SUY
NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXVI THƯỜNG NIÊN
CHÚA
NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN-NĂM C
Lc
16,19-31
KHÔN
NGOAN XỬ DỤNG TIỀN CỦA
Ông phú hộ trong dụ ngôn mà
Chúa Giêsu kể, xem ra cũng đáng khen. Ông chẳng làm gì nên tội. Không ăn trộm
ăn cắp ai. Không cho vay ăn lời dù lãi chỉ bằng ngân hàng nhà nước. Không lấn
ranh hay chiếm đoạt đất đai ai cả cho dù là ý muốn. Cũng chẳng lê lết sang nhà
hàng xóm để nhiều chuyện, nhất là không thấy phiền trách hay nói hành nói xấu
ai. Đời ông không hề cờ bạc, không số đầu số đuôi. Dù nhiều tiền lắm của nhưng
chẳng thấy nói ông có vợ bé hay vào hàng quán ăn uống phung phí…
Sống được như ông thời nay xem
ra quả là quá tốt còn gì! Nhưng phải chi trái đất này chỉ một mình ông thì quá
tốt. Phải chi xã hội này mọi người đều giàu có như ông thì số phận ông đâu có
hẵm hiêu và đau đớn đến thế. Tất cả cũng bởi tại vì cái anh Lazarô nghèo nàn và
bệnh tật chết tiệt! hiện diện trên thế gian này nên làm cho cuộc sống giàu
sang, sung sướng của ông trở nên lo sợ và bất an. Lo sợ không bởi trộm cắp
nhưng vì phải chia sẻ; bất an không do ăn uống no say nhưng vì tiếng vang xin
giúp đỡ của người nghèo.
Quy luật cuộc đời biến đổi
không dò. Hôm qua là chủ nay lại là tớ; hôm qua giàu có nay lại nghèo khổ. Hôm
qua là sung sướng thoải mái nhưng nay lại gian lao, bất hạnh…
Cuộc đời của ông phú hộ và
Lazarô cũng xoay chuyển bất ngờ sau cái chết. Giàu có, sung sướng, tiện nghị, yến
tiệc linh đình nhưng thiếu bác ái cho đi lại trở thành vực sâu u tối, giam hãm
nhà phú hộ muôn đời trong đau khổ và vô vọng.
Chấp nhận đau khổ, bệnh
tật, nghèo nàn, khốn cùng nhưng không hề than trách, trái lại một mực tin tưởng
và phó thác vào tình thương của Chúa, tất cả những điều ấy lại trở thành bậc
thang đưa dẫn Lazarô lên tận đỉnh vinh quang đến nỗi khoảng cách từ Lazarô và
nhà phú hộ giờ đây trở thành vực thẳm ngàn trùng, không thể nào qua lại
được.
Chúa cũng sẽ xét xử chúng
ta về những việc làm bác ái mà ta đã làm hay không làm cho tha nhân theo như
lời Chúa đã phán khi đến ngày ta phải ra trình diện trước tòa Chúa phán xét:“...Hỡi
những kẻ được Cha Ta chúc phúc hãy vào hưởng vinh quang cùng Ta. Vì xưa Ta đói
các ngươi đã cho ăn…..”.
Như thế ông phú hộ bị phạt
không vì ông ta lắm tiền nhiều của, cũng không vì ông ăn sang mặc đẹp. Nhưng
ông ta bị phạt bởi vì ông không biết chạnh lòng thương xót người anh em nghèo
khổ của mình bằng tình bác ái cho đi của cải dư thừa để giúp đỡ cho anh Lazarô
đang cùng khốn.
Xin Chúa cho chúng ta biết
xử dùng tiền bạc, của cải Chúa ban cách có hiệu quả, nhằm mang lại nhiều ích
lợi xác hồn cho mình và cho mọi người theo lời Chúa dạy. Nhất là xin cho
chúng ta dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng biết sống tin yêu và phó thác vào
Chúa, chắc chắn ta sẽ được Chúa trọng thưởng hạnh phúc thiêng đàng như Chúa đã
ban thưởng vinh phúc nước trời cho Lazarô nghèo khó.
Thứ hai: Lc 9, 46-50
Tin mừng hôm nay đề cập đến
tinh thần, thái độ và cách hành xử cần phải có của người môn đệ Đức Giêsu.
Với hình ảnh cụ thể khi đặt
đứa bé bên cạnh mình, Chúa Giêsu đã chỉ dạy cho các môn đệ tinh thần và thái độ
cần phải có của người làm lớn:
- Về tinh thần: Lẽ
thường tình, ai trong chúng ta cũng thích làm lớn, đứng đầu, lãnh đạo như các
môn đệ Chúa Giêsu khi xưa. Chúa Giêsu có lẽ cũng không nghiêm cấm các môn đệ
ước muốn làm lớn. Nhưng điều Ngài quan tâm là làm lớn, đứng đầu với tinh thần
nào mới quan trọng.
Để xứng đáng là người đứng
đầu, lãnh đạo theo tinh thần của Chúa Giêsu mong muốn đó là phải biết sống
khiêm tốn và tận tâm phục vụ mọi người. Phải luôn ý thức rằng chức vụ gắn liền
với trách nhiệm. Khi người lãnh đạo biết hạ mình xuống để phục vụ người khác
với tinh thần khiêm tốn vô vị lợi, thì chính lúc ấy hình ảnh và giá trị của
người lãnh đạo mới trở nên cao đẹp và đáng được trân trọng! Ước mong trong đạo,
ngoài đời đều có những vị lãnh đạo mang tinh thần ấy!
- Về thái độ: Theo khuynh
hướng tự nhiên, ai trong chúng ta cũng thích liên hệ và tiếp
đón những người có chức cao quyền trọng, giàu sang thế giá; còn những
người thấp cổ bé miệng, cô thế cô thân, nghèo khổ thì ta có vẻ xem thường,
khinh bỉ, không thích đón tiếp họ. Đó cũng chính là thái độ của các môn đệ xưa
kia.
Chúa lại không muốn như
thế. Chúa muốn các môn đệ hãy vì danh Chúa mà đón tiếp những ai bé nhỏ, nghèo
hèn, bởi họ chính là hiện thân của Chúa. Tiêu chí trong ngày phán xét chính là
đức ái. Phần thưởng hay hình phạt là tùy thuộc vào việc ta có quảng đại giúp đỡ
những người nghèo khổ hay không? Hy vọng mỗi người trong chúng ta đều có
được thái độ ân cần, quảng đại và nhiệt tâm giúp đỡ mọi người, nhất là anh em
nghèo khổ.
- Qua cách hành xử độc
đoán của tông đồ Gioan khi ra sức ngăn cấm người khác làm phép lạ trừ quỷ nhân
danh Chúa chỉ vì người ấy không cùng phe nhóm của mình. Chúa Giêsu lại tiếp tục
chỉ dạy cho các môn đệ về cách thế hành xử phải có của người môn đệ Người. Cách
hành xử ấy phải dựa trên những nguyên tắc căn bản như: Trong những điều tốt thì
ủng hộ chứ không cấm đoán; hợp tác chứ không chống đối; Và trong hết mọi sự cần
nhớ rằng: "ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta".
Cách hành xử của tông đồ
Gioan ngày xưa cũng rất có thể là cách hành xử của người kitô hữu chúng ta ngày
nay. Bởi lẽ chúng ta vẫn còn sống ích kỷ nhỏ nhen, muốn Chúa chỉ ban ơn phúc
cho ta hay phe nhóm ta mà thôi còn những người thuộc phe nhóm khác thì mong
muốn Chúa đừng bao giờ thi ân giáng phúc cho họ.
Xin Chúa hoán cải và biến
đối lối suy nghĩ hẹp hòi ích kỷ này của chúng con. Mong lắm mọi người dù lương
hay giáo, lớn hay nhỏ, hữu thần hay vô thần đều có được tinh thần tôn trọng
những đặc sủng riêng biệt do CTT ban cho để cùng nhau chung tay thực hiện những
điều thiện hảo với mong muốn mang đến niềm vui và hạnh phúc cho mọi người.
Thứ
ba: Mt 18, 1-5.10
Kính
thánh Têrêsa Hài Đồng Giê-su
Dưới trần gian tranh giành
địa vị, chức quyền đã đành. Trên trời mà còn tranh quyền đoạt lợi quả là một
điều đáng trách. Thế mà các môn đệ xưa kia lại đưa lối suy nghĩ ấy vào chốn
vĩnh cửu, nên các ngài đã không ngần ngại đặt vấn đề với Chúa Giêsu: "ai
là người lớn nhất trong nước trời?".
Chúa Giêsu không trả lời
cho các ông biết ai là người lớn nhất trong Nước Trời, nhưng Chúa lại cho biết
điều kiện cần phải có để được vào Nước Trời. Điều kiện ấy chính là phải
trở nên như trẻ nhỏ. Không phải chúng ta hóa kiếp trở lại làm trẻ nhỏ, nhưng
Chúa muốn chúng ta phải có tinh thần trẻ nhỏ.
Vì trẻ nhỏ có tâm hồn đơn
sơ, ngay chính. Chúa muốn chúng ta cũng có tấm lòng đơn sơ và ngay chính
như các trẻ nhỏ. Đừng mưu mô, lọc lừa, gian tham vì bất cứ lý do nào. Biết rằng
sống đơn sơ, ngay chính thời nay phải chịu rất nhiều thiệt thòi, ngay cả bị cho
là dại khờ và bị ngưởi khác xem thường nữa.
Vì trẻ nhỏ luôn biết tin
tưởng, phó thác. Biết mình bé nhỏ, yếu đuối không có khả năng sống tự lập
nên lúc nào trẻ nhỏ cũng tin tưởng phó thác vào sự che chở, đỡ nâng của người
lớn. Chúa cũng muốn chúng ta tin tưởng, phó thác vào tình thương và quyền năng
của Chúa, cho dẫu cuộc sống của ta còn nhiều gian lao thử thách.
Vì trẻ nhỏ sống khiêm
nhường, vâng phục. Trẻ em tự biết mình còn nhiều thiếu xót nên
lúc nào cũng khiêm tốn lắng nghe và làm theo những lời chỉ dạy của cha mẹ, thầy
cô... Chúa cũng muốn chúng ta có lòng khiêm nhường như Mẹ Maria mở lòng lắng
nghe và thực thi thánh ý của Chúa. Chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa
qua tiếng nói lương tâm, qua những biến cố vui buồn trong đời sống, qua sự
hướng dẫn của GH, nhất là qua việc học hỏi và suy niệm Lời Chúa hàng ngày.
Tóm lại, Chúa muốn chúng ta
áp dụng tinh thần của trẻ thơ vào trong đời sống mình. Ai sống được tinh thần
như thế thì mới được vào Nước Trời và xứng đáng được gọi là người lớn nhất
trong nước Chúa.
Đây cũng là con đường mà
chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giê-su đã áp dụng cho trong đời sống mình. Thánh
Têrêsa là một vị thánh rất trẻ, cuộc đời của ngài chỉ vỏn vẹn 24 tuổi thanh
xuân. Ngài đã chọn cho mình con đường nên thánh, đường vào Nước Trời bằng tinh
thần thơ ấu thiêng liêng. Ngài yêu Chúa như một đứa bé yêu mến cha mẹ. Ngài làm
những việc rất ư là tầm thường nhưng với tấm lòng phi thường. Thân xác ngài
mỏng manh yếu đuối, nhiều bệnh tật nhưng tình yêu ngài dành cho Chúa, cho mọi
người, đặc biệt là cho các linh hồn trong luyện ngục thì thật lớn lao vĩ
đại. Ngài thánh hóa tất cả những việc làm bổn phận hàng ngày với tình yêu
dâng hiến dành cho Chúa, cho việc truyền giáo và cho phần rỗi các linh hồn.
Noi gương thánh nữ, chúng
ta hãy sống tinh thần bé nhỏ: luôn tin tưởng cậy trông vào tình thương Chúa;
khiêm tốn nhận ra giới hạn của mình để biết lắng nghe, làm theo ý Chúa; sẵn
sàng hy sinh âm thầm phục vụ mọi người nhất là những người nghèo khổ với lòng
yêu mến chân thành.
Xin cho chúng ta luôn nhớ
rằng trước mặt Chúa, chúng ta chỉ là những người con bé nhỏ, không có Chúa ta
chẳng làm được việc gì và nếu chúng con có làm được việc gì đi nữa, tất cả cũng
là hồng ân Chúa ban.
Xin cho chúng ta hằng biết
phó thác cả cuộc đời mình vào bàn tay uy quyền của Chúa tựa như đứa bé nương
tựa vào lòng mẹ để tận hưởng hơi ấm tình thương và bình an của Chúa trao ban.
Thứ tư: Mt 18, 1-5.10.
Nhớ
các Thiên Thần Hộ Thủ
Giáo lý Hội Thánh Công Giáo
dạy rằng Thiên Chúa dựng nên hai thế giới hữu hình và vô hình. Thế giới vô
hình là thế giới thiêng liêng, mắt phàm không thấy được, thế giới thiêng liêng
đó có các Thiên Thần.
Thiên Chúa dựng nên các
Thiên Thần nhằm để thờ phượng Thiên Chúa, thi hành những mệnh lệnh của Thiên
Chúa và giúp đỡ con người. Thiên Chúa dựng nên hằng vô số các Thiên Thần, nhưng
có 3 Tổng Lãnh Thiên Thần là: Mi-ca-en, Gáp-ri-en và Ra-phen-en mà Hội Thánh đã
mừng kính vào ngày 29 tháng 09 vừa qua.
Riêng hôm nay cùng với Hội
Thánh, chúng ta kính nhớ các Thiên Thần Bản Mệnh hay còn gọi là Thiên Thần Hộ
Thủ. Thiên Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta một Thiên Thần Bản Mệnh riêng. Vị
Thiên Thần này luôn gìn giữ bảo vệ chúng ta khỏi mọi sự hãm hại của ma quỷ;
giúp chúng ta tránh xa mọi cám dỗ ma quỷ ở mọi nơi mọi lúc.
Vị Thiên Thần Hộ Thủ sẽ
luôn ở bên cạnh chúng ta, đồng hành với chúng ta suốt cuộc đời dương thế cho
đến khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay.
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa
Giê-su nhắc đến vị Thiên Thần này. Từ đó Chúa muốn chúng ta hãy tôn trọng phẩm
giá mỗi người, chớ khinh thường bất cứ ai, nhất là những con người bé nhỏ nghèo
hèn, vì mỗi người chúng ta đều mang hình ảnh Thiên Chúa, là con Thiên Chúa và
được Thiên Chúa ban cho một vị Thiên Thần bảo vệ, gìn giữ. Đồng thời, Chúa
cũng mời gọi chúng ta hãy trở nên như trẻ nhỏ. Vì trẻ nhỏ có tâm hồn đơn sơ
trong trắng như Thiên Thần. Trẻ nhỏ biết mình yếu đuối mỏng manh nên luôn tin
tưởng phó thác vào tình thương của Chúa.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn
Chúa, vì Chúa đã thương ban cho mỗi người chúng con một vị Thiên Thần Hộ Thủ.
Xin cho chúng con luôn nhớ tới Thiên Thần Hộ Thủ và tích cực cộng
tác với ngài để chống lại những cám dỗ của ma quỷ. Đồng thời xin Chúa cũng giúp
chúng con biết ý thức tôn trọng phẩm giá của con người, nhất là
những con người bé nhỏ nghèo hèn mà sẵn sàng đón tiếp và phục vụ họ vì danh
Chúa.
Thứ năm: Lc 10, 1-12
Suy niệm 1:
Bản chất của Hội Thánh là
truyền giáo, Hội Thánh không còn là Hội Thánh nữa nếu như Hội thánh không
truyền giáo. Chính Chúa Giê-su, trước khi về cùng Thiên Chúa Cha, Người đã trao
sứ mạng truyền giáo cho Hội Thánh mà đại diện là các Tông Đồ.“Anh em hãy đi
khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng”.
Không phải đợi đến khi Chúa
về trời, Người mới trao sứ mạng này cho các Tông Đồ mà ngay trong khi Người còn
đang thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng, Người cũng đã sai phái các môn đệ ra
đi rao giảng Tin Mừng.
Bài Tin Mừng hôm nay, tường
thuật lại việc Chúa Giê-su sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng. Khi thi hành sứ
vụ loan báo tin mừng, Chúa muốn các ngài phải đặt mối ưu tư truyền giáo lên
hàng đầu, đừng quá bận tâm những chuyện vật chất khi truyền dạy: “đừng mang
theo túi tiền, bao bị, giày dép; cứ ăn những gì người ta dọn lên”
Trải qua mọi thời, ở mọi
nơi, Hội Thánh không ngừng thực hiện sứ mạng cao cả này. Từ 12 Tông Đồ, Hội
Thánh Chúa đã phát triển và lan rộng đến mọi nơi trên thế giới. Đến nay người
Công giáo có khoảng 1 tỷ 313 triệu người, chiếm tỷ lệ 17,7% dân số thế
giới (Phòng Báo chí Tòa Thánh, 6/3/2019). Một con số còn rất khiêm
tốn, do dó Hội Thánh rất muốn con cái mình phải thao thức và hành động cho
sứ mạng truyền giáo.
Đừng cho rằng truyền giáo
là công việc của hàng giáo sỹ và những nhà chuyên môn. Không phải như thế! Mỗi
người tín hữu, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội đều được tham dự vào 3 chức vụ của
Hội Thánh đó là: ngôn sứ, tư tế và vương giả. Với chức vụ ngôn sứ, mỗi người
tín hữu có nhiệm vụ và bổn phận phải truyền giáo tùy theo bậc sống của mình.
Mục đích truyền giáo là
giới thiệu Chúa cho mọi người, giúp mọi người tin vào Chúa và đón nhận ơn cứu
độ. Là một tín hữu bình thường, chúng ta phải có sự hiểu biết sâu xa về Chúa
qua việc không ngừng trau dồi kiến thức giáo lý. Vì làm sao ta có thể giới thiệu
một người cho người khác nếu ta không hiểu không biết người đó là ai? Bên cạnh
việc giới thiệu Chúa cho người khác, chúng ta còn phải làm chứng cho Chúa trong
cuộc sống hằng ngày, đừng để đời sống của chúng ta phản chứng lại những gì
chúng ta loan báo trên môi trên miệng. Vì ngày hôm nay người ta cần chứng nhân
hơn thầy dạy, mặc dù thầy dạy cũng rất cần.
Vậy trước tiên chúng ta can
đảm tuyên xưng mình là người tin theo Chúa, đừng vì những lợi ích vật chất mà
ta chối bỏ niềm tin của mình.
Tiếp theo, chúng ta can đảm
sống cho những giá trị Tin Mừng như: sự thật, công bằng, bác ái…mặc dù đôi lúc
vì những giá trị này mà chúng ta phải chịu thiệt thòi, hiểu lầm.
Cuối cùng chúng ta phải
thực hành niềm tin của chúng ta. Làm sao người ta có thể tin có Chúa khi thấy một
người Công Giáo không thực hành niềm tin và lòng bác ái. Có ai đó đã thốt lên
“Tôi tin có đạo Công Giáo nhưng tôi không tin người Công Giáo” thật là đau
lòng!
Vậy mỗi người trong chúng
ta hãy thao thức ưu tư về việc truyền giáo. Thao thức lo âu chưa đủ, Chúa muốn
chúng ta hãy có những hành động cụ thể tùy theo bậc sống và khả năng của mỗi
người.
Lạy Chúa, Chúa đã từng băn
khoăn khắc khoải “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”, Chúa muốn mỗi người hãy
là những tay thợ gặt lành nghề. Xin Chúa ban thêm cho chúng con sự can đảm và
lòng hăng say giới thiệu Chúa cho những người chung sống và làm việc với chúng
con bằng chính cuộc sống chứng tá của chúng con. Xin cho chúng con biết cùng
cộng tác với Hội Thánh trong sứ mạng truyền giáo với hết khả năng và sức lực mà
Chúa ban và xem đó như là công việc “sống còn” của chúng con và của Gíao hội.
Suy niệm 2:
Công đồng Vatican II khẳng
định rõ rằng: “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành là truyền giáo” (Ecclesia
peregrinans natura sua missionaria est, Ad gentes 2). Sẽ không còn là Giáo Hội
nữa nếu như Giáo Hội không truyền giáo. Chính Chúa Giê-su, trước khi về cùng
Thiên Chúa Cha, đã trao lại sứ mạng truyền giáo cho Giáo Hội qua các tông
đồ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng”(Mc
16,15). Nhưng không phải đợi đến khi về trời, Chúa mới trao sứ mạng này cho các
Tông Đồ, mà ngay khi còn ở tại thế, Chúa đã sai phái không chỉ 12 tông đồ ra đi
rao giảng Tin Mừng mà Người còn chỉ định thêm 72 môn đệ nữa. Vì đây là sứ mạng
quan trọng nên trước khi sai 72 môn đệ lên đường thi hành sứ vụ truyền giáo,
Chúa Giêsu căn dặn các ông nhiều điều:
1. Gắn bó mật thiết với Chúa bằng cầu nguyện: Ý
thức Thiên Chúa mới chính là chủ mùa gặt. Nên Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “hãy
xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. Bởi vì chỉ có Chúa mới đánh động
lòng người và làm cho người ta tin vào Chúa; chứ con người không có khả năng
làm được điều đó.
2. Tin tưởng và phó thác vào Chúa: Khi thi hành sứ vụ loan
báo tin mừng, Chúa muốn các môn đệ phải tuyệt đối tin tưởng vào sự quan phòng
của Chúa, đừng quá nương tựa vật chất: “Ðừng mang theo túi tiền, bao
bị, giày dép…”. Cũng đừng quá sợ hãi khi đối mặt với những hiểm
nguy “như chiên con đi vào giữa bầy sói”.
3. Sống tinh thần siêu thoát: Bằng
lòng với cuộc sống hiện tại, không so đo tính toán, đứng núi này trông núi nọ:
“Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó,
vì làm thợ thì đáng được trả công. Ðừng đi hết nhà nọ đến nhà kia”. Sẵn
sàng cắt đứt mọi liên hệ với những ai không đón tiếp mà không hề vương vấn hay
tiếc nối: “vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra
các quảng trường mà nói: Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi,
chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này:
Triều Ðại Thiên Chúa đã đến gần”.
4. Khiêm tốn cộng tác với nhau: Để
loại trừ tính kiêu căng tự mãn, nhưng biết khiêm tốn đón nhận và hợp tác làm
việc với anh em trong nhiệm cao quý là loan báo Tin mừng, nên Chúa
đã “sai các ông cứ từng hai người một”. Nhờ cộng tác với nhau
nên lời chứng của các môn đệ đáng tin cậy và có sức mạnh lay động người nghe.
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa đã từng băn khoăn khắc khoải khi nhìn thấy “lúa chín đầy đồng
mà thợ gặt lại ít”. Hôm nay, cánh đồng truyền giáo vẫn còn bao la bát ngát. Vì
thế, Chúa cũng muốn sai mỗi người chúng con ra đi khỏi vùng ngoại biên đi đến
vùng đất mới, môi trường mới và gặp gỡ những con người mới để loan báo niềm vui
tin mừng. Xin cho chúng con ý thức được những điều mà Chúa đã căn dặn các môn
đệ xưa kia mà áp dụng vào đời sống chúng con hôm nay, khi thi hành sứ mạng
truyền giáo.
Thứ sáu: Nhớ thánh Phanxicô Assisi.
Suy niệm 1: Lc 10, 13-16.
Đức Giêsu là Thiên Chúa làm
người. Người luôn hiền hậu và khiêm nhường, giàu lòng thương xót với mọi người,
ngay cả tim đèn leo lét Người không nỡ dập tắt; cây lau bị ngã, Người không nỡ
bẻ gãy. Thế nhưng tại sao Người lại quở trách nặng lời với các thành: Corozain,
Bethsaiđa và Capharnaum? Để hiểu được điều này, chúng ta hãy để tâm lắng nghe
lời Chúa nói với chúng ta trong bài tin mừng hôm nay.
Chúa Giê-su xuống thế làm
người, sau 30 năm sống ẩn dật, Người ra đi rao giảng Tin Mừng, mạc khải Thiên
Chúa Cha, kêu gọi mọi người sám hối và tin vào Tin Mừng. Những thành như
Corozain, Bethsaiđa hay Capharnaum là những thành được diễm phúc nghe lời giáo
huấn của Chúa, được chứng kiến những phép lạ Chúa làm. Nhưng những người ở đây
lại lòng chai dạ đá, cứng đầu cứng cổ, không chịu ăn năn sám hối, canh tân đời
sống mà lại khước từ những lời giáo huấn của Chúa. Thế là Chúa phải thốt lên
những lời quở trách xem ra rất nặng nề: “khốn cho ngươi”. Giả như Chúa
đến rao giảng cho những thành dân ngoại như Tyrô và Siđon thì hẳn họ đã chú tâm
lắng nghe mà ăn năn sám hối từ lâu rồi. Vì thế mà Chúa cho biết trong ngày phán
xét những thành đó sẽ được xét xử khoan hồng hơn những thành đã được Chúa rao giảng
Tin Mừng và kêu gọi sám hối.
Vì sao dân chúng ở những
thành này lại không chịu ăn năn sám hối và tin theo Chúa. Có thể vì họ quá biết
về Chúa Giê-su. Một người xuất thân từ một gia đình nghèo ở một làng quê hẻo
lánh, là con của một bác thợ mộc tầm thường... Do bởi cái nhìn định kiến như
thế nên họ đã không nhận ra Đức Giê-su là Con Thiên Chúa. Cũng rất có thể họ tự
hào mình là dân riêng của Thiên Chúa, là con cháu của tổ phụ Abraham, đương
nhiên họ sẽ được Thiên Chúa nâng lên đến tận trời.
Có thể những lời khiển
trách của Chúa Giê-su dành cho những thành như Corozain, Bethsaiđa hay
Capharnaum cũng là những lời dành cho chúng ta hôm nay. Bởi nhờ bí tích
Rửa Tội, chúng được Chúa chọn làm dân riêng của Chúa, được diễm phúc
lắng nghe Lời Chúa chỉ dạy, nhất là được đón nhận chính Mình và Máu Chúa vào
trong cung lòng. Thế nhưng đời sống của chúng ta nhiều khi chẳng khác gì một
người không biết Chúa, có khi còn tệ hơn nữa. Lắm khi ta cũng bon chen, tranh
giành, lọc lừa, mưu mô xảo quyệt theo kiểu người đời, cũng như dễ dàng khước từ
những lời giáo huấn của Chúa và GH để sống theo ý riêng của mình.
Xin Chúa cho chúng ta biết
nhận ra những lầm lỗi, thiếu sót của mình để khiêm tốn đón nhận những lời hướng
dẫn của Chúa qua giáo huấn của GH và các vị mục tử mà thật tâm sám hối về những
thiếu sót, tội lỗi của mình để đời sống sao cho phù hợp với thánh ý của Chúa.
Suy niệm 2: Mt 11, 25-30.
Mạc khải cho biết, Đức
Giêsu mang hai bản tính: Thiên tính và nhân tính. Nếu bỏ qua Thiên tính mà xét
theo nhân tính, thì Tin mừng hôm nay cho biết Đức Giêsu là một người tuyệt vời,
bởi Ngài luôn có được tâm an và khí hòa.
1. Với tâm an:
Ngài đã nhìn mọi sự xảy đến trong đời sống hết sức an nhiên và bình thản. Trước
những thành công, Ngài không tỏ ra hãnh diện và kiêu kỳ. Khi đối mặt với thất
bại, Ngài không thua buồn, buông xuôi bỏ cuộc. Tất cả đều được Ngài nhìn dưới
ánh sáng của niềm tín thác vào kế hoạch của Thiên Chúa Cha.
- Nhờ tâm an, nên Ngài sáng
suốt nhận ra rằng: chính vì lòng đầy kiêu căng và tự mãn là nguyên nhân làm cho
những người Biệt phái, các Kinh sư không còn khả năng đón nhận mầu nhiệm nước
trời.
- Nhờ tâm an nên Ngài biết
được: Do lòng khiêm tốn của những người thu thuế, tội lỗi, bệnh tật và ít học…,
gọi chung là những kẻ bé mọn mà họ đón nhận được mầu nhiệm cao quý nước trời.
2. Với khí hòa: Ngài
không nổi nóng và loại trừ những kẻ kiêu căng chống đối; cũng như không hãnh
diện tự hào trước những người tin nhận và muốn tôn Ngài làm vua. Trái lại, Ngài
sáng suốt hướng họ đến cách sống tốt đẹp hơn:
- Với những kẻ cứng cỏi và
kiêu căng, Ngài mời gọi họ đến với Ngài để học lấy bài học quan trọng làm người
đó là hiền lành và khiêm nhường.
- Với những người khiêm
nhường và hiền lành, Ngài mời gọi họ tiến thêm một bước nữa trong đời sống đức
tin mà sẵn sàng mang vào ách và vác lấy gánh của Ngài. Nghĩa là đi theo để thi
hành giới luật tình yêu của Chúa dạy.
Dẫu biết rằng khi mang ách
và vác lấy gánh của Chúa thì rất nặng nề và nhọc mệt. Bởi con đường theo Chúa
là con đường hẹp và là đường thập giá. Biết thế, nên Chúa Giêsu tha thiết mời
gọi những người này hãy đến với Ngài để Ngài nâng đỡ và bổ sức cho và Ngài đảm
bảo rằng: “Ơn Ta đủ cho con”(2Cr 12,9).
Tóm lại sứ điệp lời Chúa
hôm nay giúp chúng ta hiểu rằng: Muốn có được tâm an, khí hòa mà bình tâm đón
nhận những biến cố vui buồn trong cuộc sống; cũng như sáng suốt giải quyết mọi
vấn đề một cách tốt đẹp nhất theo ý Chúa, chúng ta cần phải luôn có cái nhìn
đức tin. Nhưng để có cái nhìn đức tin, đòi buộc trước hết chúng ta phải hoàn
thiện đời sống nhân bản là hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Xin Chúa cho ta biết sống
hiền lành (kỹ năng mềm) và khiêm tốn (kỹ năng thấp) trước Chúa, tha nhân và
lương tâm. Nhất là xin cho ta có được đức tin vững mạnh để can đảm đi theo Chúa
đến cùng trong việc thực thi giới luật tình yêu mà Chúa chỉ dạy. Nhờ đó, ta mới
xứng đáng trở thành những kẻ bé mọn trong nước trời.
Thứ bảy: Lc 10, 17-24.
Các môn đệ trở về sau khi
ra đi loan báo Tin Mừng, lòng đầy hớn hở vui mừng vì thành quả đã đạt được.
Nhưng Chúa bảo các ngài chớ vội mừng về những thành quả đó. Vì sao vậy? Có thể
Chúa chưa hoàn thành sứ mạng cứu chuộc nhân loại mà Thiên Chúa Cha giao phó nên
quyền lực ma quỷ và sự dữ vẫn còn hoành hành thế gian; cũng có thể Chúa không
muốn các môn đệ tự cao tự mãn về những gì các ngài làm được. Chúa muốn các ngài
hãy vui mừng vì phần thưởng dành cho các ngài ở trên trời.
Thật vậy! Quê thật của
chúng ta, đích điểm của cuộc đời chúng ta là ở Nước Thiên Đàng. Cuộc sống ở
trần gian chỉ là một cuộc lữ hành. Cho dù ở trần gian này có hạnh phúc thế nào
đi nữa, rồi cũng sẽ qua, của cải vật chất có nhiều bao nhiêu, tất cả cũng sẽ
hết khi ta nhắm mắt xuôi tay. Của cải trần gian chỉ là phương tiện cho ta sử
dụng, ta phải sử dụng làm sao để đạt được Nước Trời mai sau.
Tất cả những điều trên,
không phải ai cũng hiểu được. Chỉ những ai có tâm hồn đơn sơ bé nhỏ mới hiểu
được những mạc khải của Thiên Chúa. Không phải Thiên Chúa không mạc khải cho
những nhà thông thái, nhưng vì họ tự cho họ hiểu biết hết mọi sự, họ không cần
ai dạy bảo và hướng dẫn. Ơn Thiên Chúa ban giống như mưa từ trời, ai biết đem
đồ ra hứng thì mới lấy được nước mưa. Một ly nước đã đầy làm sao có thể đổ thêm
nước vào nữa, có đổ vào thì nó cũng tràn ra ngoài; tâm hồn của một người đã bị
lấp đầy những sự hiểu biết thế gian và đầu óc con người bị nhét đầy bởi tính tự
cao tự mãn thì làm sao hiểu được những điều cao siêu mà Thiên Chúa mạc khải.
Các môn đệ là những người
có phúc. Vì các môn đệ đang sống với Chúa, lắng nghe những lời giáo huấn của
Chúa. Chúa Giê-su chính là mạc khải cuối cùng và là mạc khải trọn vẹn của Thiên
Chúa dành cho nhân loại. Điều mà các ngôn sứ và vua chúa thời xưa hằng mong
ước. Ngày xưa, trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa mạc khải cho dân Ít-ra-en qua các
ngôn sứ, các ngôn sứ chỉ loan báo Đấng Cứu Thế là Chúa Giê-su sẽ xuất hiện
trong tương lai và các ngài hằng ao ước Đấng Cứu Thế sẽ đến vào thời các ngài.
Nhưng mơ ước cũng chỉ là ước mơ.
Phúc của các môn đệ cũng là
phúc của mỗi người chúng ta. Ngày hôm nay chúng ta sống trong thời Tân Ước,
chúng ta không còn phải chờ đợi một mạc khải nào nữa từ Thiên Chúa. Chính Chúa
Giê-su đã đến, Người chính là mạc khải trọn vẹn và cuối cùng của Thiên Chúa và
Người đã mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta, như có lần Người đã từng phán: “Ai
thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Thế mà nhiều khi chúng ta lại còn đi tìm
kiếm những mạc khải khác, chúng ta tin vào những ma thuật bói toán, những tiên
đoán này, nọ vì niềm tin của chúng ta đặt nơi Thiên Chúa chưa thật vững mạnh.
Lạy Chúa, xin Người củng cố
và gia tăng thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con cảm thấy hạnh phúc được
gọi Thiên Chúa là Cha, cảm nhận Chúa thật gần gũi và luôn hiện diện với chúng
con trong cuộc sống hằng ngày. Còn gì hơn, khi chúng con được nghe chính Chúa
dạy dỗ và hướng dẫn, được chính Chúa nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Chúa mỗi khi tham
dự thánh lễ, điều mà bao người mơ ước mà không được. Xin Chúa cũng soi lòng mở
trí giúp chúng con hiểu rằng cuộc sống ở trần gian này chỉ là tạm bợ, chóng
qua, đích điểm và mục đích cuối cùng của chúng con chính là phần thưởng Nước
Trời, để chúng con luôn biết sống theo thánh ý Chúa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét