SUY NIỆM LỜI CHÚA CÁC NGÀY TRONG TUẦN IV
MÙA VỌNG
Lm. Seoka
Thứ hai, ngày 23/12. (Lc 1, 57-66).
Sau bao
nhiêu năm mong mõi đợi chờ trong sự tủi hổ, vì phận nữ không con. Nay niềm vui
được vỡ òa, vì được Chúa cất đi sự tủi hổ, khi cho bà Elizabeth sinh hạ con
trai trong lúc tuổi già. Đây quả là biến cố lạ lùng, ngập tràn niềm vui cho gia
đình Gia-ca-ri-a. Nên bà con láng giềng đã đến chúc mừng, chia sẻ niềm vui.
Niềm vui
được chia sẻ, niềm vui nhân đôi. Đúng vậy niềm vui của gia đình Gia-ca-ri-a được
nhân đôi sau đó 8 ngày. Đứa con trẻ được gia nhập vào cộng đoàn qua nghi thức cắt
bì và với cái tên là lạ “Gioan”, không theo truyền thống, nhưng được Thiên Chúa
đặt cho. Sự kiện lạ ấy như là dấu chỉ cho biết con trẻ này được Chúa yêu thương
và tuyển chọn cách đặc biệt.
Niềm vui nối tiếp niềm vui khi con người thuận theo ý
Chúa. Ngay khi Gia-ca-ri-a vâng ý Chúa, đặt tên con mình là Gioan, phút chốc ấy
miệng ông được mở ra và không ngớt lời ca ngợi chúc tụng Thiên Chúa.
Qua những biến cố bất ngờ liên tiếp xảy ra nơi gia
đình Da-ca-ri-a, như nhắc nhở chúng ta ý thức rằng:
Có con cái
là niềm vui và hạnh phúc lớn lao của cha mẹ. Nhưng con cái cũng chính là ân ban
do tình thương của Chúa. Xin cho
chúng ta không ngớt lời ngợi khen và cảm tạ tình thương của Chúa.
Cảm tạ Chúa đã cho ta được làm người, được sinh ra trong vòng tay đầy
ấp tình thương của cha mẹ và sự đỡ nâng của láng giềng thân thuộc.
Cảm tạ Chúa đã cho ta nên nghĩa
tử của Chúa và trở nên anh em với nhau qua bí tích rửa tội.
Cám tạ Chúa vẫn
tiếp tục tuôn đổ muôn ơn lành hồn xác xuống trên cuộc đời chúng ta và trao ban cho ta sứ mạng cao quý là loan
truyền và cao rao tình
thương lạ lùng của Chúa cho muôn người, khắp mọi nơi.
Xin cho chúng ta
luôn biết thuận theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh. Nhờ đó chúng ta mới có được sự
bình an và niềm vui đích thực nơi tâm hồn.
Thứ ba, ngày 24 tháng 12. (Lc 1,67-79).
Tin mừng trong
ngày cuối cùng của mùa vọng, Giáo hội như mời gọi chúng ta hợp ý với ông Gia-ca-ri-a
dâng lên Thiên Chúa lời tri ân chúc tụng qua bài ca Benedictus.
Cùng với Gia-ca-ri-a chúng ta hãy
hướng nhìn về ba phía để tạ ơn và chúc tụng Thiên Chúa tình thương.
1. Hướng nhìn về quá khứ.
Nhìn lại quá khứ, Giacaria
nhận thấy Chúa là Ðấng thành tín và đầy yêu thương.
Vì yêu thương con
người, nên ngay khi nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã hứa ban Đấng cứ độ. Để
khởi đầu thực hiện lời hứa này, Thiên Chúa chọn gọi tổ phụ Abraham làm cha của
kẻ tin và kí kết với ông lời giao ước cứu độ. Trãi qua dòng lịch sử với những
biến cố thăng trầm của dân tộc Israel, Thiên Chúa vẫn hằng trung tín. Ngài không
hề quên lời
hứa qua việc sai các ngôn sứ, các tiên tri loan báo và chuẩn bị tâm hồn cho dân
đón nhận vị cứu tinh quyền thế. Ngài đến “để cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét, sẽ trọn bề nhân nghĩa
với tổ tiên vì nhớ lại lời xưa giao ước”.
2. Hướng nhìn vào hiện tại
Nhìn vào hiện tại, Gia-ca-ri-a
quá đổi vui mừng vì được Chúa thương ban người con yêu quý là Gioan Tẩy Gỉa.
Trước biến cố lạ lùng này, Gia-ca-ri-a như nhìn thấy một tia sáng hy
vọng ở phía chân trời khi nói tiên tri
về sứ mạng của người con ông: với tư cách Tiền hô, con trẻ rồi đây sẽ công bố
sứ điệp, chuẩn bị lòng dân đón nhận Đấng Cứu Thế, khơi dậy trong tâm hồn Dân Chúa lòng khát khao ơn cứu độ. Ơn cứu độ này
được thực hiện suốt dòng lịch sử Dân Chúa và sẽ được thành toàn nơi Đức
Kitô, Đấng cứu độ bằng tình thương tha thứ.
3. Hướng nhìn đến tương lai
Gia-ca-ri-a kết thúc bài thánh ca khi cho ta biết lòng nhân
nghĩa của Thiên Chúa được tỏ hiện vì Ngài chạnh lòng thương chúng ta. Chính vì
lòng nhân nghĩa mà “Vầng Đông từ cao vời viếng thăm ta". "Vầng
Đông" chính là Đấng Mêsia,
Đấng Kitô của Thiên Chúa. Ngài sẽ soi sáng những kẻ ngồi trong bóng tối sự chết như những lữ hành lạc đường đợi trời
sáng để tiếp tục cuộc hành trình, và dẫn đưa họ tiến bước trong bình an.
Tâm tình của Dacaria mở ra con đường đầy hy vọng cho
Dân Chúa,
đồng thời cũng là lời mời gọi chúng ta hãy dâng Chúa lời Chúa tụng, ngợi khen
vì muôn ơn lành Chúa thương ban cho ta.
Ước gì trong giờ phút này khi mà
chúng ta đang bận rộn chuẩn bị lễ
Giáng Sinh, nhưng hãy đừng quên hướng
về quá khứ để
cảm tạ muôn ơn lành Chúa thương
ban trong suốt một năm qua.
Ước gì trong giờ phút hiện tại này, lòng chúng ta
cũng ngập tràn niềm vui và hạnh phúc như ông Gia-ca-ri-a vì mỗi người chúng ta
đã dọn con đường đi vào cõi lòng sẵn sàng chờ đón Chúa đến viếng thăm.
Xin cho bây giờ và mãi mãi chúng ta luôn biết phụng thờ Chúa suốt cả đời ta, bằng đời sống thánh thiện, công chính trước nhan Ngài.
Amen
Thứ tư, ngày 25 tháng 12: Mừng lễ Chúa Giáng sinh
Suy niệm 1.
11-12-13, được gọi là “ngày của trăm năm” hay ngày “tiến lên” trong thế kỷ 21.
Đây chẳng phải là
ngày tốt, xấu. Đó chỉ là ngày có con số đẹp, lạ và ngộ nghĩnh theo sắp xếp kiểu
tiến lên như 11-12-13. Điều làm nên giá trị cho ngày đẹp đó là mỗi thế kỷ chỉ
xuất hiện một lần. Vì thế, người ta gọi đây là “ngày của trăm năm”.
Theo tác giả Phạm Hồng Phước thì “bất luận thế nào, do đây là ngày đặc biệt, cả trăm năm mới có một
lần, người ta có thể nghĩ về chúng theo ý thích của mình. Nhưng gạt qua một bên
chuyện tốt xấu, không ai có thể phủ nhận đây là ngày rất đẹp. Và vì vậy, trong
ngày đẹp hết sức hiếm hoi như vậy, ta nên đánh dấu chúng bằng những sự kiện,
việc làm gì đó thật là đẹp. Thí dụ, tặng cho “người dưng khác họ chẳng nọ thời
kia” một nụ hôn thật đẹp…”.
Nếu ngày 11/12/13 là ngày đặc biệt theo cái
nhìn của người đời, thì ngày 25/12/13, ngày mừng kỉ niệm Con Chúa Giáng Sinh
làm người phải là một ngày hết sức đặc biệt đối với người kitô hữu chúng ta.
Đặc biệt không bởi con số đẹp của năm
tháng, ngày giờ, nhưng đặc biệt bởi ngày này năm xưa Ngôi Lời Thiên Chúa đã đến
trong thế gian và làm người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi, để cứu độ chúng ta.
Đặc biệt là nhờ Người mà muôn vật muôn
loài được tạo thành.
Đặc biệt bởi chính Ngài là sự sống và là Đấng
ban sự sống.
Người cũng chính là Ánh sáng và là Ánh
sáng thật.
Ngài đến để xua tan bóng tối và đem đến
cho nhân loại ánh sáng tình thương cứu độ.
Nếu ngày 11/12/13 tác giả Phạm Hồng Phước nhắc
nhở con người làm một nghĩa cử cao đẹp dành cho tha nhân, thì ngày Giáng sinh
hôm nay, chúng ta cũng được Ngôi Lời Thiên Chúa kêu mời hãy thắp lên cho tha
nhân ánh sáng của niềm hy vọng bằng những cử chỉ đẹp.
Hãy thắp lên ánh sáng yêu thương chân
thành cho những ai còn đang
lạc bước trong bóng tối của đố kị ghen ghét.
Hãy thắp lên ánh sáng của hòa giải tha thứ
cho những ai còn bước đi trong bóng tối của hận thù, chia rẽ.
Hãy
xua tan bóng đêm của đau khổ, thất vọng bằng ánh sáng cảm thông an ủi; bóng tối
của nghèo đói bằng ánh sáng quảng đại cho đi,; của bóng đêm sự chết bằng ánh
sáng niềm vui sự sống….
Mừng ngày lễ
giáng sinh chỉ có ý nghĩa khi chúng ta biết tiếp nhận sự sống và ánh sáng mà
Ngôi Lời Thiên Chúa đem đến.
Xin cho mỗi
người trong chúng ta biết can đảm xua trừ bóng đen của tiền tài, danh vọng, lạc
thú trần thế vây hãm nhờ tin nhận và thông phần vào ánh sáng thần linh nơi Ngôi
Lời Thiên Chúa làm người. Qua đó chúng ta mới có thể trao ban ánh sáng niềm
vui, hy vọng và sự sống của Chúa cho tha nhân.
Suy Niệm 2.
Thứ Tư 11 tháng 12, vừa qua Đức Thánh Cha Phanxicô đã được bình chọn là nhân
vật của năm 2013. Đây là
truyền thống của báo Time có từ năm 1927 và mỗi năm họ chọn một nhân vật, hay
một phong trào làm người của năm đó.
Một nhân vật nào được Time tuyển chọn, ban biên tập sẽ
dành một bài báo đặc biệt nói về vị đó.
Trong bài viết nói về ĐTC Phanxicô lần này, báo Time ca ngợi ĐTC có đời sống khó nghèo, đơn sơ khiêm tốn và đặc biệt quan
tâm đến người nghèo. Ảnh hưởng của ĐTC đã làm bừng lên sức sống của Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ
nhất là tại các nước Âu Mỹ.
Giới báo chí thế giới cũng đã đặt cho ĐTC Phanxicô những danh
hiệu như: “Giáo Hoàng Của Người Nghèo”; “Giáo Hoàng Của Quần Chúng”. Những tin
tức Đức Thánh Cha tỏ lòng thương yêu người nghèo, bệnh tật, gần gũi với mọi người
đều được các hãng thông tấn quốc tế loan truyền cách rộng rãi.
Nếu
báo giới năm nay không ngớt lời ca khen Đức Thánh Cha Phanxicô và bình chọn
ngài là nhân vật của năm vì đời sống nghèo khó, đơn sơ khiêm tốn và sự gần gũi
thân tình với mọi người, nhất là người nghèo. Thì cách đây hơn 2000 năm, một
nhân vật trọng đại đã xuất hiện. Đời sống của Người đã trở nên trung tâm và
khuôn mẫu cho mọi người, ở khắp mọi nơi, qua mọi thời đại . Chính đời sống khó
nghèo, đơn sơ bình dị và tình yêu lớn lao, Người trở nên nguồn cảm hứng và động
lực mạnh mẻ, làm ảnh hưởng đến bao lớp người trên thế giới, trong đó đặc biệt
có Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Nhân vật đó chính là Đức Giêsu Kitô.
Ả
nh hưởng bởi cách thế hiện diện củaNgài.
Như
lời Thánh Phaolô viết trong thư gửi tín hữu Philiphê:
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập
tự.” (Pl 2:6-8)
Là một Thiên Chúa cao sang, quyền thế nhưng Người không nhất quyết chọn nơi sinh ra ở
cung điện diễm lệ, trong sự đầy đủ vật chất
giàu sang. Trái lại Người chấp nhận sinh ra trong cảnh hang đá đơn sơ, khó nghèo. Ngài nghèo khó đến độ không có một chỗ
tử tế để hạ sinh, không một tấm chăn ấm đến xua đi giá lạnh mùa
đông.
Con
Thiên Chúa không những sinh nơi hang đá nghèo hèn, nhưng còn chấp nhận đời sống
vô gia cư lưu lạc nơi đất khách quê người ngay từ thuở ấu thơ. Khi lớn lên Người
chọn lấy đời sống bôn ba trên khắp nẻo đường Palestine để rao giảng tin mừng. Chính
Người tuyên bố cho những ai bước theo Ngài phải chấp nhận cuộc sống bấp bênh: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con
Người không có chổ tựa đầu”. (Mt 8, 18-220)
Sinh
đã nghèo, sống lại nghèo hơn và chết còn nghèo đáng sợ, đến mức không thể nghèo
hơn nửa: trần truồng bị treo trên thập giá.
Chấp nhận sinh nghèo, sống nghèo, chết nghèo để đồng cảm
với người nghèo và ban phát sự giàu có của Ngài lại cho ta. “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo
khó, vì Nước Trời là của họ.”. (Mt 5:3)
Ảnh
hưởng bởi cuộc sống đơn sơ bình dị của Ngài.
Là
Hoàng Tử Bình An, nhưng Ngài không chọn thành phần quý tộc, ông hoàng bà chúa làm
cha mẹ mình. Trái lại Ngài sinh hạ nơi hang bò lừa, sống trong gia đình khó
nghèo. Đón nhận một người nữ làng quê làm mẹ và chàng
Giuse thợ mộc làm cha. Những
người được Ngài mặc khải đầu tiên cũng là những người đơn sơ, bé mọn. Ngoài Đức
Maria và Thánh Giuse còn lại chỉ là những mục đồng nghèo khổ và đơn sơ.
Tiệc mừng sinh nhật đầu tiên của Hài Nhi Giê-su không trống,
không kèn, không
có mặt của quan quyền, vua chúa, nhưng là những sinh vật bò lừa, những người chăn chiên quê mùa và những người đạo sỹ biết khiêm nhường
đi tìm chân lý, nguồn cứu độ đích thực.
Chiêm ngắm hình ảnh đơn sơ của Hài
nhi Giê-su nơi máng cỏ ta hiểu hơn về giao ước vĩ đại đã được thực hiện
từ những gì đơn sơ nhất.
Ảnh hưởng bởi chính tình yêu Ngài dành cho con người.
Khi
chiêm ngắm mầu nhiệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh làm người, thật ngỡ ngàng khi nhận
ra một vị Thiên Chúa đầy yêu thương và gần gũi con người.
Một Hài Nhi đơn sơ, được quấn trong tấm tả mỏng manh, giữa trời
đông buốt giá, nhưng cánh tay người vẫn giơ cao và giang rộng như muốn ôm chầm và nhấn chìm nhân
loại trong trái tim chan chứa tình yêu của Ngài. Hình ảnh Hài nhi Giê-su giang
tay ban phát tình yêu xuyên suốt cuộc đời của Ngài, xuyên suốt cả lịch sử vũ trụ.
Cánh tay của Ngài chữa lành bao người
bệnh hoạn, tật nguyền. Cánh tay của người giang ra ôm trọn những con người đau
khổ thậm chí là những con người tội lỗi. Cánh tay vị Vua Vũ trụ cúi xuống thể
hiện tình yêu của Ngài bằng việc cúi mình xuống rửa chân cho con người. Từ nơi cánh tay và trái tim của Ngài
nguồn mạch ơn cứu độ tưới nhuần trên con người mãi mãi…Cánh tay ngài ôm ấp mọi
thân phận con người, tình yêu nơi Ngài giải phóng thân phận con
người tội lỗi: “chỉ bằng yêu thương mới “giam cầm” được những con người
hoang dại.” “chỉ có tình yêu mới phá tan gông cùm của những tâm hồn tan
nát” (trích trong “nhà sư đeo cỗ thánh giá” Vô Thường).
Giáng sinh là dịp để hàng tỷ
trái tim con người thổn thức ngỡ ngàng về Hài Nhi Giê-su.
Xin Hài nhi Giê-su cho con luôn biết
luôn suy ngắm hình ảnh của Ngài mọi lúc, mọi nơi trong cuộc đời
của con! Xin cho con luôn biết sống đơn sơ, khiêm hạ và yêu thương
chân thành theo gương Ngài, nhờ mẫu gương sống động
nơi Đức Giáo Hoàng Phanxicô kính yêu của chúng con.
Xin Hài nhi Giê-su luôn thương đến những
người chưa nhận biết Ngài. Cho họ cảm nếm được tình
thương cứu độ của Chúa dành cho họ.
Xin cho con trở nên ánh
sao sáng hầu đưa dẫn nhiều người nhận ra Chúa là Mặt Trời Công Chính hầu mọi
người chung lời ca ngợi danh Chúa khắp địa cầu như một bài tình ca bất
tận về Hài nhi Giê-su!
Thứ năm, ngày
26 tháng 12. (Mt 10,17-22).
Kính thánh
Stêphanô phó tế tử đạo tiên khởi.
Bài
Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết sẽ phải chịu bách hại
không những bởi nhà cầm quyền trần thế và ngay cả những người thân yêu của mình,
vì mang danh Chúa. Nhưng Chúa Giêsu cũng chấn an các ông đừng sợ, hãy can đảm
và kiên trì làm chứng cho Ngài. Đừng sợ bởi lẽ chính Chúa Thánh Thần sẽ luôn ở bên. Ngài sẽ nâng đỡ và soi sáng cho
các ông biết phải nói gì. Đừng sợ vì khi trung thành can đảm làm chứng cho Chúa,
các ngài sẽ được Chúa cứu thoát.
Có
thể nói, phó tế Stêphanô là người đầu tiên trung thành với lời dạy của Chúa
Giêsu vì đã can đảm làm chứng cho Chúa và đã được diễm phúc lãnh nhận vòng hoa
chiến thắng vinh quang trong nước trời.
Thầy
phó tế Stêphanô vì mang danh môn đệ Đức Kitô và say mê rao giảng về một vị
Thiên Chúa đầy lòng yêu thương nên phó tế Stêphanô đã bị những người Pharisêu
ghen ghét. Tức giận nên họ tìm mọi cách để vu khống hạ bệ và giết ngài. Nhưng
với lòng can đảm và ơn soi sáng của Thánh Linh, ngài không khuất phục trước
những lời đe dọa vu khống của họ. Trái lại ngài sẵn sàng tranh luận, giải thích
cho họ nhận ra chân lý. Lời lẽ của ngài rất khôn ngoan và sắt bén làm cho đối
phương phải im hơi, lặng tiếng. Không tranh luận lại được với ngài. Vì thế, họ
càng căm phẩn và tìm cách tố cáo ngài về tội phạm thượng chống lại Môsê và
Thiên Chúa. Họ quyết định bắt ngài đưa ra pháp đình để xử án.
Trước
pháp đình, Stêphanô càng mạnh dạn minh chứng về Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đến
trần gian và đã chịu chết nhục nhã để cứu chuộc loài người. Thánh nhân cũng
không ngần ngại vạch trần tội vong ân bội nghĩa của họ và không ngại nhắc đến
lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa dành cho dân Ngài.
Với
lời lẽ khôn ngoan để minh chứng niềm tin, cũng như lời biện hộ đanh thép tố cáo
tội ác của những kẻ làm hại ngài, càng khiến cho đối phương tức giận đến sôi
máu và quyết định đưa ngài ra ném đá tử hình.
Dù
chịu cực hình đau đớn nhưng lòng ngài vẫn chan chứa sự cảm thông và tình yêu
tha thứ theo gương vị Thầy Chí Thánh. Nên trước khi tắt thở, ngài không quên
cầu nguyện cho những kẻ giết hại mình: “Lạy Chúa, xin đừng chấp tội họ”.
Xin
cho chúng ta cũng biết noi theo thánh Stêphanô can đảm chấp nhận mọi gian lao
thử thách ngay cả mạng sống để minh chứng cho niềm tin của mình vào Đức Kitô
Tình Yêu nhờ sức mạnh của Thánh Thần.
Xin cho chúng ta biết noi gương thánh Stêphanô
cũng sẵn lòng tha thứ cho những kẻ làm hại chúng ta. Biết lấy tình thương xóa
bỏ hận thù, theo lời dạy của Chúa Giêsu.
Thứ sáu, ngày 27 tháng 12. (Ga 20,2-8)
Lễ mừng kính thánh Gioan tông
đồ
Suy niệm 1
Tin mừng được trích đọc trong thánh lễ mừng kính thánh Gioan
Tông đồ hôm nay, thuật lại cho thấy ba cái nhìn khác nhau khi chứng
kiến cùng một sự kiện “Ngôi mộ trống”.
- Ma-ri-a Ma-đa-lê-na cứ đinh ninh rằng xác Chúa Giêsu
đã bị đánh cắp (Gioan 20, 13-15).
- Phêrô thì rất đỗi ngạc nhiên vì sự việc đã xảy ra
(Lu-ca 24, 12).
- Còn Gioan, người môn đệ Chúa Giê-su thương mến, thì
tin chắc rằng Chúa Giêsu đã sống lại như lời Ngài đã tiên báo (Ga 20, 9).
Sở dĩ có cái nhìn khác nhau là vì cả ba người đang mang trong mình những tâm trạng khác nhau:
Maria Macđala, với tâm trạng thương nhớ Chúa thiết
tha. Có lẽ cả đêm dài bà không chợp mắt được. Bà ước ao trời mau sáng để ra
thăm mộ Chúa. Nhưng khi chứng kiến tảng đá đậy mộ bị lăn ra, bà đã hốt hoảng
chạy về báo tin cho các môn đệ Chúa. Tình thương mà Maria Macđala dành cho Chúa
Giêsu là một tình thương đáng trân trọng. Nhưng nếu tình thương chỉ dừng lại ở
mức độ cảm tính thường tình của con người thì không có khả năng nhận ra Chúa
phục sinh.
Phêrô mang tâm trạng buồn vì tội lỗi đè nặng nên cũng
không nhận ra gì hơn ngoài việc rất đổi ngạc nhiên khi chứng kiến những băng
vải và khăn che đầu được cuốn lại xếp riêng ra cũng như ngôi mộ trống. Phải
chăng lúc đó tâm trí của Phêrô vẫn còn bị ám ảnh giờ phút chối Chúa. Phải chăng
lòng ông vẫn còn mang nặng nỗi u buồn về tội lỗi của mình. Ông còn phải có thời
gian và kiên nhẫn như là liều thuốc đặc trị chữa lành vết thương tâm hồn bất
tín mà tiến đến niềm tin vào Chúa phục sinh.
Gioan, người môn đệ Chúa yêu, mà cũng là môn đệ rất
yêu Chúa, nên khi chứng kiến những băng vải còn đó bên ngôi mộ trống ông đã
tin.
Để tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu, Gioan đã vượt
lên trên tình cảm thường tình của Maria Macđala và nổi đau buồn vì mặc cảm tội
lỗi của Phêrô. Cái nhìn vào sự kiện ngôi mộ trống của Gioan được định hướng bởi
tình yêu trong sáng và sự hướng dẫn của Lời Chúa. Chính cái nhìn này đã cho ông
niềm tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu.
Như thế, cùng một sự kiện, nhưng lại có nhiều tâm
trạng khác nhau nên đưa đến cái nhìn khác nhau.
Những biến cố vui buồn, sướng khổ, thành công thất
bại…như là dấu chỉ “ngôi mộ trống” thường xuyên xảy đến cho chúng ta. Vậy trước
những dấu chỉ đó ta có cái nhìn như thế nào?
Có thể giống như Maria Macdala, chỉ dừng lại ở tình
cảm thường tình nên khi những biến cố ấy xảy đến trong cuộc sống, chúng ta chỉ
phản ứng theo cảm tính. Vui mừng khi thành công, hạnh phúc…, đau buồn khi gặp
nghèo khổ, mất mác, thất bại trong cuộc sống.
Có thể chúng ta cũng giống như Phêrô chẳng thấy gì hơn
khi đối mặt với thử thách. Đối diện trước những biến cố, chỉ dừng lại ở sự ngạc
nhiên như bao người, không thể nhận ra gì thêm ở phía sau biến cố ấy mà Chúa
gởi đến.
Xin cho chúng ta biết nhìn mọi việc, mọi biến cố xảy
đến trong cuộc đời với cái nhìn đức tin của thánh Gioan. Nhờ cái nhìn đức tin
này thì cho dù đối mặt với bất cứ thử thách nào, hoàn cảnh nào ta vẫn thấy an
tâm vì chính Chúa Phục sinh hiện diện và đồng hành cùng chúng ta.
Nhưng để có được cái nhìn đức tin, chúng ta cần có
được tình yêu Chúa chân thành, cũng như sáng suốt nhìn những biến cố dưới ánh
sáng Lời Chúa. Sống niềm tin là biết nhìn tất cả mọi việc theo tình yêu Chúa và
dưới ánh sáng của Lời Chúa .
Xin Chúa cho chúng con có được tình yêu Chúa nồng nàn
và ơn soi sáng bởi Lời Chúa như thánh Gioan để qua những dấu chỉ, biến cố hay
sự kiện xảy đến trong cuộc sống, chúng con tin và nhận ra Chúa hiện diện bên con. A-men.
Suy niệm 2
Mừng kính Thánh Gioan tông đồ
hôm nay, không gì quý hơn chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thân thế và cuộc đời của Thánh Gioan.
Thân thế
Thánh Gioan là em ruột của
thánh Giacôbê tiền, quê ở làng Bết-sai-đa, cùng quê với Phêrô và Anrê. Cha ngài
là ông Dê-bê-đê làm nghề chài lưới. Mẹ
ngài là bà Sa-lô-mê, một người phụ nữ đạo đức được nhắc trong thánh kinh.
Ngài là một trong 4 môn đệ đầu
tiên được Chúa Giêsu kêu gọi theo Ngài trên biển hồ Tê-bê-ria-a. Không ngần ngại do dự, Gioan đã lập tức bỏ lại tất cả để đi theo
Chúa.
Trong số 12 tông đồ, ngài là
một trong ba môn đệ thân tính và gần gũi Chúa Giêsu nhất. Ngài được diễm phúc
dự tiệc cưới Cana cùng với Chúa, được chứng kiến Chúa biến hình trên núi Ta-bo,
được Chúa sai đi sửa soạn bữa tiệc cuối cùng, ngài cũng được hiện diện cùng với
Chúa trong vườn cây dầu và chứng kiến giây phút sợ hãi nhất của Thầy Giêsu.
Trong bữa tiệc ly, ngài ngồi gần và tựa đầu vào ngực Chúa. Chính
thánh Gioan là môn đệ được Chúa trối làm con Đức Maria và Đức Maria làm Mẹ của
ngài. Thánh Gioan đã theo Chúa Giêsu đến cùng. Dưới chân thập giá, ngài đã chứng
kiến cái chết khổ nhục của Chúa Giêsu.
Cuộc đời
Người đời thường cho rằng cuộc đời của một linh mục chỉ cần
thực hiện được 3 cộng việc là đã chu toàn tốt bổn phận của người tông đồ Chúa
rồi: 1. Viết một quyển sách, 2. xây một nhà thờ và 3. Nuôi một nghĩa tử.
Nếu nói như vậy thì thánh
Gioan là người đầu tiên đã hoàn thành hết sức suất sắc bổn phận của mình trong vai
trò là người môn đệ Chúa.
Ngài không chỉ viết một quyển
sách mà đến cả 3 quyển sách: Phúc âm, khải huyền và cả sách các thư nữa.
Thánh Gioan không chỉ nuôi một
nghĩa tử mà ngài còn có trách nhiệm dưỡng nuôi cả một Giáo Hội Chúa vì ngài đã
nhận Đức Maria, mẹ Giáo Hội làm Mẹ mình qua lời trăn trối của Chúa Giêsu
Ngài cũng không chỉ xây dựng
một ngôi nhà thờ vật chất mà ngài đã, đang và sẽ xây dựng vô vàn ngôi đền thờ
tâm hồn, bằng chính Lời Chúa nơi tin mừng của ngài.
Cuộc đời của
thánh Gioan đã để lại cho chúng ta nhiều bài học quý giá. Nhưng một trong những
bài học quan trọng và quý giá nhất có
thể kể đến đó là "Tình yêu".
Thánh Gioan được mệnh danh là
“môn đệ Chúa yêu” và cũng là “môn đệ yêu Chúa.”. Vì cảm nhận tình yêu sâu xa về một vị Thiên Chúa mà
cả đời ông gắm bó yêu mến, nên ngài đã gọi đúng tên Người: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Cảm nhận và hiểu biết về Thiên Chúa Tình Yêu
thôi chưa đủ, ngài còn sống hết mình với tình yêu ấy; đồng thời ngài còn mời
gọi mọi người hãy thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên Chúa bằng cách tuân giữ
lệnh truyền của Chúa: “Ai yêu mến Thiên Chúa là giữ các lệnh truyền của Chúa”
và yêu mến tha nhân: “Ai yêu mến Thiên Chúa, thì phải yêu mến anh em mình, ai
nói tôi yêu mến Chúa mà ghét anh em mình, thì là kẻ nói dối”.
Xin cho chúng ta có được tình
yêu Chúa nồng nàn như thánh Gioan để chúng ta có thể trung thành thực hành giới
răn Chúa truyền dạy là: “mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” và yêu
tha nhân không những như chính mình mà còn “yêu như Chúa yêu” nữa, theo lời dạy và
gương sống của Thánh Gioan tông đồ.
Thứ bảy ngày 28 tháng 12. (Mt 2,13-18)
Kính nhớ các anh hài tử đạo.
Hòa trong bầu khí vui mừng của những ngày mừng lễ
giáng sinh, nhưng hình như sự trầm buồn vẫn len lỏi đâu đó. Trầm buồn không bởi
Con Thiên Chúa bị khướt từ xua đuổi; cũng không do việc Con Thiên Chúa sinh hạ
nơi hang đá thấp hèn, cũng không hẳn vì gia đình thánh gia phải chốn chạy lưu
lạc nơi đất khách quê người. Nhưng nổi buồn hơn hết phải nói đến đó là bao trẻ
thơ vô tội đã bị sát hại dưới bàn tay độc ác của bạo chúa Hêrôđê.
Nguyên nhân nào đưa đến những cái chết thương tâm của
những hài nhi vô tội. Có hai nguyên nhân chính:
- Nguyên nhân thứ nhất: Khi Chúa Giêsu sinh ra tại
Bêlem, thì các nhà đạo sĩ phương đông nhìn thấy ánh sao lạ. Đoán biết Đức vua
dân Do Thái xuất hiện nên các ngài đã lên đường tìm tới Bêlem để thờ lạy. Sau
khi dâng lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược, các ngài được mộng báo trở về quê
hương bằng con đường khác, không trở lại báo tin cho Vua Hêrôđê biết về nơi chốn
hạ sinh của Hài Nhi Giêsu như thỏa thuận trước đó. Biết mình bị lừa nên nhà vua
rất tức giận.
- Nguyên nhân thứ hai: Bởi lẽ theo các thượng tế và
kinh sư là những chuyên gia sử sách, thì vị lãnh tụ chăn dắt Israel phải sinh
ra tại Bêlem, miền đất Giuđa. Nay vị lãnh tụ được sử sách nói đến đã xuất hiện.
Nhà vua lo sợ mất ngai vàng nên quyết định ra lệnh sát hại các trẻ em từ hai
tuổi trở xuống tại Be6lem cũng như các vùng phụ cận với hy vọng trong đó có cả
Hài Nhi Giêsu. Thế là bao tiếng khóc than thảm thiết của những bà mẹ vang lên
làm nao động lòng người.
Nếu ngày xưa vì tức giận, sợ mất quyền lực mà vua
Hêrôđê đã nhẫn tâm giết chết bao hài nhi vô tội để lại bao tiếng ai oán. Thì
ngày nay thay vì quyền sống, sự bình đẳng và phẩm giá con người phải được đề
cao. Thế mà chúng ta không thể tưởng tượng nổi hàng năm có biết bao là trẻ em
vô tội bị giết chết do sự độc ác của những Hêrôđê thời đại. Thật là một điều đáng
buồn!
Theo bài viết của Lệ Hà đăng trên Baomoi.com, thì Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nạo
phá thai cao nhất thế giới. Theo thống kê của hội Kế hoạch hóa gia đình, tỷ lệ
phá thai Việt Nam là 1,2 – 1,6 triệu ca mỗi năm, trong đó 20% thuộc lứa tuổi
thanh thiếu niên.
Trong năm 2009, chỉ riêng tại trung tâm của BS.
Nguyễn Thị Hồng Minh có hơn 5.000 ca phá thai. BS Hồng Minh, giám đốc trung tâm
cũng cho biết: trong số những ca đến nạo phá thai đối tượng là học sinh, sinh
viên chiếm tới 25%. Trung bình mỗi phụ nữ Việt Nam nạo phá thai 2,5 lần trong đời.
Tại Việt Nam, cứ 6 giây là một thai nhi bị giết
và cứ 1 giây, trên toàn thế giới có 40 em sinh linh nhỏ bé không được chào đời.
Dân gian thường nói: “Hổ dữ không ăn thịt con”. Vậy mà
chính cha mẹ chỉ vì ích kỷ, chỉ vì ham hố địa vị mà đánh mất nhân phẩm, mờ mắt
lương tri, giết chết chính con cái mình, thua loài lang sói.
Đó
là một hành động
vô đạo, bất nhân. Hơn nữa, giết một đứa trẻ không có khả năng tự vệ là một hành
động bỉ ổi, hèn nhát.
Theo Đức Cha Micae, Giám Mục Giáo Phận Kon Tum, kẻ nào phá thai
thì còn dã man tàn bạo hơn cả vua Hêrôđê. Hêrôđê chỉ giết một lần, còn ngày nay
người ta kéo dài hành động tàn ác đó khắp nơi. Mỗi ngày có nhiều em nhỏ vô tội
bị giết chung quanh chúng ta và giữa chúng ta.
Lễ mừng
kính các thánh anh hài tử đạo hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy can đảm bảo vệ sự
sống, nhất là những bậc làm cha mẹ hãy trân trọng món quà vô giá là sự sống mà Chúa
thương ban. Hãy chăm lo nuôi dưỡng con cái thật chu đáo, hãy quan tâm giáo dục
con cái mình trở thành người và người con Chúa thật tốt trước tình trạng xã hội
xuống dốc về đạo đức như ngày hôm nay.
Xin các
thánh Anh hài tử đạo vì danh Chúa Giêsu, tha thứ cho những sai lầm của những
người có trách nhiệm, nhất là những bậc làm cha mẹ vì đã nhẫn tâm giết hại các
ngài.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét