Thứ Bảy, 10 tháng 5, 2025

 SUY NIỆM LỜI CHÚA  IV PHỤC SINH

Lm. Nguyệt Giang

CHÚA NHẬT CHÚA CHĂN CHIÊN LÀNH-NĂM C

Cv 13,14.43-52; Kh 7,9-14b-17; Ga 10,27-30 

Suy niệm 1: CHÂN DUNG NGƯỜI MỤC TỬ NHÂN LÀNH

Hôm nay Chúa nhật IV phục sinh, GH tôn kính Chúa Giêsu là mục tử nhân lành. Ngày cầu nguyện đặc biệt cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Chúa Giêsu quả là vị mục tử nhân lành vì Ngài biết, chăm sóc, bảo vệ và sẳn sàng hy sinh mạng sống mình để cho chiên được sống và sống dồi dào.

Xin Chúa ban cho quý linh mục tu sĩ luôn trung thành và nhiệt tâm với ơn gọi và sứ vụ Chúa trao ban; ta cũng nguyện cầu cho mỗi người chúng ta luôn là chiên ngoan của Chúa qua việc lắng nghe và hăng hái bước theo sự hướng dẫn của Chúa Giêsu Phục sinh, vị mục tử nhân lành. 

Khi thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã khắc họa hình ảnh người mục tử nhân lành bằng những đường nét vừa tinh tế, vừa sống động. Đó là sự hy sinh cao cả (x. Ga 10,11), sự thấu hiểu sâu sắc (x. Ga 10,14), sự quan tâm ân cần (x. Ga 10,10) và lòng kiên trì tìm kiếm những con chiên lạc.

Giữa vô vàn những phẩm chất cao quý ấy, nổi bật lên hai nét chủ đạo, tạo nên linh hồn của bức chân dung người mục tử nhân lành mà Tin Mừng hôm nay trình bày: biết chiêntrao ban.

- Biết chiên: Nền tảng để trở nên người mục tử nhân lành chính là sự hiểu biết tường tận đoàn chiên của mình. Không chỉ là biết số lượng, mà là biết từng con chiên một. Người mục tử nhân lành nhận ra tiếng kêu của từng con, thấu hiểu nhu cầu của từng con: khi đói cần được cho ăn, khi khát cần được cho uống. Họ không quản ngại tìm kiếm con chiên lạc đàn, sẵn sàng ứng cứu những con gặp nguy hiểm. Hơn thế nữa, trái tim của người mục tử còn rung cảm trước sự mệt mỏi của đàn chiên để dắt dìu, tận tâm chăm sóc những con bệnh tật. Sự hiểu biết này không đơn thuần là tri thức khô khan, dựa trên danh sách hay số liệu, mà là sự thấu hiểu bằng trái tim, bằng tình yêu thương chân thành. Chính tình yêu ấy giúp người mục tử cảm thông, nâng đỡ và lo lắng cho từng con chiên. Chỉ khi biết trong tình yêu, người mục tử mới dám sống chết vì đoàn chiên của mình.

- Trao ban: Có thể nói, sự trao ban sự sống vĩnh cửu là nét nổi bật thứ hai, làm nên cốt lõi của hình ảnh người mục tử nhân lành. Sức hấp dẫn và lôi cuốn của bức chân dung này nằm ở việc người mục tử dâng hiến cho đoàn chiên một cuộc sống sung mãn và dồi dào. Họ trao ban sức khỏe và thời gian để tìm kiếm những đồng cỏ xanh tươi, khai thác nguồn nước mát trong lành. Họ không ngại khó nhọc tắm rửa cho chiên được sạch sẽ, thức khuya dậy sớm đưa chiên đi ăn và dẫn về nghỉ ngơi an toàn. Thậm chí, họ sẵn sàng hy sinh giấc ngủ để canh giữ đàn chiên khỏi mọi hiểm nguy. Trên hết, người mục tử nhân lành còn dũng cảm liều mình chống lại sói dữ và kẻ trộm để bảo vệ sự sống và sự phát triển của đàn chiên (x. Ga 10,16).

Chúa Giêsu không chỉ dùng lời nói để vẽ nên bức chân dung tuyệt mỹ về người mục tử nhân lành, mà Người còn hiện thực hóa điều đó bằng chính cuộc đời mình trong suốt ba năm rao giảng Tin Mừng. Đỉnh cao của sự trao ban ấy chính là cái chết đau thương trên thập giá. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã đổ đến giọt máu và nước cuối cùng để hoàn thiện nét vẽ cuối cùng cho bức chân dung người mục tử hoàn hảo. Vì lẽ đó, Ngài không ngần ngại tuyên bố: “Tôi chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11); “Tôi chính là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên tôi biết tôi” (Ga 10,14-15). Để xứng đáng đón nhận ơn cứu độ của Chúa, chúng ta cần nhận biết, tin tưởng và sẵn sàng bước theo sự hướng dẫn của Ngài, như lời Sách Công Vụ Tông Đồ đã khẳng định: “Không có ơn cứu độ nơi một ai khác, vì dưới trời này không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để nhờ danh đó mà chúng ta được cứu độ” (Cv 4,12).

Là những con chiên của Chúa, chúng ta được mời gọi lắng nghesẵn sàng đi theo sự dẫn dắt của Ngài. Như con cái thảo hiếu lắng nghe lời cha mẹ, đoàn chiên cũng cần vâng nghe tiếng vị Mục Tử của mình.

Vậy, mỗi người chúng ta đã lắng nghe lời Chúa như thế nào? Chúng ta dành bao nhiêu thời gian mỗi ngày để suy gẫm Lời Chúa? Khi tham dự Thánh lễ, tâm hồn ta có thực sự hướng về Lời Chúa và sống theo những giáo huấn ấy không? Hay chúng ta đến nhà thờ chỉ vì thói quen, một hình thức bên ngoài, mà chưa bao giờ khao khát được lắng nghe tiếng Chúa? Chỉ khi nào tình yêu dành cho Chúa thực sự lớn mạnh, chúng ta mới có thể kết nối cuộc đời mình với Ngài, mới thực sự lắng nghe và bước theo sự hướng dẫn của Ngài.

Hôm nay, Giáo hội dành một ngày đặc biệt để cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và Tu sĩ. Chúng ta hãy tha thiết cầu xin Chúa ban cho nhiều bạn trẻ biết quảng đại đáp lại tiếng gọi của Ngài, hy sinh dâng hiến cuộc đời để phụng sự Chúa và Giáo hội trong đời sống thánh hiến. Xin Chúa cho quý Linh mục trở nên hình ảnh sống động của Chúa Giêsu, vị Mục Tử Nhân Lành. Cách đặc biệt hơn, xin cho mỗi người chúng ta trở nên những con chiên ngoan ngoãn của Chúa, qua việc khiêm tốn lắng nghe Lời Ngài, gắn bó mật thiết đời mình với Chúa và trung kiên bước theo Ngài đến cùng. Amen.

 

Suy niệm 2:

Tin mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu đã khắc họa đậm nét bức chân dung đích thực của người mục tử nhân lành. Chân dung ấy đã được Chúa Giêsu chấm phá bằng những đường nét hết sức tinh tế và sống động như: “biết chiên” (x. Ga 10,11); “hy sinh vì chiên” (x. Ga 10,14); “quan tâm chăm sóc chiên” (x. Ga 10,10); “thao thức tìm kiếm và hiệp nhất đoàn chiên”…

Trong nhiều đường nét tinh tế ấy, nếu chiêm ngắm kỹ, ta sẽ bắt gặp hai đường nét chủ đạo, làm nên cái hồn của bức chân dung người Mục Tử Nhân Lành. Hai nét chủ đạo ấy là: “biết chiên” và “hy sinh cho đàn chiên”.

- Biết chiên: Để trở nên người mục tử nhân lành, trước hết phải “biết” rõ chiên mình: Biết từng con chiên một chứ không phải biết chung chung, nhưng là cái biết sâu xa, gắn kết như máu thịt, như hồn và xác theo nghĩa thánh kinh vậy. Biết khi nào chiên đói để cho ăn; khi nào chiên khát để cho uống. Biết con chiên nào lạc đàn để tìm về; con nào gặp nguy hiểm để tiếp cứu. Luôn chạnh lòng thương đối với những con chiên đang trong tình trạng mệt mỏi để dắt dìu; hằng bận tâm chăm sóc cứu chữa cho những con chiên đang trong tình trạng đau yếu và bệnh tật.

- Hy sinh vì đàn chiên: Có thể nói hy sinh chính là đường nét thứ hai làm nên cái hồn của bức chân dung người mục tử nhân lành. Sức hấp dẫn và lôi cuốn nơi bức chân dung người mục tử nhân lành chính là hết lòng “hy sinh” cho đoàn chiên: Hy sinh sức khỏe, thời giờ để đi tìm kiếm đồng cỏ xanh tốt; ra sức khai thác nguồn nước mát trong lành cho chiên được uống no thỏa. Không quản khó nhọc để tắm rửa cho chiên được sạch sẽ; sẵn sàng thức khuya dậy sớm để đưa chiên đi ăn và tối đưa chiên về nghỉ ngơi. Chấp nhận hy sinh giấc ngủ để canh giữ cho đoàn chiên được an giấc. Trên hết là anh dũng dám liều mạng sống mình chống lại sói dữ, trộm cướp để bảo vệ cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. (x.Ga 10,16).

Khác hẳn với những kẻ chăn thuê. Kẻ chăn thuê thì chẳng tha thiết gì với đàn chiên, khi gặp nguy hiểm là lập tức anh ta bỏ chạy lấy thân, mặt cho đàn chiên tan tác. Kẻ chăn thuê chỉ nhắm đến lợi ích bản thân mình, nên không quan tâm gì đến sức khỏe và sự sống của đàn chiên, bởi lẽ đàn chiên không phải của anh ta.

Chúa Giêsu không chỉ khắc họa chân dung tuyệt mỹ về người mục tử nhân lành bằng lời nói suông, bằng những nét vẽ vô hồn. Nhưng Người còn khắc họa bức chân dung ấy bằng chính đời sống. Trong suốt ba năm rao giảng Tin mừng, người đã cứu chữa biết bao người bệnh tật về thể xác và bao dung tha thứ cho bao người đau khổ về tâm hồn. Mà đỉnh cao là cái chết đau thương trên thập giá. Trên đỉnh cao thập giá ấy, Chúa Giêsu đã đổ hết máu và nước mình ra để hoàn thiện nét vẽ cuối cùng làm nên bức chân dung mục tử không thể hoàn hảo hơn. Vì thế, Ngài không ngần ngại tự xưng mình là vị Mục Tử Nhân Lành, chẳng những cho dân Israel mà cho toàn thể nhân loại ( x Ga 10,11-16). “Tôi chính là mục tử nhân lành, mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11). “Tôi chính là mục tử nhân lành, Tôi biết chiên của Tôi và chiên Tôi biết Tôi” (Ga 10,15). “Để nhờ danh Người mà chúng ta được ơn cứu độ” (x. Cv 4,12).

Hiểu theo một nghĩa nào đó, thì cha mẹ cũng chính là mục tử nhân lành nơi gia đình và là chủ chăn của con cái mình. Vì thế, cha mẹ cũng được kêu gọi trở nên người mục tử nhân lành theo mẫu gương của Chúa Giêsu.

Xin cho bậc làm cha mẹ biết quan tâm lắng nghe, tìm hiểu con cái để nhận ra tình trạng, tâm tư, nguyện vọng thầm kín…của chúng mà chia sẻ, chăm sóc và hướng dẫn chúng kịp thời. Biết kiến tạo gia đình mình trở thành mái ấm yêu thương hiệp nhất trong Chúa. Biết sẵn sàng hy sinh bảo vệ con cái mình khỏi sa vào lưới ba thù: xác thịt, thế gian, ma quỷ. Nhất là xin cho những bậc làm cha mẹ cũng biết hy sinh quảng đại dâng hiến những người con ưu tú của mình cho Chúa và Giáo hội trong ơn gọi tu trì, cũng như ước mong có nhiều bạn trẻ mạnh dạn dấn thân đáp lại tiếng Chúa kêu mờiAmen.

  

Suy niệm 3: Suy niệm 4: ĐỨC GIÊSU-MỤC TỬ NHÂN LÀNH, ĐẤNG BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI

Các bài đọc hôm nay tập trung vào hình ảnh Đức Giêsu là Mục Tử nhân lành, Đấng biết từng con chiên và ban cho chúng sự sống đời đời. “Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta ban cho chúng sự sống đời đời.”

1. Đức Giêsu- Vị Mục Tử yêu thương và tận hiến

Hình ảnh người mục tử không chỉ là một biểu tượng đẹp trong Kinh Thánh, mà còn phản ánh tình yêu sâu sắc, kiên trì và hy sinh mà Thiên Chúa dành cho dân Người. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu khẳng định Ngài là Mục Tử Nhân Lành, không chỉ chăm sóc chiên, mà còn “biết chiên của mình”“ban cho chúng sự sống đời đời.”

“Biết” ở đây không chỉ là nhận diện bên ngoài, mà là một sự hiểu biết thấu đáo, trọn vẹn và yêu thương. Như người mục tử hiểu từng tính nết của đàn chiên, Đức Giêsu biết rõ những yếu đuối, giới hạn, cả tội lỗi của chúng ta, và vẫn yêu thương chúng ta đến cùng.

2. Tiếng gọi của Mục Tử và thái độ của người tín hữu

“Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta.” Đó là một mối tương quan hai chiều: Thiên Chúa cất tiếng gọi, còn con người đáp lại bằng sự lắng nghe và bước theo.

Trong cuộc sống ngày nay, giữa bao tiếng ồn ào của thế gian, của danh lợi, thành công, truyền thông và cả sự hoài nghi...liệu chúng ta có còn nghe được tiếng của Chúa không?

Ngài vẫn âm thầm nói qua Lời Chúa, qua giáo huấn của Hội Thánh, qua tiếng lương tâm, và qua cả những biến cố trong đời sống.

3. Sự sống đời đời-quà tặng từ Mục Tử

Điểm cao nhất trong sứ mạng của Mục Tử là “Ta ban cho chúng sự sống đời đời.” Đây không chỉ là phần thưởng ở tương lai sau cái chết, nhưng là một sự sống viên mãn bắt đầu từ bây giờ: sống trong tình yêu Thiên Chúa, trong bình an nội tâm, trong sự kết hiệp với Đấng đã chết và sống lại vì ta.

Khi tin tưởng và bước theo Đức Giêsu, người tín hữu không còn bị sự dữ khống chế, không còn lạc lối giữa cuộc đời, vì chính Người đã nói: “Không ai có thể cướp chúng khỏi tay Ta.”

Đứng trước tình yêu cao đẹp của Vị Mục Tử Nhân Lành là Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta cần phải tự vấn chính mình:

- Tôi có dành thời gian mỗi ngày để lắng nghe tiếng Chúa trong thinh lặng và qua Kinh Thánh không?

- Tôi có thật sự tin tưởng phó thác đời mình cho sự hướng dẫn của Mục Tử Giêsu không?

- Tôi có biết quan tâm, chăm sóc và nâng đỡ anh chị em xung quanh như một người “mục tử nhỏ” theo gương Chúa Giêsu không?

Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin cho chúng con biết lắng nghe tiếng Chúa và luôn bước theo Ngài. Xin gìn giữ chúng con khỏi lạc lối, khỏi cạm bẫy của thế gian, để chúng con luôn sống trong ân sủng và được hưởng sự sống đời đời Chúa hứa ban. Amen.


Suy niệm 4: LINH MỤC - NGƯỜI MỤC TỬ NHÂN LÀNH

“Công cuộc canh tân Hội Thánh cần được bắt đầu từ hàng Linh mục, vì thế, ước mong các Giám mục và Linh mục Việt Nam không chỉ là người quản trị giỏi, nhưng trước hết là người của Chúa và là những mục tử nhân lành”. (Sứ điệp Đại hội Dân Chúa Việt Nam 2010, số 5). Xin cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh là những chủ chăn đích thực như lòng Chúa mong ước, nhờ thế Hội Thánh Chúa được canh tân mỗi ngày nên tốt đẹp hơn.

Nhờ bí tích truyền chức, linh mục trở nên “Alter Christus” và được tham dự vào đức ái mục tử, tự hiến bản thân mình để phục vụ Hội Thánh theo gương hiến thân của Đức Kitô.

Như Đức Kitô đã cảm thương với dân chúng khi nhọc mệt, đuối sức ( x. Mt 9, 35-36; Ga 6, 15). Linh mục cũng phải biểu lộ lòng cảm thương của mình cách chân thành và cụ thể đối với mọi người mà mình gặp gỡ “anh em hãy vui với người vui, khóc với người khóc” ( Rm 12, 15).

Như Đức Kitô đã yêu mến những con chiên lạc đàn và vui mừng khi tìm gặp ( x. Mt 18, 12-14; Ga 8,11). Linh mục cũng phải tìm đến những ngưuời đang sống trong cô đơn thất vọng; những người tội lỗi, nhất là những người không mấy cảm tình với Giáo Hội…, vì họ cũng là đối tượng của lòng thương xót Thiên Chúa. “Con Người đến để tìm và cứu chữa những gì đã hư mất.” (Lc 19,10).

Như Đức Kitô hằng biết rõ và gọi tên từng người một (x.Ga 10,3). Linh mục phải nỗ lực quan tâm và phục vụ từng người trong Họ đạo mình, không loại trừ một ai.

Như Đức Kitô đã hy sinh hiến thân vì tình yêu nhân loại (x.Ga 10, 15). Linh mục cũng hãy yêu thương chăm sóc cộng đoàn mà Chúa trao phó. Người mục tử nhân lành không chỉ dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi và suối mát (x. Tv 23, 22),  mà còn phải nuôi dưỡng đàn chiên bằng chính sự sống mình qua việc hiến tế theo gương Chúa Giêsu (x.Ga 6, 56). Để có thể nói được như Chúa Giêsu đã nói: “Ta đến để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

Như ngọn nến cháy hao mòn theo tháng ngày để chiếu giãi ánh sáng; như hạt lúa mục nát để phát sinh sự sống mới, Linh mục cũng phải chấp nhận tiêu hao đời mình từng giây phút để phục vụ cộng đoàn dân Chúa. Người Linh mục giống Đức Kitô thì không trách khỏi qui luật “vượt qua” chết để được sống (x.Ga 12,25). Chính thánh Phanxicô Assisi cảm nghiệm quy luật này và đã thốt lên những lời nghịch lý trong bài ca bất hủ: “Chính lúc hiến thân là khi được nhận lãnh… Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.  Trên hết để thực hiện được vai trò người mục tử nhân lành, Linh mục phải có Đức Ái Mục Tử vì đó là nguyên lý và động lực thúc đẩy Linh mục sống xứng danh vai trò mục tử của mình.

Lạy Chúa Giêsu là mục tử tối cao, chúng con là những Linh mục bước theo Chúa trong vai trò người mục tử. 

Xin cho trái tim chúng con thuộc thuộc về Chúa và thuộc về mọi người. Xin cho trái tim chúng con biết yêu bằng tình yêu hiến dâng. Xin cho trái tim chúng con mở rộng đủ lớn để chứa mọi người và từng người một. Xin cho chúng  con có trái tim của Chúa để con say mê Chúa và say mê con người. Xin cho chúng con luôn yêu Chúa, vì khi yêu Chúa chúng con mới sẵn sàng hy sinh đời mình bảo vệ đoàn chiên và dẫn đưa đoàn chiên đến với Chúa là nguồn sống đích thực. Amen.

 

Suy niệm 5: KHẮC HỌA HÌNH ẢNH NGƯỜI MỤC TỬ NHẦN LÀNH

Hàng năm GH dành ngày Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh để suy tôn Chúa Giêsu vị Mục Tử tối cao. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết: Đức Giêsu chính là vị Mục tử nhân lành, Ngài biết rất rõ từng con chiên, Ngài yêu thương chăm sóc, gìn giữ đàn chiên cẩn thận, nhất là sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để cho chiên được sống và sống dồi dào.

 Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và Tu sĩ, chúng ta hãy sốt sắng hiệp dâng Thánh Lễ. Xin Chúa ban cho nhiều bạn trẻ biết quảng đại đáp lại tiếng Chúa mời gọi hiến mình trong ơn gọi Linh mục và Tu sĩ.

Xin cũng cho mỗi người chúng ta trở thành chiên ngoan của Chúa, biết lắng nghe tiếng Chúa, sẵn sàng dấn thân làm chứng nhân cho tình yêu của Chúa giữa dòng đời.

Bài đọc I, trích sách Cv cho ta biết, sau khi Phêrô chữa cho người què từ mới sinh được lành bệnh, ngài cùng với ông Gioan bị điệu đến Thượng hội đồng Do thái về việc chữa lành người què và vì việc ấy  đã phạm đến cấm kỵ không cho phép người tàn tật vào đền thờ.

 Trước Thượng hội đồng, Phêrô xác nhận người què ấy được khỏi không phải do quyền phép gì riêng của ông mà chỉ nhờ danh Đức Giêsu, Đấng mà họ đã giết chết nhưng Thiên Chúa đã cho sống lại.

 Lợi dụng dịp này, Phêrô giảng về Đức Giêsu : Ngài là viên đá bị những người thợ xây loại bỏ , nhưng Thiên Chúa dùng Ngài làm viên đá góc. Trên trần gian này khó có một Đấng cứu độ nào khác ngoài Đức Giêsu Kitô, nhờ danh Ngài mà mọi người được ơn cứu độ.

 Bài đọc II, trích thư thứ nhất của Thánh Gioan tông đồ. Thánh Gioan nói đến mức độ vô cùng lớn lao của tình yêu Thiên Chúa dành cho tín hữu. Ngài nói về tình yêu tuyệt vời mà Thiên Chúa bầy tỏ cho chúng ta biết là cho chúng ta trở nên những con cái của Ngài. Và tình trạng tương lai của chúng ta sẽ được trở nên giống như Đức Giêsu vinh quang.  Bài học này mời gọi chúng ta hãy vui lên trong tình trạng của mình, với tư cách là những dưỡng tử của Thiên Chúa.

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn giới thiệu Ngài chính là mục tử nhân lành bằng cách so sánh và phân tích mục tử tốt lành và người chăn chiên thuê.

a. Người mục tử tốt lành có những đặc điểm này :

- Thí mạng sống để bảo vệ đàn chiên.

- Sống thông hiệp với đàn chiên: biết các chiên từng con một, và được các chiên biết.

- Lo cho đàn chiên được no đủ và tăng thêm, lo tìm chiên lạc và đưa các chiên khác về cùng một đàn và cùng một chủ chiên.

b. Kẻ chăn chiên thuê thì không tha thiết gì với đàn chiên, khi gặp nguy hiểm thì bỏ chạy, họ chỉ biết lo cho bản thân mình, để cho đàn chiên tan tác.

 Như vậy, Chúa Giêsu đã phát thảo cho ta biết được 2 đường nét chủ đạo làm nên chân dung đích thực của người mục tử nhân lành đó là: biết chiên và hy sinh mạng sống vì chiên.

- Biết chiên: Để trở nên người mục tử nhân lành, trước hết phải “biết” rõ chiên mình. Cái biết ấy không chỉ là sự hiểu biết về kiến thức hay trên bàn giấy mà là cái biết của con tim, cái biết của tình yêu giữa hai chiều ““Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi.” Chỉ có cái biết ấy, người mục tử mới có thể thấu hiểu, cảm thông và chăm lo cho đàn chiên mình đúng mực.

Biết từng con chiên một chứ không phải biết chung chung, nhưng là cái biết sâu xa, gắn kết như máu thịt, như hồn và xác theo nghĩa thánh kinh vậy. Biết khi nào chiên đói để cho ăn; khi nào chiên khát để cho uống. Biết con chiên nào lạc đàn để tìm về; con nào gặp nguy hiểm để tiếp cứu. Luôn chạnh lòng thương đối với những con chiên đang trong tình trạng mệt mỏi để dắt dìu; hằng bận tâm chăm sóc cứu chữa cho những con chiên đang trong tình trạng đau yếu và bệnh tật.

- Hy sinh vì chiên: Có thể nói hy sinh chính là đường nét thứ hai làm nên cái hồn của bức chân dung người mục tử nhân lành. Sức hấp dẫn và lôi cuốn nơi bức chân dung người mục tử nhân lành chính là hết lòng “hy sinh” cho đoàn chiên: Hy sinh sức khỏe, thời giờ để đi tìm kiếm đồng cỏ xanh tốt; ra sức khai thác nguồn nước mát trong cho chiên được uống no thỏa. Không quản khó nhọc để tắm rửa cho chiên được sạch sẽ; sẵn sàng thức khuya dậy sớm để đưa chiên đi ăn và tối đưa chiên về nghỉ ngơi. Chấp nhận hy sinh giấc ngủ để canh giữ cho đoàn chiên được an giấc. Trên hết là anh dũng dám liều mạng sống mình chống lại sói dữ, trộm cướp để bảo vệ cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. (x.Ga 10,16). Cha ông ta thường nói: “Mạng sống hơn đống vàng". Quan niệm này cho biết ai cũng sợ chết. Được sống lâu, sống khỏe là mong ước lớn nhất của con người. Tuy nhiên nếu chỉ sống lâu và khỏe về thể chất thì chưa đủ, điều quan trọng là sống sao cho có ích, có giá trị và ý nghĩa thì mới đáng sống.

Khác hẳn với những kẻ chăn thuê. Kẻ chăn thuê thì chẳng tha thiết gì với đàn chiên, khi gặp nguy hiểm là lập tức anh ta bỏ chạy lấy thân, mặt cho đàn chiên tan tác. Kẻ chăn thuê chỉ nhắm đến lợi ích bản thân mình, nên không quan tâm gì đến sức khỏe và mạng sống của đàn chiên, bởi lẽ đàn chiên không phải là của anh ta.

Chúa Giêsu không chỉ khắc họa chân dung tuyệt mỹ về người mục tử nhân lành bằng lời nói suông, bằng những nét vẽ vô hồn. Nhưng Người còn khắc họa bức chân dung ấy bằng chính đời sống của Ngài. “Khi bắt đầu sứ vụ loan báo tin mừng, Chúa Giêsu đã bị cơn đói cồn cào nơi hoang địa sau 40 mươi ngày chay tịnh, nhưng qua đó, Ngài lại trở nên Bánh Trường Sinh nuôi sống mọi người. Và khi kết thúc sứ vụ ở trần gian, Ngài lại chịu phải cơn khát cháy khô cả họng, nhưng qua đó Ngài lại ban Nước Hằng Sống cho con người. Bị Giuđa phản bội bán ba mươi đồng bạc; nhưng Ngài lại trở nên nguồn ơn cứu chuộc cho cả thế gian. Cuối cùng Ngài đã phải chịu chết trên thập tự giá tựa như một con chiên bị sát tế, nhưng Ngài lại là vị Mục Tử Nhân Lành!” (ý: Grêgôriô Nazian). Vì thế, Ngài không ngần ngại tự xưng mình là vị Mục Tử Nhân Lành: “Tôi chính là mục tử nhân lành, mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11). “Tôi chính là mục tử nhân lành, Tôi biết chiên của Tôi và chiên Tôi biết Tôi” (Ga 10,15). 

Chúa nhật hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Chúng ta cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử tuyệt vời giống như Chúa Giêsu.

Trong đời sống hàng ngày, có khi chúng ta nghe người ta hay bàn tán nhận định về quý cha, quý tu sĩ nam nữ như sau: cha này, soeur kia thì tuyệt vời, cha kia, soeur này thì chán lắm. Dựa vào đâu mà người ta đánh giá như vậy? Thưa, tường người ta dựa vào ý riêng của mình: cha hợp với mình thì sẽ là tuyệt vời, cha không hợp với mình thì bị chê là chán lắm. Nhưng chín người mười ý thì biết đường nào mà lần!

May thay, Chúa Giêsu đã vẽ lên bức chân dung đích thực về người mục tử đúng nghĩa: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành Tôi biết chiên của Tôi… và Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” Điều này cho chúng ta hiểu được rằng: Người mục tử tuyệt vời không phải là người cấp tiến hay bảo thủ, cũng không phải người hoạt động xã hội rầm rộ bên ngoài hay khiêm tốn âm thầm ít ai biết đến, mà là người hiểu biết và dám xả thân sống chết vì chiên, quên mình đi để chăm lo cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào, theo mẫu gương của vị mục tử tối cao là Chúa Giêsu.

Nhờ bí tích rửa tội, mỗi người trong chúng ta được tham gia vào trong sứ vụ mục tử của Chúa Giêsu. Cho nên, mỗi người chúng ta đều được mời gọi tiếp bước theo gương Chúa Giêsu trở nên vị mục tử nhân lành là: Biết quan tâm chăm sóc và dấn thân hy sinh phục vụ mọi người, nhất là những người mà Chúa trao phó cho chúng ta. Và nếu có sự đòi buộc phải hy sinh mạng sống mình để gìn giữ, bảo vệ sự sống thể xác và linh hồn của họ thì chúng ta cũng phải sẵn sàng.

Tôi còn nhớ ngày 24/4/1994 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho hai bà mẹ gia đình, một trong hai bà mẹ đó là bà Gian-na Be-ret-ta Mol-la, bà đã chấp nhận cái chết khi sinh con để con bà được sống. Trong lá thư bà để lại, có những dòng cảm động sau đây: “Thân ái gửi con… Khi con đọc được những dòng chữ này thì mẹ không còn thở chung với con một bầu khí nữa…”. Bà bị ung thư khi mang thai, và từ chối hoá trị, xạ trị, để bào thai lớn lên an toàn, còn bà thì lìa đời, khi con bà vừa chào đời bình an.

Trong bài giảng thánh lễ phong chân phước, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhận định rằng: “Việc làm mẹ có thể trở thành nguồn vui nhưng thường cũng là nguồn đau khổ. Trong trường hợp đó, tình yêu trở nên thật cần thiết ở một mức độ anh hùng trong con tim của bà mẹ.” ĐTC nói tiếp: “Ngày hôm nay chúng tôi muốn tôn kính không những hai bà mẹ phi thường này mà cả bao nhiêu bà mẹ khác nữa, không quản ngại hy sinh để giáo dục và hướng dẫn con cái như mục tử chăm sóc đàn chiên.”

Xin cho các bậc làm cha mẹ, biết noi gương Đức Giêsu, vị mục tử nhân lành biết quan tâm, chăm sóc, gìn giữ con cái mình cách cẩn trọng với lòng thương yêu. Nhất là sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình để che chở và bảo vệ những người thân yêu của mình khỏi mọi hiểm nguy của cái chết do sự dữ gây ra.


 Suy niệm 6:

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về cửa chuồng chiên. Nhưng cửa này không phải là vật dụng bằng gỗ hay đá mà là chính bản thân Ngài. Ngài tự ví mình là cửa chuồng chiên vì muốn nói lên tình yêu Ngài dành cho đàn chiên. Ngài là cửa chuồng chiên nên Ngài luôn bảo vệ cho chiên được nghỉ ngơi an toàn. Ngăn chặn sói rừng vào sát hại chiên cũng như không để cho kẻ trộm cướp vào bắt chiên.

Đức Kitô còn đưa ra hai hình ảnh trái ngược, người chăn chiên nhân lành, và người chăn chiên thuê mướn.

Người chăn chiên nhân lành, ngày đêm chăm sóc, bảo vệ đàn chiên, dẫn chúng đến nguồn nước trong lành, đồng cỏ xanh tươi. Người chăn chiên nhân lành luôn sẵn sàng bảo vệ đàn chiên khỏi bị thú dữ sát hại và anh dũng dấn thân vào chốn nguy hiểm để bảo vệ cho đàn chiên được sống dồi dào. Mục tử nhân lành còn biết rõ từng con chiên và chấp nhận mang lấy mùi chiên, hiểu biết và gọi đúng tên từng con chiên. Ngược lại chiên ngoan cũng nhận ra bóng dáng và tiếng gọi của chủ mình mà nghe theo.

Qua cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô minh chứng cho một tình yêu vĩ đại mà Đức Kitô, mục tử nhân lành dành cho chúng ta là đàn chiên của Người.

Vì là cửa chuồng chiên nên Đức Kitô để cho chúng ta có quyền tự do lựa chọn. Những ai tin yêu, chọn bước theo Ngài thì sẽ đón nhận được tình yêu hy hiến của Ngài. Ngược lại những ai chọn theo ý riêng mình thì không bao giờ đón nhận được tình yêu hy sinh của Người. 

Ai chọn yêu mến và tin theo Đức Kitô sẽ không mất gì cả mà còn nhận được nhiều ơn phúc của Chúa ban tặng. Cuộc sống họ trở nên phong phú, tinh thần thảnh thơi, tâm tư thoải mái và luôn sống trong vui, ngay cả khi gặp gian nan thử thách.

Chuồng chiên chỉ bảo vệ cho những ai yêu mến, tín trung còn những kẻ bất tín thì chuồng chiên không thể bảo vệ được. Vì lòng nhân lành, Chúa Kitô đã sẵn sàng mở cửa chuồng chiên để đón nhận bất cứ ai biết hồi tâm, thống hối quay trở về cùng đàn chiên Người chăn dắt. 

Đức Kitô không chỉ là người gác cửa mà Ngài còn là người đi tìm những con chiên lạc, khi tìm được thì vui mừng vác trên vai mang về đàn (x. Lc 15,5) với mong sao chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên duy nhất.

Trộm cắp dùng nhiều hình thức dụ dỗ để bắt chiên; còn sói dữ thì luôn rình rập cắn xé chiên. Người chăn chiên mướn là người làm thuê, chủ chiên trả công. Nếu người đó không hoàn thành nhiệm vụ được trao phó; người đó hành động khác chi kẻ trộm cướp hay sói rừng, trá hình, đội lốt, chăn chiên để cầu lợi, để ngầm cấu xé và cắn phá chiên.

Chúng ta dâng lời tạ ơn Đức Kitô, Đấng chăn chiên nhân lành đã yêu thương và hy sinh mạng sống vì ta. Xin cho chúng ta trở thành chiên ngoan luôn biết nghe lời của Chúa mà sống hiệp thông với nhau trong tình yêu thương  của Chúa. Amen.

 

THƠ

Chữa lành, Danh Chúa Giê su,

Ta là dân Chúa, thiên thu “Con Ngài”.

Giê-su “Mục Tử” Thiên oai,

Ngài thương và biết, những ai chiên Ngài.

 

Chữa lành, Danh Chúa Giê su,

Ta là dân Chúa, thiên thu “Con Ngài”.

Giê su “Mục Tử” Thiên oai,

Ngài thương và biết, những ai chiên Ngài.

 

TÌNH YÊU ĐỨC KITÔ

Giê su mục tử nhân lành,

Yêu thương, chăm sóc ban hành phúc ân.

Hôm nay Giáo Hội ân cần.

Xin ơn thiên triệu, “mang hình” Giê su.

 

Phê rô thương chữa cho dù,

Bị bắt ra trước Trung Khưu Hội Đồng.

Có Gioan đồng bước theo ông.

Phê rô xác nhận: ông không “chữa què”

Giê su: bị giết từng nghe.

Ngài đã sống lại, chở che cứu đời.

 

Gioan rằng: Tình Chúa tuyệt với.

Nhận ta “con Chúa”. Giống thời Giê su.

 

Giê su mục tử thiên thu:

Thí mạng: hiến tế, đền bù vì chiên;

Biết chiên: dù dữ hay hiền;

Muốn quy tụ hết, cho chiên vào đàn.

Chăn thuê thì chẳng ngó ngàn.

Gặp nguy bỏ trốn, khiến đàn nát tan.

Linh mục, tu sĩ sẵn sàng,

Thực thi Ý Chúa chăm đàn chiên ngoan.

Hai Lúa

Suy niệm 7: MỤC TỬ NHÂN LÀNH. Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

Trong nền văn minh đô thị ngày nay, hình ảnh mục tử ít được sử dụng, hoặc bị coi thường, hoặc bị ngộ nhận vì được hiểu như sự thống trị của một người đối với một nhóm người không biết gì, chỉ biết nghe theo sự lãnh đạo của người khác như một đàn cừu ngoan ngoãn.

Tuy nhiên, mục tử lại là hình ảnh rất thân thuộc trong đời sống và văn hóa Do Thái. Trong Kinh Thánh, từ thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã được diễn tả như người mục tử: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi” (Tv 22,1), mà đoàn chiên là dân Israel: “…còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt” (Tv 94,7). Hình ảnh người mục tử này nói lên sự chăm sóc ân cần của Thiên Chúa, Đấng quy tụ dân Ngài: “Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng; bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40,11). Và thuật ngữ này còn được sử dụng để nói về các vua, các tư tế và tất cả những người có trách nhiệm lãnh đạo đối với dân Chúa.

Chúng ta biết rằng, thời xưa việc có nhiều gia súc là biểu hiện của sự giàu có. Trong sách Sáng Thế, ông Abraham được giới thiệu là “rất giàu, ông có nhiều súc vật và vàng bạc” (St 13,2). Vì thế, nếu bầy chiên được coi là của cải, là biểu hiện của sự giàu có, thì chúng ta có thể dám nghĩ rằng, đối với Thiên Chúa, chúng ta chính là tất cả gia sản, là “của cải” của Người.

Hôm nay, Chúa Giêsu cũng sử dụng hình ảnh mục tử để diễn tả ý nghĩa sứ mạng và mối quan hệ của Người với con người.

Trước tiên, Chúa Giêsu khẳng định Người chính là mục tử, vì Người biết chiên của Người và chiên của Người biết Người. Là mục tử nhân lành, Người “đi tìm con chiên bị mất, đưa về con chiên đi lạc, băng bó con chiên bị thương và con nào bệnh tật Người sẽ làm cho mạnh” (Ez 34,16), Người quy tụ những con chiên tản mác lại với nhau trong cùng một ràn chiên duy nhất, cho chúng được nghỉ ngơi. Người là mục tử duy nhất đã “hy sinh mạng sống mình” cho đoàn chiên (Chúa Giêsu lặp lại điều này đến bốn lần trong đoạn Tin Mừng ngắn này).

Trang Tin Mừng mà chúng ta đọc hôm nay được thánh Gioan viết vào cuối thế kỷ thứ nhất dành cho các cộng đoàn mà sự hiệp nhất đang bị đe dọa. Thánh sử muốn nhắc lại một cách mạnh mẽ rằng, nguồn gốc của sự hiệp nhất Kitô giáo chính là tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Người. Chúa Giêsu là mục tử đã yêu đến hy sinh mạng sống để cho chiên được sống và sống dồi dào. Đối với Thiên Chúa, tình yêu là điều kiện duy nhất để trở thành mục tử. Nếu không có tình yêu đối với đàn chiên, họ chỉ là người làm thuê. Khi gặp khó khăn nguy hiểm, họ sẽ bỏ chiên mà chạy. Mục tử là người không chỉ chăm sóc nhưng còn sẵn sàng hy sinh để bảo vệ đàn chiên của mình.

Chúng ta còn nhớ câu chuyện Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ ở Biển Hồ Tibêria. Khi đó Người hỏi Phêrô ba lần có yêu mến Người không, và ba lần ông đáp lại: “Thầy biết con yêu mến Thầy”, thì Người giao cho ông trách nhiệm của mục tử: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Ga 21,15-17). Và chính qua hình ảnh người mục tử này mà người ta đặt tên cho các “mục tử của Giáo hội” là Đức giáo hoàng, giám mục, linh mục, cũng như các mục sư của Giáo hội Tin lành. Nhưng danh hiệu mục tử không chỉ dành cho những vị có chức thánh. Người ta còn dùng trong các “mục vụ giới trẻ”, “mục vụ gia đình”, “mục vụ ngoại kiều”… “hội đồng mục vụ”, v.v. Như vậy, tất cả dân Chúa đều được mời gọi tích cực tham gia vào hoạt động mục vụ của Chúa Kitô. Thật vậy, qua phép Thánh tẩy, mỗi người chúng ta đã trở nên “chi thể của Đức Kitô, Đấng là tư tế, tiên tri và vương đế”. Vì vậy, mỗi người đều được mời gọi trở thành “mục tử nhân lành”.

- Ơn gọi linh mục và tu sĩ mà Giáo hội cầu nguyện cách đặc biệt ngày hôm nay dựa trên điểm cốt yếu này: tình yêu đối với Thiên Chúa. Có thể nói rằng, linh mục, tu sĩ, đó là những người đã khám phá ra tình yêu Thiên Chúa dành cho họ, và họ muốn đáp lại tình yêu ấy bằng cách đi theo Chúa Kitô là Đấng yêu thương họ. Càng tiến gần Người, họ càng được lôi cuốn trong tình yêu mà Thiên Chúa dành cho thế gian này. Như thế, nguồn gốc của mọi ơn gọi, đó là tình yêu, một tình yêu duy nhất dành cho Thiên Chúa và con người.

Hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta cầu nguyện cách riêng cho ơn gọi linh mục, tu sĩ. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho có nhiều bạn trẻ biết quảng đại đáp lại tình yêu của Chúa trong ơn gọi tu trì, và cầu nguyện cho các linh mục, tu sĩ được sống tròn đầy ơn gọi của mình.

Tuy nhiên chúng ta cũng không quên rằng, tất cả chúng ta đều được mời gọi trở thành “mục tử nhân lành” trong những trách nhiệm và vai trò mà chúng ta đang đảm nhận. Vì vậy chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau biết sống tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân trong đời sống hằng ngày, bằng chứng từ phục vụ và hiến thân, bằng việc quan tâm đến những người khác, bằng lời cầu nguyện cũng như các hoạt động cho sự hiệp thông và hiệp nhất.

 

Suy niệm 8: SỐNG CHẾT VÌ CHIÊN. Lm. Nguyễn Xuân Trường

Thế nào là một mục tử tuyệt vời? Thế nào là một giáo dân ngoan đạo? Phúc Âm tuần này cho chúng ta những chuẩn mực để nhận biết ai là mục tử tốt, ai là giáo dân ngoan.

1. Mục tử tuyệt vời. Nhiều nơi người ta hay bàn tán nhận định: cha xứ này tuyệt vời, cha xứ kia chán lắm. Dựa vào đâu mà đánh giá như vậy? Thường người ta dựa vào ý riêng của mình: cha hợp với mình thì sẽ là tuyệt vời, cha không hợp với mình thì bị chê là chán lắm. Nhưng chín người mười ý thì biết đường nào mà lần?

May thay, Chúa Giêsu đã cống hiến một chuẩn mực về người mục tử tuyệt vời: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” Thế nên, mục tử tuyệt vời không phải là người cấp tiến hay bảo thủ, cũng không phải người hoành tráng hay âm thầm, mà là người dám hy sinh mạng sống vì đoàn chiên, dám sống chết vì chiên, dám quên mình đi để chăm lo cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào.

2. Chiên nghe lời Chúa. Con ngoan là con vâng lời cha mẹ, chiên ngoan là chiên vâng lời Chúa. Chúa là mục tử nhân lành ban lời hằng sống cho chiên. Quan trọng là chiên có nghe lời Chúa hay không?

Rất tiếc là thực tế hôm nay, nhiều con chiên không muốn nghe Lời Chúa. Cứ thử hỏi chính mình: mỗi ngày tôi dành bao nhiêu thời gian để đọc, để học Lời Chúa? Tôi có siêng năng tham dự thánh lễ để nghe Lời Chúa không? Và kể cả đi lễ thì tôi có thực sự chăm chú lắng nghe Lời Chúa không? Có bao nhiêu người sau khi đi lễ về nhớ được Lời Chúa hôm nay nói gì với mình để đem ra thực hành trong đời sống?

Chúa Nhật Chúa Chiên lành hôm nay cũng là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Chúng ta cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử tuyệt vời giống như Chúa Giêsu. Đồng thời, chúng ta cũng cầu nguyện cho chính mình trở nên con chiên ngoan hiền, biết khiêm tốn vâng nghe và thực hành Lời Chúa chỉ dạy. Amen.


Suy niệm 9: TƯƠNG QUAN GIỮA MỤC TỬ VÀ ĐOÀN CHIÊN

Anh chị em thân mến trong Chúa Kitô Phục Sinh,

Hôm nay, Chúa Nhật thứ Tư Phục Sinh, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm một hình ảnh vô cùng gần gũi và ấm áp: hình ảnh Chúa Giêsu là Người Mục Tử nhân lành. Hình ảnh này không xa lạ với chúng ta, bởi lẽ trong đời sống hàng ngày, chúng ta vẫn thấy những người chăn dắt đàn vật, và trong Kinh Thánh, hình ảnh người mục tử đã được sử dụng nhiều lần để diễn tả mối tương quan giữa Thiên Chúa và dân Người, tiêu biểu như vua David, một người chăn chiên đã trở thành vị vua vĩ đại của Israel.

Hình ảnh người mục tử gợi lên sự chăm sóc ân cần, sự bảo vệ khỏi hiểm nguy, sự dẫn dắt đến đồng cỏ xanh tươi. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đã tự ví mình như người mục tử ấy: "Tôi là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên" (Ga 10,11). Và trong đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta một lần nữa được nghe những lời đầy yêu thương và tin tưởng của Chúa Giêsu về mối liên hệ đặc biệt giữa Ngài và những người tin theo Ngài.

- "Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi" (Ga 10, 27). Lời này mời gọi chúng ta suy tư về cách chúng ta lắng nghe tiếng Chúa. Nghe không chỉ đơn thuần là cảm nhận âm thanh bằng đôi tai, mà là lắng nghe bằng cả trái tim, bằng cả sự chú tâm của con người. Tiếng Chúa vang vọng trong Lời Kinh Thánh, trong những lời dạy của Giáo hội, trong tiếng lương tâm thầm kín, và thậm chí qua những biến cố xảy ra trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta có thực sự dành thời gian để lắng nghe tiếng Chúa giữa những ồn ào, vội vã của cuộc sống thường ngày? Chúng ta có mở lòng đón nhận và thực hành những gì Chúa dạy? Mối tương quan giữa người chiên và người mục tử là mối tương quan của sự tin tưởng và vâng phục. Chúng ta tin tưởng vào sự dẫn dắt của Chúa, và chúng ta sẵn sàng bước theo những chỉ dẫn của Ngài.

- "Tôi biết chúng" (Ga 10, 27). Đây là một lời khẳng định đầy yêu thương về sự thấu hiểu sâu sắc của Chúa Giêsu đối với mỗi người chúng ta. Ngài không chỉ biết chúng ta một cách hời hợt, mà Ngài biết rõ từng người, những ước mơ, những lo lắng, những điểm mạnh và những yếu đuối. Tình yêu của Chúa là tình yêu cá vị, Ngài quan tâm đến từng con chiên trong đàn. Chúng ta có cảm nhận được sự biết đến và yêu thương này của Chúa trong cuộc sống của mình không? Chúng ta có tin rằng Chúa luôn ở bên cạnh, thấu hiểu và đồng hành với chúng ta trong mọi hoàn cảnh?

- "Chúng theo tôi" (Ga 10, 27). Hành động "theo" Chúa là sự đáp trả tự do và đầy yêu mến của chúng ta đối với tình yêu của Ngài. Theo Chúa không chỉ là đến nhà thờ mỗi tuần, không chỉ là đọc kinh cầu nguyện, mà là sống theo những giá trị mà Chúa đã rao giảng: yêu thương, phục vụ, khiêm nhường, tha thứ. Những dấu hiệu cụ thể nào cho thấy chúng ta đang thực sự bước theo Chúa trong cuộc sống hàng ngày của mình? Chúng ta có sẵn sàng từ bỏ những điều cản trở chúng ta trên con đường theo Chúa không?

- "Tôi ban cho chúng sự sống đời đời" (Ga 10, 28). Đây là món quà vô giá mà Chúa Giêsu hứa ban cho những ai tin và theo Ngài. Sự sống đời đời không chỉ là một cuộc sống vĩnh cửu sau khi chúng ta qua đời, mà còn là một cuộc sống tràn đầy ý nghĩa, niềm vui và hy vọng ngay từ bây giờ, khi chúng ta sống trong ân sủng của Chúa. Chúng ta có trân trọng món quà này không? Chúng ta có đang sống một cuộc đời xứng đáng với món quà cao quý ấy không?

- "Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi" (Ga 10, 28). Lời này mang đến cho chúng ta một sự bảo đảm và an toàn tuyệt đối. Trong vòng tay yêu thương của Chúa, không có quyền lực nào, không có khó khăn nào, không có cám dỗ nào có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Ngài, nếu chúng ta luôn tin tưởng và gắn bó với Ngài. Chúng ta có hoàn toàn tin tưởng vào sự bảo vệ vững chắc này của Chúa trong mọi thử thách của cuộc sống không?

- "Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả... Tôi và Cha là một" (Ga 10, 29-30). Lời khẳng định về sự hiệp nhất giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha cho chúng ta thấy nguồn sức mạnh và quyền năng vô song của Thiên Chúa. Không có gì có thể mạnh hơn tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Đây là nền tảng vững chắc cho niềm tin và hy vọng của chúng ta. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, là hiện thân của tình yêu và lòng thương xót của Chúa Cha.

Anh chị em thân mến, Chúa Nhật Chúa Chiên Lành cũng là ngày Giáo hội cầu nguyện đặc biệt cho ơn gọi linh mục và tu sĩ. Những người được Chúa gọi và thánh hiến để trở nên hình ảnh của Chúa Giêsu Mục Tử giữa đoàn chiên. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các linh mục, các tu sĩ luôn trung thành với ơn gọi của mình, luôn là những mục tử nhân lành, hết lòng chăm sóc và dẫn dắt đoàn chiên Chúa trao phó. Đồng thời, chúng ta cũng cầu nguyện cho có thêm nhiều bạn trẻ quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa, dấn thân phục vụ Hội Thánh và tha nhân.

Mỗi người chúng ta, dù ở bậc sống nào, cũng được mời gọi trở nên "người mục tử" trong môi trường sống của mình. Chúng ta có thể là người mục tử nhân lành trong gia đình, trong cộng sở, trong cộng đoàn giáo xứ, bằng cách quan tâm, yêu thương, nâng đỡ và hướng dẫn những người xung quanh đến với Chúa và đến với những điều tốt đẹp.

Vậy, trong tuần sống mới này, mỗi người chúng ta hãy tự hỏi lòng mình: Tôi có thực sự lắng nghe tiếng Chúa trong cuộc sống? Tôi có đang bước theo Chúa với tất cả lòng tin và tình yêu? Tôi có tin tưởng vào sự bảo vệ và tình yêu vô bờ bến của Chúa dành cho tôi? Và tôi có sẵn sàng trở nên một người "mục tử" nhân lành cho những người xung quanh không?

Nguyện xin Chúa Giêsu, Người Mục Tử nhân lành, luôn đồng hành, dẫn dắt và bảo vệ chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Amen.

 

Thứ hai: Cv 11, 1-18; Ga 10,1-10

Suy niệm 1:

Đoạn sách Cvtđ hôm nay ghi lại cuộc đối thoại giữa Phêrô và những người tín hữu gốc Do thái về vấn đề: có nên mở cửa để tiếp nhận dân ngoại vào ngôi nhà Hội Thánh theo lệnh truyền của Chúa Giêsu Phục sinh là: các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20), hay là đóng chặt cửa để bảo toàn những giá trị truyền thống của dân tộc mình?

Với những người tín hữu gốc Do Thái thì không được vượt ra những luật lệ truyền thống như: không được đi vào nhà dân ngoại, không được ăn uống những thức ăn bị xem là ô uế; nhất là phải giữ luật cắt bì. Cho nên khi họ nghe biết sự việc ông Phêrô vào nhà ông Cornêliô là người ngoại ăn uống, giảng dạy giáo lý và rửa tội cho ông và cả gia đình, mà không phải giữ luật cắt bì. Điều này đã làm cho họ rất khó chịu. Vì thế, ngay khi ông Phêrô đặt chân về Giêrusalem thì họ kéo đến phản đối mạnh mẽ việc làm của Phêrô.

Nhưng, sau khi lắng nghe Phêrô giải thích về những gì ông làm không phải là do sáng kiến của ông mà xuất phát từ ý muốn của Thiên Chúa, ngang qua hai thị kiến kỳ lạ đã xảy ra với ông và với ông Cornêliô. Từ hai thị kiến ấy đã làm cho bản thân Phêrô hiểu và xác quyết chắc chắn hơn về ý định của Thiên Chúa là: “Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta”. 

Sau khi lắng nghe được lời giải thích của Phêrô, các tín hữu ở Giêrusalem đã bị thuyết phục và họ đã thay đổi cái nhìn về dân ngoại. Họ cũng nhận ra rằng: “Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn sám hối để được sự sống”. Thế là mọi việc được giải quyết êm đẹp nhờ vào việc gặp gỡ, lắng nghe và phân định dưới ánh sáng của Lời Chúa.

Bế quan tỏa cảng để gìn giữ và bảo toàn hay là mở rộng cửa tiếp nhận cái mới làm phong phú và hoàn thiện hơn, đó luôn là vấn đề được đặt ra để bàn luận không những trên bình diện vĩ mô mà còn là vấn đề được đặt ra trên bình diện vi mô, cụ thể nơi các gia đình hôm nay, khi mà quyền tự do chính kiến nơi mỗi người được xã hội bảo hộ và tôn trọng.

Xin cho các thành viên trong gia hiểu rằng: gìn giữ bảo vệ những giá trị truyền thống của cha ông là điều đáng trân quý, nhưng nếu vì tục lệ truyền thống mà gây bất ổn xã hội và làm tổn hại đến môi trường thì cũng nên xét lại. Nhất là với các gia đình Công giáo khi có những bất đồng quan điểm xảy ra thì phải biết lấy Lời Chúa và đường hướng của GH làm nền tảng để giải quyết vấn đề. Bởi ta tin rằng Lời Chúa là chân lý và Giáo huấn GH là lẽ khôn ngoan hướng dẫn chúng ta. Đó cũng là chọn lựa khôn ngoan của thánh Phêrô: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm.” (Cv 5,32).

 

Suy niệm 2: 

Đoạn tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta biết những đặc tính cần phải có của người mục tử nhân lành:

1. Dám hy sinh mạng sống mình: Đoàn chiên không phải là của người chăn thuê, nên anh ta không thiết tha gì để bảo vệ đàn chiên. Mục tiêu của người chăn thuê thường là vì lợi ích của bản thân. Vì thế khi có sói dữ tấn công, anh ta sẽ dễ dàng bỏ mặt chiên cho sói dữ ăn thịt, còn anh ta thì sẽ tìm cách thoát thân. Còn mục tử chân chính thì sẵn sàng đứng ra chống lại sói dữ để bảo vệ đàn chiên mình, dù phải đối mặt với hiểm nguy, cho dù phải hy sinh mạng sống.

2. Biết chiên của mình: Cái biết của người mục tử không chỉ là cái biết chung chung về số lượng, hời hợt về tên gọi. Nhưng mục tử đích thực phải biết chất lượng: tình trạng, nhu cầu, ước muốn sâu xa của chiên mình. Cái biết đến độ đồng thân, đồng phận, đồng cảm và đồng tử với chiên mình.

3. Quan tâm và đưa những chiên xa lạc về đàn: Vì chiên cần có chủ chiên nên chủ chiên phải quy tụ chiên vào cùng một đàn để chăm sóc, bảo vệ và nuôi dưỡng cho chúng được sống và sống dồi dào. Do đó chủ chiên không chỉ quan tâm đến chiên trong đàn mà còn tìm cách để đem các chiên ngoài đàn về, để chúng được hiệp nhất trong cùng một đàn dưới sự hướng dẫn của cùng một chủ chiên.

Xin cho các vị chủ chăn sẵn sàng hy sinh không chỉ thời giờ sức khoẻ mà cả mạng sống để phục vụ cho cộng đoàn được lớn mạnh trong sức sống của Chúa. 

Xin cho các vị chủ chăn cũng khiêm tốn tìm hiểu và lắng nghe những tâm tư nguyện vọng chính đáng của mọi người trong cộng đoàn mà sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu ấy bằng tình thương của người mục tử nhân từ. Đừng vì tự cao, tự ái mà bỏ ngoài tai những đòi hỏi, nhu cầu chính đáng của giáo dân. Xin cho các vị chủ chăn ngoài việc lo lắng chăm sóc cho đàn chiên mình cho tốt, còn phải quan tâm đến những con chiên ngoài đàn. Tìm mọi cách để dẫn đưa họ về với Chúa, hầu họ cũng được sống trong tình thương chăm sóc của tình yêu Chúa.

 

Suy niệm 3:

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về cửa chuồng chiên. Nhưng cửa này không phải là vật dụng bằng gỗ hay đá mà là chính bản thân Ngài. Ngài tự ví mình là cửa chuồng chiên vì muốn nói lên tình yêu Ngài dành cho đàn chiên. Ngài là cửa chuồng chiên nên Ngài luôn bảo vệ cho chiên được nghỉ ngơi an toàn. Ngăn chặn sói rừng vào sát hại chiên cũng như không để cho kẻ trộm cướp vào bắt chiên.

Đức Kitô còn đưa ra hai hình ảnh trái ngược, người chăn chiên nhân lành, và người chăn chiên thuê mướn.

Người chăn chiên nhân lành, ngày đêm chăm sóc, bảo vệ đàn chiên, dẫn chúng đến nguồn nước trong lành, đồng cỏ xanh tươi. Người chăn chiên nhân lành luôn sẵn sàng bảo vệ đàn chiên khỏi bị thú dữ sát hại và anh dũng dấn thân vào chốn nguy hiểm để bảo vệ cho đàn chiên được sống dồi dào. Mục tử nhân lành còn biết rõ từng con chiên và chấp nhận mang lấy mùi chiên, hiểu biết và gọi đúng tên từng con chiên. Ngược lại chiên ngoan cũng nhận ra bóng dáng và tiếng gọi của chủ mình mà nghe theo.

Qua cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô minh chứng cho một tình yêu vĩ đại mà Đức Kitô, mục tử nhân lành dành cho chúng ta là đàn chiên của Người.

Vì là cửa chuồng chiên nên Đức Kitô để cho chúng ta có quyền tự do lựa chọn. Những ai tin yêu, chọn bước theo Ngài thì sẽ đón nhận được tình yêu hy hiến của Ngài. Ngược lại những ai chọn theo ý riêng mình thì không bao giờ đón nhận được tình yêu hy sinh của Người. 

Ai chọn yêu mến và tin theo Đức Kitô sẽ không mất gì cả mà còn nhận được nhiều ơn phúc của Chúa ban tặng. Cuộc sống họ trở nên phong phú, tinh thần thảnh thơi, tâm tư thoải mái và luôn sống trong vui, ngay cả khi gặp gian nan thử thách.

Chuồng chiên chỉ bảo vệ cho những ai yêu mến, tín trung còn những kẻ bất tín thì chuồng chiên không thể bảo vệ được. Vì lòng nhân lành, Chúa Kitô đã sẵn sàng mở cửa chuồng chiên để đón nhận bất cứ ai biết hồi tâm, thống hối quay trở về cùng đàn chiên Người chăn dắt. 

Đức Kitô không chỉ là người gác cửa mà Ngài còn là người đi tìm những con chiên lạc, khi tìm được thì vui mừng vác trên vai mang về đàn (Lc 15,5) với mong sao chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên duy nhất.

Trộm cắp dùng nhiều hình thức dụ dỗ để bắt chiên; còn sói dữ thì luôn rình rập cắn xé chiên. Người chăn chiên mướn là người làm thuê, chủ chiên trả công. Nếu người đó không hoàn thành nhiệm vụ được trao phó; người đó hành động khác chi kẻ trộm cướp hay sói rừng, trá hình, đội lốt, chăn chiên để cầu lợi, để ngầm cấu xé và cắn phá chiên.

Chúng ta dâng lời tạ ơn Đức Kitô, Đấng chăn chiên nhân lành đã yêu thương và hy sinh mạng sống vì ta. Xin cho chúng ta trở thành chiên ngoan luôn biết nghe lời của Chúa mà sống hiệp thông với nhau trong tình yêu thương  của Chúa. Amen.

  

Suy niệm 4:

Đoạn Tin Mừng hôm nay nói đến sự tương phản giữa người mục tử đích thực và kẻ trộm cướp, bằng những hình ảnh gợi mở sau đây:

- Đức Giê-su là cửa chuồng chiên: Hình ảnh "cửa" cho thấy vai trò thiết yếu của Đức Giê-su. Chỉ qua Người, đàn chiên mới có thể ra vào an toàn và tìm được đồng cỏ xanh tươi. Người là con đường duy nhất dẫn đến sự sống và ơn cứu độ.

- Người mục tử đi qua cửa: Người mục tử thật không lẻn vào bằng lối khác, nhưng đường hoàng đi qua cửa. Điều này nói lên sự chính trực, công khai và tình yêu thương chân thành của Đức Giê-su đối với đoàn chiên.

- Chiên nghe tiếng người mục tử: Mối tương quan giữa mục tử và đàn chiên là một mối tương quan thân thiết và tin tưởng. Chiên nhận ra tiếng của mục tử, quen thuộc với tiếng gọi yêu thương của Người và sẵn sàng đi theo.

- Mục tử gọi đích danh từng con: Tình yêu của Đức Giê-su không phải là tình yêu chung chung, mà là tình yêu cụ thể dành cho từng người. Người biết rõ từng người, quan tâm đến từng nhu cầu và gọi đích danh mỗi người.

- Mục tử dẫn chiên ra ngoài: Mục tử không giữ chiên khư khư trong chuồng, nhưng dẫn chúng đến những đồng cỏ tươi tốt, nơi chúng được nuôi dưỡng và phát triển. Đức Giê-su cũng muốn dẫn chúng ta ra khỏi những giới hạn chật hẹp của bản thân để đến với sự sống dồi dào.

- Kẻ trộm cướp đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy: Trái ngược với hình ảnh người mục tử nhân lành, kẻ trộm cướp chỉ nghĩ đến lợi ích riêng mình, không quan tâm đến sự an toàn và hạnh phúc của đàn chiên. Chúng dùng mọi thủ đoạn để chiếm đoạt và gây hại.

- Đức Giê-su đến để cho chiên được sống và sống dồi dào: Mục đích của Đức Giê-su đến thế gian là để ban cho chúng ta sự sống thật, một cuộc sống tràn đầy ân sủng, bình an và hạnh phúc vĩnh cửu.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại mối tương quan của mình với Đức Giê-su, người Mục Tử Nhân Lành. Hãy để Người dẫn dắt chúng ta trên con đường sự sống và bình an.

 

Suy niệm 5:

Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục dùng hình ảnh mục tử và đàn chiên để nói về mối tương quan giữa Người với dân của Người. Người khẳng định: “Ai không qua cửa chuồng chiên mà vào, nhưng trèo vào lối khác, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp... Ta là cửa chuồng chiên.” (Ga 10,1.7)

Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên, nghĩa là chính Người là con đường duy nhất dẫn đến sự sống, đến chân lý và ơn cứu độ. Không ai có thể đến với Thiên Chúa mà không qua Người. Lắng nghe và bước theo Người là bước đi trong sự thật, trong ánh sáng.

Bài đọc 1 kể lại việc thánh Phêrô giải thích tại sao ông lại rửa tội cho những người ngoại giáo. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, thánh Phêrô đã vượt qua lề luật và thành kiến Do Thái để đón nhận dân ngoại vào Giáo Hội. Điều này cho thấy công trình của Thiên Chúa không bị giới hạn bởi biên giới, chủng tộc hay truyền thống, mà mở ra cho hết mọi người biết lắng nghe và tin theo Chúa Giêsu.

Chính hành động "vượt rào" của thánh Phêrô là dấu chỉ sống động cho thấy: ai bước qua "cửa" là chính Chúa Giêsu thì dù là Do Thái hay dân ngoại  đều được dẫn vào sự sống.

Ngày nay, giữa biết bao tiếng gọi của thế gian, tiền bạc, danh vọng, chủ nghĩa cá nhân...chúng ta có còn lắng nghe được tiếng nói của Mục Tử đích thực không? Chúa Giêsu không ngừng mời gọi ta tin tưởng, bước vào trong đàn chiên của Người qua cửa là chính Người: cửa của tình yêu thương, khiêm tốn, phục vụ và tha thứ.

Xin Chúa giúp chúng ta biết tránh xa những tiếng gọi lừa dối và nguy hiểm của thế gian để trung tín bước theo Chúa Giêsu đến cùng, nhờ việc lắng nghe tiếng Chúa.

Xin cũng cho chúng ta trở nên những mục tử nhân lành: biết quan tâm chăm sóc, hy sinh phục vụ... mọi người với tấm lòng yêu thương chân thành theo gương Chúa Giêsu vị mục tử nhân lành. Amen.

 

Thứ ba: Cv 11,19-26; Ga 10, 22-30.

Suy niệm 1: 

Đoạn sách Cvtđ hôm nay gồm 2 phần:

- Phần thứ nhất: ghi lại thành quả tốt đẹp của GH sau những ngày tháng lo sợ chạy trốn vì cuộc bách hại xảy ra nhân sự kiện phó tế Stêphanô tử đạo tại Giêrusalem. Các môn đệ phải tản mác đến các miền Phênixi, đảo Syp và thành Antiôkhia để trú ẩn.  Tại những nơi đây, các môn đệ chỉ rao giảng cho người Do Thái. Tuy nhiên trong đó, có mấy người gốc Syp và Kyrênê, những người này, khi đến Antiôkhia, đã mạnh dạn loan Tin mừng của Chúa cho người Hy-lạp nữa. Kết quả thật bất ngờ là “một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa”. Nhờ đâu mà có nhiều người ngoại giáo tin theo Chúa như vậy? Thánh Luca cho biết đó là nhờ“bàn tay Chúa ở với họ”. Nghĩa là nhờ vào sức mạnh và quyền năng Thiên Chúa phù giúp họ. Chính tại Antiokhia mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu.

- Phần thứ hai: Đề cao đến tình hiệp thông trong Hội Thánh. Khi nghe biết một số đông dân ngoại tại Antiokhia tin theo đạo, thì các vị hữu trách của Hội Thánh tại Giêrusalem cử ông Barnaba đến để chia sẻ niềm vui và củng cố đức tin cho các tín hữu ở đây bằng cách khuyên nhủ họ hãy bền lòng gắn bó với Chúa. Rồi ông lên đường đi Tácxô để tìm Saolô về để cộng tác với ngài lo cho giáo đoàn tại đây. Nhờ đó, giáo đoàn Antiokhia càng thêm lớn mạnh. Qua đây cho thấy sự quan tâm, nâng đỡ kịp thời của Hội Thánh. Điều này làm nổi bậc lên tính phổ quát và tình hiệp thông của GH Công giáo.

Với cái nhìn của con người thì sự kiện Hội Thánh bị bách hại gắt gao ở Giêrusalem là nỗi đau, nhưng với Thiên Chúa thì đó lại là cơ hội để Tin mừng đến được với dân ngoại. Nhất là trong mọi hoàn cảnh GH luôn biết quan tâm tìm hiểu để nâng đỡ cách tốt nhất trong tình hiệp thông.

Xin cho chúng ta luôn biết phó thác vào đường lối khôn ngoan của Chúa và tin tưởng vào đường hướng của GH. Phần ta hãy luôn biết tận dụng mọi hoàn cảnh để làm chứng tin mừng của Chúa theo gương các tín hữu Hy Lạp hóa theo tinh thần nhiệt tâm của thánh Barnaba và Phaolô: Hãy rao giảng Lời Chúahãy lên tiếnglúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiệnhãy biện báchãy khiển tráchhãy khuyên lơnhết tình đại lượng và dụng tâm dạy dỗ” (2 Tim 4, 2).

 

Suy niệm 2:

Nhờ bí tích rửa tội, chúng ta trở thành chiên của Chúa. Xin cho chúng ta hết lòng tin kính, vâng lời và sẵn sàng đi theo sự hướng dẫn của Chúa Giêsu, vị chủ chăn tốt lành chúng ta.

Dù được nghe những lời giảng dạy và chứng kiến biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng những người Do Thái, cách riêng Biệt Phái và Kinh Sư vẫn không tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Do đâu mà họ không tin nhận và nghe theo lời của Chúa Giêsu?

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho biết, vì họ không thuộc về đoàn chiên của Ngài. Theo nghĩa phổ quát, mọi người đều là chiên của Chúa, vì mọi người đều được Chúa yêu thương dựng nên và hy sinh đổ máu cứu chuộc. Tuy nhiên để trở thành chiên thật thuộc về Chúa thì cần phải thỏa mãn hai điều kiện:

1. Tin nhận Chúa và chịu phép rửa tội. Vì giáo lý công giáo dạy: nhờ bí tích rửa tội, chúng ta được thanh tẩy mọi tội lỗi, được làm con Chúa, được gia nhập vào đoàn chiên Chúa là Giáo Hội.

2. Phải nghe theo lời Chúa là mục tử tối cao, cũng như tuân giữ mọi điều răn và luật lệ Chúa truyền dạy với tình yêu mến.

Nhiều người Do Thái đã không thành tâm yêu mến Chúa, nên cho dù Chúa Giêsu ở giữa họ, có giảng dạy và làm nhiều phép lạ, họ vẫn không tin nhận, vì họ không thuộc đoàn chiên đích thực của Chúa.

Như Chúa Giêsu đã nói: chỉ những ai thuộc đoàn chiên Chúa, thì mới được Chúa gìn giữ và ban cho sự sống đời đời .

Xin cho chúng ta biết tin kính và yêu mến Chúa Giêsu, đấng chăn chiên tốt lành của chúng ta. Đồng thời cho chúng ta luôn là những con chiên ngoan hiền của Chúa. Biết lắng nghe, vâng lời và thi hành điều Chúa chỉ dạy với tình con thảo.


Suy niệm 3:

Đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tiếp tục mạc khải về căn tính của Ngài và mối tương quan mật thiết giữa Ngài với những ai thuộc về Ngài.

Hình ảnh Người Mục Tử Nhân Lành và đàn chiên được nhấn mạnh với một điểm then chốt: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi.”

1. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi”

Người thuộc về Chúa là người nhận ra tiếng của Chúa và lắng nghe với lòng tin tưởng. Tiếng của Chúa không ồn ào, không áp đặt, nhưng dịu dàng và kiên nhẫn. Trong thế giới hôm nay, có biết bao “tiếng nói” chen lấn và lôi kéo: tiếng nói của danh vọng, hưởng thụ, thành công... Người môn đệ của Đức Kitô cần học cách tĩnh lặng, phân định và dành thời gian để lắng nghe tiếng Người trong Lời Chúa, trong cõi lòng, và trong dấu chỉ của đời sống.

2. “Tôi biết chúng và chúng theo tôi”

Không chỉ là một sự nhận diện từ phía con người, chính Đức Giêsu cũng biết từng con chiên của mình. Ngài biết rõ từng người, từng hoàn cảnh, từng nỗi sợ hãi và những yếu đuối. Ngài không chỉ biết, mà còn yêu thương và bảo vệ. Và người môn đệ thì đáp trả bằng việc “theo Người”, nghĩa là bước đi theo đường lối của Chúa, vâng phục và tin tưởng.

3. “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời”

Đây là phần thưởng lớn lao cho những ai trung thành bước theo Chúa Giêsu: sự sống đời đời; không ai có thể cướp đi, không quyền lực nào có thể hủy hoại. Người tín hữu sống trong niềm xác tín ấy sẽ tìm được bình an và hy vọng giữa những gian nan thử thách.

Giữa một thế giới ồn ào và đầy cám dỗ hôm nay, xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa mỗi ngày, biết nhận ra tiếng mời gọi yêu thương và sự thật của Chúa giữa bao tiếng gọi phù phiếm và giả dối.

Xin Chúa cho chúng ta luôn bước theo Chúa, dù đường đời có lúc tối tăm, đau khổ hay thất vọng, vì con tin rằng Chúa là Mục Tử nhân lành, và sự sống đời đời nơi Chúa là bảo đảm vững chắc cho con. Amen.


Thứ tư: Cv 1,15-17.20-26; Ga 15,9-17

KÍNH THÁNH MAT-THI-A, TÔNG ĐỒ

Nhân ngày GH mừn kính Thánh Matthia, tông đồ, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về con người, ơn gọi và sứ vụ của ngài:

1. Con người: Chúng ta biết rất ít về con người của Thánh Matthia trước khi ông được gọi làm Tông Đồ. Kinh Thánh chỉ đề cập đến ông trong sách Công Vụ Tông Đồ (Cv 1,15-26) khi các Tông Đồ còn lại họp nhau để chọn người thay thế cho Giuđa Iscariốt, kẻ đã phản bội Chúa Giêsu.

Những tiêu chuẩn được đặt ra cho người thay thế Giuđa là:

- Phải là người đã đi theo Chúa Giêsu trong suốt thời gian Người thi hành sứ vụ công khai, từ khi Gioan Tẩy Giả rửa tội cho đến khi Chúa Giêsu lên trời.

- Phải là người đã chứng kiến sự phục sinh của Chúa Giêsu.

Matthia đã đáp ứng cả hai tiêu chuẩn này. Truyền thống cho rằng ông là một trong 72 môn đệ mà Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng (Lc 10,1-24). Điều này cho thấy ông đã là một người theo Chúa Giêsu tận tâm và đã có kinh nghiệm rao giảng Tin Mừng. Tên "Matthia" có nguồn gốc từ tiếng Hebrew "Mattithyahu," có nghĩa là "món quà của Thiên Chúa."

2. Ơn gọi: Ơn gọi của Thánh Matthia đến một cách đặc biệt. Sau khi Giuđa phản bội và tự tử, vị trí của ông trong Nhóm Mười Hai bị bỏ trống. Thánh Phêrô nhận thấy sự cần thiết phải lấp đầy vị trí này để duy trì con số tượng trưng của Mười Hai Tông Đồ, tương ứng với mười hai chi tộc Israel.

Hai người đủ tiêu chuẩn đã được đề xuất: Giuse, biệt danh là Barsabba (hay Justus), và Matthia. Các Tông Đồ đã cầu nguyện xin Chúa chỉ ra người mà Ngài đã chọn. Sau đó, họ rút thăm, và lá thăm rơi trúng Matthia. Như vậy, ông đã được thêm vào Nhóm Mười Một Tông Đồ, trở thành một trong Mười Hai.

Như vậy, ơn gọi của Matthia không trực tiếp từ lời kêu gọi của Chúa Giêsu như các Tông Đồ ban đầu, mà thông qua sự phân định và quyết định của cộng đoàn các Tông Đồ dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Điều này cho thấy vai trò của Giáo hội sơ khai trong việc nhận ra và đáp lại ơn gọi của Thiên Chúa.

3. Sứ vụ: Sau khi được chọn làm Tông Đồ, Thánh Matthia đã dấn thân vào sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Phúc âm không ghi lại chi tiết về công việc của ông sau Lễ Ngũ Tuần. Tuy nhiên, các truyền thống khác nhau cung cấp một số thông tin về những nơi ông đã đến và cách ông đã chết.

Một số truyền thống cho rằng ông đã rao giảng ở Giuđa, sau đó đi đến các vùng đất khác như Cappadocia (nay là một vùng ở Thổ Nhĩ Kỳ), bờ biển Caspi, và thậm chí cả Ethiopia.

Về cái chết của ông, cũng có nhiều truyền thuyết khác nhau. Một số cho rằng ông đã bị đóng đinh ở Colchis (một vùng đất cổ ở phía tây Gruzia ngày nay), trong khi những người khác nói rằng ông đã bị ném đá đến chết ở Jerusalem, và sau đó còn bị chặt đầu như một kẻ thù của Caesar.

Dù thông tin chi tiết về cuộc đời và sứ vụ của Thánh Matthia không nhiều, việc ông được chọn để thay thế Giuđa cho thấy tầm quan trọng của ông trong việc thiết lập nền tảng của Giáo hội. Ông là một nhân chứng trung thành của Chúa Giêsu từ đầu cho đến cuối, và sự sẵn sàng của ông để đáp lại ơn gọi Tông Đồ đã góp phần vào việc lan rộng Tin Mừng trong những ngày đầu tiên.

Thánh Matthia Tông Đồ được coi là đấng bảo trợ cho những người làm nghề mộc, thợ may, những người mắc bệnh đậu mùa và những người đang phải vật lộn với chứng nghiện rượu.


Suy niệm 1:

Hòa nhịp cùng với GH, hôm nay chúng ta mừng kính thánh Matthia, tông đồ. Về thân thế, sự nghiệp và hoạt động của tông đồ Matthia chúng ta không biết gì cả, bởi lẽ các sách Tin mừng không nói đến. Ta chỉ biết được một chút thông tin về thánh Matthia qua đoạn sách Cvtđ hôm nay.

Đoạn Sách Cvtđ hôm nay, thánh Luca trình bày lại sự việc các tông đồ muốn đề cử người nào đó vào thay thế chỗ cho tông đồ Giuđa Iscariốt còn bỏ trống lại sau khi chết.

Với tư cách là tông đồ trưởng và là người đại diện Hội Thánh, Phêrô đã đứng lên phát biểu trước cộng đoàn khoảng 120 người về số phận và cái chết bi thương của tông đồ Giuđa Iscariốt. Cái chết ấy xảy ra là vì ông ta đã cố ý chọn cho mình con đường gian ác mà phản bội lại Chúa Giêsu. Rồi Phêrô đề nghị cộng đoàn hãy chọn ra một người để thay thế cho Giuđa Iscariốt cho đủ con số 12 tông đồ như ngay từ đầu Chúa Giêsu đã thành lập, nhưng phải thỏa mãn với hai tiêu chí sau đây:

(1) Phải là người theo Chúa Giêsu từ khi bắt đầu Người rao giảng: “kể từ phép rửa của Gioan cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời”.

(2) Người ấy phải là chứng nhân cho sự Phục sinh của Chúa: “phải có một người trở thành chứng nhân cùng với chúng tôi về cuộc Phục Sinh của Người”.

Xét theo hai tiêu chuẩn trên thì chỉ có ông Giuse (biệt danh là Basaba, cũng gọi là Giútô) và ông Mátthia là hội đủ hai điều kiện đề ra. Sau khi cộng đoàn cầu nguyện và rút thăm, thì ông Matthia trúng thăm và được chọn vào vị trí tông đồ thay cho Giuđa Iscariốt đã bỏ trống.

Như vậy Matthia là tông đồ được chọn sau cùng để lấp vào chỗ trống của tông đồ Giuđa Iscariốt để lại. Ngài cũng là vị tông đồ âm thầm nhất, bởi các sách Tân Ước không hề nhắc đến tên, tiếng nói hay một hoạt động nào của ngài cả.

Tuy nhiên nếu dựa vào hai tiêu chuẩn được đề ra để chọn lựa vị trí tông đồ thay cho Giuđa Iscariốt ở trên, thì ta có thể biết được tông đồ Matthia là một người trung thành theo Chúa Giêsu từ đầu cho đến cùng; và là chứng nhân can đảm về sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Nên ngài xứng đáng được cộng đoàn tin tưởng đề cử và được Thiên Chúa yêu mến tuyển chọn.

Là con người, tự nhiên ai trong chúng ta cũng thích được đứng đầu và muốn làm lớn để được nổi danh. Sẽ rất buồn nếu là người đội sổ và bị người khác xem là kẻ bé nhỏ. Nhưng với thánh Matthia thì điều đó không quan trọng; điều mà ngài quan tâm là trung thành đi theo Chúa đến cùng để được “ở lại trong tình yêu của Thầy”.

Nếu như người đời ai cũng thích làm nổi, để được nhiều người biết đến và được tung hô ca tụng, thì với thánh Matthia, tông đồ chỉ mong muốn được làm chứng nhân âm thầm cho Chúa Phục sinh với hy vọng mọi người tin nhận mà sống theo lệnh truyền yêu thương của Chúa chỉ dạy. Đó chính là con đường đúng đắn nhất và theo con đường ấy chắn chắn ta sẽ trở nên bạn hữu của Chúa Giêsu và sẽ được vinh dự thừa hưởng niềm vui và hạnh phúc trọn vẹn hôm nay và mai này.

Nhờ lời chuyển cầu của thánh tông đồ Matthia, xin Chúa ban cho chúng ta có được niềm tin kiên vững theo Chúa đến cùng; nhất là biết tích cực làm chứng nhân cho Tin mừng Phục sinh của Chúa bằng chính đời sống yêu thương như Chúa truyền dạy theo gương thánh Matthia tông đồ, mà GH mừng kính hôm nay.


 Suy niệm 2: 

Hôm nay, GH kính nhớ thánh Mát-thi-a Tông đồ, chúng ta được mời gọi suy niệm hai đoạn Kinh Thánh đầy ý nghĩa: Công vụ Tông đồ 1,15-17.20-26 và Tin Mừng Gioan 15,9-17.

1. Công vụ Tông đồ: Đoạn sách này trình thuật lại sự kiện cộng đoàn kitô hữu tiên khởi bầu chọn người thay thế Giu-đa I-xca-ri-ốt. Sau khi cầu nguyện, họ đã rút thăm và chọn ông Mát-thi-a. Điều này cho thấy sự quan trọng của việc duy trì con số mười hai Tông đồ, tượng trưng cho mười hai chi tộc Ít-ra-en, nền tảng của Giáo hội.

Qua đây, chúng ta cũng nhận thấy vai trò của Thánh Phê-rô trong việc dẫn dắt cộng đoàn dân Chúa và sự tin tưởng của họ vào sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần qua việc cầu nguyện và rút thăm.

2. Tin Mừng Gioan: Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giê-su nhấn mạnh đến tình yêu của Ngài dành cho các môn đệ và mời gọi họ ở lại trong tình yêu đó. Tình yêu của Chúa Giê-su là mẫu mực cho tình yêu mà các môn đệ phải dành cho nhau: một tình yêu quảng đại, hy sinh và phục vụ. Chúa Giê-su gọi các môn đệ là bạn hữu và chọn họ để họ ra đi và sinh nhiều hoa trái.

- Như vậy, phụng vụ lời Chúa hôm nay muốn nói với chúng ta những điều quan trọng sau:

1. Sự chọn lựa và ơn gọi: Việc chọn Mát-thi-a nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa có kế hoạch cho mỗi người và Ngài kêu gọi chúng ta cộng tác vào công trình của Ngài. Mỗi người chúng ta, qua bí tích Rửa tội, đều được mời gọi trở thành môn đệ và tông đồ của Chúa trong môi trường sống của mình.

2. Tình yêu là nền tảng: Đoạn Tin Mừng nhấn mạnh rằng tình yêu của Chúa Giê-su là nguồn mạch và là khuôn mẫu cho mọi hành động của chúng ta. Nếu chúng ta ở lại trong tình yêu của Ngài và yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta, chúng ta sẽ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp cho Nước Chúa.

3. Bạn hữu của Chúa: Chúa Giê-su gọi chúng ta là bạn hữu, một mối quan hệ thân thiết và tin tưởng. Điều này đòi hỏi chúng ta phải lắng nghe và thực hành những điều Ngài dạy, sống theo tinh thần phục vụ và yêu thương.

4. Sinh hoa trái: Chúa Giê-su chọn chúng ta để chúng ta ra đi và sinh hoa trái. Hoa trái này không chỉ là những việc làm cụ thể mà còn là chứng tá đời sống đức tin, tình yêu và hy vọng của chúng ta giữa thế giới.

- Tóm lại: Lễ mừng kính thánh Mát-thi-a hôm nay mời gọi chúng ta suy xét về ơn gọi của mình, về mối tương quan của chúng ta với Chúa Giê-su và với anh chị em. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ơn để chúng ta luôn ở lại trong tình yêu của Ngài và trở thành những người bạn hữu, những tông đồ nhiệt thành, mang lại nhiều hoa trái cho Nước Trời.

 

Suy niệm 3:

Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em”. Đây là một sự thật nền tảng của đời sống Kitô hữu. Chúng ta không phải là người chủ động bước vào ơn gọi, nhưng là người được mời gọi, được chọn và được sai đi bởi chính Thiên Chúa.

Thánh Mat-thi-a là một minh chứng sống động cho sự tuyển chọn đó. Sau khi Giu-đa I-xca-ri-ốt phản bội và lìa bỏ hàng ngũ các Tông Đồ, các môn đệ đã cùng nhau cầu nguyện và chọn người thay thế. Thánh Mat-thi-a được chọn không phải vì thành tích hay danh tiếng, nhưng vì ông là một trong những người “đã cùng chúng ta theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người thi hành sứ vụ” (Cv 1,21-22). Ông là nhân chứng của sự trung thành âm thầm.

Ơn gọi của thánh Mat-thi-a nhắc chúng ta rằng: Thiên Chúa không chọn người giỏi nhất, mà chọn người sẵn sàng nhất. Sự hiện diện liên lỉ bên Chúa, lòng trung tín trong âm thầm, là điều kiện để Thiên Chúa có thể sử dụng mỗi người cho kế hoạch yêu thương của Ngài.

Chúa Giêsu còn dạy các môn đệ rằng: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Được chọn để yêu thương và để sinh hoa trái, đó là sứ mạng của người môn đệ. Hoa trái ấy chính là những hành động cụ thể của yêu thương, hy sinh và phục vụ.

Chúng ta tạ ơn Chúa vì đã yêu thương chọn gọi mỗi người chúng ta làm con Chúa, dù ta bất xứng và yếu đuối. Xin cho chúng ta biết sống trung tín với ơn gọi Kitô hữu mình. Biết yêu thương, phục vụ và sinh nhiều hoa trái cho Nước Trời,

theo gương thánh Tông đồ Mat-thi-a. Amen.

 

Mùa Phục Sinh: Cv 12,24-13,5a; Ga 12,44-50

Suy niệm 1:

Như chúng ta đã biết, sách Cvtđ ghi lại những sự việc xảy ra trong GH lúc ban đầu, cũng như trình bày về những hoạt động truyền giáo của các tông đồ, khởi đi từ “Giêrusalem trong khắp miền Giuđê, Sammari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1,8), nhằm thực thi lệnh truyền của Chúa Giêsu phục sinh, trước khi Người lên trời.

Dựa vào nội dung những gì thánh Luca ghi lại, người ta có thể chia sách Cvtđ ra làm 2 phần (hoặc 3 phần) tùy theo cái nhìn của đọc giả.

A. Nếu chia sách Cvtđ thành 2 phần thì:

1. Phần thứ nhất (chương 1-12): nói về những sự việc xảy ra của GH và nhấn mạnh đến sứ vụ làm chứng của các tông đồ tại Giêrusalem và những vùng phụ cận như: Samaria (8,4-40), Xêdarê Duyên Hải (10,1-11,18), Phênixi và Sýp (11,19, và Antiokhia (11,22-26).

2. Phần thứ hai (chương 13-28): nói nhiều về hoạt động của thánh Phaolô và nhấn mạnh đến 3 cuộc hành trình truyền giáo của ngài:

- Hành trình truyền giáo thứ nhất (13,4-14,28): bắt đầu từ An-ti-ô-khi-a miền Xy-ri-a đến tận Lý-tra, Đéc-bê, rồi trở về An-ti-ô-khi-a (13,1) vào những năm 46-48.

- Hành trình truyền giáo thứ hai (15,36-18,22): Bắt đầu từ An-ti-ô-khi-a miền Xy-ri-a đến A-thê-na (Hy lạp), Cô-rin-tô qua Giê-ru-sa-lem và về An-ti-ô-khi-a (18,22) vào những năm 49 đến 52.

- Hành trình truyền giáo thứ ba (18,23-21,16): Bắt đầu từ An-ti-ô-khi-a đến Cô-rin-tô, rồi về Giê-ru-sa-lem (20,1-6).

Nói đến sự kiện Phaolô bắt giam tại Giêrusalem, rồi tại Xê-da-rê Duyên Hải (21,17-26,32), nhưng vì Phaolô có quốc tịch Rôma (16,21.37) nên ngài được bị dẫn độ về Rôma xét xử. (Lm. Tanila Hoàng Đắc Ánh, OP).

B. Còn nếu chia sách Cvtđ làm 3 phần thì:

1. Phần thứ nhất (1-7): Phêrô và các tông đồ làm chứng tại Giêrusalem.

2. Phần thứ hai (8-12): Phêrô và các phó tế làm chứng tại Giuđê và Sammaria.

3. Phần thứ ba (13-28): Phaolô làm chứng cho dân ngoại đến tận cùng thế giới (Rôma), mà theo cái nhìn thời bấy giờ thì đế quốc Rôma được coi là hùng mạnh nhất trên trái đất, nên cũng xem như là tận cùng của thế giới. (Lm. Phêrô Lê Tấn Lợi).

Khi nhìn lại như thế, ta dễ dàng nhận ra bài đọc 1 được trích đọc trong thánh lễ hôm nay được ví như là bản lề hay cánh cửa thời gian để khép lại giai đoạn thứ nhất trong sứ vụ “làm chứng” của các tông đồ tại Giêrusalem, Giuđê và Sammaria và mở ra giai đoạn thứ hai trong sứ vụ “làm chứng” cho Chúa đến tận cùng thế giới, theo như lệnh truyền của Chúa Giêsu phục sinh.

- Giai đoạn 1 (1- 12, 25): Nhìn lại giai đoạn đầu, các tông đồ chỉ làm chứng cho Chúa tại Giêrusalem và những vùng phụ cận thôi, nhưng các ngài cũng gặp rất nhiều khó khăn thử thách. Tuy nhiên với lòng nhiệt thành và với ơn ban của Thánh Thần nên lời Chúa vẫn được lớn lên (6,7), phát triển (12, 24), lan tràn và vững mạnh (19,20) cả về số lượng lẫn chất lượng. Nghĩa là Tin Mừng của Chúa đã được nhiều người đón nhận và niềm tin của các tín hữu ngày thêm vững mạnh. GH có thêm 3000 người theo đạo (2, 41), số người đàn ông hôm sau thêm đến 5000 người (4,4), số môn đệ thêm đông (6,1), thêm rất nhiều (6,7). Rất đông người Do Thái và Hylạp tin theo đạo (14, 1).

- Giai đoạn 2 (13, 1-5tt): Bắt đầu sứ vụ làm chứng cho Chúa đến tận cùng thế giới. Đây sẽ là giai đoạn mà các tông đồ sẽ đối mặt với nhiều gian nan thử thách vì phải “làm chứng” cho dân ngoại, nơi những miền xa xôi.

Ý thức được điều đó nên trước khi bắt đầu cuộc hành trình truyền giáo đầy khó khăn này, cộng đoàn An-ti-ô-khi-a đã họp nhau trong bầu khí phụng vụ thờ phượng Chúa, để lắng nghe lời Chúa hướng dẫn. Và khi ấy họ đã nghe được tiếng Thánh Thần phán: “Hãy dành Barnaba và Saolô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy”.

Cộng đoàn Antiokhia hiểu rằng sứ vụ truyền giáo của Phaolô và Barnaba trong chuyến hành trình thứ nhất này sẽ phải gặp nhiều gian khổ, nên họ đã hiệp thông cầu nguyện và phó dâng hai ông cho TC, qua việc “ăn chay, cầu nguyện, và đặt tay trên hai ông và tiễn đưa hai ông lên đường”.

Hình ảnh hiệp nhất thờ phượng Chúa qua cầu nguyện và ăn chay ấy của giáo đoàn Antiokhia thật tuyệt đẹp và cũng là bài học quý giá cho chúng ta ngày hôm nay, khi phải đối mặt với cơn đại dịch Covid-19, và trong những lúc gặp gian lao, đau khổ trong cuộc sống.

Xin Chúa cho chúng ta biết dành nhiều thời gian để hiệp thông với nhau trong cầu nguyện và chay tịnh hãm mình để đủ sức mạnh của Chúa mà vượt thắng mọi trở ngại. Xin Chúa cũng cho chúng ta cũng biết tích cực góp phần vào việc truyền giáo của GH theo khả năng của mình.  Đồng thời phải luôn ý thức rằng công cuộc truyền giáo hay loan báo tin mừng không phải là việc làm tùy tiện mang tính cá nhân nhưng phải được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần qua sự điều phối chính thức của GH, thì sứ mạng loan báo tin mừng hay “làm chứng” cho Chúa mới mang lại những kết quả tốt đẹp.

 

Suy niệm 2:

Ánh sáng rất cần thiết trong cuộc sống tự nhiên. Ánh sáng đem lại niềm vui tươi sinh động. Ở đây bài Tin Mừng muốn nói đến ánh sáng siêu nhiên, tượng trưng sự hiện diện của Thiên Chúa. Ðức Giêsu chính là ánh sáng. Ai không tin vào Ðức Giêsu, không giữ lời Ngài thì sống trong tối tăm bất hạnh. Ðức Giêsu được sai đến không để xét xử nhưng để ban ơn cứu độ. Bởi thế, nếu khước từ Lời Ngài, là tự lên án chính mình, tự tách mình ra khỏi ánh sáng vinh quang Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con hằng khao khát hạnh phúc. Mà chỉ có Chúa mới cho chúng con được hạnh phúc đích thực và trường tồn. Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng con gặp những trở ngại, khó khăn, u ám. Xin cho chúng con biết tìm đến Chúa. Nhờ ánh sáng của Chúa, chúng con sẽ tìm ra con đường đem lại hạnh phúc: Ðó là chúng con biết tin tưởng phó thác và sống theo sự hướng dẫn của Chúa. Amen.

 

Suy niệm 3:

Sống trong xã hội vàng thau lẫn lộn, con người không còn khả năng phân biệt đúng sai, tốt xấu, thật giả…vì thế, hơn bao giờ hết con người ngày hôm nay cần có ánh sáng thật soi đường, chỉ lối.

Chúa Kitô, ánh sáng thật, đến trần gian để soi đường chỉ lối. Xin cho chúng ta tin nhận và sống theo sự hướng dẫn của Ngài.

Ánh sáng là chủ đề tài nổi bậc trong tin mừng.

Ngay những trang đầu của tin mừng, thánh Gioan đã cho biết Chúa Giêsu chính “là ánh sáng, ánh sáng thật, ánh sáng đến trần gian và chiếu soi mọi người”.

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự xưng là ánh sáng thế gian và Ngài mời gọi con người đi trong ánh sáng của Ngài.

Từ hai ngàn năm qua, Ngôi Lời Thiên Chúa đã chiếu ánh sáng Thiên Chúa vào trần gian. Người mang lửa xuống trần gian. Người mong ước cho ngọn lửa ấy cháy bừng lên, lan rộng ra. Nhưng nhìn vào tình hình thế giới hôm nay, ta thấy bóng tối vẫn còn vây phủ con người.

 Bóng tối chết chóc của chiến tranh, hận thù, của ô nhiễm môi trường, của đói nghèo, áp bức, phân biệt chủng tộc, của nền văn hóa sự chết giết hại cả những mầm mống sự sống.

Bóng tối tội lỗi. Tội lỗi vẫn tiếp tục lan tràn. Sự dữ nổi lên dưới nhiều hình thức khác nhau. Nguy hiểm nhất là người ta đánh mất cảm thức về tội lỗi, thản nhiên sống trong tội, sống chung với tội lỗi.

Bóng tối của hận thù ghen ghét. Trong thế giới văn minh mà con người hô hào hôm nay, vẫn còn có những người say máu giết hại đồng bào của mình, gây nên tội ác diệt chủng. Vẫn có những thế lực đen tối ngấm ngầm gây chia rẽ giữa các quốc gia, dân tộc, giữa các cộng đoàn, hội thánh...

Sống trong xã hội tràn ngập bóng tối của sự chết, của tội lỗi và hận thù…như thế, Chúa Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta phải chiếu giãi  trước mặt mọi người.

“Các con là ánh sáng thế gian”. Ngày nhận lãnh bí tích rửa tội, Giáo Hội trao cho ta cây nến sáng để nhắc nhớ chúng ta hãy gìn giữ ngọn nến ấy luôn cháy sáng mãi trong suốt cuộc đời.

Cây nến phục sinh mà người kitô hữu chúng ta thắp lên trong đêm lễ phục sinh nhắc nhở chúng ta nhiệm vụ mang ánh sáng Chúa Kitô chia sẻ cho mọi người chung quanh.

Xin Chúa giúp chúng ta tẩy sạch mọi bóng tối tội lỗi, để thực sự được sinh lại cùng với Đức Giê-su. Trở nên con cái sự sáng bằng đời sống tươi vui, an hoà, khiêm nhường, nhịn nhục, yêu thương, đoàn kết đến cho anh em. 

 

Thứ năm:  Cv 13,13-25; Ga 13,16-20.

Suy niệm 1:

Sách Cvtđ hôm nay tiếp tục ghi lại cuộc hành trình truyền giáo lần thứ I của Phaolô và Barnaba nơi vùng đất dân ngoại, ngoài lãnh thổ Giêrusalem. Có lẽ cuộc hành trình truyền giáo này gặp rất nhiều vất vả, khó khăn nênmôn đệ Gioan-Márcô đã rời bỏ nhóm mà trở về Giêrusalem, chỉ còn lại Phaolô và Barnaba. Hai ông rời bỏ Paphô để vượt biển đến Antiokhia xứ Pisiđia. Tại đây, vào ngày Sabath, Phaolô cùng với Barnaba vào hội đường người Do Thái để cử hành nghi thức phụng vụ (đọc và nghe giải thích thánh kinh, học hỏi lề luật và cầu nguyện). Tận dụng cơ hội này, Phaolô đã đứng lên giảng dạy. Nội dung bài giảng của Phaolô chủ yếu là điểm lại những chặng đường lịch sử mà dân tộc Israel đã đi qua:

- Từ Ai-cập cho đến xuất hành khỏi cảnh nô lệ.

- Từ vượt qua hành trình 40 năm trong sa mạc cho đến vào đất hứa.

- Từ thời các thủ lãnh đến thời quân chủ

- Cuối cùng là thời Messia đã được Gioan Tẩy Giả loan báo. Đấng Messia ấy chính là Đức Giêsu-Kitô. Người đến để hoàn tất kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ.

Sau khi tóm tắt lại những chặng đường lịch sử mà dân tộc Israel đã đi qua, Phaolô muốn chứng minh cho khán giả thấy rằng: Thiên Chúa là Đấng luôn trung tín trong lời hứa với tổ phụ Abraham nên đã ban cho Israel Đấng Cứu Độ xuất thân từ giòng dõi vua Đavid và Đất hứa làm gia nghiệp.

Xin cho chúng ta luôn ý thức: Lời hứa rất quan trọng trong đời sống. Nếu một người biết giữ lời hứa và thực hiện lời hứa, chứng tỏ người ấy sống có trách nhiệm với bản thân và người khác, sẽ được người khác quý mến, tôn trọng và tín nhiệm. Ngược lại, nếu nói mà không làm, thường xuyên thất hứa, chứng tỏ người ấy sống thiếu trách nhiệm, không biết tôn trọng bản thân và người khác, chắc chắn sẽ không được tôn trọng. Nên trước khi hứa với ai điều gì ta nên cẩn trọng xem mình có khả năng thực hiện được không? Và nếu một khi đã hứa, hãy cố gắng thực hiện!

Trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, ta (hay cha mẹ thay ta) đã hứa với Chúa và GH là từ bỏ tà thần và tuyên xưng đức tin, trung thành sống với Chúa trong tình con thảo. Xin cho mỗi chúng ta luôn ý thức sống trung thành với lời đã thề hứa ấy. Nhất là xin cho các đôi vợ chồng trẻ luôn biết tôn trọng và tuân giữ lời mình đã tự nguyện thề hứa trước mặt Thiên Chúa và cộng đoàn trong ngày cử hành bí tích hôn phối mà trung thành với nhau trong đời vợ chồng, cho dẫu phải đối mặt với những nghịch cảnh trong đời sống.

 

Suy niệm 2: 

Các nhà xã hội học định nghĩa con người là con vật có xã hội tính. Thật vậy “không ai là một hòn đảo”. Con người sống là sống với, sống cùng, sống cho và sống nhờ… người khác. Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mở lòng đón tiếp những sứ giả Chúa với tấm lòng yêu mến và hy sinh phục vụ. Yêu mến phục vụ các ngài chính là yêu mến và phục vụ Chúa.

“Tôi tớ không lớn hơn chủa nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi” (Ga 13, 16). Các tông đồ là môn đệ Chúa nên các ông không thể bằng Chúa. Nhưng các ngài diễm phúc được Chúa Giêsu đặt ngang hàng với Người. “Ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy”. Như thế, Chúa mời gọi chúng ta phải lưu tâm đón tiếp và phục vụ những sứ giả của Chúa sai đến là các tông đồ. Tiếp nối các tông đồ là các Linh mục. Các ngài cũng là những Chúa Kitô thứ hai. Do đó đón tiếp các ngài là đón tiếp chính Chúa.

Trong Thánh Kinh chúng ta thấy còn ghi lại một vài nét đẹp của sự tiếp đón đáng cho chúng ta bắt chước. Những gương sáng này vẫn luôn giữ được tính cách thời sự của nó.

1.  Ông Abraham.

Ông là một con người hiếu khách và quảng đại. Khi thấy ba khách lạ đang đi trong sa mạc nắng cháy, không những ông mời mà còn năn nỉ họ vào nhà nghỉ và ân cần săn sóc họ một cách chu đáo. Ba người khách lạ đó là ai ? Đó là ba sứ giả của Thiên Chúa. Đáp lại tấm thịnh tình và lòng quảng đại của ông, ba sứ giả ban cho vợ chồng hiến muộn này một đứa con trai đầu lòng. Đó là cậu Isáac.

2.  Một gia đình ở Su-nêm.

Khi tiên tri Elia qua Su-nêm, một bà giầu có rất hiếu khách đã mời Elia vào nhà dùng bữa với sự săn sóc tỉ mỉ. Bà còn dọn cho tiên tri một phòng trên gác đầy tiện nghi để tiên tri có thể lui tới tự do. Đáp lại tấm lòng quảng đại của bà, Elia cũng hứa ban cho bà một đứa con vì bà son sẻ: ‘Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng”

3.  Gia đình ba chị em ở Bêtania.

Chúa Giêsu rất thương ba chị em này, mỗi khi đi qua Bêtania, Chúa và các môn đệ thuờng ghé thăm chị em và nghỉ ngơi. Chị cả Matta rất hiếu khách, dọn cho Chúa những bữa ăn ngon. Còn cô em Maria  đón tiếp Chúa bằng cách ngồi dưới chân Chúa mà nghe Ngài dạy dỗ, cách đón tiếp này cũng làm cho Chúa rất hài lòng. Còn Lagiarô là đàn ông thì tiếp theo kiểu đàn ông là ăn uống và chuyện trò với Chúa. Đáp lại sự đón tiếp ân cần và thành thực của ba chị em, Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô sống lại sau khi chết bốn ngày.

Khi tiếp đón các tông đồ của Chúa, dĩ nhiên chúng ta phải mất mát : mất thì giờ, mất tiền của, mất công... Nhưng tất cả sẽ được Chúa thưởng công cho ở đời này hay đời sau. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa, đã tiên liệu cho chúng ta có những người kế tiếp Chúa, là các Linh mục, để đem Chúa đến cho chúng ta và dạy bảo chúng ta về đời sống đạo.

 Chúng ta cầu xin cho các linh mục biết sống và thể hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trước mặt Chúa cho xứng đáng, để mọi người nhận ra khuôn mặt Đức Kitô qua đời sống linh mục.

 

Thứ sáu: Cv 13,26-33; Ga 14,1-6.

Suy niệm 1: 

Sau khi nhắc lại những chặng đường lịch sử mà dân Israel đã trãi qua dưới sự dẫn dắt đầy khôn ngoan của TC, Phaolô tiếp tục dùng khung bài giảng Kerygma (bài giảng truyền giáo) để khái quát về cuộc đời của Đức Giêsu nơi trần thế và khẳng định mọi điều Thiên Chúa hứa ban nay đã được thành toàn nơi Đức Kitô qua cái chết và sự Phục Sinh vinh hiển của Người.

- Về sự phục sinh của Đức Giêsu: Phaolô khẳng định chính Đức Kitô đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ: "Trong nhiều ngày, Đức Giêsu đã hiện ra với những kẻ từng theo Người từ Galilê lên Giêrusalem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người trước mặt dân". Và Phaolô và Barnaba chính là chứng nhân cho tin mừng ấy: "Còn chúng tôi, chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: Điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Đức Giêsu sống lại, đúng như lời đã chép trong Thánh vịnh 2: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2,7).

- Về cái chết của Đứcc Giêsu: Phaolô nhấn mạnh cái chết của Đức Giêsu là do "dân cư thành Giêrusalem và các thủ lãnh của họ” gây nên. Nhưng cũng như Phêrô, ngài cho biết sở dĩ họ giết Đức Giêsu là vì họ không nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ.

+ Từ đó, Phaolô hướng mọi người nhìn về cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu là kế hoạch cứu độ đầy khôn ngoan của TC, vì đã ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã nói về Người Tôi Trung của TC. Và ông kêu gọi mọi người sám hối, tin nhận Đức Giêsu để đón nhận ơn cứu độ.

Với cái nhìn đức tin, Phaolô cho thấy: dù con người có từ chối và đóng đinh Chúa Giêsu trên Thập Giá, họ cũng không tài nào vô hiệu hóa được kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, để từ nay, không những dân Israel mà mọi người đều có thể nhận được ơn cứu độ.

Xin cho chúng ta biết phó thác đời mình cho kế hoạch đầy khôn ngoan và giàu lòng yêu thương của TC. Để cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu vẫn phải chấp nhận ngang qua con đường thập giá. Vì thế thập giá chính là con đường mà chúng ta phải bước theo nếu muốn được cứu độ. Xin cho chúng ta luôn can đảm sống tinh thần của thánh Phaolô để sẵn sàng "cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống lại như Người".

 

Suy niệm 2: 

Ngày xưa chưa có đường. Nhưng do đi lại nên trở thành đường mà thôi. Muốn đi và đạt đến đỉnh hạnh phúc vinh quang ta cần có con đường để đi. Con đường ấy chính là Đức Giêsu Kitô, Ngài đi từ trời xuống và từ đất lên và trở nên đường đưa dẫn chúng ta về trời sum họp cùng với Ngài trong nhà Cha. Xin cho chúng ta biết đi trên con đường mà chính Chúa đã vạch ra hầu chúng ta đạt tới quê trời vinh phúc.

Sau một thời gian rời bỏ Việt Nam để tìm cho mình cuộc sống tự do nơi quê hương xứ sở mới. Nay cuộc sống của hầu hết Việt Kiều ở nước ngoài đều ổn định và sung túc. Trong khi đó những người thân của họ ở lại thì phải sống trong cảnh khó khăn, vất vã. Với chính sách đoàn tụ gia đình, những năm gần đây, nhiều việt kiều đã về nước để bảo lãnh người thân của mình sang để sum họp gia đình và hưởng được cuộc sống tiện nghi thoải mái. Tuy nhiên để được đoàn tụ với người thân bên nước ngoài, công dân việt nam phải thoả mãn nhiều điều kiện....

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho các tông đồ biết : Ngài sẽ ra đi để dọn chỗ cho các ông, rồi một ngày nào đó, Chúa sẽ trở lại, đem các ông lên ở với Chúa trên nhà Cha trên trời, để hưởng vinh phúc đời đời. Tuy nhiên để được đoàn tụ với Chúa Giêsu trên quê hương thiêng đường, Chúa cũng đòi hỏi chúng ta phải thoả mãn các điều kiện mà Chúa đưa ra. Đó là đi đúng con đường của Chúa đã đi, tuân giữ chân lý mà Chúa đã truyền và hiệp thông trong sự sống của Chúa.

Con đường mà Chúa Giêsu đi là con đường hẹp, con đường thập giá. Chấp nhận hy sinh, gian khổ để thi hành những giời răn mà Chúa đã chỉ dạy. Biết khiêm tốn, hạ mình chấp nhận thiệt thòi để phục vụ tha nhân với tình yêu mến.

Cố gắng sống theo chân lý mà Chúa đã dạy. Chân lý ấy là sống yêu thương. Yêu không chỉ những người thân cận, không phải những kẻ yêu mình mà tình yêu phải quy chiếu vào tình yêu của Chúa Giêsu: “Yêu như Chúa yêu”, tình yêu ấy phải dành cho hết mọi người, không phân biệt một ai, ngay cả kẻ thù.

Ý thức nổ lực sống hiệp thông với Chúa, bằng việc lắng nghe và thi hành Lời Chúa cũng như tha thiết kết hiệp với Chúa qua việc kính yêu và năng đón nhận Mình Thánh Chúa. Nhờ thế sự sống và sức mạnh Chúa tuôn chảy trong ta. Như nhựa cây cần thiết để nuôi sống cây nho và cành nho thế nào thì linh hồn chúng ta cũng cần đến Lời Chúa và Mình Thánh Chúa như thế.

 Mục đích một đời sống đạo là hạnh phúc thiêng đàng. Nhưng để đạt được điều mong đó, không gì khác hơn là chúng ta phải đi theo đường Chúa đã đi, sống theo chân lý mà Chúa đã sống và chỉ dạy, nhất là phải luôn sống bằng sức sống của Chúa qua việc thi hành Lời Chúa và năng kết hiệp với Chúa nơi bàn tiệc Thánh Thể.

 

Thứ bảy: Cv 13,44-52; Ga 14,7-14.

Suy niệm 1: 

Với chủ đích ban đầu của các môn đệ là loan báo Tin mừng Cứu độ chủ yếu cho người Do Thái nên Phaolô và Barnaba luôn tận dụng Hội đường để rao giảng. Lần này cũng vậy, Phaolô và Barnaba đến Hội đường vào ngày Sabath để rao giảng theo lời mời của một số người Do Thái. Tuy nhiên lần này hai ông lại bị chống đối quyết liệt bởi những người Do Thái quá khích.

Hai lý do họ chống đối Phaolô và Barnaba là:

- Thứ nhất vì ghen tương: Họ không muốn Phaolô và Barnaba có ảnh hưởng trên đám đông; vì nếu đám đông nghe theo Phaolo va Barnaba thì họ sẽ không còn ảnh hưởng trên dân chúng nữa. Họ không muốn thấy ai được phép bằng họ.

- Thứ hai vì quan niệm hẹp hòi: Truyền thống Do Thái quan niệm chỉ có họ mới là con Thiên Chúa và có đặt quyền nghe lời của Thiên Chúa. Giờ đây cả dân ngoại cũng được làm con Thiên Chúa và được nghe lời Thiên Chúa thì họ đâu còn chi đặc biệt nữa. Nên khi “thấy đám đông dân chúng, thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy”.

Cách giải quyết của Phaolô và Barnaba trước sự chống đối:

1. Bình tĩnh can đảm giải thích: Lẽ ra "Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân Ngoại".

2. Dùng Lời Chúa để minh chứng: Phaolô và Barnaba đã trích lại lời Thiên Chúa trong sách Isaia để cho thấy việc rao giảng Lời của Chúa cho dân ngoại chính là lệnh truyền của Thiên Chúa: “Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dânđể ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất." (Is 49, 6).

Nhưng khi nghe những lời đó, họ càng phẩn nộ, đã xách động và xúi dục nhóm phụ nữ thượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, ngược đãi ông Phaolô và ông Barnaba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ.

Trước thái độ cố chấp của họ, cuối cùng hai ông đành phải cắt đứt liên hệ với họ qua cử chỉ“giũ bụi chân phản đối họ và đi tới Icôniô”, theo như lời Chúa Giêsu đã dạy:“Nếu người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi thành ấy, anh em hãy giũ bụi chân lại.” (Mt 10,14). Chính nhờ đó mà Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy và dân ngoại được hân hoan ca tụng Lời Chúa.

Xin cho chúng ta biết noi gương hai thánh tông đồ Phaolô và Barnaba luôn nhiệt tâm rao giảng Tin mừng cho mọi người dù gặp phải nhiều gian nan thử thách. Nhất là cho mỗi người Kitô hữu chúng ta biết tích cực góp phần cho công cuộc truyền giáo với hết khả năng của mình. Đừng vì tính ích kỷ, ghen tị, tự mãn… hay bất cứ lý do nào làm ngăn cản cho sứ vụ loan báo Tin Mừng.

 

Suy niệm 2: 

 "Xin cho chúng con thấy Chúa Cha" (Ga 14,8). Đó không chỉ là khao khát của tông đồ phi-lip-phê mà là mỗi chúng ta, những người tin Chúa. Khao khát đó sẽ được Đức Giêsu làm thoả mãn qua sứ điệp của lời Chúa hôm nay.

 Tin Mừng hôm nay, Philipphê xin với Chúa Giêsu: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện" (Ga14,8). Khao khát của Phi-lip-phê, cũng là khao khát mỗi chúng ta.

Thiên Chúa đã đáp lại khát vọng đó qua việc cho Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử Giêsu.” (Dt 1,1- 20). Nơi Đức Giêsu Kitô, chúng ta gặp được Thiên Chúa, dễ gần, dễ thấy, dễ quen.

Thiên Chúa đâu chỉ ở nơi cao thẳm ngàn trùng, Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Giữa Ngài và Thiên Chúa Cha có một gắn bó lạ lùng đến nỗi Đức Giêsu dám nói: "Ai biết Thầy là biết Cha" (Ga 14,7). "Ai thấy Thầy là thấy Cha." (Ga 14,9) vì "Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy." (Ga 14,10).

Lời nói và việc làm của Đức Giêsu chính là lời nói và việc làm của Thiên Chúa (x. Ga 14, 10). Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu được Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt, phản chiếu khuôn mặt và trái tim Thiên Chúa, đầy nhân ái và bao dung với hết mọi người. Kitô hữu là người có Chúa Kitô nên được mời gọi trở nên giống Chúa Giêsu để có thể nói rằng: Ai biết tôi là biết Đức Kitô, ai thấy tôi là thấy Đức Kitô.

Lạy Chúa Giêsu! Ðã bao lần con làm cho khuôn mặt Chúa trở méo mó, biến dạng và có thể là rất khó thương vì đời sống không tốt đẹp của con. Xin cho con biết nhìn lên Chúa như một khuôn mẫu tuyệt vời để tu tập thành con người mới, con người có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và tình yêu thương, để nhờ đó con trở thành hình ảnh trung thực về Chúa cho thế giới hôm nay. Amen.


SUY NIỆM LỜI CHÚA  IV PHỤC SINH

Lm. Minh Anh, Tgp Huế

CHÚA NHẬT CHÚA CHĂN CHIÊN LÀNH-NĂM C

Cv 13,14.43-52; Kh 7,9-14b-17; Ga 10,27-30 

RẤT KHẼ

“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi!”.

“Giêsu Mục Tử không bao giờ ngừng gọi. Nhưng con người hôm nay, vì sống quá ồn ào, nên không còn nhận ra tiếng nói dịu dàng nhưng rất khẽ của Ngài!” - Gioan Phaolô II.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng Chúa Nhật Chúa Chiên Lành mở đầu với khẳng định của Chúa Giêsu, “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi!”. Giữa một thế giới xao động, điều này thật khó, vì Ngài gọi ‘rất khẽ!’.

Câu hỏi đầu tiên có thể đặt ra là: Tôi có biết tiếng của Mục Tử; nó đã trở nên quá quen thuộc đến mức tôi có thể phân biệt rõ tiếng Ngài với tiếng của người lạ? Thử tưởng tượng một số mục tử cùng gọi đàn chiên của họ trong một lúc. Đây là hình ảnh của những tiếng nói cạnh tranh trong cuộc sống bạn; nhưng chỉ có một trong chúng là tiếng của Chúa. Bạn có nhận ra tiếng Ngài hay trở nên bối rối bởi nhiều xung lực, ham muốn và hấp dẫn khác đang giành giật? Đó là những câu hỏi quan trọng. “Lời Chúa thì nhỏ nhẹ, không cưỡng ép. Chỉ ai có tâm hồn tĩnh lặng và biết yêu mới nghe được tiếng của Mục Tử!” - Têrêsa Avila.

Có rất nhiều tiếng nói cạnh tranh nói với chúng ta mỗi ngày. Từ những tin tức mới nhất trên các tiêu đề đến ý kiến của bạn bè và gia đình, đến những cám dỗ trong thế giới tục luỵ và cả những ý kiến tự mình đặt ra. Những “tiếng nói” hoặc “ý tưởng” đó lấp đầy tâm trí và thật không dễ để có thể phân loại. Điều gì đến từ Chúa? Điều gì đến từ các nguồn khác?

Thế nhưng, nhận ra tiếng Chúa vẫn là điều có thể. Trước hết, Thánh Kinh! Đọc Thánh Kinh, bạn sẽ ngày càng quen với tiếng Chúa. Ngài nói qua những soi dẫn ‘rất khẽ’ đưa đến bình an. Ví dụ, khi cân nhắc một quyết định, bạn trình bày với Chúa qua cầu nguyện; sau đó, cởi mở với bất cứ điều gì Ngài muốn, thường thì câu trả lời của Ngài đến dưới hình thức một sự bình an sâu sắc và chắc chắn trong lòng. “Khi ở lại trong cô tịch và thinh lặng của tâm hồn, Mục Tử sẽ gọi ta - không bằng tiếng ồn, mà bằng tình yêu!” - Charles de Foucauld.

Học cách nhận ra tiếng nói của Chúa trong cuộc sống được thực hiện bằng cách xây dựng một thói quen lắng nghe, nhận ra, đáp lại, lắng nghe nhiều hơn. Càng nghe tiếng Chúa, bạn càng nhận ra nó theo cách tinh tế nhất, và càng nghe những tinh tế của Ngài, bạn càng muốn đi theo Ngài. Điều này chỉ có thể đạt được thông qua thói quen cầu nguyện sâu sắc và liên tục. Không có điều đó, sẽ rất khó để nhận ra tiếng của Mục Tử Nhân Lành Giêsu khi bạn cần Ngài nhất. “Chúa nói với linh hồn trong đêm tối, khi mọi tiếng ồn bên ngoài lắng dịu. Chỉ khi đó linh hồn mới nghe được tiếng gọi dịu dàng của Mục Tử!” - Gioan Thánh Giá.

Anh Chị em,

“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi!”. Hãy suy ngẫm về việc bạn chú ý đến Chúa như thế nào trong cầu nguyện. Bạn cầu nguyện mỗi ngày làm sao? Bạn có dành thời gian để lắng nghe tiếng nói dịu dàng và tuyệt vời của Chúa? Bạn có tìm cách hình thành thói quen để tiếng Ngài ngày càng rõ hơn? Vậy nếu còn phải đấu tranh để nhận ra tiếng nói của Ngài, hôm nay, bạn hãy quyết định thiết lập một thói quen cầu nguyện sâu sắc hơn để từ đó, lắng nghe tiếng nói của Đấng yêu thương dẫn dắt bạn mỗi ngày!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, ước gì cầu nguyện là hơi thở của con, nhịp tim của con; hầu khi Chúa gọi, con sẵn sàng thưa, này con đây!”, Amen. 

 

Thứ hai: Cv 11, 1-18; Ga 10,1-10

TIẾNG NGƯỜI LẠ

“Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ!”.

Một người Mỹ du lịch Syria, thấy ba người chăn chiên dẫn đoàn vật mình chung một con đường. Lúc sau, người thứ nhất hô to, “Men ah! Men ah!”, “Theo tôi!”. Chiên anh tách đàn, túc tắc theo anh lên một ngọn đồi. Người thứ hai làm thế, chiên lửng thửng theo anh. Người Mỹ nói với người thứ ba, “Cho tôi mượn mũ, gậy; tôi gọi, xem sao?”. Người ấy vui lòng. Người Mỹ gọi, “Men ah! Men ah!”. Chẳng con nào ngẩng lên! “Chiên không nghe ai khác, trừ một mình anh?” - “Có chứ! Vài con bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Vài con bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai!”. Lời Chúa hôm nay bất ngờ hỏi chúng ta, “Con có khoẻ không?”. Hy vọng bạn khoẻ để từ chối ‘tiếng người lạ’ và chỉ nghe tiếng Giêsu - Chủ Chiên!”.

Có lẽ chúng ta thường tự trấn an, ‘tiếng người lạ’ không ảnh hưởng mấy đến tôi! Thế nhưng tiếng của ‘tin lạ’, ‘tình lạ’, ‘tiền lạ’ và các thứ lạ khác lại ảnh hưởng lên bạn và tôi nhiều hơn chúng ta tưởng. Và dù tin hay không tin, chúng vẫn tác động và áp lực mạnh mẽ lên đời sống chúng ta! Chúa Giêsu nói đến sự khác biệt giữa tiếng mục tử và ‘tiếng người lạ’. Chiên dễ thuần thục khi được dạy để phản ứng có điều kiện, vì chủ chiên thường nói chuyện với chiên. Nghe anh, chiên ngẩng lên và đi theo anh; với người lạ thì không!

Điều này cũng đúng với chúng ta. Bạn sẽ đi theo tiếng người mà bạn quen! Vậy thì bạn quen với tiếng ai nhất? Lý tưởng là chúng ta dành đủ thời gian cho việc đọc Lời Chúa, học ngôn ngữ, giọng điệu và tiếng của Ngài; lý tưởng là chúng ta dành một phần thời gian trong ngày, mỗi ngày, im lặng đủ để chiêm ngắm, cầu nguyện. Khi làm điều này, bạn xây dựng cho mình một ‘thói quen nghe’ và trở nên dễ chịu với tiếng Chúa. Một khi thói quen này được hình thành, bạn sẽ dễ dàng hơn rất nhiều trong việc nhận ra tiếng Chúa và làm theo ý Ngài giữa những bận rộn ‘đời đời’ của mình!

Câu chuyện Công Vụ Tông Đồ hôm nay là một minh hoạ. Những người đồng hương trách Phêrô vì ông giao du với người ngoại. Nhưng nhờ cầu nguyện và lắng nghe, Phêrô nhận ra tiếng Chúa qua câu chuyện dài ông đã kể cho họ, “Nghe xong, họ mới chịu im”; họ nói, “Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho các dân ngoại ơn sám hối để được sự sống!”.

Anh Chị em,

“Chúng không nhận biết tiếng người lạ”. Chúa Giêsu không bao giờ nghe tiếng lạ! Cuộc chiến của Ngài trong hoang địa 40 đêm ngày đã chứng tỏ điều đó. Ngài luôn hướng về Chúa Cha, và quen với tiếng của Cha, nên Ngài luôn làm điều đẹp lòng Cha. Cũng thế, với chúng ta, đừng để ‘tiếng người lạ’ lấn át tiếng của Giêsu Mục Tử Nhân Lành và Thánh Thần của Ngài! Ngài thật thân quen; là Chúa, là bạn, là anh em, miệt mài nói to nói nhỏ với chúng ta mỗi ngày để bạn và tôi có thể ‘phản xạ có điều kiện’ mỗi khi Ngài gọi. Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng nhạy bén để nghe được Ngài giữa bao bận rộn. Vì vậy, hãy cẩn thận! Chúng ta luôn có nguy cơ phân tâm bởi những ‘tiếng lạ’ vốn luôn ngọt ngào, lôi cuốn. Đừng để mình thuộc số vài con chiên bệnh vốn “sẽ đi theo bất cứ ai!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, có lẽ con ‘không khoẻ’ lắm, nếu không nói là ‘bệnh’. Xin chữa lành con!”, Amen.  

 

Thứ ba: Cv 11,19-26; Ga 10, 22-30.

VĂN HOÁ KHUYẾN KHÍCH

“Tôi ban cho chúng sự sống đời đời”.

“Hãy tâng bốc tôi, tôi có thể không tin bạn! Hãy chỉ trích tôi, tôi có thể không thích bạn! Hãy quên bẵng tôi, tôi có thể không tha cho bạn! Nhưng hãy khích lệ tôi, tôi sẽ không bao giờ quên bạn!” - William Arthur Ward.

Kính thưa Anh Chị em,

Các nhân vật của Lời Chúa hôm nay là những con người luôn khích lệ mà Giáo Hội và thế giới sẽ không bao giờ lãng quên: Barnaba, ‘Con của sự khích lệ’; và Giêsu, ‘Chúa của sự khích lệ!’. Lời Chúa muốn chúng ta sống ‘văn hoá khuyến khích!’. Vì lẽ, một ngọn nến sẽ không mất gì khi thắp sáng cho những ngọn nến khác!

Bài đọc Công Vụ Tông Đồ tường thuật cuộc viếng thăm của Barnaba; “Barnaba”, tiếng Hy Lạp có nghĩa là ‘Con của sự khích lệ!’. Từ Giêrusalem, Barnaba được cử xuống Antiôkia để xem hiện tình. Vui mừng khi thấy “ơn Thiên Chúa” ban, Barnaba “khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa”; ông dành cho anh chị em tân tòng một sự khích lệ lớn lao. Sau đó, Barnaba đến Taxô tìm Phaolô, người mới tin; đưa ông đi Antiôkia để hỗ trợ cho Hội Thánh non trẻ này. Từ đó, Phaolô trở thành trụ cột của Antiôkia; và “Chính tại Antiôkia, lần đầu tiên, các môn đệ được gọi là Kitô hữu”, Hội Thánh ngày càng có nhiều người tin; Thánh Vịnh đáp ca bộc lộ niềm vui, “Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa!”.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói những lời đầy khích lệ, “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi!”. Mục tử nhân lành Giêsu ra sức bảo vệ đoàn chiên; nhưng để khỏi bị cướp, mỗi con chiên cần đóng góp phần tích cực của mình, nghĩa là, phải im ắng đủ để nghe tiếng Ngài, quen thuộc với tiếng của Ngài; đồng thời, mỗi con chiên còn phải hỗ trợ những con chiên khác, cách riêng những con đau yếu và luôn đi chậm trong đàn. Hãy khuyến khích nhau, “Nếu bạn không thể bay, hãy chạy! Nếu bạn không thể chạy, hãy đi! Nếu bạn không thể đi, hãy bò! Nhưng dù bạn làm gì, hãy tiếp tục tiến về phía trước!” - Martin Luther King Jr..

Anh Chị em,

“Tôi ban cho chúng sự sống đời đời”. Noi gương Chúa Giêsu, ‘Chúa của sự khích lệ’; bắt chước Barnaba, ‘Con của sự khích lệ’, chúng ta cũng ao ước “sự sống đời đời” cho mình và cho tha nhân. Như các ngài, chúng ta khuyến khích nhau trong đức tin, giúp nhau lớn lên khi sống mật thiết mối quan hệ với Chúa, với nhau. Cha mẹ khuyến khích con cái, con cái khuyến khích cha mẹ; anh chị em, bạn bè khuyến khích nhau để nên thánh mỗi ngày; vì “Không ai lên thiên đàng một mình!”. Ước gì chúng ta có một trái tim lặng đủ để giúp nhau nhanh nhạy ‘ngẩng lên’ mỗi khi nghe Giêsu Mục Tử gọi và mau mắn thi hành điều Ngài muốn! Từ đó, dám dấn thân, trở nên những con người sẵn sàng vực dậy những ai đang bủn rủn, đầu gối rã rời. Như vậy, trong mọi lĩnh vực, ‘mục vụ khuyến khích’, ‘văn hoá khuyến khích’ vẫn đóng một vai trò nhất định, không chỉ ở các Hội Thánh non trẻ, mà cả với Giáo Hội trưởng thành và cả trong thế giới hiện đại!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con nhìn mọi sự dưới lăng kính tiêu cực. Cho con luôn dấn thân để khơi dậy niềm cảm hứng nơi anh chị em con!”, Amen. 

 

Thứ tư: Cv 1,15-17.20-26; Ga 15,9-17

KÍNH THÁNH MAT-THI-A

‘THƯƠNG’, ‘CHỌN’

“Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em!”.

“Mỗi khi thất vọng, tôi để tâm hồn lắng dịu và hồi tưởng về Jamie, một bé gái luôn mơ có một vai diễn trong vở kịch của ngày bế giảng. Vào buổi ban tổ chức tuyên bố các vai, tôi theo mẹ Jamie đến trường. Từ xa, Jamie hớt hơ hớt hải chạy về phía mẹ, bộc lộ niềm vui chực vỡ oà. Sau khi lấy lại bình tĩnh, Jamie đã nói những lời mà tôi vẫn giữ mãi trong ký ức, “Mẹ ơi! Con được chọn làm người vỗ tay!”” - Maya Angelou.

Kính thưa Anh Chị em,

Việc thánh Matthia Giáo Hội mừng kính hôm nay được chọn - không phải để làm người vỗ tay, nhưng làm tông đồ, thế chỗ Giuđa - cho thấy quyền năng và tình yêu nhưng không của Thiên Chúa một khi Ngài ‘thương’ và ‘chọn’ một ai.

Chúa thương ai, Ngài chọn kẻ ấy, chọn cách tự do; chẳng hỏi ai, không bàn bạc với ai. Một Abraham, một Giacob, một Môsê, một Đavít, một Giuse, một Maria, một Phêrô, một Phanxicô; hoặc gần gũi hơn cả, một Lêô hay một Matthia - người trúng thăm. Đừng quên, đây là công việc của Chúa Thánh Thần! Tất cả họ là những con người xem ra ‘nhỏ’ được mời tham gia một kế hoạch ‘lớn’ - cứu độ nhân loại - cứu độ đời đời. Đó là những con người ‘đủ yếu’ vốn sẽ trở thành những ‘người khổng lồ’ của Chúa. Chúa chọn ai, không vì người đó xứng đáng, nhưng vì người đó đáng được xót thương! “Xót thương và Tuyển chọn!” - khẩu hiệu của Đức Phanxicô.

Matthia hẳn rất hạnh phúc khi được ‘thương’, ‘chọn’ làm tông đồ dù có người cho rằng, ông chỉ là tông đồ hạng hai. Nhưng, nếu điều kiện “Phải là người đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta”; “Cùng với chúng tôi làm chứng rằng Người đã phục sinh” thì Matthia đã đạt tiêu chuẩn đó. Matthia không bỏ đi vì Lời chói tai, cũng không quay lưng với nhóm mười một khi Thầy mất. Người môn đệ này không ưa xuất hiện nhưng lặng lẽ lẩn quẩn bên Nhóm Mười Hai đến nỗi có tài liệu nói, Chúa Giêsu coi ông như các môn đệ khác, những bạn nghĩa thiết - Tin Mừng hôm nay. Dẫu vậy, Matthia vẫn không có trong danh sách Nhóm Mười Hai!

Trong cái nhìn của Thiên Chúa, không có gì là may, chẳng có gì là rủi; không ai hạng hai, chẳng ai hạng ba; không quan trọng khi anh đạo gốc, chị đạo dòng, tôi là dự tòng. Không ít anh chị em tân tòng sống Tin Mừng tuyệt vời hơn chúng ta - giữ đạo ‘dòng dòng’ sao? Mọi người đều bình đẳng và Thiên Chúa thật quyền năng, tự do. Gioan XXIII có một kinh nghiệm ‘thương’, ‘chọn’ tương tự, “Lúc được bầu làm Giáo Hoàng, tôi luôn lo lắng và sợ hãi. Một đêm kia, trong giấc ngủ, tôi nghe một lời nói với mình, ‘Roncalli, đừng xem mình quan trọng!’. Tôi đem áp dụng câu nói ấy; và từ dạo đó, tôi ăn ngon ngủ yên như khi chưa được chọn để dẫn dắt Giáo Hội toàn cầu!”.

Anh Chị em,

“Mẹ ơi, con được chọn làm người vỗ tay!”, “Roncalli, đừng xem mình quan trọng!” được tìm thấy nơi Chúa Giêsu. Ngài đã hạ mình tận chỗ rốt hết và Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài. Khiêm nhượng ví tựa chỗ trũng khi so với tính tự tôn như một ngọn đồi vừa đầy đá vừa cheo leo. Nước luôn tìm chỗ thấp như ân sủng Chúa luôn tưới đẫm kẻ rốt hèn. Khiêm nhượng giúp chúng ta đào sâu những trũng thấp để đón nhận bao mưa hồng ân vốn không ở lâu trên những chỏm cao; trái lại, chảy xuống và đọng dưới chân đồi.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, hạnh phúc thay, con đang ở chỗ trũng; và đang hứng thật nhiều!”, Amen.

 

Thứ năm:  Cv 13,13-25; Ga 13,16-20.

 PHẢN BỘI, TRUNG THÀNH

“Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con!”.

Không phản bội nào tồi tệ hơn phản bội của một thành viên trong gia đình hay của một người bạn! Caesar đã trải nghiệm điều đó. Một trong những kẻ mưu hại ông là Brutus, người ông tin tưởng và ưu ái như con ruột. Theo các sử gia, trong cuộc mưu sát, Caesar chống lại sự tấn công của các sát thủ; nhưng khi thấy Brutus với con dao trong tay, ông lặng trân! Kéo áo qua mặt, Caesar để lại một lời bất hủ, “Cả ngươi nữa, Brutus, con ta?”.

Kính thưa Anh Chị em,

Trải nghiệm của Julius Caesar 44 năm trước Chúa Giêsu cũng là trải nghiệm của chính Ngài. Vậy mà Chúa Giêsu vẫn yêu đến cùng, bất chấp các môn đệ của Ngài ‘phản bội!’ hay ‘trung thành’.

Bối cảnh Tin Mừng hôm nay là bữa Tiệc Ly; qua đó, Chúa Giêsu cho biết một trong các môn đệ sẽ phản Ngài. Biết trước điều đó, lẽ ra, Chúa Giêsu không để con người này đến gần; không, Ngài vẫn tỏ ra yêu thương, trìu mến. Ngài “trao bánh” cho Giuđa, một cử chỉ thân ái của người đang yêu, kèm theo một lời Thánh Kinh gợi ý bóng bẩy, “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con”; may ra nhờ đó, Giuđa suy nghĩ lại. Ngài mở rộng tình bạn cho Giuđa đúng vào lúc ông đang mưu phản. Tình yêu thuỷ chung của Chúa Giêsu bền bỉ đến cùng, đến tận thập giá, đến tận phục sinh! Khi Ngài tắt hơi, trừ một mình Gioan, không môn đệ nào có mặt; vậy mà sau khi sống lại, Ngài không hề nhắc đến sự bất tín của một ai. Chúa Giêsu thấu hiểu, tha thứ; và với họ, tiếp tục đồng hành.

Phaolô cũng đã rao giảng một Thiên Chúa trung thành, Đấng đã chọn Israel, giải thoát và chịu đựng nó. Thiên Chúa trung thành với giao ước Ngài đã lập; đặc biệt, lời hứa với Đavít, “Từ dòng dõi vua này, theo lời hứa, Thiên Chúa đã đưa đến cho Israel một Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu!” - bài đọc một.

“Cả ngươi nữa, Brutus, con ta?”, lời của một trái tim tan nát; “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con!”, lời của một tâm hồn vỡ vụn! Đó là gót của một trong những môn đệ mà Ngài đã thức suốt đêm để cầu nguyện và chọn ra; một môn đệ đã ba năm gần gũi Thầy, nghe bao điều, thấy bao dấu lạ, vậy mà vẫn đang tâm phản bội. Dẫu thế, Chúa Giêsu vẫn một lòng yêu; và có thể nói, Ngài đeo bám Giuđa để yêu; “Nếu ta không trung tín, Ngài vẫn một lòng trung tín, vì Ngài không thể chối bỏ chính mình!” - Phaolô.

Anh Chị em,

“Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con!”. Trung tín là bản chất của Thiên Chúa, và bất tín ‘xem ra’ là bản chất của con người! Vậy mà, với Thiên Chúa, con người ‘trung thành’ hay ‘phản bội’ xem ra không thành vấn đề; vì lẽ, Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối trung thành và sự trung thành của Ngài chính là tình yêu Ngài dành cho mọi người. Chớ gì bạn và tôi đừng phản bội; phản bội thiên chức, phản bội lời khấn, phản bội lời thề! Để từ đó, trở nên những sứ giả nói cho thế giới rằng, “Nhân loại này đang có một Đấng tuyệt đối yêu thương, tuyệt đối trung thành, trung thành đời đời!”; “Lạy Chúa, tình thương Chúa, đời đời con ca tụng!” - Thánh Vịnh đáp ca.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, ranh giới giữa ‘trung thành’ và ‘phản bội’ thật mong manh. Giúp con trung tín với Chúa từng ngày, hầu con có thể tín trung với những ai con cam kết!”, Amen.

 

Thứ sáu: Cv 13,26-33; Ga 14,1-6.

 NHÀ CỦA CHA

“Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”; “Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.

Tháng 4/1667, John Milton bán bản quyền “Thiên Đàng Đã Mất” - bộ sử thi vĩ đại nhất của nước Anh - cho nhà xuất bản Samuel Simmons với giá 10 bảng. Ông qua đời, bà Elizabeth Milton bán tất cả tác quyền vĩnh viễn còn lại cho cùng nhà xuất bản với giá 8 bảng. Thật khó để tưởng tượng “giá” một kiệt tác tầm cỡ quốc gia, tầm cỡ thế giới, lại hời đến thế!

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay không nói đến một “Thiên Đàng Đã Mất”, nhưng nói đến một “Thiên Đàng Sẽ Được”. Chúa Giêsu giục giã chúng ta nhìn vào thực tế vinh quang thiên đàng, đó là ‘Nhà của Cha’ - Vương Quốc - nơi mà Ngài hằng thao thức, cuối cùng, làm sao bạn và tôi cùng Ngài chung sống.

“Ngài từng nói với anh trộm, “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng!”. Trong toàn bộ Phúc Âm, đây là lần đầu, cũng là lần cuối, chữ “thiên đàng” xuất hiện trên môi Chúa Cứu Thế; điều này có nghĩa là, thiên đàng, một sự thật 100%. Thiên đàng là có thật!” - Phanxicô. Nó không phải là khu vườn hoang tưởng của chuyện cổ tích! Nếu ‘hiểu đúng’ thiên đàng, bạn sẽ khát khao nó với một tình yêu sâu sắc; mong chờ nó với một ước vọng mãnh liệt; tưởng nhớ nó với một niềm vui ngập lòng. Tuy nhiên, thật không may, với một số người, ý nghĩ rời khỏi trái đất để ở với Chúa Thiên Đàng là một suy nghĩ không mấy vui, nếu không nói là sợ hãi. Đó là một nỗi sợ về ‘những điều chưa biết’; họ nghĩ, họ sẽ bỏ lại những người thân yêu, hoặc thậm chí sợ rằng, thiên đàng không phải là nơi an nghỉ.

Là con cái Chúa, điều cần thiết là chúng ta cần nuôi dưỡng một tình yêu lớn lao đối với thiên đàng bằng cách ‘hiểu đúng’ về nó, hiểu rõ ‘mục đích của cuộc sống hôm nay’ là hướng về nó. Thiên đàng phải ‘định hướng và sắp xếp’ cuộc sống của chúng ta! Chúa Giêsu nói về ‘đích đến’ này bằng cách đưa ra một hình ảnh rất thân thiện, gần gũi: ‘Nhà của Cha!’. Nó tiết lộ thiên đàng là ‘nhà mình’, một nơi an toàn mà chúng ta thư thái bên những người thân yêu và cảm nhận nó là chốn những con trai, con gái của Cha ‘thuộc về’.

“Chúa Giêsu đã dành một chỗ trên trời cho mỗi chúng ta. Đừng quên, ‘nơi ở’ chờ đợi chúng ta là thiên đàng. Bạn đang quá cảnh ở trần gian, chỉ quá cảnh thôi! Bạn được tạo dựng cho thiên đàng, để sống mãi mãi với những người thân yêu; và cùng họ, chia sẻ niềm vui vĩnh cửu trong ‘Nhà Cha mình!’” - Phanxicô.

Anh Chị em,

“Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”. Chúng ta có nhiều chỗ để đi, nhưng chỉ có một chỗ ‘để ở’; đúng hơn, ‘để về’ - thiên đàng! Vậy mà, thật bất ngờ, thiên đàng không ở đâu xa, không chỉ ở đời sau; nó ‘ở đây, lúc này!’. Ở đâu có Giêsu, ở đó có thiên đàng; Giêsu là thiên đàng. Vì thế, ở đâu có Thánh Thể, ở đó là ‘một góc’ thiên đàng. Mỗi ngày, với lòng sạch tội, rước Chúa Giêsu, bạn và tôi ‘ẵm’ thiên đàng. Tác giả “Giêsu Khoan Nhân” - một thánh ca xưa - viết, “Chúa đến thăm con, thăm con mỗi sáng ngày, linh hồn thấy lại tuổi thơ ngây; thiên đàng chớm nở, chớm nở ngay dưới thế, tháng năm hoan lạc trôi từ đây!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, trần gian là lữ điếm mà con - lữ khách - quá cảnh; đừng để con quên, con đang về ‘nhà Cha’. Bằng không, con sẽ ‘vất vưởng’ không chỉ mai ngày nhưng ngay hôm nay!”, Amen.

 

Thứ bảy: Cv 13,44-52; Ga 14,7-14.

VIỆC LỚN HƠN

“Ai tin vào Thầy, người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa!”.

“Những bước đi của niềm tin dường như rơi vào ‘khoảng không’ vô định, nhưng tìm thấy ‘đá tảng’ bên dưới!” - Whittiers.

Kính thưa Anh Chị em,

Những lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay có thể gây ngạc nhiên. Làm sao môn đệ có thể làm những ‘việc lớn hơn’ Thầy? Nhưng đó là sự thật! Bởi lẽ, họ đã chẳng bước vào những khoảng không vô định; nhưng trong đức tin, bước trên đá tảng, chính Ngài!

Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu muốn tiết lộ cho các môn đệ hiểu rằng, việc Ngài ra đi chiều hôm sau - đi chịu nạn - không phải là một thảm hoạ; và việc Ngài “về cùng Cha” không chỉ bao hàm tử nạn mà còn cả sự phục sinh vinh hiển; đồng thời, dẫn đến việc Ngài sẽ gửi Thánh Thần xuống. Việc Thánh Thần được ban sẽ giúp Chúa Phục Sinh tiếp tục công việc của Ngài trong các môn đệ và qua các môn đệ. Với tư cách phục sinh, Ngài sẽ thực hiện qua họ những việc vĩ đại hơn trong quyền năng Thánh Thần.

Ba mươi ba năm thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu gặp phải giới hạn không gian và thời gian; nhưng với tư cách phục sinh, Ngài sẽ tiếp tục công việc của Ngài trên toàn thế giới. Tuy nhiên, Ngài chỉ có thể làm những ‘việc lớn hơn’ đó qua những kẻ tin. Công Vụ Tông Đồ cho biết, “Người ta khiêng những kẻ đau ốm ra tận đường phố đặt trên giường trên chõng, để khi ông Phêrô đi qua, ít nữa cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó… và tất cả đều được chữa lành”; sau một bài giảng của Phêrô, “có đến 3.000 người trở lại!”; “Lời Chúa lan tràn”; “Dân ngoại vui mừng”. “Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta!” - Thánh Vịnh đáp ca. Tất cả những điều này chỉ có thể xảy ra dưới sự dẫn dắt của Thánh Thần.

Như các tông đồ, nhiều Kitô hữu ngày nay với các phương tiện trong tay, có thể mang thông điệp của Chúa Giêsu đến với một lượng người lớn hơn và hiệu quả hơn. Ở bất cứ nơi đâu, trong một đại lễ, Đức Giáo Hoàng có thể tiếp cận hàng tỷ người qua truyền thông. Chúa Giêsu không làm được những điều này! Rõ ràng, với Thánh Thần và sức mạnh phục sinh của Ngài, Giáo Hội - trong đó - có chúng ta, có thể làm những ‘việc lớn hơn’ Thầy. Bạn có tin điều đó không? Bạn có muốn tạo nên một sự khác biệt cho thế giới không?

Anh Chị em,

“Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa!”. Đây là một ơn gọi; đúng hơn, một sứ vụ! Một trong những việc lớn, trước hết và quan trọng hơn hết, là chúng ta ‘sống’ và ‘loan báo’ Tin Mừng. Phải, chúng ta bắt đầu ‘sống và loan báo’ từ trong gia đình, trong cộng đoàn, môi trường của mình. Sự thật này khiến chúng ta đầy lòng biết ơn vì đã được mời gọi dự phần vào công việc rao truyền Phúc Âm. Tuy nhiên, chúng ta có thể bị cám dỗ dễ nản lòng vào những lúc không thuận lợi khi thấy mình bất xứng, hoặc tưởng rằng, tôi đang bước vào những khoảng không vô định. Lời Chúa bảo đảm rằng, với niềm tin, các công việc tốt lành của chúng ta vẫn tiến triển, nếu bạn và tôi tiếp tục hoán cải và bước đi trên đá tảng Kitô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con thoả mãn với những con cá còi của ao đầm; tệ hơn, chỉ tìm những ‘việc nhỏ’. Cho con dám lao ra biển lớn, hầu có thể đánh bắt những mẻ lớn!”, Amen.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XII THƯỜNG NIÊN Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT   MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KITÔ St 14,18-20; 1Cr 11,23-26; Lc 9,11b...