Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 7 tháng 3, 2023

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN III MÙA CHAY

Lm Nguyệt Giang

CHÚA NHẬT III MÙA CHAY, NĂM A

Xh 17,3-7; Rm 5,1-2.5-8; Ga 4,5-42

Suy niệm 1:

Chúng ta còn nhớ kể từ sau Tết nguyên đán năm Canh Tý 2020 đến gần đây, cả thế giới nóng lên bởi đại dịch mang tên là Covid-19 (nhiều người gọi vui là Cô-Vy, 19 tuổi) hoành hành. Báo chí cho rằng nguồn gốc Covid-19 này phát xuất từ Vũ Hán-Trung Quốc. Nhưng vì sợ làm xấu đi hình ảnh của đất nước mình nên những nhà chức trách Trung Quốc có phản ứng mạnh mẽ về việc lấy tên đại dịch là “Virus Vũ Hán”. Sau đó thế giới mới đồng ý gọi tên dịch viêm phổi cấp do Virus Corona gây ra là Covid-19. Đây là loại Virus rất bé nhỏ, mắt thường không thể thấy được, nhưng rất nguy hiểm vì gây chết người nhanh chóng. Tuy nhiên nó lại ủ bệnh nên rất khó phát hiện trong thời gian đầu mắc phải, vì thế ai nấy đều lo sợ và tìm mọi cách đề phòng, xa tránh bởi sức lan tỏa của nó cực kỳ nhanh và khôn lường, không gì có thể ngăn chặn được bước tiến thần tốc của nó. 

Theo "Ước tính mới nhất của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết số người chết liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đại dịch Covid-19 từ ngày 1/12020 đến ngày 31/12/2021 là khoảng 14,9 triệu". Cách riêng Bộ Y tế cho biết tính đến ngày 28/4/2022, tại Việt Nam chúng ta đã ghi nhận 43.041 ca tử vong do mắc COVID-19. Như vậy Covid-19 có khả năng thâm nhập bất cứ môi trường nào và không miễn trừ bất cứ ai nếu tiếp xúc với nó. Chỉ duy một lần gặp gỡ Covid-19 thì nguy cơ lây nhiễm rất cao, nên không thể xem thường Covid-19 được.

Tin mừng hôm nay cũng đã nhắc đến một Cô, nhưng không phải là Covid hay Co-Vy 19; mà đó là Cô phụ nữ người thuộc bản xứ Sa-ma-ri. Mặc dù cô này đã nổi hơn 2000 năm nayNhưng lại không một ai biết được tên cô ta là gì và bao nhiêu tuổi? Lý do đơn giản là vì Tin mừng tế nhị không nói đến. Ta chỉ biết cô này sống ở làng quê Xy-Kha, thuộc vùng đất Sa-ma-ri, thuộc miền trung đất nước Do Thái vào thời Chúa Giêsu. Cô nổi danh không bởi nhan sắc nghiêng thành đổ nước hay sự giàu sang tài giỏi tột cùng, mà cô được biết đến là nhờ vào một lần gặp gỡ tình cờ với một vị Thầy Chí Thánh mang tên là Giêsu bên bờ giếng Gia-cóp vào một buổi trưa hè nắng nóng. Nhờ cuộc gặp gỡ này mà nhiều thông điệp được Chúa gửi đến cho chúng ta:

- Thông điệp về một TC giàu lòng thương xót nơi Đức Giêsu. Ngài luôn khao khát gặp gỡ con người, cho dù họ là người đang mang trong mình Virus của tội lỗi, muốn chôn mình vào môi trường cách ly với Chúa và mọi người, như người phụ nữ bên bờ giếng Gia-cóp hôm nay.

-Hãy can đảm phá bỏ những bức tường ngăn cách để xây dựng chiếc cầu hiệp thông. Với sự hiện diện nơi vùng đất Sa-ma-ri và khiêm tốn xin nước uống của người phụ nữ bên bờ giếng Gia-cóp, Chúa Giêsu như muốn mời gọi mọi người hãy can đảm phá bỏ những bức tường ngăn cách để xây dựng chiếc cầu hiệp thông của sự hiểu biết, cảm thông và chia sẻ… Đây cũng là thông điệp mà Đức Thánh Cha Phanxicô muốn gửi đến các quốc gia trong thời đại hôm nay (Giáo huấn của ĐGH phanxicô tại Vatican, trong buổi yết kiến hôm 09/02/2017). Thời đại mà chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai…xảy ra nhiều nơi. Tình trạng di dân bùng nổ chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại, thì sự mở lòng để đón nhận và giúp đỡ những người di dân là nhu cầu cấp thiết và mang tính nhân đạo cao quý hơn bao giờ hết.

- Giá trị và phẩm giá của con người cần được coi trọng. Qua việc ngồi lại bên bờ giếng Gia-cóp để đối thoại với người phụ nữ đang mang trong người Virus tội lỗi, Chúa Giêsu muốn nói rằng, giá trị và phẩm của con người cần được coi trọng cho dù họ là tội nhân hay đang sống trong tình trạng bệnh tật, già yếu… gây bất lợi cho xã hội, thì cũng đừng bao giờ xa lánh và bỏ rơi họ trong cô đơn tuyệt vọng.

- Đừng mãi mê chạy theo những đam mê dục vọng của xác thịt.  Với cách thức tiếp cận tiệm tiến, đi từ nhu cầu thể lý bên ngoài như xin nước uống với người phụ nữ Sa-ma-ri, Chúa Giêsu đã tế nhị khơi lên nỗi khao khát sâu thẳm bên trong tâm hồn của chị một nhu cầu khác quan trọng hơn đó là nhận biết chân lý và lẽ sống đích thực. Qua đó, Chúa muốn nhắc nhở mọi người chúng ta đừng quá mãi mê chạy theo những đam mê dục vọng của đòi hỏi xác thịt bằng mọi giá mà quên đi nhu cầu sâu thẳm nơi tâm hồn, nơi đó Chúa đang âm thầm ngồi chờ đợi chúng ta. Chỉ khi nào gặp được Chúa, ta thỏa mãn được mọi khát vọng. Như thánh Augustinô đã từng thốt lên sau những ngày dài tìm kiếm vinh hoa phú quý và lạc thú ở đời: “Lạy Chúa, Ngài đã dựng nên chúng con để hướng về Ngài, và tâm hồn chúng con không nghỉ ngơi cho đến khi nghỉ yên trong Ngài”.

Cần có cái nhìn tích cực và tôn trọng về quyền tự do tín ngưỡng. Với việc khai mở cho người phụ nữ hiểu biết về việc tôn thờ TC bây giờ không còn bị giới hạn trên núi này hay tại Giêrusalem nữa, mà “đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế.” Chúa muốn chúng ta có cái nhìn tích cực và tôn trọng hơn về quyền tự do tín ngưỡng và niềm tin tôn giáo; cũng như đừng quá chú trọng đến việc thờ phượng TC bằng hình thức bên ngoài mà quên đi tấm lòng bên trong như lời mời gọi của tiên tri Gio-en: “hãy xé lòng chứ đừng xé áo.(Ge 2, 13).

Nếu sứ điệp quan trọng của mùa chay là sám hối-trở về, thì chúng ta cần trở phải về với lòng mình nơi có Thiên Chúa hiện diện để nhận ra đời sống của mình còn những rào cản nào ngăn cách ta với Chúa và tha nhân. Để xin Chúa giúp ta loại bỏ đi mọi bức tường ngăn cách để đến với tha nhân và tìm về bên Chúa mà đắm mình trong nguồn nước ân sủng do Chúa tặng ban, với mong muốn đổi mới cái nhìn, quan niệm và đời sống cho phù hợp với thánh ý của Chúa. Có như vậy đời ta mới cảm nhận được hạnh phúc đích thực mà tích cực thi hành sứ vụ loan truyền niềm vui tin mừng cứu độ của Chúa đến với mọi người theo gương người phụ nữ Sa-ma-ri hôm nay. Amen.


Suy niệm 2:

Tin Mừng hôm nay tường thuật cuộc đối thoại tại bờ giếng Gia-cóp, giữa Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri đại diện cho dân ngoại. Qua đó, Người đã từng bước mặc khải cho chị ta về ơn cứu độ.

Đức Giê-su đã chủ động xin chị ta nước uống vật chất, để sau đó hứa ban cho chị “Nước Hằng Sống”. Tiến trình đức tin nơi chị phụ nữ Sa-ma-ri trong Tin Mừng như sau :

- Đầu tiên Đức Giê-su đi bước trước mở lời : “Cho tôi chút nước uống” (c. 7). Xin nước không phải cần nước uống, nhưng nhằm bắt một nhịp cầu vượt qua hố ngăn cách giữa hai dân tộc Do thái và Sa-ma-ri. Tuy cùng là con cháu của tổ phụ Gia-cóp, nhưng do hoàn cảnh lịch sử đã phân thành hai dân tộc nghi kỵ nhau và không giao tiếp với nhau, như lời chị phụ nữ Sa-ma-ri nói với Đức Giê-su : “Ông là người Do thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri cho ông nước uống hay sao?” (c. 9).

- Sau đó, từ nước giếng vật chất, Đức Giê-su đã từng bước mặc khải cho chị ta về “Nước Hằng Sống” (c. 10). Chính do hiểu lầm hiềm khích mà hai dân tộc Do thái và Sa-ma-ri đã chia rẽ nhau về đức tin : Người Do thái chỉ thờ Đức Chúa tại Đền Thánh Giê-ru-sa-lem, đang khi người Sa-ma-ri lại muốn phải thờ Đức Chúa tại núi Ga-ri-dim !

Còn theo Đức Giê-su : Người ta không được giới hạn Thiên Chúa tại đền thờ vật chất tại Giê-ru-sa-lem hay trên núi Ga-ri-dim. Thiên Chúa là Đấng vô hình như “Gió” và “Thần Khí”, sự thờ phượng đúng đắn nhất là thờ Thiên Chúa trong “Thần Khí” và “Sự Thật” (c. 20-24).

- Phải thờ Thiên Chúa trong thần khí :

Ðức Giê-su nói : “Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật”. Ngày nay nhiều người cũng đồng quan điểm khi chủ trương : “Đạo tại tâm”. Thánh Phao-lô cũng nói : “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Ðền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao” (1 Cr 3,17). Mỗi người tín hữu chúng ta hôm nay cũng cần xin ơn Chúa Thánh Thần giúp ta thực thi đức tin bằng đức cậy là cầu nguyện dâng lễ; và bằng đức mến là phục vụ tha nhân.  

- Phải thờ Thiên Chúa trong sự thật :

Sự thật là chính Đức Giê-su như Người đã tuyên bố : “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ma quỷ là cha của sự dối trá và các môn đệ của Đức Giê-su phải tránh dối trá như các đầu mục dân Do thái đã bị Đức Giê-su quở trách : “Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8,44). Còn Thiên Chúa của chúng ta thờ là Thiên Chúa của sự thật, vì thế, những kẻ gian dối, sẽ không thể gặp được Ngài là Sự Thật. Do đó mỗi người chúng ta cần có một lương tâm ngay thẳng: “Có thì nói có, không thì nói không. (Mt 5,36), không quanh co, lươn lẹo, gian dối, nói một đàng làm một nẻo… thì mới có thể gặp gỡ Ngài.

Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su cũng muốn nói đến sứ vụ của người tín hữu như sau : “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”? (Ga 4,13-14). Cũng như ông Phi-lip-phê sau khi đã gặp và tin Đức Giê-su, liền đi tìm bạn mình là Na-tha-na-en để chia sẻ niềm tin (x. Ga 1,45); Ma-ri-a Ma-đa-lê-na sau khi gặp Chúa Phục Sinh cũng vội đi tìm các môn đệ để loan báo Tin vui gặp Chúa Phục Sinh (x. Ga 20,18); Người phụ nữ Sa-ma-ri-a trong Tin Mừng hôm nay sau khi gặp gỡ và tin Đức Giê-su, cũng đã chạy vội về làng loan báo cho mọi người : “Đến mà xem : có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?” (Ga 4,29). Mọi người nghe lời chị nói đã kéo nhau đến gặp Đức Giê-su và mời Người vào ở trọ trong làng của họ. Sau khi nghe giảng và tin Người là Đấng Thiên Sai, họ đã khẳng định niềm tin qua câu nói : “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết Người thật là Đấng cứu độ trần gian. (Ga 4,42).

- Phải làm gì để thi hành sứ vụ loan báo tin mừng có hiệu quả?

- Trong những ngày Mùa Chay này, chúng ta cần dành nhiều thời gian để đến gặp gỡ Chúa Giê-su trong thánh lễ, qua các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, các giờ kinh tối gia đình… Nhờ đó chúng ta sẽ có một nguồn suối làm thỏa mãn cơn khát nội tâm, và làm cho lòng chúng ta trở thành một mạch nước mới dẫn đến ơn cứu độ.

- Cần hãm mình ăn chay để có điều kiện làm nhiều việc bác ái yêu thương như phương thế truyền giáo hữu hiệu trong hoàn cảnh xã hội hôm nay : Đức Thánh Cha Phao-lô VI đã khẳng định : “Trong thế giới hôm nay người ta cần những chứng nhân hơn là thầy dạy và nếu họ có nghe thầy dạy thì thầy dạy đó cũng là chứng nhân”. 

Xin Chúa biến đổi chúng ta trong Mùa Chay này, cho chúng ta gặp được Chúa trong thánh lễ, những buổi tĩnh tâm và qua những người nghèo khó …

Xin cho chúng ta được uống Nước Hằng Sống là Lời Chúa và bí tích Thánh Thể. Nhờ đó, cuộc đời của chúng con sẽ vui tươi hạnh phúc hơn.

Xin cho chúng ta quảng đại tha thứ, quên mình phục vụ và luôn đi bước trước đến với tha nhân, như Chúa đã đi bước trước bắt chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri trong Tin Mừng hôm nay. Amen.

(Viết theo tư tưởng của Lm Đan Vinh)


Suy niệm 3: 

Để hiểu phần nào về sứ điệp của bài tin mừng hôm nay, chúng cần tìm hiểu một chút về dòng lịch sử của đất nước Do Thái.

Lịch sử ghi lại vào năm 922 TCN, Giê---am, người không thuộc hoàng tộc Đavid, đã đứng lãnh đạo cuộc nổi loạn cùng với mười bộ tộc phương Bắc và thành lập nên vương quốc Israel lấy thủ đô là Samaria và thờ Chúa trên núi Garizim.

Còn lại hai bộ tộc là Giu-đa và Ben-gia-min trung thành với hoàng tộc Đavid lập thành vương quốc Giuđa ở phương Nam, vẫn tôn thờ Thiên Chúa ở Giêrusalem, và cũng lấy Giêrusalem làm thủ đô.

Từ đó mới có sự mâu thuẩn về tôn giáo giữa vùng miền. Năm 720 TCN, vương quốc Israel phương Bắc bị xâm lăng bởi Đế quốc Assyria. Tất cả mười bộ tộc của vương quốc Israel phương bắc bị giết và bị bắt đi lưu đày. Nhưng cũng có một số người ở lại. Quân Assyria đến ở đất Samari, lấy vợ người Do Thái rồi sinh con đẻ cái. Từ đó người Do Thái thuần chủng ở Giuđê không còn xem những người Do Thái ở Samari là đồng bào của mình nữa.

Trong mắt họ những người ở phương Bắc là dân ngoại. Đôi bên nuôi mối hiềm khích lẫn nhau mãi đến thời Đức Giêsu vẫn còn. Nên họ không qua lại nhau vì sự khác biệt về vùng miền và sắc tộc.

Còn lại vương quốc Giuda phía Nam thì tồn tại lâu hơn trong sự lệ thuộc vào người Assyria, nhưng cuối cùng vương quốc này cũng bị các đạo quân xâm lăng Babylon hủy diệt vào năm 586 TCN. Thành phố Giêrusalem bị tàn phá, Ngôi Đền Giêrusalem bị san bình địa, dân nước Giuđa một phần bị giết, một số bị bắt đi lưu đầy sang Babylon. Sự kiện này đánh dấu lần ly tán thứ nhất của dân tộc Do Thái cổ và cũng đánh dấu sự kết thúc thời kỳ được sách vở gọi là “Ngôi Đền thứ Nhất” (825-586 TCN).

Nhìn vào bố cảnh lịch sử ấy ta mới hiểu được lý do tại sao người Do Thái bản gốc và người ở vùng Sa-ma-ri đối địch không qua lại với nhau, cũng như tại sao có chuyện thờ lạy Thiên Chúa ở trên núi Ga-ra-zim và thờ lạy Thiên Chúa ở Giê-ru-sa-lem.

Đức Chúa Giê-su đã vượt qua mọi ràn cản và đã đi bước trước đến vùng ngoại biên và gặp gỡ với những người khác biệt. Ngài chủ động bắt chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri và khiêm tốn xin chị ta cho nước uống. Qua cuộc đối thoại với người phụ nữ Samari Ngài muốn phá tan những bức từng ngăn cách giữa hai người và giữa các dân tộc. Ngang qua cuộc gặp gỡ, Đức Giêsu đã mặc khải cho người phụ nữ biết Ngài chính là Đấng Mê-si-a, là Đấng mà các tiên tri đã loan báo và chĩ đã tin vào Ngài.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã từng kêu gọi thế giới hãy phá bỏ những bức tường ngăn cách để xây nên những nhịp cầu. Chung quanh chúng ta còn có những anh chị em xa lạ  với chúng ta vì thiếu sự hiểu biết, bởi trong cuộc sống chúng ta còn ngần ngại bước ra khỏi chính mình để đi đến gặp gỡ, thăm hỏi và đối thoại với họ. Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy can đảm bắt lại những nhịp cầu hữu nghị với những người còn xa cách, ngay cả những người không cùng niềm tin và tín ngưỡng với chúng ta. Đó là bí quyết truyền giáo của Đức Chúa Giê-su chỉ dạy. Đức Giê-su dẫu là Thiên Chúa làm người nhưng Ngài đã không ngần ngại hạ mình xuống để ra đi gặp gỡ và trò chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri lăng loàn, trắc nết. Ngài không hề chỉ trích chị, cũng không hề khinh khi xúc phạn đến chị hay dân thành Sa-ma-ri ngoại lai. Trái lại Đức Giê-su đã gần gủi, cảm thông và mở lòng ngồi xuống chuyện trò với chị, nhờ vậy mà chị đã mở lòng để mạnh dạn bày tỏ những suy nghĩ và nói niềm sâu lắng lòng mình. Nhờ nghe được những giải đáp của thầy Giêsu, chị đã lần nhận ra chân lý và đã tin vào Ngài là Đấng Kitô.

Trong đời sống có nhiều người thích tự giới thiệu về mình cách khoe khoang, lên mặt dạy đời hay chê bai những khuyết điểm của người khác hơn là gợi lên những điều hay điểm tốt của họ, điều này khiến cho nhiều người có ác cảm và không muốn gần gủi gặp gỡ chúng ta.

Vậy để loan báo tin mừng có hiệu quả, ta cần phải noi gương Đức Giê-su can đảm đi bước trước đến với tha nhân với thái độ khiêm tốn cởi mở và chân thành

Mùa chay mời gọi chúng ta trở về để sống tình hiệp thông với Chúa, với tha nhân và chính mình. Vậy ngoài việc cầu nguyện, ăn chay hãm mình, chúng ta còn phải biết dẹp bỏ những rào cản để mạnh dạn ra đi đến gặp gỡ anh chị em mình để thăm hỏi, chia sẻ cảm thông và nâng đó nhau trong đời sống, đó chính là phương thế loan báo tin mừng hữu hiệu trong hoàn cảnh xã hội hôm nay, bởi như Đức Thánh Cha Phao-lô VI đã khẳng định : “Trong thế giới hôm nay người ta cần những chứng nhân hơn là thầy dạy và nếu họ có nghe thầy dạy thì thầy dạy đó cũng là chứng nhân”. 


Thứ hai: Lc 4,24-30.

Chúa Giêsu đến trần gian là để cứu độ hết mọi người, vì ơn cứu độ là ơn phổ quát. Vì thế, không phải cứ là đồng hương hay đạo dòng là được Chúa ưu ái cứu độ. Trái lại, để được Chúa yêu thương cứu độ, đòi hỏi con người phải tin và sống niềm tin của mình. Xin cho chúng ta biết hết lòng tin yêu Chúa và nỗ lực làm theo lời Chúa dạy để xứng đáng đón nhận ơn cứu độ Chúa ban.

Quen quá, hóa nhàm. Gần chùa gọi bụt bằng anh. Đó thái độ của những người đồng hương với Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay.

Đối với những người Do Thái nói chung và dân làng Nazaret nói riêng, Đấng cứu độ phải là người siêu quần bạt chúng, thuộc dòng dõi Đa-vít, sinh ở một nơi quyền quý cao sang và phải là Đấng oai phong lẫn liệt, chứ không phải là một Đấng tầm thường, sinh ra trong gia đình nghèo nàn chẳng có danh phận gì như Đức Giêsu.

Từ thành kiến sai lạc, đưa đến thái độ hoài nghi rồi dẫn đến thử thách Chúa. Họ thử thách bằng cách đòi hỏi Chúa Giêsu làm phép lạ như đã làm ở những nơi khác, nhằm minh chứng uy quyền của Người, họ mới tin nhận. Trước thái độ hoài nghi, (bụt nhà không thiêng) của những người đồng hương Nazaret, Chúa Giêsu không thể làm gì ngoài việc kể lại cho họ nghe hai câu chuyện thời xưa.

- Vào lúc trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội nhưng tiên tri Êlia không giúp người nào trong bọn họ cả, mà lại giúp bà góa ngoại giáo ở Xa-rép-ta. 

- Và trong lúc nhiều người bị phong cùi, nhưng không ai được tiên tri Ê-li-sê chữa lành, chỉ ngoại trừ ông Na-a-man, người ngoại xứ Xy-ri-a. 

Nghe hai câu chuyện đó dân làng Nazaret hiểu Chúa Giêsu ám chỉ họ, nên họ bực tức, định đẩy Người lên núi rồi xô Người xuống vực sâu, nhưng Người bỏ họ mà đi. 

Vì thành kiến nên họ đóng khung Thiên Chúa theo quan niệm sẵn có trong đầu họ. Chính quan niệm sai lầm đưa đến hậu quả nguy hại là không còn khả năng đón nhận ơn Chúa. Thành kiến làm cho chúng ta ra mù quáng, không còn nhận định và phê phán khách quan đúng đắn được. Thành kiến cũng làm cho chúng ta không thể đối thoại cởi mở với nhau.

Xin cho chúng ta biết loại bỏ những thành kiến của mình về người khác, để luôn có cái nhìn ngay thẳng và trong sáng, một nhận xét chân thành và đời sống cởi mở. Loại bỏ được thành kiến, ta sẽ nhận ra tình thương cứu độ của Chúa dành cho mọi người không riêng cho ai cả. Chỉ cần mở lòng chấp nhận, tin tưởng Người thì có thể đón nhận được ơn cứu độ.

Xin Chúa cho chúng ta đừng bao giờ ỷ lại mình là người có đạo mà lơ là sống niềm tin. Trái lại xin cho chúng ta luôn giữ vững niềm tin, sống chết cho niềm tin bằng cách tích cực thi hành Lời Chúa dạy, nhờ thế ta xứng đáng đón nhận được tình yêu và ơn cứu độ Chúa thương ban.

 

Thứ ba: Mt 18,21-35.

“Lấy oán báo oán, oán chồng chất. Ngược lại lấy đức báo oán, oán tiêu tan”. Ai trong chúng ta lại không lầm lỗi thiếu sót. Ai trong chúng ta lại không hơn một lần làm xúc phạm đến tha nhân. Chúng ta hãy lấy tình thương hóa giải hận thù, lấy lòng bao dung mà tha thứ lỗi lầm cho nhau, như chính Chúa bao dung và hằng tha thứ cho ta. Đó chính là sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta.

Khi muốn nói một điều khó nói, người ta dùng câu chuyện. Khi muốn diễn tả một điều gì đó khó diễn tả, người ta lại dùng câu chuyện. Khi diễn đạt một chân lý sâu sắc mà không ngôn từ nào nào lột tả hết, người ta hay dùng đến câu chuyện. Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dùng câu chuyện dụ ngôn để trình bày về tình thương tha thứ của Chúa và mời gọi con người bao dung tha thứ luôn mãi cho nhau. Đó là một người mắc nợ vua mười ngàn nén bạc, số nợ rất lớn y không có gì để trả. Ông van xin và được nhà vua tha hế cho anh. Vừa được tha, khi ra về anh ta lại gặp người bạn mắc nợ anh ta không bao nhiêu chỉ một trăm quan tiền. Nhưng ông không tha, mặc cho người ấy hết lời van xin. Ông lại bắt tù bạn mình. Câu chuyện tới tai nhà vua, vua thịnh nộ bắt giam anh ta cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng. Nhà vua chính là Thiên Chúa. Dù con người xúc phạm, thiếu nợ Thiên Chúa rất nhiều và thường xuyên, nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ. Còn chúng ta dù tha nhân đôi khi vô tình hay hữu ý xúc phạm nhỏ đến ta, ta lại khắc khe không tha thứ. 

Con người là con vật có xã hội tính. Không ai là một hòn đảo. Chúng ta sống là sống với, sống cùng, sống cho và sống vì người khác. Cuộc sống chung trong xã hội giúp ta thăng tiến và phát triển nhiều phương diện. Tuy nhiên đời sống chung cũng có khi gây nên không ít phiền hà, làm khổ cho nhau. Bởi bá nhân bá tính. Nhưng trong thẳm sâu lòng mỗi người vẫn là lòng bao dung tha thứ. Sự tha thứ không chỉ một lần, ba lần nhưng Chúa dạy chúng ta phải tha thứ luôn mãi, tha thứ không ngừng. Tha thứ cho nhau không là chuyện dễ, rất khó khi phải tha thứ hoài. Như để thực hiện được sự tha thứ cho nhau theo như ý muốn của Chúa ta cần ý thức: Trước mặt Chúa ta là con người đầy tội lỗi thường xuyên xúc phạm đến Chúa, nhưng được Chúa thứ tha luôn. Không ai hoàn hảo, chính ta cũng có nhiều sai sót, lầm lỗi với anh em. Nên ta cần thông cảm tha thứ lỗi lầm cho anh em. Đừng bao giờ nhìn vào sức nặng của xúc phạm, nhưng hãy nhìn vào tình thương của Thiên Chúa và nhìn vào cuốn sổ ghi lỗi của mình. Thù hận, bất hòa chỉ gây đau khổ và bất an cho chính ta mà thôi. Tha thứ hoà giải chúng ta sẽ cảm nhận niềm vui và hạnh phúc.

Trong mùa chay chúng ta hãy duyệt xét lại các mối tương quan của mình với tha nhân. Nếu thấy có điều bất hòa, chúng ta hãy hòa giải và tha thứ cho nhau để xứng đáng được Chúa thương tha tội cho ta.

 

Suy niệm 2:

 Khi suy nghĩ về lòng thương xót Chúa, nhiều lúc ta tự hỏi: lòng thương xót của Thiên Chúa đạt đến đỉnh điểm khi nào?

Có phải khi Chúa Giê-su hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn?

Có phải khi Chúa Giê-su bôn ba rao giảng Tin mừng?

Hay khi Chúa Giê-su xua trừ ma quỷ và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền cho dân?

Hoặc là khi Chúa Giê-su làm cho kẻ chết sống lại?

Câu trả lời đúng nhất là: Lòng thương xót của Thiên Chúa được thực hiện ở mọi nơi và mọi lúc, nhưng có lẽ lòng thương xót ấy đạt tới đỉnh điểm trên thập giá khi Chúa Giêsu khẩn xin lòng tha thứ của Chúa Cha dành cho tất cả những ai hận thù và nhẫn tâm ra tay giết chết Người: "Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23,34).

Đúng vậy, tha thứ cho những ai hận thù, ghét bỏ và làm hại mình chưa bao giờ dễ dàng! Nhưng Chúa Giêsu vẫn rộng lòng thứ tha và mời gọi ta thứ tha.

Ông cha ta thường nói: “Quá tam 3 bận”. Giới hạn tối đa của việc tha thứ theo tiêu chuẩn con người được định mức ở con số 3. Nhưng Chúa lại bảo với Phêrô và tất cả chúng ta không dừng ở con số 3 hay số 7 mà phải là 70 lần 7, nghĩa là tha hoài tha mãi. Đúng là không tưởng đối với khả năng  giới hạn của con người.

Vậy thì làm thế nào để chúng ta có thể thực hiện được điều mà Chúa Giêsu đòi buộc?

- Thưa, trên hết ta cần phải có ơn ban của Chúa, vì Chúa Giêsu đã phán: “Đối với TC, không gì là không thể làm được” (Lc 1,37).

- Thứ hai, ta phải ra sức tập luyện. Nếu một khi ta can đảm tha thứ cho ai đó làm hại chúng ta được một lần, thì hy vọng ta sẽ có kinh nghiệm tha thứ lần hai, thứ 3... và như vậy trở thành thói quen giúp ta có thể dễ dàng tha thứ nhiều lần.

- Thứ ba, hãy luôn nghĩ đến sự tha thứ lớn lao của Thiên Chúa, là Đấng Tạo Hoá, vậy mà Người luôn yêu thương và sẵn lòng tha thứ mãi cho chúng ta là thụ tạo bé nhỏ, yếu đuối và đầy tội lỗi. Khi suy nghĩ như vậy, sẽ giúp ta dễ cảm thông và tha thứ cho nhau trong đời sống.

- Cuối cùng, ta hãy hiểu rằng: khi tha thứ cho người khác cũng đồng nghĩa là ta tha thứ cho chính bản thân mình. Nuôi dưỡng hận thù và trả đũa sẽ làm cho tâm hồn ta bất an và đau khổ. Còn khi ta biết buông bỏ và tha thứ sẽ làm cho tâm hồn ta được bình an và cuộc sống ta có được niềm vui.

Tha thứ được ví như liều thuốc mát hay loại kem dưỡng da tuyệt hảo khi xoa vào tâm hồn sẽ làm cho cơ thể ta mát mẻ, dễ chịu, nhờ đó mà những vết hằn và nếp nhăn nheo trên khôn mặt ta sẽ trở nên mịn màn, hồng hào và tươi đẹp rạng ngời.

Xin Chúa ban cho chúng ta cảm nhận được lòng thương xót của Chúa, cũng như những ích lợi của việc tha thứ, để ít là trong mùa chay thánh này, ta biết sẵn sàng tha thứ cho những ai vô tình hay cố ý xúc phạm đến ta, với mong muốn chúng ta được xứng đáng đón nhận sự tha thứ của Chúa. Amen.

 

Thứ tư: Mt 5,17-19.

Chúa Giêsu đến trần gian không phải để phá hủy lề luật và lời các tiên tri, nhưng là để kiện toàn. Xin cho chúng ta hết lòng tuân giữ luật Chúa và Giáo huấn Giáo hội dạy bảo; đồng thời cũng giúp mọi người yêu mến và tuân giữ.

Những cuộc họp của quốc hội Việt Nam những năm gần đây được đánh giá là có nhiều tiến bộ và dân chủ. Nhiều dự luật mới được đệ trình để quốc hội và nhân dân bàn thảo, nhiều luật cũ được đặt lại để chỉnh sửa cho hoàn chỉnh hơn theo hoàn cảnh xã hội, cũng như theo tinh thần chung của quốc tế. Sở dĩ có những sửa đổi và đệ trình những luật mới như thế cũng đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích cho con người (có thể cho một nhóm người nào đó hay cho tất cả mọi người). Nhưng càng phục vụ lợi ích cho nhiều người bao nhiêu thì giá trị của luật ấy càng có giá trị cao bấy nhiêu. 

Bất cứ xã hội nào, đất nước nào, tập thể nào, gia đình nào dù lớn hay nhỏ đều có những quy định và luật lệ của nó. Chính những quy định luật lệ sẽ đem lại tính ổn định xã hội và bảo vệ quyền lợi cho con người.

Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu khẳng định: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môisê hoặc các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn…”. Như thế đã có sai lạc nào đó về quan niệm, cách thế giữ luật của những người Biệt Phái nên Chúa Giêsu mới kiện toàn. Cần xác định lại những yếu tố cần thiết của luật:

Mục đích của luật: là nhằm đem lại lợi ích cho con người. Nếu luật nào không mang đến lợi ích cho con người thì xem như không cần thiết nữa. Ăn chay, cầu nguyện, bố thí là những phương tiện nhằm giúp con người nâng cao tâm hồn, liên kết mật thiết với Chúa và sống tình thân với nhau. Nếu luật ăn chay, cầu nguyện và bố thí không mang lại những giá trị trên, trái lại chỉ nhằm để lé mắt thiên hạ thì tốt nhất không nên giữ làm gì. “Ngày Sabbát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabbát” (Mc 2,27).

Ưu tiên của luật: Thiên luật là luật do Thiên Chúa ban thì trên hết và mọi người đều phải tuân giữ; còn nhân luật là luật do con người làm ra thì có tính tương đối vì bị điều kiện hoá bởi các hoàn cảnh thời gian, không gian, nền văn hoá… Luật của con người thì có thể thay đổi và cần được thay đổi, nhưng luật của Thiên Chúa thì bất biến. Chính vì thế cần phải ưu tiên tuân giữ luật của Thiên Chúa, khi nhân luật và thiên luật đòi buộc cùng lúc. Khi người ta nói đến chuyện Môsê cho phép ly dị thì Chúa Giêsu đã khẳng định sự bất cập của nhân luật và Người tái khẳng định sự bất biến và tính bó buộc của thiên luật về hôn nhân bất khả phân ly (x.Mt 19,1-9; Mc 10,1-12).

Tinh thần giữ luật: Rất nhiều lần Chúa Giêsu phê phán thái độ giữ luật bằng hình thức bên ngoài mà thiếu sự chân thành bên trong tâm hồn. Người đã dùng hình ảnh “mả tô vôi”, bên ngoài thì đẹp đẽ nhưng bên trong thì tanh hôi, để ví nhiều người giữ luật theo kiểu này. Người cũng đã dùng lời sứ ngôn Isaia để nhắc nhớ họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (x. Mt 15,7-8). Loài người chúng ta trong thân phận hữu hình thì các hành vi bên ngoài luôn có tính cần thiết như tất yếu. Tuy nhiên chính cái tấm lòng, cái ý hướng bên trong mới quyết định giá trị tốt xấu các hành vi bên ngoài.

Yêu thương là trên hết: Chúa Giêsu đã nhiều lần minh định về giới răn: “Kính mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn, đồng thời yêu thương tha nhân như chính mình” (x. Mt 22,34-40; Mc 12,28-34; Lc 10,25-28). Trong tình yêu, khi bỏ qua, không làm một điều tích cực trong khả năng và hoàn cảnh thì đã làm một điều tiêu cực mà thậm chí là xấu xa. Nhiều người phải trầm luân đời đời vì khi còn sống đã không làm những việc lành, việc tốt, việc phải làm cho một trong những kẻ bé mọn (x.Mt 25,31-46).

Mùa chay là dịp tốt để ta duyệt xét lại đời sống đạo qua cách thức giữ luật. Xin Chúa cho chúng ta không giữ luật bằng những hình thức bên ngoài, mà còn phải trung thành giữ luật bằng tấm lòng yêu mến.

 

Suy niệm 2: 

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho các môn đệ cũng như chúng ta biết thêm về lý do quan trọng mà Ngài đến trần gian này là:“không phải hủy bỏ lề luật hay các tiên tri, nhưng là để kiện toàn”.

Do tác động thay đổi của xã hội qua dòng thời gian, nhất là vào thời Chúa Giêsu, các nhà lãnh đạo tôn giáo đã có sự giải thích sai lệch về lề luật Chúa nên cần phải kiện toàn. 

Luật của Chúa được ban cho nhân loại xuyên qua dân tộc Do Thái, bởi trung gian là ông Môsê. Luật đó được gìn giữ và bảo tồn qua thời các ngôn sứ. Nhưng đến thời Chúa Giêsu, luật Chúa được trao quyền cho các kinh sư giải thích và hướng dẫn cho dân chúng. Thay vì giúp người dân hiểu biết rõ về luật Chúa cũng như tinh thần đúng đắn phải có khi tuân giữ luật Chúa, thì trái lại các ông lại thêm thắc vào đó quá nhiều chi tiết từ 10 điều lên đến 613 điều khoản, khiến cho dân chúng rối ren không còn phân biệt đâu là điều chính đâu là điều phụ nữa.

Hơn nữa các ông lại quá chú trọng đến hình thức bên ngoài làm cho người dân có cảm giác luật Chúa quá nặng nề bởi những ràng buộc vượt quá khả năng của họ. Nên khi rao giảng, Chúa Giêsu đã nhiều lần đả kích lối sống vị luật của người Pharisêu; cũng như cảnh báo về mối nguy hiểm của những gánh nặng mà dân chúng phải chịu do các kinh sư chất chồng lên vai họ. Có lẽ vì đó mà nhiều người tưởng rằng Chúa Giêsu muốn phá bỏ lề luật và các tiên tri.

Để chỉnh sửa lại ý nghĩ sai lệch ấy, Chúa Giêsu đã khẳng định với các môn đệ về lý do mà Ngài đến thế gian này đó là nhằm để kiện toàn lề luật. Vậy Chúa muốn kiện toàn điều gì?

- Trước hết Chúa Giêsu kiện toàn về nội dung văn bản của luật: Phải giữ nguyên trạng giới luật của Chúa, dù một chấm, một phẩy cũng không được thay đổi hay bỏ sót.

- Thứ đến Chúa kiện toàn về hình thức thi hành luật: Nếu các kinh sư và người Pharisêu quá chú trọng bởi hình thức bên ngoài thì Chúa Giêsu nhấn mạnh đến trọng tâm giữ luật bên trong. Việc giữ luật chỉ có giá trị đích thực khi nó xuất phát từ trái tim và tấm lòng.

- Cuối cùng Chúa Giêsu kiện toàn về tâm tình phải có khi giữ luật:  Việc giữ luật không phải vì lo sợ. Sợ không giữ thì bị Chúa phạt; lo vì nếu không thi hành luật sẽ bị người đời khinh thường và lên án… nếu mang nặng tâm lý ấy thì quả thật luật trở nên gánh nặng đáng sợ cho đời sống con người.

Điều mà Chúa Giêsu mong muốn là mọi người hãy tuân giữ luật với tấm lòng yêu mến. Chính lòng mến Chúa chân thành sẽ giúp ta cảm thấy vui tươi, thoải mái khi thi hành luật Chúa; và nhờ động lực tình thúc đẩy mà chúng ta không còn sợ hãi do những ràn buộc của luật lệ nữa.

Mong cho mỗi người trong chúng ta hiểu được rằng: vì không muốn nhân loại phải đi lạc đường nên Chúa mới ban truyền lề luật để hướng dẫn. 

Xin Chúa cho chúng ta cảm nhận được tình thương lớn lao ấy của Chúa mà trung thành tuân giữ luật Chúa và GH chỉ dạy với tất cả tấm lòng trân quý và yêu mến của mình.

 

Suy niệm 3: Kiện Toàn Lề Luật

Một  thanh niên đi xem  bóng đá với cha sở, nói với cha rằng: anh không thích vâng phục ai hết. Anh nói : “Thưa cha, con rất ghét ai đó bảo phải thế này, thế nọ. Nghe theo họ là con không có tự do”.

Cha sở không nói một lời. Liền sau đó, họ gặp một biển chỉ đường đi tới sân bóng, nhưng cha sở làm như không thấy. Chàng ta mới la lên : “Chúng ta đã đi sai đường ! Thưa cha, cha không thấy bảng chỉ đường đằng kia à !”.

Cha sở bình tĩnh trả lời : “Cha thấy chứ, nhưng cha nghĩ đường này xem ra tốt hơn, và cha cũng ghét bị chỉ bảo phải đi đường này hay đường kia. Nó không cho cha được tự do hành động”.

Chàng thanh niên giờ mới nhận ra bài học, rồi lặng thinh và cùng cha sở đi vòng trở lại để vào sân bóng.

Con người thời nay, cách riêng giới trẻ hình như không thích nói đến “luật lệ” vì cho rằng luật lệ gò bó tự do mình. Nên họ cảm thấy dị ứng mỗi khi nói đến luật lệ.

Chính Đức Giêsu cũng nhiều lần đả phá chủ trương vị luật. Ngài kịch liệt công kích những người Pharisêu vì họ chủ trương sống “vị luật”.

Tuy đả phá tinh thần vị luật nhưng Ngài không hề phá bỏ lề luật : “Ta đến không phải để huỷ bỏ lề luật mà để kiện toàn.” (Mt 5,17).

Ngài kiện toàn luật thế nào ? Thưa bằng cách chỉ cho chúng ta  thấy được “trái tim” của lề luật chính là thương yêu. Ngài tóm lược tất cả mọi lề luật vào 2 khoản luật căn bản là “mến Chúa và yêu người.”

Thánh Augustinô đã hiểu như thế, nên đã nói : “Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm.”

Chính Đức Giêsu đã nêu gương giữ luật với tất cả tấm lòng yêu thương ấy.

 yêu mến lề luật và “vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”.

Chúa muốn chúng ta tuân giữ lề luật không phải vì sợ Chúa phạt, mà vì ta yêu mến Chúa.                

Cũng vậy, chúng ta giữ luật không phải để được Chúa yêu, mà vì biết được Chúa đã yêu ta trước. 

Đọc thêm:

Tin mừng hôm nay, thánh Matthêu cho biết Chúa Giêsu đã kiện toàn khá nhiều luật lệ như: luật giết người, luật hôn nhân, luật làm chứng…

1. Kiện toàn luật giết người:

Giết người thì ở đâu và thời nào cũng là tội nặng, vì Chúa mới là chủ sự sống. Đó là công lý. Lời Chúa dạy bảo trong bài Tin Mừng hôm nay còn vượt trên công lý nữa. Công lý hay luật pháp chỉ buộc tội khi một người phạm tội bằng hành vi cụ thể. Còn Chúa thì đi xa hơn, Chúa ngăn chặng ngay từ nguyên nhân, nguồn gốc đưa đến tội giết người.

Vì thế, “Ai giận anh em mình thì đáng bị tòa xét xử, ai mắng chửi anh em là đồ ngốc thì sẽ bị lên án trước công nghị và ai mắng chửi anh em mình là khùng thì đáng lửa trầm luân”.

Đúng như lời Chúa nói: Giận dỗi chính là nguyên nhân đưa đến tội giết người. Vì khi ta giận ai là ta muốn cho người đó khuất mắt ta; ta không muốn người đó hiện diện trên cõi đời này nữa. Cho nên giận như vậy thì chẳng khác nào giết người không dao.

Cũng thế, khi ta mắng chửi anh em là đồ ngốc là khùng thì chẳng khác nào ta xem thường anh em mình, để rồi hạ thấp họ xuống hàng con vật, không đáng là người nữa. Hành vi như thế là chiếm đoạt quyền phán xét của Thiên Chúa, nên đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt.

Như vậy, để khỏi bị Thiên Chúa luận phạt và kết án, Chúng ta phải có lòng quảng đại tha thứ. Tha thứ là điều kiện để tôn vinh Thiên Chúa một cách xứng đáng: "Nếu ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ anh em đang có điều bất bình với ngươi, hãy đặt của lễ trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em trước, rồi hãy đến mà dâng của lễ.".  Tha thứ là cách ta hàn gắn lại những vết thương lòng của ta và cho tha nhân. Tha thứ cũng là cách chúng ta bắt đầu lại mối tương quan tốt đẹp với anh em mình.

Xin Chúa cho chúng con biết giữ tâm hồn và môi miệng cẩn trọng để khỏi sa vào tội giết người không gươm. Xin Chúa cũng dạy chúng con biết yêu thương và tha thứ, như Chúa đã từng yêu thương và tha thứ cho chúng con. Amen.

2. Kiện toàn luật hôn nhân:

Chúa Giêsu tiếp tục kiện toàn giới luật một vợ một chồng. Để tránh đi tình trạng đỗ vỡ trong đời sống hôn nhân, chẳng những Chúa Giêsu cấm không được li dị mà Chúa còn ngăn chặn ngay cả nguyên nhân sâu xa đưa đến tình trạng bất trung trong đời sống hôn nhân nữa. “Anh  em đã nghe Luật dạy rằng: chớ ngoại tình, còn Thầy, Thầy bảo cho anh  em  biết : ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi…” (Mt 5:  27-28).

Như thế là dù chỉ thèm muốn trong lòng vợ hay chồng của người khác thì đã phạm tội ngoại tình trong tư tưởng rồi; vì trong lòng đã nuôi dưỡng ước muốn sai trái. Từ đó sẽ dễ dẫn đến hành động phản bội tình nghĩa vợ chồng.

Có thể nói mọi tội lỗi con người phạm, đều xuất phát từ trong lòng. Do đó, muốn tránh tội thì phải dứt khoát từ bỏ ước muốn bất chính ngay trong lòng. Nhưng để tránh được ước muốn bất chính trong lòng, chúng ta cần phải giữ gìn đôi mắt. Đôi mắt là của sổ tâm hồn nên mọi điều tốt xấu muốn vào được căn nhà tâm hồn đều phải qua cửa sổ của đôi mắt.

E-va chính vì đã không gìn giữ được đôi mắt nên đã hướng cái nhìn về trái cấm và đã nuôi dưỡng trong lòng sự thèm muốn. Từ ước muốn ấy bà đã cả lòng đưa tay hái trái cấm ăn, dầu biết rằng hành động ấy là phạm tội bất trung với Chúa.

Ða-vít cũng vì không giữ được đôi mắt nên đắm đuối nhìn người phụ nữ khỏa thân và có ước muốn khoái lạc. Từ đó đưa đến những hành vi tội ác: ngoại tình và giết người giấu tay.

Lạy chúa xin giúp chúng con biết gìn giữ đôi mắt luôn có cái nhìn trong sáng và can đảm dứt bỏ những nguyên nhân làm cớ chúng con lỗi đức trong sạch, cho dù đó là một phần của cơ thể như: là mắt, là tay... bởi vì Chúa đã phán: "thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hỏa ngục".

3. Kiện toàn về luật làm chứng:

Trong cuộc sống, ta thường nghe được những luồng thông tin khác nhau về một sự kiện nào đó xảy ra trong xã hội, cũng như trong Giáo Hội. Có những thông tin chính thống cần tin theo. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi, phe nhóm và thế lực của mình cũng không ít những thông tin sai lạc, ta cần phải dè chừng.

Hằng ngày trên báo chí, truyền thanh, truyền hình ta bắt gặp rất nhiều thông tin quảng cáo nhằm thu hút khách hàng và lợi nhuận. Bên cạnh những thông tin thật cũng có nhiều thông tin không thật. Sống trong một xã hội mà phải liên tục đề phòng hàng giả, người giả, thông tin giả thật là bất an.

Chắc chắc ai trong chúng ta cũng không muốn điều ấy xảy ra. Nhưng rồi chính cuộc sống chúng ta cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Nhiều lần vì sợ, vì tham, vì bị mua chuộc… ta lại chấp nhận im lặng hay từ chối làm chứng cho chân lý. Lắm khi vì ham mê tiền bạc, chức quyền… ta cũng sẵn sàng chối bỏ niềm tin cách dễ dàng.

Chúa Giêsu xác định: “Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37). Do đó để thuộc về Chúa chúng ta cần phải sống và làm chứng cho sự thật, vì sự thật mới giải phóng chúng ta khỏi những ràn buột của gian dối và bóng tối của sự dữ. "Sự thật sẽ giải phóng các ông" (Ga 8, 32). Vì thế, "hể có thì nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ".

Xin cho chúng ta biết vâng nghe lời Chúa, luôn can đảm nói và làm theo sự thật, để chúng ta khỏi sa vào cạm bẫy của ma quỷ. Nhờ đó cuộc sống mới được an vui, hạnh phúc.

 

Thứ năm: Lc 11,14-23.

Trước một sự việc, có những phản ứng khác nhau tuỳ theo cái nhìn của mỗi người. Đồng thuận hay chống đối, tin nhận hay khước từ. Đó cũng là phản ứng lẫn lộn của đám đông dân chúng khi chứng kiến phép lạ trừ quỷ câm của Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay.

Xin cho chúng ta luôn có cái nhìn ngay thẳng và trong sáng để nhận ra giá trị đích thực của mọi biến cố xảy đến trong đời sống.

Cùng chứng kiến một phép lạ. Nhưng lại có những phản ứng trái chiều:

1. Đám đông lấy làm ngạc nhiên.

2. Một số người cho rằng: "Ông ấy dựa thế quỷ vương Beelzebul mà trừ quỷ".

3. Kẻ khác lại muốn thử Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời.

Trước những phản ứng trái chiều, nhất là thái độ chống đối của nhóm Biệt Phái. Chúa Giêsu lại kiên nhẫn lý giải cho họ hiểu rõ hai điều:

Thứ nhất: “Đòan kết là sức mạnh và là điều kiện chính để sinh tồn”, nên Satan không thể chống đối lẫn nhau. "Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nào tự chia rẽ thì sẽ đổ xuống. Nếu Satan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?”. Bởi thế cho rằng Chúa Giêsu dựa thế Beelzebul mà trừ quỷ câm là không đúng.

Thứ hai: Để tạo nên sức mạnh chống lại Thiên Chúa và hãm hại con người, ma quỷ không ngu dại gì mà làm hại thuộc hạ của nó. Bởi thế việc Chúa Giêsu trừ quỷ không phải là dựa vào thế của quỷ vương. Nếu việc đó không do quỷ vương thì do đâu? Thưa do một quyền lực mạnh hơn ma quỷ, tức là Thiên Chúa. Như thế phép lạ này là dấu chỉ rằng Nước Thiên Chúa đã đến gần.

Sở dĩ những người Biệt Phái không tin nhận phép lạ Chúa Giêsu thực hiện là do quyền năng đến từ Thiên Chúa là vì họ ganh tị và ghen ghét Chúa Giêsu. Lòng ganh tỵ, ghen gét làm cho con người trở nên mù quáng, không còn khả năng nhận ra chân giá trị của sự việc và sự thật về con người. Khi nuôi dưỡng hận thù trong lòng, người ta có thể tìm mọi cách để hạ bệ hãm hại người khác. Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Cố tình không đón nhận nó chỉ thiệt hại và làm đau khổ cho chính bản thân mình mà thôi.

* Câu chuyện:

Có một con đại bàng ganh tị với một con đại bàng khác vì con này bay cao hơn nó. Một hôm con đại bàng ganh tị gặp một xạ thủ. Nó xúi anh bắn hạ đối thủ của nó. Chàng xạ thủ đáp: “Được. Nhưng tôi không có tên.” Con đại bàng nhổ một cọng lông cánh đưa cho chàng xạ thủ làm tên. Nhưng chàng bắn hụt. Vì quyết tâm hại đối thủ của mình, con đại bàng ganh tị lại nhổ thêm một cọng nữa, rồi một cọng nữa... cho tới khi hai cánh nhỏ trụi nhẵn. Nó không bay được nữa. Chàng xạ thủ không bắn được con kia nên bắt lấy con đại bàng trụi cánh về làm thịt. Nếu bạn ganh tị muốn hại ai thì rốt cuộc bạn chỉ tổ hại chính bản thân mình.

Xin Chúa cho chúng con tấm lòng đơn sơ trong trắng để có cái nhìn ngay chính và trong sáng trước mọi biến cố xảy ra trong cuộc sống. Đừng để con vì ghen tỵ, thù ghét mà có thái độ tiêu cực, chỉ biết “vạch lá tìm sâu” và luôn nghi ngờ thiện chí của tha nhân. Xin cho chúng con luôn vững tin vào quyền năng Thiên Chúa và can đảm loại trừ thái độ làm tôi hai chủ trong cuộc đời này.

 

Thứ sáu: Mc 12, 28b-34.

Cốt lõi của đạo Công giáo là Bác ái. Bác ái là đồng phục và là ngôn ngữ chung của người kitô hữu. Bác ái là dấu chứng để nhận ra môn đệ của Chúa, là ngôn ngữ cao trọng của loài người và các thiên thần, là ngôn ngữ độc nhất tồn tại trên thiên đàng.

Xin cho chúng ta biết giá trị cao quý của bác ái và nỗ lực thi hành đức ái trong đời sống để xứng danh là môn đệ Chúa.

Sống trong xã hội Do Thái thời bấy giờ, với ngổn ngang những luật lệ, làm cho con người không còn phân biệt đâu là chính, đâu là phụ. Vì thế, một người trong nhóm Kinh sư tới hỏi Chúa Giêsu xem điều răn nào là quan trọng nhất. Thời bấy giờ trên đất nước Do Thái cũng có nhiều phe nhóm. Tùy theo quan điểm cá nhân nên mỗi phe nhóm cũng đề cao một số luật lệ nào đó. Có lẽ vì thế mà nhân cơ hội này, họ cũng muốn biết Chúa Giêsu đứng về phe nhóm nào? Và cũng qua cách thức thăm dò đó, họ cũng muốn thử xem trình độ hiểu biết về Thánh kinh và luật lệ của Chúa Giêsu tới mức độ nào?. Qủa là thâm ý!

Chúa Giêsu thừa biết thâm ý của họ. Nhưng vì đây là vấn đề rất quan trọng trong đời sống đức tin nên cần phải xác định cho rõ ràng. Vì thế Chúa Giêsu đã không ngần ngại trả lời cho họ hiểu đâu là điều luật quan trọng nhất mà TC chỉ dạy. Bằng cách trích dẫn lại hai câu Thánh kinh, một trong sách Đệ Nhị Luật và một trong sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực ngươi”. Đó là điều quan trọng thứ nhất. Điều luật thứ hai cũng quan trọng không kém, đó là:“ Ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình”, Chúa Giêsu đã tóm lược cho biết điều luật căn bản và quan trọng nhất trong mọi điều luật đó là luật “tình yêu”. “Yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực ngươi” và “yêu thương người thân cận như chính mình”.

- Nhưng “yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực ngươi” thì phải làm gì? Thưa, yêu mến Đức Chúa thì phải siêng năng đến với Chúa, sống thân tình với Chúa, hân hoan vì được lắng nghe lời dạy của Chúa, nhất là vui thích làm theo điều luật của Người hướng dẫn; còn mến Chúa “hết”…nghĩa là đặt Chúa làm ưu tiên trong mọi giá trị mà ta chọn lựa và Chúa luôn là trung tâm của đời sống của ta.

- Còn việc “yêu người thân cận như chính mình” nghĩa là làm sao? Thưa đó là phải yêu thương hết mọi người không phân biệt tôn giáo, màu da, chủng tộc, ngôn ngữ.. bạn hay thù. “Yêu như chính mình” có nghĩa là phải đối xử với mọi người cùng một “tình yêu” như ta đối xử với chính ta, theo như tinh thần của thánh Phaolô dạy: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm.12,15). Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn đòi buộc chúng ta phải “yêu như Chúa yêu”, một tình yêu trao ban, cho đi nhưng không và sẵn sàng chết đi cho người mình yêu. "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13).

Để cụ thể hóa tình yêu đối với tha nhân, GH mời gọi chúng ta hãy tích cực thực hiện 14 mối yêu người (thương xác 7 mối; thương linh hồn 7 mối).

Xin Chúa cho chúng ta mùa chay này biết nỗ lực thực thi điều luật Giêsu Chúa chỉ dạy là mến Chúa yêu người cách sâu xa hơn, theo tinh thần mà Chúa Giêsu mong muốn.

 

Thứ bảy: Lc 18,9-14.

Thái độ kiêu căng, phách lối làm cho người đời khinh thường, ghét bỏ và xa lánh. Khiêm nhường, nhận lỗi là hành động quân tử của bậc anh hùng, khiến mọi người mến phục và TC yêu mến. Xin cho chúng ta có được lòng khiêm nhường như người thu thuế trong bài tin mừng hôm nay, để xứng đáng được Chúa yêu thương ban ơn công chính.

Bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho ta biết thế nào là sức mạnh của lời cầu nguyện khiêm nhường!

Trái ngược với hình ảnh của người Pharisêu tự mãn là hình ảnh người thu thuế dễ thương ở phía cuối đền thờ.  Một hình ảnh tuyệt đẹp. Đẹp bởi dáng điệu rất đổi khiêm nhường, đẹp bởi tính cách hết sức đơn sơ và đẹp bởi tâm tình rất chân thành trước nhan thánh Chúa. Chính vì thế  mà lời cầu nguyện của anh ta đã vươn lên cao, vượt qua được mọi rào cản và đã chọc thủng các tầng mây, cuối cùng đã chạm vào tận trái tim của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót. Nên xứng đáng được Thiên Chúa nhận lời: “Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không”.

Thứ bảy cũng là ngày GH hướng lòng về Mẹ Maria để tỏ lòng kính mến Mẹ cách đặc biệt. Hơn ai hết Đức Maria là mẫu gương về lòng khiêm nhường thẳm sâu cho chúng ta noi theo. Bởi lúc nào Mẹ cũng ý thức mình chỉ là nữ tỳ của Thiên Chúa: “Phận nữ tỳ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới…” (Lc 1, 48). Chính lòng khiêm nhường ấy đã nâng Mẹ lên tận thiên đường với một hình ảnh tuyệt đẹp như sách khải huyền mô tả: "Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao..." (Kh 11,9)

Ước mong mùa chay này, chúng ta can đảm loại trừ được thái độ kiêu căng tự mãn hay đề cao mình như người Biệt Phái để yêu thích mặc lấy chiếc áo khiêm nhường của người thu thuế và của Mẹ Maria. Được như thế lời cầu nguyện của chúng ta mới xứng đáng được Chúa nhận lời. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XIV THƯỜNG NIÊN Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN B Ed 2,2-5; 2Cr 12,7-10; Mc 6,1-6 Suy niệm 1: ...