TÀI LIỆU
CẦN THIẾT
TĨNH
TÂM HẠT THÁNG 10/10/2020
THÔNG ĐIỆP, TÔNG HIẾN, TÔNG HUẤN,
TÔNG THƯ, SỨ ĐIỆP
Đặng
Tự Do. 07/Oct/2020
Không phải tất cả tài liệu do Tòa Thánh công bố đều có
cùng trọng lượng như nhau. Một số tài liệu có thẩm quyền hơn những tài liệu
khác và vì vậy người Công Giáo cần phản ứng với những tài liệu này theo những
cách khác nhau.
Một số tài liệu được Đức Giáo Hoàng công bố dựa trên huấn
quyền của ngài. Một số khác được các Công Đồng như Công Đồng Vatican II công
bố.
Trong số các tài liệu được Đức Giáo Hoàng công bố, dựa
trên huấn quyền của ngài, cũng có những điểm khác biệt cần lưu ý.
a) Một số là Thông điệp (tiếng Ý: Encicliche hay Lettere
encicliche, tiếng Anh: Encyclicals hay Encyclical
Letter) gửi cho Giáo hội, cho các anh em giám mục của ngài, hoặc cho tất cả
những người có thiện chí.
Cho đến nay, Đức Thánh Cha Phanxicô có 3 Thông điệp:
1) Thông điệp Fratelli tutti – Tất Cả Anh Em - được công
bố ngày 3 Tháng 10, 2020
2) Thông điệp Laudato si’ – Chăm Sóc Ngôi Nhà Chung -
được công bố ngày 24 Tháng 5, 2015
3) Thông điệp Lumen fidei – Ánh Sáng Đức Tin - được công
bố ngày 29 Tháng 6, 2013
b) Một số khác là Tông huấn (tiếng
Ý: Esortazioni Apostoliche, tiếng Anh: Apostolic
Exhortation). Đó là những lời khích lệ để trình bày các suy tư về một chủ
đề đặc biệt nào đó hoặc đưa ra những cách hành động nhất định.
Cho đến nay, Đức Thánh Cha Phanxicô có 5 Tông huấn:
1) Tông huấn Querida Amazonia – Amazon Thân Yêu - được
công bố ngày 2 Tháng 2, 2020
2) Tông huấn Christus vivit - Chúa Kitô Đang Sống - được
công bố ngày 25 Tháng 3, 2019
3) Tông huấn Gaudete et exsultate – Mừng Rỡ Hân Hoan -
được công bố ngày 19 Tháng 3, 2018
4) Tông huấn Amoris laetitia – Niềm Vui Yêu Thương - được
công bố ngày 19 Tháng 3, 2016
5) Tông huấn Evangelii Gaudium – Niềm Vui Tin Mừng - được
công bố ngày 24 Tháng 11, 2013
c) Một số là Tông thư (tiếng Ý: Lettere
Apostoliche, tiếng Anh:Apostolic Letter) đề cập đến các vấn đề cụ
thể hoặc nhắm đến các nhóm cụ thể trong Giáo Hội.
Tông thư mới nhất của Đức Thánh Cha Phanxicô là Tông thư
thứ 38 có tựa đề Scripturae Sacrae Affectus – Lòng Sùng Kính Sách Thánh - được
công bố ngày 30 tháng 9, 2020 nhân kỷ niệm 1600 ngày Thánh Giêrôm qua đời.
Một số Tông thư của Đức Thánh Cha Phanxicô không do ngài
đích thân ký tên nhưng do Đức Hồng Y Pietro Parolin ký tên nhân danh Đức Thánh
Cha, chẳng hạn như các Tông thư liên quan đến tuyên Thánh, tuyên Chân Phước,
tuyên lên Bậc Đáng Kính…
Một số Tông thư của Đức Thánh Cha được ghi là ban
hành dưới dạng tự sắc (in forma di motu proprio – in the form of motu
proprio). Đó là các Tông thư được hình thành theo sáng kiến riêng của Đức Giáo
Hoàng và do ngài đích thân ký tên. Những Tông thư này có hiệu quả pháp lý. Đến
nay có 34 Tông thư của Đức Thánh Cha được ghi là ban hành dưới dạng tự sắc, chủ
yếu là đề cập đến việc cải tổ các quy trình trong Giáo Hội.
Tông thư đầu tiên của một vị Giáo Hoàng được ghi là ban
hành dưới dạng tự sắc là Tông thư của Đức Thánh Cha Innôcentê VIII được công bố
vào năm 1484.
d) Một số là Tông Hiến (tiếng Ý: Costituzioni
Apostoliche – tiếng Anh: Apostolic Constitution) đề cập
đến các vấn đề về cơ cấu. Tông hiến mới nhất là Tông hiến thứ 37 có tựa đề
“Episcopalis communio” - Tình Hiệp Thông Giám Mục - được công bố ngày 18 tháng
9, 2018.
e) Ngoài ra còn có các sứ điệp (Messaggio - Message)
như Sứ Điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ, Sứ Điệp Phục Sinh, Giáng Sinh Urbi et Orbi
gởi dân thành Rôma và toàn thế giới. Bên cạnh đó, còn các bài diễn văn (Discorso,
Speech) và các bài giảng (Omelia, Homily) trong các thánh lễ do Đức
Thánh Cha cử hành.
Tóm tắt các thuật ngữ thông dụng
Tiếng Ý |
Tiếng Anh |
Tiếng Việt |
Bolle |
Bull |
Tông Chiếu |
Costituzioni Apostoliche |
Apostolic Constitution |
Tông Hiến |
Discorso |
Speech |
Diễn Từ |
Encicliche Lettere encicliche |
Encyclicals Encyclical Letter |
Thông Điệp |
Esortazioni Apostoliche |
Apostolic Exhortation |
Tông Huấn |
Lettere Apostoliche |
Apostolic Letter |
Tông Thư |
Messaggio |
Message |
Sứ Điệp |
Motu proprio |
Motu proprio |
Tự Sắc |
Omelia |
Homily |
Bài Giảng |
TÓM
LƯỢC THÔNG ĐIỆP THỨ BA, FRATELLI TUTTI,
CỦA
ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
Vũ Văn An. 05/Oct/2020
Tình huynh đệ và tình bạn xã
hội là những cách mà Đức Thánh Cha chỉ ra để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn,
công bằng hơn và hòa bình hơn, với sự đóng góp của mọi người: con người và các
định chế. Với việc cương quyết nói ‘không’ với chiến tranh và sự thờ ơ hoàn cầu
hóa.
Bài viết của Isabella Piro –
Vatican News
Đâu là các lý tưởng vĩ đại nhưng cũng là
những cách hữu hình để thăng tiến đối với những người mong muốn xây dựng một
thế giới công bằng và huynh đệ hơn trong các mối liên hệ bình thường của họ,
trong đời sống xã hội, chính trị và các định chế? Đó chủ yếu là câu hỏi
mà Fratelli tutti muốn trả lời: Đức Giáo Hoàng mô tả nó như
một “Thông điệp xã hội” (6) mượn tựa đề “Các Khuyên Răn” của Thánh Phanxicô
Assisi, người đã dùng những hạn từ này để “nói với anh em của ngài và đề nghị
với họ một lối sống thấm đượm hương vị Tin Mừng ”(1). Đức Giáo Hoàng viết rằng
Vị Thánh Nghèo (Poverello) “không gây chiến bằng các ngôn từ nhằm áp đặt các
học thuyết; ngài chỉ đơn giản truyền bá tình yêu của Thiên Chúa ”, và “ngài đã
trở thành một người cha cho mọi người và truyền cảm hứng cho một viễn kiến về một
xã hội huynh đệ”(2-4). Thông điệp này nhằm cổ vũ một khát vọng phổ quát hướng
tới tình huynh đệ và tình bạn xã hội. Bắt đầu với tư cách thành viên chung của
chúng ta trong gia đình nhân loại, từ sự thừa nhận rằng chúng ta là anh chị em
vì chúng ta là con cái của một Đấng Tạo Hóa, tất cả cùng chung một con thuyền,
và do đó chúng ta cần ý thức rằng trong một thế giới hoàn cầu hóa và liên kết
hỗ tương, chỉ cùng với nhau chúng ta mới có thể được cứu vớt. Văn kiện Tình
huynh đệ nhân loại do Đức Phanxicô và Đại Imam của Al-Azhar ký vào tháng 2 năm
2019 là một ảnh hưởng đầy cảm hứng đã được trích dẫn nhiều lần.
Tình huynh đệ không chỉ được khuyến
khích bằng lời nói, mà còn bằng việc làm. Các việc làm trở nên hữu hình trong
một “loại chính trị tốt hơn”, không phụ thuộc vào lợi ích tài chính, mà phục vụ
lợi ích chung, có khả năng đặt phẩm giá của mỗi con người vào trung tâm và bảo
đảm việc làm cho mọi người, để mỗi người có thể phát triển các khả năng của
riêng họ. Một loại chính trị, nhờ tự tách mình khỏi chủ nghĩa dân túy, có khả
năng tìm được các giải pháp chống lại những gì đang tấn công các quyền lợi căn
bản của con người và nhằm xóa bỏ dứt khoát nạn đói và nạn buôn người. Đồng
thời, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh rằng một thế giới công bằng hơn chỉ có
thể đạt được bằng cách cổ vũ hòa bình, là thứ không chỉ đơn thuần không có
chiến tranh; nó đòi hỏi "tài thủ công", một công việc liên quan đến
mọi người. Liên kết với sự thật, hòa bình và hòa giải, người ta phải “chủ
động”; họ phải làm việc hướng tới công lý qua đối thoại, nhân danh sự phát
triển chung. Điều này dẫn đến việc Đức Giáo Hoàng lên án chiến tranh, vốn
"phủ nhận mọi quyền lợi" và không còn có thể quan niệm được dù dưới
dạng giả thuyết "được biện minh", vì vũ khí hạt nhân, hóa học và sinh
học đã có những hậu quả to lớn đối với dân thường vô tội. Cũng có một sự bác bỏ
mạnh mẽ hình phạt tử hình, được xác định là "không thể chấp nhận
được", và một suy tư trung tâm về sự tha thứ, liên quan đến các khái niệm
tưởng nhớ và công lý: Đức Thánh Cha viết rằng tha thứ không có nghĩa là quên
đi, cũng không phải là từ bỏ việc bênh vực các quyền lợi của mình để bảo vệ
phẩm giá của mình, vốn là một hồng phúc của Thiên Chúa. Đức Phanxicô tiết lộ
rằng ở bối cảnh của Thông điệp là đại dịch Covid-19, một đại dịch “bùng phát một
cách bất ngờ” khi ngài “viết thông điệp này”. Nhưng tình trạng khẩn trương về
sức khỏe hoàn cầu này đã giúp chứng minh điều này: “không ai có thể đối đầu với
cuộc sống trong cô lập cả” và do đó, đã đến lúc thực sự “mơ ước như một gia
đình nhân loại duy nhất”, trong đó chúng ta hết thẩy là “anh chị em” (7- 8).
Được mở đầu bằng một lời dẫn nhập ngắn
gọn và được chia thành tám chương, Thông điệp - như chính Đức Giáo Hoàng giải
thích - tập hợp nhiều tuyên bố của ngài về tình huynh đệ và tình bạn xã hội,
tuy nhiên, được sắp xếp, “trong một bối cảnh suy tư rộng lớn hơn” và được bổ
sung bằng “một số thư từ, tài liệu” được gửi đến Đức Phanxicô bởi“ nhiều cá
nhân và nhóm trên khắp thế giới ”(5). Trong chương đầu tiên, “Những đám
mây đen trên một thế giới khép kín”, văn kiện suy nghĩ về nhiều bóp méo
đương đại: sự thao túng và biến dạng của các khái niệm như dân chủ, tự do, công
lý; sự mất đi ý nghĩa của cộng đồng xã hội và lịch sử; tính ích kỷ và sự thờ ơ
đối với lợi ích chung; sự trổi vượt của luận lý học thị trường dựa trên lợi
nhuận và văn hóa vứt bỏ; nạn thất nghiệp, phân biệt chủng tộc, nghèo đói; sự
chênh lệch về quyền lợi và những sai lệch của nó như nô lệ, buôn người, khuất
phục phụ nữ rồi ép phải phá thai, buôn bán nội tạng (10-24). Đức Giáo Hoàng
nhấn mạnh, nó bàn đến các vấn đề hoàn cầu đòi phải có các hành động hoàn cầu,
cũng gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh chống lại một “nền văn hóa xây tường”
chuyên tạo điều kiện cho việc gia tăng tội phạm có tổ chức, được khuyến khích
bởi nỗi sợ hãi và cô đơn (27-28). Hơn nữa, ngày nay chúng ta thấy sự xuống cấp
đạo đức (29), một cách nào đó có sự góp phần của các phương tiện truyền thông
đại chúng, vốn làm tiêu tan lòng tôn trọng người khác và loại bỏ mọi suy xét
chín chắn, tạo ra những nhóm người ảo cô lập và tự quy chiếu vào chính mình,
trong đó tự do là một ảo tưởng, và đối thoại không mang tính xây dựng (42-50).
Tình yêu bắc cầu: Người Samaritanô nhân
hậu
Tuy nhiên, đối với nhiều bóng tối, Thông
điệp đáp lại bằng một điển hình sáng lạn, một sứ giả của hy vọng: Người Samaritanô
nhân hậu. Chương thứ hai, "Một người lạ trên đường", được
dành riêng cho nhân vật này. Trong đó, Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng, trong một
xã hội không lành mạnh, chuyên quay lưng lại với đau khổ, và “mù chữ” trong
việc chăm sóc những người yếu đuối và dễ bị tổn thương (64-65), tất cả chúng ta
được kêu gọi - giống như Người Samaritanô nhân hậu - trở nên hàng xóm với người
khác (81), vượt qua các định kiến, lợi ích cá nhân, rào cản lịch sử và văn hóa.
Thực vậy, tất cả chúng ta đều có chung trách nhiệm trong việc tạo ra một xã hội
có thể bao gồm, hòa nhập và nâng dậy những người đã vấp ngã hoặc đang đau khổ
(77). Đức Giáo Hoàng nói thêm: Tình yêu bắc những nhịp cầu và “chúng ta được
tạo ra để yêu thương” (88); ngài đặc biệt khuyên các Kitô hữu nhận ra Chúa Kitô
nơi khuôn mặt của mọi người bị loại trừ (85). Nguyên tắc về khả năng yêu thương
theo “một chiều kích phổ quát” (83) cũng được tiếp tục trong chương thứ
ba, “Hình dung và hình thành một thế giới cởi mở”. Trong chương
này, Đức Phanxicô khuyên chúng ta đi “ ‘ra ngoài cái tôi’ ”để tìm “một hiện hữu
trọn vẹn hơn nơi một người khác”(88), mở lòng mình ra với người khác theo năng
động tính của đức ái khiến chúng ta hướng tới “sự thành toàn phổ quát ”(95).
Thông điệp nhắc nhở rằng, ở hậu trường, tầm vóc tinh thần của đời người được đo
bằng tình yêu thương, một tình yêu luôn “chiếm vị trí hàng đầu” và dẫn chúng ta
đi tìm điều tốt hơn cho cuộc sống của người khác, tránh xa mọi thứ ích kỷ
(92-93).
Do đó, một xã hội huynh đệ sẽ là một xã
hội biết cổ vũ việc giáo dục đối thoại nhằm đánh bại con “vi-rút” của “chủ
nghĩa cá nhân triệt để” (105) và giúp mọi người biết cống hiến những gì tốt
nhất của chính mình. Bắt đầu bằng sự bảo vệ gia đình và tôn trọng “sứ mệnh giáo
dục hàng đầu và quan yếu của gia đình” (114). Đặc biệt có hai 'công cụ' để đạt
được kiểu xã hội này: lòng nhân từ, hoặc thực sự mong muốn điều tốt cho người
khác (112), và tình liên đới biết quan tâm đến sự mong manh và được phát biểu
trong việc phục vụ người ta chứ không phục vụ các ý thức hệ, tranh đấu chống
nghèo đói và bất bình đẳng (115). Một lần nữa, Đức Giáo Hoàng khẳng định, quyền
sống đúng phẩm giá không thể bị bác bỏ, và vì các quyền lợi không có biên giới,
nên không ai có thể bị loại trừ, bất kể họ sinh ra ở đâu (121). Theo quan điểm
này, Đức Thánh Cha cũng kêu gọi chúng ta xem xét “nền đạo đức tương quan quốc
tế” (126), vì mọi quốc gia cũng thuộc về người nước ngoài và các hàng hóa của
lãnh thổ không thể bị từ khước đối với những người đang có nhu cầu và phát xuất
từ một nơi khác. Vì vậy, quyền tự nhiên đối với tư hữu sẽ là thứ yếu so với
cùng đích chính và phổ quát của hàng hóa đã tạo ra (120). Thông điệp cũng nhấn
mạnh một cách chuyên biệt đến vấn đề nợ nước ngoài: tùy thuộc vào khoản nợ gốc
mà nó phải trả, tuy nhiên người ta hy vọng rằng điều này không ảnh hưởng đến sự
tăng trưởng và sống còn của các nước nghèo nhất (126).
Di dân: quản trị hoàn cầu để lập kế
hoạch dài hạn
Trong khi đó, một phần của chương thứ
hai và toàn bộ chương thứ tư được dành cho chủ đề di dân, chương sau, tựa đề là “Một
trái tim mở lòng ra với toàn thế giới”. Với cuộc sống của họ “đang lâm
nguy” (37), chạy trốn chiến tranh, bách hại, thảm họa thiên nhiên, nạn buôn
người vô lương tâm, bị tách khỏi cộng đồng gốc của họ, những người di cư phải
được chào đón, bảo vệ, hỗ trợ và hòa nhập. Đức Thánh Cha khẳng định cần phải
tránh việc di dân không cần thiết bằng cách tạo ra các cơ hội cụ thể để sống
đúng phẩm giá tại các quốc gia nguyên gốc. Nhưng đồng thời, chúng ta cần tôn
trọng quyền được tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn ở những nơi khác. Ở các
nước tiếp nhận, sự cân bằng hợp lý sẽ là giữa việc bảo vệ các quyền của công
dân và bảo đảm việc chào đón và hỗ trợ các di dân (38-40). Một cách chuyên
biệt, Đức Giáo Hoàng chỉ rõ một số “biện pháp không thể thiếu, đặc biệt để đáp
ứng những người đang chạy trốn các cuộc khủng hoảng nhân đạo nghiêm trọng”:
tăng cường và đơn giản hóa việc cấp thị thực; mở các hành lang nhân đạo; bảo
đảm chỗ ở, an ninh và các dịch vụ thiết yếu; cung cấp cơ hội việc làm và huấn
luyện; tạo điều kiện cho việc đoàn tụ gia đình; bảo vệ trẻ vị thành niên; bảo
đảm tự do tôn giáo và cổ vũ việc hòa nhập xã hội. Đức Giáo Hoàng cũng kêu gọi
thiết lập trong xã hội khái niệm “quyền công dân trọn vẹn”, và bác bỏ việc sử
dụng có tính kỳ thị thuật ngữ “các nhóm thiểu số” (129-131). Văn kiện viết:
Điều cần thiết trên hết là việc quản trị hoàn cầu, một sự hợp tác quốc tế về di
dân nhằm thực hiện việc lên kế hoạch dài hạn, vượt quá những trường hợp khẩn
cấp đơn lẻ (132), nhân danh việc phát triển hỗ trợ mọi dân tộc dựa trên nguyên
tắc cho không (gratuitousness). Theo cách này, các quốc gia sẽ có thể nghĩ mình
như “gia đình nhân loại” (139-141). Đức Phanxicô viết rằng, những người khác
với chúng ta là một quà phúc và làm giầu cho mọi người, vì các sự khác biệt
tượng trưng cho một cơ hội để phát triển (133-135). Một nền văn hóa lành mạnh
là một nền văn hóa biết chào đón, có khả năng mở lòng ra với người khác, mà
không từ bỏ bản thân, cung cấp cho họ một điều gì đó chân thực. Như trong một
khối đa diện - một hình ảnh rất thân thương đối với Đức Giáo Hoàng – toàn bộ
không phải chỉ là những bộ phận đơn lẻ của nó, nhưng giá trị của mỗi bộ phận
đều được tôn trọng (145-146).
Chủ đề của chương thứ năm là “Một
loại chính trị tốt hơn”, một loại đại diện cho một trong những hình thức
bác ái có giá trị nhất vì nó được đặt để phục vụ lợi ích chung (180) và thừa
nhận tầm quan trọng của con người, được hiểu như một phạm trù mở, sẵn sàng để
thảo luận và đối thoại (160). Theo một nghĩa nào đó, đây là một loại chủ nghĩa
dân túy do Đức Phanxicô đề xuất, ngược với thứ “chủ nghĩa dân túy” chuyên làm
ngơ tính hợp pháp của khái niệm “nhân dân”, bằng cách thu hút sự đồng thuận
nhằm bóc lột họ để phục vụ cho chính mình và nuôi dưỡng tính ích kỷ nhằm gia
tăng sự nổi tiếng của riêng mình (159). Nhưng một nền chính trị tốt hơn cũng là
một nền chính trị biết bảo vệ việc làm, một “chiều kích thiết yếu của đời sống
xã hội”, và tìm cách bảo đảm để mọi người có cơ hội phát triển các khả năng của
mình (162). Đức Thánh Cha giải thích, sự giúp đỡ tốt nhất cho một người nghèo
không chỉ là tiền, vốn là một phương thuốc tạm thời, mà là để giúp họ có một
cuộc sống xứng đáng nhờ việc làm. Chiến lược chống nghèo đói thực sự không chỉ
nhằm mục đích kiềm chế hoặc làm cho người nghèo không mếch lòng, mà còn cổ vũ
nơi họ viễn tượng liên đới và phụ đới (187). Hơn nữa, nhiệm vụ của chính trị là
tìm ra giải pháp cho tất cả những gì đang tấn công các nhân quyền căn bản,
chẳng hạn như loại trừ xã hội; buôn bán nội tạng, các tế bào, các loại vũ khí
và ma túy; bóc lột tình dục; lao động nô lệ; khủng bố và tội ác có tổ chức. Đức
Giáo Hoàng đưa ra lời kêu gọi thống thiết phải dứt khoát loại bỏ nạn buôn
người, một “nguồn xấu hổ cho nhân loại”, và nạn đói, vốn là “tội ác” vì lương
thực là “một quyền bất khả chuyển nhượng” (188-189).
Thị trường, tự nó, không thể giải quyết
mọi vấn đề. Nó đòi một cuộc cải tổ Liên Hiệp Quốc
Đức Phanxicô cũng nhấn mạnh nền chính
trị mà chúng ta cần là nền chính trị biết nói “không” với tham nhũng, với sự
thiếu hiệu năng, với việc sử dụng quyền lực một cách ác ý, với việc thiếu tôn
trọng pháp luật (177). Đó là một nền chính trị tập trung vào phẩm giá con người
và không chịu lệ thuộc tài chính vì “thị trường, tự nó, không thể giải quyết
mọi vấn đề”: “sự tàn phá” của đầu cơ tài chính đã chứng minh điều này (168). Do
đó, các phong trào bình dân đã nhận được một tính liên quan đặc biệt: như những
“nhà thơ xã hội” tuôn chẩy “luồng năng lượng đạo đức” ấy, phải để họ dấn thân
vào các hoạt động xã hội, chính trị và kinh tế, tuy nhiên, dưới sự phối hợp lớn
lao hơn. Đức Giáo Hoàng tuyên bố rằng, bằng cách này, người ta sẽ có khả năng
vượt quá chính sách “với” và “của” người nghèo (169). Một niềm hy vọng khác
trình bầy trong Thông điệp liên quan đến việc cải tổ Liên Hiệp Quốc: trước ưu
thế của chiều kích kinh tế đang vô hiệu hóa quyền lực của các quốc gia cá thể,
trên thực tế, nhiệm vụ của Liên hợp quốc sẽ là cung cấp thực chất cho khái niệm
“gia đình các quốc gia” hoạt động vì lợi ích chung, xóa bỏ nghèo đói và bảo vệ
nhân quyền. Văn kiện của Đức Giáo Hoàng quả quyết, không mệt mỏi sử dụng “đàm
phán, hòa giải và trọng tài”, Liên Hiệp Quốc phải cổ vũ sức mạnh của luật pháp
hơn là luật của sức mạnh, bằng cách tạo điều kiện cho các hiệp định đa phương
có khả năng bảo vệ tốt hơn ngay cả những quốc gia yếu nhất (173-175).
Từ chương thứ sáu, “Đối thoại và
tình bạn trong xã hội”, còn xuất hiện khái niệm sống như “nghệ thuật gặp
gỡ” với mọi người, ngay cả với các vùng ngoại vi của thế giới và với các dân
tộc nguyên thủy, vì “mỗi người chúng ta đều có thể học được một điều gì đó từ
những người khác. Không ai là vô dụng và không ai có thể bị hy sinh” (215).
Thật vậy, đối thoại chân chính là điều giúp người ta tôn trọng quan điểm của
người khác, lợi ích hợp pháp của họ và trên hết, là sự thật về phẩm giá con
người. Chúng ta thấy Thông điệp viết rằng, thuyết duy tương đối không phải là
một giải pháp, vì nếu không có các nguyên tắc phổ quát và các chuẩn mực đạo đức
nhằm ngăn cấm điều ác nội tại, luật lệ trở thành chỉ còn là những áp đặt độc
đoán (206). Từ viễn ảnh này, một vai trò đặc thù được dành cho các phương tiện
truyền thông, những phương tiện trong khi không khai thác những điểm yếu của
con người hay lợi dụng những điều tồi tệ nhất trong chúng ta, phải hướng đến
cuộc gặp gỡ rộng lượng và sự gần gũi với những người nhỏ bé nhất, cổ vũ sự gần
gũi và cảm thức gia đình nhân loại (205). Sau đó, một cách đặc biệt, Đức Giáo
Hoàng nhắc đến phép lạ của “sự tốt bụng” (kindness), một thái độ cần được phục
hồi vì nó là một ngôi sao “tỏa sáng giữa bóng tối” và “giải phóng chúng ta khỏi
sự ác độc... sự lo lắng... sự hoạt động điên loạn” đang thịnh hành trong thời
đương đại. Đức Phanxicô viết, một người tốt bụng tạo ra một cuộc sống chung
lành mạnh và mở ra các nẻo đường ở những nơi mà việc gây bực tức đang đốt cháy
các cây cầu (222-224).
Nghệ thuật hòa bình và tầm quan trọng
của sự tha thứ
Giá trị và việc cổ vũ hòa bình được phản
ảnh trong chương thứ bảy, “Những nẻo đường của cuộc gặp gỡ đổi mới”,
trong đó Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng hòa bình được nối kết với sự thật, công
lý và lòng thương xót. Khác xa mong muốn báo thù, nó “chủ động” và nhằm tạo ra
một xã hội dựa trên việc phục vụ người khác và theo đuổi sự hòa giải và phát
triển lẫn nhau (227-229). Đức Giáo Hoàng viết rằng trong một xã hội, mọi người
phải cảm thấy “như ở nhà”. Vì vậy, hòa bình là một “nghệ thuật bao gồm và liên
quan đến mọi người và trong đó mỗi người phải thực hiện phần việc của
mình". Đức Giáo Hoàng viết tiếp: Xây dựng hòa bình là “một nỗ lực luôn có
đó, một nhiệm vụ không bao giờ kết thúc”, và do đó điều quan trọng là phải đặt
con người, phẩm giá của họ và lợi ích chung ở trung tâm của mọi hoạt động
(230-232). Tha thứ gắn liền với hòa bình: Thông điệp viết, chúng ta phải yêu
thương mọi người, không trừ ai, nhưng yêu một kẻ áp bức có nghĩa là giúp họ
thay đổi và không để họ tiếp tục áp bức người lân cận. Ngược lại: người chịu
bất công phải mạnh mẽ bảo vệ quyền lợi của mình để duy trì phẩm giá của mình,
vốn là một hồng phúc của Thiên Chúa (241-242). Tha thứ không có nghĩa là miễn
trừng phạt, mà đúng hơn là công lý và tưởng nhớ, vì tha thứ không có nghĩa là
quên đi, mà là từ bỏ sức mạnh hủy diệt của cái ác và khát vọng trả thù. Đức
Giáo Hoàng khuyên: Đừng bao giờ quên những “nỗi kinh hoàng” như vụ Shoah (diệt
chủng Do Thái), vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, các cuộc đàn áp
và thảm sát sắc tộc. Chúng phải luôn được tưởng niệm, một lần nữa, để ta không
bị gây mê và giữ cho ngọn lửa của lương tâm tập thể luôn sống động. Điều cũng
quan trọng là phải nhớ đến những người tốt, và những người đã chọn sự tha thứ
và tình huynh đệ (246-252).
Do đó, một phần của chương thứ bảy tập
trung vào chiến tranh: Đức Phanxicô nhấn mạnh, nó không phải là “bóng ma từ quá
khứ mà là một mối đe dọa thường xuyên”, và nó đại diện cho “việc phủ nhận mọi
thứ quyền”, “một sự thất bại của chính trị và của nhân loại ”, và “thất bại
nhức nhối trước các thế lực của cái ác” vốn nằm trong “vực thẳm ”của chúng. Hơn
nữa, vì vũ khí hóa học và sinh học hạt nhân đã tấn công nhiều thường dân vô
tội, ngày nay chúng ta không thể nghĩ đến khả thể diễn ra “cuộc chiến tranh
chính nghĩa” như trước nữa, mà phải kịch liệt khẳng định lại: “Không bao giờ có
chiến tranh nữa!” Và xét rằng chúng ta đang trải qua một "cuộc chiến tranh
thế giới từng phần", vì tất cả các cuộc xung đột đều có liên hệ qua lại
với nhau, việc loại bỏ hoàn toàn vũ khí hạt nhân là "một mệnh lệnh đạo đức
và nhân đạo". Thay vào đó, Đức Giáo Hoàng đề nghị thành lập một quỹ hoàn
cầu để xóa đói bằng số tiền đầu tư vào vũ khí (255-262).
Hình phạt tử hình không thể chấp nhận
được, phải được bãi bỏ
Đức Phanxicô bày tỏ quan điểm rõ ràng
đối với án tử hình: nó không thể chấp nhận được và phải được bãi bỏ trên toàn
thế giới, vì Đức Thánh Cha viết, “ngay một kẻ giết người cũng không đánh mất
phẩm giá bản vị của họ và chính Thiên Chúa cam kết bảo đảm điều này”. Do đó, có
hai lời khuyên bảo sau đây: Đừng nên coi hình phạt như có tính báo thù, mà đúng
hơn như một phần của quá trình hàn gắn và tái hòa nhập xã hội, và cải thiện các
điều kiện của nhà tù, tôn trọng nhân phẩm của tù nhân, và xem xét điều này “án
chung thân là một hình phạt tử hình bí mật”(263-269). Người ta nhấn mạnh đến
việc cần thiết phải tôn trọng “tính thánh thiêng của sự sống” (283) trong khi
hiện nay “một số thành phần trong gia đình nhân loại của chúng ta, dường như,
sẵn sàng có thể chịu hy sinh”, chẳng hạn như trẻ chưa sinh, người nghèo, người
tàn tật và người già (18).
Bảo đảm tự do tôn giáo
Trong chương thứ tám và cuối cùng, Đức
Giáo Hoàng tập trung vào “Các tôn giáo phục vụ tình huynh đệ trong thế
giới của chúng ta” và một lần nữa nhấn mạnh rằng bạo lực không có cơ
sở trong các xác tín tôn giáo, mà đúng hơn, trong các hình thức méo mó của
chúng. Do đó, các hành vi “đáng trách”, chẳng hạn như hành động khủng bố, không
phải do tôn giáo mà là do cách giải thích sai lầm các bản văn tôn giáo, cũng
như “các chính sách liên quan đến đói, nghèo, bất công, áp bức”. Không được ủng
hộ chủ nghĩa khủng bố bằng tiền bạc hoặc vũ khí, càng ít hơn bằng việc đưa tin
của các phương tiện truyền thông, vì đó là một tội ác quốc tế chống lại an ninh
và hòa bình thế giới, và như vậy phải bị lên án (282-283). Đồng thời, Đức Giáo
Hoàng nhấn mạnh rằng một hành trình hòa bình giữa các tôn giáo là điều có thể
thực hiện được và do đó cần phải bảo đảm quyền tự do tôn giáo, một nhân quyền
căn bản cho mọi tín hữu (279). Đặc biệt, Thông điệp suy tư vai trò của Giáo
hội: nó tuyên bố rằng Giáo hội không “giới hạn sứ mệnh của mình vào phạm vi
riêng tư”. Giáo Hội không đứng lại ở bên lề xã hội và, tuy không tham gia chính
trị, nhưng Giáo Hội không từ bỏ chiều kích chính trị của chính sự sống. Thực
thế, việc quan tâm đến lợi ích chung và quan tâm đến việc phát triển toàn diện
con người là điều liên hệ đến toàn thể nhân loại, mà những gì là nhân bản đều
có liên quan đến Giáo hội, theo các nguyên tắc Tin Mừng (276-278). Cuối cùng,
trong khi nhắc nhở các nhà lãnh đạo tôn giáo về vai trò của họ như “những người
trung gian chân chính”, những người xả thân để xây dựng hòa bình, Đức Phanxicô
trích dẫn “Văn kiện về Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Chung
sống”, mà ngài đã ký vào ngày 4 tháng 2 năm 2019 tại Abu Dhabi, cùng với Đại
Imam của Al-Azhar, Ahmad Al-Tayyib: từ cột mốc đối thoại liên tôn đó, Đức Giáo
Hoàng quay trở lại với lời kêu gọi rằng, nhân danh tình huynh đệ nhân bản, đối
thoại phải được tiếp nhận như một con đường, hợp tác chung như cách ứng xử và
hiểu biết lẫn nhau như phương pháp và tiêu chuẩn (285).
Chân phước Charles de Foucauld, “người
anh em phổ quát”
Thông điệp kết thúc bằng việc tưởng nhớ
Martin Luther King, Desmond Tutu, Mahatma Gandhi và trên hết là Chân phước
Charles de Foucauld, một hình mẫu cho mọi người về ý nghĩa của việc đồng nhất
hóa với những người nhỏ bé nhất để trở thành “người anh em phổ quát” (286-287).
Những dòng cuối cùng của Văn kiện được dành cho hai lời cầu nguyện: một lời
“dâng lên Đấng Tạo Hóa” và lời kia là “Lời cầu nguyện đại kết Kitô giáo ”, để
trái tim nhân loại nuôi dưỡng“ tinh thần huynh đệ”.
BỘ
GIÁO LÝ ĐỨC TIN:
CỬ
HÀNH BÍ TÍCH RỬA TỘI VỚI NGHI THỨC
ĐƯỢC
SỬA ĐỔI TÙY TIỆN LÀ KHÔNG THÀNH SỰ
Ngọc Yến - Vatican News
Không thành sự khi cử hành Bí tích Rửa tội với nghi thức
đã được sửa đổi cách tùy tiện và những ai đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội như thế
phải được lãnh nhận Bí tích lại theo các quy tắc phụng vụ do Giáo hội thiết
lập.
Ngày 06/8/2020, Bộ Giáo lý Đức tin đã đưa ra câu trả lời,
được Đức Thánh Cha phê chuẩn, liên quan đến câu hỏi nghi ngờ thành sự về việc
cử hành Bí tích Rửa tội với công thức: “Nhân danh cha mẹ, cha/mẹ đỡ đầu, ông
bà, các thành viên trong gia đình, nhân danh cộng đoàn, chúng tôi (số nhiều)
rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”, thay vì công thức chính thức của
Giáo hội là: “Tôi/cha rửa anh/chị/con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Bộ Giáo lý Đức tin cho rằng “sửa đổi tùy tiện này nhằm
nhấn mạnh giá trị cộng đoàn của Bí tích Rửa tội, để bày tỏ sự tham gia của gia
đình, người thân và để tránh ý tưởng tập trung thánh quyền của linh mục”. Tuy
nhiên, câu trả lời nhắc lại Hiến chế Sacrosanctum Concilium – Hiến chế
về Phụng vụ Thánh, trong đó quy định: “Khi một người cử hành Bí tích Rửa
tội thì chính Chúa Giêsu cử hành”. Tất nhiên, trong việc cử hành, cha mẹ của
người lãnh nhận Bí tích, cha mẹ đỡ đầu và toàn thể cộng đoàn được mời gọi đóng
một vai trò tích cực, nhưng theo Hiến chế, mỗi người, khi chu toàn phận vụ, chỉ
thi hành trọn những gì thuộc lãnh vực mình tùy theo bản chất sự việc và những
qui tắc phụng vụ (Sacrosanctum Concilium, 28).
Công đồng Vatican II xác định rằng không một ai, ngay cả
linh mục có quyền thực hiện theo sáng kiến của mình, nghĩa là loại bỏ hoặc thêm
bất cứ điều gì trong các chất thể phụng vụ. Thực vậy, sửa đổi nghi thức cử hành
Bí tích không chỉ cấu thành một sự lạm dụng phụng vụ đơn giản, vi phạm một quy
tắc, nhưng đồng thời gây ra một tổn hại cho sự hiệp thông Giáo hội và nhìn nhận
hành động của Đức Kitô. Và trong những trường hợp nghiêm trọng việc sửa đổi đó
làm cho Bí tích vô hiệu, bởi vì bản chất của hành động thừa tác vụ đòi hỏi sự
thông truyền cách trung thành điều đã được lãnh nhận.
Tài liệu giải thích: Trong việc cử hành các Bí tích, cộng
đoàn không hành động “cách đoàn thể”, nhưng “thừa tác” và thừa tác viên không
nói như một viên chức được giao phó công việc, nhưng đóng một vai trò thừa tác
như dấu hiệu sự hiện diện của Đức Kitô, Đấng hành động trong Thân Mình Người,
trao ban ân sủng. Trong ánh sáng này, trong khi cử hành Bí tích, tối thiểu thừa
tác viên phải có chủ ý làm theo những điều Hội thánh truyền dạy. Một chủ ý phải
được thể hiện ra bên ngoài, hành động này được thực hiện không phải nhân danh
thừa tác viên nhưng nhân danh Đức Kitô.
Bộ Giáo lý Đức tin kết luận: “Thay đổi nghi thức cử hành
Bí tích, còn có nghĩa là không hiểu được chính bản chất của thừa tác vụ Giáo
hội, đó là luôn luôn phục vụ Thiên Chúa và dân Người chứ không phải việc thực
thi một quyền bính nhằm làm sai những gì đã được giao phó cho Giáo hội bằng một
hành động thuộc về Truyền thống. Do đó, mỗi thừa tác viên Bí tích Rửa tội phải
ý thức về việc phải hành động trong sự hiệp thông Giáo hội, và có niềm xác tín
như Thánh Augustinô. Theo Thánh Augustinô, trong Bí tích Rửa tội, Đức Kitô là
quan trọng nhất, vì thế sự thánh thiện của Bí tích Rửa tội không tùy thuộc vào
các thừa tác viên mà tùy thuộc vào Đấng đã nói: “Đấng làm phép rửa trong Thánh
Thần” (Ga 1,33). (CSR_5697_2020).
KINH
ĐỨC MẸ MÂN CÔI
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Trong suốt cả năm Hội Thánh
đặt ra nhiều lễ kính Đức Mẹ. Nhưng tháng 10 hằng năm là tháng dành riêng về
lòng sùng kính Đức Mẹ mân côi.
† Trong dòng lịch sử
Theo dòng lịch sử, Thánh
Daminh, vị sáng lập Dòng Daminh chuyên vể giảng thuyết, đã nhận trực tiếp từ Đức
Mẹ, trong một phép lạ Đức Mẹ hiện ra với ngài, kinh nguyện Mân Côi vào năm
1208. Và từ thời điểm đó thánh nhân đã truyền bá sâu rộng việc lần chuỗi mân
côi kính Đức Mẹ trong Dòng của mình, và rồi dần dần lan truyền ra cho mọi người
trong Hội Thánh Chúa Kitô.
Cũng theo truyền thuyết đạo
đức kể lại, Đức Mẹ đã truyền cho Thánh Daminh phải quảng bá việc lần chuỗi mân
côi như vũ khí chống lại bè rối Albigenser lúc đó đang hòanh hành chống lại Hội
Thánh Chúa Kito.
Và từ khởi điểm đó, chuỗi
kinh mân côi trở nên linh đạo của Dòng Daminh.
Còn lịch sử ngày lễ kính Đức
Mẹ mân côi, ngày 07.10. hằng năm có sau này vào thế kỷ thứ 18. trong toàn thể Hội
Thánh Công Giáo.
Ngày 07.10.1571 trong trận hải
chiến giữa quân đội của đế quốc Osman Thổ nhĩ Kỳ và đạo binh thánh dưới thời Đức
Giáo Hoàng Pio V., ở vùng biển Lepanto bên Hy Lạp, đạo binh Thánh của Hội Thánh
đã dành được chiến thắng cùng chặn đường tiến xâm lăng của đội quân hùng hậu Thổ
nhĩ Kỳ.
Chiến thắng này có được là
nhờ lời cầu nguyện lần chuỗi đọc kinh mân côi trong toàn Hội Thánh lúc đó. Qua
đó Đức Mẹ đã cầu bầu cùng Chúa ban cho sức mạnh chiến thắng kẻ thù. Để nhớ ơn
này, Đức Giáo Hoàng Pio V. đã lập ra ngày lễ kính Đức Mẹ mân côi vào ngày
07.10. 1572 một năm sau để kỷ niệm chiến thắng này.
Và từ thế kỷ 18. ngày lễ này
vào ngày 07.10. hằng năm lan rộng trong khắp Hội Thánh là ngày lễ kính chính thức
trong lịch Phụng vụ.
† Suy niệm kinh mân côi
Việc lần chuỗi đọc kinh mân
côi xưa nay là cung cách nếp sống đức tin phổ thông bình dân trong khắp Hội
Thánh Chúa Kitô.
Khi đọc kinh mân côi, cùng với
kinh Kính Lạy Cha, kinh kính mừng Maria chúng ta lần theo dõi cuộc đời Chúa
Giêsu và Đức Mẹ qua những chặng đường suy niệm:
1. Năm chặng mùa Vui: Thiên Thần
truyền tin, Đức Mẹ đi viếng thăm Bà Eisabeth, Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu nơi hang
đá, Đức Mẹ đem Chúa Giêsu vào đền thờ, và Đức Mẹ Thánh Giuse tìm gặp lại được
Chúa Giêsu đi lạc trong đền thờ.
Năm ngắm mùa Vui này gợi nhắc
đến đời sống gia đình chúng ta. Hai vợ chồng từ lúc thành lập gia đình với nhau
ngày lễ thành hôn, mối liên hệ với gia đình họ hàng của hai bên, tiếng khóc nụ
cười niềm vui mừng hạnh phúc có người con chào đời trong gia đình, bồng ẵm con
đến thánh đường xin tiếp nhận làn nước bí tích rửa tội, và việc dạy dỗ uốn nắn
con cái trong gia đình.
2. Rồi qua những chặng đường năm sự Thương: Chúa Giêsu lo buồn, Chúa Giesu bị bắt chịu hành hạ bị đánh đập,
Chúa Giêsu bị nhạo báng cho đội triều thiên có gai nhọn đâm vào da đầu, Chúa
Giêsu phải vác thập gía đi đến pháp trường, và sau cùng Chúa Giêsu bị đóng đinh
treo trên thập gía.
Những chặng đường đau thương
này nhắc nhớ đến những đau khổ trong đời sống con người chúng ta. Lẽ dĩ nhiên
ngày nay không còn cảnh bị xử dã man tàn ác thập gía như thế vào thời Chúa
Giêsu nữa. Nhưng những đau khổ do chiến tranh gây ra, do khủng bố, do bị bệnh tật,
do bị đối xửa bất công, bị kỳ thị, bị đe dọa bóc lột, lừa dối chèn ép, bị tuyên
truyền đầu độc dưới nhiều hình thức…vẫn hằng luôn xảy ra trên thế giới vào mọi
thời điểm.
3. Năm chặng đường sự mừng thuật lạ
việc Chúa Giêsu phục sinh sống lại sau khi chết, việc Chúa Giêsu trở về trời, Đức
Chúa Thánh Thần, Đấng là nguồn an ủi, hiện xuống, Đức Mẹ Maria được Chúa đưa về
trời, Đức Mẹ Maria được đưa về trời là sự thưởng công của Chúa cho Đức Mẹ.
Năm sự mừng đời Chúa Giêsu
nói lên niềm vui mừng hy vọng cho con người chúng ta rồi cũng sẽ được cùng Chúa
sống lại, như Đức Mẹ được Chúa thưởng công cho về trời sống bên Ngài, khi quãng
đời đau thương khổ ải ở trần gian qua đi.
Đây không phải là sự an ủi rẻ
tiển hay dỗ trẻ con. Nhưng đó là điều nói lên gía trị linh thiêng cho đời sống.
Gía trị đó là niềm hy vọng. Gía trị đó là đời sống không chỉ có thân xác chết
là hết là rơi vào hư vô, nhưng con người còn có phần tâm linh linh hồn linh
thiêng nữa, và được Thiên Chúa cứu chuộc, cho được cùng sống lại phục sinh với
Chúa Giêsu Kitô.
4. Tháng 10.2002 Thánh giáo
hoàng Gioan Phaolo II., khi còn đương quyền giáo hoàng, đã thiết lập „năm lần
chuỗi mân côi", và đồng thời ngài cũng đã lập thêm năm sự sáng vào việc
suy niệm lần chuỗi mân côi.
Năm chặng đường sự sáng lần theo
cuộc đời giảng đạo của Chúa Giêsu từ lúc Ngài chịu phép Rửa ở sông Giordan,
Chúa Giêsu làm phép lạ cho nước hóa thành rượu ở tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu rao
giảng nước trời và ơn thống hối, Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor và Chúa
Giêsu lập bí tích Thánh Thể.
Năm chặng của năm sự sáng đời
rao giảng nước trời của Chúa Giêsu giúp ta nhớ đến những ân đức Chúa Giêsu đã
thực hiện cho đời sống thiêng liêng con người, nhất là bí tích Thánh Thể, một
nguồn ơn nuôi sống đức tin tâm hồn người tín hữu Chúa Kitô.
Đức Giáo Hoàng nghỉ hưu
Benedictô XVI đã có suy niệm về kinh chuỗi mân côi là lời cầu nguyện quy hướng
về Chúa Giêsu Kitô theo sát những biến chuyển diễn tả trong Kinh Thánh. Đọc
kinh lần chuỗi mân côi là cách thế cầu nguyện của nọi người tín hữu Chúa Kito
đang trên con đường lữ hành theo chân Chúa.
Lần chuỗi đọc kinh mân côi
là lời cầu nguyện xin ơn bằng an cho đời sống mỗi người, cho gia đình mình và
cho hòa bình trên thế giới.
Kinh mân côi là kinh cầu nguyện
bình dân đại chúng từ hàng thế kỷ nay trong nếp sống đạo đức của người tín hữu
Chúa Giêsu Kitô. Người tín hữu Công Giáo đọc kinh mân côi, kêu xin Chúa ban ân
đức cứu giúp nhờ lời bầu cử của Đức Mẹ trong mọi hoàn cảnh đời sống, nhất là
trong lúc gặp hoàn cảnh khó khăn bị đe dọa sức khoẻ thể lý cũng như tinh thần.
Bệnh đại dịch Corona từ những
tháng ngày qua lây lan đe dọa sức khoẻ đời sống nhân lọai, phá đổ làm đảo lộn mọi
chương trình sinh hoạt đạo giáo lẫn văn hóa chính trị kinh tế trong nếp sống xã
hội, gây ra tình trạng ngăn chia xa cách giữa con người với nhau.
Lời kêu cầu qua việc đọc
kinh mân côi là phương thức tinh thần xin ân đức của Chúa, nguồn ơn chữa lành
và an ủi rất cần thiết trong cơn khủng hoảng lúc này.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi, 07.10.20
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét