SUY NIỆM LỜI CHÚA III MÙA VỌNG
Lm Viki
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG NĂM B
Is 61, 1-2a. 10-11; 1Tx 5, 16-24; Ga 1, 6-8.19-28
Cùng với GH, chúng ta bước vào Chúa
nhật thứ 3 mùa vọng, Chúa nhật của màu hồng. Màu hồng diễn tả niềm vui và
hy vọng. Vui vì lễ Giáng sinh kỉ niệm biến cố Con Thiên Chúa làm người để cứu
độ nhân trần đã đến gần. Hy vọng vì Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng thương
xót luôn sẵn sàng tha thứ tội lỗi và ban dư tràn ơn phúc cho ta nếu ta biết
thành tâm sám hối và canh tân đời sống.
Xin Chúa giúp mỗi chúng ta biết mở
lòng đón nhận lời mời gọi của Chúa và mau mắn thi hành điều mà Chúa chỉ dạy.
Nhờ đó niềm vui và hy vọng của ơn cứu rỗi mới đến được nơi tâm hồn chúng ta và
qua ta niềm vui tin mừng đó được lan tỏa đến mọi người.
Thông thường Mùa Vọng, trên bàn thờ
người ta cắm 4 cây nến, 3 cây màu tím, 1 cây màu hồng. Chúa nhật hôm nay cây
nến màu hồng được thắp sáng. Cũng trong Chúa nhật hôm nay chủ tế lại mặc phẩm
phục màu hồng khi dâng thánh lễ. Trong Phụng vụ hôm nay, GH cũng cho phép cắm
ít hoa, đệm đàn phong cầm và nhạc cụ khác. Tất cả như muốn diễn tả niềm vui và
hy vọng cả bên trong và bên ngoài:
Bên ngòai: Vui vì lễ Giáng sinh kỉ
niệm biến cố trọng đại Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, nhập thế để cứu độ chúng
ta đã gần bên. Vui vì thời tiết bắt đầu se lạnh làm cho lòng người trở nên nhẹ
nhõng dễ chịu hơn. Vui vì các gia đình bắt đầu dọn dẹp và trang hoàng đẹp hơn.
Các Nhà thờ bắt đầu làm hang đá, giăng cờ hoa đèn rực rỡ. Đường xá được sửa
chữa và quét dọn lại thông thoáng hơn…
Bên trong: Vui vì những cánh thiệp
kèm theo lời chúc tốt lành Giáng Sinh được gửi đi đến nhau; vui vì tâm hồn
người tín hữu được đón nhận tình thương ơn tha thứ của Chúa qua việc nhận lãnh
bí tích hòa giải…
Chính vì thế mà thánh Phaolô trong
bài đọc 2 lớn tiếng kêu gọi tín hữu Thêxalônica hãy vui lên!: “Anh em thân
mến, anh em hãy vui mừng luôn”. Vì Thiên Chúa rộng lòng rộng tay ban phát
muôn hồng ân, nhất là Thần Khí cùng với ơn nói tiên tri, ơn khôn ngoan và ơn
thẩm định cho người tín hữu. Thiên Chúa còn là nguồn mạch bình an và là Đấng
thánh hóa toàn diện con người. Vì thế Người đáng được chúng ta đón rước với tâm
tình biết ơn và lời cảm tạ.
Hy vọng vì dân tộc Israel xưa. Trong
hoàn cảnh lưu đầy bên Babylon lầm than khốn khổ, Thiên Chúa lại tuyển chọn
Isaia làm ngôn sứ để loan báo cho dân Israel về một niềm hy vọng lớn lao mà Đức
Chúa sẽ ban cho dân Người. Đó là một vị Vua cao cả, rất giàu lòng thương xót.
Vị vua này sẽ đến để thi ân giáng phúc cho dân: “Thiên Chúa đổ tràn Thần Khí
trên Người để Người thực thi sứ mạng được giao là loan báo
Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố
lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân và
năm hồng ân của Thiên Chúa”.
Hy vọng vì dân tộc Do Thái trong
hoàn cảnh nước mất nhà tang vì bị thống trị bởi đế quốc Rôma, Thiên Chúa lại
chọn Gioan Tẩy Gỉa loan báo về một Đấng cao trọng, quyền năng đang ở giữa dân
Người. Đấng ấy sẽ đem đến cho dân tộc ánh sáng soi đường và thanh tẩy tâm hồn
mọi người trong Chúa Thánh Thần. “Người làm Phép Rửa trong Thánh Thần trong
khi Gio-an Tẩy Giả chỉ làm phép rửa trong nước. Người cao trọng vượt xa Gio-an
đến độ Gio-an không xứng được cởi quai dép cho Người. Chính Người mới là ánh
sáng trong khi sứ mạng của Gio-an chỉ là làm chứng về ánh sáng, chỉ là dọn
đường cho Người mà thôi”.
Nhưng để sống trong niềm vi và hy
vọng ấy thì chúng ta ngày nay phải biết nghe theo lời kêu gọi của tiên tri
Isaia và Gioan Tẩy Gỉa chuẩn bị tâm hồn xứng hợp bằng cách sám hối và canh tân
đời sống. Nhất là biết noi gương đời sống của Gioan Tẩy Giả:
- Thứ nhất yêu chuộng đời sống khó
nghèo. Gioan Tẩy Gỉa không sống nơi phồn hoa đô thị nhưng lại chọn hoang địa
khô cằn; ngài không ăn mặc gấm vóc lụa là nhưng mặc da thú; ngài không ăn những
cao lương mỹ vị nhưng lại ăn châu chấu và uống mật ong rừng…
- Thứ hai can đảm sống và làm chứng
cho chân lý. Gioan đã can đảm lên án những bất công trong xã hội và kêu gọi mọi
thành phần oán cải. Ngay cả lên án tội ác của vua Hêrôđê cho dù phải bị bắt bớ
và bị giết chết.
- Thứ ba dám chấp nhận sống sự thật
về mình với tinh thần khiêm tốn. Cho dẫu mọi người tôn vinh ngài như là Đức
Kitô, như Êlia hay một ngôn sứ nhưng ngài đã can đảm khướt từ các danh hiệu ấy
và khiêm tốn chỉ nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc, là kẻ dọn đường cho Đấng
Messia và là kẻ thấp hèn trước Đấng Cứu Thế đến nổi không xứng đáng cúi xuống
cởi dây dày cho Người. Ông xác nhận phép rửa của ông chỉ bằng nước nhưng phép
rửa của “Đức Giêsu sẽ rửa anh em trong Thánh Thần”.
Như thế để có được niềm vui ta phải
biết chấp nhận “cái là” về mình, đồng nghĩa với việc chấp nhận sự thật về mình;
muốn có niềm vui ta phải thử thách tinh thần khó nghèo để thanh luyện bản thân
mình, nhất là biết loại trừ tính kiêu căng tự mãn để sống khiêm tốn trước Chúa
và mọi người. Sống được như vậy tâm hồn chúng ta mới có niềm vui sâu xa.
Xin cho chúng ta biết noi gương
Gioan Tẩy Gỉa dám chấp nhận lối sống khắc khổ và tiết chế trong mùa vọng này để
góp phần giúp đỡ anh chị em còn nghèo khổ; cũng như biết can đảm loại trừ
tính kiêu căng, tự mãn và tha lam gian dối ra khỏi tâm hồn mình
để Chúa dễ dàng lấp đầy tình yêu và ân sủng của Chúa vào tâm hồn ta.
CHÚA NHẬT THỨ III MÙA VỌNG B
ĐỐT NÓNG TÌNH YÊU VÀ THẮP SÁNG NIỀM TIN
Nước mắt và nụ cười, thành công và
thất bại, họa và phúc, đau buồn và niềm vui luôn đan xen vào nhau, tựa như
những sợi chỉ màu kết dệt nên tấm thảm cuộc đời đa sắc màu nơi mỗi con người
chúng ta.
Có người cũng ví thời gian mùa vọng
tựa như thai kỳ của người phụ nữ, cho dẫu nặng nề, đau buồn, bất an và lo lắng…
do những biến chuyển tâm lý trong thời kì mang thai. Nhưng bên cạnh đó, bà cũng
cảm nhận được niềm vui và hy vọng vì sự sống của thai nhi đang lớn dần trong
cung lòng mình. Niềm vui được vỡ òa sau những cơn quặng đau khi sắp sinh nở và
hạnh phúc dâng trào khi một sinh linh chào đời khi biết hài nhi khỏe mạnh.
Trong chính ý nghĩa và tâm tình ấy
mà từ xa xưa người Công giáo ở tây phương, cụ thể là ở Đức, có thói quen kết
những cành lá cây thông hay cây dương mà lá còn xanh thành một vòng tròn, rồi
đặt chung quanh vòng tròn đó 4 cây nến, 3 cây màu tím và một cây màu hồng.
Vòng tròn tượng trưng cho sự hoàn
hảo tuyệt đối của TC; vòng tròn còn diễn tả cho biết TC không có khởi đầu và
kết thúc, bởi Người là Alpha và Omega, khởi nguyên và cùng tận, là đấng đã có,
hiện có và sẽ đến. Màu xanh của lá muốn diễn tả niềm hy vọng và sự sống luôn
triển nở.
Bốn cây nến lần lượt được thắp lên
trong mùa vọng, như muốn diễn tả chiều dài lịch sử của ơn cứu độ nơi trần gian này.
Và cũng là biểu trưng cho những chặng đường chuẩn bị đón Đấng Cứu Thế đến với
những tâm tình vui buồn, thăng trầm đan xen vào nhau.
Hôm nay Chúa nhật thứ III mùa vọng,
cây nến màu hồng được thắp lên muốn nói lên niềm vui. Vui vì lễ Giáng Sinh kỉ
niệm biến cố trọng đại Con TC làm người mang ơn cứu độ cho nhân trần đã gần
bên. Niềm vui ấy được diễn tả qua nhiều sắc màu phẩm phục chủ tế, qua những
cung bậc âm thanh rộn ràng, qua sự trang trí đèn hoa trên bàn thờ trong thánh
lễ.
Bên ngoài, thời tiết bắt đầu se
lạnh, lòng người cảm thấy phấn chấn và dễ chịu hơn. Mọi người như tất bật hơn
trong công việc dọn dẹp, trang hoàng lại nhà cửa, đường phố sạch đẹp và rực rỡ
hơn.
Con người như được xích lại gần nhau
và ai nấy đều mong muốn những điều tốt đẹp cho nhau. Những cánh thiệp giáng
sinh cũng bắt đầu được gửi đến nhau cùng những lời cầu chúc an lành, tốt đẹp
nhất dành tặng cho nhau. Tất cả như muốn biểu tỏ niềm vui!
Những niềm vui bên ngoài ấy rất cần
cho cuộc sống, tuy nhiên rồi cũng qua mau. Niềm vui mà mỗi chúng ta hướng đến
phải là niềm vui tinh thần phát xuất từ trong tâm hồn mới bền vững. Nhưng làm
thế nào để có được niềm vui ấy? Phụng vụ lời Chúa hôm nay gợi lên cho chúng ta
những ý tưởng sau đây:
1. Cảm nếm
được tình thương cứu độ của Chúa.
Khi chẳng may rơi
xuống hố sâu hay vực thẳm đen tối không có khả năng tự cứu mình. Trong lúc ấy
mà có ai đó biết được mà ra tay cứu mình lên khỏi hố sâu vực thẳm ấy thì ta sẽ
vui mừng biết mấy. Hay khi bị trôi dạt giữa biển trời mênh mong, phải ngụp
lặn trong đêm tối vô vọng không thấy bến bờ đâu. Lúc ấy bổng nhiên ai đó biết
được và đưa tay ra cứu lấy mạng sống ta, chắc hẳn ta sẽ vui mừng khôn tả.
Cũng thế, dân
Israel xưa đang phải sống trong tình cảnh đau khổ vì đang bị lưu đày nơi đất
khách quê người, nhưng một ánh hy vọng được lóe lên qua lời ngôn sứ Isaia loan
báo về một viễn cảnh tương lại tốt đẹp, những đau khổ của họ sẽ ta biến vì
Thiên Chúa không bỏ mặt họ mà sẽ đến giải thoát họ khỏi kiếp đọa đày, niềm vui
ấy đã được tiên tri Isaia cảm nhận và đã reo vang: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa. Nhờ Thiên
Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao. Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ.”
Niềm vui ấy cũng
được Mẹ Maria cất cao qua bài ca Magnificat khi biết mình được TC đói thương
nhìn tới và ra tay cứu độ dân Người: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa.
Thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.”
Qủa thật, có niềm
vui nào bằng khi biết được mình được Thiên Chúa yêu thương nhìn đến và sẵn sàng
hy sinh mạng sống vì chúng ta và để cứu độ chúng ta. Có hạnh phúc nào sánh ví
cho bằng biết được từ nay mọi hố sâu ngăn cách do tội lỗi gây ra đã được phá
bỏ. Trong Chúa Giêsu Kitô, trời đất được nối kết, đất trời được giao duyên,
tình yêu thương giữa con người với nhau và với Thiên Chúa được kết nối.
2. Thực thi sứ
mạng làm chứng tình yêu cứu độ của Chúa cho mọi người.
Khuynh hướng tự
nhiên, khi yêu ai, ta thích nói về người ấy và vui sướng giới thiệu người mình
yêu cho mọi người được biết. Tương tự như thế, Tin mừng hôm nay cho biết Gioan
Tẩy Gỉa cũng vui mừng giới thiệu Đấng Cứu Thế cho mọi người biết đến. Đấng ấy
chính là ánh sáng đã đến trong thế gian. Gioan còn tích cực kêu gọi mọi người
hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế ngự đến. Lời giới thiệu về Chúa của ông được mọi
người tin tưởng và đón nhận vì lời chứng ấy được khả tín qua đời sống tốt lành
và thánh thiện của ông. Gioan đã khiêm tốn tự xóa mình đi để cho Chúa được lớn
lên, khi ông tự nhận mình là người thấp hèn, không xứng đáng cúi xuống để cởi
quai dép cho Đấng mà ông giới thiệu.
Niềm vui thật sự
của chúng ta có được khi chúng ta biết chu toàn sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa
như Gioan Tẩy Gỉa qua đời sống tốt lành, gương mẫu.
Xin cho chúng ta
cảm nhận được niềm vui trong tâm hồn vì biết rằng TC hằng yêu chúng ta và
hãy can đảm loan báo niềm vui cứu độ của Chúa đến với mọi người qua đời sống
tràn đầy niềm vui và hy vọng của chúng ta. Amen.
Thứ hai: Mt 21, 23-27
Nhớ thánh Gioan Thánh Giá, linh mục,
tiến sĩ Hội Thánh
Trong cuộc sống ngày nay, việc nhận ra được chân lý đã là
khó, nói chi sống theo chân lý quả là không dễ chút nào. Xin Chúa cho chúng ta
có được đôi tai sâu lắng như Đức Maria, để chúng ta cũng có thể nhận ra lời
chân lý từ Chúa. Và xin cho chúng ta có được sức mạnh nội tâm như Đức Maria, để
can đảm sống theo lời chân lý của Chúa dạy.
Khi thấy đời sống độc thân-khiến tịnh của các linh mục,
anh em chính quyền thường hay thắc mắc và đặt câu hỏi: Làm sao các vị ấy có thể
sống khiết tịnh được?
Nếu là người có thiện chí, thì lời giải thích của ta sẽ
làm cho họ hiểu và dễ chấp nhận. Ngược lại, nếu họ hỏi để đã kích, bôi nhọ, chế
nhạo thì dù cho ta giải thích thế nào đi nữa họ cũng không tin.
Sau khi Chúa đánh đuổi những người buôn bán và đổi tiền
ra khỏi đền thờ. Các Thượng Tế, Kinh Sư và Đầu Mục cảm thấy khó chịu nên họ
muốn nhổ bỏ "cái gai Giêsu" ra khỏi mắt họ. Thế là họ họp lại với
nhau, bàn luận cách thế nhằm hạ bệ Ngài.
Sau cuộc hội thảo, họ thống nhất đưa ra hai câu hỏi để
bẫy Chúa Giêsu vướng vào khung luật tử hình, đó là:
1. “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?
2. “Ai đã cho ông quyền đó để ông làm?”
Hai câu hỏi trên không phải vì họ thiện chí muốn tìm hiểu
sự thật, nhưng là vì họ muốn gài bẫy để hạ bệ và tiêu diệt Đức Giêsu. Điều này
không chỉ xảy ra một lần trong đời Chúa Giêsu mà ít nhất là ba lần.
Trước những câu hỏi nhằm tìm cách gài bẫy như thế này,
Chúa Giêsu không bao giờ trả lời trực tiếp? Bởi nếu trả lời trực tiếp quyền ấy
là do từ trời là sẽ phạm vào khung luật cao nhất thời bấy giờ; còn nếu trả lời
không biết, thì sẽ đánh mất niềm tin của dân chúng. Đàng nào cũng nguy!
Nhưng “võ quít dày có móng tay nhọn”. Thay vì trả lời
trực tiếp, Chúa đảo ngược tình thế nhằm đưa họ về chính cõi lòng, để tự vấn
lương tâm bằng cách đặt câu hỏi ngược lại: “Tôi xin hỏi các ông một
điều, nếu các ông trả lời đúng thì tôi sẽ nói cho các ông biết, tôi lấy quyền
ai mà làm việc đó. Vậy phép rửa của ông Gioan bởi Thiên Chúa hay bởi loài
người?.”
Nếu họ trả lời phép rửa của Gioan bởi trời, thì tại sao
không tin Chúa? vì chính Gioan làm chứng và loan báo về Đấng Cứu Thế là do
Thiên Chúa sai đến nên có uy quyền Thiên Chúa. Còn nếu họ trả lời là do bởi
người ta, thì sẽ gặp phải phản ứng mạnh của dân chúng, bởi họ tin ông Gioan là
ngôn sứ từ trời đến nhằm dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Đàng nào cũng không
được, nên họ chọn giải pháp an toàn nhất là nói: “chúng tôi không biết” cho
xong chuyện. Dù họ biết rõ, nhưng lại phải dối lòng!
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết can đảm sống và làm chứng
cho chân lý qua việc tích cực dấn thân cho những giá trị của Tin mừng tình
thương với niềm tin tưởng và phó thác vào quyền năng của Chúa. Amen.
Thứ ba: Mt 21, 28-32
Có thể nói con đường xa nhất vẫn là
con đường từ miệng đến tay. Đúng vậy, để biến lời nói thành việc làm cụ thể quả
là một khoảng cách xa vời. Đó cũng là lời Chúa nhắc nhở chúng ta qua phần phụng
vụ lời Chúa hôm nay. Xin cho chúng ta biết nói ít làm nhiều và biết biến những
lời tuyên xưng ngoài miệng trở thành những việc làm cụ thể trong cuộc sống đức
tin mình.
* Những câu đố vui:
1. Làm thế nào để phân biệt người
Việt Nam và người nước ngoài?
- Thưa cần phải dựa vào 3 yếu tố sau
đây: 1 là đi chậm; 2 là ăn nhanh; 3 là đái công khai.
2. Làm sao phân biệt được đàn ông và
đàn bà Việt Nam?
- Thưa dựa vào 2 yếu tố: Đàn ông tắm
nhưng không thay quần áo; còn đàn bà thì thay quần áo nhưng ít khi tắm.
3. Để phân biệt được đâu là người
Việt, người Trung Quốc, người Nhật và người Mỹ, người ta dựa vào hai yếu tố
nào?
- Thưa đó là “Nói” và “Làm”; Người Mỹ: nói là làm; Người Trung Quốc: làm mới nói; Người Nhật: nói trước làm sau; Còn người Việt Nam: nói một đàng làm một ngã!
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho biết tư
tưởng của TC khác xa với tư tưởng con người. Đúng như lời tiên tri Isaia đã nói: “Như trời cao
hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta
cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy” (Is 55, 9).
Khuynh hướng tự nhiên của con người thì trọng lời nói hơn việc làm; lý
thuyết thích hơn thực hành. Các thượng tế và kỳ lão
luôn tự hào cho mình là người công chính và có quyền giảng dạy, buộc dân chúng
phải làm theo. Chúa Giêsu không bác bỏ điều đó, nên có lần Người đã kêu mời dân
chúng “hãy làm theo những gì họ dạy”. Tuy nhiên bên cạnh đó, Chúa
cũng cảnh báo dân chúng “đừng làm theo những việc họ làm,” bởi "họ dạy một đàng lại làm một ngã." Nói thì đúng, làm thì sai. Dạy sống đạo đức,
nhưng họ lại cư xử bất nhân với người khác. Nguy hiểm nhất là “Họ bó
những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì không buồn động
ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy.” (Mt 23,
4).
Với câu chuyện về hai người con. Người con thứ nhất tuy ban đầu
nói “không” trước lời mời gọi vào làm vườn nho của cha, nhưng sau đó anh ta lại
hối hận và đã “đi làm” theo ý muốn của người cha. Còn người con thứ hai thì ngoan ngoãn nói lời “xin vâng” trước lời
kêu gọi vào làm vườn nho của người cha, nhưng thực tế thì sau đó anh ta lại
“không đi làm” theo như những gì anh ta nói.
Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng: vườn nho nước trời chỉ
dành cho những ai biết làm theo thánh ý Thiên Chúa, chứ không dành ban tặng cho
người chỉ biết vâng vâng, dạ dạ: "Không
phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa! " là được vào Nước
Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời,
mới được vào mà thôi.” (Mt 7,
21).
Xin
cho chúng ta những ngày cận kề lễ giáng sinh này, không chỉ biết khiêm tốn mở
lòng lắng nghe lời Chúa mà còn biết nổ lực thực hành lời Chúa dạy bằng những
hành động cụ thể qua việc sám hối xưng thú tội lỗi đón nhận ơn tha thứ của Chúa
và tích cực gia tăng những việc làm bác ái đem niềm vui đến với những người
trong gia đình mình và trong khu xóm họ đạo.
Thứ tư: Lc 7, 19-23
Chúa Giêsu đã đến trần gian cách nay hơn 2000, nơi hang đá Bêlem. Tuy nhiên có thể Chúa chưa đến được trong tâm hồn của chúng ta. Vì thế trong thánh lễ hôm nay, xin cho chúng ta biết mở lòng cho Chúa bước vào cuộc đời của ta mà sửa đổi và canh tân đời sống bằng cách tích cực làm nhiều việc lành, phúc đức để niềm vui tin mừng cứu độ của Chúa được thắp sáng trong ta và lan tỏa đến được nhiều người.
Tin mừng hôm nay gồm 2 phần chính:
- Qua lời chấp vấn của 2 môn đệ của
Gioan Tẩy Gỉa, Chúa Giêsu cho biết khuôn mặt đích thực của Đấng Cứu Thế
như thế nào?
- Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta
khuôn mặt tiêu biểu làm gương mẫu cho đời sống chúng ta, đó chính là
Gioan Tẩy Gỉa.
Ta nhớ lại đoạn tin mừng trước,
Gioan Tẩy Gỉa đã giới thiệu khuôn mặt của đấng Messia như là vị thẩm phán hết sức
nghiêm minh: “Đây cái rìu đã để sẵn dưới
gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa…Ngài cầm
nia trong tay mà sảy lúa của Ngài, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi
trong lửa không hề tắt". Nhất là trong hoàn cảnh bị cầm tù khi
thấy sự bất công lên ngôi thì hình ảnh về một đấng Messia nghiêm khắc càng lớn
lên trong suy nghĩ của ông. Do đó sự nghi ngờ về đấng Messia nơi Đức Giêsu,
Đấng mà ông loan báo đã len lõi vào trong đầu ông. Nên hôm nay trong tù ông sai
2 môn đệ mình đến hỏi xem Chúa Giêsu có thật sự là Đấng Messia mà ông loan báo
và muôn dân trông đợi không?: “Thầy có
phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?".
Chúa Giêsu không xác nhận trực tiếp
cho biết Ngài là Đấng Messia, nhưng lại mời gọi họ xem những việc Ngài làm để
về thuật lại những điều mắt thấy tai nghe cho Gioan Tẩy Gỉa biết: "Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe
và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi,
người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ
nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta". Những việc này
minh chứng Đức Giêsu quả thật chính là Đấng Messia đích thực. Bởi lẽ đây là
những điều mà từ hậu bán thế kỷ thứ VIII trước công nguyên, tiên tri Isaia đã
loan báo về thời đại và việc làm của Đấng Messia trong bài đọc 1: “Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người
điếc sẽ được nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai…”
Như thế một mặt Chúa Giêsu xác nhận
Ngài chính là Đấng Messia. Tuy nhiên Đấng ấy không phải là vị thẩm phán hà khắc
mà là một vị Thiên Chúa đầy lòng yêu thương. Ngài không phải là vị thẩm phán
hay trừng phạt và giết chết, nhưng lại là một vị Thiên Chúa đến để tha thứ, tìm
kiếm và cứu chữa. Đó chính là khuôn mặt đích thực của Đấng Messia tôi tớ của
Javê Thiên Chúa.
Dẫu rằng Gioan Tẩy Gỉa có chút nghi
ngờ về Chúa Giêsu nhưng Chúa Giêsu không hề trách móc, bởi Ngài hiểu và thông
cảm về hoàn cảnh đau thương mà Gioan đang phải chịu. Trái lại Chúa Giêsu còn
nhìn nhận và ca ngợi con người và sứ mạng cao cả của Gioan Tẩy Gỉa và qua đó
như mời gọi mọi người hãy nêu gương sống của Gioan Tẩy Gỉa mà xứng đáng đón
nhận ơn cứu độ.
- Đó là một con người đầy mạnh mẻ,
cương trực và can đảm dám sống và chết cho sứ mạng loan báo và làm chứng sự thật
và công lý, chứ không như hình ảnh cây sậy phất phơ trước gió cách nhu nhược
uốn mình theo dư luật và áp lực của thế quyền.
- Đó là một con người biết sống hy
sinh khổ chế chọn cho mình đời sống nghèo khó nơi hoang địa, khác với những
người chỉ biết nuông chiều xác thịt và thỏa mãn vật chất để vui thích ăn mặc lả
lướt nơi cung điện giàu sang.
- Cho dù Gioan Tẩy Giả sống trong cô
tịnh và khắc khổ nhưng ngài lại là một con người cao trọng nhất trong các con
cái người nữ sinh ra. Bởi vì Gioan Tẩy Gỉa chính là ngôn sứ cuối cùng của Cựu
ước và là người trực tiếp chuẩn bị tâm hồn cho mọi người đón nhận
Đấng Cứu Thế đến. Dẫu vậy Gioan Tẩy Giả vẫn nhỏ hơn những con người sống trong
thời đại Tân ước, thời kì được thừa hưởng và đón nhận ơn cứu độ.
Tóm lại: Lời Chúa hôm nay mời gọi
chúng ta xác tính mạnh mẽ vào Chúa Giêsu chính là khuôn mặt của một vị Thiên
Chúa giàu lòng thương xót nên chúng ta phải đặt trọn lòng tin tình mến vào Ngài
qua việc tôn thờ, trung tín, lắng nghe và tích cực thực hành Lời Chúa.
Mùa vọng, chúng ta được mời gọi noi
gương thánh Gioan Tẩy Gỉa, can đảm trung thành với sứ mạng làm chứng cho công
bằng và chân lý cho dẫu phải chịu hy sinh; biết sống khổ chế làm chủ bản thân
mà khướt từ mọi cám dỗ của đòi hỏi bất chính, nhờ đó tâm hồn chúng ta mới an
vui sẵn sàng đón mừng Chúa đến với chúng ta.
17/12, thứ năm: Mt 1, 1-17
Theo lịch phụng vụ, hôm nay chúng ta
bước vào giai đoạn thứ hai của mùa vọng. Giai đoạn này kéo dài một tuần lễ, từ
ngày 17 đến 24 tháng 12, nhằm chuẩn bị gần để mừng đại lễ Giáng Sinh, tưởng
niệm biến cố Chúa Kitô đã ngự đến trần gian lần thứ nhất trong lịch sử nhân loại.
Khởi đầu cho gia đoạn này, GH cho
chúng ta nghe lại bảng gia phả của Chúa Giêsu Kitô do thánh sử Matthêu trình
bày. Có lẽ mỗi khi đọc hay nghe bảng gia phả này, chúng ta cảm thấy không có gì
lý thú. Nhưng nếu đọc kỹ với tâm tình cầu nguyện, chúng ta cũng cảm nhận nhiều
điều Chúa muốn nói với ta. Rất riêng, tôi cảm nhận 3 điều:
1. Trước hết bảng gia phả này
muốn minh chứng Đức Giêsu là Đấng Messia và là Người Con của lời hứa.
- Theo Tin mừng của thánh Luca thì gia phả
của Chúa Giêsu được tính từ thời thánh Giuse lên đến thời tổ tông loài người là
ông Ađam. Còn bảng gia phả của thánh Matthêu lại bắt nguồn từ tổ phụ Abraham
trở xuống. Nhưng lại nhấn mạnh đến tước vị của Đức Giêsu là Chúa Giêsu Kitô là
con vua David và con của Abraham.
- Rồi đến con số 14. Matthêu chia bảng gia
phả thành 3 phần bằng nhau, với 3 thời kỳ. Mỗi thời kỳ gồm có 14 đời: từ
Abraham đến vua David, 14 đời. Từ vua David đến thời lưu đày Babylon, 14 đời.
Từ thời lưu đày Babylon đến Chúa Giêsu Giáng sinh, 14 đời. Có thể cách chia như
vậy không chính xác lắm, nhưng Matthêu muốn nhấn mạnh đến con số 14 là để minh
chứng nguồn gốc xuất thân của Đức Giêsu gắn liền với dòng tộc vua David. Bởi
theo tiếng Hy Bá Lai thì người ta chỉ viết các phụ âm thôi, còn người đọc phải
thêm các nguyên âm vào sau phụ âm theo ý nghĩa của mạch văn. Mà tên David được
viết là D+V+D. Nếu tính theo giá trị con số thì D=4; V=6; D=4, như vậy tổng giá
trị của các phụ âm này là 4+6+4= 14.
* Những điều trên, Matthêu ngầm minh chứng
cho người Do Thái hiểu rằng: Đức Giêsu chính là đấng Messia, bởi được sinh ra
trong dòng tộc vua David; đồng thời Ngài cũng là con của Abraham, nghĩa
là Người Con của lời Chúa hứa.
2. Tiếp đến bảng gia phả nhấn mạnh đến tình
thương và ơn cứu độ phổ quát của TC.
Trong bảng gia phả, Matthêu nêu tên rất nhiều
hạng người. Trong đó có những người tốt lành thánh thiện nhưng cũng không ít
những người xấu xa, tội lỗi. Đặc biệt trong đó có nêu tên 4 người phụ nữ. Mà
những người phụ nữ này đều có vấn đề.
- Nàng Thamar: là con dâu của gia đình
Giu-đa. Nhưng sau khi chồng nàng chết, gia đình Giuđa lại không cưới nàng cho
người con út theo tập tục Do Thái, nên nàng đã giả dạng làm kỹ nữ mà ăn ở với
ba chồng là ông Giuda để sinh con nối dõi tông đường (St 38).
- Nàng Rahab: là kỹ nữ người Giêricô. Nàng có
công trong việc che giấu những người thám thính thời ông Giô-sê. (x. Gs
6,22-25)
- Nàng Rút: là thiếu nữ dân ngoại, người
Mô-áp. Nhưng vì lòng hiếu thảo với mẹ chồng đã về chung sống tại Bêt-lem và kết
hôn với Booz là ông cố nội của vua Đavit.
- Nàng Bat-sa-ba vợ của Uria: Nhưng bà đã
ngoại tình với vua Đavit và đã sinh ra vua Salomon (x. 2Sm 11, 2-12,25).
Cho dẫu dòng tộc ấy có nhiều bất toàn, nhưng
Đức Giêsu đã sẵn sàng đi vào dòng tộc đó. Người chấp nhận gắn kết đời mình với
những con người tội lỗi và ngoại giáo. Tất cả nhằm minh chứng cho một tình yêu
lớn lao và ơn cứu độ phổ quát mà TC dành cho hết mọi người.
3. Cuối cùng bảng gia phả xác quyết Đức Giêsu
chính là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế.
Ngay từ đầu nếu để ý, ta nhận thấy bảng gia
phả trình bày theo thứ tự ông này sinh ra ông kia. Nhưng khi đến Chúa Giêsu thì
Matthêu lại không trình bày theo nguyên tắc ấy mà Matthêu lại cho biết Đức
Giêsu được sinh ra bởi một người nữ tên là Maria, do quyền năng của Thánh Thần.
Điều này minh chứng cho biết Đức Giêsu được sinh ra không bởi người nam, nhưng
do quyền năng của Thánh Thần. Nên Ngài thuộc dòng dõi thần linh, là Con Thiên
Chúa và là Đấng Cứu Thế mà TC đã hứa ban cho nhân loại ngay sau khi nguyên tổ
phạm tội.
Kế hoạch của TC thật vĩ đại, khó hiểu với đầu
óc hạn hẹp của con người. Từ một dân tộc bất trung, phát xuất từ những con
người nhiều tội lỗi, nhưng TC lại chấp nhận đi vào dòng lịch sử và dòng đời có
nhiều bất toàn ấy, để hoàn thành chương trình cứu độ theo lời hứa của Người một
cách kì diệu đến ngỡ ngàng!
Trước kế hoạch kì diệu của TC, xin cho chúng
ta biết khiêm tốn mở lòng đón nhận mầu nhiệm ơn cứu độ của Người bằng tâm
tình cảm mến tri ân. Nhất là biết sống bao dung, tha thứ và hòa hợp với hết mọi
người, bởi ý thức rằng Chúa đã chấp nhận đi vào cuộc đời ta là những kẻ tội
lỗi, để Người yêu thương tha thứ và cứu độ ta.
Suy niệm 2:
Khi đọc và suy niệm về bảng gia phả của Đức
Giêsu, chúng ta không khỏi ngạc nhiên, bởi vì: Đức Giêsu là Thiên Chúa thánh
thiện, tốt lành vô cùng. Nhưng vì quá yêu thương nhân loại lỗi lầm nên Chúa đã
chấp nhận xuống thế làm người và đã sinh ra trong một dòng tộc bao gồm đủ mọi
thành phần. Trong đó có người tốt, nhưng đa phần lại là những người xấu và tội
lỗi như: tổ phụ Giacóp đã giành quyền trưởng nam của anh mình; Đavít vị
vua tốt lành nhưng lại cướp vợ Uriagia; Salômôn vị vua khôn ngoan nhưng lại sa
đọa; bà Rút là dâu hiền nhưng lại là dân ngoại; Tama là gái
điếm; Bathsheba vợ của ông Urigia nhưng lại chấp nhận cho vua Đavít
cưỡng đoạt … Qua đó cho ta hiểu rằng: “Ở đâu
tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5, 20). Chúa chấp nhận đi vào dòng lịch sử nhân
loại với đầy những khiếm khuyết để chia sẻ, đồng cảm nhằm cứu độ nhân loại tội
lỗi. Đó quả là ân sủng lớn lao mà Thiên Chúa dành cho con người.
Mỗi người chúng ta khi sinh ra cũng được
Thiên Chúa sắp xếp trong một đất nước, một dân tộc và một gia cảnh khác nhau.
Nơi ấy người tốt và người xấu cùng sống chung với nhau. Là những Kitô hữu, Chúa
còn đặt chúng ta vào trong môi trường, hoàn cảnh gia đình và Họ đạo, xã hội…
khác nhau. Môi trường, hoàn cảnh ấy bao giờ cũng có người tốt kẻ xấu; thánh
thiện và tội lỗi; công chính và bất lương... Môi trường và hoàn cảnh mà chúng
ta đang sống có khi thuận lợi, nhưng lắm khi cũng gặp phải rất nhiều khó khăn,
bất lợi. Dẫu vậy, chúng ta phải luôn tin rằng: “Ơn Ta đủ cho con” (2Cr
12,9).
Xin Chúa cho chúng ta biết vui lòng
đón nhận tất cả mọi người, mọi nghịch cảnh xảy ra nơi gia đình cũng như xã hội
chúng ta đang sống, mà không kêu ca, phản kháng. Trái lại luôn biết đặt tin
tưởng phó thác vào đường lối nhiệm mầu của Thiên Chúa để nỗ lực thi hành tốt ơn
gọi và bổn phận của mình theo thánh ý Chúa, Ngõ hầu mang niềm vui Tin mừng của
Chúa đến cho mọi người.
18/12, thứ sáu: Mt 1,18-24
Thánh Giuse được GH gọi là thánh cả,
bởi nơi ngài có rất nhiều nhân đức cao trọng. Nhưng nếu đặt biến cố thiên thần
Gabriel truyền tin cho thánh Giuse trong bố cảnh mùa vọng, thì lời Chúa hôm nay
như mời gọi chúng ta hãy học nơi thánh Giuse mẫu gương của cầu nguyện và thi
hành đức bác ái, nhằm chuẩn bị tâm hồn xứng hợp để đón mừng mầu nhiệm giáng
sinh gần kề.
1. Thánh Giuse mẫu gương của cầu nguyện.
Để
nhận ra thánh ý Chúa, điều kiện tiên quyết phải là gắn bó mật thiết với Chúa
bằng đời sống cầu nguyện. Nói như thế, thì thánh Giuse chính là mẫu gương của
cầu nguyện. Chắc hẳn cả đời thánh Giuse phải là lời cầu nguyện liên lỉ, nhờ đó
mà ngài dễ dàng nhận ra thánh ý Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời.
Tin mừng
cho biết ít nhất có 3 lần thánh Giuse được Thiên Thần Chúa báo mộng:
- Lần thứ
nhất: Tin mừng cho biết, trước khi về chung sống với Đức Maria, thì Đức Maria đã mang thai. Nhận ra điều
đó, thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng nhờ âm thầm gắn bó
với Chúa bằng đời sống cầu nguyện mà thánh Giuse đã nhạy bén nhận ra Đức Mẹ
chịu thai là bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Còn Hài Nhi mà Đức Maria đang mang
là Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Vâng theo lệnh truyền
của Chúa, ngay lập tức thánh Giuse đã đón nhận Maria về nhà làm bạn mình.
Lần thứ
hai: Vì lo sợ mất ngai vàng nên nhà vua Hêrôđê đã ra lệnh tìm cách giết Hài
Nhi. Nhận biết điều đó qua lời mộng báo của Thiên Thần, thánh Giuse đã nhanh
chóng đưa Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập để lánh nạn.
Lần thứ
ba: Sau khi vua Hêrôđê băng hà, lập tức thánh Giuse lại được thiên thần Chúa
báo mộng lần nữa là đem Hài Nhi trở về lại quê
hương. Thánh nhân đã vâng phục thánh ý Chúa, đưa gia đình về Palestin và sống
ẩn dật tại làng quê Nagiarét.
Như thế
thì trong bất cứ hoàn cảnh nào, thánh Giuse cũng đều nhạy bén nhận ra thánh ý
của Chúa và mau mắn thi hành. Có được như vậy là vì ngài luôn sống mật thiết
với Chúa trong bầu khí của âm thầm cầu nguyện.
2. Thánh Giuse mẫu gương đời sống bác ái.
Biết được Đức Maria mang thai mà tác giả không phải là
của mình, thay vì theo phản ứng tự nhiên thánh Giuse chỉ cần đưa Đức Maria ra
tố cáo. Chắc chắn Đức Maria sẽ bị ném đá cho đến chết chiếu theo luật Do Thái
thời bấy giờ. Nhưng thánh Giuse đã không hành xử như thế. Trái lại, ngài chọn
giải pháp âm thầm rút lui bằng cách “định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo”. Cách
xử như thế cho thấy thánh Giuse là một con người độ lượng và giàu lòng bác ái.
Hơn thế nữa để chăm sóc Đức Maria không phải là vợ của
ngài đúng nghĩa và nuôi dưỡng Chúa Giêsu không phải là con ruột ngài, trong một
hoàn cảnh khó nghèo nơi làng quê Nazareth sẽ không dễ dàng chút nào. Cuộc sống
ấy đòi hỏi thánh Giuse phải hy sinh rất nhiều. Nếu không có tình bác ái cao
thượng, chắc hẳn ngài sẽ không chu toàn tốt được sứ mạng mà Thiên Chúa trao
phó.
Mùa vọng sắp kết thúc, đây là thời điểm chúng ta phải
chuẩn bị mọi thứ linh tinh bên ngoài để mừng đại lễ Giáng sinh. Là những người
kitô hữu, xin cho chúng ta đừng quá mãi mê thế sự mà quên đi chuẩn bị tâm hồn
xứng hợp để cho Chúa ngự vào. Cách chuẩn bị xứng hợp nhất trong những ngày này
là ta hãy cố gắng chu toàn tốt bổn phận cầu nguyện và nỗ lực sống tình bác ái
với nhau, theo mẫu gương của Thánh Giuse.
19/12, thứ bảy: Lc 1, 5-25
Gần đến lễ giáng sinh sẽ có rất nhiều niềm
vui bất ngờ đến với ta. Niềm vui khi nhận được những cánh thiệp giáng sinh xinh
xinh của những người quen. Niềm vui khi đọc được những dòng tin nhắn chúc mừng
giáng sinh thật ý nghĩa của người thân yêu. Niềm vui khi đón nhận được những
món quà giá trị do bạn bè gửi tặng. Vui vì được sum hợp bên gia đình với những
bữa cơm đầm ấm của ngày lễ…
Tin mừng hôm nay cũng nói đến niềm vui bất
ngờ mà TC hứa sẽ tặng ban cho ông bà Giacaria và Elisabeth. Đó là bà "Elisabeth vợ
ngươi sẽ hạ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên trẻ là Gioan”.
Đây quả là một món quà vô cùng lớn lao mà TC
thương ban cho ông bà. Cao quý bởi vì quà TC ban tặng không phải là món quà vật
chất, nhưng chính là người con mà ông bà luôn hằng mong mỏi đợi chờ. Cao quý vì
với qùa tặng này TC sẽ làm tan biến hết mọi nỗi tủi nhục mà hai ông bà đã gánh
chịu suốt bao năm dài. “Chúa đã làm cho tôi thế nầy, trong những ngày
Người đoái thương, cất nổi khổ nhục tôi khỏi người đời”.
Có lẽ chính vì quá bất ngờ trước hồng ân lớn
lao mà TC thương ban, nên đã làm cho ông Giacaria vui mừng đến ngỡ ngàng đến
nỗi không thể thốt nên lời! Chỉ có thinh lặng trong cầu nguyện, Giacaria mới có
thể cảm nếm được thế nào là mầu nhiệm tình thương cao cả của TC.
Tuy nhiên, để đón nhận được món quà cao quý
và tận hưởng niềm vui lớn lao ấy, ông Giacaria và bà Elisabeth đã phải nỗ lực
sống đời công chính và âm thầm cầu nguyện trong gần hết cuộc đời.
Muà giáng sinh này chắc mỗi chúng ta cũng có những niềm vui. Nhưng niềm vui lớn nhất vẫn là niềm vui được Thiên Chúa yêu thương nên đã ban tặng cho ta chính Người Con yêu quý của Người là Hài Nhi Giêsu. Xin cho chúng ta cảm nhận được niềm vui lớn lao đó mà kiên tâm sống đời công chính và kiên trì cầu nguyện để đón nhận được niềm vui ơn cứu độ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét