SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN II PHỤC SINH
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH NĂM
A
Cv 2,42-47; 1Pr 1, 3-9;
Ga 20, 19-31
Hàng năm Giáo Hội dành một ngày Chúa nhật II Phục sinh để
suy tôn Lòng Thương Xót Chúa. Tin Mừng hôm nay trình thuật lại sự kiện Chúa
Giêsu phục sinh hiện ra với các tông đồ, nhất là đối với Tôma để bày tỏ lòng
thương xót của Người ngang qua các vết thương mà Người mang lấy vì tội lỗi chúng
ta.
Xin Chúa phục sinh củng cố lại niềm tin, trao ban bình an
và sức mạnh của CTT, để chúng ta can đảm thực thi sứ mạng lòng thương xót của Chúa
cho mọi người, với mong muốn ai nấy đều được đón nhận lời chúc phúc của Chúa
phục sinh: “phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Theo như lịch phụng vụ, thì cứ vào Chúa nhật II
Phục sinh hàng năm, GH suy tôn lòng thương xót Chúa. Vậy lý do nào mà GH lại
chọn Chúa nhật hôm nay mà không phải những ngày khác trong năm để tôn kính lòng
thương xót Chúa? Có 3 lý do chính:
- Thứ nhất là do
chính Chúa Giêsu mạc khải cho nữ tu Faustina.
Ngày 22/02/1931, Chúa Giêsu đã hiện ra và mặc khải cho nữ
tu Faustina, thuộc dòng Đức Mẹ Từ Bi ở Balan về lòng thương xót của Chúa và dạy
chị phải rao truyền lòng thương xót đó qua bức ảnh thánh cũng như chọn ngày
Chúa nhật II Phục sinh làm ngày lễ kính lòng thương xót của Chúa. Chúa Giêsu
nói với chị Faustina rằng: “Hãy vẽ bức ảnh như con nhìn thấy đây với hàng
chữ: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa. Ta hứa, nếu ai tôn kính ảnh
này sẽ không bị hư mất. Ta cũng hứa sẽ
giúp linh hồn đó toàn thắng các kẻ thù trong cuộc sống, nhất là trong giờ lâm
tử. Ta sẽ bảo vệ, gìn giữ linh hồn nó. Ta mong muốn tấm ảnh này được tôn kính
trên toàn thế giới.” Theo lệnh của cha linh hướng, chị Faustina có hỏi Chúa về
ý nghĩa hai màu sắc của hai luồng sáng đó, thì Chúa trả lời: “Hai luồng sáng đó
biểu thị cho máu và nước, luồng trắng chỉ nước, nó làm cho linh hồn nên công
chính. Luồng đỏ chỉ máu, đó là sự sống của linh hồn. Hai luồng sáng này được
ban ra do lòng thương xót vô bờ của trái tim Ta, mà người lính đã lấy đòng đâm
thâu khi Ta bị treo trên Thập giá. Phúc thay những linh hồn nào luôn biết nương
náu trong nơi trú ẩn này, vì cánh tay công thẳng của Thiên Chúa sẽ không đánh
phạt họ.”.
- Thứ hai là do
chính thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thiết lập.
Ngày 30/04/2000, Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã
phong hiển thánh cho chị nữ tu Faustina, tông đồ của lòng thương xót và đã lập
lễ kính lòng thương xót của Chúa trên toàn Giáo hội vào chúa Nhật II Phục sinh,
đúng như ước muốn của Chúa nói với chị Faustina: “Ta ao ước là lễ kính lòng
thương xót của Ta phải được cử hành vào Chúa nhật 2 Phục sinh”. Như vậy thánh
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chính thức công nhận việc tôn sùng lòng thương
xót của Chúa, để mọi người, đặc biệt là các tội nhân biết tin tưởng mau mắn
chạy đến với tình yêu đầy nhân ái của Người, như Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ
Faustina rằng: “không một linh hồn nào phải sợ sệt khi đến gần Ta, dù tội lỗi
của nó có đỏ như máu đi nữa...”.
- Thứ ba do phụng
vụ lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến lòng thương xót Chúa.
1. Tin mừng hôm
nay cho biết cả hai lần hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu phục sinh đều trao
chúc bình an cho các ông. Bình an phải là món quà quý giá nhất mà các tông đồ
đang cần trong lúc hoang mang, sợ hãi vì những người Do Thái đang tìm cách giết
hại. Với lòng thương xót, Chúa Giêsu thấu hiểu điều ấy nên Người đã hiện ra
chấn an các ông, trao ban ơn CTT và bình an, để củng cố niềm tin cho các ông.
2. Cũng vì lòng thương xót, Chúa đã không hề chấp nhất
thái độ thách thức của tông đồ Tôma. Trái lại, Người cảm thông tha thứ cho Tôma
và còn đã chiều ý Tôma mà hiện ra lần hai để củng cố thêm đức tin cho ông.
3. Mỗi lần hiện ra Chúa đều mời gọi tông đồ nhìn vào
những vết đinh nơi tay và vết giáo nơi cạnh sườn Người. Chính những vết thương
ấy là dấu chứng hùng hồn của một vị TC giàu lòng thương xót, đã sẵn sàng ôm lấy
hết những vết thương do tội lỗi con người gây ra vào thân thể Người, để đóng
đinh nó vào thập giá. Và sẵn sàng đổ đến giọt máu cuối cùng từ trái tim nhằm
tẩy xóa mọi vết nhơ tội lỗi của con người. Và từ cạnh sườn, Người đã để cho
nước và máu tuôn trào đến giọt cuối hầu khơi nguồn ân sủng và sự sống mới qua
các bí tích Người đã lập.
4. Lòng thương xót Chúa không chỉ dừng lại nơi các tông
đồ mà Người còn muốn trao ban cho hết mọi người nên sau khi trao ban bình an và
củng cố đức tin cho các tông đồ, Chúa phục sinh tiếp tục trao ban Thánh Thần và
năng quyền tha tội cho các tông đồ, để qua các tông đồ, nhờ sự tác động của
Thánh Thần, Chúa yêu thương ban ơn tha thứ cho kẻ có tội thật lòng ăn năn. Chính
vì thế mà GH đã xác quyết: “Tha thứ chính là đỉnh cao của lòng thương xót”.
Xin Chúa cho chúng ta cũng biết luôn tin tưởng vào Chúa
trong mọi hoàn cảnh, biết sống yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho nhau; nhất là
biết luôn nghĩ đến mưu cầu lợi ích cho tha nhân mà tận tình hy sinh phục vụ với
niềm tín thác vào lòng thương xót Chúa.
BÀN TAY CỦA
YÊU THƯƠNG
Truyện kể:
Trong một tiết dạy vẽ, cô giáo bảo các em học sinh lớp
một vẽ điều gì đã làm các em thích nhất trong đời. Cô thầm nghĩ: “chắc rồi các
em cũng lại vẽ những gói quà, những ly kem hoặc những món đồ chơi, quyển chuyện
tranh…”. Thế nhưng cô đã hoàn toàn ngạc
nhiên trước một bức tranh lạ của em học sinh tên là Douglas: Bức tranh vẽ
một bàn tay!
Nhưng đây là bàn tay của ai? Cả lớp bị cuốn hút bởi hình
ảnh đầy biểu tượng này. Một em đoán: “ Đó là bàn tay bác nông dân”. Một em khác
cho rằng: “ Bàn tay thon thả thế này phải là bàn tay của một bác sĩ giải
phẩu…”. Cô giáo đợi cả lớp bớt xôn xao dần rồi mới hỏi tác
giả. Douglas cười ngượng ngịu: “Thưa cô, đó là bàn tay của cô ạ!”.
Cô giáo ngẫn ngơ. Cô nhớ lại những phút ra chơi, cô
thường dùng bàn tay để dắt Douglas bước ra sân, bởi em là một cô bé tật nguyền,
khuôn mặt không được xinh xắn như các bạn trẻ khác, gia cảnh từ lâu lâm cảnh
ngặt nghèo. Cô chợt hiểu ra, tuy cô vẫn làm điều tương tự với các em khác,
nhưng hóa ra đối với Douglas, bàn tay cô lại mang một ý nghĩa sâu xa, một
biểu tượng của tình yêu thương.
Nếu bàn tay cô giáo là hình ảnh đẹp nhất trong tâm hồn em
bé khuyết tật Douglas, thì Bàn Tay Chúa Giêsu phải là hình ảnh tuyệt vời
nhất đối với nhân loại. Bởi lẽ bàn tay ấy mang đầy những dấu vết của
lòng thương xót. Vì thế mỗi lần hiện ra với các tông đồ, đặc biệt với Tôma qua
đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa đều mời gọi các tông đồ xem đôi bàn tay của Người.
Bàn tay mang vết tích tình yêu dành cho Chúa
Cha:
- Chúa Giêsu luôn hướng về Chúa Cha bằng một tình yêu mật
thiết, được thể hiện qua đôi bàn tay của cầu nguyện.
Đôi bàn tay hướng về Cha trong tư thế cầu nguyện mỗi khi
bắt đầu ngày sống, xin Cha hướng dẫn và ban ơn giúp sức để những việc làm trong
ngày sống được hoàn thành tốt đẹp theo ý Cha. Đôi bàn tay hướng về Cha
suốt đêm dài, mỗi khi quyết định những việc làm quan trọng. Xin Cha ban ơn sáng
suốt để chọn lựa điều tốt nhất, theo ý muốn của Cha. Đôi bàn tay từng cầm
bánh và rượu đưa lên cao hướng về Chúa Cha để chúc tụng, tạ ơn. Xin Cha chúc
lành cho những lương thực hưởng dùng. Đôi bàn tay đưa cao hướng lên trời,
kêu xin sự sống cho La-da-rô. Bàn tay chấp lại trong lo sợ, thiết tha khẩn
cầu xin Cha cất khỏi chén đắng trong tinh thần phó thác. Bàn tay dang rộng trên
thập giá đau đớn vang xin Chúa Cha tha thứ cho những người giết hại mình.
Bàn tay mang vết tích yêu thương con người đến
cùng:
Đôi bàn tay Chúa Giêsu luôn hướng đến con người để cảm
thông chia sẻ và giúp đỡ bằng tình yêu hy sinh.
Bắt đầu bằng đời sống lao động vất vả nơi gia đình
Nazarét. Bàn tay từng cầm cưa, búa, đục để làm mộc cùng với thánh Giuse lo của
ăn cho gia đình.
Bàn tay sẵn sàng mở ra ban ơn tha thứ biết bao tội nhân
biết ăn năn sám hối như Maria Macdala, cho ngưuời phụ nữ ngoại tình, cho
Giakêu…, đã chữa lành biết bao người đau ốm, bằng cách đặt tay trên mắt người mù
bẩm sinh, trên tai và lưỡi của người câm điếc, trên thịt da lỡ lóet của người
mắc bệnh hủi, trên trán giá lạnh của con gái Giai-rô, trên tay nóng sốt của bà
nhạc mẫu Phêrô….
Bàn tay quyền thế đã truyền khiến giông tố và sóng gió
yên lặng, đã cầm roi xua đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đến thờ, đã xua trừ ma
quỷ, đã chúc dữ cho những người biệt phái.
Bàn tay bị đâm thủng, nơi ấy vẫn còn lỗ đinh được ghi lại
tình yêu Chúa dành muôn thế hệ. Bàn tay bị nộp cho lý hình, bị đóng đinh
vào thập giá và phải mang lấy thân xác nặng nề đau xé suốt ba giờ liền trên
thập giá. Tất cả chỉ vì tình yêu con người.
Khi mời gọi các tông đồ nhìn xem tay Chúa vừa để chứng
thực chính Người là Thiên Chúa giàu lòng thương xót; vừa để mời gọi các ông học
lấy bài học yêu thương “như Người đã yêu”.
Khi mời gọi các tông đồ nhìn vào đôi bàn tay của Chúa là
để nhắc nhở các ông không chỉ thi hành mệnh lệnh loan báo tin mừng trên môi
miệng mà còn phải thực hiện lời rao giảng trên đôi tay mở ra để giúp đỡ những
người bé nhỏ, nghèo nàn, yếu đau. An ủi những ai đau khổ, bất hạnh và vỗ về
những ai cô đơn, tội lỗi. Hàn gắn những gia đình bị rạng nứt và đổ vỡ.
Nhìn bàn tay Chúa để các tông đồ hiểu rằng việc truyền
giáo sẽ không bao giờ đạt kết quả, nếu thiếu đời sống cầu nguyện nên “hãy
xin với chủ ruộng” .
Đôi bàn tay giơ cao hướng về Chúa để xin ơn. Xin Chúa ban
ơn soi sáng, lòng nhiệt thành và sức mạnh cho những nhà truyền giáo. Xin Chúa
đánh đọng lòng người tiếp nhận tin mừng. Xin Chúa chúc lành cho công cuộc
truyền giáo.
Đôi bàn tay dang rộng hướng về tha nhân, bằng cách chấp
nhận chịu đâm thủng của những dấu đinh vất vả, hy sinh, đau khổ vì tình yêu.
Bàn tay yêu thương đó được minh chứng nơi cộng đoàn tín
hữu đầu tiên. Họ đồng tâm hướng đôi bàn tay lên Chúa bằng đời sống cầu nguyện,
bằng lắng nghe Lời Chúa và lời giảng dạy của các tông đồ, cùng hiệp thông trong
nghi lễ bẻ bánh.
Họ cũng dùng bàn tay hướng về anh em để chia sẻ trong
tình bác ái. Tự nguyện dâng cúng tài sản riêng làm của chung. Chấp nhận bán hết
tài sản để trợ giúp cho người túng thiếu. Họ cư xử với nhau như anh em một nhà.
Chính đời sống ấy lôi cuốn biết bao người xin gia nhập Kitô giáo.
Sứ mạng loan báo Tin mừng tình thuơng được Chúa phục sinh
trao ban cho các tông đồ, qua các tông đồ cho các kitô hữu đầu tiên và hôm nay
sứ mạng ấy Chúa trao lại cho mỗi người chúng ta.
Xin Chúa cho đôi bàn tay của chúng con luôn biết nắm chặt
lấy bàn tay Chúa bằng đời sống cầu nguyện để chúng con không cảm thấy mệt mỏi
khi thực thi sứ mạng của lòng thương xót Chúa qua những bổn phận hàng ngày.
Thứ hai: Ga 3,1-8.
Tin mừng hôm nay thuật lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu
và Nicôđêmô. Qua cuộc đối thoại này, Chúa giải thích cho ông Nicôđêmô hiểu được
ý nghĩa của việc “tái sinh”; đồng thời Chúa Giêsu cũng cho ông ta biết giá trị
và mục đích của việc “tái sinh” là để được làm con Chúa và được
vào nước trời.
Xin cho chúng ta biết quý trọng những ơn ích Chúa
ban trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội mà sống xứng danh làm con
Chúa.
Nếu phụng vụ lời Chúa trong tuần bát nhật phục sinh nhằm
củng cố cho các tín hữu mới tòng đạo xác tín niềm vững vàng vào sự phục sinh
Chúa Giêsu; thì phụng vụ lời Chúa tuần II phục sinh nhằm giúp các kitô hữu hiểu
rõ hơn về giá trị, ý nghĩa và mục đích của bí tích rửa tội mà sống niềm tin sao
cho phù hợp với ơn gọi của người kitô hữu.
Nicôđêmô, thủ lãnh người Do Thái, có địa vị, có học
thức cao và là thành phần trong công nghị, được mọi người kính
nể. Nghe những lời giảng dạy và chứng kiến những phép lạ Chúa Giêsu làm, ông
cảm phục, tin nhận Chúa Giêsu là tôn sư đến từ Thiên Chúa. Tuy nhiên vì có
nhiều điều không hiểu nên trong đêm khuya ông không ngần ngại tìm đến để gặp Chúa
Giêsu để xin Người giải đáp.
Nghe những lời giảng hay, chứng kiến nhiều phép lạ nếu để
vui tai, thích mắt thì chẳng ích lợi gì nếu bản thân chúng ta không thay đổi
trở nên tốt hơn. Giảng dạy và phép lạ chỉ là phương tiện, nước trời mới là
đích điểm.
Nhưng làm thế nào để đạt được nước trời?
Trong cuộc đàm đạo với Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã chỉ cho
ông cách thức rất cụ thể để vào nước trời đó là phải “tái sinh”. Nicôđimô,
chỉ hiểu tái sinh theo nghĩa xác thịt, theo cách thức tự nhiên nên ngây ngô
thốt lên: “Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh ra được? chẳng lẽ người đó
có thể trở vào lòng mẹ lần thứ hai để sinh ra sao?”. Chứng tỏ ông không hiểu
việc tái sinh theo nghĩa siêu nhiên mà Chúa Giêsu đề cập đến : “Tái
sinh bởi nước và Thần Khí”.
Để là người, chúng ta phải được sinh ra bởi cha mẹ. Các
ngài đã truyền cho chúng ta sự sống tự nhiên. Để trở nên người, chúng ta
phải được hướng dẫn giáo dục nhờ gia đình và xã hội. Nhưng để trở thành
người con Chúa, chúng ta phải được sinh lại trong Chúa Thánh Thần nhờ bí tích
rửa tội. Qua bí tích rửa tội Chúng ta được Chúa ban cho sự sống siêu nhiên.
Như thế, để làm người và nên người, chúng ta phải được
sinh ra theo lối tự nhiên bởi cha mẹ. Nhưng để là người con Chúa, chúng ta phải
được sinh ra theo lối siêu nhiên bởi nước và Thánh Thần qua bí tích rửa
tội. Nhờ tái sinh qua bí tích rửa tội, chúng ta được Chúa tha thứ tội lỗi,
được làm Con Chúa, được gia nhập vào Hội Thánh, được trở nên tạo vật mới mặc
lấy Đức Kitô và được kêu mời trở nên ánh sáng giữa trần đời.
Chúa Giêsu đã chết để tiêu diệt sự chết và sống lại để
phục hồi sự sống cho chúng ta. Vì thế chúng ta được Chúa kêu mời chết đi cho
con người cũ bất tòan, tội lỗi để sống con người mới hoàn hảo nhờ được tái sinh
trong Chúa.
Xin cho chúng ta biết ý thức gìn giữ và phát huy ơn trọng
đại làm con Chúa trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội. Biết
chừa bỏ tội lỗi, tính hư nết xấu mà sống con người mới thánh thiện tốt lành,
trở nên ánh sáng tin mừng phục sinh soi chiếu vào trần đời còn nhiều bóng
tối, hầu xứng đáng được vào Nước Chúa.
Thứ ba: Ga 3,7b-15.
Suy niệm 1:
Xây dựng Họ đạo trở thành một cộng đoàn hiệp thông là một
trong những tiêu chí mà GH luôn hướng đến. Điều này đã được HĐGM VN nhấn mạnh
đến trong thư mục vụ năm 2015, “Tân phúc âm đời sống Giáo xứ”.
Nhưng làm thế nào để xây dựng Họ Đạo trở thành một cộng
đoàn hiệp thông?
Thư mục vụ 2015 mời gọi chúng ta hãy chiêm ngắm và noi
gương đời sống cộng đoàn tín hữu thời GH ban đầu được sách CVTĐ hôm nói đến. Đó
là một cộng đoàn tín hữu không những hiệp thông bên ngoài: “…đối với
họ, mọi sự đều là của chung”, nhưng trên hết là bên trong “một lòng
một ý”. Qủa là cộng đoàn tín hữu tuyệt đẹp, đáng mơ ước!
Vậy nhờ vào đâu mà cộng đoàn GH non trẻ làm được điều kỳ
diệu ấy?
Có phải nhờ tài năng lãnh đạo của các tông đồ không? Chắc
chắn là không. Vì các tông đồ đa phần là những người bình dân học vụ, kiến thức
và kinh nghiệm lãnh đạo non nớt.
Có phải nhờ vào tình trạng dân trí cao và hiểu biết giáo
lý sâu rộng không? Chắn chắn là trình độ hiểu biết về giáo lý, kinh thánh cũng
như kiến thức khoa học của các kitô hữu bấy không sánh được như ngày nay…
Có phải nhờ vào nền kinh tế phát triển phồn vinh và đời
sống vật chất dân chúng bấy giờ dư đầy không? Chắn chắn là không!
Vậy nhờ đâu?
Thưa nhờ sức mạnh của đức tin.
Tin vào quyền năng của Thiên Chúa nên họ không ngại từ bỏ
ý riêng để cùng tùng phục ý Chúa.
Tin vào cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô do các tông
đồ làm chứng nên họ đã vượt lên những ích lợi vật chất đời này mà mưu tìm giá
trị vĩnh cửu mai sau.
Tin vào uy tín và thế giá của các tông đồ nên họ sẵn sàng
gom góp của cải mình có đem đến đặt dưới chân các tông đồ làm của chung.
Trên hết là vì họ tin vào tình yêu chân thành của nhau và
xem nhau như là anh em một nhà nên mong muốn “không ai phải thiếu thốn điều
gì”.
Đã có thời nhiều quốc gia, nhiều triết thuyết muốn xây
dựng xã hội thành một cộng đoàn hiệp thông như cộng đoàn của các Kitô hữu đầu
tiên, nhưng đều thất bại. Bởi lẽ sự hiệp thông ấy không đến từ sức mạnh con
người, nhưng đến từ sức mạnh bởi ơn trên. Chính vì thế mà trong bài Tin mừng
hôm qua Chúa Giêsu xác quyết mạnh mẽ với Nicôđêmô: “…không ai có thể thấy
nước Thiên Chúa , nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên”.(Ga 3,
3). Chính nhờ ơn ban của Thiên Chúa và sức mạnh biến đổi của Chúa Thánh Thần,
con người mới có thể tin nhận vào Chúa Giêsu, Đấng từ trời xuống, nhờ đó mà
được sống muôn đời như lời Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô trong bài Tin mừng hôm
nay .
Như thế để xây dựng Họ đạo thành một cộng đoàn hiệp thông
theo mô hình của các kitô hữu ban đầu, cần phải có đức tin: Tin vào Thiên Chúa
quyền năng, tin vào uy tín và thế giá của GH cũng như tin vào sự chân thành của
nhau. Mà đức tin là một ân ban từ trên cao và từ bên trong. Vì thế
chúng ta tha thiết xin Chúa củng cố niềm tin nơi mỗi người chúng
ta. Nhờ đó chúng ta mới có thể xây dựng Họ đạo trở thành một cộng đoàn
hiệp thông như cộng đoàn các tín hữu ban đầu.
Suy niệm 2:
Qua cuộc đàm đạo với Nicôđêmô trong bài Tin mừng hôm nay,
Chúa Giêsu xác nhận cho biết về nguồn gốc và vai trò của Người trong việc cứu
độ con người.
- Trước hết Chúa Giêsu minh chứng về nguồn gốc của Người.
Nguồn gốc của Người đến từ trời cao, nên Người biết và
thấy hết những điều kiện cần thiết để được sự sống đời đời. Điều kiện cần thiết
ấy chính là “phải được sinh lại bởi ơn trên”. Bởi
vậy trước khi lên trời, Chúa Giêsu đã truyền dạy các tông đồ đi loan báoTin
Mừng và rửa tội cho muôn dân: “Anh em hãy đi khắp tứ phương
thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép Rửa, sẽ
được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án…” (Mc 16, 15-16).
- Tiếp đến Chúa Giêsu cho biết vai trò của Người trong
việc cứu độ.
Với hình ảnh con rắn đồng được treo trong sa mạc thời
Mô-sê đã cứu chữa những người bị rắn lữa cắn khỏi chết, nhờ tin nhận và nhìn
lên rắn đồng, Chúa Giêsu mời gọi Nicôđêmô hãytin vào Ngài để được cứu độ.
Nếu xưa kia nguyên tổ đã nghe lời cám dỗ của ma quỷ, đưa
tay hái trái cấm trên cây mà ăn để rồi nhận lấy án tử, thì nay với cái chết và
sự phục sinh của Chúa Giêsu, Thánh Giá trở thành cây quả phúc,
Chúa Giêsu trở nên trái chín thơm lành, mang lại sự sống trường sinh cho những
ai tin tưởng nhìn lên Ngài và can đảm ăn lấy Ngài.
Tin tưởng nhìn lên Ngài và ăn lấy Ngài, đồng nghĩa với
việc chấp nhận đồng thân, đồng phận, và đồng tử với Chúa Giêsu trên con đường
khổ giá.
Như thế để được sự sống đời đời ngoài điều kiện được sinh
lại bởi ơn trên nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta còn phải can đảm dấn
bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá, qua việc chấp nhận những thử
thách, gian nan, khốn khó ở đời này với lòng tin tưởng vào mầu nhiệm tử
nạn và phục sinh của Chúa Giêsu.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta trong mùa phục sinh
này, biết ý thức sống trọn vẹn ơn tái sinh làm con Chúa, dưới sự tác động của
Chúa Thánh Thần; nhất là luôn can đảm chấp nhận vác thập giá mình,
bước theo Chúa Giêsu trong niềm xác tín: “Nếu chúng ta cùng chết với Ðức Kitô, chúng ta cũng
sẽ cùng sống với Người…” (Rm 6,8).
Thứ tư: Ga 3, 16-21
Suy niệm 1
Cùng với GH chúng ta đang sống trong năm thánh của lòng
thương xót Chúa.
Lòng thương xót của Thiên Chúa thể hiện qua suốt chiều
dài lịch sử và rộng khắp mọi nơi, mọi thời. Lòng thương xót của Chúa cũng thể
hiện qua muôn vàn cách thế với nhiều hình thức khác nhau. Cụ thể phụng vụ lời
Chúa hôm nay giúp chúng ta nhận ra một vài cách thế của lòng thương xót Chúa.
Bài đọc I cho biết: lòng thương xót Chúa được thể
hiện qua sự quan phòng kỳ diệu bằng việc giải thoát các tông đồ ra khỏi ngục tù
trong đêm tối, nhờ vào sự hướng dẫn của vị Thiên Sứ Chúa sai đến; cũng như qua
sức mạnh hỗ trợ của dân chúng, khiến cho các thượng tế phải dè chừng trước
những hành động sai trái của họ.
Còn bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho Nicôđêmô biết về
lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa qua việc trao ban chính Người Con yêu
dấu của Ngài “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi dã ban chính
người con của Ngài là đức kitô. Để ai tin vào người con ấy thì không phải chết
nhưng sẽ được sống đời đời”.
Lòng thương xót của Chúa thật vô biên. Đáng lẽ vì phạm
tội con người phải nhận lấy đau khổ và án chết đời đời, nhưng vì lòng thương
xót, Thiên Chúa đã hy sinh chính con mình là Đức Giêsu. Để nhờ và qua Người Con
ấy, con người được cứu độ.
Thánh Gioan xác quyết: Đức Kitô chính là Ánh Sáng. Chúa
đã đến thế gian nhằm xua tan bóng tối của tội lỗi và sự chết. Vì thế từ nay ai
tin nhận và bước theo Ánh Sáng ấy soi dẫn thì sẽ không chết trong bóng đêm tội
lỗi, nhưng sẽ được sự sống đời đời trong ánh sáng vinh quang.
Nhưng khốn thay thế gian lại sợ ánh sáng và thích bóng
tối, bởi vì ánh sáng phơi bày tội ác xấu xa của họ. Vì thế mỗi chúng ta hãy can
đảm bước vào vùng sáng chân lý, hãy mạnh dạn khướt từ bóng tối của đam mê dục
vọng và sự dữ, nhờ đó ánh sáng của lòng thương xót Chúa mới được lan tỏa đến
mọi người và mọi nơi.
Xin ánh sáng Chúa Kitô phục sinh được thắp lên trong lòng
của mỗi chúng ta để ta lan tỏa ánh sáng lòng thương xót Chúa đến những nơi còn
sống trong bóng tối tử thần với hy vọng mọi người tin nhận ánh sáng của lòng
thương xót Chúa mà được cứu độ..
Suy niệm 2:
Ánh sáng và bóng tối, sống và chết luôn tồn tại nơi trần
gian và trong mỗi người chúng ta. Muốn bước đi trong ánh sáng để được sự sống
đời đời, chúng ta cần phải đến cùng Đức Giêsu, nguồn ánh sáng và là Đấng ban
sự sống.
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dùng hình
ảnh Ánh Sáng để chỉ về Người.
Ánh sáng là thứ quan trọng và gần gũi với con người. Ánh
sáng rất cần thiết cho sự sống. Không có ánh sáng thì không có sự sống. Thảo
mộc , súc vật và con người nếu không có ánh sáng thì sẽ chết.
Ánh sáng giúp cho con người thấy nhau, thấy được vẽ đẹp
vũ trụ vạn vật, phân biệt được màu sắc và cảnh vật.
Trong lãnh vực siêu nhiên, Chúa Giêsu muốn nói đến sự cần
thiết của Ngài như ánh sáng không thể thiếu. Không có Người thì tạo vật không
được tạo thành. Không có Người không có ơn cứu rỗi. Không có Người không có sự
sống đích thực nơi con người.
Nhưng con người chúng ta lại sợ ánh sáng và ngại đến cùng
ánh sáng vì ánh sáng phơi bày tội lỗi chúng ta trước mặt Chúa và mọi người, nên
chúng ta yêu bóng tối hơn ánh sáng.
Xin Chúa giúp chúng ta biết can đảm đẩy lui
những bóng tối của gian dối, bất công, chia rẽ hận thù và sự chết ra khỏi
tâm hồn và môi trường sống của ta.
Xin cho chúng ta luôn yêu thích tắm dội ánh sáng
chân lý, tình thương và sự sống của Chúa Giêsu vào cuộc đời ta.
Suy niệm 3:
Sống trong xã hội vàng thau lẫn lộn, con người không còn
khả năng phân biệt đúng sai, tốt xấu, thật giả…vì thế, hơn bao giờ hết con
người ngày hôm nay cần có ánh sáng thật soi đường, chỉ lối.
Chúa Kitô, ánh sáng thật, đến trần gian để soi đường chỉ
lối. Xin cho chúng ta tin nhận và sống theo sự hướng dẫn của Ngài.
Ánh sáng là chủ đề tài nổi bậc trong tin mừng:
Ngay những trang đầu của tin mừng, thánh Gioan đã cho
biết Chúa Giêsu chính là “ánh sáng, ánh sáng thật, ánh sáng đến trần gian
và chiếu soi mọi người”.
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự xưng là ánh sáng thế gian
và Ngài mời gọi con người đi trong ánh sáng của Ngài.
Từ hai ngàn năm qua, Ngôi Lời Thiên Chúa đã chiếu ánh
sáng Thiên Chúa vào trần gian. Người mang lửa xuống trần gian. Người mong ước
cho ngọn lửa ấy cháy bừng lên, lan rộng ra. Nhưng nhìn vào tình hình thế giới
hôm nay, ta thấy bóng tối vẫn còn vây phủ con người.
Bóng tối chết chóc của chiến tranh, hận thù, của ô
nhiễm môi trường, của đói nghèo, áp bức, phân biệt chủng tộc, của nền văn hóa
sự chết giết hại cả những mầm mống sự sống.
Bóng tối tội lỗi. Tội lỗi vẫn tiếp tục lan tràn. Sự dữ
nổi lên dưới nhiều hình thức khác nhau. Nguy hiểm nhất là người ta đánh mất cảm
thức về tội lỗi, thản nhiên sống trong tội, sống chung với tội lỗi.
Bóng tối của hận thù ghen ghét. Trong thế giới văn minh
mà con người hô hào hôm nay, vẫn còn có những người say máu giết hại đồng bào
của mình, gây nên tội ác diệt chủng. Vẫn có những thế lực đen tối ngấm ngầm gây
chia rẽ giữa các quốc gia, dân tộc, giữa các cộng đoàn, hội thánh...
Sống trong xã hội tràn ngập bóng tối của sự chết, của tội
lỗi và hận thù…như thế, Chúa Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta phải chiếu
giãi trước mặt mọi người.
“Các con là ánh sáng thế gian”. Ngày nhận lãnh bí tích
rửa tội, Giáo Hội trao cho ta cây nến sáng để nhắc nhớ chúng ta hãy gìn giữ
ngọn nến ấy luôn cháy sáng mãi trong suốt cuộc đời.
Cây nến phục sinh mà người kitô hữu chúng ta thắp lên
trong đêm lễ phục sinh nhắc nhở chúng ta nhiệm vụ mang ánh sáng Chúa Kitô chia
sẻ cho mọi người chung quanh.
Xin Chúa giúp chúng ta tẩy sạch mọi bóng tối tội lỗi, để
thực sự được sinh lại cùng với Đức Giê-su. Trở nên con cái sự sáng bằng đời
sống tươi vui, an hoà, khiêm nhường, nhịn nhục, yêu thương, đoàn kết đến cho
anh em.
Suy niệm: Lm
Giuse Bùi Công Trác
““Thiên Chúa yêu thế gian đến
nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được
sống muôn đời.”.
Xin chia sẻ hai điều: Thiên Chúa yêu thương chúng ta và Thiên
Chúa mời gọi chùng ta tin vào Con của Ngài mà sống đức tin bằng đời sống tốt
lành.
1. TC yêu thế gian: Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe trong Tin
mừng, có người không ngần ngại nói đó là những lời đẹp nhất trong Tin mừng, là
chìa khóa để hiểu sứ điệp Lời Chúa. Qủa thật nếu chúng ta lật vở Thánh Kinh từ
những trang đầu của sách sáng thế ký cho đến những trang cuối cùng trong sách
khải huyền, chúng ta đều thấy rõ rệt tình yêu của TC đối với nhân loại. Những
lời nói mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng hôm nay thật đẹp vì nó vén mở
cho chúng ta thấy một dung mạo của một vị TC giàu lòng thương xót.
Quả thật “TC đã sai Con của Người đến thế gian không
phải để lên án thế gian nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”.
Đúng vậy, mỗi lần chúng ta ngắm nhìn Chúa Giêsu trên thập giá, chúng ta được
mời gọi cảm nhận tình yêu ấy, tình yêu mà chính Đức Giêsu nói: “Không có
tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu mình”. TC
yêu chúng ta đó là điều an ủi lớn lao cho chúng ta.
Tiên tri Isaia ghi lại lời Chúa như sau: “Có người mẹ
nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình mang nặng đẻ
đau? Cho dù nó có quên đi nữa thì Ta, Ta không quên người bao giờ. Này Ta ghi
ngươi trong lòng bàn tay Ta”. Thật là những lời an ủi cho chúng ta biết bao
nhiêu vì chúng ta biết TC yêu thương chúng ta từ muôn thuở và tình yêu ấy không
bao giờ đổi thay. Chúng ta có một TC như thế, bất kể chúng ta là ai, bất kể
chúng ta sống như thế nào, dẫu chúng ta yếu đuối và phản bội, dẫu chúng ta cứng
lòng và bất trung nhưng TC vẫn yêu thương và vẫn hiện diện nâng đỡ chúng ta
trong suốt cuộc đời trong suốt hành trình trần thế. Kinh nghiệm cho thấy chính
những lúc ta gặp thử thách nghi nan, đức tin mới giúp chúng ta nhận ra bàn tay
dịu hiền của TC, chỉ có đức tin mới giúp chúng ta cảm nếm được sự ngọt ngào và
nếu chỉ dùng lý trí suy luận chúng ta sẽ không bao giờ cảm nếm được.
TC yêu thương tôi, yêu thương quý ông bà và anh chị em,
đó là điều chúng ta cảm thấy an ủi lớn lao, bởi vì cho dẫu chúng ta có sống thế
nào, bê bối hay tội lỗi Chúa vẫn yêu thương. Thậm chí ngay cả khi chúng ta phạm
tội, TC lại yêu thương chúng ta nhiều hơn, chính thánh Phaolô đã cảm nghiệm điều
đó nên mới nói cho chúng ta biết rằng:“Ở đâu tội lỗi đầy tràn ở đấy ân sủng
TC càng chứa chan gấp bội” (Rm 5, 20).
2. Điều thứ hai xin chia sẻ với quý ông bà và anh chị em,
đó là tin vào Chúa.
Lời Chúa ngày hôm nay nhắc chúng ta, muốn được sống vĩnh
cửu với Chúa phải tin vào danh Con một TC và sống niềm tin ấy trong cuộc đời.
Nhưng trên thực tế chúng ta thấy niềm tin của chúng ta là một niềm tin mỏng
manh yếu đuối biết bao. Linh mục nhạc sĩ Nguyễn Duy có bài hát “Cho con vững
tin”, với những lời rất thấm thía và thật ý nghĩa: “Con tưởng rằng con vững
tin, tin vào Chúa là Cha nhân hiền, khi đời sống nhẹ trôi êm đềm với tháng ngày
lặng lẽ bình yên, nhưng khi đường đời gieo sóng gió bên trời ngập cơn mưa giông
tố, con lo âu lạc bến xa bờ, con mới biết rằng con chưa vững tin. Lạy Chúa Chúa
biết con yếu đuối và đổi thay, con luôn cần đến Chúa từng phút giây, nhờ ơn
Chúa con kiên trì tín thác kể từ đây khi an vui cũng như khi sầu đầy”.
Đúng lắm bởi vì niềm tin của chúng ta rất mỏng manh và
bọt bèo, niềm tin của chúng ta yếu đuối dễ đổi thay nên chúng ta cần đến Chúa,
nên chúng ta xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta.
Thánh Augustinô đã nói: “Chúa dựng nên con không cần đến
con nhưng để cứu chuộc con Chúa cần sự cộng tác của con”. Tuy dẫu rằng đức tin
chúng ta yếu đuối và mỏng manh, nhưng Chúa vẫn cần chúng ta cũng cần cộng tác
với ơn Chúa. Cho nên thánh Augustinô cũng nói: “Tin là kí vào một tờ giấy trắng
và để TC viết gì trên đó tùy ý Ngài”. Cộng tác với ơn Chúa đó là điều GH mời
gọi chúng ta, nhắc nhớ chúng ta chẳng những trong lời Chúa hôm nay mà còn trong
suốt cuộc đời mình cho dầu chúng ta có yếu đuối, chúng ta vẫn được Chúa mời gọi
cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ để chúng ta được cứu độ và công trình
cứu độ của Ngài được thực hiện trong cuộc đời này.
TC là đấng quyền năng Ngài làm được mọi sự, nhưng Ngài
lại cần đến sự cộng tác của chúng ta dẫu ta chẳng đáng gì. Nhờ có sự cộng tác
tích cực của chúng ta Chúa mới có thể bước được vào trong cuộc đời chúng ta và nhờ
đó mới đem lại ơn cứu độ cho ta và cho người khác.
TC yêu thương chúng ta dường nào và chúng ta có bổn phận
phải cộng tác với ơn Chúa dầu chúng ta yếu tin và hèn kém, để cảm nhận sự yêu
thương của TC trong cuộc đời mình, để chúng ta đủ sức đi trọn hành trình trần
thế trong tin yêu và phó thác.
Ngày hôm nay chúng ta cũng hãy cảm nhận điều ấy, TC yêu
thương con và TC muốn con cộng tác với Ngài trong chương trình cứu độ bằng việc
chu toàn bổn phận, bằng việc sống tốt lành trong ngày hôm nay và trong suốt
cuộc đời. Chúa yêu con dù con bất xứng, dù đời con nhiều lúc kém tin. Chấp tay
thành kính con xin, giúp con sống tốt trung trinh trọn đời. Amen.
Thứ năm: Ga 3, 31-36.
Suy niệm 1:
Cuộc sống là một chuỗi những lựa chọn. Chọn đúng làm cho
cuộc sống trở hạnh phúc. Chọn lựa sai sẽ làm cho ta bất hạnh. Chọn lựa là quyền
tự do căn bản của con người. Chính quyền ấy đã được Thiên Chúa ban tặng và luôn
tôn trọng. Vì thế chúng ta phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn ấy. Phụng vụ lời chúa hôm nay đặt ra cho các tông
đồ và Nicôđêmô những lựa chọn.
- Bài đọc I đặt ra cho các tông đồ đứng trước giữa hai
chọn lựa:
Chọn nghe theo lời các thượng tế im lặng trước sự thật về
sự kiện phục sinh của Chúa Giêsu thì được an phận. Còn nếu lên tiếng rao giảng
và làm chứng cho sự thật ấy thì sẽ nguy hại đến bản thân. Nhưng nhờ ơn sức
mạnh của Chúa Thánh Thần thúc đẩy, các ngài đã mạnh mẽ chọn đứng về sự thật: “Vâng lời Thiên Chúa hơn là
vâng lời người phàm”.
- Còn bài tin mừng hôm nay thì Chúa Giêsu lại
đặt ra cho Nicôđêmô về hai chọn lựa: tin hay không tin vào Ngài. Chúa Giêsu
nói:“Ngài chính là Đấng được Thiên Chúa sai đến, Ngài nói những lời
của Thiên Chúa… ai tin vào Ngài thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào
Ngài, thì sẽ không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng
trên người ấy”. Ta không biết sau đó ông đã chọn lựa thế nào, bởi tin mừng
bỏ ngỏ. Điều này khiến chúng ta lại phải nghĩ đến quyết định lựa chọn của mỗi
người chúng ta.
- Đúng vậy, chọn lựa luôn gắn liền với đời sống chúng ta.
Nhìn lại cuộc sống thường ngày, chúng ta thấy mình thích chọn lựa những gì xem
ra nhẹ nhàn, dễ dãi, không thích chọn gian khổ hy sinh; chúng ta thích chọn
nghe những lời ngon ngọt, a dua, ngợi khen chúc tụng hơn là những lời chân
thật, bởi lời thật thì đắng lòng. Cũng thế chúng ta thường thích nói những lời
của con người hơn là nói những Lời của Chúa. Chúng ta thích chọn lựa đứng về
lợi ích nhóm hơn là đứng về những ai cô thế cô thân. Chúng thường hay chọn im
lặng trước dối trá hơn là bên vực cho công lý... Nhất là chúng ta hay chọn an
phận hơn là làm chứng nhân cho Chúa.
Xin Chúa Giêsu Phục sinh ban dồi dào ơn khôn ngoan và
sức mạnh của Chúa Thánh Thần trên chúng ta, để chúng ta biết chọn lựa sao
cho đúng ý Chúa và can đảm sống theo sự lựa chọn ấy cho dẫu phải hy sinh và
thiệt thòi vì biết rằng mình đã làm đẹp lòng Chúa như các tông đồ
xưa. Có như vậy ta mới xứng đáng đón nhận ơn cứu độ do Chúa Giêsu phục sinh
đem đến.
Suy niệm 2:
Bằng những hình ảnh đối lập: Cao- thấp, trời-đất, Chúa
Giêsu muốn xác định thiên tính của Ngài và mời gọi chúng ta dấn bước theo Ngài
để được sự sống đời đời. Bởi lẽ Ngài đến từ trên cao nên cao trọng hơn hết mọi
người. Ngài được Thiên Chúa sai đi nên Ngài là Người của Thiên Chúa. Ngài được
Thiên Chúa yêu thương trao ban thần khí vô ngần vô hạn và được Chúa Cha trao
ban mọi sự trong tay Ngài, điều này xác nhận Ngài chính là Con Thiên Chúa và là
Thiên Chúa.
Vì ngài đến từ trời cao, là Con Thiên Chúa và là Thiên
Chúa làm người, nên Ngài thấy hết, biết hết các việc trên trời. Do đó lời chứng
của Ngài là chân thật, để ai tin vào Ngài thì được sự sống đời đời, kẻ nào
không tin thì sẽ bị luận phạt.
Là Thiên Chúa làm người và đã trãi qua kiếp người bằng
cái chết đau thương để rồi phục sinh vinh hiển trở về cùng Thiên Chúa, nên ai
tin theo con đường Ngài đã đi thì sẽ không sợ lạc đường về quê trời.
Chúa Giêsu không chỉ vạch ra cho ta con đường
đạt đến sự sống đời đời, mà Ngài còn dấn thân tiến bước trên con
đường ấy. Vì thế chúng ta hãy vững tin tiến bước theo Ngài. Đường dẫn về quê
trời đã có, người dẫn đường đã sẵn sàng, điều quan trọng là tùy thuộc nơi mỗi
chúng ta có dám dấn thân bước theo hay không? Chúa không thể bắt ép ta
bước đi trên con đường ấy, nếu như ta không muốn.
Xin cho chúng ta biết ngước vọng về trời cao và hướng
lòng trí về quê trời vĩnh cửu mà xin cho lòng được ái mộ những sự trên trời.
Nhờ đó ta sẵn sàng dấn thân bước theo con đường mà Chúa Giêsu đã vạch ra mà
thoát khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa để được Chúa thương ban cho chúng ta sự
sống đời đời.
Thứ sáu: Ga 6, 1-15.
Suy niệm 1:
“Hãy tín thác vào lòng thương xót Chúa”, đó là sứ điệp mà
Chúa Giêsu gửi đến nhân loại qua thánh nữ Faustina. Sứ điệp ấy càng được xác
tín qua phụng vụ lời Chúa hôm nay.
Bài đọc I hôm nay cho biết: trong lúc mà các giới chức
lãnh đạo tôn giáo triệu tập họp hội đồng Do Thái để tìm cách tiêu diệt các tông
đồ nhằm dập tắt đạo Giêsu. Thì Chúa lại quan phòng cho một người Pharisêu tên
là Gamaliên đứng ra giữa hội đồng để phân tích thiệt hơn nếu ra tay giết
hại các tông đồ.
Sau khi ông nhắc lại các phong trào mang tính nhân loại
thuần túy nổi lên trước đây nhưng đến nay tất cả đều bị tan rã. Thì ngay sau đó
ông xác tín rằng:“Còn quả thật là do Thiên Chúa thì không thể nào phá hủy
được, không khéo lại quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa”. Nghe những lời đó nên họ chùng
bước, chỉ quyết định đem các tông đồ ra đánh đòn và cấm không cho nói đến danh
Đức Giêsu nữa, rồi thả đi. Dẫu bị đánh đập nhưng các tông đồ cảm thấy “lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức
Giêsu và tiếp tục rao giảng và loan báo tin mừng tại tư gia và trong đền thờ”.
Còn bài tin mừng thì tường thuật lại những hoạt động của
Chúa Giêsu bên kia biển hồ Ga-li-lê. Chiêm ngắm về tất cả những lời nói, cử
chỉ, việc làm của Chúa Giêsu được thể hiện trong bài tin mừng hôm nay, ta nhận
thấy Chúa Giêsu không chỉ quan tâm đến nhu cầu tâm linh mà còn cả nhu cầu vật
chất của dân chúng nữa. Với lòng thương xót trước sự bơ vơ và đói khát
của đám đông dân chúng theo Ngài nên Ngài đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều
để nuôi sống họ.
Như thế lời Chúa hôm nay giúp chúng ta hiểu rằng một khi
can đảm tín thác vào lòng thương xót Chúa qua việc dấn bước theo và nghe Lời
giảng dạy của Ngài (bài tin mừng), cũng như hy sinh làm chứng cho tin mừng
phục sinh của Ngài (bài đọc I) thì Chúa không bỏ rơi bao giờ.
Xin cho chúng ta luôn biết tín thác mạnh mẽ vào lòng
thương xót của Chúa để can đảm loan truyền tình thương của Ngài cho mọi
nơi dẫu phải gặp nhiều thử thách với niềm tin rằng: “có Thiên Chúa
bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại chúng ta?”.
Suy niệm 2:
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã làm phép lạ bánh hóa nhiều
để nuôi đám đông. Cho thấy Ngài quan tâm đến nhu cầu của thân xác của con
người. Nhưng Ngài không dừng lại ở việc thỏa mãn nhu cầu cơ bản là “đói cho ăn,
khát cho uống”. Cơm bánh chỉ là thứ lương thực mau qua dành cho thân xác, chứ
không phải là thứ lương thực đem lại sự sống đời đời. Do đó Ngài muốn ban cho
con người thứ lương thực trường tồn đem lại sự sống vĩnh cửu.
Để có được của ăn mau qua, nuôi dưỡng thân xác, con người
phải ra công làm việc vất vã “đổ mồ hôi sót con mắt ”, cũng như biết nhường cơm
xẻ áo cho nhau.
Để có của ăn vĩnh cửu, nuôi dưỡng tinh thần và tâm
linh, con người chỉ cần làm hai việc: Đến với Chúa Giêsu và Tin vào Ngài.
Cái đói của thân xác không cồn cào bằng cái đói tinh
thần.
Con người đói công bằng và hạnh phúc, đói yêu thương và
kính trọng.
Con người khát niềm vui và bình an, cảm thông và sự thật.
Trong nơi sâu thẳm, con người đói khát Ai đó để
mình yêu mến tôn thờ.
Đức Giêsu mời ta hãy tin vào Ngài là Đấng được Thiên Chúa
sai đến.
Hãy đến với Giêsu để bắt đầu được nếm thử tấm bánh của
Ngài, vì chính Ngài là Tình yêu, Sự thật và Bình an.
Xin cho chúng ta biết siêng năng đến với Chúa Giêsu với
niềm tin yêu, để chúng ta được chính Chúa nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Bánh
Thánh, là thứ lương thực không hư nát và đem lại sự sống đời đời cho chúng ta.
Thứ bảy: Ga 6, 16-21
Suy niệm 1:
Các nhà xã hội học định nghĩa: “con người là con vật có
xã hội tính”. Do đó không ai là một hòn đảo. Chúng ta sống là sống với, sống
cùng, sống cho, sống vì và sống nhờ nhau… Nhờ đời sống cộng đồng mà con người
được lớn lên, phát triển và thành toàn hơn do sự tương trợ lẫn nhau. Tuy
nhiên bên cạnh đó cũng bởi đời sống chung mà cuộc sống chúng ta gặp phải không
ít khó khăn và thử thách.
- Bài đọc I hôm nay cho thấy có một vấn đề khó khăn được
đặt ra trong đời sống của cộng đoàn sơ khai. Đó là sự ghen tỵ, phân bì xảy ra,
bởi lẽ vì những bà góa Do Thái gốc Hy Lạp phải chịu thiệt thòi bởi không được
các tông đồ quan tâm nhiều. Điều này có nguy cơ đưa đến sự chia rẻ, hận thù
và trở thành gương mù. Sáng suốt nhận ra nguy hại ấy nên các tông đồ đã tìm
cách giải quyết. Thay vì dùng quyền bính của mình để chống chế hoặc tìm
cách loại trừ họ ra khỏi cộng đoàn, thì trái lại các tông đồ lại biết khiêm
tốn nhận ra sự thiếu xót của mình vì đã không quan tâm đủ để chăm lo cho mọi
người. Để giải quyết cho nhu cầu chính đáng ấy cho mọi thành phần, các tông đồ
đã đề nghị bầu chọn thêm 7 phó tế để nhằm phụ giúp các ngài chăm lo phục vụ cho
các bà góa, cho dẫu đây thành phần này không được xã hội đề cao thời bấy giờ.
Nhờ đó mà cuộc sống của cộng đoàn bấy giờ trở nên êm đẹp.
- Bài Tin mừng hôm nay thì nêu lên những sóng gió mà các
tông đồ gặp phải khi xuống thuyền sang bờ bên kia biển hồ trong đêm tối. Trong
bóng đêm ngoài việc phải vất vả chống chọi với sóng to gió lớn, các ông còn
phải đối mặt với sự sợ hãi kinh hồn khi thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển
đến với họ, vì tưởng là ma. Nhưng nhờ lời trấn an của Chúa Giêsu: “Thầy
đây mà, đừng sợ!”, bấy giờ các ông mới tìm lại được sự bình an và con
thuyền cũng được cập bến an toàn.
- Cuộc đời ta của chúng ta cũng tựa như một cuộc hải
trình vượt biển trần, có lúc thuyền đời của ta cảm thấy bình yên nhưng cũng có
lúc bất an sợ hãi vì sóng gió nổi lên. Nhưng nếu chúng ta nhận ra có Chúa cùng
đồng hành trong mọi cảnh huống của cuộc đời, ta sẽ cảm thấy bình an cho dẫu
phải dối mặt với nhiều sóng gió.
Xin Chúa phục sinh luôn ở bên để bảo vệ, che chở và hướng
dẫn chúng ta biết chọn lựa sống theo thánh ý Chúa, nhờ đó thuyền đời của
ta sẽ dễ dàng vượt qua mọi sóng gió hiễm nguy mà đạt đến bến bờ của
an vui và hạnh phúc nhờ quyền năng của Chúa.
Suy niệm 2:
Suy niệm về bài tin mừng hôm nay, ta nhận ra rằng:
- Các môn đệ chính là mỗi người chúng ta.
- Con thuyền là hình ảnh của Giáo Hội.
- Biển Hồ là hình ảnh trần gian.
- Đêm tối, bảo tố, gió mạnh là những thử thách do ma quỷ
gây nên.
- Bờ bên kia là hạnh phúc nước trời mà con người cần vươn
tới.
Cũng như các môn đệ xưa, chúng ta đã bước vào con
thuyền của Giáo Hội khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy. Cùng với con thuyền Giáo
hội, chúng ta đang tiến bước trên biển đời trần gian.
Giống như con thuyền của các môn đệ bị những cơn sóng to,
gió lớn đánh dữ dội, thì ở mọi thời, mọi nơi Giáo Hội cách chung, cách riêng
mỗi chúng ta cũng đương đầu với những chống đối, những vu khống, bôi
nhọ và loại trừ do thế lực ma quỷ gây ra.
Có khi những bóng tối, những vết đen đáng tiếc xảy ra
trong Giáo Hội cách chung hay những đau khổ, những thất bại và những bất
hạnh xảy đến cho bản thân, làm cho ta dao động, mất hướng
sống. Khi đó là lúc thuyền đời của ta đang đi trong đêm tối đức
tin, đến nỗi ta muốn buông xuôi tất cả.
Quan trọng là Chúa Giêsu phục sinh không bỏ rơi chúng ta
khi gặp gian nan thử thách. Chính lúc đó, Chúa sẽ ra tay cứu giúp
chúng ta, không để cho sóng gió nhận chìm chúng ta vì “Ơn
Ta đủ cho con”. Ngài vẫn ở bên Giáo Hội. Ngài luôn đồng hành và
hiện diện bên mỗi người chúng ta. Ngài ban Chúa Thánh Thần hướng dẫn Giáo
Hội và ban ơn trợ giúp chúng tađủ sức lướt thắng mọi
sóng to gió lớn và dìu bước chúng tacập bến bình an,
nếu chúng ta tin tưởng cậy trông phó thác vào Ngài.
Xin Chúa phục sinh ban thêm lòng tin kiên vững nơi chúngcon, để dù trong bất
cứ hoàn cảnh thử thách nào, ngay cả những lúc bước đi trong đêm
tối của đức tin, chúng con vẫn an tâm tiến bước trên biển đời. Xin Chúa luôn
hiện diện và đồng hành với chúng con, để đưa dẫn chúng con đạt tới bến bờ bình
an.
25/ 04: Kính Thánh Marcô,
Tác Giả Tin Mừng
1 Pr 5, 5b-14; Mc 16,
15-20
"Công cuộc truyền giáo mãi mãi là vấn đề sống còn
của Hội Thánh trên đất nước chúng ta". Đó
là lời mở đầu của UB Loan Báo Tin Mừng/HĐGMVN sau 50 năm (1960-2010) nỗ lực truyền giáo.
Vì thế truyền giáo hay loan báo tin mừng là nhiệm vụ hàng
đầu của Gíao Hội. Gíao Hội có được lớn mạnh hay không tùy thuộc vào việc loan
báo tin mừng.
Công đồng Vatican II khẳng định rõ rằng: “Tự bản tính,
Giáo hội lữ hành là truyền giáo” (Ecclesia peregrinans natura sua
missionaria est, Ad gentes 2).
Sẽ không là Gíao hội hay là người kitô hữu nữa nếu không
loan báo tin mừng.
Trên hết truyền giáo hay loan báo tin mừng là lệnh truyền
tâm quyết của Chúa Giêsu. Nên trước khi về trời Ngài đã di chúc lại cho các
tông đồ: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng
cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin
thì sẽ bị kết án " (Mc 16, 15).
Vậy đã rõ mục đích của việc loan báo tin mừng là để người
khác tin vào Chúa Giêsu, nhận lãnh phép rửa và được cứu độ.
Nhưng làm thế nào để việc loan báo tin mừng mang lại hiệu
quả?
Thư I của thánh Phêrô, trong bài đọc I hôm nay cho ta
biết những điều tóm lượt quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm để sống:
- "Lấy đức khiêm nhường đối xử với nhau".
Muốn đối xử khiêm nhường với nhau, trước hết phải tự khiêm hạ trước Chúa.Không
khiêm hạ trước Chúa làm sao ta dễ khiêm nhường với anh em. Kiêu ngạo luôn là
cám dỗ nguy hiểm đánh mất hạnh phúc thiêng đàng mà nguyên tổ Adam và Eva đã mắc
phải.
- "Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì
Người chăm sóc anh em". Nghĩa là phải đặt trọn niềm tin vào sự
quan phòng của Chúa đầy yêu thương chúng ta.
- "Hãy sống tiết độ và tỉnh
thức": sống đúng với ơn gọi và chu toàn tốt bổn phận mà Chúa trao
phó cho mình.
- "Hãy đứng vững trong đức tin mà chống
cự". Trong mọi hoàn cảnh, ngay cả cái chết cũng luôn trung thành
làm chứng niềm tin của mình. Vì phần thưởng mà Chúa ban tặng chính là được
nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường; nhất là được hưởng vinh quang
đời đời trong Đức Kitô.
Xin Chúa cho chúng ta ý thức được tầm quan trọng của
việc truyền giáo, để như thánh Mác-cô, ta biết tận mọi khả năng, hoàn cảnh mà
góp phần tich cực cho việc truyền giáo.
Xin cho chúng ta trở nên chứng nhân trung thành của Chúa
Giêsu nhờ biết siêng năng tìm hiểu học hỏi và sống theo lời Chúa dạy trong các
sách Tin Mừng, trong đó có Tin Mừng thánh Mác-cô để lại bằng đời sống khiêm
nhường, phó thác, tiết độ, tỉnh thức và kiên vững đức tin cho dẫu phải đối mặt
với bao gian lao thử thách, nhờ đó mà Tin mừng của Chúa mới có sức thuyết phục
và ơn cứu độ của Chúa mới được lan tỏa đến mọi người ở khắp nơi.
Suy niệm 2:
Mỗi khi tưởng nhớ hay tôn kính một vị thánh nào đó, GH thường
nhắc lại thân thế và sự nghiệp của các ngài để tri ân công đức, nêu gương bắt
chước đời sống tốt lành và khấn xin các ngài khấn cầu cùng Chúa ban ơn cho ta. Do
đó trong ngày mừng kính thánh Marcô tác giả Tin mừng hôm nay, chúng ta cũng hãy
nhìn lại thân thế và sự nghiệp của thánh Marcô.
1. Thân thế:
Chúng
ta không biết nhiều về quãng đời niên thiếu của thánh Marcô. Chỉ biết rằng ngài
là một trong bốn vị thánh sử đã ghi chép Phúc Âm.
Tên đầy đủ của ngài là Gioan Marcô (x.Cv
12,12). Thánh nhân là người Do Thái, thuộc dòng họ Lêvi. Mẹ
của ngài là bà Maria, một góa phụ giàu có, nơi ngôi nhà này, các tín hữu tiên
khởi Giêrusalem hay đến tụ họp để cầu nguyện (x. Cv 12, 12tt). Cũng vì thế mà sau khi ra khỏi tù Phêrô đã
về đây trú ẩn: “Mở cổng ra, thấy ông, họ kinh ngạc. Ông giơ tay làm hiệu cho
họ im lặng, rồi kể cho họ nghe Chúa đã đưa ông ra khỏi tù thế nào” (Cv 12,
16-17).
Trong ba năm Chúa Giêsu đi rao giảng Tin mừng, ta không
thấy nhắc đến tên ngài, nhưng trong biến cố Chúa Giêsu bị bắt thì ngài có mặt ở
đó, nhưng vì sợ liên lụy, ngài đã bỏ chạy thục mạng, đến tuột cả quần ra (x. Mc
14, 51-52).
2. Sự nghiệp:
Vâng theo lệnh truyền của Chúa Giêsu trước khi về trời, Marcô
đã đi theo tông đồ Barnaba và Phaolô để loan báo Tin mừng. Nhưng trong chuyến
truyền giáo thứ nhất có vì gặp quá nhiều gian lao, vất vả nên Marcô đã bỏ về Giêrusalem (x. Cv 13, 13). Do đó mà trong chuyến truyền giáo thứ hai, Phaolô nhất
quyết không cho Marcô theo, mặc dù Barnaba tha thiết yêu cầu. Sự kiện này đã
gây đổ vỡ đến sự cộng tác giữa Phaolô và Barnaba (x.
Cv 15, 36-40).
Nhưng nhờ thế mà sau đó Marcô lại theo Phêrô đến Rôma và
làm thông dịch cho Phêrô, nên trong bức thư thứ nhất, Phêrô đã gọi Marcô là người
con của ngài. (x. 1Pr 5, 13).
Là
người thông ngôn cho Phêrô nên Marcô lãnh trách nhiệm chép lại những lời Phêrô
giảng dạy và là người đầu tiên soạn
thảo “sách Tin Mừng”, vào khoảng năm 64-70, với nhiều mục đích:
- Nhằm lưu lại lời rao giảng của các
tông đồ cùng với những truyền thồng tiên khởi của GH vì e rằng thế hệ chứng
nhân “mắt thấy tai nghe” sắp qua đi.
- Nhằm nâng đỡ và củng cố đức tin cho các tín hữu gốc lương
dân, sống ngoài lãnh thổ Palestin, đang sống trong hoàn cảnh bị bách hại dữ dội
bởi hoàng đế Nêron.
- Nhằm để giúp tín hữu mới theo đạo
có được cảm nghiệm về Chúa Giêsu như thánh Phêrô. Cảm nghiệm ấy được Marcô trình
bày một cách tiệm tiến qua ba giai đoạn được tóm lược vào câu đầu tiên trong Tin
Mừng của ngài: “Khởi đầu Tin mừng Đức Giêsu-Kitô-Con Thiên Chúa”. Trước
hết Chúa Giêsu là một người, tiếp đến Người là Đức Kitô như lời tuyên xưng của
Phêrô (x. Mc 8, 29), Sau cùng Marcô trình bày cho thấy Đức Kitô ấy chính là Con
TC, qua lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng Rôma dưới chân thập giá (x. Mc
15, 39),
Nếu so sánh với các Thánh sử
khác, thì Phúc âm của Thánh Marcô là ngắn nhất (16 chương). Trong khi đó
Matthêu có đến 28 chương, Luca 24 chương, và Gioan 21 chương. Lối trình bày của
Ngài đơn sơ, mộc mạc, mang tính kể chuyện về cuộc đời của Chúa Giêsu, thích hợp
cho mọi độc giả, đặc biệt cho những anh chị em bình dân.
Người ta quen vẽ hình ngài là một con sư tử,
một trong bốn con vật được tiên tri Ezekiel xem thấy trong thị kiến. Quả thật
sách Tin Mừng của Marcô khởi đầu bằng việc trình bày Gioan Tẩy Giả như là tiếng
hô trong sa mạc (x. Mc 1,3).
Theo một tài liệu không chắc lắm cho biết thánh nhân được ủy phái đi truyền giáo ở Ai Cập sau đó.
Với cuốn Phúc Âm, ngài đã đưa nhiều người trở về với Chúa. Ngài là vị sáng lập
và là Giám Mục đầu tiên giáo đoàn Alexandria. Nhờ tài lợi khẩu, trí thông minh
và sự thánh thiện, ngài đã dẫn đưa được nhiều người về cùng Chúa.
Cũng
như các tông đồ, thánh nhân cũng gặp nhiều gian lao thử thách trong sứ mạng làm
chứng cho Chúa. Cuối cùng ngài cũng chịu bách hại bởi những lương dân tại giáo
đoàn ngài đang phục vụ. Họ đã bắt ngài điệu qua các phố với mục đích bêu xấu
ngài, và lôi kéo ngài trên đường đá gồ ghề cho tới khi tắt thở. Hôm đó là ngày
25/04/67.
Ngài
mất đi để lại một sự nghiệp vô giá. Phúc Âm do ngài biên soạn vẫn còn mãi. Danh
ngài sẽ luôn được nhắc đến trong Giáo Hội, nhưng quan trọng hơn hết là phần
thưởng bội hậu mà Thiên Chúa đã ban cho ngài trên Thiên Quốc.
Nguyện xin Chúa qua lời chuyển cầu của thánh nhân ban cho mỗi người chúng ta biết tích cực cộng tác với GH trong sứ
mạng loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Ðức Kitô phục sinh trong những bổn phận
hằng ngày với hết khả năng của mình bằng con tim cháy lửa yêu mến theo gương
thánh Marcô tác giả của Tin mừng, mà chúng ta mừng kính hôm nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét