúa Giêsu đã dâng lời cầu nguyện tha thiết lên Chúa Cha. Ngài nói đến sứ mạng của mình tất cả là nhằm để tôn vinh danh Cha; bên cạnh đó Ngài cũng cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các môn đệ. “Con không còn ở thế gian nữa, nhưng họ còn ở thế gian”, nên xin Chúa Cha: “ gìn giữ họ trong danh Cha... để họ nên một như Chúng Ta.”

Hiệp nhất chính là khát vọng sâu xa nhất của Chúa Giêsu. Hiệp nhất giữa Ngài với Cha, giữa các môn đệ với nhau, và giữa các môn đệ với Thiên Chúa tạo nên sức mạnh thiêng liêng giúp các môn đệ vượt thắng mọi gian lao thử thách do quyền lực thế gian gây ra.

Xin Chúa ban cho ta ơn hiệp nhất trong đức tin và hy vọng để ta đủ sức mạnh vượt thắng mọi thách đố trong đời sống và can đảm thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa.

 

Suy niệm 5: THÁNH CA-RÔ-LÔ LOANG-GA VÀ CÁC BẠN TỬ ĐẠO

1. Bối cảnh lịch sử

Vào cuối thế kỷ 19, tại vương quốc Buganda (nay thuộc Uganda), đức tin Kitô giáo đang lan rộng nhờ các nhà truyền giáo Công giáo và Anh giáo. Tuy nhiên, thời vua Mwanga II (trị vì từ 1884–1888), Kitô giáo bị xem là mối đe dọa đến quyền lực và truyền thống bản địa, đặc biệt vì các tín hữu từ chối tham gia các nghi lễ ngoại giáo và các hành vi trái luân lý trong hoàng cung.

2. Ca-rô-lô Loang-ga-Thủ lĩnh anh dũng

- Thánh Ca-rô-lô Loang-ga (Charles Lwanga) là một quan thị thần trẻ, đứng đầu nhóm các tín hữu Công giáo trong triều đình. Ngài vừa là người lãnh đạo đức tin, vừa là người hướng dẫn tinh thần cho các thiếu niên phục vụ trong cung điện.

Khi thấy vua Mwanga có ý đồ lạm dụng tình dục các cận thần trẻ, Ca-rô-lô đã can đảm bảo vệ các em, đặc biệt là các Kitô hữu, đồng thời tiếp tục dạy giáo lý và khích lệ họ sống trọn đức tin.

3. Bắt bớ và tử đạo

- Ngày 26/5/1886, sau khi một số thanh niên Kitô hữu từ chối chiều theo những yêu cầu vô luân của vua, nhà vua ra lệnh bắt giữ và kết án tử hình họ.

- Ngày 3/6/1886, tại Namugongo, 13 Công giáo và 11 Anh giáo, phần lớn là thiếu niên và thanh niên, bị thiêu sống vì đức tin của mình.

- Trước khi chết, họ cầu nguyện, hát thánh ca, tha thứ cho vua và dâng hiến mạng sống cho Chúa.

4. Gương sáng đức tin

Các ngài là những người:

Sống đức tin cách can đảm giữa bách hại;

Giữ lòng khiết tịnh, trung thành với giáo huấn Tin Mừng;

Làm chứng cho Chúa bằng cái chết đầy hy vọng, yêu thương và tha thứ.

5. Tôn phong hiển thánh

- Năm 1920, các ngài được Đức Giáo hoàng Bênêđictô XV tôn phong chân phước.

- Ngày 18/10/1964, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã phong thánh cho 22 vị tử đạo Công giáo Uganda.

- Trong bài giảng, ngài nói: “Những vị tử đạo này đã trả giá bằng chính mạng sống mình để trung thành với đức tin và luân lý Kitô giáo... Họ là ánh sáng rạng ngời của Châu Phi mới.”

6. Ngày kính nhớ

- Ngày 3 tháng 6 hằng năm, Giáo hội hoàn vũ kính nhớ Thánh Ca-rô-lô Loang-ga và các bạn tử đạo.

- Đặc biệt tại Uganda, ngày này là lễ quốc gia, và hàng triệu người hành hương về Đền Thánh Namugongo – nơi các ngài chịu tử đạo.

7. Ý nghĩa cho hôm nay

Các ngài là biểu tượng của:

- Lòng can đảm sống đức tin giữa nghịch cảnh;

- Lý tưởng sống trong sạch, ngay chính, yêu thương tha thứ;

- Niềm hy vọng vào sự sống đời đời mà cái chết không thể dập tắt.

Thánh Ca-rô-lô Loang-ga (Charles Lwanga) và các bạn tử đạo là những chứng nhân anh dũng của đức tin tại Uganda vào cuối thế kỷ 19. Các ngài đã sống tinh thần Lời Chúa hôm nay một cách sâu sắc và cảm động trở nên mẫu gương cho đời si61ng đức tin chúng ta:

1. Như thánh Phaolô, các ngài đã trung tín loan báo Tin Mừng.

“Tôi coi mạng sống tôi chẳng là gì, miễn sao tôi chạy đến cùng đích và hoàn thành sứ vụ Chúa đã giao là loan báo Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa.” (Cv 20,24).

Thánh Ca-rô-lô Loang-ga và các bạn đã coi mạng sống là điều thứ yếu để trung thành với Tin Mừng. Dù bị nhà vua Buganda bắt bớ, tra tấn, các ngài vẫn không từ bỏ đức tin, chấp nhận cái chết để làm chứng cho Chúa Kitô. Đặc biệt là Charles Lwanga đã can đảm bảo vệ đức khiết tịnh, hướng dẫn các thiếu niên trong triều đình sống đức tin, giống như Phaolô dấn thân phục vụ mà không mưu cầu lợi ích cá nhân.

2. Hiệp nhất với Chúa Cha trong tình yêu

“Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ họ trong danh Cha, để họ nên một như chúng ta.” (Ga 17,11).

Dù sống trong hoàn cảnh chia rẽ và bách hại, các thánh tử đạo Uganda vẫn giữ lòng hiệp nhất, yêu thương nhau và nâng đỡ nhau trong những giờ phút cuối cùng. Khi bị thiêu sống ở Namugongo (1886), các ngài cầu nguyện, tha thứ và ca hát, hiệp thông trọn vẹn với Chúa Kitô và với nhau, sống tinh thần hiệp nhất trong Thiên Chúa mà Đức Giêsu cầu nguyện trong bài Tin Mừng.

3. Làm vinh danh Thiên Chúa qua cái chết của mình

“Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con cũng tôn vinh Cha.” (Ga 17,1)

Cái chết của các ngài không là thất bại, mà là chiến thắng của đức tin, là giờ được "tôn vinh" như chính Chúa Giêsu.

Qua cái chết can đảm và tha thứ, các ngài làm vinh danh Thiên Chúa trước mặt mọi người, và trở thành hạt giống đức tin trổ sinh Hội Thánh tại châu Phi.

Tóm lại: Thánh Ca-rô-lô Loang-ga và các bạn tử đạo đã tích cực  sống tinh thần Lời Chúa hôm nay bằng cách:

-Trung thành loan báo Tin Mừng, bất chấp bách hại (Cv 20)

- Hiệp nhất và yêu thương nhau, như chính Chúa Giêsu cầu nguyện (Ga 17)

- Làm chứng bằng chính mạng sống mình, để vinh danh Thiên Chúa.

Các ngài xứng đáng trở nên mẫu gương sáng ngời cho chúng ta noi theo, đặc biệt trong Năm Thánh Hy Vọng này, bằng đời sống đức tin kiên vững, tạo sự hiệp nhất và tràn đầy hy vọng vào sự sống đời đời.

 

Thứ tư: Cv 20,28-38; Ga 17,11b-19

Suy niệm 1: 

Cuộc sống của chúng ta là một chuỗi những ngày dài chiến đấu. Nhưng có lẽ chiến gây go nhất là với ba thù: Ma quỷ, Thế gian và Xác thịt. Vậy cách thức hay vũ khí nào ta cần phải trang bị để chiến đấu và chiến thắng ba thù này?

Lời Chúa hôm nay sẽ hướng dẫn cho ta biết. Chúng ta hãy để tâm lắng nghe và thực hiện điều Chúa chỉ dạy!

Như một người cha trước lúc lìa đời trăn chối lại cho con cái mình những điều quan trọng và tâm quyết nhất. Chúa Giêsu cũng vậy, với tư cách là Chúa và là Thầy của các môn đệ, trước khi lìa bỏ thế gian, Ngài cũng mong muốn và cầu xin những điều tâm quyết nhất  cho các môn đệ của Ngài.

- Lời tâm quyết thứ nhất mà Chúa Giêsu cầu xin cho các môn đệ là xin Chúa Cha gìn giữ các ông được hiệp nhất nên một như Người với Chúa Cha. 

- Lời tâm quyết thứ hai mà Chúa Giêsu cầu xin cho các môn đệ là gìn giữ họ khỏi hư mất. Vì ý định của Thiên Chúa là yêu thương cứu độ mọi người.

Lý do mà Chúa Giệsu quan tâm đến những điều trên là thế gian ghét các môn đệ, vì các ông không thuộc về thế gian, cũng như chính Chúa Giêsu không thuộc về thế gian.

Nhưng làm sao các môn đệ vượt thắng được sự thù ghét của thế gian và cụ thể hóa được những lời cầu xin của Chúa Giêsu? 

Thưa, qua lời cầu nguyện, Chúa Giêsu cho biết các môn đệ cần phải sống theo Lời Chúa, vì Lời Chúa là chân lý. Sống theo lời chân lý các môn đệ sẽ có đủ sức mạnh ơn thiêng để vượt thắng những quyến rủ của thế gian để thuộc trọn về Chúa.

Xin cho chúng ta biết can đảm sống theo lời Chúa chỉ dạy để chúng ta được hiệp nhất trong Chúa và nhờ sức mạnh của lời Chúa hướng dẫn, chúng ta đi đúng con đường mà Chúa Giêsu đã đi mà không bị hư mất.

 

Suy niệm 2:

Phụng vụ lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu hơn về sứ vụ, sự hiệp nhất và ơn thánh hóa của Chúa Giêsu.

Bài Đọc I: Đoạn sách Công Vụ hôm nay ghi lại những lời trăn trối đầy tâm huyết của Thánh Phaolô gửi cho các kỳ mục Êphêxô trước khi ngài lên đường đến Giêrusalem. Ngài ý thức rằng đây có thể là lần cuối cùng ngài gặp họ, và vì thế, những lời này mang một sức nặng đặc biệt. Phaolô nhắc nhở các kỳ mục:

- Hãy coi chừng chính mình và toàn thể đoàn chiên: Đây là một lời cảnh tỉnh quan trọng. Người mục tử trước hết phải tự coi sóc linh hồn mình, sống đời gương mẫu, để rồi mới có thể dẫn dắt đoàn chiên. Ngài nhấn mạnh trách nhiệm nặng nề của những người được Chúa trao phó việc chăm sóc Giáo Hội, được "mua bằng chính máu của Con Một Người".

Sẽ có những sói dữ len lỏi vào: Phaolô tiên liệu về những thử thách, những giáo thuyết sai lạc sẽ xuất hiện trong cộng đoàn. Điều này đòi hỏi các mục tử phải luôn tỉnh thức, giữ vững đức tin và bảo vệ chân lý.

Hãy làm việc, trợ giúp kẻ yếu: Ngài nêu gương về cuộc đời lao động và phục vụ của mình. Ngài không tìm kiếm lợi lộc cá nhân mà luôn vì lợi ích của anh em, đặc biệt là những người yếu thế.

- "Ban cho thì có phúc hơn là nhận lãnh": Đây là câu nói nổi tiếng của Chúa Giêsu mà Phaolô đã ghi nhớ và thực hành. Nó tóm tắt tinh thần của một đời sống phục vụ, trao ban mà không mong đền đáp, tìm thấy niềm vui và phúc lành trong việc cho đi.

Lời trăn trối của Phaolô không chỉ là lời dặn dò cho các kỳ mục Êphêxô ngày xưa mà còn là lời nhắc nhở cho tất cả chúng ta, đặc biệt là những người đang giữ một vai trò lãnh đạo, phục vụ trong Giáo Hội. Chúng ta được mời gọi sống trách nhiệm, tỉnh thức, khiêm nhường và luôn đặt lợi ích của người khác lên trên hết.

Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục ghi lại những lời nguyện tư tế của Chúa Giêsu, trước khi Ngài chịu khổ nạn. Đây là lời nguyện đầy yêu thương và quan tâm của Ngài dành cho các môn đệ và cho toàn thể Giáo Hội. Chúa Giêsu cầu nguyện 4 điều quan trọng cho các môn đệ:

- Để họ được hiệp nhất: "Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha, danh mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta." Đây là lời cầu nguyện cốt lõi của Chúa Giêsu. Ngài biết rằng sự hiệp nhất là dấu chỉ của tình yêu và là sức mạnh để Giáo Hội làm chứng cho Chúa giữa thế gian.

- Để họ được gìn giữ khỏi sự dữ: Chúa Giêsu ý thức về những nguy hiểm mà các môn đệ sẽ phải đối mặt trong thế gian. Ngài cầu xin Cha bảo vệ họ khỏi quyền lực của sự ác, khỏi những cám dỗ và thử thách.

- Để họ được thánh hóa trong sự thật: "Xin Cha thánh hóa họ trong sự thật. Lời Cha là sự thật." Chúa Giêsu muốn các môn đệ được biến đổi, được trở nên thánh thiện nhờ Lời Chúa. Lời Chúa là chân lý, là kim chỉ nam hướng dẫn chúng ta sống đúng theo ý Chúa.

- Được sai vào thế gian: Giống như Cha đã sai Ngài, Chúa Giêsu cũng sai các môn đệ vào thế gian để loan báo Tin Mừng. Tuy nhiên, Ngài nhấn mạnh rằng họ không thuộc về thế gian, tức là họ không được sống theo những giá trị và lối sống của thế gian mà phải sống theo Tin Mừng.

Lời nguyện của Chúa Giêsu cho thấy tình yêu thương vô bờ bến của Ngài dành cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta sống hiệp nhất, được gìn giữ khỏi sự dữ và được thánh hóa để trở thành những chứng nhân đích thực của Ngài giữa đời.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:

- Suy tư về vai trò và trách nhiệm của mình: Dù là giáo dân hay người tu sĩ, linh mục, mỗi người chúng ta đều được mời gọi sống có trách nhiệm với ơn gọi của mình, sống gương mẫu và phục vụ tha nhân.

- Thúc đẩy sự hiệp nhất trong cộng đồng: Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu về sự hiệp nhất là một thách đố lớn cho chúng ta. Chúng ta có đang góp phần xây dựng sự hiệp nhất trong gia đình, giáo xứ, cộng đoàn, hay đang tạo ra những chia rẽ?

- Sống đời thánh thiện giữa thế gian: Chúng ta được mời gọi sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Điều này đòi hỏi chúng ta phải sống theo Lời Chúa, chống lại những cám dỗ và giá trị sai lệch của xã hội, và không ngừng tìm kiếm sự thánh thiện.

- Trở thành chứng nhân của Chúa Giêsu: Lời trăn trối của Phaolô và lời cầu nguyện của Chúa Giêsu đều hướng đến một mục đích: làm cho Tin Mừng được loan báo và Nước Chúa được rộng mở. Mỗi chúng ta được mời gọi trở thành những chứng nhân sống động của Chúa Giêsu bằng chính đời sống của mình.

Xin Chúa ban ơn để chúng ta có thể sống trọn vẹn Lời Chúa hôm nay, trở nên những người con hiếu thảo của Chúa Cha và những tông đồ nhiệt thành của Chúa Kitô. Amen.

 

Thứ năm: Cv 22,30; 23,6-11; Ga 17,20-26

Nhớ Thánh Bô-ni-phát, giám mục, tử đạo.

Suy niệm 1:

Tin mừng hôm nay tiếp tục ghi lại những lời cầu nguyện chân thành và tha thiết của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha.

Lời cầu nguyện tha thiết này Chúa Giêsu hướng cách đặc biệt về những người tin nhận Chúa, với mong muốn cho họ được hiệp nhất nên một. Bởi hiệp nhất chính là sức mạnh; có hiệp nhất mới có niềm vui và bình an. Trái lại, sự chia rẽ làm cho cuộc sống trở nên buồn bã, đau khổ và mất sức sống. Hiệp nhất trong cùng một đức tin còn là dấu chứng khả tín nhất cho việc loan báo tin mừng.

Nhưng lời cầu xin của Chúa Giêsu hình như đã bị con người khướt từ bởi tính kiêu căng, tự mãn. Do vậy mà trong GH đã từng xảy ra những cuộc sự chia rẽ đáng tiếc, làm mất đi tinh thần hiệp nhất trong cùng một thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô. Chính những cuộc chia rẽ ấy đã gây nên những vết thương lòng đau đớn và đã trở nên gương mù, gương xấu trong GH Chúa, nhất là làm mất đi tính khả tin của Tin mừng tình yêu.

Ý thức điều đó, nên hàng năm GH luôn dành một tuần lễ để cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu. Nhưng để cho Chúa nhậm lời ước nguyện hiệp nhất ấy, trước hết mọi người Kitô hữu chúng ta phải cầu xin Chúa ban cho mình có được lòng khiêm tốn, bao dung để biết mở lòng đón nhận những khác biệt của nhau; cũng như tích cực cộng tác với nhau thực hiện những giá trị căn bản mà Chúa chỉ dạy, với tinh thần tôn trọng và lòng yêu mến chân thành.

Bài đọc thêm:

Sự chia rẽ trong Kitô giáo đã diễn ra qua nhiều giai đoạn lịch sử, dẫn đến sự hình thành của các nhánh như Chính Thống giáo, Tin Lành và Anh giáo, với những lý do và thời điểm khác nhau:

1. Giáo hội Chính Thống giáo

- Thời điểm chia rẽ: Cuộc Ly giáo Đông – Tây năm 1054. Đây là sự kiện đỉnh điểm của hàng thế kỷ căng thẳng và bất đồng giữa hai trung tâm Kitô giáo lớn là Rome (Tây phương) và Constantinople (Đông phương).

- Lý do:

Quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng: Giáo hội Chính Thống giáo không công nhận quyền tối thượng và vai trò lãnh đạo Giáo hội hoàn vũ của Giáo hoàng La Mã. Họ tin rằng tất cả các giám mục đều bình đẳng và công đồng chung mới có quyền đưa ra các quyết định quan trọng.

Từ "Filioque": Giáo hội Công giáo đã thêm từ "Filioque" (và Chúa Con) vào Kinh Tin Kính Nicea để tuyên xưng Chúa Thánh Thần bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Giáo hội Chính Thống giáo không chấp nhận sự bổ sung này, vì Kinh Tin Kính nguyên thủy không có từ đó và họ tin rằng Chúa Thánh Thần chỉ phát xuất từ Chúa Cha.

Khác biệt văn hóa và ngôn ngữ: Sự khác biệt về văn hóa Hy Lạp (Đông phương) và Latinh (Tây phương), cùng với việc sử dụng bánh có men trong phụng vụ của Chính Thống giáo và bánh không men của Công giáo, cũng góp phần vào sự rạn nứt.

- Luật độc thân của linh mục: Công giáo buộc các linh mục phải độc thân, trong khi Chính Thống giáo cho phép linh mục kết hôn (trừ giám mục và đan sĩ).

Các tín điều về Đức Mẹ: Chính Thống giáo không công nhận các tín điều về Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, mặc dù vẫn tôn kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.

Công đồng: Công giáo thừa nhận 21 Công đồng chung, trong khi Chính Thống giáo chỉ công nhận 7 Công đồng đầu tiên.

2. Tin Lành

- Thời điểm chia rẽ: Bắt đầu từ thế kỷ XVI với Phong trào Cải cách Tin Lành, mà người khởi xướng nổi bật nhất là Martin Luther ở Đức vào năm 1517 khi ông công bố 95 luận đề.

- Lý do:

Chống lạm dụng của Giáo hội Công giáo: Vào thời điểm đó, Giáo hội Công giáo được cho là có nhiều lạm dụng, đặc biệt là việc bán "thư xá tội" (ấn xá), điều này đã gây ra sự bất bình lớn.

"Duy Thánh Kinh" và "Duy Đức Tin": Martin Luther nhấn mạnh rằng sự cứu rỗi chỉ đến qua đức tin vào Chúa Giêsu Kitô và Thánh Kinh là thẩm quyền duy nhất trong vấn đề đức tin và đạo đức. Điều này trái ngược với giáo lý Công giáo về vai trò của công việc lành, truyền thống Giáo hội và quyền bính của Giáo hoàng.

Khước từ quyền của Giáo hoàng: Tin Lành không công nhận quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng và quyền tối cao của hàng giáo sĩ.

Bí tích: Tin Lành chỉ công nhận hai Bí tích chính: Rửa Tội và Thánh Thể, trong khi Công giáo có bảy Bí tích.

Không tôn kính Đức Mẹ và các Thánh: Tin Lành không tôn kính Đức Trinh Nữ Maria và các thánh theo cách của Công giáo, và trong các nhà thờ Tin Lành thường không có ảnh tượng.

Vai trò cá nhân: Tin Lành đề cao vai trò cá nhân trong việc đọc và giải thích Thánh Kinh, cũng như trong mối quan hệ với Thiên Chúa.

 

3. Anh giáo

Thời điểm chia rẽ: Xảy ra vào thế kỷ XVI, chủ yếu dưới triều đại của Vua Henry VIII của Anh vào năm 1534.

Lý do:

Vấn đề ly hôn của Vua Henry VIII: Nguyên nhân chính và trực tiếp là do Vua Henry VIII muốn ly hôn với Catherine xứ Aragon để kết hôn với Anne Boleyn, nhưng Giáo hoàng Clement VII không chấp thuận.

Quyền tối thượng của nhà vua: Vua Henry VIII đã tuyên bố mình là "người đứng đầu tối cao của Giáo hội Anh" (Supreme Head of the Church of England) thông qua Đạo luật Thượng quyền (Act of Supremacy) năm 1534, qua đó phủ nhận quyền bính của Giáo hoàng ở Anh.

Độc lập quốc gia: Phong trào Cải cách Anh giáo nhấn mạnh rằng mỗi Giáo hội tại mỗi quốc gia được độc lập và lệ thuộc vào luật dân sự của quốc gia đó.

Sự khác biệt về tín lý và giáo luật: Mặc dù ban đầu Anh giáo vẫn giữ nhiều yếu tố Công giáo, nhưng theo thời gian đã có những khác biệt về tín lý (ví dụ: không tin vào tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, không tin có Luyện ngục) và giáo luật (ví dụ: linh mục được phép lập gia đình).

Tóm lại, các sự chia rẽ này đều xuất phát từ những bất đồng về thần học, quyền bính, và đôi khi là những yếu tố chính trị, văn hóa trong các giai đoạn lịch sử khác nhau.


Suy niệm 2:

Trong giờ phút thân tình trước cuộc Thương Khó, Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha một lời nguyện chan chứa tình yêu.

Đối tượng cầu nguyện: Ngài không chỉ cầu nguyện cho các Tông Đồ, mà còn cho tất cả chúng ta, những người sẽ tin vào Ngài qua lời giảng dạy của các Tông Đồ. Lời cầu nguyện ấy vượt thời gian và không gian, ôm trọn mọi thế hệ Kitô hữu.

Trọng tâm hay nội dung của lời nguyện là sự hiệp nhất:“Để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”. Hiệp nhất không chỉ là thỏa hiệp hay đồng thuận bề ngoài, nhưng là một sự hiệp thông sâu xa, bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi, ba nhưng là một, một nhưng lại là ba. Sự hiệp nhất ấy được gắn kết bởi tình yêu đầy tràn và trọn vẹn.

Lỳ do mà Chúa Giêsu tha thiết mong muốn chúng ta sống trong tình yêu và hiệp nhất, bởi vì chính tình hiệp nhất ấy là dấu chỉ sống động để thế gian nhận biết Thiên Chúa.

Trong một thế giới bị chia rẽ bởi ích kỷ, ghen ghét, xung đột, thì người Kitô hữu được mời gọi sống khác. Đó là trở thành chứng nhân cho tình yêu và sự hiệp nhất đến từ Thiên Chúa. Nhưng sự hiệp nhất ấy không dễ dàng. Nó đòi hỏi mỗi người phải từ bỏ cái tôi, biết lắng nghe, tha thứ, và sống cho nhau. 

Điều này chỉ có thể thực hiện được nếu chúng ta ở lại trong Chúa và để Chúa ở lại trong mình, như chính lời cầu nguyện của Ngài: “Con ở trong họ và Cha ở trong Con”.

Xin Chúa giúp chúng ta biết sống yêu thương, tha thứ, biết vượt qua những khác biệt để cùng nhau làm chứng cho tình hiệp nhất, nhờ đó mà mọi người nhận biết Chúa vẫn đang hiện diện và yêu thương nhân loại. Amen.

 

THÁNH BÔ-NI-PHÁT, GIÁM MỤC, TỬ ĐẠO

1. Tiểu sử vắn tắt

Thánh Bô-ni-phát (cũng gọi là Winfrid) sinh vào khoảng năm 675 tại Anh quốc. Ngài là một tu sĩ dòng Biển Đức, nổi bật về học vấn, đức tin và lòng nhiệt thành truyền giáo. Được Đức Giáo hoàng Grêgôriô II sai đi rao giảng Tin Mừng tại vùng đất Đức (khi đó còn là lãnh địa chưa được Kitô hóa), thánh nhân đã góp phần lớn trong việc truyền bá Kitô giáo, củng cố Giáo Hội tại các vùng đất mới, lập nên nhiều giáo phận và tu viện.

Năm 722, ngài được tấn phong giám mục và sau đó là Tổng Giám mục vùng Mainz. Dù đã lớn tuổi, ngài vẫn không ngừng hoạt động truyền giáo. Trong một chuyến đi rao giảng tại Frisia (Hà Lan ngày nay), ngài bị một nhóm lương dân giết hại vào ngày 5 tháng 6 năm 754, cùng với 52 người bạn đồng hành.

2. Ý nghĩa

Thánh Bô-ni-phát được gọi là "Tông đồ nước Đức" vì công lao khai sáng đức tin Kitô giáo cho các dân tộc nơi đây. Ngài là mẫu gương của lòng trung kiên, nhiệt thành tông đồ, can đảm tử đạo và sống kết hiệp mật thiết với Giáo Hội Rôma.

3. Lời nguyện nhập lễ (trích Sách lễ Rôma)

Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh giám mục Bô-ni-phát được vinh dự tử đạo vì Danh Đức Kitô. Xin ban cho chúng con, nhờ lời người cầu thay nguyện giúp, dám mạnh dạn tuyên xưng đức tin và kiên trì sống theo đức tin ấy. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.


Thứ sáu: Cv 25,13b-21; Ga 21,15-19

Suy niệm 1:

Lòng khiêm tốn và tình yêu, chính là điều kiện tiên quyết và quan trọng nhất để chu toàn tốt nhiệm vụ Chúa trao. Đó là sứ điệp lời Chúa hôm nay gửi đến chúng ta.

Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết: trước khi trao phó sứ vụ quan trọng làm đầu Hội Thánh cho Phêrô, Chúa Giêsu đã tinh tế tận dụng bầu khí thân tình trong một bữa ăn để  mời gọi Phêrô đảm nhận vai trò quan trọng trong GH là chăn dắt đoàn chiên của Chúa. Để chu toàn tốt vai trò quan trọng này, đòi buộc Phêrô phải ý thức 2 điều rất quan trọng trong vai trò lãnh đạo. Đó là khiêm tốn và tình yêu mến. 

Bằng cách liên tiếp đặt câu hỏi cùng một nội dung đến những 3 lần: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy… không?”. Chúa Giêsu như ngầm ý nhấn mạnh đến hai điều quan trọng trong sứ vụ lãnh đạo:

- Trước hết là tình yêu: Chúa Giêsu muốn Phêrô xác định Tình Yêu kiên vững và trọn vẹn (kiềng 3 chân; tam tài) dành cho Chúa và cho tha nhân. Bởi tình yêu chính là động lực và là sức mạnh thúc đẩy con người dám xả thân hy sinh phục vụ vô vị lợi.

- Thứ đến là lòng khiêm tốn: Để nhắc nhớ Phêrô về 3 lần ông đã chối Thầy trong cuộc thương khó, để ông ý thức về thân phận yếu đuối mỏng giòn của mình có thể sa ngã bất cứ lúc nào. Nhờ đó, mà ông sẽ khiêm tốn hơn trước Chúa và mọi người trong sứ vụ lãnh đạo đoàn chiên Chúa.

Một cách nào đó mỗi người chúng ta cũng được Chúa trao phó cho nhiệm vụ lãnh đạo. Người lãnh đạo GH, người lãnh đạo cộng đoàn, người lãnh đạo gia đình và ai cũng phải lãnh đạo chính bản thân mình. Vì thế, Chúa cũng đòi hỏi chúng ta phải mang trong mình 2 đức tính quan trọng là khiêm tốn và tình yêu. Nhờ đó ta mới có thể chu toàn tốt bổn phận được Chúa trao phó.


Suy niệm 2:

Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Phêrô là một trong những khoảnh khắc cảm động nhất của Tin Mừng.

Ba lần Chúa hỏi: “Con có yêu mến Thầy không?” dường như là để chữa lành ba lần chối Thầy trong đêm tối của Thương Khó. Tình yêu là điều kiện tiên quyết, là nền tảng của mọi sứ mạng Kitô hữu.

Phêrô không chỉ được tha thứ mà còn được tái đặt vào sứ mạng lãnh đạo Hội Thánh. Điều đó cho thấy Thiên Chúa không chọn những người hoàn hảo, nhưng chọn những ai biết yêu mến và hoán cải.

Lời mời gọi “Hãy theo Thầy” được lặp lại như một nhấn mạnh: theo Chúa không chỉ là đi sau Chúa, mà là bước vào con đường thập giá và tình yêu. Người ta không thể chăm sóc đoàn chiên bằng quyền lực hay mệnh lệnh, mà bằng một con tim yêu thương, khiêm hạ và phục vụ.

Chúa đã hỏi Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không?” Xin cho chúng ta cũng nghe được câu hỏi ấy vang vọng trong tim mình mỗi ngày. Và với lòng khiêm tốn như Phêrô, xin cho chúng ta cũng can đảm thưa lên với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa.”

Nguyện xin cho tình yêu Chúa trở thành sức mạnh để chúng ta chu toàn tốt sứ mạng Chúa trao ban trong mọi hoàn cảnh, dù âm thầm hay vất vả, dù thành công hay thất bại. Amen.

 

Thứ bảy: Cv 28,16-20.30-31; Ga 21,20-25

Suy niệm 1:

Mỗi người đều được Chúa Thánh Thần ban cho những đặc sủng khác nhau. Thánh Phaolô diễn tả cuộc sống theo ơn Chúa Thánh Thần rất đa dạng, nhưng lại hài hòa với nhau tựa như các chi thể trong một thân thể. Mỗi chi thể làm việc riêng nhưng đều hướng về lợi ích của toàn thân. Ngài nói: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung…… Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người.” (1Cr 12, 4-11).

GH được ví là thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô. Chúa Kitô là Ðầu của Giáo Hội và Giáo Hội là Thân thể của Người (x.Cl 1,18; Ep 1,22; 4,15; 5,23). Nên mỗi người trong GH đều có bổn phận xây dựng GH thân thể Chúa Kitô theo khả năng của mình trong khiêm tốn. Đó là điều cần thiết không thể thiếu được như lời Thánh Phaolô nói: "Giả như chân có nói: "Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể.". Giả như tai có nói: Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể”, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi? Nhưng Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn. Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một. Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận. (1Cr 12,15-20).

Theo gương thánh Gioan ta có thể tích cực xây dựng GH Chúa bằng cách ghi lại những cảm nhận sâu xa về tình yêu Chúa dành cho ta và tình yêu ta dành cho Chúa qua những kinh nghiệm gặp gỡ thân tình với Chúa, và chia sẻ cảm nghiệm ấy cho nhiều người. Chính nhờ cách thức ấy mà Tin mừng Tình yêu của Chúa được loan báo cho mọi người, khắp mọi nơi và tồn tại mãi nơi Tin mừng của thánh Gioan.

Ta cũng có thể noi gương thánh Phêrô, xây dựng GH Chúa bằng cách can đảm “theo Thầy” trên mọi nẻo đường của cuộc sống, cho dẫu gặp phải mọi gian lao, thử thách ngay cả hy sinh mạng sống mình để minh chứng cho Tin mừng cứu độ bằng một đức tin kiên vững trong vai trò là đầu Hội Thánh. Nhờ đó mà Hội Thánh Chúa tồn tại vững mạnh và phát triển không ngừng.  

Xin cho mỗi người chúng ta biết tôn trọng sự khác biệt của nhau; biết mở lòng tích cực cộng tác với người khác theo hết khả năng của mình trong tình hiệp nhất. Nhờ đó mà GH Chúa ngày thêm vững mạnh và Tin mừng của Chúa được lan tỏa đến mọi người.


Suy niệm 2:

“Phần con, hãy theo Thầy!” đó là lời mời gọi tha thiết và rõ ràng mà Chúa Giêsu dành cho Phêrô, cũng là cho từng người chúng ta.

Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu không chỉ trao cho Phêrô sứ mạng chăn dắt đoàn chiên, nhưng Ngài còn củng cố lại mối tương quan cá vị giữa Ngài với Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không?” Và hôm nay, sau khi nghe lời tiên báo về cái chết của mình, Phêrô tò mò về vận mệnh của người môn đệ khác, Gioan. Chúa Giêsu không trách Phêrô, nhưng Ngài đưa Phêrô trở về với điều thiết yếu: “Phần anh, hãy theo Thầy.”

Chúa không muốn ta so sánh sứ mạng của mình với người khác, càng không muốn ta tò mò chuyện của anh em. Điều Ngài muốn là mỗi người sống trọn vẹn ơn gọi và con đường mà Ngài dành riêng cho mình. Theo Chúa là một hành trình cá vị, không phải là cuộc thi để phân định ai hơn ai.

Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta dễ bị cuốn vào cái nhìn “so đo”, đôi khi là đố kỵ: “Sao người đó lại thành công hơn mình?”, “Sao họ lại được việc nhẹ lương cao?”, “Tại sao họ ít đạo đức mà lại được Chúa ban nhiều ơn?”… Những câu hỏi đó khiến ta quên mất một điều: ơn gọi của mình là gì? Và mình đã trung thành ra sao với ơn gọi ấy?

Chúa mời gọi ta đặt trọng tâm trở lại: “Con, hãy theo Thầy.” Đừng nhìn quanh, đừng phân bì, đừng sợ hãi. Theo Chúa không phải là một công thức cố định, nhưng là con đường Ngài đã định liệu riêng cho từng người. Và nếu ta trung thành bước đi mỗi ngày trong tình yêu, thì con đường đó chính là con đường dẫn đến sự sống đời đời.

Xin Chúa cho chung ta biết yêu mến và trung thành theo Chúa mỗi ngày, dù con đường con đi có khi đầy thử thách, thiệt thòi và không ai biết đến.

Xin cho chúng ta đừng so đo, đừng ganh tị, nhưng biết vui mừng vì mỗi người đều được Chúa yêu thương và trao sứ mạng riêng.

Xin cho con luôn nhớ lời Chúa dạy: “Phần con, hãy theo Thầy.” Amen.

 

LỄ VỌNG CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG

St 11,1-9 (Xh 19,3-8a. 16-20b...); Rm 8,22-27; Ga 7,37-39

Chiều hôm nay, chúng ta cùng quy tụ nhau đây để cử hành lễ vọng, mừng kính trọng thể lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.

Phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết vai trò rất quan trọng của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta và GH. Chính Ngài là Đấng khai sinh và nuôi sống GH. Ngài cũng chính là nguyên lý tạo nên sự hiệp nhất trong GH và chính là nguồn sự sống đích thực của chúng ta.

Xin cho chúng ta biết khiêm tốn mở lòng đón nhận nguồn nước sự sống của Chúa Thánh Thần và ngoan ngoãn để cho CTT hướng dẫn cuộc sống chúng ta. Nhờ đó đời ta mới có thể trổ sinh được nhiều hoa trái tốt lành.

- Bài đọc 1, trích sách Xuất hành: nhấn mạnh đến sự nguy hiểm của sự chia rẽ. Trình thuật trong sách xuất hành hôm nay nhắc lại câu chuyện tháp Babel thời ông Nôe. Sau trận lục đại hồng thủy, con cháu ông Noe còn sống sót. Họ tập họp nhau lại không phải là để tạ ơn và tìm cách tôn thờ Chúa cho phải đạo; trái lại họ quy tụ với nhau để bàn kế sách đối phó chống lại Thiên Chúa. Họ cùng nhau quyết định xây dựng cây tháp ở Babel cao ngút lên tận trời, nhằm thách thức Thiên Chúa có thể làm gì được họ. Nhưng khi họ tiến hành xây dựng được nữa chừng thì Chúa liền cho họ trở nên bất đồng về ngôn ngữ. Khiến họ không còn hiểu nhau nữa, gây nên sự chia rẽ nhau. Vì thế kế hoạch xây tháp Babel của họ bất thành.

Câu chuyện cho thấy rằng nếu con người kiêu căng muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống, sẽ nhận lấy hậu quả tai hại đó là sự chia rẽ, chống đối nhau và sẽ bị thất bại trong mọi việc làm. Chia rẽ còn đồng nghĩa với sự chết.

- Trái lại với sự chia rẽ gây nên cái chết về tình yêu thương, hiệp nhất của nơi con cháu Noe ngày xưa, thì bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến sự sống nhờ sự hiệp nhất trong nguồn nước CTT.

Nói đến sự sống là phải nói đến nước và sự hiệp nhất. Chúa Giêsu sánh ví CTT chính là nguồn nước. Nguồn nước ấy được tuôn tràn trên các tông đồ và thế gian vào ngày lễ ngũ tuần. Ngày ấy từ Giêrusalem mới sẽ tuôn tràn nguồn suối nước mát, mang lại sự sống dồi dào cho thế gian.

Thật ra CTT là nguyên lý của sự sống đã được Thánh Kinh diễn tả khá nhiều.

Trong cựu ước, ngay từ chương đầu sách Sáng Thế đã cho thấy CTT là hơi thở Thần Khí mà TC đã thổi vào hồn con người của Ađam. Và sự sống vạn vật được hình thành kể từ khi “Thần Khí Chúa bay là trên mặt nước”. (St 1,2)

Trong sách 1 Xh 17,6-7, cho biết: Từ trong tảng đá Mêriba ở Masa nơi sa mạc khô cằn đã tuôn ra dòng nước nuôi sống dân Do Thái trên hành trình tiến về đất hứa. Tảng đá Mêriba ấy chính là hình ảnh của Giêsu. Từ tảng đá Giêsu cũng tuôn tràn một dòng nước chính là CTT sẽ nuôi sống cho dân Chúa vượt qua hành trình tiến về quê trời.

Còn trong sách Edekiel 47, 1-9. 12, thì mô tả. “Tôi đã thấy Nước từ bên phải Đền Thờ chảy ra, và Nước ấy chảy đến đâu thì tất cả đều được cứu rỗi…”. (Ed 47, 1-9. 12). Đền Thờ đó chính là hình ảnh của Chúa Giêsu và từ nơi Chúa Giêsu Đền Thờ Mới ấy lại tuôn tràn dòng nước mang sự sống sung mãn đến mọi người và mọi nơi. Dòng nước ban sự sống ấy chính là CTT.

Mừng lễ Chúa Thánh thần hôm nay, xin cho chúng ta biết nhìn nhận vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần trong GH và trong đời sống mỗi người chúng ta. Xin cho chúng ta biết khiêm tốn mở lòng đón nhận dòng nước ân thiêng của Chúa Thánh Thần tuôn đổ vào tâm hồn chúng ta. Nhờ đó mà chúng ta được hiệp nhất với nhau trong cùng một Thánh Thần và được tưới dội cùng một dòng nước sự sống của CTT. Nhờ đó mà hoa trái CTT là bác ái, bình an và hoan lạc được trổ sinh trong cuộc đời mỗi chúng ta.

 

  SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XII THƯỜNG NIÊN Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT   MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KITÔ St 14,18-20; 1Cr 11,23-26; Lc 9,11b...