SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN III MÙA CHAY
Lm Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY, NĂM A
Xh 17,3-7; Rm 5,1-2.5-8; Ga 4,5-42
Suy niệm 1:
Chúng ta còn nhớ kể từ sau Tết
nguyên đán năm Canh Tý 2020
đến gần đây, cả thế giới nóng lên bởi đại dịch mang tên là Covid-19 (nhiều
người gọi vui là Cô-Vy, 19 tuổi) hoành hành. Báo chí cho rằng nguồn gốc
Covid-19 này phát xuất từ Vũ Hán-Trung Quốc. Nhưng vì sợ làm xấu đi hình ảnh
của đất nước mình nên những nhà chức trách Trung Quốc có phản ứng mạnh mẽ về việc lấy tên đại
dịch là “Virus Vũ Hán”. Sau đó thế
giới mới đồng ý gọi
tên dịch viêm phổi cấp do Virus Corona gây ra là Covid-19. Đây là loại Virus
rất bé nhỏ, mắt thường không thể thấy được, nhưng rất nguy hiểm vì gây chết người nhanh chóng. Tuy nhiên nó lại ủ bệnh nên rất
khó phát hiện trong thời gian đầu mắc phải, vì thế ai nấy đều lo sợ và tìm mọi
cách đề phòng, xa tránh bởi sức lan tỏa của nó cực kỳ nhanh và khôn lường,
không gì có thể ngăn chặn được bước tiến thần tốc của nó.
Theo "Ước tính mới nhất của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết số người
chết liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đại dịch Covid-19 từ ngày 1/12020
đến ngày 31/12/2021 là khoảng 14,9 triệu". Cách riêng Bộ Y tế cho biết tính đến
ngày 28/4/2022, tại Việt
Nam
chúng ta đã ghi nhận 43.041 ca
tử vong do mắc COVID-19. Như vậy Covid-19 có khả năng thâm
nhập bất cứ môi trường nào và không miễn trừ bất cứ
ai nếu tiếp xúc với nó. Chỉ duy một lần gặp gỡ Covid-19 thì nguy cơ lây nhiễm
rất cao, nên không thể xem thường Covid-19 được.
Tin mừng hôm nay cũng đã nhắc đến
một Cô, nhưng không phải là Covid hay Co-Vy 19; mà đó là Cô phụ nữ người thuộc bản xứ Sa-ma-ri. Mặc dù cô này
đã nổi hơn 2000 năm nay. Nhưng lại không một ai biết được tên cô ta là gì và bao nhiêu
tuổi? Lý do đơn giản là vì Tin mừng tế nhị không nói đến. Ta chỉ biết cô này
sống ở làng quê Xy-Kha, thuộc vùng đất Sa-ma-ri, thuộc miền trung đất nước Do
Thái vào thời Chúa Giêsu. Cô nổi danh
không bởi nhan sắc nghiêng thành đổ nước hay sự giàu sang tài giỏi tột cùng, mà cô được biết đến là nhờ
vào một lần gặp gỡ tình cờ với một vị Thầy Chí Thánh mang tên là Giêsu bên bờ
giếng Gia-cóp vào một buổi trưa hè nắng nóng. Nhờ cuộc gặp gỡ này mà nhiều
thông điệp được Chúa gửi đến cho chúng ta:
- Thông điệp về một TC giàu lòng
thương xót nơi Đức Giêsu. Ngài luôn khao khát
gặp gỡ con người, cho dù họ là người đang mang trong mình Virus của tội lỗi,
muốn chôn mình vào môi trường cách ly với Chúa và mọi người, như người phụ nữ
bên bờ giếng Gia-cóp hôm nay.
-Hãy can đảm phá bỏ những bức
tường ngăn cách để xây dựng chiếc cầu hiệp thông. Với sự hiện diện nơi vùng đất
Sa-ma-ri và khiêm tốn xin nước uống của người phụ nữ bên bờ giếng Gia-cóp, Chúa
Giêsu như muốn mời gọi mọi người hãy
can đảm phá bỏ những bức tường ngăn cách để xây dựng chiếc cầu hiệp thông của sự hiểu biết, cảm thông
và chia sẻ… Đây cũng là thông điệp mà Đức Thánh Cha
Phanxicô muốn gửi đến các quốc gia trong thời đại hôm nay (Giáo huấn của
ĐGH phanxicô tại Vatican, trong buổi yết kiến hôm 09/02/2017). Thời đại mà
chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai…xảy ra nhiều nơi. Tình trạng di dân bùng nổ
chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại, thì sự mở lòng để đón nhận và giúp đỡ
những người di dân là nhu cầu cấp thiết và mang tính nhân đạo cao quý hơn bao
giờ hết.
- Giá trị và phẩm giá của con
người cần được coi trọng. Qua việc ngồi lại bên bờ giếng Gia-cóp để đối
thoại với người phụ nữ đang mang trong người Virus tội lỗi, Chúa Giêsu muốn nói
rằng, giá trị và phẩm của con
người cần được coi trọng cho dù họ là tội nhân hay đang sống trong
tình trạng bệnh tật, già yếu… gây bất lợi cho xã hội, thì cũng đừng bao giờ xa
lánh và bỏ rơi họ trong cô đơn tuyệt vọng.
- Đừng mãi mê chạy theo những
đam mê dục vọng của xác thịt. Với
cách thức tiếp cận tiệm tiến, đi từ nhu cầu thể lý bên ngoài như xin nước uống
với người phụ nữ Sa-ma-ri, Chúa Giêsu đã tế nhị khơi lên nỗi khao khát sâu thẳm
bên trong tâm hồn của chị một nhu cầu khác quan trọng hơn đó là nhận biết chân
lý và lẽ sống đích thực. Qua đó, Chúa muốn nhắc nhở mọi người chúng ta đừng quá mãi mê chạy theo những đam mê dục
vọng của đòi hỏi xác thịt bằng mọi giá mà quên đi nhu cầu sâu thẳm
nơi tâm hồn, nơi đó Chúa đang âm thầm ngồi chờ đợi chúng ta. Chỉ khi nào gặp
được Chúa, ta thỏa mãn được mọi khát vọng. Như thánh Augustinô đã từng thốt lên
sau những ngày dài tìm kiếm vinh hoa phú quý và lạc thú ở đời: “Lạy
Chúa, Ngài đã dựng nên chúng con để hướng về Ngài, và tâm hồn chúng con
không nghỉ ngơi cho đến khi nghỉ yên trong Ngài”.
- Cần có cái nhìn tích
cực và tôn trọng về quyền tự do tín ngưỡng. Với việc khai mở cho người phụ
nữ hiểu biết về việc tôn thờ TC bây giờ không còn bị giới hạn trên núi này
hay tại Giêrusalem nữa, mà “đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng
Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Nhưng giờ đã đến, và
chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa
Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người
như thế.” Chúa muốn chúng ta có cái nhìn tích cực và tôn trọng hơn về quyền tự do tín ngưỡng và niềm
tin tôn giáo; cũng như đừng quá chú trọng đến việc thờ phượng TC bằng
hình thức bên ngoài mà quên đi tấm lòng bên trong như lời mời gọi của tiên tri
Gio-en: “hãy xé lòng chứ đừng xé áo.” (Ge 2, 13).
Nếu sứ điệp quan trọng của mùa
chay là sám hối-trở về, thì chúng ta cần trở phải về với lòng mình nơi có Thiên
Chúa hiện diện để nhận ra đời sống của mình còn những rào cản nào ngăn cách ta
với Chúa và tha nhân. Để xin Chúa giúp ta loại bỏ đi mọi bức tường ngăn cách để
đến với tha nhân và tìm về bên Chúa mà đắm mình trong nguồn nước ân sủng do
Chúa tặng ban, với mong muốn đổi mới cái nhìn, quan niệm và đời sống cho phù
hợp với thánh ý của Chúa. Có như vậy đời ta mới cảm nhận được hạnh phúc đích
thực mà tích cực thi
hành sứ vụ loan truyền niềm vui tin mừng cứu
độ của Chúa đến với mọi người theo gương người phụ nữ Sa-ma-ri hôm nay. Amen.
Suy niệm 2:
Tin Mừng hôm nay tường thuật cuộc đối
thoại tại bờ giếng Gia-cóp, giữa Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri
đại diện cho dân ngoại. Qua đó, Người đã từng bước mặc khải cho chị ta về
ơn cứu độ.
Đức Giê-su đã chủ động xin chị ta
nước uống vật chất, để sau đó hứa ban cho chị “Nước Hằng Sống”. Tiến trình đức tin nơi chị phụ nữ Sa-ma-ri
trong Tin Mừng như sau :
- Đầu tiên Đức Giê-su đi bước trước mở lời : “Cho tôi chút nước uống” (c.
7). Xin nước không phải cần nước uống, nhưng nhằm bắt một nhịp cầu vượt
qua hố ngăn cách giữa hai dân tộc Do thái và Sa-ma-ri. Tuy cùng là con
cháu của tổ phụ Gia-cóp, nhưng do hoàn cảnh lịch sử đã phân thành hai dân tộc
nghi kỵ nhau và không giao tiếp với nhau, như lời chị phụ nữ Sa-ma-ri nói với
Đức Giê-su : “Ông là người Do thái mà
lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri cho ông nước uống hay sao?” (c. 9).
- Sau đó, từ nước giếng vật chất,
Đức Giê-su đã từng bước mặc khải cho
chị ta về “Nước Hằng Sống” (c. 10). Chính do hiểu lầm hiềm
khích mà hai dân tộc Do thái và Sa-ma-ri đã chia rẽ nhau về đức tin : Người Do thái chỉ thờ Đức
Chúa tại Đền Thánh Giê-ru-sa-lem, đang khi người Sa-ma-ri lại muốn phải
thờ Đức Chúa tại núi Ga-ri-dim !
Còn theo Đức Giê-su : Người ta không được
giới hạn Thiên Chúa tại đền thờ vật chất tại Giê-ru-sa-lem hay trên núi
Ga-ri-dim. Thiên Chúa là Đấng vô hình như “Gió” và “Thần Khí”, sự thờ
phượng đúng đắn nhất là thờ Thiên Chúa trong “Thần Khí” và “Sự Thật” (c.
20-24).
- Phải thờ Thiên Chúa trong thần khí :
Ðức Giê-su nói : “Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ
phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật”. Ngày nay nhiều người
cũng đồng quan điểm khi chủ trương : “Đạo tại tâm”. Thánh Phao-lô cũng nói : “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Ðền Thờ
của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao” (1 Cr
3,17). Mỗi người tín hữu chúng ta hôm nay cũng cần xin ơn Chúa Thánh Thần giúp
ta thực thi đức tin bằng đức cậy là cầu nguyện dâng lễ; và bằng đức mến là phục
vụ tha nhân.
- Phải thờ Thiên Chúa trong sự thật :
Sự thật là chính Đức Giê-su như Người đã
tuyên bố : “Thầy là con đường, là sự thật
và là sự sống” (Ga 14,6). Ma quỷ là cha của sự dối trá và các môn đệ của Đức
Giê-su phải tránh dối trá như các đầu mục dân Do thái đã bị Đức Giê-su quở
trách : “Cha các ông là ma quỷ, và các
ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát
nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói
dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian
dối” (Ga 8,44). Còn Thiên Chúa của chúng ta thờ là Thiên Chúa của sự thật,
vì thế, những kẻ gian dối, sẽ không thể gặp được Ngài là Sự Thật. Do đó mỗi người
chúng ta cần có một lương tâm ngay thẳng: “Có
thì nói có, không thì nói không.” (Mt 5,36), không quanh co,
lươn lẹo, gian dối, nói một đàng làm một nẻo… thì mới có thể gặp gỡ Ngài.
Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su cũng muốn nói đến sứ vụ của người tín hữu như sau : “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Ai uống nước tôi cho, sẽ
không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy
một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”? (Ga 4,13-14).
Cũng như ông Phi-lip-phê sau khi đã gặp và tin Đức Giê-su, liền đi tìm bạn mình
là Na-tha-na-en để chia sẻ niềm tin (x. Ga 1,45); Ma-ri-a Ma-đa-lê-na sau khi gặp
Chúa Phục Sinh cũng vội đi tìm các môn đệ để loan báo Tin vui gặp Chúa Phục
Sinh (x. Ga 20,18); Người phụ nữ Sa-ma-ri-a trong Tin Mừng hôm nay sau khi gặp
gỡ và tin Đức Giê-su, cũng đã chạy vội về làng loan báo cho mọi người : “Đến mà xem : có một người đã nói với tôi tất
cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?” (Ga 4,29). Mọi
người nghe lời chị nói đã kéo nhau đến gặp Đức Giê-su và mời Người vào ở trọ
trong làng của họ. Sau khi nghe giảng và tin Người là Đấng Thiên Sai, họ đã khẳng
định niềm tin qua câu nói : “Không còn phải
vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết Người
thật là Đấng cứu độ trần gian.” (Ga 4,42).
- Phải làm gì để thi
hành sứ vụ loan báo tin mừng có hiệu quả?
- Trong những ngày Mùa Chay
này, chúng ta cần dành nhiều thời gian để đến gặp gỡ Chúa
Giê-su trong thánh lễ, qua các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, các giờ
kinh tối gia đình… Nhờ đó chúng ta sẽ có một nguồn suối làm thỏa mãn
cơn khát nội tâm, và làm cho lòng chúng ta trở thành một mạch nước
mới dẫn đến ơn cứu độ.
- Cần hãm mình ăn chay để có điều kiện
làm nhiều việc bác ái yêu thương như phương thế truyền giáo hữu hiệu trong hoàn
cảnh xã hội hôm nay : Đức Thánh Cha Phao-lô VI đã khẳng định : “Trong thế
giới hôm nay người ta cần những chứng nhân hơn là thầy dạy và nếu họ có nghe thầy
dạy thì thầy dạy đó cũng là chứng nhân”.
Xin Chúa biến đổi chúng ta trong Mùa
Chay này, cho chúng ta gặp được Chúa trong thánh lễ, những buổi tĩnh
tâm và qua những người nghèo khó …
Xin cho chúng ta được uống Nước
Hằng Sống là Lời Chúa và
bí tích Thánh Thể. Nhờ đó, cuộc đời của chúng con sẽ
vui tươi hạnh phúc hơn.
Xin cho chúng ta quảng đại tha thứ,
quên mình phục vụ và luôn đi bước trước đến với tha nhân, như Chúa đã
đi bước trước bắt chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri trong Tin Mừng hôm nay.
Amen.
(Viết theo tư tưởng
của Lm Đan Vinh)
Suy niệm 3:
Để hiểu phần nào về sứ điệp của bài tin mừng hôm nay,
chúng cần tìm hiểu một chút về dòng lịch sử của đất nước Do Thái.
Lịch sử ghi lại vào năm 922 TCN, Giê-rô-bô-am, người không thuộc hoàng tộc
Đavid, đã đứng lãnh đạo
cuộc nổi loạn cùng với mười bộ tộc phương Bắc và thành lập nên vương quốc Israel
lấy thủ đô là Samaria và thờ Chúa ở trên núi Garizim.
Còn lại hai
bộ tộc là Giu-đa và Ben-gia-min trung thành với hoàng tộc
Đavid lập thành vương quốc Giuđa ở phương Nam, vẫn tôn thờ Thiên
Chúa ở Giêrusalem, và cũng lấy Giêrusalem làm thủ đô.
Từ đó mới có sự mâu thuẩn về tôn giáo giữa
vùng miền. Năm 720 TCN, vương
quốc Israel phương Bắc bị xâm lăng bởi Đế quốc Assyria. Tất cả mười bộ tộc
của vương quốc Israel phương bắc bị giết và bị bắt đi lưu đày. Nhưng cũng có một số người ở lại. Quân Assyria đến ở đất
Samari, lấy vợ người Do Thái rồi sinh con đẻ cái. Từ đó người Do Thái thuần
chủng ở Giuđê không còn xem những người Do Thái ở Samari là đồng bào của mình
nữa.
Trong mắt họ những
người ở phương Bắc là dân ngoại. Đôi bên nuôi mối hiềm khích lẫn nhau mãi đến
thời Đức Giêsu vẫn còn. Nên họ không qua lại nhau vì sự khác biệt về vùng miền
và sắc tộc.
Còn lại vương quốc
Giuda phía Nam thì tồn
tại lâu hơn trong sự lệ thuộc vào người Assyria, nhưng cuối cùng vương
quốc này cũng bị các
đạo quân xâm lăng Babylon hủy diệt vào năm 586 TCN. Thành phố Giêrusalem bị tàn
phá, Ngôi Đền Giêrusalem bị san bình địa, dân nước Giuđa một phần bị giết, một
số bị bắt đi lưu đầy sang
Babylon. Sự kiện này đánh dấu lần ly tán thứ nhất của dân tộc Do Thái cổ và
cũng đánh dấu sự kết thúc thời kỳ được sách vở gọi là “Ngôi Đền thứ Nhất”
(825-586 TCN).
Nhìn vào bố cảnh lịch sử ấy ta mới hiểu được lý do tại sao người Do Thái bản gốc và người ở vùng Sa-ma-ri đối địch không qua lại với nhau, cũng như tại sao có chuyện thờ lạy Thiên Chúa ở trên núi Ga-ra-zim và thờ lạy Thiên Chúa ở Giê-ru-sa-lem.
Đức Chúa Giê-su đã vượt qua mọi ràn cản và đã đi bước trước đến vùng ngoại biên và gặp gỡ với những người khác biệt. Ngài chủ động bắt chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri và khiêm tốn xin chị ta cho nước uống. Qua cuộc đối thoại với người phụ nữ Samari Ngài muốn phá tan những bức từng ngăn cách giữa hai người và giữa các dân tộc. Ngang qua cuộc gặp gỡ, Đức Giêsu đã mặc khải cho người phụ nữ biết Ngài chính là Đấng Mê-si-a, là Đấng mà các tiên tri đã loan báo và chĩ đã tin vào Ngài.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã từng kêu gọi thế giới hãy phá bỏ những bức tường ngăn cách để xây nên những nhịp cầu. Chung quanh chúng ta còn có những anh chị em xa lạ với chúng ta vì thiếu sự hiểu biết, bởi trong cuộc sống chúng ta còn ngần ngại bước ra khỏi chính mình để đi đến gặp gỡ, thăm hỏi và đối thoại với họ. Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy can đảm bắt lại những nhịp cầu hữu nghị với những người còn xa cách, ngay cả những người không cùng niềm tin và tín ngưỡng với chúng ta. Đó là bí quyết truyền giáo của Đức Chúa Giê-su chỉ dạy. Đức Giê-su dẫu là Thiên Chúa làm người nhưng Ngài đã không ngần ngại hạ mình xuống để ra đi gặp gỡ và trò chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri lăng loàn, trắc nết. Ngài không hề chỉ trích chị, cũng không hề khinh khi xúc phạn đến chị hay dân thành Sa-ma-ri ngoại lai. Trái lại Đức Giê-su đã gần gủi, cảm thông và mở lòng ngồi xuống chuyện trò với chị, nhờ vậy mà chị đã mở lòng để mạnh dạn bày tỏ những suy nghĩ và nói niềm sâu lắng lòng mình. Nhờ nghe được những giải đáp của thầy Giêsu, chị đã lần nhận ra chân lý và đã tin vào Ngài là Đấng Kitô.
Trong đời sống có nhiều người thích tự giới thiệu về mình cách khoe khoang, lên mặt dạy đời hay chê bai những khuyết điểm của người khác hơn là gợi lên những điều hay điểm tốt của họ, điều này khiến cho nhiều người có ác cảm và không muốn gần gủi gặp gỡ chúng ta.
Vậy để loan báo tin mừng có hiệu quả, ta cần phải noi gương Đức Giê-su can đảm đi bước trước đến với tha nhân với thái độ khiêm tốn cởi mở và chân thành.
Mùa chay mời gọi chúng ta trở về để sống tình hiệp thông với Chúa, với tha nhân và chính mình. Vậy ngoài việc cầu nguyện, ăn chay hãm mình, chúng ta còn phải biết dẹp bỏ những rào cản để mạnh dạn ra đi đến gặp gỡ anh chị em mình để thăm hỏi, chia sẻ cảm thông và nâng đó nhau trong đời sống, đó chính là phương thế loan báo tin mừng hữu hiệu trong hoàn cảnh xã hội hôm nay, bởi như Đức Thánh Cha Phao-lô VI đã khẳng định : “Trong thế giới hôm nay người ta cần những chứng nhân hơn là thầy dạy và nếu họ có nghe thầy dạy thì thầy dạy đó cũng là chứng nhân”.
Thứ hai: Lc 4,24-30.
Chúa Giêsu đến trần gian là để cứu độ hết mọi người, vì ơn cứu độ là ơn phổ
quát. Vì thế, không phải cứ là đồng hương hay đạo dòng là được Chúa ưu ái cứu
độ. Trái lại, để được Chúa yêu thương cứu độ, đòi hỏi con người phải tin và
sống niềm tin của mình. Xin cho chúng ta biết hết lòng tin yêu Chúa và nỗ lực
làm theo lời Chúa dạy để xứng đáng đón nhận ơn cứu độ Chúa ban.
Quen quá, hóa nhàm. Gần chùa gọi bụt bằng anh. Đó thái độ của những người
đồng hương với Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay.
Đối với những người Do Thái nói chung và dân làng Nazaret nói riêng, Đấng
cứu độ phải là người siêu quần bạt chúng, thuộc dòng dõi Đa-vít, sinh ở một nơi
quyền quý cao sang và phải là Đấng oai phong lẫn liệt, chứ không phải là một
Đấng tầm thường, sinh ra trong gia đình nghèo nàn chẳng có danh phận gì như Đức
Giêsu.
Từ thành kiến sai lạc, đưa đến thái độ hoài nghi rồi dẫn đến thử thách
Chúa. Họ thử thách bằng cách đòi hỏi Chúa Giêsu làm phép lạ như đã làm ở những
nơi khác, nhằm minh chứng uy quyền của Người, họ mới tin nhận. Trước thái độ
hoài nghi, (bụt nhà không thiêng) của những người đồng hương Nazaret, Chúa
Giêsu không thể làm gì ngoài việc kể lại cho họ nghe hai câu chuyện thời xưa.
- Vào lúc trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội
nhưng tiên tri Êlia không giúp người nào trong bọn họ cả, mà lại giúp bà góa
ngoại giáo ở Xa-rép-ta.
- Và trong lúc nhiều người bị phong cùi, nhưng không ai được tiên tri
Ê-li-sê chữa lành, chỉ ngoại trừ ông Na-a-man, người ngoại xứ Xy-ri-a.
Nghe hai câu chuyện đó dân làng Nazaret hiểu Chúa Giêsu ám chỉ họ, nên họ
bực tức, định đẩy Người lên núi rồi xô Người xuống vực sâu, nhưng Người bỏ họ
mà đi.
Vì thành kiến nên họ đóng khung Thiên Chúa theo quan niệm sẵn có trong đầu
họ. Chính quan niệm sai lầm đưa đến hậu quả nguy hại là không còn khả năng đón
nhận ơn Chúa. Thành kiến làm cho chúng ta ra mù quáng, không còn nhận định và
phê phán khách quan đúng đắn được. Thành kiến cũng làm cho chúng ta không thể
đối thoại cởi mở với nhau.
Xin cho chúng ta biết loại bỏ những thành kiến của mình về người khác, để
luôn có cái nhìn ngay thẳng và trong sáng, một nhận xét chân thành và đời sống
cởi mở. Loại bỏ được thành kiến, ta sẽ nhận ra tình thương cứu độ của Chúa dành
cho mọi người không riêng cho ai cả. Chỉ cần mở lòng chấp nhận, tin tưởng Người
thì có thể đón nhận được ơn cứu độ.
Xin Chúa cho chúng ta đừng bao giờ ỷ lại mình là người có đạo mà lơ là sống
niềm tin. Trái lại xin cho chúng ta luôn giữ vững niềm tin, sống chết cho niềm
tin bằng cách tích cực thi hành Lời Chúa dạy, nhờ thế ta xứng đáng đón nhận
được tình yêu và ơn cứu độ Chúa thương ban.
Thứ ba: Mt 18,21-35.
“Lấy oán báo oán, oán chồng chất. Ngược lại lấy đức báo oán, oán tiêu tan”.
Ai trong chúng ta lại không lầm lỗi thiếu sót. Ai trong chúng ta lại không hơn
một lần làm xúc phạm đến tha nhân. Chúng ta hãy lấy tình thương hóa giải hận
thù, lấy lòng bao dung mà tha thứ lỗi lầm cho nhau, như chính Chúa bao dung và
hằng tha thứ cho ta. Đó chính là sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta.
Khi muốn nói một điều khó nói, người ta dùng câu chuyện. Khi muốn diễn tả
một điều gì đó khó diễn tả, người ta lại dùng câu chuyện. Khi diễn đạt một chân
lý sâu sắc mà không ngôn từ nào nào lột tả hết, người ta hay dùng đến câu
chuyện. Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dùng câu chuyện dụ ngôn để trình bày
về tình thương tha thứ của Chúa và mời gọi con người bao dung tha thứ luôn mãi
cho nhau. Đó là một người mắc nợ vua mười ngàn nén bạc, số nợ rất lớn y không
có gì để trả. Ông van xin và được nhà vua tha hế cho anh. Vừa được tha, khi ra
về anh ta lại gặp người bạn mắc nợ anh ta không bao nhiêu chỉ một trăm quan
tiền. Nhưng ông không tha, mặc cho người ấy hết lời van xin. Ông lại bắt tù bạn
mình. Câu chuyện tới tai nhà vua, vua thịnh nộ bắt giam anh ta cho đến khi trả
hết đồng xu cuối cùng. Nhà vua chính là Thiên Chúa. Dù con người xúc phạm,
thiếu nợ Thiên Chúa rất nhiều và thường xuyên, nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha
thứ. Còn chúng ta dù tha nhân đôi khi vô tình hay hữu ý xúc phạm nhỏ đến ta, ta
lại khắc khe không tha thứ.
Con người là con vật có xã hội tính. Không ai là một hòn đảo. Chúng ta sống
là sống với, sống cùng, sống cho và sống vì người khác. Cuộc sống chung trong
xã hội giúp ta thăng tiến và phát triển nhiều phương diện. Tuy nhiên đời sống
chung cũng có khi gây nên không ít phiền hà, làm khổ cho nhau. Bởi bá nhân bá
tính. Nhưng trong thẳm sâu lòng mỗi người vẫn là lòng bao dung tha thứ. Sự tha
thứ không chỉ một lần, ba lần nhưng Chúa dạy chúng ta phải tha thứ luôn mãi,
tha thứ không ngừng. Tha thứ cho nhau không là chuyện dễ, rất khó khi phải tha
thứ hoài. Như để thực hiện được sự tha thứ cho nhau theo như ý muốn của Chúa ta
cần ý thức: Trước mặt Chúa ta là con người đầy tội lỗi thường xuyên xúc phạm
đến Chúa, nhưng được Chúa thứ tha luôn. Không ai hoàn hảo, chính ta cũng có
nhiều sai sót, lầm lỗi với anh em. Nên ta cần thông cảm tha thứ lỗi lầm cho anh
em. Đừng bao giờ nhìn vào sức nặng của xúc phạm, nhưng hãy nhìn vào tình thương
của Thiên Chúa và nhìn vào cuốn sổ ghi lỗi của mình. Thù hận, bất hòa chỉ gây
đau khổ và bất an cho chính ta mà thôi. Tha thứ hoà giải chúng ta sẽ cảm nhận
niềm vui và hạnh phúc.
Trong mùa chay chúng ta hãy duyệt xét lại các mối tương quan của mình với
tha nhân. Nếu thấy có điều bất hòa, chúng ta hãy hòa giải và tha thứ cho nhau
để xứng đáng được Chúa thương tha tội cho ta.
Suy niệm 2:
Khi suy nghĩ về lòng thương xót Chúa, nhiều lúc ta
tự hỏi: lòng thương xót của Thiên Chúa đạt đến đỉnh điểm
khi nào?
Có phải khi Chúa Giê-su hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn?
Có phải khi Chúa Giê-su bôn ba rao giảng Tin mừng?
Hay khi Chúa Giê-su xua trừ ma quỷ và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền
cho dân?
Hoặc là khi Chúa Giê-su làm cho kẻ chết sống lại?
Câu trả lời đúng nhất là: Lòng thương xót của Thiên Chúa được thực
hiện ở mọi nơi và mọi lúc, nhưng có lẽ lòng thương xót ấy đạt tới đỉnh
điểm trên thập giá khi Chúa Giêsu khẩn xin lòng tha thứ của Chúa Cha dành
cho tất cả những ai hận thù và nhẫn tâm ra tay giết chết Người: "Lạy
Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23,34).
Đúng vậy, tha thứ cho những ai hận thù, ghét bỏ và làm hại
mình chưa bao giờ dễ dàng! Nhưng Chúa Giêsu vẫn rộng lòng thứ tha và
mời gọi ta thứ tha.
Ông cha ta thường nói: “Quá tam 3 bận”. Giới hạn tối đa của việc tha
thứ theo tiêu chuẩn con người được định mức ở con
số 3. Nhưng Chúa lại bảo với Phêrô và tất cả chúng
ta không dừng ở con số 3 hay số 7 mà phải là 70 lần 7, nghĩa là tha
hoài tha mãi. Đúng là không tưởng đối với khả năng giới hạn của
con người.
Vậy thì làm thế nào để chúng ta có thể thực hiện được điều
mà Chúa Giêsu đòi buộc?
- Thưa, trên hết ta cần phải có ơn ban của Chúa, vì
Chúa Giêsu đã phán: “Đối với TC, không gì là không thể làm được” (Lc
1,37).
- Thứ hai, ta phải ra sức tập luyện. Nếu một khi ta can đảm tha
thứ cho ai đó làm hại chúng ta được một lần, thì hy
vọng ta sẽ có kinh nghiệm tha thứ lần hai, thứ 3... và như vậy trở
thành thói quen giúp ta có thể dễ dàng tha thứ nhiều lần.
- Thứ ba, hãy luôn nghĩ đến sự tha thứ lớn lao của Thiên Chúa,
là Đấng Tạo Hoá, vậy mà Người luôn yêu thương và sẵn lòng tha thứ mãi cho
chúng ta là thụ tạo bé nhỏ, yếu đuối và đầy tội lỗi. Khi suy
nghĩ như vậy, sẽ giúp ta dễ cảm thông và tha thứ cho nhau trong đời sống.
- Cuối cùng, ta hãy hiểu rằng: khi tha thứ cho người khác cũng
đồng nghĩa là ta tha thứ cho chính bản thân
mình. Nuôi dưỡng hận thù và trả đũa sẽ làm cho tâm hồn ta bất an
và đau khổ. Còn khi ta biết buông bỏ và tha thứ sẽ làm cho tâm hồn ta được
bình an và cuộc sống ta có được niềm vui.
Tha thứ được ví như liều thuốc mát hay loại kem dưỡng
da tuyệt hảo khi xoa vào tâm hồn sẽ làm cho cơ thể ta mát mẻ, dễ chịu, nhờ
đó mà những vết hằn và nếp nhăn nheo trên khôn mặt ta
sẽ trở nên mịn màn, hồng hào và tươi đẹp rạng ngời.
Xin Chúa ban cho chúng ta cảm nhận được lòng thương xót của Chúa,
cũng như những ích lợi của việc tha thứ, để ít là trong mùa chay thánh
này, ta biết sẵn sàng tha thứ cho những ai vô tình hay cố ý xúc phạm
đến ta, với mong muốn chúng ta được xứng đáng đón nhận sự tha thứ của
Chúa. Amen.
Thứ tư: Mt 5,17-19.
Chúa Giêsu đến trần gian không phải để phá hủy lề luật và lời các tiên tri,
nhưng là để kiện toàn. Xin cho chúng ta hết lòng tuân giữ luật Chúa và Giáo
huấn Giáo hội dạy bảo; đồng thời cũng giúp mọi người yêu mến và tuân giữ.
Những cuộc họp của quốc hội Việt Nam những năm gần đây được đánh giá là có
nhiều tiến bộ và dân chủ. Nhiều dự luật mới được đệ trình để quốc hội và nhân
dân bàn thảo, nhiều luật cũ được đặt lại để chỉnh sửa cho hoàn chỉnh hơn theo
hoàn cảnh xã hội, cũng như theo tinh thần chung của quốc tế. Sở dĩ có những sửa
đổi và đệ trình những luật mới như thế cũng đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích
cho con người (có thể cho một nhóm người nào đó hay cho tất cả mọi người).
Nhưng càng phục vụ lợi ích cho nhiều người bao nhiêu thì giá trị của luật ấy
càng có giá trị cao bấy nhiêu.
Bất cứ xã hội nào, đất nước nào, tập thể nào, gia đình nào dù lớn hay nhỏ
đều có những quy định và luật lệ của nó. Chính những quy định luật lệ sẽ đem
lại tính ổn định xã hội và bảo vệ quyền lợi cho con người.
Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu khẳng định: “Anh em đừng tưởng Thầy đến
để bãi bỏ luật Môisê hoặc các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng
để kiện toàn…”. Như thế đã có sai lạc nào đó về quan niệm, cách thế giữ
luật của những người Biệt Phái nên Chúa Giêsu mới kiện toàn. Cần xác định lại những
yếu tố cần thiết của luật:
Mục đích của luật: là nhằm đem lại lợi ích cho con người. Nếu luật nào
không mang đến lợi ích cho con người thì xem như không cần thiết nữa. Ăn chay,
cầu nguyện, bố thí là những phương tiện nhằm giúp con người nâng cao tâm hồn,
liên kết mật thiết với Chúa và sống tình thân với nhau. Nếu luật ăn chay, cầu
nguyện và bố thí không mang lại những giá trị trên, trái lại chỉ nhằm để lé mắt
thiên hạ thì tốt nhất không nên giữ làm gì. “Ngày Sabbát được tạo nên
cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabbát” (Mc 2,27).
Ưu tiên của luật: Thiên luật là luật do Thiên Chúa ban thì trên hết và mọi
người đều phải tuân giữ; còn nhân luật là luật do con người làm ra thì có tính
tương đối vì bị điều kiện hoá bởi các hoàn cảnh thời gian, không gian, nền văn
hoá… Luật của con người thì có thể thay đổi và cần được thay đổi, nhưng luật
của Thiên Chúa thì bất biến. Chính vì thế cần phải ưu tiên tuân giữ luật của
Thiên Chúa, khi nhân luật và thiên luật đòi buộc cùng lúc. Khi người ta nói đến
chuyện Môsê cho phép ly dị thì Chúa Giêsu đã khẳng định sự bất cập của nhân
luật và Người tái khẳng định sự bất biến và tính bó buộc của thiên luật về hôn
nhân bất khả phân ly (x.Mt 19,1-9; Mc 10,1-12).
Tinh thần giữ luật: Rất nhiều lần Chúa Giêsu phê phán thái độ giữ luật bằng
hình thức bên ngoài mà thiếu sự chân thành bên trong tâm hồn. Người đã dùng
hình ảnh “mả tô vôi”, bên ngoài thì đẹp đẽ nhưng bên trong thì tanh hôi, để ví
nhiều người giữ luật theo kiểu này. Người cũng đã dùng lời sứ ngôn Isaia để nhắc
nhớ họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa
Ta” (x. Mt 15,7-8). Loài người chúng ta trong thân phận hữu hình thì
các hành vi bên ngoài luôn có tính cần thiết như tất yếu. Tuy nhiên chính cái
tấm lòng, cái ý hướng bên trong mới quyết định giá trị tốt xấu các hành vi bên
ngoài.
Yêu thương là trên hết: Chúa Giêsu đã nhiều lần minh định về giới
răn: “Kính mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí
khôn, đồng thời yêu thương tha nhân như chính mình” (x. Mt 22,34-40;
Mc 12,28-34; Lc 10,25-28). Trong tình yêu, khi bỏ qua, không làm một điều tích
cực trong khả năng và hoàn cảnh thì đã làm một điều tiêu cực mà thậm chí là xấu
xa. Nhiều người phải trầm luân đời đời vì khi còn sống đã không làm những việc
lành, việc tốt, việc phải làm cho một trong những kẻ bé mọn (x.Mt 25,31-46).
Mùa chay là dịp tốt để ta duyệt xét lại đời sống đạo qua cách thức giữ
luật. Xin Chúa cho chúng ta không giữ luật bằng những hình thức bên ngoài, mà
còn phải trung thành giữ luật bằng tấm lòng yêu mến.
Suy niệm 2:
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho các môn đệ cũng như chúng ta biết thêm về
lý do quan trọng mà Ngài đến trần gian này là:“không phải hủy bỏ lề
luật hay các tiên tri, nhưng là để kiện toàn”.
Do tác động thay đổi của xã hội qua dòng thời gian, nhất là vào thời Chúa
Giêsu, các nhà lãnh đạo tôn giáo đã có sự giải thích sai lệch về lề luật Chúa
nên cần phải kiện toàn.
Luật của Chúa được ban cho nhân loại xuyên qua dân tộc Do Thái, bởi
trung gian là ông Môsê. Luật đó được gìn giữ và bảo tồn qua thời các ngôn
sứ. Nhưng đến thời Chúa Giêsu, luật Chúa được trao quyền cho các kinh sư giải
thích và hướng dẫn cho dân chúng. Thay vì giúp người dân hiểu biết rõ về luật
Chúa cũng như tinh thần đúng đắn phải có khi tuân giữ luật Chúa, thì trái lại
các ông lại thêm thắc vào đó quá nhiều chi tiết từ 10 điều lên đến 613 điều
khoản, khiến cho dân chúng rối ren không còn phân biệt đâu là điều chính đâu là
điều phụ nữa.
Hơn nữa các ông lại quá chú trọng đến hình thức bên ngoài làm cho người dân
có cảm giác luật Chúa quá nặng nề bởi những ràng buộc vượt quá khả năng của họ.
Nên khi rao giảng, Chúa Giêsu đã nhiều lần đả kích lối sống vị luật của người
Pharisêu; cũng như cảnh báo về mối nguy hiểm của những gánh nặng mà dân chúng
phải chịu do các kinh sư chất chồng lên vai họ. Có lẽ vì đó mà nhiều người
tưởng rằng Chúa Giêsu muốn phá bỏ lề luật và các tiên tri.
Để chỉnh sửa lại ý nghĩ sai lệch ấy, Chúa Giêsu đã khẳng định với các môn
đệ về lý do mà Ngài đến thế gian này đó là nhằm để kiện toàn lề luật. Vậy
Chúa muốn kiện toàn điều gì?
- Trước hết Chúa Giêsu kiện toàn về nội dung văn bản của luật: Phải giữ
nguyên trạng giới luật của Chúa, dù một chấm, một phẩy cũng không được thay đổi
hay bỏ sót.
- Thứ đến Chúa kiện toàn về hình thức thi hành luật: Nếu các kinh sư và
người Pharisêu quá chú trọng bởi hình thức bên ngoài thì Chúa Giêsu nhấn mạnh
đến trọng tâm giữ luật bên trong. Việc giữ luật chỉ có giá trị đích thực khi nó
xuất phát từ trái tim và tấm lòng.
- Cuối cùng Chúa Giêsu kiện toàn về tâm tình phải có khi giữ luật:
Việc giữ luật không phải vì lo sợ. Sợ không giữ thì bị Chúa phạt; lo vì
nếu không thi hành luật sẽ bị người đời khinh thường và lên án… nếu mang nặng
tâm lý ấy thì quả thật luật trở nên gánh nặng đáng sợ cho đời sống con người.
Điều mà Chúa Giêsu mong muốn là mọi người hãy tuân giữ luật với tấm lòng
yêu mến. Chính lòng mến Chúa chân thành sẽ giúp ta cảm thấy vui tươi, thoải mái
khi thi hành luật Chúa; và nhờ động lực tình thúc đẩy mà chúng ta không còn sợ
hãi do những ràn buộc của luật lệ nữa.
Mong cho mỗi người trong chúng ta hiểu được rằng: vì không muốn nhân loại
phải đi lạc đường nên Chúa mới ban truyền lề luật để hướng dẫn.
Xin Chúa cho chúng ta cảm nhận được tình thương lớn lao ấy của Chúa mà
trung thành tuân giữ luật Chúa và GH chỉ dạy với tất cả tấm lòng trân quý và
yêu mến của mình.
Suy niệm 3: Kiện Toàn Lề Luật
Một
thanh niên đi xem bóng đá với cha sở, nói với cha rằng: anh không
thích vâng phục ai hết. Anh nói : “Thưa cha, con rất ghét ai đó bảo phải
thế này, thế nọ. Nghe theo họ là con không có tự do”.
Cha
sở không nói một lời. Liền sau đó, họ gặp một biển chỉ đường đi tới sân bóng, nhưng cha sở làm như không thấy. Chàng ta mới la lên : “Chúng ta đã đi sai
đường ! Thưa cha, cha không thấy bảng chỉ đường đằng kia à !”.
Cha
sở bình tĩnh trả lời : “Cha thấy chứ, nhưng cha nghĩ đường này xem ra tốt
hơn, và cha cũng ghét bị chỉ bảo phải đi đường này hay đường kia. Nó không cho
cha được tự do hành động”.
Chàng
thanh niên giờ mới nhận ra bài học, rồi lặng thinh và cùng cha sở đi vòng trở lại để
vào sân bóng.
Con
người thời nay, cách riêng giới trẻ hình như không thích nói đến “luật lệ” vì
cho rằng luật lệ gò bó tự do mình. Nên họ cảm thấy dị ứng mỗi khi nói đến luật
lệ.
Chính
Đức Giêsu cũng nhiều lần đả phá chủ trương vị luật. Ngài kịch liệt công kích
những người Pharisêu vì họ chủ trương sống “vị luật”.
Tuy
đả phá tinh thần vị luật nhưng Ngài không hề phá bỏ lề luật : “Ta
đến không phải để huỷ bỏ lề luật mà để kiện toàn.” (Mt 5,17).
Ngài
kiện toàn luật thế nào ? Thưa bằng cách chỉ cho chúng ta thấy
được “trái tim” của lề luật chính là thương yêu. Ngài tóm lược tất cả mọi lề
luật vào 2 khoản luật căn bản là “mến Chúa và yêu người.”
Thánh
Augustinô đã hiểu như thế, nên đã nói : “Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì
làm.”
Chính
Đức Giêsu đã nêu gương giữ luật với tất cả tấm lòng yêu thương ấy.
Vì yêu mến lề luật và “vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà
tôi đây sẽ phải thiệt thân”.
Chúa
muốn chúng ta tuân giữ lề luật không phải vì sợ Chúa phạt, mà vì ta yêu mến
Chúa.
Cũng
vậy, chúng ta giữ luật không phải để được Chúa yêu, mà vì biết được Chúa đã yêu
ta trước.
* Đọc thêm:
Tin mừng hôm nay, thánh Matthêu cho biết Chúa Giêsu đã kiện toàn khá nhiều
luật lệ như: luật giết người, luật hôn nhân, luật làm chứng…
1. Kiện toàn luật giết người:
Giết người thì ở đâu và thời nào cũng là tội nặng, vì Chúa mới là chủ sự
sống. Đó là công lý. Lời Chúa dạy bảo trong bài Tin Mừng hôm nay còn vượt trên
công lý nữa. Công lý hay luật pháp chỉ buộc tội khi một người phạm tội bằng
hành vi cụ thể. Còn Chúa thì đi xa hơn, Chúa ngăn chặng ngay từ nguyên nhân,
nguồn gốc đưa đến tội giết người.
Vì thế, “Ai giận anh em mình thì đáng bị tòa xét xử, ai mắng chửi
anh em là đồ ngốc thì sẽ bị lên án trước công nghị và ai mắng chửi anh em mình
là khùng thì đáng lửa trầm luân”.
Đúng như lời Chúa nói: Giận dỗi chính là nguyên nhân đưa đến tội giết
người. Vì khi ta giận ai là ta muốn cho người đó khuất mắt ta; ta không muốn
người đó hiện diện trên cõi đời này nữa. Cho nên giận như vậy thì chẳng khác
nào giết người không dao.
Cũng thế, khi ta mắng chửi anh em là đồ ngốc là khùng thì chẳng khác nào ta
xem thường anh em mình, để rồi hạ thấp họ xuống hàng con vật, không đáng là
người nữa. Hành vi như thế là chiếm đoạt quyền phán xét của Thiên Chúa, nên
đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt.
Như vậy, để khỏi bị Thiên Chúa luận phạt và kết án, Chúng ta phải có lòng
quảng đại tha thứ. Tha thứ là điều kiện để tôn vinh Thiên Chúa một cách xứng
đáng: "Nếu ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ anh em đang có
điều bất bình với ngươi, hãy đặt của lễ trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh
em trước, rồi hãy đến mà dâng của lễ.". Tha thứ là cách ta hàn gắn
lại những vết thương lòng của ta và cho tha nhân. Tha thứ cũng là cách chúng ta
bắt đầu lại mối tương quan tốt đẹp với anh em mình.
Xin Chúa cho chúng con biết giữ tâm hồn và môi miệng cẩn trọng để khỏi sa
vào tội giết người không gươm. Xin Chúa cũng dạy chúng con biết yêu thương và tha thứ, như Chúa
đã từng yêu thương và tha thứ cho chúng con. Amen.
2. Kiện toàn luật hôn nhân:
Chúa Giêsu tiếp tục kiện toàn giới luật một vợ một chồng. Để tránh đi tình
trạng đỗ vỡ trong đời sống hôn nhân, chẳng những Chúa Giêsu cấm không được li
dị mà Chúa còn ngăn chặn ngay cả nguyên nhân sâu xa đưa đến tình trạng bất
trung trong đời sống hôn nhân nữa. “Anh em đã nghe Luật dạy rằng:
chớ ngoại tình, còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : ai nhìn người
phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi…” (Mt
5: 27-28).
Như thế là dù chỉ thèm muốn trong lòng vợ hay chồng của người khác thì
đã phạm tội ngoại tình trong tư tưởng rồi; vì trong lòng đã nuôi dưỡng ước muốn
sai trái. Từ đó sẽ dễ dẫn đến hành động phản bội tình nghĩa vợ chồng.
Có thể nói mọi tội lỗi con người phạm, đều xuất phát từ trong lòng. Do đó,
muốn tránh tội thì phải dứt khoát từ bỏ ước muốn bất chính ngay trong lòng.
Nhưng để tránh được ước muốn bất chính trong lòng, chúng ta cần phải giữ gìn
đôi mắt. Đôi mắt là của sổ tâm hồn nên mọi điều tốt xấu muốn vào được căn nhà
tâm hồn đều phải qua cửa sổ của đôi mắt.
E-va chính vì đã không gìn giữ được đôi mắt nên đã hướng cái nhìn về trái
cấm và đã nuôi dưỡng trong lòng sự thèm muốn. Từ ước muốn ấy bà đã cả lòng
đưa tay hái trái cấm ăn, dầu biết rằng hành động ấy là phạm tội bất trung với
Chúa.
Ða-vít cũng vì không giữ được đôi mắt nên đắm đuối nhìn người phụ nữ khỏa
thân và có ước muốn khoái lạc. Từ đó đưa đến những hành vi tội ác:
ngoại tình và giết người giấu tay.
Lạy chúa xin giúp chúng con biết gìn giữ đôi mắt luôn có cái nhìn trong
sáng và can đảm dứt bỏ những nguyên nhân làm cớ chúng con lỗi đức trong sạch,
cho dù đó là một phần của cơ thể như: là mắt, là tay... bởi vì Chúa đã phán:
"thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hỏa
ngục".
3. Kiện toàn về luật làm chứng:
Trong cuộc sống, ta thường nghe được những luồng thông tin khác nhau về một
sự kiện nào đó xảy ra trong xã hội, cũng như trong Giáo Hội. Có những thông tin
chính thống cần tin theo. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi, phe nhóm và thế lực
của mình cũng không ít những thông tin sai lạc, ta cần phải dè chừng.
Hằng ngày trên báo chí, truyền thanh, truyền hình ta bắt gặp rất nhiều
thông tin quảng cáo nhằm thu hút khách hàng và lợi nhuận. Bên cạnh
những thông tin thật cũng có nhiều thông tin không thật. Sống trong một xã
hội mà phải liên tục đề phòng hàng giả, người giả, thông tin giả thật là bất
an.
Chắc chắc ai trong chúng ta cũng không muốn điều ấy xảy ra. Nhưng rồi chính
cuộc sống chúng ta cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Nhiều lần vì sợ, vì tham, vì bị
mua chuộc… ta lại chấp nhận im lặng hay từ chối làm chứng cho chân lý. Lắm khi
vì ham mê tiền bạc, chức quyền… ta cũng sẵn sàng chối bỏ niềm tin cách dễ dàng.
Chúa Giêsu xác định: “Tôi sinh ra
và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự
thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga
18,37). Do đó để thuộc về Chúa chúng ta cần phải sống và làm chứng cho sự thật,
vì sự thật mới giải phóng chúng ta khỏi những ràn buột của gian dối và bóng tối
của sự dữ. "Sự thật sẽ giải phóng các ông" (Ga 8, 32). Vì
thế, "hể có thì nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt điều
gì là do ác quỷ".
Xin cho chúng ta biết vâng nghe lời Chúa, luôn can đảm nói và làm theo sự
thật, để chúng ta khỏi sa vào cạm bẫy của ma quỷ. Nhờ đó cuộc sống mới được an
vui, hạnh phúc.
Thứ năm: Lc 11,14-23.
Trước một sự việc, có những phản ứng khác nhau tuỳ theo cái nhìn của mỗi
người. Đồng thuận hay chống đối, tin nhận hay khước từ. Đó cũng là phản ứng lẫn
lộn của đám đông dân chúng khi chứng kiến phép lạ trừ quỷ câm của Chúa Giêsu
trong bài Tin mừng hôm nay.
Xin cho chúng ta luôn có cái nhìn ngay thẳng và trong sáng để nhận ra giá
trị đích thực của mọi biến cố xảy đến trong đời sống.
Cùng chứng kiến một phép lạ. Nhưng lại có những phản ứng trái chiều:
1. Đám đông lấy làm ngạc nhiên.
2. Một số người cho rằng: "Ông ấy dựa thế quỷ vương Beelzebul mà trừ
quỷ".
3. Kẻ khác lại muốn thử Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời.
Trước những phản ứng trái chiều, nhất là thái độ chống đối của nhóm Biệt
Phái. Chúa Giêsu lại kiên nhẫn lý giải cho họ hiểu rõ hai điều:
Thứ nhất: “Đòan kết là sức mạnh và là điều kiện chính để sinh tồn”, nên
Satan không thể chống đối lẫn nhau. "Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu
tàn, nhà nào tự chia rẽ thì sẽ đổ xuống. Nếu Satan cũng tự chia rẽ chống lại
chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?”. Bởi thế cho rằng Chúa Giêsu dựa
thế Beelzebul mà trừ quỷ câm là không đúng.
Thứ hai: Để tạo nên sức mạnh chống lại Thiên Chúa và hãm hại con người, ma
quỷ không ngu dại gì mà làm hại thuộc hạ của nó. Bởi thế việc Chúa Giêsu trừ
quỷ không phải là dựa vào thế của quỷ vương. Nếu việc đó không do quỷ vương thì
do đâu? Thưa do một quyền lực mạnh hơn ma quỷ, tức là Thiên Chúa. Như thế phép
lạ này là dấu chỉ rằng Nước Thiên Chúa đã đến gần.
Sở dĩ những người Biệt Phái không tin nhận phép lạ Chúa Giêsu thực hiện là
do quyền năng đến từ Thiên Chúa là vì họ ganh tị và ghen ghét Chúa Giêsu. Lòng
ganh tỵ, ghen gét làm cho con người trở nên mù quáng, không còn khả năng nhận
ra chân giá trị của sự việc và sự thật về con người. Khi nuôi dưỡng hận thù
trong lòng, người ta có thể tìm mọi cách để hạ bệ hãm hại người khác. Nhưng sự
thật vẫn là sự thật. Cố tình không đón nhận nó chỉ thiệt hại và làm đau khổ cho
chính bản thân mình mà thôi.
* Câu chuyện:
Có một con đại bàng ganh tị với một con đại bàng khác vì con này bay cao
hơn nó. Một hôm con đại bàng ganh tị gặp một xạ thủ. Nó xúi anh bắn hạ đối thủ
của nó. Chàng xạ thủ đáp: “Được. Nhưng tôi không có tên.” Con đại bàng nhổ một
cọng lông cánh đưa cho chàng xạ thủ làm tên. Nhưng chàng bắn hụt. Vì quyết tâm
hại đối thủ của mình, con đại bàng ganh tị lại nhổ thêm một cọng nữa, rồi một
cọng nữa... cho tới khi hai cánh nhỏ trụi nhẵn. Nó không bay được nữa. Chàng xạ
thủ không bắn được con kia nên bắt lấy con đại bàng trụi cánh về làm
thịt. Nếu
bạn ganh tị muốn hại ai thì rốt cuộc bạn chỉ tổ hại chính bản thân mình.
Xin Chúa cho chúng con tấm lòng đơn sơ trong trắng để có cái nhìn ngay
chính và trong sáng trước mọi biến cố xảy ra trong cuộc sống. Đừng để con vì
ghen tỵ, thù ghét mà có thái độ tiêu cực, chỉ biết “vạch lá tìm sâu” và luôn
nghi ngờ thiện chí của tha nhân. Xin cho chúng con luôn vững tin vào quyền năng
Thiên Chúa và can đảm loại trừ thái độ làm tôi hai chủ trong cuộc đời này.
Thứ
sáu: Mc 12, 28b-34.
Cốt
lõi của đạo Công giáo là Bác ái. Bác ái là đồng phục và là ngôn ngữ chung của
người kitô hữu. Bác ái là dấu chứng để nhận ra môn đệ của Chúa, là ngôn ngữ cao
trọng của loài người và các thiên thần, là ngôn ngữ độc nhất tồn tại trên thiên
đàng.
Xin
cho chúng ta biết giá trị cao quý của bác ái và nỗ lực thi hành đức ái trong
đời sống để xứng danh là môn đệ Chúa.
Sống
trong xã hội Do Thái thời bấy giờ, với ngổn ngang những luật lệ, làm cho con
người không còn phân biệt đâu là chính, đâu là phụ. Vì thế, một người trong
nhóm Kinh sư tới hỏi Chúa Giêsu xem điều răn nào là quan trọng nhất. Thời bấy
giờ trên đất nước Do Thái cũng có nhiều phe nhóm. Tùy theo quan điểm cá nhân
nên mỗi phe nhóm cũng đề cao một số luật lệ nào đó. Có lẽ vì thế mà nhân cơ hội
này, họ cũng muốn biết Chúa Giêsu đứng về phe nhóm nào? Và cũng qua cách thức
thăm dò đó, họ cũng muốn thử xem trình độ hiểu biết về Thánh kinh và luật lệ
của Chúa Giêsu tới mức độ nào?. Qủa là thâm ý!
Chúa
Giêsu thừa biết thâm ý của họ. Nhưng vì đây là vấn đề rất quan trọng trong đời
sống đức tin nên cần phải xác định cho rõ ràng. Vì thế Chúa Giêsu đã không ngần
ngại trả lời cho họ hiểu đâu là điều luật quan trọng nhất mà TC chỉ dạy. Bằng
cách trích dẫn lại hai câu Thánh kinh, một trong sách Đệ Nhị Luật và một trong
sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết
linh hồn và hết sức lực ngươi”. Đó là điều quan trọng thứ nhất. Điều luật thứ
hai cũng quan trọng không kém, đó là:“ Ngươi phải yêu thương người thân cận như
chính mình”, Chúa Giêsu đã tóm lược cho biết điều luật căn bản và quan trọng
nhất trong mọi điều luật đó là luật “tình yêu”. “Yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa
của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực ngươi” và “yêu thương người
thân cận như chính mình”.
-
Nhưng “yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực ngươi” thì phải
làm gì? Thưa, yêu mến Đức Chúa thì phải siêng năng đến với Chúa, sống thân tình
với Chúa, hân hoan vì được lắng nghe lời dạy của Chúa, nhất là vui thích làm
theo điều luật của Người hướng dẫn; còn mến Chúa “hết”…nghĩa là đặt Chúa làm ưu
tiên trong mọi giá trị mà ta chọn lựa và Chúa luôn là trung tâm của đời sống
của ta.
-
Còn việc “yêu người thân cận như chính mình” nghĩa là làm sao? Thưa đó là phải
yêu thương hết mọi người không phân biệt tôn giáo, màu da, chủng tộc, ngôn
ngữ.. bạn hay thù. “Yêu như chính mình” có nghĩa là phải đối xử với mọi người
cùng một “tình yêu” như ta đối xử với chính ta, theo như tinh thần của thánh
Phaolô dạy: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm.12,15). Hơn thế nữa,
Chúa Giêsu còn đòi buộc chúng ta phải “yêu như Chúa yêu”, một tình yêu trao
ban, cho đi nhưng không và sẵn sàng chết đi cho người mình yêu. "Không có
tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của
mình" (Ga 15,13).
Để
cụ thể hóa tình yêu đối với tha nhân, GH mời gọi chúng ta hãy tích cực thực
hiện 14 mối yêu người (thương xác 7 mối; thương linh hồn 7 mối).
Xin
Chúa cho chúng ta mùa chay này biết nỗ lực thực thi điều luật Giêsu Chúa chỉ
dạy là mến Chúa yêu người cách sâu xa hơn, theo tinh thần mà Chúa Giêsu mong
muốn.
Thứ bảy: Lc 18,9-14.
Thái độ kiêu căng, phách lối làm cho người đời khinh thường, ghét bỏ và xa
lánh. Khiêm nhường, nhận lỗi là hành động quân tử của bậc anh hùng, khiến mọi
người mến phục và TC yêu mến. Xin cho chúng ta có được lòng khiêm nhường như
người thu thuế trong bài tin mừng hôm nay, để xứng đáng được Chúa yêu thương
ban ơn công chính.
Bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho ta biết thế nào là sức mạnh của lời
cầu nguyện khiêm nhường!
Trái ngược với hình ảnh của người Pharisêu tự mãn là hình ảnh người thu
thuế dễ thương ở phía cuối đền thờ. Một hình ảnh tuyệt đẹp. Đẹp bởi dáng
điệu rất đổi khiêm nhường, đẹp bởi tính cách hết sức đơn sơ và đẹp bởi tâm tình
rất chân thành trước nhan thánh Chúa. Chính vì thế mà lời cầu nguyện của
anh ta đã vươn lên cao, vượt qua được mọi rào cản và đã chọc thủng các tầng
mây, cuối cùng đã chạm vào tận trái tim của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương
xót. Nên xứng đáng được Thiên Chúa nhận lời: “Ta bảo các ngươi: người này ra về
được khỏi tội, còn người kia thì không”.
Thứ bảy cũng là ngày GH hướng lòng về Mẹ Maria để tỏ lòng kính mến Mẹ cách
đặc biệt. Hơn ai hết Đức Maria là mẫu gương về lòng khiêm nhường thẳm sâu cho
chúng ta noi theo. Bởi lúc nào Mẹ cũng ý thức mình chỉ là nữ tỳ của Thiên Chúa:
“Phận nữ tỳ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới…” (Lc 1, 48). Chính lòng khiêm
nhường ấy đã nâng Mẹ lên tận thiên đường với một hình ảnh tuyệt đẹp như sách
khải huyền mô tả: "Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu
đội triều thiên mười hai ngôi sao..." (Kh 11,9)
Ước mong mùa chay này, chúng ta can đảm loại trừ được thái độ kiêu căng tự mãn hay đề cao mình như người Biệt Phái để yêu thích mặc lấy chiếc áo khiêm nhường của người thu thuế và của Mẹ Maria. Được như thế lời cầu nguyện của chúng ta mới xứng đáng được Chúa nhận lời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét