SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN IV
MÙA CHAY
Lm Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY, NĂM
A
1Sm 16, 1b.6-7. 10-13a; Ep
5, 8-14; Ga 9, 1-41
Chúa nhật IV MC hôm nay được gọi là Chúa nhật của niềm vui. Vui không
bởi phẩm phục màu hồng nhưng vui vì GH sắp cử hành đại lễ phục sinh, kỷ niệm
biến cố Con TC sống lại, mở ra cho nhân loại niềm hy vọng vào sự sống mai này.
Vui vì ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô đã đến trần gian, xua
tan bóng đêm tội lỗi và sự chết, ban lại cho nhân thế ánh sáng của niềm vui và
sự sống mới.
Xin cho chúng ta biết tích cực đón nhận ánh sáng của Chúa, bằng cách gắn
bó mật thiết với Chúa, khiêm tốn lắng nghe và thực thi đường lối của Chúa với
niềm hân hoan, tin tưởng và phó thác vào tình thương của Chúa.
“Ánh sáng” là chủ đề nổi bật trong Tin mừng của
thánh Gioan. Nên ngay những trang đầu của Tin mừng, thánh Gioan cho biết Chúa
Giêsu chính là “Ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi
người” (Ga 1,9). Qua phép lạ chữa lành cho người mù được sáng mắt hôm
nay, minh chứng cho thấy Đức Giêsu chính là ánh sáng thật đã đến trần gian, xua
tan bóng tối tội lỗi và sự chết, mang lại niềm vui và sự sống cho con
người: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong
bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12).
Xin cho chúng ta biết mở lòng tiếp nhận ánh sáng niềm vui Tin mừng của
Chúa và tích cực bước theo ánh sáng Ngài soi dẫn, ngỏ hầu chúng ta trở nên con
cái của sự sáng theo như lời thánh Gioan đã nói: “Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin
vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.” (Ga 1, 11-12).
Phụng vụ lời Chúa hôm nay cho thấy có những cái nhìn khác nhau về con
người và sự kiện, khởi đi từ những quan điểm và tâm ý khác biệt nơi mỗi người.
1. Với tiên tri Samuel và ông Giétsê thì nhìn con người
qua diện mạo bên ngoài nên khi ông được Thiên Chúa sai đến Belem để tìm Đavit
(con út của ông Isai (Giétsê), thuộc chi tộc Giuđa) để xức dầu tấn phong đứa út
này lên làm vua thay cho Saolê vì đã không tuân phục ý Chúa (1S 16,13), thì
Samuel ông lại muốn xức dầu cho Êliab một người có dáng vóc cao lớn, khoẻ mạnh
trong số 8 người con trai của Giétsê. Nhưng Chúa bảo: “Không phải người
phàm nhìn sao, Thiên Chúa cũng nhìn thế, bởi người phàm chỉ trông thấy điều lộ
trước mắt, còn Giavê trông thấy điều ẩn đáy lòng”. Cuối cùng, nghe theo sự
soi sáng của Chúa, Samuel cũng đã chọn và xức dầu cho Đavít, đứa em nhỏ nhất,
đứa mà người cha là ông Giétsê cũng coi thường nên ban đầu ông không đưa ra
giới thiệu với Samuel.
Câu chuyện cho thấy cái nhìn của Thiên Chúa không giống cái nhìn của
loài người, vì loài người quen nhìn đáng vẻ bề ngoài, còn Thiên Chúa nhìn tận
đáy lòng.
2. Còn những người Biệt phái thì nhìn Đức Giêsu
với cái nhìn định kiến và ganh ghét nên họ không thể nhận ra được Thiên Tính
nơi Người.
Tin mừng hôm nay cho biết vì muốn phủ nhận uy quyền TC nơi Đức Giêsu nên
những người Biệt phái đã tìm đủ mọi cách để chối bỏ phép lạ Chúa Giêsu chữa cho
người mù từ lúc mới sinh được sáng mắt.
- Trước hết họ mở cuộc điều tra rộng rãi từ đương sự đến những người
láng giềng và cả cha mẹ của đương sự nữa. Họ hạch hỏi và đe dọa những người này
đủ điều, với mục đích làm áp lực để người mù và cha mẹ anh ta sợ hãi mà chối bỏ
phép lạ Chúa Giêsu đã làm. Nhưng vì phép lạ quá hiển nhiên nên không thể nào
phủ nhận được.
- Biết xử dụng quyền lực không được, họ dùng đến lý lẽ để thuyết phục
mọi người với cách lý luận rằng: “ông Giêsu đã chữa mắt cho người mù
trong ngày hưu lễ vì luật trong hưu lễ là cấm làm việc. Ai vi phạm là kẻ có
tội. Mà kẻ tội lỗi thì không thể là người bởi Thiên Chúa và không thể làm được
phép lạ”. Nhưng cho dù họ có cố tình bẻ cong sự thật, thì sự thật vẫn
hiển nhiên, bởi chính đương sự đã làm chứng: “Nếu đó là một người tội
lỗi, tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi
trông thấy”.
- Thấy không thể đối chất lại cách lý luận đầy thuyết phục của anh
mù, cuối cùng họ phải dùng đến thủ đoạn nham hiểm, bằng cách khơi lại tình
trạng quá khứ mù lòa của anh, rồi dựa vào quan điểm mù quán mà cho rằng anh ta
là người tội lỗi mà mạt sát anh: “Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy
chúng ta ư? Rồi trục xuất anh ra ngoài”. Với ý định qua đó cảnh
báo mọi người đừng bao giờ tin vào lời chứng của người có tội. Nhưng tất
cả những mưu hèn kế bẩn ấy cũng không làm thay đổi được niềm tin của người mù
vào quyền năng TC nơi Đức Giêsu qua lời xác quyết của anh: “Xưa nay
chưa từng nghe nói có ai mở mắt một người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó
không bởi Thiên Chúa thì không làm được gì”. Vì thế sau khi Chúa Giêsu
cho anh biết Người chính là Con Thiên Chúa thì anh liền “sấp mình thờ
lạy Người”.
Trong khi người mù được Chúa ban cho ánh sáng thể lý và tâm hồn thì
những người Biệt phái sáng mắt thể lý lại trở nên mù lòa về tâm hồn nên đã
không tin nhận Chúa Giêsu là TC làm người. Sở dĩ như vậy là vì mắt tâm hồn họ
còn bị quá nhiều ngăn cản bởi lòng đầy kiêu căng tự mãn; bởi những định kiến sẵn
có về Chúa Giêsu khi cho rằng, Người không tuân thủ lề luật, dám làm việc ngày
hưu lễ, cho dẫu họ biết rất rõ về những việc tốt lành Chúa Giêsu đã làm. Chính
vì thế mà họ đáng bị Chúa Giêsu lên án: “Nếu các ngươi mù, thì các
ngươi đã không mắc tội; nhưng các ngươi nói ‘Chúng tôi xem thấy’, nên tội các
ngươi vẫn còn”.
Trước những biến cố xảy ra trong đời sống, có thể mỗi người chúng ta có
những cái nhìn khác nhau tùy theo quan điểm tự do của mình. Nhưng với cái nhìn
của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Ephêsô trong bài đọc 2 hôm nay, thì ngài
khuyên chúng ta nên khiêm tốn nhận ra quyền năng của TC qua mọi biến cố mà chân
thành sám hối từ bỏ nếp sống cũ là gian dối, bất công, kiêu ngạo mà nỗ lực thực
thi giáo huấn của Đức Kitô bằng đời sống lương thiện, công chính và chân thật,
với ước mong làm mọi điều sao cho đẹp lòng Chúa. Được như vậy, tâm hồn chúng ta
mới có được bình an mỗi khi đối diện với những biến cố vui buồn trong đời sống.
* Gợi Ý Xét Mình
Khi nhìn vào thực tế đời sống, ta nhận thấy có nhiều
loại mù khác nhau: mù chữ, kiến thức, tin học, ngoại ngữ…mặc dù bệnh mù nào
cũng gây nên khó khăn và đau khổ và cần được chữa lành. Nhưng có lẽ bệnh mù cần
được cứu chữa nhất vẫn là bệnh mù về tâm hồn vì chẳng những nó giết chết bản
thân mình mà còn gây nên biết bao đau khổ cho người khác. Dựa trên nền tảng lời
Chúa trong Kinh thánh, chúng có thể tìm thấy một vài nguyên nhân đưa đến bệnh
mù về tâm hồn nguy hiểm này:
- Do lòng tham lam.
Sách Các Vua có thuật lại câu chuyện hoàng hậu
I-dơ-ven, vợ vua A-kháp, có lòng tham lam muốn chiếm đoạt vườn nho của ông lão
nghèo Na-vốt, nên đã dàn dựng một vụ án kể tội Na-vốt đã dám nguyền rủa Thiên
Chúa và nhà vua, rồi tuyên án ông phải bị ném đá chết. Lòng tham đã làm cho
hoàng hậu I-dơ-ven trở thành mù quáng phạm tội giết hại người nghèo vô tội để
chiếm đoạt vườn nho của ông ta. (1V 21)
- Do thói ganh tị.
Đọc Kinh Thánh, ta thấy sách Sáng thế có ghi lại câu chuyện dâng của lễ
của Cain và A-ben. Của lễ của A-ben được Chúa đón nhận còn của lễ Cain thì
không. Cain đem lòng ganh tị với A-ben đã làm cho tâm hồn anh trở nên mù quáng,
đến độ đã nhẫn tâm ra tay giết hại A-ben là đứa em hoàn toàn vô tội chỉ vì lễ
vật của A-ben đẹp lòng Thiên Chúa.
Sách Samuel ghi lại rằng vua Sa-un rất yêu thương
Đavít, nhưng sau khi Đavít giết được tướng giặc khổng lồ là Gô-li-át để cứu
nguy cho quân dân Israel và khải hoàn về thành. Đa-vít được các phụ nữ đi đón
rước. Họ vừa múa nhảy theo tiếng reo mừng não bạt, vừa ca hát như sau : “Vua
Sa-un hạ được hàng ngàn, còn Đa-vít giết được hàng vạn”. Nghe lời ca đó,
vua Sa-un cảm thấy rất tức giận Đa-vít. Chính do lòng ganh tị đã làm cho vua
trở thành kẻ mù quáng, từ lòng yêu thương hóa ra thù ghét và đã ra tay truy
lùng Đa-vít, quyết giết chết bằng được người anh hùng Đa-vít nầy. (1 Sm, Ch
18).
- Do dục tình bất chính.
Sau khi lên làm vua thay Sa-un, Đavít lên ngôi vua, ông cũng trở nên mù quáng vì tình dục. Do say đắm
sắc đẹp của bà Bát-sa-bê, vợ của U-ri-a, nhà vua đã sa ngã phạm tội với bà, sau
đó lại tìm cách giết U-ri-a chồng bà và rồi chính thức cưới bà ấy làm vợ. Mù
quáng đến thế thì thật là khủng khiếp!
Tóm lại, do tình dục, do lòng tham, do kiêu căng ganh
tị… mà người ta có thể trở nên mù tối phạm phải những tội ác không ngờ.
Bất cứ người mù nào cũng khao khát được sáng; nhưng điều đáng tiếc là nhiều
người mù tâm hồn, do không ý thức tình trạng mình đang bị mù, nên không quyết
tâm ra khỏi tình trạng mù quáng của mình, và cuối cùng đã bị loại ra khỏi Nước
Trời, giống như các đầu mục dân Do thái khi xưa.
Để kết thúc xin kể một câu chuyện ngắn sau đây:
Một vị Nhật hoàng sau khi làm việc căng thẳng muốn thư
giãn, nên yêu cầu các quan tìm kiếm một người biết nói đùa. Người ta đã dẫn đến
cho vua một vị thiền sư.
Nhật hoàng nói : “Ta muốn nhà ngươi nói đùa cho ta nghe
và ta sẽ không hài tội về lời nói đùa của ngươi”.
Thiền sư nói : “Tâu bệ hạ, xin bệ hạ nói trước để hạ
thần nói đùa theo”.
Nhà vua nói : “Ta thấy nhà ngươi giống y như một con
lợn !”
Thiền sư đáp : “Còn hạ thần thì nhìn thấy bệ hạ giống y
như Đức Phật !”
Nhà vua liền thắc mắc : “Tại sao ta bảo nhà ngươi là
con lợn mà nhà ngươi lại bảo ta là Đức Phật?”
“Tâu bệ hạ, dễ hiểu thôi ạ : ai có tâm của Phật thì
nhìn đâu cũng thấy Đức Phật; Còn ai có tâm của lợn thì nhìn đâu cũng thấy lợn
!”
Thứ hai: Ga 4, 43-54
Đức tin chính là thần dược chữa lành mọi bệnh tật cho con người. Chính
đức tin, viên sĩ quan đã đặt trọn vẹn lòng cậy trông và hy vọng vào Chúa. Nhờ
đức tin mà phép lạ Chúa được thực hiện và con ông được cứu chữa. Xin Chúa ban
thêm lòng tin nơi chúng ta.
Ông viên sĩ quan trong bài tin mừng hôm nay vì tin tưởng vào Chúa Giêsu
nên ông đã đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa:
Hy vọng vào Chúa, nên ông đã ra đi tìm đến Chúa Giêsu.
Hy vọng nơi Chúa, ông đã không ngại kêu xin và kiên nhẫn nài nỉ Chúa đến
nhà cứu sống con ông.
Hy vọng ở Chúa, ông đã khiêm tốn đón nhận mọi thử thách: “Các ông mà
không thấy dấu lạ điềm thiêng thì các ông sẽ chẳng tin đâu”. Dẫu bị mỉa mai,
nhưng ông vẫn khiêm tốn kiên nhẫn kêu xin.
Cũng chính vì hy vọng rất nhiều vào Chúa, ông đã tin nhận Lời Chúa và an
tâm ra về: “Cứ về đi, con ông sống.”
Nhờ bởi lòng tin mạnh mẽ của viên sĩ quan ngoại giáo mà con ông đã được
Chúa cứu khỏi chết và cả gia đình ông được ơn đức tin.
Tin chính là đặt hết niềm hy vọng vào Chúa. Trao cho Chúa mọi lắng lo,
khốn khó của cuộc đời.
Con cái là món quà quý giá và là kho báu vô tận. Đau đớn, bệnh tật của
con cái cũng chính là nỗi đau của bậc làm cha mẹ. Nhưng chính trong những lúc
đau khổ ấy, lại làm cho viên sĩ quan ngoại giáo có được niềm tin. Và khi gặp gỡ
Chúa Giêsu niềm tin của ông càng được thêm củng cố lạ thường, có sức mạnh cứu
rỗi cho cả gia đình ông.
Chúng ta cũng vậy, niềm tin của chúng ta cần được trui rèn, để sau những
thử thách đau thương, đức tin chúng ta càng được vững mạnh hơn.
Cuộc sống không nhất thiết phải đón nhận ơn lành qua những phép lạ như
người cha trong bài tin mừng hôm nay. Điều quan trọng là trong mọi biến cố vui
hay buồn, thành công hay thất bại,..ta nhận ra được ý muốn của Chúa cần gì nơi
ta, giúp ta thanh luyện tâm hồn thêm vững mạnh hơn vào tình thương và quyền
năng của Chúa.
Trong cuộc sống, chúng ta xin ơn Chúa rất nhiều nhưng lại quên xin ơn
rất quan trọng là ơn Đức Tin. Chắc chắn đức tin của ta vẫn còn yếu kém. Mùa
chay này, chúng ta hãy tha thiết xin Chúa gia tăng thêm niềm tin nơi chúng ta.
Suy niệm 2:
Ngày đầu tuần, chúng ta cùng hướng về Thánh Thần, Ngôi Ba TC để xin
ơn biến đổi đời sống nên kiên vững hơn trong đức tin, với mong muốn trở
nên những chứng nhân trung thành cho tin mừng cứu độ của Chúa.
Sau cuộc trở về quê hương Nazareth thuộc miền nam Giuđêa, không được dân
làng đón nhận. Chúa Giêsu trở lại miền Canaan thuộc miền Galilê. Như chúng ta
cũng biết tại nơi này, trước đây Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ đầu tiên, hóa
nước lả thành rượu ngon giúp cho tiệc cưới được trọn niềm vui và đôi tân hôn
đong đầy hạnh phúc, nhờ sự quan tâm và lời kêu xin của Đức Maria. Và hôm nay
cũng tại nơi này, Chúa Giêsu tiếp tục làm phép lạ thứ hai để cứu sống đứa con trai
sắp chết của viên sĩ quan người ngoại giáo cũng chính nhờ vào lời kêu xin khẩn
thiết của ông.
Cả hai phép lạ đều minh chứng quyền năng của TC nơi Đức Giêsu. Tuy nhiên
uy quyền của Thiên Chúa chỉ được thực thi một khi con người biết tin tưởng và
phó thác tuyệt đối vào tình thương của Chúa.
Nhờ vào niềm tin vững vàng của Mẹ Maria mà phép lạ được thực hiện
nơi tiệc cưới Cana. Nhờ lòng tin mạnh mẽ của viên sĩ quan ngoại giáo mà
đứa con trai của ông đã được Chúa Giêsu cứu chữa. Như vậy, đức tin chính là
chìa khóa mở ra ánh sáng hy vọng và là điều kiện căn bản để quyền năng và ân
sủng của Chúa được tỏ lộ.
Xin Chúa ban thêm lòng tin nơi chúng ta, để ngay trong những lúc khó
khăn, nguy khốn nhất của cuộc đời, chúng ta vẫn đặt trọn niềm tin vào tình
thương và quyền năng của Người.
KÍNH THÁNH GIUSE, BẠN TRĂM NĂM ĐỨC TRINH NỮ MARIA
2Sm 7,4-5a.12-14a.16; Rm
4,13.16-18.22; Mt 1,16.18-21.24a
Tên Giuse có nghĩa là gì?
Tên Giuse tiếng Do Thái là Yosef. Yosef bao gồm từ Jo
được rút gọn bởi từ Jeho, Yahweh, nghĩa là Thiên Chúa; và sef là viết tắt của
động từ jasaf, có nghĩa là “gia tăng”.
Như vậy, danh xưng Josef hay Giuse có nghĩa là “Thiên Chúa gia tăng phúc lành”
Nguồn gốc của tên Joseph:
Joseph là một cái tên trong Kinh thánh, là con trai của ông Jacob, và là chồng của Đức Trinh Nữ Maria. Theo tiếng Do Thái, Joseph, nghĩa là “chính Người sẽ thêm vào”. Đó là một cái tên đẹp. Cái tên ấy trở nên đầy ý nghĩa khi được gắn vào cuộc đời Thánh Giuse. Tất cả những gì ngài có thể làm chỉ là hoàn tất sứ mạng được trao phó cho mình.
Khi được trao sứ mạng, Thánh Giuse đã không đặt bất cứ câu hỏi gì về
việc mình phải làm, cũng không thắc mắc liệu việc ấy sẽ đi đến đâu? kết quả sẽ
như thế nào? Ngài cộng tác với kế hoạch của Thiên Chúa bằng cách làm hết sức
mình, hết phần của mình. Tất cả những gì còn lại, chính Thiên Chúa sẽ ra tay.
“Chính Người sẽ thêm vào”.
Sau khi hoàn tất sứ mạng được trao, ngài âm thầm rút lui và ẩn mình vào
thinh lặng. Biết đặt mình đúng vị trí, biết khiêm tốn đảm nhận vị trí của mình.
Ấy là cách Thánh Giuse trở nên đặc biệt và bất khả thay thế trong kế hoạch của
Thiên Chúa.
Làm con cái Chúa, mỗi người được mời gọi sống một cuộc đời đặc biệt. Mỗi người đều có một cái tên đặc biệt, một vị trí đặc biệt trong kế hoạch của Thiên Chúa. Sự đặc biệt này được làm nên không phải vì phẩm chất hay khả năng riêng của từng người, cũng không phải vì thành tích hay công trạng của người đó. Ai cũng có khả năng trở nên đặc biệt khi biết cộng tác hết mình với Thiên Chúa, làm hết những gì có thể trong khả năng, đồng thời xác tín chính Thiên Chúa sẽ hoàn tất những gì Người đã khởi sự bởi lẽ “chính Người sẽ thêm vào”. Điều quan trọng là tin rằng chính mình được đóng góp một phần nhỏ bé trong kế hoạch của Thiên Chúa, và biết lấy đó làm đủ.
Khi mỗi người học được cách trở nên một Thánh Giuse khác cho cuộc đời,
ngang qua họ, Thiên Chúa có thể làm nên những kỳ công vĩ đại cho con người và
thế giới hôm nay.
SUY NIỆM 1: THÁNH GIUSE DẠY TA SỐNG TINH THẦN MÙA CHAY
Không biết vô tình hay hữu ý, năm nào cũng vậy, GH lại mừng kính thánh
Giuse vào đúng lịch PV mùa chay.
Chắn hẳn GH rất có lý. Bời lẽ nếu mùa chay là mùa sám hối, trở về,
thì sự trở về sâu xa nhất lại chính là trở về chính mình và trở về với Thiên
Chúa. Nói như vậy thì hơn ai hết Thánh Giuse chính là mẫu gương tuyệt vời
cho chúng ta về sự trở về ấy.
1. Trước hết thánh Giuse dạy ta bài học trở về với chính mình trong
thinh lặng.
Khi đọc các sách Tin Mừng, ta không thấy thuật lại bất cứ lời nào
của thánh Giuse, dù chỉ một lời nói với Mẹ Maria hay với Chúa Giêsu. Ngay cả
khi gặp trẻ Giêsu ở trong Đền Thờ sau những ngày lo âu tìm kiếm cũng
không thấy lời nào của ngài hé lộ. Có lẽ hơn ai hết thánh Giuse thấu hiểu về sự
quý giá của thinh lặng.
Đúng thế cha ông chúng ta đã từng nói: "lời nói là bạc, im
lặng là vàng": nên chi thinh lặng giá trị hơn nói, vì nói chỉ là bạc mà im
lặng mới là vàng; là vàng thì bao giờ cũng quí hơn bạc!
Hơn nữa thinh lặng còn là biểu hiện cho sự hiểu biết của một con người.
Ông bà ta thường nói “Ngôn giả bất tri, tri giả bất ngôn” : Người không biết
thì lại nhiều lời vì tưởng người khác không biết như mình, ngườì biết thì lại
không nói, vì nghĩ rằng mọi người đều biết. Ông Heidegger khuyên chúng ta thực
tập thinh lặng, bớt nói, bớt phát biểu, bớt bàn tán….không phải là ta ngu muội,
vô tri, nhưng để cho tâm hồn của chúng ta hoà quỵện với sinh linh vạn vật, và
chỉ khi đó chúng ta mới có thể thấu đạt hết mọi ngóc ngách, thông tường mọi thế
thái, biến chuyển trong sự biểu đạt khôn cùng của nhân sinh, và của nhiên giới.
Nhưng thực tế đời sống cho thấy chúng ta lại thích nói và nói nhiều hơn
là yêu mến sự thinh lặng. Chính vì thế mà chúng ta đã sai lỗi quá nhiều trong
lời nói vì “đa ngôn thì đa quá”. Nói nhiều thì trở nên nói dai và kéo theo nói
dở, nói ẩu và dại nữa. Do đó hãy thận trọng trong lời nói. Bởi lời nói sẽ trở
nên mối nguy cơ đánh mất tình thương, chia cắt tình thân và gây nên đau khổ cho
nhau.
Ném một lông vịt vào trong gió, thì làm sao nhặt lại được. Một lời nói
ra bốn ngựa đuổi theo cũng không kịp “tứ mã nan truy”. Nên trong những lúc
gặp phải những căng thẳng và sóng gió trong đời, ta hãy học cùng thánh
Giuse bài học thinh lặng để lắng nghe được tiếng Chúa khẻ nói với ta mà làm
theo, nhờ đó chúng ta sẽ ngăn chặng được những đổ vỡ đáng tiếc xảy ra trong
cuộc sống.
2. Thứ hai thánh Giuse dạy ta bài học sự tín thác và sự vâng
phục Thiên Chúa.
Nếu ông Giacaria nghi ngờ về ý định của Thiên Chúa qua biến cố truyền
tin trong đền thờ lúc dâng hương. Mẹ Maria thì ngỡ ngàng với biến cố truyền
tin, thì Giuse lại hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa mà không một
lời chấp vấn hay bối rối gì cả.
Thánh Kinh thuật lại: khi biết được Đức Maria mang thai là do quyền năng
Chúa Thánh Thần, Thánh Giuse đã không ngần ngại nhận Đức Maria về nhà mình để
chở che và nuôi dưỡng. Nhận lãnh hay bảo lãnh Đức Maria về nhà cũng đồng nghĩa
Thánh Giuse giải cứu Đức Maria khỏi búa rìu dư luận và thoát khỏi án
tử. Việc bảo trợ Đức Maria cũng có nghĩa là đồng bảo trợ Hài Nhi đang được
cưu mang trong cung lòng Đức Maria. Việc nhận Đức Giêsu làm con cũng đồng nghĩa
với việc bảo trợ cho Đức Giêsu sinh ra cách hợp pháp và đưa Đức Giêsu vào trong
dòng tộc vua Đavít.
Vâng phục ý Chúa, không chỉ bảo trợ cho Hài nhi Giêsu sinh ra hợp pháp
mà thánh Giuse còn bảo toàn mạng sống của Đức Giêsu khỏi nanh vuốt của vua
Hêrôđê qua việc vâng theo lời báo mộng của Chúa trong đêm mà nhanh chóng đem mẹ
Người và Hài Nhi Giêsu vượt đường xa hiểm trở gần 500 cây số xuyên qua sa mạc
dài hơn 200 km không một bóng cây, không một ngọn cỏ, không một giọt nước, rất
gian khổ để đến Ai-cập tị nạn. Và khi tình hình yên ổn, một lần nữa Giuse
lại nghe theo lời báo mộng bỏ Ai-cập đem gia đình trở về Palestine, định cư tại
Nagiarét để chăm sóc nuôi dưỡng bằng chính công sức lao động chân chính của
mình với nghề thợ mộc.
Còn chúng ta thì khác, chúng ta thường tìm ý mình hơn là ý Chúa. Mỗi khi
gặp phải những nghịch cảnh xảy ra trong đời sống, ta thường kêu trách Chúa và
lắm khi còn xúc phạm đến Chúa nữa. Vì chúng ta cho rằng vâng phục thánh ý Chúa
là hành động hèn nhát, mất tự do và đánh mất nhân phẩm của mình. Thánh Giuse
giúp chúng ta hiểu rằng: không phải lúc nào chúng ta cũng biết được kế
hoạch của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta chỉ biết rằng cách của
Người thì khác với cách của chúng ta, nhưng cách của Người thì luôn luôn tuyệt
vời nhất. Vì thế, hãy tín thác và vâng phục thánh ý Thiên Chúa, để chúng
ta sẽ trở nên những tôi tớ trung thành và khôn ngoan theo gương thánh cả Giuse.
Lạy Chúa, giữa bao triết lý và lắm luồng tư tưởng trong xã hội này, con
phải chọn lựa như thế nào?. Giữa những nền văn hóa đa dạng và những nền văn
minh phức tạp, con biết đâu là đúng, đâu là sai? Xin cho con chúng con mùa chay
thánh này biết đến với thánh cả Giuse để học nơi thánh nhân bài học của sự trở
về trong thinh lặng mà nhận ra thánh ý Chúa và trở về với Chúa để vâng phục
thánh ý Ngài theo gương thánh cả Giuse kính yêu. Amen.
SUY NIỆM 2: NGƯỜI GIA TRƯỞNG TRUNG THÀNH
Hòa nhịp cùng Giáo hội, hôm nay chúng ta long trọng mừng kính Thánh
Giuse, bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Maria. Ngài là bổn mạng Giáo Hội Việt Nam, là
bổn mạng của quý anh em giới Gia trưởng, cách riêng một số anh em có thánh bổn
mạng là Giuse. Nhân dịp này chúng ta cùng nhau hướng về thánh Giuse để
chiêm ngưỡng đời sống tuyệt đẹp của Ngài mà học đòi bắt chước.
Khi nhìn vào đời sống của thánh nhân, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng
đều đồng ý với nhau rằng: thánh Giuse là một con người trung thành. Đây là nhân
đức tuyệt đẹp, đáng để cho chúng ta noi theo trong sứ mạng xây dựng và bảo vệ
hạnh phúc gia đình.
1. Thánh Giuse trung thành bảo vệ gia đình.
Sau khi nhận được thánh ý Thiên Chúa, Thánh Giuse đã sẵn sàng đứng ra để
bảo trợ Thánh gia.
Thánh Kinh thuật lại: khi biết được Đức Maria mang thai là do quyền năng
Chúa Thánh Thần, Thánh Giuse đã không ngần ngại nhận Đức Maria về nhà mình để
chở che và nuôi dưỡng. Nhận lãnh hay bảo lãnh Đức Maria về nhà cũng đồng nghĩa
Thánh Giuse giải cứu Đức Maria khỏi búa rìu dư luận và thoát khỏi án tử.
Việc bảo trợ Đức Maria cũng có nghĩa là đồng bảo trợ Hài Nhi đang được
cưu mang trong cung lòng Đức Maria. Việc nhận Đức Giêsu làm con cũng đồng nghĩa
với việc bảo trợ cho Đức Giêsu sinh ra cách hợp pháp và đưa Đức Giêsu vào trong
dòng tộc vua Đavít.
Không chỉ bảo trợ cho Hài nhi Giêsu sinh ra hợp pháp mà thánh Giuse còn
bảo toàn mạng sống của Đức Giêsu khỏi nanh vuốt của vua Hêrôđê. Để bảo toàn
mạng sống của Đức Giêsu, thánh Giuse phải vượt đường xa hiểm trở gần 500 cây số
xuyên qua sa mạc dài hơn 200 km không một bóng cây, không một ngọn cỏ, không
một giọt nước, rất gian khổ để đến Ai-cập tị nạn.
Ngoài việc bảo vệ sự sống, bảo vệ mạng sống, Thánh Giuse còn phải bảo vệ
cho Đức Maria và Hài Nhi Giêsu được sống nữa. Ngài đã phải lao động vất vả tại
xưởng mộc bé nhỏ tại làng Nazarét để mưu tìm miếng cơm, manh áo, tiền nong để
nuôi sống gia đình.
Cuộc đời thánh Giuse quả không phải sung sướng, an nhàn, trái lại ngài
phải trãi qua trăm chiều thử thách và đau khổ. Ý Chúa quan phòng để ngài nêu
gương cho ta khi gặp gian lao, thử thách cũng biết vui lòng hy sinh như ngài để
bảo vệ sự sống, mạng sống và tạo điều kiện cho gia đình mình được sống an bình.
Là người cha phải hết lòng bảo vệ con cái mình khỏi tay kẻ dữ, khỏi bầu
khí hận thù và bất công. Đó là nhiệm vụ vô cùng to lớn của người gia trưởng.
Hằng ngày có biết bao hài nhi bị hủy diệt trong bào thai. Chúng ta cũng
đã từng chứng kiến không ít những hài nhi vừa cất tiếng khóc chào đời lại bị
chính cha mẹ chúng bỏ rơi, thật đau lòng!
Cách bảo vệ hài nhi an toàn nhất là chúng ta phải biết tỉnh thức để nghe
tiếng Chúa nói trong lương tri như Thánh Giuse, dù khi ngủ, ngài vẫn thức tỉnh
nhận ra tiếng Chúa nói trong giấc mộng.
2. Thánh Giuse trung thành giáo dục con cái.
Tin mừng thánh Luca đề cao nền giáo dục tuyệt vời của Thánh gia qua câu:
“Hài nhi lớn lên càng mạnh khỏe, khôn ngoan và đầy ân sủng trước mặt Chúa và
người ta” (Lc 2,40-52). Chỉ một lời ngắn ngủi của thánh sử Luca nhưng đã diễn
tả hầu như trọn vẹn cách thế giáo dục của thánh Giuse và Đức Maria đối với con
mình. Các ngài đã để ý và giáo dục con mình về mọi phương diện: Thể dục, trí
dục, đức dục …
- Thể dục: Trẻ Giêsu càng lớn lên càng mạnh mẻ,
đầy sức lực nhờ vào lao động nơi xưởng mộc Nazarét mà thánh Giuse đã dày công
tạo dựng. Lên 12 tuổi trẻ Giêsu đã đi bộ suốt bốn năm ngày đàng lên Giêrusalem
dự lễ, vậy mà không thấy Thánh kinh nói trẻ Giêsu mệt mỏi. Sau này giảng đạo,
Đức Giêsu đã đi khắp cùng làng mạc, thành phố và cả những vùng lân cận nữa.
- Trí dục: Càng tuyệt vời hơn khi mới 12 tuổi, cậu bé
Giêsu của làng Nazarét quê mùa, vô danh, ở tít vùng sâu, vùng xa đã đàng hoàng
vào đền thờ ở thủ đô Giêrusalem, ngồi giữa các thầy tiến sĩ vừa nghe vừa hỏi.
Ai cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp khôn ngoan của cậu.
Nếu gia đình Thánh Giuse không quan tâm đến việc hướng dẫn con mình học hỏi và
trao dồi Thánh kinh thì làm gì có sự hiểu biết như thế?
Mỗi ngày Sabát là dịp tốt để tìm hiểu Thánh kinh và nghiên cứu Luật
Chúa. Như trở thành thói quen mà cha mẹ để lại. Sau này khi rao giảng Chúa
Giêsu thường xuyên vào Hội Đường đọc Lời Chúa, giảng dạy và chữa bệnh. Có lẽ
nhờ việc quan tâm đến giáo dục tri thức cho con mình nên Đức Giêsu đã thuộc
lòng các khoản Luật và Lời Chúa.
- Đức dục: Ngoài đức công chính gắn liền với tên
tuổi Thánh Giuse, chúng ta còn nhận thấy một nhân đức khác nổi bậc nơi ngài nữa
đó là đức vâng lời. Vâng lời thánh ý Thiên Chúa, ngài đã bỏ ý riêng mình để đón
nhận Đức Maria về nhà mình. Vâng lời Thiên Chúa, ngài đã mau mắn đem Đức Maria
và Hài Nhi trốn sang Aicập.
Chính nhờ ảnh hưởng của một nền đạo đức như vậy mà Đức Giêsu trở nên
người con hằng “đẹp lòng Chúa Cha”. Cuộc đời Chúa Giêsu cũng tiếp nối bằng hai
chữ “xin vâng” theo thánh ý Chúa Cha như thánh Giuse và Đức Maria:
Vâng lời Chúa Cha từ trời cao Người xuống thế, từ Vị Thiên Chúa trở nên
người phàm, từ Đấng Thánh Thiện lại gánh lấy tội nhân. Người vốn là giàu sang
lại trở nên nghèo khó…; và Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Vì thế nên Người hằng xác quyết: “lương thực của Ta là làm theo Đấng đã sai Ta”
(Ga 4,34). Ngoài việc vâng lời Chúa Cha, Đức Giêsu còn luôn vâng lời thánh
Giuse và Đức Maria: “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazarét và hằng
vâng phục các ngài” (Lc 2,51).
Vậy những bậc cha mẹ cũng hãy noi gương thánh Giuse, quan tâm giáo dục
con mình phát triển toàn diện. Trung thành giáo dục như thế mới hy vọng con
chúng ta trở nên tốt.
Cùng với Giáo Hội, chúng ta cũng đang sống trong tâm tình của mùa chay
thánh. Nếu mùa chay Giáo Hội mời gọi chúng ta trở về, thì trước hết, chúng ta
hãy bắt đầu trở về với chính mình, với những bổn phận của người chồng-vợ, người
cha-mẹ, người gia trưởng-hiền mẫu trong gia đình mình, bằng việc noi gương
thánh Giuse trung thành trong vai trò bảo trợ gia đình, trung thành trong trách
nhiệm làm cha-mẹ và nhất là trung thành trong việc giáo dục con mình trở thành
người và thành người con Chúa.
Vì sự sống và hạnh phúc gia đình, xin cho các gia trưởng-hiền mẫu quyết
sống với hai chữ Trung Thành theo gương thánh Giuse. Amen.
SUY NIỆM 3:
Thánh Giuse được gọi là đấng công chính. Bởi nơi ngài có những nhân đức
cao quý, đáng được GH gọi tên là vị thánh cả.
Trong kinh cầu thánh Giuse, GH đã nêu lên cụ thể những tước hiệu cao
trọng nơi thánh cả Giuse; và qua đó GH mời gọi mọi tín hữu tìm đến với ngài để
chiêm ngắm, cầu nguyện và nêu gương bắt chước.
Vừa qua vào ngày 8/12/2020 nhân kỉ niệm 150 (8/12/1970-8/12/2020), thánh
Giuse đã được chân phước Đức Giáo Hoàng Pio IX chọn làm thánh quan thầy cho
toàn thể GH công giáo, đức thánh cha Phanxicô đương nhiệm đã mở ra “năm kính
thánh Giuse đặc biệt” và ban hành tông thư “Patris Corde” (Trái tim của người
cha). Trong tông thư này, đức thánh cha Phanxicô đã nêu lên 7 chiều kích linh
đạo căn bản của thánh Giuse đó là: người cha yêu thương, dịu dàng từ
ái, vâng phục, chấp nhận, can đảm sáng tạo, làm việc chăm chỉ và bóng tối thầm
lặng. Qua đó Đức Thánh Cha muốn mời gọi mọi tín hữu hãy can đảm đi vào con
đường linh đạo của thánh Giuse.
Tuy thánh Giuse thầm lặng không nói gì, nhưng khi chiêm ngắm đời sống và
hành trình cuộc đời của thánh nhân trong suốt những năm trần thế ta lại nhận ra
thánh nhân nói với ta rất nhiều về những nhân đức quý giá trong cuộc sống.
Chiêm ngắm thánh Giuse trong bài tin mừng hôm nay, ta nhận ra ít là hai nhân
đức cao quý mà thánh Giuse muốn dạy chúng ta:
1. Luôn vâng nghe và khiêm tốn thực hành ý Chúa:
Nhờ cầu nguyện trong chiêm niệm mà thánh Giuse đã nhậy bén nhận ra thánh
ý Chúa trong mọi phút giây của đời sống. Biến cố Đức Maria mang thai bất ngờ,
thánh nhân là người công chính nên đã định tâm lìa bỏ cách kín đáo, nhưng sau
khi nghe biết đó là thánh ý của TC qua lời truyền tin của thiên thần Gabriel,
thánh Giuse đã mau mắn bỏ ý riêng để thi hành thánh ý Chúa trong tin yêu và
vâng phục là đón nhận Đức Maria và Con TC tượng thai trong lòng trinh nữ Maria
về nhà mình để bao bọc, dưỡng nuôi.
2. Yêu quý giá trị của thinh lặng:
Đọc lại 4 phúc âm chúng ta không thấy lời nào của thánh Giuse. Thánh
Giuse quả thật có đời sống thinh lặng sâu xa, không phải vì thánh nhân sợ nói
ra thì mất lòng người khác; cũng không phải vì thanh quản của thánh nhân có vấn
đề, nhưng có lẽ vì thánh kinh muốn đề cao giá trị của thinh lặng của thánh
nhân. Bởi thinh lặng là vàng. Chính trong thinh lặng mà tâm hồn của thánh Giuse
mới được lắng đọng và trong suốt, nhờ đó ngài dễ dàng nhận ra đâu lá ý mình và
đâu là ý Chúa trong những biến cố xảy ra hàng ngày.
Hơn nữa có lẽ thánh Giuse cũng không thích đề cao bản thân và hô hào cho
mọi người biết về sứ mạng cao quý mà TC trao phó cho ngài trong việc bảo trợ và
dưỡng nuôi Con TC làm người; cũng như ngài được vinh dự cộng tác với TC trong
chương trình vĩ đại là cứu độ nhân loại.
Trong thinh lặng và tích cực chu toàn bổn phận, thánh Giuse đã hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ mà Thiên Chúa trao phó.
Hôm nay mừng kính trọng thể thánh Giuse là bổn mạng của GH hoàn vũ, của
GH Việt Nam, bổn mạng của nhiều họ đạo, của hội dòng Mến Thánh Gía, của khá
đông quý cha, quý tu sĩ và quý anh em gia trưởng, ta hãy nguyện xin cho mọi
người trong GH luôn biết noi gương thánh cả Giuse yêu quý đời sống thinh lặng,
biết khiêm tốn lắng nghe lời Chúa và luôn can đảm từ bỏ ý riêng để thi hành
thánh ý Chúa như thánh Giuse.
Nguyện xin Chúa qua lời chuyển cầu của thánh Giuse thương ban
nhiều ân sủng, niềm vui, bình an cho GH và mọi người nhờ sự bảo trợ hộ giúp của
thánh Giuse, bạn trăm năm của Đức Maria.
SUY NIỆM 4: THÁNH GIUSE DẠY TA SÁM HỐI MÙA
CHAY
Nếu mùa chay là mùa sám hối, trở về, thì có
lẽ việc trở về sâu xa nhất là trở về cõi lòng mình trong thinh lặng để nhận ra
Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương, nhận ra tha nhân là anh em mình, nhất là nhận
ra con người thật của mình. Nhờ đó mà ta có những điều chỉnh cho đúng đắn phù
hợp với ý Chúa hơn. Nếu Giáo Hội đặt tháng kính Thánh
Giuse vào Mùa Chay, thì mục đích đã rõ, bởi vì ngài là khuôn mẫu của con người
nội tâm, thinh lặng.
Xin Chúa cho chúng ta biết trân trọng và yêu
quý đời sống thinh lặng, nhất là biết học nơi thánh Giuse bài học về “đức thinh
lặng”.
Không biết vô tình hay hữu ý, năm nào cũng vậy, GH lại mừng kính thánh
Giuse vào đúng lịch PV mùa chay. Chắn hẳn GH rất có lý. Bời lẽ nếu
mùa chay là mùa sám hối, trở về. Mà sự trở về sâu xa nhất lại chính là trở về
chính mình và trở về với Thiên Chúa. Nói như vậy thì hơn ai hết Thánh
Giuse chính là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta về sự trở về ấy.
1. Trước hết thánh Giuse dạy ta bài học trở về với chính mình
trong thinh lặng.
Khi đọc các sách Tin Mừng, ta không thấy thuật lại bất cứ lời nào
của thánh Giuse, dù chỉ một lời nói với Mẹ Maria hay với Chúa Giêsu. Ngay cả
khi gặp trẻ Giêsu ở trong Đền Thờ sau những ngày lo âu tìm kiếm cũng không có
lời nào của ngài hé lộ. Có lẽ qua đó, Thánh Kinh nhằm đề cao giá trị của sự
thinh lặng nơi thánh Giuse.
Đúng vậy thinh lặng là thái độ hết sức quý giá: Người đời thường
nói: "Lời nói là bạc, im lặng là vàng". Thinh lặng quý hơn lời nói,
vì nói chỉ là bạc mà im lặng mới là vàng; là vàng thì bao giờ cũng quí hơn bạc!
Nhờ thinh lặng mà thánh Giuse có thời giờ gắn bó với Chúa cách sâu xa để nhờ đó
ngài dễ dàng nhận ra ý Chúa và cũng dễ dàng chấp nhận thực thi thánh ý Chúa dẫu
cho đó là điều không dễ dàng vì đụng chạm đến giá trị và quyền lợi cá nhân của
ngài (cha chay và chồng chay).
Thinh lặng là biểu hiện của sự hiểu biết. Ông bà ta vẫn nói: “Ngôn giả
bất tri, tri giả bất ngôn”; nghĩa là người không biết thì lại lắm mồm vì tưởng
người khác không biết như mình, ngườì biết thì lại không nói, vì nghĩ rằng mọi
người đều biết. Heidegger khuyên chúng ta thực tập thinh lặng, bớt nói, bớt
phát biểu, bớt bàn tán….không phải để ta nên ngu muội, vô tri, nhưng để cho tâm
khảm suy nghĩ của chúng ta hoà quỵện với sinh linh vạn vật, và chỉ khi đó chúng
ta mới có thể thấu đạt hết mọi ngóc ngách, thông tường mọi thế thái, biến
chuyển trong sự biểu đạt khôn cùng của nhân sinh, của nhiên giới. Đó cũng là ý nghĩa
mà nhà thơ tài danh của Ấn Độ Rabindranath Tagore muốn chuyển tải khi ông viết:
“Nước trong chậu thì sóng sánh; nước trong biển cả thì thẫm đen.....”
Chính nhờ sự thinh lặng trong đêm vắng, Thánh Giuse đã nhận ra được ý
muốn của Chúa, lắng nghe được Lời Chúa nói. Phân biệt được điều gì đúng, điều
gì sai và chọn lựa cách thế thực hiện như thế nào đẹp ý Chúa nhất. Chính vì thế
ngài đã hết lòng bảo vệ, chăm sóc Đức Maria và Hài Nhi Giêsu vượt qua
những sóng gió của cuộc đời. Và trở nên “người công chính”.
Thinh lặng chính là thầy dạy sự khôn ngoan.
Nhìn vào đời sống, chúng ta thầy rằng mình đã sai lỗi quá nhiều trong
lời nói. Bởi vì “đa ngôn thì đa quá”. Nói nhiều thì trở nên nói dai và kéo theo
nói dở, nói ẩu và dại. Bởi đó hãy thận trọng trong lời nói. Ném một lông vịt
vào trong gió, thì làm sao nhặt lại được. Một lời nói ra bốn ngựa đuổi theo
cũng không kịp “tứ mã nan truy”. Vì vậy mà lời nói sẽ trở nên mối
nguy cơ đánh mất tình thương, chia cắt tình thân và gây nên đau khổ cho nhau.
Hãy học cùng thánh Giuse bài học thinh lặng nhất là trong nhữn giây phút
căng thẳng và sóng gió. Bởi nếu biết thinh lặng đúng lúc ta sẽ chặng được 90%
đổ vỡ đáng tiếc, vì thinh lặng là thái độ khôn ngoan nhất của con người và là
phương thuốc chữa lành những tội lỗi xấu xa.
Truyện kể rằng: Xưa một nhà vua Ấn Độ, muốn thử nhân tài của một
nước Chư hầu liền gửi tới nước này ba pho tượng vàng, giống hệt nhau.
Nhà vua Ấn Độ yêu cầu nhà vua Chư hầu cho biết trong ba pho tượng
vàng này, đâu là pho tượng quí giá nhất.
Nhà vua nước Chư hầu cho triệu tập các nhà thông thái tới để
đánh giá ba pho tượng vàng này, tìm ra xem pho tượng nào quí giá nhất. Các nhà
thông thái nghĩ ngay tới giá trị của mỗi pho tượng sẽ căn cứ vào cân nặng nhẹ,
hoặc vào tuổi vàng tốt xấu, hoặc căn cứ vào nghệ thuật tìm thấy trên ba pho
tượng vàng! Nhưng rồi các nhà thông thái đành phải bó tay, vì ba pho tượng này
giống hệt nhau về nghệ thuật, khối lượng và tuổi vàng.
Nhà vua nước Chư hầu rất buồn, vì không biết được giá trị hơn
kém của ba pho tượng. Vua liền cho loan báo khắp nước: Ai tìm được bí mật giá
trị của mỗi pho tượng sẽ được trọng thưởng.
Có một người tù, biết chuyện xin được xem ba pho tượng và nếu anh ta tìm
ra giá trị hơn kém của ba pho tượng này thì anh chỉ xin một điều kiện là cho
anh được tự do.
Lập tức nhà vua cho anh xem ba pho tượng. Vừa ngó xong ba pho tượng, anh
ta xin một cọng rơm. Chỉ trong ít phút, anh đã khám phá ra giá trị hơn kém
của ba pho tượng vàng.
Anh lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ nhất, thì thấy cọng rơm
xuyên từ lỗ tai này sang lỗ tai kia, anh bảo: “ đây là pho tượng ít giá trị
nhất, vì nó tượng trưng cho hạng người nghe điều gì, vừa vào tai nọ, đã ra tai
kia, không biết ghi nhớ, không để tâm gì suy nghĩ điều đã nghe”.
Anh ta lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ hai, thì thấy cọng
rơm đi từ lỗ tai chạy xuống miệng pho tượng. Anh bảo: “pho tượng này hơn pho
tượng trước là vì nó tượng trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ nhưng mắc
khuyết điểm là: vừa nghe được gì đã vội nói ngay, không suy nghĩ xem điều mình
nghe đúng hay sai, nói ra có lợi hay có hại”.
Anh lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ ba, thì thấy cọng rơm
đi từ lỗ tai chạy xuống bụng. Anh nói: “pho tượng này quý giá nhất, vì nó
tượng trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ, biết để lòng suy nghĩ, biết ghi
vào tâm dạ mình.
Vua nước lớn nghe được lời giải đáp của thần dân nước nhỏ thì vô cùng
kính nể. Ông về nói với các quan trong triều: “Nước họ có người thông minh tài
giỏi như vậy, hẳn nước họ là nước mạnh mẽ, hưng thịnh, ta nên giao hoà với họ
chứ không nên giao chiến”.
2. Thứ hai thánh Giuse dạy ta bài học về sự tín thác và sự vâng
phục Chúa.
Nếu ông Giacaria nghi ngờ về ý định của Thiên Chúa qua biến cố truyền
tin của thiên thần Chúa nơi đền thờ và Mẹ Maria ngỡ ngàng trước lời mời gọi của
Thiên Chúa nơi biến cố truyền tìn, thì Giuse lại hoàn toàn vâng phục không một
lời chấp vấn hay bối rối gì cả.
Thánh Kinh thuật lại: Khi biết được Đức Maria mang thai là do quyền năng
Chúa Thánh Thần, Thánh Giuse đã không ngần ngại nhận Đức Maria về nhà mình để
chở che và nuôi dưỡng. Nhận lãnh hay bảo lãnh Đức Maria về nhà cũng đồng nghĩa
Thánh Giuse giải cứu Đức Maria khỏi búa rìu dư luận và thoát khỏi án
tử. Việc bảo trợ Đức Maria cũng có nghĩa là đồng bảo trợ Hài Nhi đang được
cưu mang trong cung lòng Đức Maria. Việc nhận Đức Giêsu làm con cũng đồng nghĩa
với việc bảo trợ cho Đức Giêsu sinh ra cách hợp pháp và đưa Đức Giêsu vào trong
dòng tộc vua Đavít.
Vâng phục ý Chúa, không chỉ bảo trợ cho Hài nhi Giêsu sinh ra hợp pháp
mà thánh Giuse còn bảo toàn mạng sống của Đức Giêsu khỏi nanh vuốt của vua
Hêrôđê qua việc vâng theo lời báo mộng của Chúa trong đêm mà nhanh chóng đem mẹ
Người và Hài Nhi Giêsu vượt đường xa hiểm trở gần 500 cây số xuyên qua sa mạc
dài hơn 200 km không một bóng cây, không một ngọn cỏ, không một giọt nước, rất
gian khổ để đến Ai-cập tị nạn. Và khi tình hình yên ổn, một lần nữa Giuse
lại nghe theo lời báo mộng bỏ Ai-cập đem gia đình trở về Palestine, định cư tại
Nagiarét để chăm sóc nuôi dưỡng bằng chính công sức lao động chân chính của
mình với nghề thợ mộc.
Còn chúng ta thì khác, chúng ta thường tìm ý mình hơn là ý Chúa. Và mỗi
khi gặp phải những tai ương hoạn nạn, chúng ta thường kêu trách và xúc phạm đến
Chúa, vì chúng ta cho rằng Chúa bất công và vâng lời chỉ là một hành động hèn
nhát, mất tự do và chôn vùi nhân phẩm.
Chúng ta không phải lúc nào cũng biết được kế hoạch của Thiên Chúa dành
cho chúng ta. Chúng ta chỉ biết rằng cách của Người thì khác với cách của
chúng ta, nhưng cách của Người thì luôn luôn tuyệt vời nhất. Vì thế, hãy
tín thác và vâng phục thánh ý Thiên Chúa, để chúng ta sẽ trở nên những tôi tớ
trung thành và khôn ngoan như thánh cả Giuse ngày xưa.
Truyện kể rằng: Có 3 cái cây trên một ngọn đồi
trong rừng, cùng tranh luận với nhau về những hi vọng và giấc mơ của chúng...
Cái cây đầu tiên nói: “Tôi hi vọng một ngày nào đó tôi sẽ trở thành tủ
đựng vàng bạc châu báu. Tôi sẽ được nhét đầy vàng, bạc và ngọc quý, được trang
hoàng với nghệ thuật chạm khắc cầu kỳ và mọi người sẽ thấy rằng tôi rất đẹp”.
Đến lượt mình cây thứ hai nói: "Tôi ao ước sẽ được là một con
thuyền mạnh mẽ. Tôi sẽ chuyên chở các vị vua và hoàng hậu đến mọi nơi trên thế
giới. Mọi người sẽ cảm thấy an toàn khi ngồi trên thuyền tôi vì thân tàu mạnh
mẽ và vững chắc".
Cuối cùng cây thứ ba mơ ước: "Tôi muốn được là một cây cao lớn và
mạnh mẽ nhất trong rừng. Mọi người sẽ nhìn thấy tôi trên ngọn đồi, nhìn lên các
cành của tôi và biết rằng tôi đang vươn cao và gần bầu trời đến mức nào. Tôi sẽ
mãi là cái cây vĩ đại nhất và mọi người sẽ luôn nhớ đến tôi".
Sau nhiều năm cẩu nguyện, ngày mong đợi của chúng cũng đến - một nhóm
người lấy gỗ đến khu rừng đó.
Một người trong bọn họ tiến đến bên cây thứ nhất và nói: "Cây này
trông có vẻ chắc lắm đấy. Tôi nghĩ là tôi sẽ bán nó cho anh thợ mộc" và
anh bắt đầu đốn cây. Cái cây cảm thấy rất hạnh phúc vì nó nghĩ rằng anh thợ mộc
sẽ dùng nó để đóng thành một hộp đựng đồ quý giá...
Nhìn thấy cây thứ hai, người thợ rừng bảo: "Cây này cũng chắc lắm
đấy, ta sẽ bán nó cho một hãng đóng thuyền". Cây thứ hai vô cùng sung sướng
vì nghĩ rằng mình sắp được đóng thành một con thuyền lớn.
Khi người thợ rừng tiến đến gần cây thứ ba, nó cảm thấy thật sợ hãi bởi
vì nó biết rằng nếu ông ấy hạ nó giấc mơ của nó sẽ không thể nào thành hiện
thực được. Một người thợ bảo "Tôi chưa có dự định gì đặc biệt cho số cây
của tôi nhưng tôi sẽ chặt cái cây này". Và ông ta cưa
nó.
Khi cây thứ nhất đến tay người thợ mộc, ông đóng nó thành máng ăn cho
ngựa. Sau đó ông ấy đặt nó trong chuồng ngựa và chất đầy cỏ khô lên. Đây không
phải là điều cái cây mơ ước.
Còn cây thứ hai, nó được xẻ ra và đóng thành một cái thuyền câu cá nhỏ.
Mơ ước được trở thành một con thuyền mạnh mẽ và được chở các vị vua đã kết
thúc.
Cây thứ ba thì bị cưa thành những thanh gổ lớn và bị xếp vào một góc tối
tăm, hôi hám.
Rồi năm tháng trôi qua, những cái cây đã quên hết ước mơ của mình. Thế
rồi một ngày nọ một người đàn ông và một phụ nữ đến bên chuồng ngựa. Cô ấy sinh
nở tại đây và họ đặt đứa bé nằm trong lớp cỏ khô trong máng ăn được đóng từ cây
thứ nhất. Người đàn ông ao ước có được một cái giường cũi cho đứa bé và ông ấy
sẽ sử dụng cái máng với mục đích này. Cái cây cảm nhận được tầm quan trọng của
việc này và nó biết rằng nó đang giữ trong tay một tài sản quý báu nhất.
Vài năm sau, có một nhóm người bước lên chiếc thuyền câu được làm từ cây
thứ hai. Một người đàn ông mệt và ngủ thiếp đi. Trong khi họ đang lênh đênh
trên biển, một cơn bão lớn nổi lên và cái cây không nghĩ rằng mình đủ mạnh để
đưa họ qua cơn sóng to gió lớn này. Họ đánh thức người đàn ông đang nằm ngủ, ông
ấy đứng dậy và nói: "Biển lặng". Ngay tức thì cơn bão tan biến. Trong lúc này cây thứ hai biết rằng nó đang
được chở vị vua của tất cả các vị vua trên thuyền.
Cuối cùng cũng có người đến và mang cái cây thứ ba đi. Nó được khiêng
qua các con đường. Suốt dọc đường người ta nhạo báng người đàn ông đang khiêng
nó. Khi họ lên đến đỉnh đồi, người đàn ông kia bị đóng đinh trên cây và bị treo
ở đó cho đến chết. Ngày Chúa nhật đến, cái cây cảm thấy mình đủ mạnh để đứng
trên đỉnh đồi và thật gần với Thượng Đế bởi vì Chúa đã bị đóng trên thân của
nó.
Do vậy, khi mọi việc diễn tiến không đúng với những gì ta mơ ước, hãy
luôn tin tưởng và phó thác vào Chúa bởi vì Người luôn luôn có sẵn kế hoạch cho
chúng ta. Hãy vững tin rồi chúng ta sẽ nhận được quà tặng từ Người. Giống như
những cây kia, cuối cùng cũng đạt được giấc mơ của mình tuy không hoàn toàn
giống như những gì chúng nguyện cầu.
Lạy Chúa, giữa bao triết lý và lắm luồng tư tưởng trong xã hội này, con
phải chọn lựa như thế nào?. Giữa những nền văn hóa đa dạng và những nền văn
minh phức tạp, con biết đâu là đúng, đâu là sai? Xin cho con biết học nơi thánh
Giuse bài học của thinh lặng để trở về với chính mình và với Chúa. Xin cho con
biết chọn tiếng Chúa mời gọi hơn là tiếng đời thúc đẩy và nỗ lực thi hành tiếng
Chúa với hy vọng được trở nên công chính theo gương thánh cả Giuse kính yêu.
Amen.
Thứ ba: Ga 5, 1-3.5-16
Thiếu bác ái yêu thương, việc thực thi lề luật chỉ còn là cái xác không
hồn và những hành động của ta sẽ trở nên mù quáng. Tin mừng hôm nay kêu gọi
chúng ta ý thức trách nhiệm đối với nhau trong cuộc sống, bằng việc thực thi
tình bác ái, qua việc giúp đỡ những người nghèo khổ và bất hạnh. Đó là cách
thức ta thể hiện tâm tình tôn vinh Chúa.
Người bị bại liệt suốt 38 năm dài được Tin mừng hôm nay nói đến. Chắc
hẳn đã-đang và sẽ gặp rất nhiều khó khăn, đau khổ trong đời sống.
Khó khăn trong việc tự chăm sóc bản thân; khó khăn trong việc đi lại;
khó khăn mỗi khi tiếp xúc với những người chung quanh.
Đau khổ vì bệnh tật hành hạ; đau khổ vì bị mọi người bỏ rơi, ngay cả
những người thân “không có người đem xuống hồ…”. Đau khổ vì bị
mọi người khinh ghét, bị xã hội xem thường. Anh bị liệt vào thành phần “mang
kiếp cầm ca”, ăn bám xã hội. Nhưng có lẽ đau khổ nhất vẫn là nỗi đau mặc cảm vì
bị mọi người xem là người tội lỗi.
Nỗi khát khao lớn nhất của anh là được làm người bình thường như bao
người. Được xã hội tôn trọng; được mọi người quan tâm, yêu mến; được tự do đi
lại; nhất là được khẳng định giá trị và phẩm giá làm người của mình.
Hôm nay Chúa Giêsu đã trao ban cho anh món quà vô giá mà anh hằng khao
khát đêm ngày, đó là chữa anh khỏi căn bệnh bại liệt. Quả là niềm vui lớn lao,
niềm vui chính đáng. Ấy vậy mà niềm vui ấy lại bị sự chống đối bởi những giới chức
Do Thái giáo: “Hôm nay là ngày Sabát không được phép vác chõng”. Không những họ
chống đối quyền đi lại và làm người của anh, mà họ còn chống đối cả Chúa Giêsu
vì đã vi phạm ngày Sabát.
Lòng ích kỷ và luật lệ vô hồn, quả là một gánh nặng, một rào cản đáng
sợ, đẩy con người đến chổ vô cảm và cư xử bất nhân với nhau, khiến người khác
không thể vươn lên sống xứng đáng là con người được. Họ lại không hiểu rằng:
“vinh quang Thiên Chúa là con người được sống”. Bất cứ nơi nào phẩm giá con
người được nhìn nhận, bất cứ một con người nào được tôn trọng, thì nơi đó Thiên
Chúa được tôn vinh.
Xin cho chúng ta ý thức rằng: khi chối bỏ và khước từ thể hiện lòng nhân
ái đối với người khác là chúng ta đã xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Yêu thương
và thực thi bác ái đối với người khác cũng là cách chúng ta đền bù tội lỗi
trong mùa chay thánh này.
Suy niệm 2:
Tin mừng hôm nay thuật lại phép lạ Chúa Giêsu chữa cho người bại liệt 38
được khỏi. Bại liệt thể xác không nguy hiểm bằng bại liệt tâm hồn. Xin Chúa
cũng cứu chữa căn bệnh bại liệt tâm hồn của mỗi chúng ta.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay gửi đến chúng ta hai thông điệp quan trọng:
1. Chúa Giêsu chính là nguồn nước sự sống mà tiên tri Edekiel đã nhìn thấy trong thị kiến. Dòng nước mang
đến sự sống phong phú cho mọi sinh vật, làm cho cây cối luôn mãi xanh tươi, trổ
sinh nhiều hoa trái tốt lành, làm của ăn nuôi sống con người và lá của nó chữa
lành nhiều bệnh tật. Hình ảnh đó tiên báo về Đức Giêsu. Chính Ngài là nguồn
nước của sự sống ấy. Để từ nay ai tin vào Ngài, đến với Ngài và tắm trong ân
sủng của Ngài thì mọi đau khổ, bệnh tật phần xác cũng như phần hồn đều được cứu
chữa lành sạch.
Đúng vậy, người bị bất toại (bại liệt) 38 năm qua, tuy anh ta không được
ai đem xuống hồ Bethsaida mỗi khi nước động, nhưng anh ta lại được tắm trong
nguồn nước tình thương và ân sủng của Giê su nên tức khắc anh được
lành bệnh.
2. Căn bệnh tâm hồn nguy hiểm hơn bệnh thể xác. Vì thế sau khi chữa khỏi bệnh cho anh ta, Chúa Giêsu mới căn dặn: “Này,
anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước”. Tội
lỗi là căn bệnh tâm hồn, khiến cho lòng ta trở nên tê liệt, không còn khả năng
mở ra để đón nhận ân sủng của Chúa và sống quảng đại với tha nhân. Con tim trở
nên chai cứng không còn khả năng cảm thương trước nỗi đau của người khác, tựa
như những người biệt phái và luật sỉ, chỉ biết giữ luật cách mù quáng nên đã
nhẫn tâm tìm mọi cách chống đối lại những phép lạ của Chúa Giêsu.
Xin cho mùa chay này, chúng ta biết siêng năng tìm đến với Chúa Giêsu mà
đắm mình trong nguồn nước ân sủng của ngài, bằng cách tích cực tham dự các bí
tích, nhất là bí tích thánh thể và hòa giải, nhờ đó mà căn bệnh bại liệt tâm
hồn của chúng ta hy vọng mới được Chúa chữa lành.
Thứ tư: Ga 5, 17-30
Người kitô hữu, là người có Chúa Kitô. Nghĩa là từng suy nghĩ, lời nói
và hành vi của ta phải là của Chúa như chính Chúa Giêsu là hiện thân của Chúa
Cha: “Ai thấy Ta là thấy Cha”. Xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng phản
ánh trung thực dung mạo của Chúa Giêsu hơn, để qua ta, mà mọi người nhận biết
Đức Giêsu.
Định luật tình yêu dạy chúng ta rằng: “Yêu ai thì ở gần người ấy. Yêu ai
thì nên giống người ấy. Yêu ai thì muốn ở trong người ấy, và yêu ai thì sẵn
sàng sống chết vì người ấy”. Chính vì yêu mến Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã
trở nên giống Cha mọi đàng.
Mối bận tâm lớn nhất của Chúa Giêsu là thể hiện thánh ý Cha Ngài: “Lạy
Cha, này con xin đến để thi hành thánh ý Cha”. Chúa Giêsu khẳng định,
suốt cuộc đời, Ngài làm việc như Cha Ngài: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn
làm việc, thì tôi cũng làm việc”. Chúa Giêsu cũng xác định cho chúng ta
biết, Ngài chính là hình ảnh của Thiên Chúa, vì “Ta và Cha là một”, và “Ai
thấy Ta là thấy cha”.
Như vậy, lẽ sống của Chúa Giêsu là sống như Cha. Trong mọi sự, Ngài đều
lấy Cha làm mẫu mực. Và Ngài muốn chúng ta cũng phải lấy Cha làm mẫu mực cho
đời sống mình: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng
trọn lành”. Do đó muốn nên giống Chúa Cha ta chỉ cần nên giống Chúa Giêsu, bởi
chính Người là dung mạo đích thực của Chúa Cha.
Giống Chúa Giêsu trong mối bận tâm duy nhất là cứu độ nhân loại.
Giống Chúa Giêsu ở thái độ khiêm nhường vâng phục thánh ý Chúa Cha
Giống Chúa Giêsu bằng cách sống thành thật: “Ta là đường là sự thật và là sự sống”. Sự thật trong lời nói, trong việc làm, trong yêu thương.
Như trái tim không bao giờ ngừng đập, tình thương cũng không bao giờ ngơi nghỉ. Chúa Giêsu vẫn liên lỉ làm những việc tình thương, bất chấp là ngày Sa-bát, vì ngày Sa-bát dù nghỉ ngơi, nhưng Thiên Chúa vẫn quang phòng vũ trụ và con nguời do chính Ngài dựng nên.
Xin Chúa cho chúng ta mỗi ngày trở nên giống Chúa Giêsu hơn, để tâm hồn,
trái tim, suy nghĩ và cách sống của chúng ta ngày càng phản ánh trung thực dung
mạo của Chúa. Nhờ đó mà mọi người nhận ra chúng ta là mộn đệ đích thật của Chúa Giêsu. Ngang qua cách sống của ta danh Chúa được mọi người yêu mến và tôn vinh.
Suy niệm 2:
Bận tâm của Chúa Giêsu khi đến trần gian là thực hiện thánh ý Thiên Chúa Cha,
trở nên một với Chúa Cha; Người cũng mong muốn chúng ta phản ánh trung
thực lại khuôn mặt đích thực của Người. Xin cho mỗi chúng ta luôn biết bận
lòng thực thi thánh ý Chúa, với mong muốn khuôn mặt của Đức Kitô giàu lòng
thương xót được khắc họa đậm nét hơn trong đời sống hàng ngày của chúng ta.
Đức Giêsu chính là TC làm người. Ngài đến trần gian để nói cho chúng ta
biết về Chúa Cha và dạy cho chúng ta biết cách sống thế nào cho đẹp lòng Chúa
Cha. Chúa Giêsu không chỉ nói và hướng dẫn ta sống đẹp ý Cha mà Ngài còn sống
để nêu gương cho chúng ta. Để từ nay ai sống như Đức Kitô là sống đẹp
lòng Chúa Cha và xứng đáng trở thành con yêu dấu của Chúa Cha trong Chúa
Giêsu Kitô.
Khi lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta được trở nên người Kitô hữu,
nghĩa là người có Chúa Kitô nơi bản thân mình. Vì thế mà những suy nghĩ, lời
nói và hành vi của ta phải là của Chúa. Để làm sao qua đời sống hàng
ngày của ta hình ảnh của Kitô được lớn lên, với mong muốn mọi
người nhận ra khuôn mặt đích thực của Chúa qua đời sống tốt lành của chúng ta, như Đức Giêsu là hình ảnh trung thực của Chúa Cha. Amen.
Thứ năm: Ga 5, 31-47
Tin hay không tin là chấp nhận hay từ chối. Dù những người Do Thái, nhất
là nhóm Biệt Phái đã chứng kiến biết bao điều lạ Chúa Giêsu đã làm, nhưng họ
vẫn không tin nhận Chúa Giêsu đến từ Thiên Chúa. Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu
kiên nhẫn đưa ra những bằng chứng xác thực để minh chứng về Ngài. Nhưng vì
thiếu lòng yêu mến Chúa và cứng lòng, họ vẫn không tin.
Xin cho chúng ta biết nhận ra lời dạy của Chúa qua các dấu chỉ của thời
đại, nhất là qua lời Chúa dạy nơi Thánh Kinh mà khiêm tốn thi hành với niềm tin
tưởng vào ơn cứu độ Chúa ban.
Để ứng cử và thi hành nhiệm vụ HĐND hay Đại Biểu Quốc Hội, người ta cần
được sự giới thiệu của địa phương và được cử tri tín nhiệm cao.
Để làm Linh Mục nhằm thi hành sứ vụ tông đồ, cần có người giới thiệu, được
đấng bản quyền chuẩn nhận, cho phép.
Còn Chúa Giêsu trái lại, khi thi hành sứ mạng Chúa Cha giao phó là cứu
độ nhân loại, thì chẳng có sự chuẩn nhận nào của Giáo quyền cũng như Chính
quyền. Nên không lạ gì Ngài luôn bị khước từ và chống đối. Nếu ta ở vào trường
hợp của họ lúc ấy, chúng ta cũng khó lòng chấp nhận Đấng Cứu Thế là ông Giêsu
đến từ Nazarét. Một Đấng Cứu thế xem ra không phù hợp với quan niệm, suy nghĩ
của con người.
Thân thế và sứ mạng của Chúa Giêsu xem ra không hợp pháp theo quan niệm
con người, nhưng đó lại phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Vì Đức Giêsu là
Thiên Chúa nên Ngài vượt lên trên và không phụ thuộc vào những ràn buộc của thế
quyền. Nhưng để cho thế quyền chấp nhận, Chúa Giêsu sẵn sàng đưa ra những bằng
chứng xác thực để minh chứng về thân thế và sứ mạng của Ngài qua bài tin mừng
hôm nay.
Thứ nhất: Bằng chứng của Gioan Tẩy Giả: “Đấng
đến sau tôi, nhưng quyền thế hơn tôi. Tôi rửa anh em bằng nước, nhưng Đấng ấy
sẽ rửa anh em trong Thánh Thần”.
Thứ hai: Chính lời Tôi nói và những việc Tôi làm: Có
ai làm cho người mù mới sinh được khỏi như Chúa Giêsu. Có ai làm cho một người
phong cùi được sạch. Có ai làm cho một đứa bé đã chết được sống lại. Có ai làm
cho đứa con trai của bà goá thành Naim bị cột chặt trong vải liệm và đang
khiêng đem chôn được hồi sinh. Có ai làm cho ông Lazarô chết 4 ngày được chỗi
dậy. Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền làm những điều ấy.
Thứ ba: Chúa Cha làm chứng về Ngài: “Này
là Con Chí Ái của Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”.
Thứ tư: Bằng chứng của Thánh Kinh và Môsê đã loan báo
về Ngài chính là Đấng Messia.
Tuy Chúa đã đưa ra những bằng chứng xác thực như vậy, nhưng người Do
Thái không nhìn nhận Ngài.
Lý do: Vì họ không có lòng yêu mến Thiên Chúa và vì tính ích kỉ, hám
danh. Vì thế họ đã không còn khả năng mở lòng đón nhận Ngài.
Dù họ có tin hay không tin, thì sự thật Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm
người. với tất cả nhân tính và Thiên tính nơi Ngài. Suốt hơn hai ngàn năm qua,
không ai có thể để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử như Chúa Giêsu.
Không nhà cách mạng tài ba nào có thể biến đổi thế giới được như Ngài.
Không có vị tôn sư nào có` một dòng dõi môn đệ đông đảo như Ngài. Không có tên
ai được nhắc một cách cực trong như tên Ngài. Không có một ân nhân nào được yêu
mến say mê như Ngài. Thế mới rõ Đấng vĩ đại ấy chính là một người, nhưng là
người Chúa, vì Ngài là Con Thiên Chúa.
Xin cho chúng con và hết mọi người biết khiêm tốn tin nhận Đức Kitô là
Chúa lòng mình và nổ lực hết lòng hết sức sống theo lời Người chỉ dạy với tình
yêu mến. Amen.
Thứ sáu: Ga 7,1-2.10.25-30
Tự mãn về sự hiểu biết của mình, dân Do Thái nói chung, cách riêng những
người Biệt Phái đã trở nên mù quáng, không còn khả năng nhận ra Đức Giêsu chính
là Đấng từ Thiên Chúa mà đến. Do đó họ đã không tin nhận Ngài và ra sức chống
đối quyết liệt. Dù ngày nay chúng ta dễ dàng tin Đức Giêsu là Thiên Chúa làm
người, nhưng nhiều lúc đức tin chúng ta cũng bị chao đảo. Xin Chúa ban thêm
lòng tin nơi chúng ta. Và cho nhiều người chưa tin Chúa cũng đón nhận ơn đức
tin như chúng ta.
Càng ngày cuộc tranh luận về nguồn gốc của Chúa Giêsu với người Do Thái,
cách riêng với nhóm Biệt Phái càng trở nên gây gắt. Khiến họ đưa đến quyết định
bắt và giết Ngài.
- Bằng lời giảng dạy khôn ngoan đầy thuyết phục, đã khiến cho dân chúng
rất ngạc nhiên về Đức Giêsu. Những ai thành tâm đều tin rằng lời lẽ khôn ngoan
của Đức Giêsu phải đến từ Thiên Chúa.
- Với những bằng chứng cụ thể do ông Môsê đã truyền phải làm phép cắt bì
mà họ luôn tuân giữ và có người đã chịu phép cắt bì ngay trong ngày sabát để
khỏi phạm luật Môsê, thì tại sao Chúa Giêsu cứu chữa người bệnh trong ngày
sabát lại phạm luật. Phải chăng chữa cho một phần cơ thể bị khiếm khuyết trong
việc cắt bì thì đáng làm trong ngày sabát, còn việc cứu chữa toàn thân thể
người bị bệnh tật trong ngày sabát thì không được làm?
Từ đó, Chúa Giêsu khẳng định: sở dĩ họ không tin nhận Ngài là do họ chỉ
xét đoán theo bề ngoài. Họ cho rằng họ biết quá rõ về lý lịch Đức Giêsu. Biết
nơi sinh, chổ ở và còn biết cả cha mẹ, bà con họ hàng của Người nữa. Một người
xuất thân từ một nơi chốn, một hoàn cảnh và một gia đình nghèo khó, tầm thường,
nhỏ bé thì làm sao là Đấng Cứu Thế được! Cách riêng với giới lãnh đạo thì ghen
ăn tức ở vì thấy Đức Giêsu được dân chúng ngưỡng mộ. Nhất là họ không thể chịu
nổi những lời tuyên bố về nguồn gốc xuất thân từ Thiên Chúa của Ngài. Nên họ đã
quyết tâm trừ khử Ngài.
Thế đã rõ: Vì kiêu căng-tự mãn, không muốn đón nhận lời chân lý do Chúa
Giêssu giáng dạy nên đã có cái nhìn sai lạc về Chúa. Và vì tự ái, ghen ghét,
không muốn người khác hơn mình mà họ tìm cách giết hại Chúa.
Xin Chúa giúp chúng con hết lòng tin yêu Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ trần
gian. Xin cho chúng con biết vâng theo lời Người hướng dẫn mà ăn năn sám hối
quay về đón nhận tình thương và ơn chữa lành những vết thương lòng trong những
ngày mưa chay này.
Thứ bảy: Ga 7, 40-53
Sống theo cảm tính và nhận định chủ quan, khiến cho con người có cái
nhìn sai lạc, dễ dàng đưa đến cách hành xử tàn bạo, độc ác. Đó là điều mà Tin
mừng hôn nay muốn đề cập đến.
Trước những phép lạ và lời giảng dạy của Chúa Giêsu, người Do Thái có
những phản ứng khác nhau: Người bình dân, đơn sơ thì tin Ngài là một ngôn sứ
cao cả được Môsê báo trước. Một số người hiểu biết thì cho rằng: Chúa Giêsu là
Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế như lời ngôn sứ Isaia đã loan báo. Còn những
người thuộc giới lãnh đạo tôn giáo thì phủ nhận hoàn toàn, cho rằng: Ngài không
phải là ngôn sứ, cũng không phải là Đấng Cứu Thế.
Có nhiều lý do:
1. Không hội đủ những điều kiện về địa dư và dòng tộc.
2. Sứ điệp lời Chúa có nguy cơ làm cho dân chúng sao lãng lý tưởng đấu
tranh giải phóng dân tộc.
3. Lời giảng dạy và phép lạ Chúa Giêsu làm lu mờ hình ảnh và uy thế của
họ. Vì thế họ quyết định nhổ “cái gai Giêsu” ra khỏi mắt họ.
Nhưng đối với những người am tường luật lệ và yêu mến sự thật thì có cái
nhìn trong sáng và cách hành xử công minh. Ông Nicôđêmô là một điển hình. Ông
là thành viên của hội đồng lập pháp, là tiến sĩ luật có thế giá và là người can
đảm đứng ra biện hộ cho Chúa Giêsu, ông nói: “muốn bắt người ta, tức là
Chúa Giêsu, thì trước hết phải đối diện thẩm vấn, phải có nhân chứng và xét xử
theo luật lệ”. Nhưng lời đề nghị của ông chẳng ăn nhằm gì với số đông
chỉ biết xử dụng luật rừng.
Thời nay cũng vậy. Chân lý thuộc về số đông và vận mạng con người nằm
trong tay những kẻ có quyền. Công lý thường bị bẻ cong và hậu quả là những
người sống theo sự thật, chân lý và tình thương bị xem là người khờ dại. Có
nguy cơ đẩy toàn bộ thế hệ đi vào hướng nhìn lệch lạc, nhầm lẫn. Không còn phân
biệt đâu là thật, đâu là giả; đâu là chính, đâu là phụ; đâu là điều ưu tiên
phải thực hiện và đâu là điều cần bỏ qua nếu cần.
Xin cho chúng ta biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Biết làm theo ý Chúa
hơn ý mình. Biết ưu tiên làm việc của Chúa, cho Chúa và vì Chúa. Nhất là biết
chọn Chúa làm lẽ sống và là con đường để ta dấn bước. Xin đừng để ta sống theo
cảm tính nhẹ dạ, cả tin vào những luồng tư tưởng, thông tin bên ngoài áp đặt,
nhưng biết khôn ngoan lấy Lời Chúa và Giáo Huấn Giáo làm lẽ sống. Hy vọng chúng
ta không phải đi vào vết xe đổ của người Do Thái khi xưa.
25/ 03. LỄ TRUYỀN TIN: Is 7,10-14; 8,10; Dt 10,4-10; Lc 1, 26-38
Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta long trọng mừng Lễ Truyền Tin. Kỷ
niệm biến cố Thiên Thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria, khởi đầu cho chương
trình cứu độ đầy yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người.
Để thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa đã chọn gọi Đức Maria cộng
tác trong việc cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế và Đức Maria đã đáp lời bằng
hai tiếng “xin vâng”. Xin cho chúng ta cũng biết noi gương Đức Maria khiêm tốn
và ngoan ngoãn vâng theo thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh, để chương trình cứu
độ của Chúa nơi ta được hoàn thành tốt đẹp.
Mỗi khi đọc kinh Kính mừng, chúng ta nhắc lại lời truyền tin của sứ thần
Gabriel cho Đức Maria xưa: “kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng
bà, bà có phước lạ hơn mọi người nữ…”; cũng đồng nghĩa với lời Thiên Thần chào
Đức Maria: “Mừng vui lên, Đấng đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng bà…”.
Lời truyền tin này là một lời chào chúc quý giá và mang giá trị hết sức
cao cả. Bởi lẽ có ơn phúc nào cao lớn cho bằng ơn phúc được Thiên Chúa ở cùng
(chính Chúa là nguồn mọi ơn phúc và Đấng ban ơn phúc. Được Thiên Chúa ở cùng
thì có mọi ơn phúc nơi mình rồi). Và có hạnh phúc nào lớn bằng hạnh phúc được
Thiên Chúa ưu ái chọn làm Mẹ Thiên Chúa. (được chọn làm mẹ vua đã là vinh dự và
ơn phúc quá lớn rồi huống chi là Mẹ Vua Trời).
Ý thức sứ mạng cao quý ấy trong vui mừng khôn tả vượt trí hiểu, Đức Maria
đã bối rối và tự hỏi lời chào ấy có ý nghĩa như thế nào? Sau khi được nghe
Thiên Thần giải thích, Đức Maria biết đó là ý định Thiên Chúa, dù không hiểu
hết nhưng Đức Maria vẫn khiêm tốn ngoan ngoãn vâng phục.
Có nhiều điều xảy ra trong đời sống vượt ngoài trí hiểu và khả năng
chúng ta, chúng ta thấy không thể thực hiện được, nhưng đối với Thiên Chúa thì
mọi chuyện đều có thể. Từ không Chúa đã tạo thành vũ trụ vạn vật chỉ bằng lời
phán truyền. Chỉ cần bùn đất Chúa đã tác tạo nên con người và bằng hơi thở Chúa
đã làm cho con người trở nên giống hình ảnh TC. Và với quyền năng bà chị họ
Isave son sẻ đã mang thai và sinh con. Như thế thì việc Đức Maria cưu mang Đấng
Cứu Thế mà vẫn đồng trinh là chuyện rất đổi bình thường với quyền năng của TC.
Điều quan trọng là chúng ta sẵn sàng để Chúa hành động nơi chúng ta như Đức
Maria không?.
Tuy Thiên Chúa quyền năng làm được mọi sự. Nhưng Thiên Chúa lại yêu
thích con người cộng tác với Chúa. Để chọn gọi dân riêng, Chúa đã mời gọi tổ
phụ Abraham cộng tác, và Abraham đã vâng lời bỏ xứ sở ra đi theo ý định Thiên
Chúa. Thế là một dân riêng của Chúa đã hình thành. Để cứu dân tộc Israel ra
khỏi kiếp nô lệ bên Ai cập, Thiên Chúa đã mời gọi Môsê cộng tác, dù sợ hãi về
sự kém cỏi của mình, Môsê vẫn vâng phục ý muốn của Chúa. Thế là cuộc giải phóng
đã hoàn tất. Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa chọn Đức Maria, một người thiếu nữ
bình thường, nghèo khó làm mẹ Đấng Cứu Thế và Mẹ đã ngoan ngoãn tin tưởng vâng
nghe. Thế là chương trình cứu độ từ ngàn đời của Thiên Chúa được thực hiện. Để cứu
độ mỗi chúng ta, Chúa cũng mời gọi chúng ta hợp tác với Chúa. Như thánh
Augustinô đã nói: “Chúa dựng nên con Chúa không cần con, nhưng để cứ độ con
Chúa cần con cộng tác”.
Xin cho chúng ta tích cực cộng tác vào ơn cứu độ của Chúa để cứu chính
mình và tha nhân.
* Gợi ý thêm:
Trước ơn phúc lớn lao, Đức Maria đã bối rối và muốn tìm hiểu xem sự việc
sẽ xảy đến như thế nào? Một khi nhận biết là ý định của Thiên Chúa, Đức Maria
sẵn sàng vâng theo chứ không hề nghi ngờ, hay kém tin.
Trước những thử thách, thất bại, đau buồn trong cuộc sống, nhiều lúc đức
tin chúng ta cũng bị lung lay nên sinh ra nghi ngờ và than trách Chúa, ít khi
chúng ta bắt chước Đức Maria tìm hiểu xem Chúa muốn gì qua những biến cố vui
buồn, thành công thất bại, hạnh phúc hay bất hạnh ấy trong cuộc sống.
Ta hãy tin rằng mỗi biến cố đều có sứ điệp rất quan trọng Chúa muốn gởi
đến ta và mong ta đọc ra thánh ý của Chúa mà chấn chỉnh lại đời sống mình. Chúa
luôn đi ngang qua cuộc đời chúng ta, nhưng chúng ta lại không gặp Ngài. Chúa
luôn đồng hành với ta, nhưng ta lại không nhận ra Ngài. Chúa hằng gõ cửa nhà
chúng ta, nhưng ta lại không nhận ra tiếng Ngài.
Xin cho chúng ta biết để tâm suy niệm các biến cố trong đời mà nhạy bén
nhận ra lòng thuơng xót của Chúa như Đức Maria. Amen
(Viết theo Hạt Giống Nẩy Mầm, của cha Carôlô Hồ Bặc Xái)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét