SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN
BÁT NHẬT PHỤC SINH
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Cv 10, 34a.37-43; Cl 3,
1-4; Ga 20, 1-9
Thánh Phaolô đã nói: “Nếu Đức Kitô đã không
sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và
cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15,14). Nhưng vì “Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai
đã an giấc ngàn thu…” cho nên những ai “liên đới với
Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống lại” (1Cr 15, 20- 22). Đó
chính là nền tảng đức tin của chúng ta.
Xin cho chúng ta luôn biết gắn
bó mật thiết với Chúa Kitô phục sinh bằng
tất cả niềm tin yêu và phó thác để như lời thánh Phaolô xác quyết: “nếu ta cùng
chết với Đức Kitô, thì ta tin rằng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài.” (Rm 6, 8).
Phụng vụ lời Chúa trong ngày lễ phục sinh hôm nay có khá nhiều
thông điệp mà Chúa muốn gửi đến chúng ta. Nhưng có hai thông điệp quan trọng nhất
mà mỗi người chúng ta cần phải lưu tâm trong ngày mừng đại lễ phục sinh hôm nay:
1. Sự sống lại của Đức Kitô phải là nền tảng đức tin của
chúng ta.
Bài Tin mừng hôm nay, thánh Gioan đưa ra rất nhiều dấu
chứng, nhất là dấu chứng về ngôi mộ trống. Thánh Gioan cũng cho biết nếu nhìn vào
ngôi mộ trống với cặp mắt tự nhiên thì cũng chưa đủ để xác tín rằng Chúa Giêsu
đã sống lại.
Bằng chứng là bà Maria Mađalêna khi nhìn vào mộ trống nhưng
đã cho rằng: "Người ta đã lấy
xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu".
Còn Phêrô khi nhìn “vào trong mộ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm
che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để
riêng một chỗ” nhưng ông cũng không nhận ra sự phục sinh của Chúa.
Cũng thế, những người đã ra tay hãm hại Chúa trước đây vì cố
tình không tin vào sự phục sinh của Chúa nên họ đã dùng một số
tiền lớn để mua chuộc lính canh mộ phao tin giả rằng: “đang đêm chúng
tôi ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông, rồi phao tin ông ta sống lại”.
Nhất là đối với những người có đầu óc duy lý thì cho
rằng: Ông Giêsu chưa chết chỉ bất tỉnh thôi nên khi chôn trong mồ, đợi đến khi
mọi người ra về hết rồi, thì Người đã tỉnh dậy và cố sức lăn tảng đá đậy mồ ra,
mà đi mất.
Do đó để có được niềm tin thực sự vào sự phục sinh của Chúa
Giêsu sẽ không dễ dàng chút nào, vì người ta có muôn ngàn phương cách để chối
bỏ chân lý này.
Riêng với người tín hữu, trong ngày lãnh nhận bì tích rửa
tội, chúng ta đã tin nhận vào mầu nhiệm phục sinh, nhưng không phải vì thế mà ai
trong chúng ta cũng đều vững vàng với niềm tin ấy. Rất có thể vì chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ bởi chủ nghĩa vô thần và lối sống thực dụng nên lắm khi niềm tin vào sự
phục sinh của chúng ta cũng bị lung lay; cũng có thể vì quá đề cao chủ nghĩa
tương đối và quyền tự do phóng túng nên ngày càng có nhiều người muốn chối bỏ
niềm tin vào sự sống lại để được an tâm sống trong tình trạng tội lỗi của mình.
Vì thế hơn lúc nào hết, ngay bây giờ chúng ta cần phải xác định lại niềm tin
của mình vào sự phục sinh của Chúa Giêsu.
Nhưng để có được cái nhìn đức tin kiên vững vào sự phục
sinh của Đức Kitô trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, chúng ta cần phải có được cái
nhìn của thánh Gioan tông đồ, là người môn đệ yêu Chúa và được Chúa yêu. Đó là
cái nhìn được định hướng bởi tình yêu dưới ánh sáng của lời Chúa soi dẫn. Chỉ
khi nào có cái nhìn như thế, ta mới tin nhận vững vàng vào mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô và sự sống lại mai sau của chúng
ta.
2. Ta phải sống niềm tin
phục sinh như thế nào?
Bài đọc 2, trích thư
thánh Phaolô gửi cho tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô chỉ dạy các tín hữu Côlôsê cũng như chúng ta phải
sống niềm tin phục sinh như sau:
- Cùng chết với Đức Giêsu
và sống lại với Ngài. Nghĩa là phải dám chết đi con người cũ với tính hư
nết xấu và tội lỗi để sống con người mới trong Chúa Kitô phục sinh; nhất là
phải can đảm từ bỏ ý riêng để tuân phục theo thánh ý Chúa.
- Lo tìm kiếm những gì
thuộc về thượng giới. Trong khi
lo cho đời sống trần gian cơm áo gạo tiền, chúng ta cũng phải biết quan tâm lo
tìm kiếm những giá trị cao quý hơn như chân-thiện-mỹ; nhất là luôn tôn trọng
giá trị công bằng và sống tình bác ái yêu thương nhau.
- Biết hướng lòng trí về
những gì thuộc về thượng giới. Dầu sống ở trần gian, nhưng chúng ta không thuộc
trần gian này. Do đó, đừng quá lệ thuộc vào danh-lợi- thú, trái lại phải biết
hướng tâm hồn lên tới Chúa, gắn bó với Người bằng đời sống cầu nguyện và thờ
phượng Chúa trong tình con thảo.
- Đặc biệt là biết noi
gương thánh Phêrô mạnh dạn làm chứng cho Chúa phục sinh bằng đời sống chân
thành, cởi mở, lạc quan, luôn yêu đời và yêu người. Luôn can đảm rao giảng về
Chúa Giêsu phục sinh là Đấng giàu lòng yêu thương con người. Vì yêu thương nên
Ngài đã chấp nhận xuống thế làm người, sống như con người ngoại trừ tội lỗi. Vì
yêu con người tội lỗi nên Ngài đã sẵn sàng chịu chết đau đớn trên thập giá để
gánh lấy tội lỗi nhân loại mà treo vào thập giá. Cuối cùng cũng chính vì tình
yêu nên Ngài đã sống lại để khơi lên niềm hy vọng lớn lao vào sự sống mai sau
cho chúng ta. Để từ nay ai tin vào Đức Kitô phục sinh sẽ được tha tội và đón
nhận ơn cứu độ.(x. bài đọc 1).
Xin Chúa phục sinh củng
cố lại đức tin nơi mỗi người chúng ta và xin cho chúng ta nỗ lực sống và loan
báo niềm vui phục sinh cách tích cực bằng đời sống yêu thương phục vụ chân
thành trong sáng ngỏ hầu niềm vui tin mừng phục sinh của Chúa được lan tỏa đến
mọi người và mọi nơi.
Thứ hai: Mt 28, 8-15
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay thuật lại sự kiện Chúa Giêsu phục sinh
hiện ra với các phụ nữ. Người chấn an các bà và sai các bà loan báo tin mừng
phục sinh cho các tông đồ. Xin cho chúng ta có
được niềm vui phục sinh và can đảm minh chứng niềm vui phục sinh cho mọi người.
Để biết được thông tin chính xác, ta cần lắng nghe chính
người trong cuộc thông tin lại. Tin mừng hôm nay cho thấy có hai nguồn
thông tin trái ngược nhau về sự kiện Chúa Giêsu sống lại.
Nguồn thông tin của các bà phụ nữ.
Đây là những người trong cuộc vì đã trực tiếp gặp gỡ Chúa
Giêsu. Đã tận tai nghe lời Chúa nói cũng như đã đụng chạm đến chân Chúa. Các bà
còn được Chúa trao nhiệm vụ loan báo cho các môn đệ biết về việc Chúa sống lại
và muốn gặp các môn đệ tại Galilêa.
Nguồn tin của lính canh.
Những lính canh, cũng đã chứng kiến sự kiện ấy. Nhưng vì
bị các thượng tế và kỳ lão mua chuộc và hù dọa nên họ nghe theo lời hướng dẫn
của các thượng tế và kỳ lão phao tin không trung thực rằng: “ban đêm đang
lúc chúng tôi ngủ,các môn đệ hắn đã đến lấy trộm hắn đi”.
Cùng là chứng những sự việc Chúa Giêsu phục sinh hiện ra giống
như các phụ nữ, nhưng những người lính canh đã bị khống chế của quyền lực và sự
mua chuộc bởi tiền bạc của giới thượng tế và kỳ lão nên các ông đã thông tin
sai sự thật.
Trong cuộc sống, chúng ta cũng thường nghe được những
luồng thông tin khác nhau về một sự kiện nào đó xảy ra trong xã hội cũng như
trong Giáo Hội. Có những thông tin chính thống cần tin theo. Tuy nhiên, để bảo
vệ quyền lợi, phe nhóm và thế lực của mình cũng có không ít những thông tin sai
lạc, ta cần phải kiểm chứng và dè chừng.
Hằng ngày trên các phương tiện truyền thông ta bắt gặp
rất nhiều thông tin lề trái, lề phải nhằm dẫn dắt dư luận sang một hướng nào
đó. Bên cạnh những thông tin thật cũng có nhiều thông tin không thật. Sống
trong một xã hội mà phải liên tục đề phòng hàng giả, người giả, thông tin giả quả
là một điều bất hạnh. Chắc chắc ai trong chúng ta cũng không muốn điều ấy xảy
ra. Nhưng rồi chính cuộc sống chúng ta cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Nhiều lần vì
sợ, vì tham vì bị mua chuộc… ta lại chấp nhận im lặng hay từ chối làm chứng cho
chân lý. Lắm khi vì ham mê tiền bạc, chức quyền ta cũng sẵn sàng chối bỏ niền
tin cách dễ dàng.
Chúa Phục sinh ban bình an cho các bà phụ nữ và sai các
bà ra đi làm chứng niềm tin phục sinh. Hôm nay, Chúa phục sinh cũng ban bình an
cho chúng ta và cũng mời gọi chúng ta can đảm làm chứng cho tin mừng chân lý và
tình thương nhằm đem đến niềm vui và bình an cho tha nhân.
Xin cho chúng ta được trở nên chứng nhân trung thành của
Chúa phục sinh trong cuộc sống hôm nay.
Suy niệm 2:
Tin mừng hôm nay cho biết: tuy chứng kiến cùng một sự
kiện Chúa phục sinh nhưng các bà phụ nữ và những người lính canh mộ lại có
những cái nhìn khác nhau:
- Các bà phụ nữ do không bị ảnh hưởng bởi tiền bạc chi
phối; cũng không khiếp sợ trước bất kỳ thế lực nào bên ngoài, nên sau khi chứng
kiến sự kiện Chúa phục sinh hiện ra với chính mình, các bà đã tin nhận và đã
hân hoan loan báo tin mừng ấy cho các môn đệ, như lời Chúa phục sinh căn dặn.
- Còn với những người lính canh mồ, dẫu rằng họ cũng
chứng kiến cùng một sự kiện Chúa phục sinh như các bà phụ nữ. Nhưng vì bị lôi
cuốn bởi sức mạnh của đồng tiền do các Thượng Tế và Kỳ Lão mua chuộc; cũng như
vì sợ hãi trước thế lực to lớn của giới chức lãnh đạo tôn giáo bấy giờ, nên họ
đã sẵn sàng chối bỏ chân lý. Tệ hại hơn nữa là họ lại nghe lời của các Thượng
Tế và Kỳ Lão để dẫn dắt dư luật theo hướng nhìn dối trá sai lạc, khi phao tin:
“Ban đêm khi chúng tôi đang ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác
ông”.
Gian dối, lộc lừa ngày hôm nay đã lan tràn trong xã hội
chúng ta trong mọi lãnh vực, chỉ vì người ta quá say mê tiền bạc, danh vọng,
quyền lực…Thật là hiểm họa! Nên cần lắm sự vào cuộc của các cấp lãnh đạo, các
đoàn thể, của hệ thống báo chí, truyền thanh, truyền hình, Internet, của nhà
trường và gia đình…nhằm lên án mạnh mẽ sự dối trá, lộc lừa và đề cao lòng trung
thực nơi con người và tôn trọng công lý trong xã hội.
Với người Kitô hữu chúng ta Chúa đã dạy: “có thì phải nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt
điều gì là do ác quỷ” (Mt
5, 37). Xin cho chúng ta biết tin nhận
mạnh mẽ vào mầu nhiệm Chúa phục sinh. Nhờ đó, ta mới có đủ can đảm vượt lên sức
hút mãnh liệt của danh-lợi-thú mà sống ngay chính trước Chúa, lương tâm, mọi
người.
Thứ ba: Ga 20, 11-18
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay cho ta biết, Chúa phục sinh hiện ra với
bà Maria Macđala, ban lại cho bà niềm vui cũng như chỉ cho bà cách thức phải
sống niềm vui phục sinh thế nào.
Xin Chúa Giêsu phục sinh cho chúng ta biết siêng năng đến
với Chúa, nhất là những lúc đau buồn, chán nản, để nhờ gặp gỡ Chúa chúng ta tìm
lại được niềm an vui, hạnh phúc tâm hồn. Xin cho chúng ta cũng biết
tích cực chia sẻ niềm vui phục sinh cho mọi người chung quanh, nhất là những
người đang gặp đau khổ.
Truyện kể:
Có một phụ nữ vừa mất con trai, bà tìm đến một nhà hiền
triết và nói:
"Có lời cầu nguyện nào mà ông biết có thể đem con
trai tôi sống lại?"
Nhà hiền triết bảo: "Hãy
đem về đây cho ta một hạt giống cây mù tạt được trồng từ gia đình nào chưa từng
bao giờ biết đến đau khổ".
Người phụ nữ ngay lập tức lên đường đi tìm hạt giống thần
kỳ. Đầu tiên bà đến gõ cửa một ngôi nhà lớn sang trọng và hỏi: "Tôi đang tìm hạt giống cây mù tạt từ gia đình
chưa bao giờ biết đến đau khổ, có phải nơi này không?"
Họ trả lời bà đã đến nhầm chỗ và bắt đầu kể những tai họa
đã xảy đến với gia đình họ. Bà ngồi lại an ủi họ rối tiếp tục lên đường đi tìm
hạt giống thần kỳ.
Nhưng bất cứ nơi nào bà ghé vào, dù ở những ngôi nhà tồi
tàn hay sang trọng, bà đều được nghe những chuyện đau buồn này đến chuyện bất
hạnh khác. Bà trở nên quan tâm và rất muốn
chia sẻ nỗi buồn của người khác đến nỗi bà đã quên đi nỗi buồn của chính bà và
quên câu hỏi về hạt giống cây mù tạt thần kỳ mà bà tìm kiếm.
Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Maria Macđala bị
mất. Nhưng không phải mất con, mà là mất Chúa, vì thế mà bà đã thốt
lên với tâm trạng đau buồn cùng với hai Thiên Thần rằng: “Người ta đã lấy
mất Chúa tôi rồi”.
Giống như người mẹ trên, Maria Macđala cũng đã đau buồn vì
lạc mất Chúa nên bà đã hỏi thăm hai Thiên Thần xem có biết Chúa đâu không hãy
chỉ cho bà biết.
Nỗi đau buồn khiến cho tâm trí Maria Macđala bấn loạn nên
không còn khả năng nhận ra Chúa nữa dẫu Người đang hiện diện bên bà nhưng bà cứ
ngỡ là người làm vườn nên bà đã lên tiếng hỏi thăm xem cách nào tìm lại Chúa?
Mãi khi Chúa Giêsu phục sinh gọi đúng tên bà với
giọng nói thân quen “Maria!” thì bà mới nhận ra Chúa trong niềm vui
mừng khôn tả. Nhưng lúc đó, Chúa phục sinh bảo với bà rằng: “Thôi, đừng giữ Thầy
lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp gỡ anh em Thầy…” để
loan báo cho các môn đệ biết về sự phục sinh của Chúa. Đó chính là bí quyết
giúp bà Maria Macđala quên đi những nỗi đau buồn của mình khi biết lên ra đi
loan báo tin mừng phục sinh của Chúa.
Giống như Maria Mađala, ai trong chúng ta cũng có những
nổi buồn. Buồn vì cuộc sống nghèo khổ, thiếu thốn và bất hạnh. Buồn vì những
bệnh tật, tội lỗi mà mình đang mang nặng không thể vượt qua. Buồn vì phải chứng
kiến những nổi đau và cái chết của người thân…Để vượt qua những nổi đau buồn
đó, Chúa phục sinh cũng mời gọi chúng ta: “Thôi, đừng giữ Thầy lại”,
nghĩa là đừng sống theo ý mình mà sống theo ý Chúa; đừng giữ đạo
theo cách thế của mình mà theo cách thức Giáo Hội hướng dẫn; đừng ích kỉ giữ
Chúa cho riêng mình mà phải đem Chúa đến cho người khác.
Ngày nay, Chúa Giêsu Phục sinh cũng mời gọi chúng ta ra
đi “gặp gỡ anh em thầy” để chia sẻ cho họ biết về niềm tin và niềm vui
phục sinh mà ta có được khi gặp gỡ Chúa. Đó cũng là cách chúng ta làm cho Chúa
phục sinh hiện diện trong đời sống hằng ngày. Được như thế, ta mới cảm thấy
cuộc sống này thật có ý nghĩa trước những điều không vừa ý xảy đến, vì bởi ta
tin rằng Chúa phục sinh luôn hiện diện với chúng ta qua mọi biến cố trong cuộc đời.
Suy niệm 2:
Khởi đầu đoạn tin mừng hôm nay trình bày về tâm trạng đau
buồn của bà Maria khi ở bên mộ Chúa: “…Maria đang còn đứng gần bên mồ
Chúa mà than khóc…”. Lý do bà than khóc vì tưởng rằng: “người ta đã
lấy mất xác Chúa và không biết người ta đã để Người ở đâu?”. Như thế
đã rõ lý do bà Maria đau buồn khó lóc, đó là vì bà đã lạc mất Chúa.
Cuộc đời của chúng ta cũng có nhiều lúc đau buồn và khóc
than khi: Mất tiền của, mất sức khỏe, mất công ăn việc làm và mất chức quyền…
Nhưng nỗi đau buồn lớn nhất vẫn là mất đi mạng sống của mình hay phải chứng
kiến sự ra đi của người thân. Bởi lẽ mất đi những thứ khác ta có thể bù đắp và
tìm lại được, vì còn sống là còn hy vọng, nhưng chết đi được xem là mất tất cả,
theo cái nhìn tự nhiên. Vì thế mà người đời thường sánh ví: “mạng sống hơn đống
vàng”.
Tuy nhiên đối với người có đức tin thì cái mất lớn nhất không
phải là mất đi tiền bạc, của cải, danh vọng và mạng sống thể lý mà là mất đi
niềm tin. Niềm tin chính là sức mạnh tinh thần giúp ta vượt thắng mọi gian nan
thử thách, đem lại cho ta niềm vui và hy vọng tốt đẹp trong cuộc sống, ngay cả
những lúc đau buồn và tuyệt vọng.
Hiểu như thế ta mới cảm nhận được niềm vui khôn tả của bà
Maria, khi bà nhận ra Chúa vẫn còn chứ không phải mất, vẫn sống chứ không phải
chết. Hơn hết là vì bà đã tìm lại được lý tưởng của đời sống nhờ tin tưởng vào sự
phục sinh của Chúa.
Nước mắt và nụ cười, thành công và thất bại, niềm vui và
nỗi buồn… luôn đan xen với nhau, kết dệt thành tấm thảm cuộc đời của mỗi con
người. Nhưng để tấm thảm cuộc đời ta tươi sáng thì cần lắm nụ cười nhiều hơn
nước mắt; thành công lớn hơn thất bại, niềm vui mạnh hơn nỗi buồn. Muốn được
vậy ta phải tin nhận vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu. Chỉ khi
tin nhận vào Chúa phục sinh thì nước mắt của ta mới ngừng rơi; có đặt hy vọng
vào Chúa phục sinh thì nổi buồn của ta mới tan biến và có tích cực dấn thân cho
lý tưởng loan báo tin mừng phục sinh thì niềm vui trong lòng ta mới lớn lên và
lan tỏa mãi.
Xin cho ánh sáng tin mừng phục sinh của Chúa Kitô tỏa chiếu
vào tâm hồn u tối của chúng ta và khơi dậy trong ta tinh thần nhiệt quyết hăng
say ra đi loan báo tin mừng phục sinh của Chúa cho mọi người, nhất là những ai
đang sống trong cảnh đau buồn, thất vọng vì mất đi niềm tin vào cuộc sống.
Thứ tư: Lc 24, 13-35
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay tiếp tục trình thuật về sự kiện Chúa
Giêsu phục sinh hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau. Chúa đã dùng Lời Chúa
và cử chỉ bẻ bánh trong bữa ăn thân tình để giúp hai ông nhận ra Người. Mọi ưu
phiền và chán nản tan biến nhường chổ cho niềm vui và hạnh phúc. Hai ông hân
hoan trở về Giêrusalem báo tin phục sinh cho các môn đệ khác.
Xin Chúa cho chúng ta ý thức được tầm quan trọng của Lời
Chúa và Thánh Thể mà yêu mến gắn kết với Thánh Thể Chúa cũng như siêng năng tìm
hiểu, suy niệm và sống theo Lời Chúa hướng dẫn.
Truyện kể: Cô con gái hay than thở với cha sao bất hạnh này cứ vừa
đi qua thì bất hạnh khác đã vội ập đến với mình, và cô không biết phải sống thế
nào. Có những lúc quá mệt mỏi vì vật lộn với cuộc sống, cô đã muốn chối bỏ cuộc
đời đầy trắc trở này.
Cha cô vốn là một đầu bếp. Một lần, nghe con gái than
thở, ông dẫn cô xuống bếp. Ông bắc ba nồi nước lên lò và để lửa thật to. Khi ba
nồi nước sôi, ông lần lượt cho cà rốt, trứng và hạt cà phê vào từng nồi riêng
ra và đun lại để chúng tiếp tục sôi, không nói một lời.
Người con gái sốt ruột không biết cha cô đang định làm
gì. Lòng cô đầy phiền muộn mà ông lại thản nhiên nấu. Nửa giờ sau người cha tắt
bếp, lần lượt múc cà rốt, trứng và cà phê vào từng tô khác nhau.
Ông bảo con gái dùng thử cà rốt. "Mềm lắm cha
ạ", cô gái đáp. Sau đó, ông lại bảo cô bóc trứng và nhấp thử cà phê. Cô
gái cau mày vì cà phê đậm và đắng.
- Điều này nghĩa là gì vậy cha - cô gái hỏi.
- Ba loại thức uống này đều gặp phải một nghịch cảnh như
nhau, đó là nước sôi 100 độ. Tuy nhiên mỗi thứ lại phản ứng thật khác.
Cà rốt khi chưa chế biến thì cứng và trông rắn chắc,
nhưng sau khi luộc sôi, chúng trở nên rất mềm.
Còn trứng lúc chưa luộc rất dễ vỡ, chỉ có một lớp vỏ mỏng
bên ngoài bảo vệ chất lỏng bên trong. Sau khi qua nước sôi, chất lỏng bên trong
trở nên đặc và chắc hơn.
Hạt cà phê thì thật kỳ lạ. Sau khi sôi, nước của chúng
trở nên rất đậm đà.
Người cha quay sang hỏi cô gái: Còn con? Con sẽ phản ứng
như loại nào khi gặp phải nghịch cảnh.
Con sẽ như cà rốt, bề ngoài tưởng rất cứng cáp nhưng chỉ
với một chút đau đớn, bất hạnh đã trở nên yếu đuối chẳng còn chút nghị lực?
Con sẽ là quả trứng, khởi đầu với trái tim mỏng manh và
tinh thần dễ đổi thay. Nhưng sau một lần tan vỡ, ly hôn hay mất việc sẽ chín
chắn và cứng cáp hơn.
Hay con sẽ giống hạt cà phê? Loại hạt này không thể có
hương vị thơm ngon nhất nếu không sôi ở 100 độ. Khi nước nóng nhất thì cà phê
mới ngon.
Cuộc đời này cũng vậy con ạ. Khi sự việc tưởng như tồi tệ
nhất thì chính lúc ấy lại giúp con mạnh mẽ hơn cả. Con sẽ đối mặt với những thử
thách của cuộc đời như thế nào? Cà rốt, trứng hay hạt cà phê?
Để thay đổi cái nhìn bi quan, chán nản của cô con gái
mình, người cha đã dùng hình ảnh rất đổi quen thuộc mà dạy cho con mình bài học
vượt qua.
Cũng thế, để thay đổi tâm trạng buồn phiền, chán nản,
thất vọng của hai môn đệ trên đường Em-mau, Chúa Giêsu phục sinh cũng dùng
những hình ảnh xem ra rất đổi bình thuờng trong cuộc sống.
Bằng cách xuất hiện như một người khách bộ hành để cùng
chia sẻ những ưu tư, những quan tâm mà các ông đang gặp phải. Cũng như gợi lại
cho hai ông nhớ lại những Lời Chúa đã tiên báo và giải thích như xưa Ngài đã
từng làm. Nhờ thế lòng các ông cảm thấy bừng sáng lên bởi nhờ sức nóng của Lời
Chúa.
Bằng việc ở lại và ngồi vào bàn dùng bữa với các ông như
khi còn sống. Nhất là qua cử chỉ “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra
trao cho họ”. Đúng như cử chỉ Chúa làm khi lập bí tích Thánh Thể. Lúc đó
mắt họ mới mở ra và nhận ra Chúa phục sinh.
Nhờ sống Lời Chúa và Bí Tích Thánh Thể, ta sẽ nhận ra Chúa
phục sinh hiện diện nơi những người anh em mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày, như
hai môn đệ Em-mau xưa.
Nhờ Lời Chúa và Bí Tích Thánh Thể, chúng ta sẽ có cái
nhìn lạc quan trước những biến cố dưới con mắt người đời bị coi là xui xẻo, mất
mác, đau thương, bất hạnh…, bởi chúng ta nhận ra Chúa phục sinh hiện diện qua
các biến cố ấy.
Xin cho chúng ta biết gắng bó với Lời Chúa và kết hiệp
mật thiết với Bí Tích Thánh Thể. Nhờ đó chúng ta đủ sức mạnh vượt qua mọi thử
thách trong cuộc đời.
Suy niệm 2:
Hai môn đệ Emmmau ngót 3 năm bám chân theo Thầy Giêsu
nhằm xây mộng đời cho ngày mai tươi sáng, nhưng không ngờ mọi dự tính về một
tương lai huy hoàng giờ lại tan biến thành mây khói sau cái chết của thầy Giêsu.
Thất vọng, chán nãn, ngã lòng, cảm thấy thua cuộc, hai ông quyết định trở về
quê cũ, làm lại nghề xưa nhằm kiếm cơm sống qua ngày.
Nhưng không ngờ chính lúc hai ông bước đi trong nỗi buồn
tuyệt vọng, thì Chúa Phục sinh lại hiện ra đồng hành cùng hai ông như người
khách bộ hành. Ngài đã lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng, vui buồn mà hai ông
gặp phải. Ngài đã cũng chia sẻ bằng cách giải thích cho họ hiểu lời Thánh Kinh đã
nói về Người phải chết, sống lại mà cứu chuộc muôn dân, nhờ đó họ cảm thấy ấm
lòng, nhưng vẫn chưa hiểu hết, mãi cho đến khi hai ông chứng kiến lại nghi thức
bẻ bánh trong bữa ăn tối với hai ông sao giống như cử chỉ mà Chúa đã thực hiện
trong bữa Tiệc Ly với các môn đệ trước khi chết, thì lúc ấy hai ông mới nhận ra
quả thực Thầy mình đã sống lại và hiện ra với mình. Ngay lúc đó niềm vui vỡ oà
trong tim, họ liền quay lại Giêrusalem để báo tin cho các môn đệ khác.
Những khó khăn trong cuộc sống, đôi khi làm cho chúng ta
tưởng rằng Chúa đâu mất rồi, Ngài không thấy, không nghe những nổi khổ của
chúng ta. Thực ra, Chúa Phục sinh vẫn đang hiện diện bên cạnh chúng ta, và cùng
đồng hành với chúng ta trong mọi nẻo đường đời, chỉ tại chúng ta không nhận ra
sự hiện diện của Người thôi.
Thế giới ngày nay không thiếu những tâm hồn cô đơn tuyệt
vọng. Tuyệt vọng vì mất niềm tin, tuyệt vọng vì không thấy ý nghĩa cuộc đời.
Giữa những cảnh cô đơn tuyệt vọng ấy, người kitô hữu chúng ta có bổn phận đốt
lên những ngọn lửa tin yêu và hy vọng để sưởi ấm tâm hồn họ. Bổn phận này không
đòi hỏi những phương tiện lớn lao, những khả năng xuất chúng, mà chỉ cần những
nghĩa cử bé nhỏ đầy tình Chúa và tình người. Một hành vi bác ái, một lời an ủi,
một giây phút gặp gỡ trong tình Chúa sẽ rất cần thiết cho cuộc đời này.
Xin Chúa cho chúng ta lòng tin đủ mạnh để nhận ra sự hiện
diện của Chúa trong cuộc đời này, nhờ đó mà chúng con mới dễ dàng vượt qua
những nỗi buồn và thất vọng xảy ra trong cuộc sống.
Suy niệm 3:
Tin mừng hôm nay như
giúp chúng ta giải tỏa được 2 thắc mắc lớn trong đời sống đức tin, đó là : Chúa
Giêsu phục sinh đang ở đâu? và làm thế nào để nhận ra Người?
1. Qua câu chuyện Chúa
Giêsu phục sinh hiện ra với hai môn đệ trên đường đi Emmau, cho chúng ta
hiểu rằng: Chúa Giêsu phục sinh hiện diện mọi nơi và mọi lúc. Ngài hiện diện
trên các nẻo đường; Ngài đã hiện diện tại vùng quê Emmau, Người hiện diện tại
nơi ở của 2 môn đệ; Người hiện diện ngay trong bàn ăn…; đồng thời cùng lúc ấy,
Người cũng hiện diện tại thành đô Giêrusalem nơi 11 tông đồ đang họp nhau cầu
nguyện.
2. Chúa Giêsu phục sinh
đã tỏ hiện qua người khách bộ hành với dáng vẻ rất đỗi bình thường. Chúa tỏ
hiện qua Lời Chúa được ghi trong thánh kinh, đặc biệt là nơi bàn tiệc Thánh
Thể…
Như thế, Chúa Giêsu phục
sinh không còn lệ thuộc vào không gian và thời gian nữa nên Người hiện diện mọi
nơi và mọi lúc, qua nhiều cách thức khác nhau. Chính vì thế mà Chúa luôn đồng
hành với chúng ta trên mọi nẻo đường đời; nhất là trong những lúc chúng ta gặp
đau khổ và thất vọng như hai môn đệ Emmau. Do đó để nhận ra Chúa Phục sinh, ta
phải liên kết với anh em, phải biết thể hiện tình bác ái với tha nhân; phải
biết hiệp thông với cộng đoàn trong những giờ cầu nguyện. Nhất là phải biết để
tâm lắng nghe lời Chúa và tích cực tham dự thánh lễ và chầu thánh thể. Bởi
chính những cách thế đó ta sẽ dễ dàng gặp gỡ Chúa.
Thứ Năm: Lc 24, 35-39. 41-48
Suy niệm 1:
Để tin nhận một điều gì đó, thông thường người ta cần
phải kiểm chứng rõ ràng. Dẫu tin Chúa phục
sinh đã được loan báo đến các môn đệ Chúa, nhưng các ông vẫn sống trong tình
trạng bán tin bán nghi. Có lẽ vì thế trong lần hiện ra với các môn đệ được tin
mừng tường thuật hôm nay là để giúp cho các ông xác quyết về niềm tin phục sinh
của mình. Chúa nói “phúc cho những ai không thấy mà tin”. Biết thế
nhưng đức tin chúng ta còn rất yếu kém. Xin Chúa gia tăng lòng tin nơi chúng
ta.
Để thuyết phục các môn đệ tin chắc là Người đã
sống lại, Chúa Giêsu cũng đã phải kiên nhẫn đưa ra rất nhiều bằng chứng:
- Trước hết, Chúa bảo các ông hãy nhìn tay chân của
Người.
- Tiếp đến, Chúa bảo họ cứ sờ vào thân thể của Người.
- Dù đưa tay chân và thân thể cho các ông xem,
nhưng các ông cũng vẫn còn ngỡ ngàng. Nên Chúa tiếp tục đưa thêm bằng chứng là
hỏi xem các ông có gì ăn không? Và Chúa đã cầm lấy khúc cá nướng các ông trao
mà ăn trước mặt các ông. Qua đó Chúa cho họ thấy rằng chính Người đã phục sinh
chứ không phải là ma hiện hình.
- Cuối cùng Chúa còn phải dùng đến bằng chứng của Thánh
Kinh tiên báo về Người và Lời Người đã nói khi còn sống, để mở trí
cho các ông hiểu, tất cả đều được ứng nghiệm nơi Người.
Với những bằng chứng thuyết phục ấy, Chúa Giêsu đã minh
chứng Người đã sống lại và kêu gọi các ông hãy làm chứng về sự phục sinh của
Người. Nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ ăn năn sám hối để
đuợc ơn tha tội.
Chúa đã kiên nhẫn tìm mọi cách để cũng cố lòng tin nơi
các môn đệ. Xin Chúa cũng cố và gia tăng lòng tin nơi chúng ta, nhất là
những khi bị thử thách về đức tin.
Chúa đã trao cho các môn đệ sứ mạng làm chứng tin mừng
phục sinh sau khi gặp gỡ và tin nhận Chúa. Chúa cũng tiếp tục trao phó sứ mạng
làm chứng nhân cho tất cả chúng ta. Xin cho chúng ta biết siêng năng họp
nhau cầu nguyện, siêng nhận lãnh các bí tích nhờ thế đức tin chúng ta đủ mạnh
để sống và làm chứng cho tin mừng phục sinh.
Suy niệm 2:
Sách CVTĐ, thánh Luca
ghi lại những hoạt động chính yếu của các môn đệ thời GH sơ khai. Tất cả những
hoạt động ấy đều nhắm đến đích điểm là: “làm chứng nhân” cho
Chúa theo lệnh truyền của Người trước khi về trời; khởi đi từ thành
Giêrusalem cho đến tận cùng thế giới. Nhưng làm thế nào để lời chứng của chúng
ta đáng tin cậy và thuyết phục được người nghe?
Tin mừng hôm nay cho
biết, trước khi sai các tông đồ đi thi hành sứ mạng làm chứng, Chúa Giêsu phục
sinh đã dùng mọi cách để minh chứng về sự phục sinh của Người. Dẫu trước đó
Người đã hiện ra với các bà phụ nữ đạo đức; với bà Maria Macđala, với hai đệ
trên đường Emmau và cùng với Phêrô, nhưng hình như niềm tin của đa số các môn
đệ còn chưa vững chắc. Nên lần này trong khi các môn đệ họp nhau đông đủ, Người
lại hiện đến với các ông lần nữa ngỏ hầu xóa tan đi những mối ghi ngờ nơi các
ông.
Để chứng thật Người đã
phục sinh, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ xem tay và cạnh sườn Người; Người tiếp
tục kêu mời các ông đụng chạm đến thân thể Người; rồi để xác định Người không
phải là ma, Người tiếp tục cầm lấy mẩu cá nướng và một tảng mật ong mà ăn
trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Hơn thế nữa, Người
còn gợi lại cho các ông nhớ đến những lời được nói “trong luật Môsê,
trong sách tiên tri và thánh vịnh". Sau cùng, Chúa nói đến những lời
mà Người đã tuyên báo về cái chết và sự phục sinh của Người khi còn sống. Từ đó
mới nhắc nhở các môn đệ thi hành sứ mạng quan trọng là “phải nhân danh
Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt
đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều
ấy".
Như thế để thi hành sứ
mạng làm chứng cho tin mừng phục sinh, đòi hỏi các môn đệ phải xác tín niềm tin
cách mạnh mẽ vào sự phục sinh của Chúa. Vì có xác tín mạnh mẽ thì lời chứng của
các môn đệ mới có sức thuyết phục người nghe.
Xin Chúa củng cố niềm
tin vào Chúa phục sinh nơi mỗi chúng ta. Nhờ đó ta mới dấn thân lo cho việc
truyền giáo bằng lời nói và chứng tá đời sống đức tin mạnh mẽ của chúng ta.
Thứ sáu: Ga 21,1-14
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay tường thuật Chúa Giêsu phục sinh hiện ra
với các tông đồ ở biển hồ Tibêria, giúp các ông đánh bắt được một mẻ cá đầy.
Xin Chúa ban ơn trợ giúp chúng ta, để những việc hàng ngày của chúng ta đạt
được nhiều kết quả tốt đẹp theo ý Chúa.
Khi hiện ra với các bà phụ nữ, Chúa Giêsu bảo các bà về
báo tin cho các môn đệ đến Galilê để gặp Người. Nghe theo lời loan báo những
người phụ nữ các môn đệ trở về Galilê. Trong tâm trạng buồn bã, các ông rủ nhau
đi đánh cá. Tuy Các ông là những những đánh cá chuyên nghiệp, vậy mà đánh bắt
cả đêm chẳng được con cá nào. Thất vọng, mệt mỏi cuốn lưới định nghỉ ngơi, thì
lúc đó, Chúa Giêsu hiện đến, bảo các ông thả lưới bên phải thuyền, nơi gần bờ.
Các ông tin vào Lời ấy mà thả lưới. Kết quả, đánh được một mẻ cá đầy, không sao
kéo lên nỗi. Bấy giờ, Gioan nhận ra nói đó là Chúa, Phêrô mặc ngay áo vào, nhảy
xuống biển, bơi vào bờ.
Trên bờ, Chúa Giêsu đã chuẩn bị sẵn bữa ăn sáng cho các
ông với cá nướng và bánh. Trong bữa ăn Người cầm bánh và cá trao cho các ông,
một cử chỉ quen thuộc giúp các ông càng xác tín Chúa đã phục sinh.
Lời Chúa hôm nay xác quyết cho chúng ta hiểu rằng: “không
có Ta, các ngươi không làm gì được”. Bằng chứng, Các môn đệ đã vất vã, cực
nhọc suốt đêm mà chẳng có gì. Nhưng khi có sự hiện diện của Chúa, các ông bắt
được rất nhiều cá.
Xin cho chúng ta đừng bao giờ kiêu căng, tự mãn về những
hiểu biết và khả năng của mình, nhưng luôn khiêm tốn tin tưởng vào sự hướng dẫn
của Chúa.
Suy niệm 2:
Tin mừng hôm nay trình
thuật lại kiện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với 7 môn đệ bên biển hồ
Tibêria-miền Galilêa.
Như chúng ta biết, khi
Chúa phục sinh hiện ra với các bà phụ nữ đạo đức, sau khi chấn an và ban niềm
vui phục sinh cho các bà, Chúa Giêsu nhắn các bà về loan báo cho các môn đệ
Người đến Galilêa để gặp Người ở đó.
Nghe theo lời của các bà
loan báo, các tông đồ cùng nhau đi về vùng Galilê để chờ đợi gặp gỡ Chúa. Nhưng
trong lúc chờ đợi, với tâm trạng buồn chán, ông Simon Phêrô đề nghị các ông
khác xuống thuyền để đánh cá. Tuy nhiên suốt đêm ấy các ông không đánh bắt được
con nào, cho dẫu các ông là những ngư phủ chuyên nghiệp. Một buổi sáng thất
vọng và mệt mỏi cần sự nghỉ ngơi lấy sức sau một đêm dài mệt mỏi. Bổng nhiên
tia hy vọng bình minh lé lên, vì một ai đó từ trên bờ thăm hỏi chân tình và rồi
đề nghị các ông tiếp tục thả lưới bên phải thuyền. Lời đề nghị ấy như có ma lực
thúc đẩy các ông nghe theo. Thật bất ngờ mẻ lưới ấy, các ông đã bắt được rất
nhiều cá “hầu không kéo nổi lưới lên”.
Với cái nhìn nhạy bén của
con tim, ngay lúc đó Gioan đã nhận ra thầy mình và đã nói với Phêrô: "Chính
Chúa đó". Rất đổi vui mừng “Phêrô liền khoác áo vào, vì
đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới
đầy cá theo”.
Trên bờ, Chúa Giêsu đã
nướng cá chuẩn bị sẵn sàng buổi ăn sáng cho các ông. Khi ngồi ăn, không
ai dám hỏi: "Ông là ai? Vì mọi người đã biết là Chúa”. “Chúa
Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Đây là
lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại”.
Chúa phục sinh luôn hiện
diện bên đời chúng ta, ngài hiện diện nơi làm việc thường ngày của ta. Ngài
thấy và thấu hiểu tất cả những gì chúng ta gặp phải và ước muốn. Do đó, chúng
ta hãy luôn ý thức sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa trong đời, nhất là
những lúc gặp khó khăn thất bại chúng ta tin rằng Chúa không bao giờ bỏ rơi
chúng ta nên chúng ta hãy chạy đến với Chúa với niềm tin tưởng phó thác vào
tình thương và uy quyền của Chúa. Bởi lẽ: “Ví như Chúa chẳng xây
nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 127,1).
Thứ bảy: Mc 16, 9-15
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay tóm kết về những lần hiện ra của Chúa
phục sinh. Điều đáng ghi nhận là khi hiện ra với ai, Chúa cũng cố lòng tin họ,
sai họ đi làm chứng cho Chúa. Xin
Chúa cũng cố lòng tin nơi chúng ta, để chúng ta can đảm làm chứng nhân cho Chúa
giữa dòng đời đời hôm nay còn lắm gian nan.
Sau khi sống lại, mỗi lần hiện ra, Chúa đều kêu gọi làm
chứng cho tin mừng phục sinh.
- Khi hiện ra với bà Maria Macđala, Chúa sai bà đi loan
tin cho các môn đệ. Nhưng các ông không tin.
- Chúa phục sinh lại hiện ra với hai môn đệ trên đường
Em-mau, hai ông về báo tin, nhưng các môn đệ khác cũng không tin.
- Sau cùng Chúa hiện ra với các tông đồ đang ngồi ăn
trong nhà tiệc ly, Nguời trách các ông không tin những kẻ đã thấy và làm chứng Nguời
sống lại, rồi kêu gọi các ông đi loan báo tin mừng cứu độ.
Như thế, để đón nhận tin mừng phục sinh không phải là dễ,
cần phải kiên nhẫn và thời gian.
Trãi qua hơn hai ngàn năm, Giáo Hội không ngừng rao giảng
tin mừng cứu độ. Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều người chưa tin nhận Chúa.
Xin cho chúng ta đừng nản lòng, nhưng luôn nổ lực thi
hành lệnh truyền của Chúa Phục sinh mà kiên trì rao giảng không ngừng.
Ngày hôm nay, người ta không tin lời thầy dạy cho bằng
tin vào những chứng nhân. Xin cho chúng ta ý thức không chỉ rao giảng bằng lời
nhưng còn bằng đời sống chứng tá yêu thương. Nhờ thế tin mừng phục sinh có sức
thuyết phục mạnh mẽ và đáng tin cậy với mọi người hơn.
Suy niệm 2:
Hôm nay là ngày cuối của tuần bát nhật phục sinh, GH như
muốn chúng ta cùng với thánh Mác-cô tổng kết lại về những lần hiện ra của Chúa
phục sinh. Thánh sử Mác-cô tóm gọn lại những lần hiện ra của Chúa phục sinh như
sau:
- Trước hết Người hiện ra với bà Maria Mađalêna, bà đi
báo tin vui cho các môn đệ đang buồn thảm khóc lóc, nhưng họ không tin.
- Tiếp đến Người hiện ra với hai môn đệ (Clêophas và Luca), hai ông trở về báo tin mừng cho anh em mình,
nhưng họ cũng không tin.
- Sau hết, Chúa hiện ra với 11 tông đồ đang ngồi ăn, Chúa
khiển trách các ông cứng lòng. Sau đó sai các ông ra đi khắp thế gian rao giảng
Tin mừng cho muôn loài.
Qua đó cho thấy rằng để tin vào Chúa phục sinh không phải
là chuyện một sớm một chiều nhưng cần phải có thời gian. Chính Chúa cũng phải
kiên nhẫn thuyết phục các môn đệ rất nhiều lần, bằng nhiều cách và ở nhiều nơi
khác nhau.
Hiểu được như thế, chúng ta mới không thất vọng trước
những thất bại trong việc loan báo tin mừng, bởi vì việc thuyết phục người khác
tin vào Tin mừng phục sinh không phải là chuyện dễ dàng chút nào nên đòi buộc chúng
ta phải cố gắng thật nhiều.
Trước hết bản thân người rao giảng tin mừng phải có một
đức tin kiên vững vào Chúa. Bởi vì có xác tín niềm tin vào Chúa, ta mới dám
sống chết cho sứ mạng loan báo tin mừng, như thánh Phêrô và Gioan đã xác quyết
trong bài đọc 1: "Trước mặt Chúa, các ngài hãy xét coi:
nghe các ngài hơn nghe Chúa, có phải lẽ không? Vì chúng tôi không thể nào không
nói lên những điều mắt thấy tai nghe".
Sau nữa là phải kiên nhẫn trong việc loan báo Tin mừng,
không nên nóng vội vì “mưa dầm thấm đất”. Đó cũng là kinh nghiệm bản thân của
các tông đồ xưa và của GH trãi qua hơn 2000 năm qua.
Chúa đã trao ban cho chúng ta sứ mạng làm chứng cho Chúa trong
ngày lãnh nhận bí tích rửa tội. Xin cho
chúng ta biết noi gương các thánh tông đồ, vâng nghe lời Chúa biết hy sinh dấn
cho công cuộc rao giảng tin mừng, cho dẫu phải đối mặt với những khó khăn, ngay
cả nguy hại đến mạng sống.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét