SUY NIỆM LỜI
CHÚA I MÙA CHAY
Lm Nguyệt
Giang
CHÚA NHẬT I
MÙA CHAY A
St 2,7-9;
3,1-7; Rm 5,12-19; Mt 4,1-11
Suy niệm 1:
Câu
chuyện: Một câu chuyện dân gian kể rằng: có một người đàn ông nọ bị
quỷ hiện lên chận đường. Quỷ bắt anh ta phải làm một trong ba điều sau đây: một
là uống rượu thật say, hai là đốt nhà của mình, ba là giết chết vợ mình. Quá
hoảng sợ, người đàn ông đành chọn uống rượu thật say, vì anh ta cho đó là việc
làm ít nguy hại nhất. Nào ngờ, khi say rượu, anh ta mất hết lý trí nên nổi lửa
đốt nhà mình. Bà vợ can ngăn, anh ta điên tiết giết luôn vợ mình.
Rốt cuộc là
anh ta đã làm cả ba việc mà tên quỷ đề ra.
Ma quỷ có
rất nhiều mưu mô xảo kế. Khi cám dỗ người nào, chúng vận dụng hết mọi thủ đoạn
để hạ gục người đó. Vì thế, khi cám dỗ Chúa Giê-su, ma quỷ đã dùng chính lời
Thiên Chúa để dụ dỗ Người. Nhưng Chúa Giê-su không rơi vào bẫy của ma quỷ. Trái
lại, Người cũng đã dùng lời Thiên Chúa để làm cho ma quỷ phải bẻ mặt và bỏ
đi.
Trong thư thứ I của thánh Phêrô lưu ý chúng ta: “Anh em
hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm
thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.” (1Pr 5,8) Thật vậy ma quỷ rất tinh
ranh và là kẻ thù lớn nhất của con người, lúc nào nó cũng tìm mọi cách để hãm
hại con người chúng ta. Vì thế chúng ta cần phải đề phòng và tìm mọi
phương cách để chống trả. Phụng vụ lời Chúa trong Chúa nhật I mùa chay hôm nay
nhắc nhở chúng ta hãy lưu tâm về vấn đề đó.
- Bài đọc 1 trích sách
Sáng Thế thuật lại cơn cám dỗ đầu tiên của ma quỷ dành cho nguyên tổ loài người
là ông Adam và bà Eva nơi vườn địa đàng. Do tự mãn muốn bằng Thiên Chúa nên hai
ông bà đã nghe theo những lời đường mật của ma quỷ mà phản phúc lại
tình thương của Thiên Chúa đan tâm đưa tay hái trái cấm để ăn. Từ đó nguyên tổ
không những đánh mất hết mọi ơn phúc do Thiên Chúa ban mà còn hệ lụy
đến các thế hệ con cháu sau này. Cũng từ đó, địa đàng trở nên hoang
địa khắc nghiệt; cây trái xanh tốt, thơm ngon trở nên gai gốc đắng cay; con
người mất hết hạnh phúc nên sống trong bất hạnh, đau khổ; phải vất vả đổ mồ hôi
sót con mắt mới có của ăn, nhất là phải gánh lấy hậu quả của tôi là
cái chết muôn đời.
- Tin mừng thì
thuật lại những cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu phải đối mặt sau 40 ngày đêm chay tịnh
nơi hoang địa. Nhưng ma quỷ đã thất bại, bởi Chúa Giêsu đã đặt trọn niềm tin
tưởng vào uy quyền và tình thương của Thiên Chúa, qua việc lắng nghe và
làm theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Nhờ thế mà từ nơi hoang địa khô cằn
giờ đây lại trở nên địa đàng, từ sự chết do tội của Ađam gây ra nay lại hóa
thành sự sống nhờ Đức Giêsu Kitô. Nơi Đức Giêsu nọc độc của sự chết là tội lỗi
đã bị đánh bại.
- Còn thánh Phaolô trong
thư gửi tin hữu Rôma, đã tinh tế nhận ra được thiên ý nhiệm mầu trong chương
trình cứu độ của TC, đó là: “Nếu tại bởi một người là Ađam cũ bất tuân
phục Thiên Chúa nên tội lỗi và sự chết đã thâm nhập vào thế gian và lan tràn
đến mọi người; thì cũng bởi một người là Đức Kitô, Ađam mới đã hoàn toàn vâng
phục thánh ý Thiên Chúa nên đã chiến thắng cám dỗ. Nhờ đó mà mọi người được ơn
công chính hóa và được hưởng sự sống đời đời.”
Cám dỗ luôn có mặt ở mọi nơi, mọi
thời và không miễn trừ bất cứ ai. Vì thế, mọi người chúng ta dù là ai đi
nữa đều bị cám dỗ. Trong thực tế đã không ít lần chúng ta đã sa vào cám dỗ và
đã thất bại thảm hại do khước từ tình thương Chúa và không nghe theo sự hướng
dẫn của lương tâm và Lời Chúa. Hậu quả là gây nên biết bao đau khổ cho
bản thân và làm tổn thương đến bao người. Vậy để trở nên công chính và có
được sự sống đời đời, ta phải vượt thắng cám dỗ. Nhưng để chiến thắng cám dỗ ta
phải noi gương Chúa Giêsu:
1. Cầu nguyện và ăn chay. Có lần
Chúa Giêsu nói cho các môn đệ Ngài biết: “thứ quỷ này phải phải ăn chay
và cầu nguyện mới trừ được.” (Mc 9,29). Trong vườn cây dầu, Chúa Giêsu
cũng đã cảnh tỉnh các môn đệ: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa
chước cám dỗ, vì tinh thần thì lanh lẹ, còn xác thịt thì yếu đuối." (Mc
26,41) Nhờ cầu nguyện mà ta múc lấy sức mạnh của ơn Chúa như thánh
Phaolô đã có kinh nghiệm khi nói: “Ơn Ta đủ cho con.” (2Cr
12,9).
2. Dùng sức mạnh của Lời Chúa. Lời
Chúa chính là ánh sáng soi dẫn bước đường ta đi. Chúa Giêsu đã dùng Lời Chúa
như cặp mắt thần để nhận ra mưu chước của những cám dỗ và
Ngài cũng dùng chính sức mạnh của lời Chúa mà khuất phục kẻ thù là ma quỷ.
3. Học theo kinh nghiệm của các
nhà tu đức, bằng cách tránh xa cám dỗ. Ma quỷ là loài xảo
nguyệt và rất tinh ranh nên nó có muôn ngàn cách thế để cám dỗ ta. Có khi rất
mãnh liệt nhưng có lúc cũng rất ngọt ngào và êm dịu khiến làm say ngất lòng
người. Nên các nhà tu đức khuyên chúng ta nên tránh xa những dịp cám dỗ bằng
cách “đào vi thượng sách”!
* Có
một câu chuyện kể về sự khôn lanh hiểm độc của ma quỷ khi
cám dỗ loài người như sau:
Một tu sĩ
kia rất có lòng đạo đức, ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh
thờ phượng Chúa. Xảy ra là có một hôm ông ngủ quên, thấy vậy, tướng quỷ Sa-tan
đến đánh thức ông. Khi biết kẻ đánh thức mình là Sa-tan, tu sĩ tỏ dấu thắc mắc,
ma quỷ liền nói với ông: “Tôi là ai, điều đó không quan trọng, việc tôi đánh
thức ông là một điều tốt. Ông thấy không, ai làm việc lành đều là người tốt cả.
Vậy tôi cũng là một người tốt”.
Tu sĩ đáp:
“Không bao giờ ma quỷ lại làm điều lành, vậy nhân danh Thiên Chúa, mi phải nói
rõ vì lý do nào mi đánh thức ta ?“ Bấy giờ ma quỷ buộc lòng phải nói thật: “Nếu
ngày nào ông ngủ quên không đọc kinh sáng, thì khi thức dậy ông sẽ cảm thấy hối
hận, khiêm tốn và quyết tâm sống đạo đức hơn. Còn ngày nào ông thức dậy sớm đọc
kinh sáng, thì ông sẽ nghĩ mình đạo đức và không quyết tâm làm các việc lành
khác”. Nói xong nó biến mất.
Câu chuyện
trên cho thấy sự khôn lanh quỷ quyệt của ma quỷ khi cám dỗ loài người chúng ta.
Xin cho chúng ta biết dùng
những phương thế hữu hiệu của cầu nguyện, ăn chay hãm mình, xa
lánh các dịp tội, nhất là tích cực áp dụng lời Chúa vào
cuộc sống thường ngày làm vũ khí để chống lại những mưu chước cám
dỗ của ma quỷ.
Suy niệm 2:
Cùng với GH chúng ta bước vào
Chúa nhật I MC thánh. Mùa chay kéo dài 40 ngày, từ thứ tư lễ tro cho đến thứ
năm tuần thánh. Mùa chay nhắc nhở chúng ta về những thử
thách của dân Do Thái trong suốt cuộc hành trình 40 năm đi trong hoang địa;
cũng như những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu phải đối mặt sau 40 ngày chay tịnh
nơi sa mạc. Trước những thử thách dân Do Thái đã quỵ ngã, còn Đức Giêsu thì lại
vượt thắng dễ dàng, nhờ đặt niềm tin trọn vẹn vào TC và biết xử dụng sức mạnh
lời Chúa mà chiến đấu.
Xin cho chúng ta cũng biết noi
gương Đức Giêsu luôn vững vàng niềm tin vào Thiên Chúa, biết lấy lời
Chúa làm kim chỉ nam định hướng cho đời mình, nhờ đó ta mới có thể vượt thắng
được những mưu chước cám dỗ của ma quỷ.
1. Mục đích ma quỷ cám dỗ Chúa
Giêsu là gì?
Trước khi bắt đầu sứ vụ công
khai, loan báo Tin mừng cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu đã đến dòng sông Giođan để
đón nhận phép rửa sám hối của Gioan Tẩy Gỉa. Sau đó “Người được Thánh
Thần dẫn đi trong hoang địa, và chịu quỷ cám dỗ.” (Lc 4,2). Nhìn vào 3
cơn cám dỗ Chúa Giêsu phải chịu mà Tin mừng hôm nay trình thuật, ta nhận thấy
mục đích chính mà ma quỷ muốn nhắm đến là muốn thử thách lòng trung thành của
Chúa Giêsu dành cho Chúa Cha.
- Ma quỷ biết rằng chỉ vì nghi
ngờ vào tình thương của TC mà Ađam và Eva xưa kia đã gục ngã trước lời cám dỗ
của nó, thì hôm nay nó cũng nghĩ rằng Chúa Giêsu cũng sẽ phải gục ngã
trước cám dỗ của nó, nếu như Người không biết đặt trọn vẹn niềm tin vào sức
mạnh của Thiên Chúa toàn năng.
- Ma quỷ cũng rất vui mừng vì
trước kia dân Israel đã nhiều lần phạm tội bất trung với
Thiên Chúa trong suốt cuộc hành trình 40 năm đi hoang địa bởi những
cám dỗ của chúng. Với hy vọng đó, ma quỷ cũng mong Chúa Giêsu đi vào vết xe đỗ
của dân Israel xưa. Nhưng nó đã sai lầm bởi vì Người luôn biết lấy Lời Chúa lẽ
sống, “lương thực của Ta là làm theo ý muốn của Đấng đã sai Ta.” (Ga
4,34).
2. Tại sao Chúa Giêsu phải chịu
ma quỷ cám dỗ?
- Có người thắc mắc tại sao Đức
Giêsu là Thiên Chúa mà lại phải chịu ma quỷ cám dỗ? Ta chỉ giải thích
được khi chúng ta tin rằng: Mặc dù Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng Người
vẫn mang thân phận con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Nên Người mới bị
ma quỷ cám dỗ, ngược lại nếu Đức Giêsu hoàn toàn mang bản tính Thiên Chúa thì
làm sao ma quỷ dám cám dỗ Người. Vì thế mà thánh Phaolô mới xác
quyết: "Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách như chúng
ta." (Dt 4,15).
- Cũng có người đặt vấn đề là tự
ý Chúa Giêsu đi vào hoang địa ăn chay và để cho ma quỷ cám dỗ hay do ai thúc
đẩy Người? Thưa tất cả những việc làm của Đức Giêsu đều xuất phát từ thánh
ý của Chúa Cha. Người không tự mình đi vào trong hoang địa, nhưng do sự thúc
đẩy của Chúa Thánh Thần. "Sau khi chịu phép rửa, Đức Giêsu được
đầy Chúa Thánh Thần; Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ
cám dỗ”.
Như vậy lý do sâu xa nhất mà Chúa
Giêsu chấp nhận chịu ma quỷ cám dỗ là vì Người vâng phục thánh ý Chúa Cha, dưới
sự tác động của Chúa Thánh Thần; đồng thời qua đó
Người cũng muốn cảm thông và chia sẻ thân phận kiếp người mong manh,
yếu đuối với chúng ta.
3. Những cám dỗ của Chúa Giêsu có
liên quan gì đến ta?
Có thể nói: Ba cám dỗ mà Chúa
Giêsu phải chịu cũng chính là mẫu số chung cho mọi hình thức cám dỗ của con
người chúng ta.
- Cám dỗ thứ nhất nhắm đến ham mê
xác thịt: Một trong những ham mê xác thịt lớn nhất là
nhu cầu ăn uống. Ma quỷ đã lợi dụng thời điểm Chúa Giêsu đang đói sau khi nhịn
đói 40 ngày trong hoang địa nên nó tiến đến dùng lời ngon ngọt mà cám dỗ Người
hóa đá thành bánh mà ăn. Một lời đề nghị hợp lý! Nhưng không vì thế mà Chúa
Giêsu lọt vào lưới giăng của ma quỷ. Ngài vẫn sáng suốt phân định giữa lời đề
nghị của ma quỷ và lời dạy của Chúa, đâu mới là lời hay ý đẹp. Và sau khi cân
nhắc Người đã chọn lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam cho đời sống cho mình. “Người
ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Đnl 8,3).
- Cám dỗ thứ hai nhắm đến sự kiêu
ngạo: Ma quỷ cũng không vừa, nó rất tinh ranh đã
dùng chính Lời Chúa được ghi trong Thánh Vịnh “TC sẽ truyền cho thiên
sứ gìn giữ bạn; TC sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Tv
91, 11-12) để cám dỗ Chúa Giêsu. Xem ra cám dỗ này rất hợp lý! Nhưng Chúa Giêsu
lại nhận thấy nó không hợp tình nên Người đã trích lại Lời Chúa được trong sách
Đệ Nhị Luật: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là TC của ngươi.” (Đnl
6,16) để sửa lại lời đề nghị của ma quỷ. Bởi Người biết rằng: Chỉ khi nào Người
không cậy dựa vào sức mạnh lôi kéo của lạm dụng quyền lực mà thử thách TC thì
lúc đó hành động của Người mới hợp lý và hợp tình.
- Cám dỗ thứ ba nhắm đến vinh hoa
phú quý: Được cả thế giới, nắm gọn trong tay mọi dân
nước, và tận hưởng mọi của cải trần gian mà chỉ cần quỳ xuống bái lạy ma quỷ
quả thật là một lời điều kiện quá dễ dàng.Nhưng không vì được tắm mình trong
bãi vinh hoa phú quý ấy mà Chúa Giêsu quên mất ai mới là Đấng đáng được Người
yêu mến và tôn thờ. Nên một lần nữa Người đã nhắc nhở cho ma quỷ biết được đâu
là Đấng mà nó phải tôn thờ: “Hãy thờ lạy Thiên Chúa của ngươi và thờ
phượng một mình Người mà thôi.” (Mt 4,10)
Mang thân phận con người, chắc
hẳn không ai trong chúng ta tránh được cám dỗ bởi đam mê xác thịt, ham mê tiền
của và tìm kiếm danh vọng… Nhưng chúng ta tin rằng bên cạnh chúng ta luôn có
Chúa yêu thương nâng đỡ chúng ta nên ta phải biết luôn đặt trọn vẹn niềm tin
tưởng vào sức mạnh của Chúa và luôn trung thành sống theo Lời Chúa chỉ dạy, nhờ
đó ta mới có thể chiến thắng được những cám dỗ của ma quỷ.
Suy niệm 3:
Bỏ rượu. (Chuyện
vui)
Một nhân
viên pha chế rượu nhận thấy rằng vào mỗi buổi tối, một trong những khách hàng
quen của anh đều gọi ba cốc bia. Sau vài tuần nhận thấy thói quen này cứ tái
diễn, người phục vụ rượu hỏi người đàn ông tại sao anh ta luôn gọi ba cốc bia.
Người đàn
ông nói: “Tôi có hai người anh em đã chuyển đến sống ở các nước khác. Chúng tôi
đã hứa với nhau rằng sẽ luôn gọi thêm hai cốc bia mỗi khi uống như một cách để
giữ tình cảm gia đình."
Vài tuần
sau, nhận thấy rằng người đàn ông chỉ gọi hai cốc bia, người phục vụ rượu nói:
“Tôi xin chia buồn với bạn về cái chết của một trong hai người anh em của bạn.
Bạn biết đấy, chỉ có hai cốc bia…”
Người đàn
ông trả lời: “Bạn sẽ rất vui khi biết rằng hai anh trai của tôi vẫn còn sống và
khỏe mạnh… Chỉ là bản thân tôi đã quyết định bỏ rượu trong Mùa Chay!”
Trưa Chúa nhật thứ nhất mùa
chay, ngày 9 tháng 03 năm 2014, có đông đảo tín hữu hành
hương quy tụ về quảng trường Thánh Phêrô để nghe lời giáo huấn của Đức Thánh
Cha, cùng đọc kinh Truyền Tin với ngài và nhận phép lành từ ngài. Trong bài
chia sẻ, Đức Thánh Cha đã lấy gợi hứng từ bài Tin Mừng Đức Giêsu chịu cám dỗ
trong sa mạc của Tin Mừng Mt 4,1-11. Ngài nói:
Anh chị em thân mến, Chào buổi
sáng!
Mỗi năm, Tin Mừng của Chúa Nhật
thứ nhất Mùa Chay trình bày cho chúng ta biến cố Đức Giêsu chịu cám dỗ,
Thánh Thần ngự xuống trên Ngài khi Ngài chịu phép rửa tại sông Giordan, rồi đưa
Ngài vào hoang địa để chiến đấu với Satan trong bốn mươi ngày trước khi bắt đầu
sứ vụ công khai.
Tên cám dỗ tìm cách kéo Đức
Giêsu ra khỏi kế hoạch của Chúa Cha, khỏi con đường hiến tế và tình
yêu để đảm nhận một con đường dễ dàng hơn của thành công và
quyền lực. Cả Đức Giêsu và tên Satan đều trích dẫn những đoạn Kinh Thánh.
Thực ra, để kéo Đức Giêsu ra khỏi con đường thập giá, tên quỷ đã bày
ra trước mắt Đức Giêsu một niềm hy vọng sai lạc về Đấng Messia: sự
sung túc về kinh tế, trong lời xúi giục hóa đá thành bánh; một kiểu biểu diễn
và phép lạ, với ý tưởng gieo mình xuống từ nóc đền thờ Giêrusalem và
để Thiên Thần cứu mình; và cuối cùng là đánh đổi quyền lực và sự thống trị với
việc thờ phượng Satan. Đây là bộ ba cám dỗ mà chúng ta đã biết rõ
về chúng!
Đức Giêsu đã quyết liệt chống trả
lại tất cả những cám dỗ này và biểu lộ ý muốn đi theo con đường mà Cha đã vạch
ra mà không có sự thỏa hiệp với tội lỗi và lý luận của thế gian. Khi đáp trả
lại Satan, Ngài đã nhắc chúng ta rằng "con người sống không chỉ nhờ cơm
bánh nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra." (Mt 4,4); và
điều này ban cho chúng ta sức mạnh và nâng đỡ chúng ta trong cuộc chiến chống
lại tinh thần thế gian vốn đẩy con người xuống cấp độ của những nhu cầu chính
yếu, khiến con người quên đi những gì là chân, là thiện, là mỹ, cơn đói khát
Thiên Chúa và tình yêu của Người. Hơn nữa, Ngài cũng nhắc nhở chúng ta
rằng "có lời Kinh Thánh viết rằng: ngươi chớ thử thách Chúa là
Thiên Chúa của ngươi", bởi vì con đường đức tin phải trải qua
bóng tối, nghi ngờ và chính điều đó bồi đắp cho sự kiên nhẫn và sự chờ đợi lâu
bền. Cuối cùng, ngài nhắc nhở rằng "có lời Kinh Thánh nói: Ngươi
chỉ thờ phượng một mình Thiên Chúa mà thôi” (Mt 4,10); có nghĩa
là chúng ta phải loại bỏ mọi ngẫu tượng, mọi thứ phù phiếm và xây dựng cuộc
sống của chúng ta trên những gì là thiết yếu.
Những lời này của Đức Giêsu sau
đó đã được chuyển thành hành động cụ thể. Sự trung tín tuyệt đối của Ngài vào
kế hoạch tình yêu của Chúa Cha ba năm sau đã đưa dẫn Ngài đến việc hạ bệ "thủ
lãnh thế gian này.” (Ga 16,11), trong cuộc Tử Nạn và Thập Giá và nơi
đó Giêsu đã đi đến cuộc chiến thắng chung cuộc, chiến thắng của tình yêu.
Anh chị em thân mến, thời gian
mùa chay là cơ hội thuận lợi để tất cả chúng ta thực hiện cuộc hành trình hoán
cải, chân thành đối diện với chính mình cùng với những trang Tin Mừng này.
Chúng ta hãy làm mới lại lời hứa chúng ta đã có khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội:
từ bỏ Satan và tất cả những hành vi và cám dỗ của nó để bước đi trên con đường
của Thiên Chúa và "đạt đến sự Phục sinh trong niềm vui của Thánh Thần.”
Sau khi đọc kinh Truyền Tin, Đức
Thánh Cha ban phép lành và gửi lời chào đến tất cả các khách hành hương, các
nhóm, đoàn, hội đang hiện diện ở quảng trường thánh Phêrô và ngài xin họ hãy cầu
nguyện cho ngài.
Phêrô Lê Hoàng Nam, SJ
Suy niệm 4:
Trong đời sống đức tin, chúng ta ít nhiều cũng trải qua những cám dỗ. Cám
dỗ là những xung đột nội tâm xảy đến khi ta chịu chi phối và thúc đẩy bởi những
tác động khác nhau đến từ bên ngoài
lẫn bên trong tâm
hồn. Cám dỗ có thể xảy đến cho bất kỳ ai, vào bất cứ thời điểm nào. Ngay cả với Đức Giêsu, trong thân phận con
người, Ngài cũng không phải là ngoại lệ.
Tin Mừng chúng ta vừa nghe tường thuật lại biến cố Đức Giêsu được Thánh Thần
dẫn vào trong hoang địa để ăn
chay cầu nguyện trong khoảng 40 ngày đêm và Ngài phải chịu những cám
dỗ.
Thánh sử Luca kể lại cho chúng ta biết về ba lần ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu với ba điều khác
nhau: của cải, danh vọng và quyền lực. Ba lần chịu cám dỗ và cũng ba lần Đức
Giêsu dùng Lời Chúa để vượt thắng chúng.
Bước vào Mùa Chay thời điểm đặc biệt
mà mỗi người chúng ta ý thức hơn con đường hiệp hành theo Chúa Giêsu
vào hoang địa dưới
sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Các cám dỗ đã xảy
đến với Đức Giêsu, chắc chắn cũng sẽ xảy đến với chúng ta.
Cách tự nhiên, trong chúng ta thường khao khát nhiều thứ, trong đó điển
hình là: của
cải, danh vọng và quyền lực. Những thứ này tự chúng không xấu nhưng nó sẽ trở
nên xấu khi ta muốn có chúng bằng mọi giá làm cho ta dần dà trở nên lệ thuộc hoàn toàn nó mà đánh mất bản thân mình.
Mùa Chay là thời gian thuận lợi để chúng ta nhìn lại bản thân mình mà nhận diện những cám dỗ thường
xuyên xảy ra trong nhịp sống thường
ngày của mỗi chúng ta. Để nhận ra cám dỗ, chúng ta
cần phải đi vào chay
tịnh và cầu nguyện như Đức Giêsu.
Bị cám dỗ chưa hẳn đã là điều xấu, nhưng chiều
theo cám dỗ khiến ta mất tự do, ân sủng và làm nhạt nhoà tương quan với Thiên
Chúa và xa cách tha nhân mới là
điều đáng trách.
Cầu nguyện là lúc ta đối diện với Lời Chúa, mở
lòng để Lời Chúa chiếm trọn tâm hồn và con tim. Khi đó, chúng ta được chính Lời
Hằng Sống nuôi dưỡng và thánh hoá.
Cám dỗ về của cải, danh vọng và quyền lực ngày
càng trở nên đa dạng và tinh vi. Cám dỗ không bao giờ đến như một cơn sóng
thần, mạnh mẽ và dồn dập; nhưng chúng âm ỉ và lôi kéo ta nhẹ nhàng đến độ nhiều
khi ta không nhận ra chúng. Có lẽ nhiều lần chúng ta cũng tự cho phép mình
chiều theo những ngọt ngào của cám dỗ, tự miễn trừ cho mình những đòi buộc từ
bỏ tính hư tật xấu và những
việc làm bất chính vì muốn hợp thức hóa hoàn cảnh, môi trường mà ta đang sống.
Ước gì Mùa Chay trở thành thời điểm giúp ta gắn kết lại với Chúa qua cầu nguyện, chay
tịnh và bác ái để nhờ ơn ban của Chúa, chúng ta vượt thắng được những yếu đuối, tính hư tật xấu
và tội lỗi cố hữu của
mình.
Xin Chúa Thánh Thần hướng
dẫn và ban ơn trợ giúp
cho chúng ta trên bước đường hiệp hành theo Chúa Giêsu. Để như Đức
Giêsu, mỗi ngày đức tin và lòng mến của chúng ta được lớn lên, nhờ đó mà mới dám dấn thân hy sinh phụng sự
Thiên Chúa và phục vụ tha nhân tích cực hơn.
* Xem thêm: Mc 1,21-28
Câu chuyện về Christopher:
Kho truyện các thánh có ghi lại
câu chuyện về một người mang Đức Ki-tô như sau: Có một chàng thanh niên có
sức mạnh phi thường nhưng không ai biết tên thật của chàng. Anh này có tâm
nguyện đi tìm một người quyền lực nhất để phụng sự.
Đầu tiên anh nghĩ không ai quyền
lực hơn viên tướng cướp trong vùng anh đang ở nên đến gia nhập vào băng cướp và
anh được phân công làm hộ vệ cho viên tướng cướp. Nhưng mỗi lần băng cướp sắp
có vụ làm ăn, anh ta lại thấy viên tướng cướp phải đến nhờ thầy phù thuỷ làm
phép cho vụ làm ăn thành công. Thế là anh thanh niên liền bỏ viên tướng cướp để
xin theo hầu thầy phù thuỷ.
Một hôm, khi theo thầy phù thủy đi
hành nghề, anh thấy thầy đang đi trên đường gặp một cây Thánh giá bên vệ đường
liền sợ hãi không dám đi tiếp mà vòng lại đi đường khác. Thế là anh chàng lực
sĩ liền bỏ thầy phù thuỷ quay trở lại đứng bên cây Thánh giá để mong được gặp
chủ nhân cây Thánh giá.
Anh ta cứ đứng đó chờ mấy ngày
liền mà vẫn không thấy chủ nhân cây Thánh giá xuất hiện. Nơi đó gần một khúc
sông cạn và có nhiều người đã phải mạo hiểm lội bì bõm qua sông để sang bờ bên
kia.
Một hôm, một chú bé đến nhờ anh
lực sĩ cõng qua sông và anh đã lập tức giúp cõng em trên vai lội qua sông. Có
điều khi mới được một đoạn ngắn, anh lực sĩ tự nhiên cảm thấy chú bé trở nên
quá nặng, liền hỏi lý do và được chú bé trả lời: "Ta nâng đỡ cả trái đất
trên tay nên làm sao không nặng cho được". Cậu bé còn cho biết mình chính
là chủ nhân của cây Thánh giá mà chàng lực sĩ đang muốn gặp mặt.
Thế là chàng lực sĩ liền xin đi
theo vị Chúa Ki-tô Chủ Tể của trái đất này. Chúa Ki-tô dạy anh: “Nếu muốn phụng
sự Ta, con hãy dựng một căn lều và luôn ở cạnh cây Thánh giá, để nếu có ai muốn
qua sông thì con sẽ cõng họ qua”. Chàng lực sĩ liền làm theo lệnh Chúa truyền.
Từ ngày đó, dân chúng trong vùng đã gọi chàng bằng cái tên thân thương là
KÍT-TÔ-PHƠ (Christopher), nghĩa là “Người mang vác Chúa Ki-tô”.
Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế Con
Thiên Chúa đầy uy quyền, có sứ mệnh tiêu diệt ma quỷ và thiết lập triều đại
Nước Thiên Chúa:
1. Đức Giê-Su tỏ uy quyền qua lời
nói.
- Đức Giê-su đã rao giảng Lời
Chúa trong hội đường Ca-phác-na-um khiến người nghe phải kinh ngạc, vì: "Người
giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ" (Mc
1,22).
- Vì Người là chính Lời Thiên
Chúa nhập thể làm người và được Chúa Cha sai đến làm Đấng Thiên Sai, nên Người
chỉ nói Lời Thiên Chúa cho loài người chứ không bị lệ thuộc vào thế giá của các
ngôn sứ đi trước, kể cả ông Mô-sê. Đức Giê-su đã biểu lộ uy quyền khi thay đổi
các tập tục trong Luật Mô-sê: "Anh em đã nghe Luật dạy người xưa
rằng: Chớ giết người… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình
thì phải bị đưa ra tòa…” (Mt 5,21-22).
- Người có quyền chữa bệnh trong
ngày hưu lễ Sa-bát, và đã trả lời những kẻ hạch hỏi Người về việc làm ấy như
sau: "Ngày Sa-bát được làm ra vì con người, chứ không phải con
người vì ngày Sa-bát; Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày Sa-bát" (Mc
2,27).
2. Đức Giê-Su chứng tỏ uy quyền
trên thiên nhiên và chữa lành. Đức Giê-su là Đấng Thiên
Sai đầy uy quyền như sau:
- Làm chủ các định luật tự nhiên:
Người biến nước lã trở thành rượu nho trong bữa tiệc cưới thành Ca-na; Nhân 5
chiếc bánh và 2 con cá ra nhiều và cho môn đệ phân phát cho 5 ngàn người được
ăn no trong hoang địa; Đi trên mặt nước mà đến với thuyền các môn đệ; Dẹp yên
sóng gió giữa biển hồ; Giúp các môn đệ bắt được mẻ cá lạ lùng...
- Làm chủ bệnh tật: Chúa
Giêsu chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền như: Cho người mù được sáng mắt;
Kẻ câm nói được, người điếc được nghe, người què đi được, người phong cùi được
sạch…
- Phục sinh kẻ chết: Người còn
truyền cho một bé gái mới chết đang nằm trên giường được trỗi dậy; Cho một
thanh niên mới chết tại cửa thành Na-im đang mang đi chôn; Cho anh La-da-rô đã
chết và được chôn trong mồ 4 ngày sống lại và ra khỏi mồ; Và chính Người đã từ
cõi chết trỗi dậy vào ngày thứ ba đúng như Người đã tiên báo.
3. Đức Giê-Su chứng tỏ uy quyền
trên ma quỷ.
- Gặp Đức Giê-su, ma quỷ đã nói
ra sứ vụ cứu thế của Người như sau: “Ông Giê-su Na-gia-rét, chuyện
chúng tôi can gì đến ông mà ông đến để tiêu diệt chúng tôi ? Tôi biết
ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1,24).
Đức Giê-su đã lên tiếng quát nạt ma quỷ: “Câm đi, hãy xuất khỏi người
này!”. Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta
(Mc 1,25-26). Chính thái độ sợ hãi và vâng phục Đức Giê-su của ma quỷ cho thấy
quyền năng Thiên Sai của Người như đám đông chứng kiến đã nói: “Ông ấy
ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (Mt
1,27b).
- Nhìn vào thế
giới hôm nay, chúng ta thấy biết bao xiềng xích của ma quỷ đang trói buộc con
người. Điều quan trọng là người ta lại không nhận biết mình đang làm nô
lệ cho nhiều thứ thuộc về ma quỷ như: quyền lực, tình dục, ma túy, cờ bạc,
rượu chè…
- Ma quỷ thường
được các họa sĩ vẽ như một kẻ đen đủi xấu xa, có sừng, trông rất đáng sợ. Nhưng
như vậy thì người ta sẽ dễ nhận biết nó và nó sẽ khó cám dỗ thành công được.
Ngày nay khi cám dỗ loài người, ma quỉ thường mang dáng vẻ xinh đẹp, hấp dẫn,
sang trọng. Nó tấn công người ta bằng những thủ đoạn tinh tế ngọt ngào. Nó nắm
rõ điểm yếu của từng cá nhân, từng tập thể để tấn công. Ngày nay những ai tin
vào bói toán, tin ngày lành tháng tốt, đi cầu cơ, xem lá số tử vi, tôn thờ thần
tài… đều có nguy cơ dễ bị ma quỷ tấn công. Nhất là nhiều người tân tiến hôm nay
không còn tin vào sự hiện hữu của ma quỉ, khiến chúng dễ thành công trong việc
cám dỗ người ta phạm tội chống lại Thiên Chúa.
4. Tín thác vào Chúa để xua trừ
ma quỷ và phục vụ tha nhân:
- Noi gương tông đồ Phê-rô, mỗi
tín hữu hãy đặt trọn niềm tin vào Chúa Giê-su: Sau bài
giảng về Bánh Hằng Sống, nhiều môn đệ không muốn Đức Giê-su nữa, và chỉ còn
Nhóm Mười Hai ở lại với Người. Đức Giê-su đã không rút lại ý định lập bí tích
Thánh Thể và đòi các ông phải xác định: tin hay không tin, bỏ đi hay ở lại như
sau: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ?”. Ông Phê-rô
đại diện Nhóm Mười Hai đáp lại: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết
đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con,
chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga
6,68-69).
- Để trung thành tin theo Chúa
Giê-su, các tín hữu chúng ta cần năng tham dự các buổi học sống Lời
Chúa: Mỗi lần hiệp sống Tin Mừng, chúng ta sẽ khám phá thêm sự mới mẻ của
Lời Chúa, và nhận ra quyền năng của Chúa thể hiện trong thiên nhiên và qua các
dấu chỉ của thời đại như lời thánh vịnh: "Lời Chúa là đèn soi cho
con bước. Là ánh sáng chỉ đường cho con đi" (Tv.118,105). Nhờ
năng tham dự các buổi học hỏi và chia sẻ lời Chúa cũng như đọc kinh sáng
tối Gia Đình hằng ngày… chúng ta hy vọng sẽ từng bước trở thành "muối
men", được hòa lẫn vào thúng bột xã hội để làm cho cả xã hội đều dậy lên
men tình yêu của Chúa. Chính “Ánh sáng" từ các việc lành chúng ta làm sẽ
giúp lương dân nhận biết tin thờ Chúa Cha trên trời.
- Hiện nay ma quỉ vẫn luôn tìm
cách phá hoại công trình cứu độ của Chúa Giê-su là Hội thánh. Mỗi người chúng
ta cần tích cực cộng tác với những người thiện chí để đẩy lùi các tệ nạn
xã hội ra khỏi môi trường mình đang sống, xây dựng cho gia đình,
khu xóm, trường học, nhà máy… ngày một an toàn sạch đẹp và văn minh hơn. Cần
quan tâm đến những bệnh nhân và người tàn tật nghèo đói, để giúp họ tin vào
quyền năng và lòng Chúa thương xót, nhờ đó họ sẽ có thể vượt qua nghịch cảnh và
nhận được ơn Chúa cứu độ.
Lm Đan Vinh
Thứ hai: Lv 19, 1-2.11-18; Mt
25,31-46
Nên Thánh là tiêu chí mà mọi
người, đặc biệt là các kitô hữu hướng đến, vì đó là lời mời gọi của Thiên
Chúa "Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của
các ngươi, Ta là Đấng Thánh.” (Lv 19, 2). Nhưng làm thế nào để nên
thánh?
Bài đọc I cho
chúng ta biết cần phải trung thành tuân giữ các giới răn của Chúa. Các điều răn
của Chúa gồm tóm vào hai điều chính yếu:
- "Mến Chúa hết
lòng, hết linh hồn và hết trí khôn". Để cụ thể hóa điều này, sách
Lê-vi chỉ dạy chúng ta "không được lấy danh Chúa mà thề gian: làm
như thế là ta xúc phạm đến danh Thiên Chúa" (Lv 19, 12).
- "Yêu đồng loại như
chính mình". Để thực hiện cụ thể điều luật này, sách Lê-vi khuyên
dạy chúng ta phải giữ đức công bằng (x. Lv 9,11-16); đồng thời cần phải loại
trừ lòng ghen ghét, hận thù, oán hận ra khỏi lòng mình.
Còn bài tin mừng hôm
nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta thực thi luật tình yêu cách tích cực hơn qua
những việc làm bác ái cụ thể như: “cho kẻ đói ăn, khát uống, tiếp đón
khách trọ, chia sẻ quần áo mặc, giúp đỡ người đau yếu…” Chúa Giêsu
cũng cho biết khi giúp đỡ tha nhân nhất là những người nghèo khổ là ta làm cho
chính Chúa. Như vậy bác ái đối với tha nhân chính là điều kiện cần thiết để
được Chúa chúc phúc và xứng đáng đón nhận phần thưởng nước trời.
Xin Chúa cho chúng ta mùa chay
biết gia tăng việc làm bác ái, nhất là biết lưu tâm giúp đỡ những người nghèo
về vật chất và khổ về tinh thần, cũng như siêng năng thực hành các việc thờ
phượng Chúa.
Suy niệm 2:
Ước muốn của người kitô hữu chúng
ta là gi? Nếu không phải là được hạnh phúc nước trời làm gia nghiệp. Nhưng làm
thế nào để đạt được điều mà chúng ta hằng mong ước đó? Lời Chúa hôm nay sẽ chỉ
dạy chúng ta.
Thánh Gioan đã định nghĩa Thiên
Chúa là “Tình Yêu”. Chúa Giêsu đi vào trần gian không chỉ thể hiện
tình yêu qua việc giúp đỡ mọi người, đặc biệt là những người nghèo khổ bệnh
tật,…mà còn vạch ra cho chúng ta con đường tình yêu qua cái “chết cho
người mình yêu”, để rồi mời gọi tất cả những ai muốn vào nước trời phải đi
vào con đường tình đó: “yêu như Chúa yêu”.
Sở dĩ chúng ta phải yêu thương
mọi người vì: (1) tất cả đều do Chúa dựng nên giống hình ảnh Chúa. (2) Mọi
người đều được Chúa Giêsu đổ máu để cứu chuộc. (3) Chính Chúa Giêsu cũng đồng
hoá Người với tất cả những ai bé nhỏ nghèo hèn nữa. Do vậy ai giúp người, nhất
là người nghèo khổ chính là giúp Chúa.
Chúng ta thường hay phân biệt hai
loại nghèo: (1) nghèo mà dễ thương là những người chí thú lo làm ăn lương
thiện, nhưng vì hoàn cảnh họ không khá lên được. (2) Loại nghèo khó thương, là
những ai suốt ngày chỉ lo cờ bạc, rượu chè, gian tham, lười biếng không lo làm,
nên sinh nghèo. Loại nghèo này đáng phải trừng phạt và loại trừ mới đáng. Tuy
nhiên với cái nhìn của Chúa thì hoàn toàn khác. Loại nghèo xem ra khó thương,
thì đó lại là loại nghèo đáng thương trước mặt Chúa, vì họ không chỉ nghèo vật
chất mà nghèo cả tinh thần và kiến thức. Do đó họ đáng cần được yêu thương và
giúp đỡ.
Mỗi người đều được Chúa kêu mời
hưởng hạnh phúc muôn đời. Do đó dù con người có xấu xa, tội lỗi như thế nào đi
nữa thì họ cũng là đối tượng được Chúa yêu thương và tôn trọng, nên chúng ta
không có quyền loại trừ. Nhưng ta phải làm gì để nói lên tình yêu dành cho tha
nhân?
Bài tin mừng hôm nay gợi cho
chúng ta ý thức nổ lực thực hành sống mười bốn mối yêu người.
- Thương xác bảy mối: Cho kẻ
đói ăn, kẻ khác uống, rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệc cùng kẻ tù đày, cho khách
đổ nhờ, chuộc kẻ làm tôi, chôn xác kẻ chết…
- Thương linh hồn bảy mối: Lấy
lời lành khuyên người, mở dạy kẻ mê muội, an ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội,
tha kẻ khinh dễ ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
Sống được như thế là chúng ta đã
chuẩn bị hành trang sẵn sàng cho ngày Con Người đến trong vinh quang. Chắc chắn
ngày ấy chúng ta sẽ đứng bên phải, thuộc hạng chiên ngoan, xứng đáng được Chúa
chúc phúc và thưởng vương quốc mà Người đã dọn sẵn cho.
Xin cho mùa chay này chúng ta ý
thức sống tình bác ái với tha nhân tích cực hơn bằng cái nhìn ngay thẳng và
trong sáng, bằng những cử chỉ thân tình, bằng những nụ cười quý mến, bằng đôi
chân ra đi đến với anh em, bằng đôi tay sẵn sàng mở rộng để chia sẻ với anh chị
em, nhất là những ai nghèo khổ. Nhờ thế chúng ta sẽ nên giống Chúa và được Chúa
chúc phúc lành cho chúng ta hôm nay và mai sau.
Suy niệm 3:
Điều kiện gì để ta được Chúa ban
thưởng nước trời?. Và tiêu chí nào làm cho ta vui mừng trong ngày Chúa
phán xét? Đó là điều mà Tin mừng hôm nay muốn nói đến. Xin cho chúng ta biết để
tâm lắng nghe và thi hành những điều kiện cần thiết như Chúa muốn, nhờ đó ta mới
đạt được những điều tốt đẹp mà Chúa muốn nơi ta.
Tin mừng hôm nay vén mở quang
cảnh trang nghiêm trong ngày phán xét của Thiên Chúa. Ngày ấy, Đức Giêsu sẽ là
Vua ngự đến trong vinh quang để xét xử muôn dân. Ngày ấy muôn dân sẽ được tập
họp hai bên tả hữu trước mặt Vua Giêsu để nghe xét xử và phán quyết.
Tiêu chí xét xử trong ngày đó sẽ
không dựa trên chức quyền, giàu sang, kiến thức, màu da chủng tộc hay tôn
giáo…nhưng Vua Giêsu chỉ căn cứ trên tiêu chí duy nhất đó là việc làm bác ái
dành cho những người bé nhỏ và nghèo khổ. Bởi những người này là hiện thân của
Chúa Giêsu. Giúp đỡ họ là giúp đỡ chính Chúa Giêsu.
Phần thưởng mà Vua Giêsu dành cho
họ là được đến với Người và lãnh lấy phần thưởng là gia nghiệp nước trời. Còn
án phạt mà những người đã không thực thi tình bác ái đối với những người bé mọn
nhất là lui khỏi mặt Người và vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ.
Thật hạnh phúc biết mấy cho những
ai được ở bên hữu Vua Giêsu vì họ đã được Chúa ghi nhận công đức mà ban thưởng
xứng đáng.
Trong mùa chay này, xin Chúa cho
chúng ta biế sống vị tha và cố gắng hy sinh tiết chế những nhu cầu không cần
thiết để góp phần vào chương trình mục vụ bác ái, giúp đỡ cho những ai đang
nghèo khổ.
Thứ ba: Is 55,10-11; Mt 6,7-15.
Suy niệm 1:
Trong hoàn cảnh bị lưu đày bên
Babylon. Dân Chúa phải sống trong tình trạng tủi nhục, đau khổ nên lúc nào họ
cũng trông chờ ngày Thiên Chúa ra tay giải thoát họ. Họ nhớ lại lời Chúa hứa
với cha ông họ và mong Ngài mau đến để thực hiện lời hứa.
Trong bố cảnh đó, ngôn sứ Isaia
đã lên tiếng chấn an họ hãy an tâm vì Thiên Chúa sẽ không thất tín bao giờ.
Bằng hình ảnh mưa móc làm cho đất
phì nhiêu, làm cho hạt giống đâm chồi nẩy lộc sinh hoa kết trái và đem lại cơm
bánh cho con người. Isaia muốn nhấn mạnh đến hai đặc tính của Lời Chúa.
1. Lời Chúa là lời Chân lý vì thế
Lời Chúa hứa với dân Ngài chắn chắn sẽ được thực hiện, vì“Cũng như mưa với
tuyết sa xuống từ trời không trở về trời" thế nào thì lời Chúa hứa sẽ
không bao giờ bị rút lại.
2. Lời Chúa có sức biến đổi tâm
hồn và cuộc sống con người trở nên an vui và hạnh phúc, tựa như mưa sa tưới
gội "làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt
giống, cho người đói có bánh ăn" như vậy. Vì thế tiên tri Isaia
kêu gọi mọi người hãy tin tưởng vào Lời Chúa và hãy để cho Lời Chúa biến đổi
cuộc đời.
Còn bài tin mừng hôm nay thì mời
gọi chúng ta thực hiện Lời Chúa qua hai việc làm cụ thể đó là: Cầu nguyện với
lời kinh Lạy Cha và thực thi bác ái với nhau bằng việc tha thứ cho nhau. Thực
thi lời dạy của Chúa Giêsu dạy tin chắn cuộc đời chúng ta sẽ tràn ngập niềm vui
và hạnh phúc.
Xin cho chúng ta trong Mùa chay
này biết chuyên chăm cầu nguyện và tích cực sống tình bác ái bằng việc tha thứ
những lỗi lầm cho nhau nhằm góp phần xây dựng Họ đạo chúng ta trở thành cộng
đoàn hiệp nhất trong đức tin và đức ái vững mạnh theo thánh ý của Chúa và ước
mong của Gíao Hội.
Suy niệm 2:
Cầu nguyện là một trong ba việc
làm đạo đức quan trọng mà Giáo Hội nhắc nhở chúng ta thi hành trong mùa chay
thánh. Nhưng chúng ta đã cầu nguyện như thế nào? Có hợp với ý muốn của Chúa
chưa? Hãy lắng nghe lời Chúa dạy hôm nay, để điều chỉnh lại việc cầu nguyện của
chúng ta cho xứng hợp.
Thông thường khi nói đến cầu
nguyện, đa số chúng ta đều nghĩ đến xin ơn nọ ơn kia, it ai nghĩ rằng cầu
nguyện là tìm cách làm vinh danh Chúa và làm công việc của Chúa. Xin những ích
lợi vật chất cho mình, đành là một điều cần, nhưng nó còn mang tính cách vị kỷ,
chỉ nghĩ đến bản thân mà không quan tâm đến ý muốn của Chúa. Vì thế Chúa dạy
cho các Tông đồ và chúng ta cách thức cầu nguyện sao cho phù hợp qua lời kinh
Lạy Cha.
Phân tích kinh lạy cha, ta thấy
gồm có bảy điều nguyện xin và được chia ra làm hai phần rõ rệt:
- Phần thứ nhất: gồm ba
điều nguyện ước hướng về Chúa:
Xin cho Thánh danh Thiên Chúa
được thiên hạ nhận biết, mến yêu và phụng sự.
Xin cho Nước Cha tức là uy quyền
của Chúa hay là Giáo Hội Ngài thành lập được lan rộng khắp nơi, được thống trị
trong cả thế giới nhất là trong các linh hồn.
Xin cho thánh ý Cha được mọi
người ở dưới đất tuân phục cách hoàn hảo cũng như các thánh ở trên trời hằng
tuân phục.
- Phần thứ hai: gồm
bốn lời nguyện xin:
Nguyện xin cho nhu cầu vật chất
và tinh thần cho chính bản thân ta và cho mọi người.
Xin Chúa cho ta có đủ của ăn, để
nuôi sống phần xác hằng ngày.
Xin Chúa tha nợ là tội cho ta vì
đã làm mất lòng Chúa. Với điều kiện là ta cũng phải tha thứ cho những ai xúc
phạm đến ta.
Xin Chúa đừng để chúng ta sa
chước những cám dỗ.
Xin Chúa cứu chúng ta khỏi mọi sự
dữ, tai ương, hoạn nạn ở trần gian này.
Những lời nguyện xin ở trên phải
luôn luôn được nuôi dưỡng bằng những tâm tình tin cậy, yêu mến của người con
đối với người Cha. Nên người cầu nguyện phải coi Thiên Chúa là Cha, một người
Cha trên hết các người Cha.
Sau khi dạy kinh lạy cha, Chúa
Giêsu đặc biệt nhấn mạnh đến việc tha thứ. Đây là vấn đế khó. Mình xin Chúa tha
nợ (tội) cho mình thì dể, nhưng mình tha nợ (lỗi) cho người khác quả là không
dể. Sở dĩ khó bởi vì chúng ta xem trọng mình hơn Chúa. Nếu suy nghĩ kỉ chúng ta
thấy rằng: chúng ta xúc phạm đến Chúa là Đấng Chí Thánh, là Đấng Tạo Dựng… thì
nặng nề biết dường nào. Ngược lại người khác xúc phạm đến ta chỉ là thụ tạo thì
có đáng gì. Như thế ta nợ Chúa quá nặng, người khác nợ ta thì quá nhẹ. Chúa lại
lấy cái nợ nhẹ ra để làm điều kiện tha nợ nặng cho chúng ta quả là ân huệ lớn
lao cho ta rồi. Nếu ta không chấp nhận đúng là ta quá dại khờ.
Hơn nữa chẳng những Chúa không
tha tội cho ta mà Chúa cũng không nhận lời cầu xin và lễ dâng của ta nữa. Chính
Chúa đã nói rõ: “Khi đi dâng lễ mà nhớ mình có chuyện bất hoà với anh
em, thì hãy để của lễ đó mà về làm hòa với anh em đã, rồi hãy trở lại dâng của
lễ sau”.
Hằng ngày, chúng ta vẫn đọc kinh
lạy cha, chúng ta thờ lạy Chúa, chúng ta tôn vinh Chúa, chúng ta cầu xin những
ơn hồn xác, điều đó tốt lắm. Riêng việc cầu xin ơn tha thứ cho nhau là điều rất
cần nhưng chúng ta lại hay quên.
Xin Chúa giúp ta ít là trong mùa
chay này biết sẵn sàng quảng đại tha thứ cho những ai đã đang và sẽ làm cho
chúng ta đau lòng, nhờ đó ta mới xứng đáng được Chúa tha thứ và đón nhận dồi
dào phúc lành của Người.
Thứ tư: Gn 3,1-10; Lc 11,29-32
Mặc dù được nghe rất nhiều lời
giảng dạy và chứng kiến không ít những phép lạ Chúa Giêsu làm. Nhưng người Do
Thái thời Chúa Giêsu vẫn cứng lòng, không ăn năn hoán cải. Tin Mừng hôm nay,
Chúa Giêsu quở trách họ rất nặng lời.
Xin đừng để chúng ta đi vào vết
xe đỗ như người Do Thái xưa. Nhưng cho chúng ta biết khiêm tốn đón nhận Lời
Chúa và Giáo huấn của Giáo hội chỉ dạy mà hoán cải đời sống mỗi ngày nên tốt
hơn.
"Cảnh nào cảnh chẳng đeo
sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ." (Truyện Kiều - Nguyễn
Du). Việc thay đổi con người không hệ tại ở hình thức bên ngoài, nhưng
trước hết là phải thay đổi tận cõi lòng, thay đổi não trạng và cái nhìn. Dù có
chứng kiến bao là phép lạ, dù có vỗ tay ca ngợi không ít những lời hay ý đẹp
của Chúa Giêsu, rốt cùng họ vẫn không tin. Như hết cách, Chúa Giêsu đành phải
thốt lên: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác, chúng xin điềm lạ. nhưng
chúng sẽ không thấy được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Gio-na”.
Như một cố gắng cuối cùng, Chúa
Giêsu đã dùng lại hai câu chuyện ngày xưa, hy vọng họ suy nghĩ lại mà thay đổi
não trạng.
Nhắc lại chuyện Gio-na ngày xưa
(bài đọc I), nhằm lưu ý họ rằng: Ngày xưa chỉ lời rao giảng miễn cưỡng của Ngôn
sứ Giona. Vậy mà cả thành Ninivê, từ vua đến dân, từ già đến trẻ, từ người đến
súc vật đều ăn chay, sám hối và khẩn xin sự tha thứ của Chúa. Vậy mà hôm nay có
Người còn hơn Giona. Đấng mà Giona loan báo đã đến và rao giảng vậy mà họ lại
không để tâm ăn năn hối cải. Thật đáng buồn!
Nhắc lại câu chuyện nữ hoàng
phương nam vượt đường xa vạn dặm, bất chấp khó khăn, tốn kém đến để diện kiến
vị vua khôn ngoan là Salômôn. Bà ta đã toại nguyện, hết lòng cảm phục sự khôn
ngoan của nhà vua. Nhưng ở đây còn trọng hơn vua Salômôn nữa, vì Người chính là
sự khôn ngoan của Thiên Chúa và là vua trên hết các vị vua. Thế mà họ chẳng
thèm nghe. Thật đau lòng!
Chính lòng tự mãn và mù quáng đã
làm hỏng hết mọi ơn phúc, vì thế không còn cách nào để tự chữa mình được nữa.
Xin cho chúng ta đừng như thế hệ
Do Thái xưa mù quáng và tự mãn, nhưng trở nên giống dân thành Ninivê và nữ
hoàng phương nam mau mắn lắng nghe lời Chúa và quyết tâm ăn năn sám hối; cũng
như biết khiêm tốn nhận mình còn nhiều khiếm khuyết, thiếu sót, tật xấu và tội
lỗi, để theo sự khôn ngoan của Chúa hướng dẫn mà sửa đổi đời sống mỗi ngày nên
tốt hơn.
Thứ năm: Et 14,1. 3-5.12-14; Mt
7,7-12
Lời Chúa hôm nay khuyến khích
chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện với tất cả niềm tin tưởng vào tình thương của
Thiên Chúa là Cha.
Người xưa thường nói: "Có
chí thì nên; kiến tha lâu đầy tổ; góp gió thành bão; năng nhặt chặt bị; ngồi
lâu câu bền; thua keo này, bày keo khác…". Nhờ thế mà “dẫu rằng chí thiển
tài hèn, chịu khó nhẫn nại làm nên cơ đồ”…
Kinh nghiệm ở đời cho biết: muốn
thành công bất cứ việc gì, đều đòi buộc chúng ta cũng phải dầy công vất vả.
Người nông dân muốn có mùa vụ như ý thì phải chấp nhận một nắng hai sương, mồ
hôi nước mắt. Học sinh muốn trở thành bác sĩ, kỹ sư... phải miệt mài đèn sách
bao năm.
Kinh nghiệm ấy được cha ông ta
đúc kết thành câu châm ngôn : "Có công mài sắt có ngày nên kim”. Câu châm
ngôn này không chỉ đúng trong lãnh vực tự nhiên mà còn đúng cả trong lãnh vực
siêu nhiên nữa.
Sách sáng thế ghi lại câu chuyện
của tổ phụ Abraham khi cầu nguyện với TC. Để xin lòng khoan dung của TC,
Abraham đã mặc cả với Chúa trong kiên trì, mỗi lần cầu xin ông đều hạ dần số
người công chính trong thành Xơ-đôm xuống, với mong muốn xin Thiên Chúa tha
phạt cho toàn thể con dân trong thành. Tựa như một vị trạng sư, Abraham đã lý
luận “đôi co” và kiên nhẫn với Chúa về số phận người công chính chẳng lẽ phải
chịu chung số phận với người tội lỗi sao? Nhờ thế mà cuối cùng Thiên Chúa cũng
“đành chịu thua” trước sự kiên trì của ông. Bởi lẽ Thiên Chúa chính là
Đấng "chậm bất bình và đầy lòng khoan dung". (X. St 16,
18-33).
Lòng kiên nhẫn cầu nguyện của ông
Môsen cũng vậy. Khi ông giang tay cầu nguyện thì dân Chúa thắng thế. Còn khi
ông mệt mỏi xuôi tay xuống thì quân A-ma-lếch thắng thế. (X. Xh 17, 8-13).
Thánh Phaolô trong thư gửi Timôthêô
cũng đã căn dặn là phải kiên nhẫn, trung tín cầu nguyện và năng suy gẫm Lời
Chúa trong Thánh Kinh.
Rồi đến dụ ngôn bà góa trong Tin
mừng. Bà đã nài nỉ xin vị thẩm phán xét xử công minh nỗi oan ức cho bà. Mặc dù
ông ta là vị thẩm phán bất lương, nhưng để tránh sự quấy rầy phiền phức của bà,
cuối cùng ông cũng phải xét xử để phân giải cho bà.
Cuộc trở lại của thánh Augustinô
luôn là một ví dụ điển hình, nói lên lòng kiên nhẫn trong việc cầu nguyện của
bà mẹ Mônica. Phải mất gần 20 năm trời, lời cầu xin của bà Mônica mới được Chúa
nhậm lời.
Đặc biệt bài đọc I hôm nay cho
chúng ta thấy mẫu gương cầu nguyện tuyệt vời của bà Esther. Nhờ kiên tâm cầu
nguyện với niềm tin tưởng vào Thiên Chúa quyền năng nên lời cầu xin của bà đã
được Thiên Chúa nhậm lời.
Hơn ai hết, Chúa Giêsu biết được
giá trị cao quý của việc cầu nguyện là cần thiết cho đời sống chúng ta là thế
nào, nên bài Tin mừng hôm nay, Người tha thiết kêu mời chúng ta hãy kiên tâm
cầu nguyện: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa
thì sẽ mở cho.” (Lc 11, 9).
Xin cho chúng ta nghe lời Chúa
chỉ dạy mà siêng năng cầu nguyện và cầu nguyện kiên trì với lòng tin tưởng vào
Chúa là người Cha đầy lòng yêu thương chúng ta. Tin chắc Người sẽ nhận lời mà
ban cho chúng ta những điều thiện hảo nhất, hơn cả những gì chúng ta cầu xin.
Suy niệm 2:
Cầu nguyện được ví như hơi thở
của linh hồn nên không thể thiếu được trong đời sống thiêng liêng đức tin. Vì
thế mà lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta phải kiên trì cầu nguyện với lòng tin
tưởng cậy trông vào TC là Người cha đầy lòng yêu thương chúng ta.
Ba việc đạo đức được nhắc nhiều
trong mùa chay: ăn chay, bác ái, cầu nguyện. Phụng vụ lời Chúa hôm nay nhấn
mạnh đến khía cạnh cầu nguyện. Nhưng không phải dạy chúng ta về nội dung, hình
thức hay thái độ khi cầu nguyện, mà là tâm tình và tinh thần phải có mỗi khi
chúng ta cầu nguyện với Chúa.
- Tâm tình của cầu nguyện phải là
tâm thế của một người con trong tương quan với TC là Người Cha rất giàu lòng
yêu thương chúng ta. Khi cầu nguyện với tâm thế đó ta sẽ không nản lòng nếu lời
cầu xin của chúng ta không được Chúa nhậm lời; và ta cũng sẽ không thấy khó
chịu khi gặp phải những nghịch cảnh xảy đến trong cuộc sống, bởi vì với tâm
tình của một người con, chúng ta tin rằng mọi sự xảy đến với ta đều là ân sủng
do Chúa tặng ban. Và chỉ khi đặt mình vào tâm thế của người con Chúa, ta mới có
thể hiểu và cảm nhận được sâu sắc lời cầu xin của Chúa Giêsu trong vườn cây dầu
năm xưa, khi phải đối diện với đau khổ: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin
cho con khỏi uống chén này, Nhưng đừng theo ý Con, một xin vâng ý Cha.” (Mt
26, 39).
- Tinh thần của chúng ta phải có
khi cầu nguyện là phải luôn tin tưởng cậy trông uy quyền và sự khôn ngoan vô
cùng của TC. TC là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn nên Người biết chúng ta cần gì và
điều gì mới thật sự mang lại ích lợi cho chúng ta. Nên Tin mừng hôm nay Chúa
Giêsu khuyến khích chúng ta hãy kiên vững cầu nguyện: “Hãy xin thì sẽ
được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì bất cứ ai xin thì sẽ
nhận được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ cửa sẽ mở cho.”.
Nhưng trong thực tế, có những
người vẫn cầu nguyện hoài mà sao không thấy Chúa nhận lời, tại sao vậy? Thánh
Giacôbê cho ta biết nguyên nhân: "Anh em không có, là vì anh em
không xin; anh em xin mà không được là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong
việc hưởng lạc" (Gc 4, 2-3). Như vậy sở dĩ lời cầu chúng ta không
được Chúa nhậm lời là vì, thứ nhất không mang lại ích lợi thật sự cho chúng ta,
thứ hai có thể chúng ta chưa đủ kiên trì cầu nguyện trước sự trì hoãn của Chúa.
Do đó, khi cầu nguyện, chúng ta hãy ý thức điều chính yếu chúng ta phải nhắm
tới trước hết, đó là "Xin cho Ý Cha được thể hiện dưới đất cũng
như trên trời."
Xin Chúa cho chúng ta biết siêng
năng cầu nguyện hơn trong mùa chay thánh này với tất cả niềm tin tưởng phó thác
vào uy quyền và tình yêu quan phòng kỳ diệu của Chúa là Người Cha rất nhân từ.
Amen.
Thứ sáu: Ed 18,21-28; Mt 5,20-26
Giết người thì ở đâu và thời nào
cũng là tội nặng, vì chỉ có Chúa làm chủ sự sống mới có quyền đó. Đó là công
lý! Luật của Chúa trong tin mừng hôm nay còn vượt trên công lý nữa. Công lý hay
luật pháp buộc tội khi một người phạm tội. Còn Chúa, Chúa đi xa hơn, Chúa ngăn
chặn ngay từ nguyên nhân, nguồn gốc đưa đến tội giết người.
Xin cho mùa chay này chúng ta
biết giữ tâm hồn cũng như môi miệng cẩn trọng để khỏi sa vào tội giết người
không gươm.
Chúa nói “ai giận anh em
mình thì đáng bị tòa xét xử, ai mắng chửi anh em là đồ ngốc thì sẽ bị lên án
trước công nghị và ai mắng chửi anh em mình là khùng thì đáng lửa trầm luân.”
Người xưa kết tội khi người ấy ra
tay giết anh em mình. Còn Chúa Giêsu lên án ngay từ đáy lòng kẻ mắc tội lỗi ấy.
Vì vậy, kẻ giết người thì thường bắt đầu từ chỗ ganh ghét, ghen tỵ, giận dỗi.
Và Chúa cấm ngay từ trong tư tưởng đó chứ không chờ đến khi sự việc xảy ra.
Chúa cấm từ trong trứng nước như vậy.
1. “Ai giận anh em mình
thì đáng bị xét xử”. Giận dỗi thì ai cũng dễ mắc lắm, bởi “dày môi hay hờn,
giận cá chém thớt”. Người ta chỉ giận người khác rồi mới nảy ra ý định giết
người đó. Khi ta giận ai là ta muốn cho người đó khuất mắt ta, ta không muốn
người đó hiện diện trên cõi đời này nữa. Cho nên giận như vậy thì chẳng khác gì
giết người không dao.
2. Thái độ thứ hai được kể ngang
hàng với tội sát nhân là tội khinh dể anh em mình. Chúa Giêsu nói: “Ai
bảo anh em mình là đố ngốc... là đáng bị lên án trước công nghị.” Tại
sao khinh bỉ người như thế mà cũng bị coi là giết người. Thưa vì khinh khi như
thế, ta thường kiếm cách sát phạt họ, làm hại thanh danh họ mà không cần gươm
giáo. Cho nên giết người ở đây là giết tinh thần, làm cho người khác khốn khổ,
tủi nhục, tuyệt vọng, chết dần chết mòn... Đó cũng là cách giết chết nhân phẩm
người anh em của ta rồi .
3. Chưa hết, Chúa Giêsu
nói: “Ai mắng anh em là đồ khùng... đáng lửa hỏa ngục.” Khi ta
mắng một người như vậy là ta đóng một vai trò quan án mà mình không có quyền
như thế. Ta mắng một người như thế là ta hạ thấp họ xuống ngang hàng với loài
vật rồi, không đáng là người nữa. Trong lòng chúng ta chất chứa những cay đắng,
giận dữ, ghen ghét và ta muốn đổ hết lên đầu người khác đó là cách ta lỗi đức
công bằng và phạm đến luật bác ái nên rất đáng sa hỏa ngục.
Hãy nhớ rằng khi chúng ta phạm
tội giết người từ trong tư tưởng, lời nói hay việc làm là chính chúng ta cướp
đi quyền của Thiên Chúa, phản bội lại tình thương của Thiên Chúa nên đáng nhận
lấy hình phạt là lửa địa ngục.
Chúng ta phải ăn năn thống hối
nhiều lắm vì đời chúng ta hằng gây sóng gió bằng lời ăn tiếng nói làm đau khổ,
làm tan nát bao nhiêu tâm hồn. Do bởi lời nói, chúng ta sẽ bị Thiên Chúa xét xử
ngày phán xét đó!
4. Tha thứ không phải là điều dễ
nhưng đó lại là điều kiện để tôn vinh Thiên Chúa một cách xứng đáng: "Nếu
ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ anh em đang có điều bất bình với
ngươi, hãy đặt của lễ trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em trước, rồi hãy
đến mà dâng của lễ." Tha thứ là bắt đầu lại mối tương quan
tốt đẹp với người anh em, theo gương Chúa đã tha thứ và bắt đầu lại mãi với mỗi
người chúng ta.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết
yêu thương và tha thứ như Chúa đã từng yêu thương và tha thứ cho chúng con.
Amen.
Suy niệm 2:
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đòi
buộc các môn đệ phải công chính hơn các Kinh Sư và Biệt Phái thì mới xứng đáng
được vào nước trời.
Vậy mức độ công chính mà Chúa
Giêsu đòi hỏi là ở mức độ nào?
Để biết điều ấy, trước tiên ta
cần tìm hiểu sự công chính là gì?
Theo từ điển: Công là công bằng
và Chính là ngay thẳng.
Theo nghĩa thánh kinh: Công chính
là vâng nghe và làm theo ý Chúa. Vì thế mà tổ phụ Abraham, Đức Maria và thánh
cả Giuse…được gọi là đấng công chính.
Những Kinh sư và Biệt phái được
đánh giá là những người luôn nghe và tuân giữ lề luật của Thiên Chúa một cách
nghiêm ngặt. Nên họ luôn tự cho mình là những người công chính. Nhưng sự công
chính của họ chỉ được đánh giá qua những việc làm mang tính hình thức chứ không
phát xuất từ ý hướng chân chính, ngay thẳng. Nên mọi việc họ làm là nhắm đến
cho người ta thấy mà ngợi ca công đức của họ. Do đó nhiều lần Chúa Giêsu đã
không ngần ngại lên tiếng khiển trách họ rất nặng lời: “Khốn cho các
người, hỡi các Kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô
vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi
thứ ô uế.” (Mt 23, 27); “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư
và người Pharisêu giả hình! Các người nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn
làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ…” (Mt 23, 14). Họ không thống nhất
được đời sống. Lời nói không đi đôi với hành động nên có lần Chúa Giêsu lưu ý
dân chúng và các môn đệ về họ: "Các kinh sư và các người Pharisêu
ngồi trên tòa ông Môsê mà giảng dạy.Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm,
hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không
làm.” (Mt 23, 2-3).
Vậy công chính hơn những Kinh sự
và Biệt phái chính là ta phải biết thống nhất được đời sống, nghĩa là tư tưởng,
lời nói và việc làm phải thẳng ngay, không quanh co, khác biệt nhau.
Để minh họa cho các môn đệ hiểu
được điều ấy, Chúa Giêsu đưa ra một vài ví dụ như luật giết người. Tội giết
người không chỉ bị kết án khi làm hại đến sự sống thể lý mà ngay trong ước
muốn, ý định và lời nói xúc phạm đến giá trị và nhân phẩm của tha nhân đã bị
xem là phạm tội giết người rồi.
Tương tự như thế luật thờ phượng
Chúa ngang qua việc dâng của lễ lên bàn thờ Chúa nhưng nếu trong lòng còn nuôi
hận thù, ghen ghét ai đó thì phải bỏ của lễ lại mà đi làm hòa trước đã. Được
như vậy thì việc dâng của lễ lên Chúa mới được Chúa đón nhận.
Tóm lại để trở nên công chính như
Chúa muốn, ta cần phải tuân giữ những điều luật Chúa dạy với tất cả ý hướng
ngay lành, bằng một tình yêu chân chính. Làm được như thế ta mới xứng danh là
môn đệ Chúa và đáng được hưởng niềm vui nước trời.
Suy niệm: 3
Chúa Giêsu đã từng xác quyết
với các môn đệ rằng: “Các con đừng tưởng Ta đến để huỷ bỏ lề luật
hay các tiên tri: Ta không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn” (Mt 5,
17). Tin mừng hôm nay, nói đến việc Chúa Giêsu kiện toàn luật giết người.
Nếu người xưa dạy không được giết
người. Ai ra tay giết người, sẽ bị luận phạt nơi tòa án. Còn Chúa Giêsu thì lên
án ngay cả khi ta phẩn nộ, chửi bới xúc phạm đến danh dự của người khác. Bởi ta
chửi người khác là “ngốc’, là “khùng” là tâm trí của ta đã loại trừ người anh
em mình ra khỏi cuộc đời mình và xem họ như là kẻ thù ta.
Chúa Giêsu muốn người môn đệ của
Ngài phải sống hoàn thiện và nên công chính hơn các luật sĩ và biệt phái. Bởi
lẽ sự công chính không chỉ hệ tại ở những hành vi đạo đức bên ngoài mà còn phải
phát xuất từ trong tâm trí ngay chính nữa.
Lắm khi húng ta sống như những
luật sĩ và pharisêu chỉ chú trọng những việc đạo đức bên ngoài mà bỏ qua tâm
tình bên trong. Nên ta không thể hiệp thông với Chúa và với nhau đúng nghĩa.
Suy nghĩ, lời nói và việc làm bất nhất với nhau. Trong đời sống cộng đoàn chúng
ta cứ xử "bằng mặt nhưng không bằng lòng". Sống bên nhau mà ta xem
nhau như kẻ thù.
Vì thế, ta dễ dàng buông ra những
lời chua cay, thâm độc: ha nhục nhau bằng những lời chửi rủa tục tằn; lòng luôn
muốn điều ác cho nhau, sẵn sàng kiện cáo nhau trước tòa đời...nguy hiểm là giết
hại nhau.
Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta
phải biết bao dung tha thứ. Tha thứ là cách chúng ta kiện toàn lề luật và trở
nên công chính trước mặt Chúa.
Chúa chỉ nhận lễ dâng của ta khi
ta biết làm hòa với anh em mình; Và Người chỉ tha thứ tội lỗi cho ta một khi ta
biết sẵn lòng tha thứ cho người khác.
Xin Chúa thương chữa lành những
vết thương lòng của ta và xin cho chúng ta có được lòng nhân từ của Chúa, để
chúng ta dễ dàng tha thứ những lầm lỗi, thiếu sót cho nhau. Nhờ thế ta mới xứng
đáng bước vào nước trời.
Ta nên hiểu rằng: “Người
xởi lởi trời gởi của cho, người so đo trời gò của lại”. Chắc chắn Chúa sẽ
không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của chúng ta.
Thứ bảy: Đnl 26,16-19; Mt 5,
43-48
Để xứng đáng là dân thánh Thiên
Chúa nhằm thừa hưởng vinh quang, thanh danh và huy hoàng hơn mọi dân tộc, sách
Đệ Nhị Luật trong bài đọc I đưa ra một số điều kiện như sau:
Phải chọn Chúa là Thiên Chúa của
đời mình.
Phải hết lòng tuân giữ và đem ra
thực hành các thánh chỉ, mệnh lệnh của Chúa.
Phải hết lòng tin tưởng Thiên
Chúa và bước đi trong đường lối của Ngài theo gương tổ phụ Abraham.
Còn bài tin mừng hôm nay, Chúa
Giêsu cũng đưa ra những tiêu chí để trở nên hoàn thiện, xứng đáng làm môn đệ
của Ngài:
1. Phải "yêu thương
địch thù và làm ơn cho những kẻ ghét các ngươi".
2. Hãy “cầu nguyện cho
những ai bắt bớ và nguyền rủa các ngươi".
Thực hiện những tiêu chí mà Chúa
Giêsu đòi hỏi không phải là điều dễ dàng. Khó nhưng không phải là không thể,
bởi lẽ chính Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta. Ngài đã yêu thương đến tận
cùng bằng cái chết để cho nhân loại được sống. Trên đỉnh cao thập giá Ngài đã
tha thứ cho những kẻ giết hại Người và cầu xin Chúa Cha tha thứ cho
chúng. "Xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng
làm."
Ngài còn hướng chúng ta đến mẫu
gương cội nguồn Tình yêu nơi Thiên Chúa. Một tình yêu dành cho hết mọi loài và
mọi người không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo. Không giới hạn giới tính
nam hay nữ, hoàn cảnh giàu hay nghèo, tình trạng tốt hay xấu… tất cả đều được
Ngài yêu thương. Tình yêu của Ngài tựa như "mặt trời mọc lên cho
người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết cũng như kẻ bất
lương." Và mời gọi chúng ta noi theo gương Chúa để trở nên hoàn
thiện. Qua đó mọi người sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu vì chúng
ta có lòng yêu thương nhau như Chúa yêu.
Qua bí tích rửa tội, chúng ta
được Thiên Chúa tuyển chọn trở nên dân Thánh và trở thành môn đệ Chúa Giêsu.
Xin cho chúng ta biết sống theo tinh thần của Thiên Chúa là: bao dung tha thứ, quảng đại hy sinh cho hết mọi người. Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim Chúa.