SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXX
THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN
A
Xh 22, 20-26; 1Tx 1,
5c-10; Mt 22, 34-40
*
Suy niệm 1: YÊU NHƯ THẾ NÀO CHO ĐÚNG?
Có
thể nói điều luật quan trọng nhất của nhân loại nói chung, cách riêng với người
Kitô hữu chúng ta là “Tình Yêu.” Bởi khởi nguồn của tình yêu là ở nơi TC “TC là
Tình Yêu.” (1Ga 4,8 ). Ngài là
Đấng đặt vào trong ta tình yêu và dạy cho chúng ta biết yêu. Vì thế chúng ta
không thể sống nếu thiếu tình yêu.
Xin
Chúa đong đầy tình yêu của Ngài vào trong tâm hồn chúng ta, để ta luôn trung
thành “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và yêu tha nhân như chính
mình” như lời Người truyền dạy qua phần phụng vụ lời Chúa hôm nay.
Thời
Chúa Giêsu ở Do Thái có đến 613 luật điều. Trong đó có 365 luật cấm và 248 luật
buộc. Ngoài ra họ còn quy định một số điều luật phụ khác nữa.
Sống
trong một xã hội mà có quá nhiều luật lệ như vậy quả là rối não! Chính vì thế
mà Tin mừng hôm nay cho biết nhóm Biệt phái đã cử ra một nhà thông luật đến để
hỏi thử Chúa Giêsu xem điều luật nào là quan trọng nhất: “Thưa Thầy,
trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?".
Đây
là câu hỏi không dễ trả lời. Bởi nếu Chúa Giêsu đề cao bất cứ luật điều nào
cũng đều vướn phải vấn đề nhạy cảm là “lợi ích nhóm,” vì hiện tình đất nước Do
Thái bấy giờ có nhiều nhóm khác biệt, mỗi nhóm lại theo đuổi và đề cao một số
điều luật. Cho nên nếu ủng hộ nhóm này là xem thường nhóm kia; có nguy cơ gây
nên làn sóng kích động chia rẽ, làm bất ổn trật tự xã hội và gây xáo trộn về
niềm tin tôn giáo. Còn nếu không trả lời thì họ cho là Đức Giêsu không am tường
lề luật và xách động dân chúng bài trừ Ngài.
Chúa
Giêsu dư biết thâm ý của họ nên Ngài khéo léo dẫn đưa nhà thông luật quay về
nguồn cội của lề luật và lời của các tiên tri, bằng cách trích dẫn lại 2 điều
luật quan trọng nhất đã được ghi trong sách Đệ Nhị Luật và sách Lêvi mà ai
cũng tin nhận. Ngài phán rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa
ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi." (Đnl 6,5)
và "Ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi." (Lv
19,18). Rồi Chúa Giêsu kết luận: "Toàn thể Lề luật và sách các
Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó." (Mt 22, 38).
Câu
trả lời của Chúa Giêsu thật khôn khéo và chí lý vì nhóm tôn giáo nào cũng công
nhận điều ấy. Nhưng trên hết là Chúa Giêsu đã liên kết hai điều luật căn bản
“mến Chúa, yêu người” lại thành một; và hướng đến nền tảng và được điều cốt lỏi
của mọi lề luật là “Tình Yêu”.
Là
người Công giáo ai trong chúng ta cũng thuộc lòng 10 điều răn Chúa dạy, được
tóm lại vào 2 điều quan trọng là: “Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu
người như mình ta vậy.” Biết và thuộc lòng như thế, nhưng
không phải ai trong chúng ta cũng đều áp dụng đúng đắn giới luật của “Tình Yêu”
vào trong cuộc sống mình.
Vậy “yêu
Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức …” là yêu như thế
nào? Và “yêu thương tha nhân như chính mình” là yêu ra sao? Đó
là hai vấn đề quan trọng mà tôi muốn chia sẻ với quý cộng đoàn phụng vụ hôm
nay:
1.
Mến Chúa hết lòng, hết linh hồn hết trí khôn. Nghĩa
là ta phải yêu Chúa bằng trọn vẹn con người chúng ta. Được cụ thể hóa qua
hai hành vi sau đây:
-
Thích nghe Lời Chúa và làm theo ý Chúa.
Lời
Chúa nói với ta qua sách Thánh Kinh, qua các giáo huấn Giáo Hội, qua lời chỉ
dạy của quý bề trên, qua các biến cố trong đời sống và qua tiếng nói của lương
tâm. Khi ta biết để tâm lắng nghe tiếng Chúa qua những cách thức đó là dấu hiệu
chúng ta yêu Chúa. Yêu mến Chúa không chỉ là tôn thờ, chúc tụng, tôn vinh, ngợi
khen, cảm tạ Chúa…, nhưng điều quan trọng nhất là phải biết lắng nghe và mau
mắn thực hành lời dạy của Chúa theo gương Đức Maria. Vì yêu ai thì chúng ta vui
thích làm theo ý muốn của người mình yêu.
-
Đặt Chúa vào vị trí trung tâm và cao nhất trong mọi lựa chọn.
Giả
như phải chọn lựa giữa tiền bạc, của cải, danh vọng, quyền lực, lạc thú trần
gian với thánh ý Chúa, thì chúng ta phải sẵn sàng bỏ tất cả để chọn làm theo ý
muốn của Chúa, cho dẫu phải hy sinh thời giờ, sức khỏe, tiền bạc, thú vui, tình
thân và ngay cả mạng sống mình nữa, để danh Chúa được tôn vinh và ý Chúa được
thể hiện.
Đó
là điều mà cộng đoàn tín hữu Thêxalônica đã sống. Thánh Phaolô đã khen ngợi họ
vì trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng họ vẫn tích cực đón nhận lời rao giảng Tin
mừng và hy sinh sống tích cực Tin mừng của Chúa nên họ trở thành gương mẫu đức
tin cho tín hữu ở nhiều nơi khác noi theo.
2.
Yêu thương tha nhân như chính mình. Nghĩa là xem
người khác như chính mình. Mình quan tâm chăm sóc bản thân mình ra sao, thì ta
phải làm như vậy cho tha nhân.
-
Về mặt tiêu cực: ta không ước mong
điều bất lợi, điều ác cho tha nhân như lời chỉ dạy của Tô-bi-a cha dành cho
Tô-bi-a con: “Điều con không thích thì đừng làm cho người
khác” (Tb 4,15a). Đức Khổng Tử cũng khuyên các đệ
tử: “Điều mình không muốn thì đừng làm cho kẻ khác”. Còn sách xuất
hành trong bài đọc 1 hôm nay thì khuyên: “Ngươi chớ làm phiền lòng và
ức hiếp khách ngoại kiều. Các ngươi đừng làm hại cô nhi quả phụ… chớ bắt nó
chịu lãi nặng… hãy trả lại cho kẻ ấy trước khi mặt trời lặn.” (Xh 22,
21-27).
- Về
mặt tích cực: theo lời Chúa Giêsu dạy: “Vậy tất
cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm
cho người ta, vì luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó.” (Mt
7,12).
+
Tình yêu tha nhân còn đòi buộc chúng ta quy hướng về tình yêu giống tình
yêu của Chúa đối với ta: “yêu như Chúa yêu.” (x. Ga
13,34), nghĩa là không chỉ yêu những người thân thuộc và những ai làm lợi cho
ta, mà còn yêu cả những người khó ưa và làm hại ta nữa. Chúa dạy: “Hãy
yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho
những ai bắt bớ và nguyền rủa các con” (Mt 5, 44).
Yêu
thương “như Chúa yêu” là sẵn sàng tha thứ mãi cho những ai xúc
phạm đến ta, cũng như sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để phục vụ lợi ích cho
phần rỗi của họ theo gương Chúa Giêsu, Đấng đã yêu và hiến mạng sống mình để
cho chúng ta được sống và sống dồi dào: “Không có tình thương nào cao
cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga
15,13).
Xin
Thiên Chúa là Tình Yêu tuôn tràn dòng suối tình yêu của Ngài vào trong tâm hồn
chúng ta, để chúng ta có thể thi hành thật tốt giới luật tình yêu mà Chúa đã
chỉ dạy.
Suy niệm 2:
“NHƯ CHÚA YÊU”
Trong ngôn ngữ con người,
có lẽ không có từ ngữ nào được dùng nhiều nhất bằng hai chữ “Tình Yêu”, bởi lẽ
“Thiên Chúa là Tình Yêu.” (1Ga 4,16). Nên chỉ khi nào con người chúng ta biết
yêu giống “như Chúa yêu” thì tình yêu ấy mới hoàn mỹ, tinh tuyền, cao thượng và
phong phú. Yêu Chúa và yêu người là hai mặt của một tình yêu không thể tách rời
nhau được, đó là điểm nhấn mà phụng vụ lời Chúa hôm nay muốn nói với chúng ta.
Xin cho chúng ta cảm nếm
được suối nguồn tình yêu của Chúa mà hiệp thông sâu xa hơn giữa chúng ta với
nhau trong cùng dòng chảy tình yêu của Chúa.
Xã hội Do
Thái thời Chúa Giêsu ngổn ngang những luật lệ, khiến dân chúng không còn
biết phân biệt đâu là chính, đâu là phụ. Ngay cả những người Biệt phái cũng cảm
thấy rối não huống chi là giới bình dân. Tận dụng cơ hội ấy để làm bẻ mặt Chúa
Giêsu, nhóm Biệt phái đã cử một người thông luật đến với Đức Giêsu nhằm thử xem
mức độ biết về luật lệ của Người ở mức độ nào? “Thưa Thầy, trong lề
luật, giới răn nào trọng nhất?” Với câu hỏi này họ không nhằm tìm hiểu
chân lý cho bằng nhắm đến hai mục tiêu:
1. Thử xem trình độ am hiểu về thánh kinh và lề luật của Chúa Giêsu ở
mức độ nào? Với hy vọng tìm ra sơ hở của Đức Giêsu mà bắt bẻ và hạ nhục Người.
2. Nhân dịp này, họ cũng dò xem Đức Giêsu đang ủng hộ và đứng về phe
nhóm nào? Bởi lẽ, thời bấy giờ có khá nhiều phe nhóm, mỗi phe nhóm lại đề cao
một số luật lệ.
Chúa Giêsu
dư biết dã tâm của họ, nhưng vì muốn xác định lại tính chất tinh tuyền của lề
luật nên Chúa Giêsu đã trích dẫn lại hai câu Thánh kinh, một trong sách
Đệ-nhị-luật và một trong sách Lê-vi để trả lời cho họ: “Ngươi phải yêu
mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn
ngươi.”(Đnl 6, 5). Đó là điều quan trọng thứ nhất. Điều luật thứ hai cũng
quan trọng không kém, đó là: “Ngươi phải yêu thương người thân cận như
chính mình” (Lv 19, 18). Rồi Người kết luận: “Toàn thể lề luật
và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”. Như vậy là đã
rõ, điều luật quan trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại chính là tình
yêu.
- Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí
khôn nghĩa là tình yêu ta dành cho Chúa phải chân thành và luôn trung tín,
trước sau như một, không bao giờ thay lòng đổi dạ, không một cản trở nào làm
giảm bớt hay sức mẻ, dù có phải hy sinh vẫn chấp nhận. Tình yêu ấy
phải được hướng dẫn bởi những tài năng của linh hồn như: lý trí, ý chí, nhất là
tự do chứ không phải là tình yêu mù quáng.
- Yêu thương anh em như chính mình nghĩa là phải đối xử với người
khác cùng một “tình yêu” như ta đã xử với bản thân mình. Hơn thế nữa, Chúa
Giêsu còn mời gọi chúng ta quy hướng đến tình yêu “như Chúa yêu”. Đó là
một tình yêu phổ quát dành cho hết mọi người. Đó là một tình yêu trao ban
nhằm phục vụ nhu cầu chính đáng cho tha nhân: “người mù được sáng, kẻ
què đi được, người điếc nghe được, người câm nói được…”. Và trên hết
đó là một tình yêu hy hiến, sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì tha nhân với
mong muốn tha nhân được hạnh phúc, vui sướng và “được sống dồi
dào”.
Lạy Chúa,
yêu Chúa thì còn dễ nhưng yêu người khác như chính mình đã là khó rồi, mà Chúa
còn đòi buộc chúng con phải yêu người tha nhân như Chúa yêu quả là khó biết bao
nếu không có ơn Chúa trợ giúp. Xin Chúa đong đầy sức mạnh tình yêu của
Chúa vào trong tâm hồn chúng con và ban ơn giúp sức để mỗi người chúng con can
đảm sống và ứng xử với nhau bằng chính tình yêu “như Chúa yêu” chúng con. Amen.
Suy niệm 3:
MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC TÁCH RỜI
Có lẽ hai chữ đẹp nhất và
được nhắc nhiều nhất trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, đó chính là hai
chữ “Tình Yêu”. Thánh Gioan định nghĩa: “Thiên Chúa Là Tình Yêu.” (1Ga
4,16) Vì Tình Yêu khởi nguồn từ Thiên Chúa và là Đấng trao ban Tình Yêu
nên Tình Yêu đến từ Thiên Chúa vốn dĩ rất hoàn mỹ, tinh tuyền, cao thượng và
phong phú.
Xin Chúa đong đầy Tình Yêu
tinh tuyền của Chúa vào tâm hồn chúng ta để chúng ta biết yêu Chúa và yêu tha
nhân giống như tình yêu mà Chúa đã dành cho chúng ta.
Một
trong những tranh luận thường xuyên được đặt ra trong cuộc sống chúng ta là:
chọn Thiên Chúa hay chọn con người?
Đối
với những ai theo khuynh hướng duy vật thì cho rằng: phải hoàn toàn dấn thân
cho sự thăng tiến con người. Với họ thì Thiên Chúa chẳng có ích lợi gì cả, đó
là những người theo tư tưởng Mácxít. Ngược lại, đối với những người theo khuynh
hướng duy tâm thì choa rằng: phải hoàn toàn dấn thân cho Thiên Chúa bằng đời
sống đạo đức như: siêng năng đọc kinh, cầu nguyện, nhưng lại xem thường bổn
phận thực hành bác ái đối với tha nhân.
Phải
chăng khi thờ phượng Thiên Chúa, con người được phép lãng quên tha nhân? Đó
chính là vấn nạn đã được đặt ra cách nay hơn hai ngàn năm, qua câu hỏi của nhà
thông luật trong bài Tin mừng hôm nay: “Thưa Thầy, trong sách Luật
Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” (Mt 22,36) Với câu hỏi này những người thuộc nhóm Xa-đốc, Pha-ri-sêu không
nhằm tìm hiểu về chân lý cho bằng nhắm đến hai mục tiêu thâm hiểm:
1. Thử xem trình độ am hiểu về Thánh kinh và Lề luật của Chúa Giêsu ở
mức độ nào? Với hy vọng tìm ra sơ hở qua câu trả lời của Đức Giêsu mà bắt bẻ và
hạ nhục Người.
2. Họ cũng dò xem Đức Giêsu đang ủng hộ và đứng về phe nhóm nào? Bởi
lẽ, thời bấy giờ có khá nhiều phe nhóm, mỗi phe nhóm lại đề cao một số luật lệ.
Chúa Giêsu
dư biết dã tâm của họ. Tuy nhiên vì muốn xác định lại tính chất tinh tuyền của
lề luật nên Ngài đã trích dẫn lại hai câu Thánh kinh, một trong sách
Đệ-nhị-luật: “Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết
lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.”(Đnl 6, 5). Và một trong sách
Lê-vi: “Ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình” (Lv
19, 18). Rồi Ngài kết luận: “Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều
tóm lại trong hai giới răn đó”. Như vậy là đã rõ, điều luật quan trọng
nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại chính là mến Chúa và yêu người.
- “Mến
Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn.” Nghĩa là phải yêu
Chúa trọn vẹn cả con người, cả đời sống chúng ta. Phải đặt Chúa vào vị trí
trung tâm của đời sống và phải yêu Chúa trên hết mọi sự và trên hết mọi loại.
Chúa phải luôn là số 1-number one.
Yêu
mến Chúa không chỉ tôn vinh, chúc tụng, thờ lạy và cầu xin Chúa mà còn phải
tuân giữ lời Chúa dạy. Yêu ai thì vui sướng làm theo lời người đó mong muốn.
Vậy nếu yêu Chúa thì ta phải có những quyết định, những chọn lựa, những lời nói
và việc làm theo đúng như thánh ý của Chúa muốn.
-
“Yêu người thân cận như chính mình.” Người thân cận
nên nhớ không chỉ là những người thân trong gia đình mình, trong nhóm mình,
trong tập thể mình, mà là cả những người xa lạ, những người yếu thế, những
người ngoại kiều, những người mẹ góa con côi như trong Bài đọc 1 hôm nay nói đến.
Và yêu người không chỉ là tuyên bố chung chung: tôi yêu hết mọi người, nhưng
còn phải thể hiện bằng những việc làm cụ thể để giúp đỡ người khác.
Thực
tế cho thấy: Nhiều tôn giáo dạy yêu mến Chúa hay thần thánh, nhưng lại kêu gọi
trả thù, cổ vũ chiến tranh khủng bố gây đau khổ và giết chóc đồng loại. Nhiều
đảng phái chính trị và trào lưu xã hội từng hô hào yêu thương đồng loại, nhưng
lại chủ trương gạt bỏ Thiên Chúa và loại trừ thần thánh ra khỏi xã hội. Cả hai
quan niệm và hành động ấy đều bị lệch lạc, sai lầm gây nên đau khổ và chết
chóc.
Riêng
Chúa Giêsu thì rất độc đáo, Ngài không tách biệt nhưng đã nối kết 2 điều
răn mến Chúa và yêu người lại thành một điều răn duy nhất tựa như đồng
tiền hai mặt. Đã mến Chúa thật lòng thì cũng phải yêu người hết lòng không thể
tách biệt được. Chu toàn mến Chúa và yêu người sẽ làm cho Đạo Chúa trở thành
đạo yêu thương trọn hảo, giúp con người vui hưởng hạnh phúc đời này và cả đời
sau trong Tình Yêu vĩnh cửu.
Nói
đến hai chữ “yêu thương” thì ai cũng nói được. Tuy nhiên thực hành điều luật
yêu thương như Chúa dạy thì không hề dễ chút nào.
-
Thật khó khi chúng ta phải đặt Chúa vào vị trí trung tâm và tối cao trong đời
sống mình, trong khi ngoài kia xã hội vẫn còn chủ trương vô thần và tôn thờ chủ
nghĩa vật chất.
-
Thật không dễ chút nào khi phải nói lời tha thứ, phải cầu nguyện và làm ơn cho
những người thù ghét và luôn tìm cách hãm hại mình trong một thời đại quá đề
cao lòng tự trọng, sự tự do và tinh thần cá nhân chủ nghĩa.
Khó!
nhưng Đức Giêsu đã làm được và trở nên gương mẫu cho chúng ta noi theo. Cho nên
chúng ta tin rằng với sức mạnh và ơn thiêng Chúa ban, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ
Maria Mân Côi, chúng ta sẽ thực hiện được, bởi vì “đối với Thiên Chúa
thì mọi sự đều có thể.” (Mc 10,27; x Lc 1,37).
Xin
Chúa đong đầy sức mạnh tình yêu và ân sủng của Người vào trong
tâm hồn chúng con, để chúng con có đủ sức mạnh và lòng can đảm thực thi giới
luật tình yêu mà Chúa chỉ dạy. Amen.
SUY NIỆM 4: ĐÔI CÁNH ĐỂ BAY
LÊN
Chúa
cho mỗi người chúng con có đôi cánh tuyệt vời là quy luật mến Chúa yêu người để
chúng ta sử dụng mà bay lên thiên đàng hưởng phúc muôn đời với Chúa.
Máy bay cần phải có hai cánh mới có thể bay lên không
trung. Nếu máy bay bị hỏng mất một hoặc cả hai cánh thì tất nhiên phải nằm lì
một chỗ, chẳng thể nào cất cánh được.
Các loài chim cũng thế. Nếu bị cắt mất một cánh, chúng không thể bay lên.
Tương tự như thế, con người muốn được “bay” về thiên đàng
thì cũng phải có đủ hai cánh. Vậy thì hai cánh mà mỗi người chúng ta cần phải
có để bay lên tới thiên đàng là gì?
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cho biết hai cánh đó là
lòng mến Chúa và yêu thương người. Ngài nói rõ điều này với người thông luật:
"Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn
và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn
điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như
chính mình" (Mt 22,37-39).
Và qua dụ ngôn về "cuộc phán xét cuối cùng", Chúa
Giê-su dạy rằng những ai có lòng mến Chúa yêu người, được thể hiện qua việc
quan tâm chăm sóc những người nghèo khổ chung quanh thì sẽ hưởng hạnh phúc đời
đời trên thiên quốc; còn ai không có lòng mến Chúa yêu người, thể hiện qua việc
thờ ơ, vô cảm trước những nỗi bất hạnh của người khác, thì phải bị sa vào chốn
cực hình muôn đời muôn thuở (Mt 25, 35-36).
Như thế thì lòng mến Chúa yêu người chính là đôi cánh tối cần đưa ta về cõi
thiên đàng vinh hiển. Người nào không có hai cánh này, chẳng những không được
hưởng phúc thiên đàng mà còn phải sa vào hoả ngục.
Ảo tưởng
Tuy nhiên, có một số người lầm tưởng rằng: Chỉ cần thờ
phượng Thiên Chúa, chủ yếu là tham dự Thánh lễ các ngày Chúa nhật và lễ trọng,
cùng đọc kinh sáng tối… là đủ để lên thiên đàng.
Sống đạo như vậy thì chưa đủ, chưa đúng như Chúa yêu cầu.
Thực hành như thế khác gì muốn bay lên thiên đàng mà chỉ cần có một cánh.
Đức thánh Cha Bê-nê-đích-tô 16 nhắc nhở chúng ta phải thực
hành đầy đủ hai phần: Vừa thờ phượng Thiên Chúa vừa yêu thương mọi người và
không thể thiếu một trong hai.
Ngài nói: “Việc thực thi bác ái đối với các goá phụ và trẻ mồ côi, với các tù
nhân, với các bệnh nhân và người túng thiếu dưới mọi hình thức, thuộc về bản
chất của Hội thánh cũng y như việc phục vụ bí tích và rao giảng Phúc âm. Hội thánh
không thể lơ là trong việc thực thi bác ái cũng như lơ là trong việc ban các bí
tích và Lời Chúa.[1]”
Tóm lại, nếu chúng ta muốn cất cánh bay về Thiên đàng thì
phải trang bị cho mình 2 cánh sau đây:
- Một là yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức trên hết
mọi sự;
- Hai là bày tỏ lòng yêu thương người khác bằng việc chăm
sóc, phục vụ mọi người.
Nếu chúng ta không thờ phượng Thiên Chúa, cũng chẳng quan
tâm săn sóc giúp đỡ những người bất hạnh chung quanh… thì chúng ta như máy bay
không có cánh, chẳng thể bay lên.
Nếu chúng ta chỉ thờ phượng Thiên Chúa mà thờ ơ, vô cảm đối
với những người bất hạnh… thì chúng ta chỉ như máy bay bị gãy mất một cánh,
không thể bay tới thiên đàng.
Nếu chúng ta vừa siêng năng thờ phượng Thiên Chúa vừa yêu thương phục vụ những
người bất hạnh chung quanh, thì chúng ta như máy bay có đầy đủ hai cánh, chắc
chắn sẽ “bay” lên tới thiên đàng.
Lạy Chúa Giê-su,
Thiên Chúa đã cho loài chim có đôi cánh để chúng có thể bay
vút lên cao và tung cánh khắp bốn phương trời.
Chúa cũng cho mỗi người chúng con có đôi cánh tuyệt vời là
quy luật mến Chúa yêu người để chúng con sử dụng mà bay lên thiên đàng hưởng
phúc muôn đời với Chúa.
Xin cho chúng con đừng bao
giờ cắt bỏ đôi cánh Chúa ban, vì khi làm như thế, chúng con không thể bay về
với Chúa mà lại bị trầm luân trong cõi chết muôn đời.
Linh mục Inhaxiô
Trần Ngà
Thứ
hai: Lc 13, 10-17
Khi
suy ngắm về lời nói cũng như hành vi của các nhân vật được đề cập trong đoạn
Tin mừng hôm nay, gợi lên cho chúng ta nhiều bài học quý:
1.
Nơi Đức Giêsu: Vẫn biết rằng việc chữa
bệnh cho người đàn bà bị còng lưng trong ngày Sabat là gặp phải sự phản ứng
mạnh mẽ của nhiều phe nhóm, cụ thể là thái độ phản đối của ông trưởng hội đường
hôm nay. Thế mà Chúa Giêsu lại không chùn bước và sợ hãi. Trái lại với sức mạnh
của tình yêu thúc đẩy và luật bác ái đòi buộc, Chúa Giêsu đã ra tay cứu chữa
cho bà. Hành động này của Chúa Giêsu gợi lên trong ta nhiều suy nghĩ:
-
Khi thực thi tình bác ái đối với tha nhân, nhiều lúc tôi cũng bị người đời gièm
pha chỉ trích hoặc giả bị ngăn cản chống đối. Vậy tôi có chùn bước không?
-
Để được an phận, tôi có a-dua theo cái nhìn sai lạc của thói đời mà dửng dưng
trước những đau khổ của tha nhân không?
-
Đã bao lần tôi có đủ can đảm để thực thi luật tình yêu, bằng việc tận tâm giúp
đỡ những người đang gặp khốn khổ chung quanh tôi?
2.
Nơi ông trưởng hội đường: Với chức vị là
người đứng đầu của một hội đường, đáng lẽ ông phải là người đầu tiên cảm thương
cho số phận khốn khổ của người chị em mình, vì suốt 18 năm dài lưng chị bị còng
không ngẩng đầu lên nổi.
Hơn
ai hết ông phải là người vui nhất khi nhìn thấy người chị em mình được cứu chữa;
ấy vậy mà khi chứng kiến người chị em này được Chúa Giêsu chữa lành, ông ta lại
tỏ ra khó chịu. Như "Giận cá chém thớt", ông quay về phía dân chúng
và trút xuống một cơn mưa giận dữ khi tuyên bố: "có sáu ngày người
ta phải làm việc: vậy thì các người hãy đến xin chữa bệnh trong những ngày đó,
chứ đừng đến trong ngày Sabat.".
Để
cởi trói cái nhìn thiên kiến và quan niệm sai lạc về việc giữ luật ngày Sabat,
Chúa Giêsu đã không ngần ngại lên án mạnh mẽ lối sống giả hình của ông, rồi xác
định cho mọi người nhận ra được giá trị cao quý của phẩm giá con người khi
tuyên bố: "Chớ thì trong ngày Sabat, mỗi người trong các ông không
thả bò hay lừa của mình ra khỏi chuồng mà dẫn nó đi uống nước nước sao? Phương
chi người con gái của Abraham này, Satan đã cột trói nó đã 18 năm nay, chớ thì
không nên tháo xiếng xích buộc nó trong ngày Sabat sao?". Súc vật mà
còn được tháo cởi trong ngày Sabat để chúng tự do đi lại ăn uống, thì tại sao
người đàn bà này là con gái của tổ phụ Abraham và là con cái Thiên Chúa lại
không được thừa hưởng quyền tự do cơ bản đó!.
Qua
đây Chúa Giêsu minh chứng rằng: chỉ có một lề luật duy nhất để tuân giữ, đó là
luật yêu thương; và chỉ có một giá trị cao cả nhất để sống và chết cho đó là tự
do làm người và làm con Chúa.
Xin
Chúa loại trừ những đố kỵ, ghen ghét tầm thường nơi mỗi chúng ta để chúng ta có
được cái nhìn trong sáng đúng đắn. Và xin Chúa cũng giúp chúng ta luôn biết
sống nhân ái bao dung với hết mọi người như Chúa đã hằng nhân ái với chúng ta.
Amen.
3.
Nơi người đàn bà bị còng lưng 18 năm: Với hình ảnh
người đàn bà bị còng lưng 18 năm trời, cho thấy nổi đau khổ mà bà phải cam chịu
trong suốt thời gian dài.
Khổ
vì không ngước mặt lên được để nhìn người, nhìn đời.
Khổ
vì không thể nhìn xa, ngước cao dù chỉ một lần.
Khổ
vì mang gánh nặng mặc cảm tội lỗi mà người đời gán ghép cho. (người Do Thái cho
rằng bệnh tật là do tội lỗi gây nên).
Khổ
vì hằng ngày phải đối diện với bao lời xì xầm nhạo cười của bao người chung
quanh, do tướng mạo khác người.
Việc
bà được Chúa Giêsu chữa khỏi quả là một niềm vui lớn lao. Vui vì từ nay gánh
nặng trên lưng bà được cất khỏi sau 18 năm trời mang lấy. Vui vì khối u tội lỗi
đè nặng tâm hồn bà nay được gỡ bỏ. Từ nay bà có thể ngước nhìn đời và nhìn
người cách dễ dàng. Hạnh phúc nào bằng khi hôm nay bà có thể hòa nhập với mọi
người trong các sinh hoạt xã hội và tôn giáo. Từ nay bà tự do hướng nhìn về
trời cao và có quyền mơ ước những điều cao quý như bao người!
Tội
lỗi, tính hư tật xấu là gánh nặng vô hình nhiều lúc cũng đè nặng tâm hồn và
cuộc sống chúng ta. Mong được giải thoát, trút khỏi gánh nặng nề ấy để lòng
được thanh thản, an vui là niềm khát khao lớn lao của mỗi người. Nhưng tự sức
ta nhiều lúc không đủ sức vượt thoát khỏi những trói buộc vô hình ấy. Chỉ có
quyền lực của Chúa mới đủ sức mạnh cởi trói và giải thoát ta khỏi ràng buộc của
ma quỷ, xác thịt và thế gian mà thôi.
Xin
Chúa thương đụng chạm đến con người đầy yếu đuối tội lỗi của ta để những gánh
nặng do bệnh tật thể xác và tâm hồn do ma quỷ gây ra được tháo cởi. Nhờ đó đem
lại cho ta niềm vui và sự tự do đích thực của đời làm con Chúa.
Thứ
ba: Lc 13,18-21
Khi
muốn nói những điều khó nói, người ta hay dùng cách nói ví von. Khi muốn bộc
bạch những tâm tình sâu kín, khó nói thành lời, người ta hay nhờ đến những câu
chuyện. Còn khi mạc khải về mầu nhiệm nước trời cho dễ hiểu, Chúa Giêsu lại hay
dùng đến những dụ ngôn. Có thể nói, dụ ngôn là con đường ngắn nhất, thực tế
nhất, gần gũi nhất và cũng hữu hiệu nhất đưa dẫn chúng ta tiếp nhận được những
giá trị thiêng liêng và thực tại vô hình.
Tin
mừng hôm nay Chúa Giêsu dùng đến hai dụ ngôn: Dụ hạt cải và tấm men để mạc khải
về mầu nhiệm nước trời. Với hai dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta biết:
nước trời khởi đầu bé tí ti như hạt cải, âm thầm như tấm men. Nhưng với thời
gian nó dần dần lớn lên, vững mạnh và có sức lan tỏa đến bất ngờ!
-
Với hạt cải nhỏ bé, nhưng khi được gieo vào lòng đất, nó lại âm thầm lớn lên
vững mạnh, to lớn đến nổi làm chổ nương tựa cho chim trời ẩn trú an toàn.
-
Với tấm men ít ỏi, nhưng khi trộn lẫn vào ba đấu bột thì nó lại kích thích ba
đấu bột dậy men, trở thành một khối bột to lớn.
+
Giống như hạt cải ban đầu nhỏ tí ti, nhưng khi gieo vào lòng đất nó mọc lên và
trở thành cây cao bóng cả, trở nên nơi trú ẩn an toàn cho chim trời những khi
mõi mệt và gặp hiểm nguy; GH khởi đầu rất khiêm tốn, nhỏ bé chỉ với nhóm tông
đồ 12 nhỏ nhoi. Nhưng trãi qua hơn 2000 năm qua, GH đã không ngừng phát triển
và lớn mạnh. Đến nay đã có trên 1 tỷ người công giáo, chiếm 17,7 phần trăm dân
số thế giới. GH đã trở thành nơi tựa nương cho bao nhiêu người yếu đuối, nghèo
khổ tựa nương; trở nên bóng mát cho những ai mệt nhòai trên đường đời ẩn náo.
Bởi lúc nào GH cũng đứng về phía người nghèo, cô thế cô thân để bênh vực chở
che, nhằm đem lại cho họ nguồn bình an đích thực. Như lời mời gọi của Chúa
Giêsu: "Những ai vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ
cho nghỉ ngơi bồi dưỡng" (Mt 11, 28).
+
Tựa như tấm men rất ít ỏi, nhưng khi được trộn vào ba đấu bột nó lại âm thầm
kích thích cho ba đấu bột dậy men thành một khối to; làm thành những tấm bánh
thơm ngon mang lại niềm vui và nguồn sức sống cho con người. Số tín hữu trong
GH ban đầu cũng rất ít ỏi, lại phải sống hòa nhập với mọi người trong một thế
giới rộng lớn. Vậy mà chỉ với thời gian ngắn, Tin mừng của Chúa đã thấm nhập và
lan tỏa đến mọi người trên khắp cùng thế giới, nhờ vào đời sống hiệp nhất yêu
thương và gương chứng nhân đức tin anh hùng của các kitô hữu.
Xin
Chúa cho mỗi người chúng ta biết tích cực cộng tác với GH trong sứ mạng mở mang
nước trời bằng đời sống chứng nhân của tình yêu Chúa; trở thành men Tin mừng
thấm nhập vào mọi tâm hồn và lan tỏa đến mọi nơi. Nhờ đó mà GH của Chúa mỗi
ngày được lan rộng và vững vàng hơn.
Thứ
tư: LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
Kh 7,2-4.9-14; 1Ga 3,1-3; Mt 5,1-12a
Suy
niệm 1: CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN
HẠNH PHÚC THẬT
Hôm
nay Giáo hội mời gọi chúng ta hướng vọng lên cao để chiêm ngắm vinh quang rạng
ngời nơi các thánh Nam Nữ. Các ngài đã trung thành bước theo Chúa đến cùng trên
con đường “Tám mối phúc thật”, dẫu phải chịu nhiều đau thương thử thách. Nên
các ngài xứng đáng được Chúa ân thưởng hạnh phúc nước trời.
Dâng
thánh lễ hôm nay, một mặt chúng ta chúc tụng ngợi mừng các thánh; mặt khác
chúng ta cũng không quên xin ơn Chúa ban cho chúng ta niềm tin yêu và lòng
trung tín để dấn bước trên con đường 8 mối phúc thật theo gương các thánh, với
niềm hy vọng sẽ được chung niềm vinh phúc cùng với các ngài trong nhà Cha trên
trời.
Ở
đời luôn có hai mặt thật và giả. Hạnh phúc cũng vậy. Có những thứ đem đến cho
con người hạnh phúc thật. Tuy nhiên cũng có những thứ chỉ đem đến cho con người
hạnh phúc giả tạo, không bền lâu. Điều nghịch lý là ai cũng mong muốn có được
hạnh phúc thật, nhưng rồi lại thích đi tìm những thứ chỉ mang đến hạnh phúc giả
tạo, chóng qua.
Xã
hội ngày nay, nhiều người cho rằng hạnh phúc là có 1,2,3,4,5 (một là vợ đẹp,
hai là con ngoan (chứ không phải như bảng hiệu đề: Mỗi gia đình 2 con
vợ, chồng hạnh phúc), ba là nhà 3 tấm, bốn là xe 4 bánh và năm là du lịch 5
châu). Thế nhưng thực tế cho thấy, khi đạt được những điều mong ước ấy, con
người vẫn không tìm thấy hạnh phúc thật.
Như
thế thì tiền bạc của cải, vật chất tiện nghi, đam mê lạc thú nơi trần gian
không lấp đầy được khát vọng sâu xa nơi cỏi lòng con người và không là phương
thế đưa đến hạnh phúc thật. Vậy ta phải làm gì để có hạnh phúc thật?
Bài
tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta biết những phương cách để đạt đến
hạnh phúc đích thật. Đó chính là thực thi 8 mối phúc thật.
Điều
đáng nói là con đường 8 mối phúc thật mà Chúa Giêsu đề ra hình như đi ngược lại
với suy nghĩ thực tế của con người thời nay và lắm khi trở thành xa lạ ngay cả
đối với người Kitô hữu chúng ta. Vì con người thời nay vẫn còn bám víu quá
nhiều vào tiền bạc, của cải, danh vọng... nên không dám chấp nhận những phương
cách mà Chúa Giêsu đề ra là sống tinh thần khó nghèo, từ bỏ, đau khổ hay hy
sinh mạng sống mình vì chính đạo, để phục vụ tha nhân và làm chứng cho những
giá trị của tin mừng của Chúa.
Con
đường 8 mối phúc không phải là viễn vong, mơ hồ hay bất khả thi nhưng là con
đường chính đạo. Bởi vì chính Đức Giêsu đã kinh qua và đã đạt đến hạnh phúc
vinh quang. Do đó muốn có hạnh phúc thật chúng ta không thể đi theo con đường
nào khác ngoài con đường Đức Giêsu đã đi và đã chỉ dạy. Con đường khiêm hạ, khó
nghèo, hi sinh từ bỏ và hiến thân cho tha nhân bằng tình yêu.
Các
thánh nam nữ mà chúng ta mừng kính hôm nay, tất cả đã hân hoan bước vào con
đường 8 mối phúc mà Chúa Giêsu đã vạch ra và đã hâm hở tiến bước với lòng đầy
tin tưởng, nên tất cả đã đi đến đích điểm và đã lãnh nhận triều thiêng vinh
quang nước trời do Chúa tặng ban.
Mừng
lễ các Thánh Nam Nữ, ngoài việc chúng ta tôn vinh chúc tụng các ngài là cha
ông, bạn bè, người thân… của chúng ta đã đi trọn con đường 8 mối phúc và nay đã
khải hoàn vinh hiển trong vinh quang; chúng ta còn phải nỗ lực nên thánh giữa
đời theo gương các ngài, với niềm xác tín như Thánh Augustinô: “Ông nọ bà kia
nên thánh được, còn tôi tại sao lại không được?”.
Xin
các thánh nam nữ ngự bên tòa Chúa hằng nguyện giúp cầu thay cho chúng ta được
luôn can đảm bước theo con đường các ngài đã đi, bằng cách trung thành thực thi
8 mối phúc mà Chúa Giêsu vạch ra, nhờ đó chúng ta mới có thể đạt được điều mà
chúng ta hằng khao khát là hạnh phúc đích thật. Amen.
Suy
niệm 2: NÊN THÁNH LÀ ƠN GỌI VÀ ĐÍCH ĐẾN
Trong 1 lần viếng
thăm nước Anh, Đức Thánh Cha Benedicto 16 đã thách thức giới trẻ: “Hãy là một vị
thánh hơn là một người nổi tiếng”.
“Hãy là một vị Thánh” cũng là lời mời gọi tha thiết của Thiên Chúa dành cho mỗi người
chúng ta, khi phán bảo: “Các ngươi hãy là Thánh vì Ta là Thánh” (Lv 11,44). Lời mời
gọi và thách thức ấy hôm nay được vang lên mạnh mẽ nhân ngày tôn vinh và mừng
kính trọng thể lễ các Thánh Nam Nữ.
Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta hơn những
gì chúng ta tưởng tượng, Ngài muốn ban tặng cho chúng ta những điều tốt nhất hơn
những gì chúng ta khát mong.
Vậy chúng ta đừng để mình chìm sâu vào tinh
thần thế tục thời đại nhưng biết vươn đến những giá trị cao đẹp, bằng cách noi
gương các Thánh trung thành bước theo Chúa trên con đường 8 mối phúc thật, với
mong muốn trở nên thánh hơn là người nổi tiếng.
Xin Chúa qua lời chuyển cầu của các Thánh
Nam Nữ ban cho chúng ta ơn khôn ngoan để nhận ra được giá trị tốt nhất ở đời này
không phải là giàu sang, danh vọng, chức quyền… mà là nên Thánh. Vì đó chính là
ơn gọi và cùng đích của đời ta.
Có
thể nói tháng 11 là tháng mà GH nhắc nhở chúng ta hãy liên hệ với tổng đài để
kết nối mạng:
- Nối
mạng với trời qua việc chiêm ngưỡng vinh quang của các thánh nam nữ để noi
gương, bắt chước và xin trợ giúp.
- Nối
mạng với đất qua việc nhìn xuống các đẳng linh hồn trong nơi luyện tội mà tương
trợ, giúp đỡ các ngài, bằng cách cầu nguyện và làm thật nhiều việc lành phúc
đức nhằm giúp đỡ các ngài sớm được thanh luyện nên trinh trong, xứng đáng được
bước vào nước trời tận hưởng niềm hạnh phúc vĩnh cửu cùng các thánh.
Hôm
nay, GH mời gọi chúng ta ngước vọng lên trời cao để chiêm ngắm vinh quang rạng
ngời của các thánh mà chúc mừng, ngợi khen…, bởi vì sau cuộc hành
trình bước theo Chúa các ngài đã trung thành thực thi tích cực 8 mối phúc thật
do Chúa chỉ dạy với lòng tin tưởng và phó thác nên giờ đây các ngài đã được
Chúa ân thưởng hạnh phúc viên mãn trong nhà Cha trên trời.
-
Bài I: Trích sách Khải huyền mà chúng ta vừa nghe, có ý an ủi những
tín hữu trong thời kỳ bị bách hại. Những con số được nêu ra trên đây chỉ là
tượng trưng cho một đoàn lũ đông đảo những người đã được cứu rỗi nhờ máu của
Con Chiên, tức là giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu.
-
Bài II: Thánh Gioan nhắc nhở chúng ta phải tin tưởng vào Thiên Chúa; cũng
như ý thức rằng chúng ta được nhận biết Thiên Chúa đó
là nhờ và qua Giáo Hội.
-
Bài Tin mừng hôm nay chỉ dẫn cho chúng ta biết cách làm thế nào để nên thánh.
Bí quyết nên thánh được Chúa Giêsu vạch ra qua con đường 8
mối Phúc Thật, đây được xem là bảng hiến chương nước trời do chính Chúa Giêsu
long trọng công bố trên núi khi khởi đầu sứ mạng loan báo tin mừng cứu độ của
Người. Con đường đó đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận hy sinh từ bỏ, can đảm đón
nhận những gian lao thứ thách với tình yêu, niềm tin và hy vọng vào ơn cứu
chuộc của Chúa,
Hân
hoan mừng kính trọng thể lễ các thánh nam nữ trên thiên đàng, chúng ta càng
thấu hiểu hơn về mầu nhiệm các thánh cùng thông công trong Giáo Hội. Mỗi khi
suy niệm về mầu nhiệm các thánh cùng thông công, chúng ta lại càng
vững tin hơn vào ơn cứu độ của Thiên Chúa, nhờ tình liên đới giữa các kitô hữu
hiệp thông trong cùng Hội Thánh Người.
-
Các thánh là những con người như chúng ta. Trước khi là thánh, các ngài cũng đã
trải qua nhiều gian lao đau khổ để bước theo Chúa Giêsu.
-
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, khi còn sống ở thế gian, các
ngài cũng có những tham sân si, cũng kiêu căng tự mãn, cũng giận hờn
ghen ghét, cũng tham lam và có những ham muốn bất chính không khác gì
chúng ta. Nhưng các ngài đã biết tin tưởng, cậy trông vào tình thương và ân
sủng của Chúa nên các ngài đã quyết tâm đứng lên, đã sám hối và làm
lại cuộc đời. Các ngài đã can đảm chiến đấu và vượt thắng được những
cám dỗ, để rồi hôm nay các ngài được Chúa ân thưởng niềm hạnh phúc thiêng
đàng, cùng với Mẹ Maria và các thiên thần trên thiên quốc.
-
Các thánh nam nữ thuộc đủ mọi thành phần như chúng ta,
có những vị làm vua, có vị làm quan, làm bác sĩ, kỹ sư, thấy giáo, nô
lệ; có vị làm giáo hoàng, giám mục, linh mục, phó tế, và sĩ nam nữ
v.v... nghĩa là các ngài có đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội, với những
hoàn cảnh sống khác nhau, nhưng các ngài đã có một mục đích chung là nỗ lực nên
thánh, phải trở thành bạn hữu với Thiên Chúa trong chính bổn
phận sống hằng ngày của mình.
-
Các thánh nam nữ là những người như chúng ta, nhưng các ngài đã biết kiên
nhẫn bước đi theo con đường “Tám Mối Phúc Thật”, sống triệt để hiến chương
nước trời do Chúa Giêsu ban hành ngay tại trần thế này.
1.
Các ngài giàu có nhưng đã sống tinh thần siêu thoát khó nghèo vì Nước
Trời.
2.
Các ngài bị người khác vu oan giá họa nhưng vẫn hiền lành bao dung với họ.
3.
Các ngài đã chia vui với người vui và buồn với người buồn, nên được Thiên Chúa
an ủi ngay khi còn ở đời này.
4.
Các ngài mong muốn được trở nên người công chính giữa một xã hội đầy mưu mô xảo
trá, nên được Thiên Chúa cho thỏa lòng.
5.
Các ngài biết thương xót người, tức là biết chạnh lòng trước cảnh thương tâm
của người khác, nên được Thiên Chúa xót thương.
6.
Trong các ngài cũng có người sống trong danh vọng, lây nhiễm bụi trần với những
đam mê của kiếp người, nhưng các ngài đã giữ được tâm hồn trong sạch, vì thế
các ngài được nhìn thấy Thiên Chúa.
7.
Các ngài đi đến đâu là đem bình an của Thiên Chúa đến nơi đó; các ngài được gọi
là những người biết kiến tạo hoà bình, nên các ngài xứng đáng được gọi là con
Thiên Chúa.
8.
Các ngài bị bắt bớ, bị đánh đập, bị tra tấn, bị tù đày... vì các ngài sống và
tin vào Đức Chúa Giê-su, Đấng đã và sẽ ban phần phúc Nước Trời cho những ai tin
cậy vào Người, nên các ngài đã được Chúa ban thưởng Nước Trời làm gia nghiệp
sau khi từ giã cõi đời này...
Cộng đoàn thân mến,
Thiên
Chúa luôn mời gọi chúng ta nên thánh. Trong Cựu Ước, Người đã phán:
"Các ngươi phải thánh
thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh"
(Lv 19,2). Đức Giê-su khi rao giảng về Tin Mừng
Nước Thiên Chúa, cũng kêu gọi: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên
trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5, 48). Như vậy, việc nên thánh của chúng ta theo
ý Thiên Chúa là một đòi hỏi cấp bách, khẩn thiết. Đó cũng trở thành bổn phận và
nhiệm vụ quan trọng mà mỗi tín hữu phải triệt để quan tâm thi hành.
Các
thánh nam nữ đều là những con người như chúng ta, nhưn các ngài đã đáp lại lời
mời gọi của Chúa và trở thành những vị thánh, thì chúng ta cũng có thể trở nên
thánh như các ngài, bởi vì nên thánh là đòi hỏi của Phúc âm và là mục đích tối
hậu của người Kitô hữu chúng ta. Nói như thánh
Augustinô thì: "Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi, tại sao
không?".
Xin
Đức Mẹ Maria, các thánh nam nữ trên thiên quốc cầu bàu cùng Chúa cho chúng ta,
là những người đang tiến bước trên con đường đi về quê trời, được noi gương của
các ngài, biết quyết tâm đổi mới đời sống, biết đứng dậy khi ngã quỵ trong tội,
biết hy sinh phục vụ và tha thứ cho nhau vì lòng yêu mến Chúa và yêu thương
nhau, với niềm tin và hy vọng vào sự sống đời đời theo gương các thánh nam nữ
mà chúng ta mừng kính hôm nay. Amen. (St)
Suy
niệm 3: PHÚC THẬT
Hàng năm cứ vào ngày đầu tiên của tháng 11, GH dành riêng một ngày để mừng kính trọng
thể toàn thể các thánh Nam Nữ được Chúa trọng thưởng trên trời.
Điều này gợi lên trong chúng ta những thắc mắc:
1. Trong năm phụng vụ GH đã dành nhiều lễ trọng, lễ kính và lễ nhớ các Thánh rồi, sao hôm nay lại mừng kính chung các Thánh nữa?
2. Các Thánh là ai?
3. Tại sao ta phải nên Thánh?
Đó là 3 suy tư tôi muốn chia sẻ cùng với ông bà và anh chị em:
* Thứ nhất, tại sao GH dành ngày hôm nay để mừng kính trọng thể toàn thể các Thánh? Thưa có 4 lý do:
1. Vì các thánh quá nhiều, không thể mừng mỗi vị vào một
ngày riêng biệt được. Chỉ tính 25 năm đầu triều đại của đức giáo hoàng Gioan
Phaolô II, ngài đã tuyên thánh đến 476 vị, 1.315 chân phước. Mà lịch phụng vụ
chỉ có 365 ngày trong năm. Nếu mừng mỗi ngày một vị thánh thì không đủ ngày. Huống
hồ trải qua biết bao triều đại giáo hoàng, trong suốt hơn hai ngàn năm qua, con
số những vị thánh trong GH là nhiều vô kể, đúng như hình ảnh trong bài đọc 1,
trích sách khải huyền hôm nay diễn tả: “tôi đã nhìn thấy
đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi
dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình
mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: “Kính
lạy Thiên Chúa chúng tôi, Ðấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên”. Đoàn
người đông đảo mặc áo trắng ấy là những người đã được cứu rỗi nhờ máu của con
Chiên, tức là nhờ giá máu cứu chuộc của Chúa Kitô
2. Vì không phải vị thánh nào cũng đều được GH tuyên phong.
Còn rất nhiều vị có đời sống tốt lành, thánh thiện. Trước mặt Chúa họ đã là
thánh, nhưng GH chỉ biểu dương những vị thánh có đời sống nhân đức nổi bậc nhằm
nêu gương sáng cho chúng ta mà thôi.
3. Vì còn rất nhiều vị thánh vô danh, không ai biết đến.
Các vị ấy có thể là người thân, là ông bà tổ tiên, là những người cùng lối xóm
và bạn bè của chúng ta. Các ngài đã từng hiệp hành với chúng ta trong cuộc đời
trần thế này, nhưng nay họ đã được hưởng hạnh phúc thiên đàng.
4. Lễ các thánh Nam Nữ nhắc nhớ chúng ta về quê hương đích
thật mà chúng ta cần hướng đến, đó là quê trời. Ý thức như vậy, sẽ giúp chúng ta
thêm niềm hy vọng và cố gắng bước đi cùng các thánh trên con đường 8 mối Phúc
mà Chúa Giêsu mời gọi.
* Thứ hai, các Thánh Nam Nữ là ai?
Thánh theo nghĩa Hán Việt: là sự thiêng liêng, cao cả, tôn kính, thường dùng để
miêu tả phẩm chất của các vị thần
thánh, thiên
sứ, tiên nhân hoặc các thánh
nhân.
Theo nghĩa Thánh
kinh: Thánh có nghĩa chung là “kitô hữu”, hợp thành cộng đoàn
qui tụ chung quanh Đức Giêsu làm thành Dân thánh. Sự thánh tách khỏi sự phàm
tục. Các Thánh là những người đã được Thiên Chúa làm gia nghiệp.
Như thế các Thánh là những người giống chúng ta: khi còn sống, các ngài cũng đầy những bất
toàn, yếu đuối, cả tội lỗi nữa… Nói cách khác, các thánh Nam Nữ là những con
người bình thường như mọi người. Nhưng các ngài nên thánh là nhờ vào những cố
gắng hy sinh từ bỏ để nên giống Chúa Kitô mỗi ngày trong đời sống nghèo khó, hiền
hòa, bác ái, khiêm tốn, hy sinh, phục vụ….
Có những vị nên thánh bằng lối đường khó nghèo, không màn đến của
cải, danh lợi, chức quyền. Các ngài sống tinh thần siêu thoát, an nhiên nên
được Chúa chúc phúc: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó”.
Có những vị đã dành trọn cuộc đời để đấu tranh cho công lý,
hoà bình và kiến tạo tình yêu thương hiệp nhất cho đồng loại. Các ngài đã nêu
cao tinh thần bất khuất như lời dạy của Chúa: “Phúc cho ai xây dựng hòa
bình”.
Có những vị đã anh dũng hy sinh cả mạng sống mình để trung
thành với đức tin và bảo vệ Đạo Thánh Chúa.
Có vị luôn nở nụ cười khả ái với mọi người, không hận thù,
tranh chấp, đố kị, hiềm khích nên xứng đáng đón nhận được phúc lành của
Chúa: “Phúc cho ai hiền lành”.
Có những vị sẵn lòng đón nhận những đau khổ thể xác và tinh
thần vì lòng yêu mến và phó thác vào đường lối của Chúa nên được Chúa chúc phúc: “Phúc
cho ai đau buồn”.
Có những vị trọn đời sống công chính, không để mình lây nhiễm
bởi những cám dỗ của ba thù, trở nên mẫu gương trong sạch cho chúng ta noi
theo, nên xứng đáng được Chúa chúc phúc: “Phúc cho ai đói khát công
chính, phúc cho ai thanh sạch”.
Như vậy, các thánh đã đi theo những nẻo đường Phúc Thật mà
Chúa Kitô đã giới thiệu. Mặc dù khi bước đi theo Chúa trên con đường đó đầy những
gian lao thử thách nhưng với sức mạnh của niềm tin và tình yêu Chúa nên tất cả các
ngài đã thành công và đã đến đích.
* Thứ ba, tại sao ta phải nên thánh? Nếu
các thánh đã thành công khi chọn lựa bước theo con đường Tám Mối Phúc Thật, thì
chúng ta cũng sẽ thành công một khi chúng ta biết bước đi trên con đường ấy, cho nên:
- Hãy sống tinh thần nghèo khó bằng sự xa tránh mọi thứ tham
lam bất chính để chỉ trung tín và phó thác vào một mình Thiên Chúa quyền năng
mà thôi.
- Hãy sống hiền lành và khiêm nhượng trong lòng bằng cách
rộng lượng bao dung tha thứ cho những ai xúc phạm mình, luôn kiến tạo sự hòa nhã, vui tươi với mọi người.
- Hãy chấp nhận mọi gian lao thử thách như là thập giá cần
phải vác lấy để biến nó thành thánh giá nở hoa phần rỗi cho mình và cho tha
nhân.
- Hãy luôn hướng đến giá trị nước trời, tìm kiếm sự thánh
thiện, để mỗi ngày nên hoàn thiện chính mình hơn qua các nhân đức.
- Hãy tỏ lòng thương xót, mến yêu, đón nhận mọi người trong
tình anh em. Sẵn sàng tha thứ, làm ơn và cầu nguyện cho những ai làm hại chúng
ta.
- Hãy quyết tâm giữ tâm hồn mình luôn thanh sạch, xa tránh
những cám dỗ làm cản trở con đường nên thánh của ta.
- Hãy theo đuổi con đường hiếu hòa. Sống ở đâu, hiện diện
nơi nào, thì biến nơi đó thành niềm hy vọng và bình an nhờ lối sống tích cực,
lạc quan và yêu thương phục vụ chân thành của ta.
- Hãy mạnh dạn tuyên xưng đức tin, và sẵn sàng làm chứng
cho niềm vui tin mừng của Chúa bằng mọi
cách thế mà không hề sợ hãi.
Làm người, ai cũng khát khao được hạnh phúc, nhưng con
người lại bị nhận chìm trong nỗi bất hạnh bởi không biết cội nguồn hạnh phúc nằm
ở đâu. Xin Chúa ban cho chúng ta ơn khôn ngoan, để chúng ta biết đâu là hạnh phúc thật và vĩnh cửu và đâu là hạnh phúc
giả tạo, không vững bền mà chọn lựa đúng đắn. Con đường Tám Mối Phúc Thật dẫu là con đường hẹp, đường
thập giá ít ai chọn lấy, nhưng đó lại là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực.
Xin Chúa ban cho chúng ta đủ can đảm để bước đi trên con đường ấy với niềm hy vọng sẽ được gia nhập vào đoàn người đông đảo “mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế, miệng lớn tiếng tung hô chúc tụng danh thánh Chúa cùng các thánh nam nữ trên thiêng quốc. Cùng với lời tâm niệm như thánh Augustino: “ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi, tại sao không?” (St)
*
SUY NIỆM MÙA THƯỜNG NIÊN: Lc 13, 22-30
Được
cứu độ hay vào được nước trời nhiều hay ít? có lẽ là nỗi trăn trở của không ít
người thời Chúa Giêsu. Với nỗi ưu tư đó nên tin mừng hôm nay cho biết có một
người đến đặt vấn đề với Chúa Giêsu: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số
ít sẽ được cứu độ? ".
Để
trả lời cho vấn nạn này, Chúa Giêsu không cho anh ta biết số lượng vào nước
trời nhiều hay ít. Nhưng Chúa Giêsu lại đưa ra phương cách cần thiết để được
cứu độ.
1.
Mặt tích cực, Chúa Giêsu kêu gọi:
- "Hãy
cố gắng vào qua cửa hẹp" (Lc 13,24), vì "cửa hẹp dẫn đến sự
sống" (Mt 7,14). Thật ra cửa vào sự sống không hẹp, nhưng hẹp vì cái tôi
của tôi to quá. Cần nỗ lực liên tục để giữ cho cái tôi nhỏ lại, khiêm hạ trước
Thiên Chúa, cởi mở trước anh em. Cần có một cái tôi như trẻ thơ mới được vào
Nước Trời (x.Mt 18,3).
Cái
tôi của chúng ta luôn có khuynh hướng bành trướng nhờ thu tích nơi mình tri
thức, tiền bạc, khả năng. Cả kinh nghiệm, tuổi tác, đạo đức, chức vụ, cũng có
thể làm cái tôi xơ cứng và phình to. Ðể "người lớn" trở nên bé nhỏ
như trẻ thơ, cần phải biến đổi và tự hạ (x. Mt 18, 3-4). Ðây thật là một cố
gắng không ngừng. Khi hủy mình ra không, ta sẽ dễ dàng đi qua cửa hẹp.
-
Phải thể hiện đời sống như các tổ phụ: Nghĩa là phải noi gương Abraham, Isaac
và Giacóp, vững vàng trong đức tin và trung kiên trong đức mến.
2.
Mặt tiêu cực, Chúa Giêsu cảnh báo những điều nên tránh:
-
Tránh ảo tưởng mình là người Kitô hữu đương nhiên được cứu. Gioan Tẩy Gỉa đã
chẳng cảnh báo với những người Biệt phái và nhóm Sađucêô: "Đừng ỷ
mình là con cháu tổ phụ Abraham…” (Mt 3,7t); cũng như Chúa đã khuyến
cáo: đừng tưởng rằng đã từng ăn uống trước mặt Ngài, và từng nghe Ngài giảng
dạy là được cứu. Nhưng để được cứu độ, ta còn phải biết lắng nghe và thực hành
Lời của Chúa: "Mẹ và anh em của Ta là những người nghe Lời Chúa và
đem ra thực hành." (Lc 8, 21).
-
Tránh quan niệm “sống lâu năm lên lão làng”. Nghĩa là ỷ vào công trạng giữ đạo
lâu năm mà chễnh mãng trong đời sống đức tin, xem thường đạo lý và Lời Chúa.
Điều này có nguy cơ sẽ bị loại khỏi nước trời. Ơn cứu độ chỉ dành riêng cho
những ai kiên trung sống đức tin đến cùng. Vì thế, Chúa Giêsu đã không ngại
tuyên bố: " kẻ sau hết sẽ trở nên trước hết...".
Xin
cho chúng ta biết loại bỏ đi những suy nghĩ theo kiểu người đời. Nhưng biết
kiên trì không ngừng nổ lực thực thi Lời Chúa dạy bảo, với tinh thần khiêm tốn,
để xứng đáng được vào số người được cứu độ.
Thứ năm: LỄ CÁC ĐẲNG
LỄ
I: G 19,1.23-27a; Rm 5,5-11; Ga 6,37-40
Kính
thưa quý ông bà và anh chị em,
Những
ngày này chúng ta được mời gọi sống đỉnh cao của mầu nhiệm hiệp thông trong GH.
Hiệp thông trong ân phúc và hiệp thông trong cả tội lỗi.
Nếu hôm
qua chúng ta được hiệp thông với các thánh trên trời và cậy nhờ công đức
của các ngài, thì hôm nay chúng ta được kêu gọi để hiệp thông với các
đẳng linh hồn trong nơi luyện tội để trao quà ơn thánh bằng tình bác ái yêu
thương.
Xác
tín vào mầu nhiệm các thánh cùng thông công, với niềm tin vững vàng vào ơn cứu
độ của Thiên Chúa, chúng ta hãy dâng những hy sinh, những việc làm phúc đức
cùng những lời nguyện cầu nguyện chân thành lên trước tòa Chúa.
Xin
Chúa thương đón nhận những của lễ hy sinh chúng con mà tha
thứ mọi hình phạt tạm cho các đẳng linh hồn trong nơi luyện
tội, nhất là linh hồn tổ tiên, ông bà, cha mẹ và bạn hữu của chúng
con, để các ngài sớm được dự phần vào vinh quang trong
nước trời.
Gói trọn những tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối. Xin Chúa tha thứ những thiếu sót và tội lỗi của chúng ta, để chúng ta xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh.
Một triết
gia đã khẳng định: “đã là người đều phải chết. Vậy, tôi là người, tôi
cũng phải chết”.
Chết
là cái đích cuối cùng của một đời người mà ai cũng phải trải qua. Nhưng, khi
nói về cái chết thì nó muôn màu, muôn vẻ, không ai giống ai :
Có
người sau một đêm dài yên giấc, đã từ giã cõi đời và người thân yêu mình mà ra
đi mãi mãi, không bao giờ trở lại.
Có
người chết vì già nua đau yếu, nhưng cũng có người chết trong lúc tuổi đời còn
xuân xanh;
Có
người chết bởi tai ương họan nạn, nhưng cũng có kẻ chết trong lúc vui vẻ với
người thân, bạn bè;
Có
người chết vì bệnh tật hiểm nghèo, nhưng cũng có kẻ chết vì muốn tự kết liệu
đời mình bởi không tìm được lối thoát trong cuộc đời này...vv.
Quả
là cái chết của con ngươi xảy ra "muôn hình, vạn trạng".
Với
niềm tin Kitô giáo thì cái chết sẽ dẫn đưa con người đến sự sống đời đời. Hay,
nói khác đi, chết là một cơ hội tốt đẹp nhất dẫn con người ta đến sự sống muôn
đời trong Thiên Chúa Ba Ngôi.
Cả
ba bài đọc lời Chúa trong thánh lễ thứ nhất, cầu cho các tín hữu qua đời hôm
nay đều đề cập đến niềm tin căn bản của người kitô hữu chúng ta, đó là: chết, sống lại và thưởng phạt.
-
Bài đọc 1 trích sách Gióp, tác giả tin rằng cho dẫu phải trải qua cuộc đời này gian
nan thử thách vì phải đối mặt với bao đau khổ, ngay cả cái chết do ma quỷ gây
ra, ông vẫn tin tưởng vào tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa, đấng có
quyền trên sự sống chết con người sẽ cứu ông thoát khỏi mọi hiểm nguy và đưa
ông vào cõi phúc một khi ông nhắm mắt lìa đời: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng Người sẽ đứng
lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu hủy, thì với tấm thân, tôi sẽ được
nhìn ngắm Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn người, Đấng mắt tôi nhìn
thấy, không phải người xa lạ. Lòng tôi những tha thiết mong chờ.” (G
19, 25- 27).
-
Bài đọc 2, trích thư thánh Phaolo tông đồ gửi tín hữu Roma, thánh Phaolô khuyên
nhủ mọi tín hữu hãy luôn trông cậy vào TC, bởi chính TC mới là Đấng làm cho con
người có niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu: “Thưa
anh em, trông cậy, không làm chúng ta phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình
yêu vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà người đã ban cho chúng ta... phương
chi bây giờ chúng ta đã được hòa giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống
của người con ấy.” (Rm 5, 5.10b)
-
Bài tin mừng của thánh Gioan, Chúa Giêsu đã
khẳng định rằng: “Tất cả những kẻ được Chúa Cha ban cho tôi, tôi sẽ
không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý
của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được
sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6, 39-
40).
Như
thế phụng vụ lời Chúa hôm nay xác quyết cho chúng ta biết rằng: sự sống đời đời
của người tín hữu hệ tại ở việc nhận biết, tin tưởng và kết hợp mật thiết với
Chúa Giêsu. Nhờ đó mà ta sẽ được Ngài cho sống lại trong ngày sau hết.
Trong
thánh lễ cầu cho các tín hữu đã ly trần hôm nay, chúng ta tin chắc rằng,
khi sống kiếp phàm nhân con người không tránh khỏi những lỗi lầm do cuộc sống
đưa đẩy, hay do những khiếm khuyết của bản thân, nhưng với niềm tin vào Thiên
Chúa mạnh mẽ, không phai nhòa con người có cơ hội được Thiên Chúa chấm công và
ban phần thưởng.
Dẫu
cho đời sống nơi dương thế dài lê thê và nhiều khổ ải nhưng nếu chúng ta biết
cố gắng kiên trì đi theo Chúa với niềm tin vững vàng vào tình thương và ơn cứu
độ của Người thì dù có chết về phần xác thì Chúa cũng sẽ cho chúng ta được phục
sinh, để bước vào cõi sống muôn đời với Người trong niềm hạnh phúc vĩnh chửu,
vì chính Ngài đã phán: “Ai tin vào tôi, sẽ sống muôn đời”.
Khi
suy niệm về cái chết của những người đã ra đi trước chúng ta, chúng ta cũng nhớ
về thân phận tro bụi mỏng giòn và chóng tàn phai của mình mà chuẩn sẵn
sàng mọi tư thế, để khi Chúa có đến gõ cửa, ta vui mừng đáp lại “này tôi tớ
Chúa đang lắng tai nghe, Ngài muốn con đi đâu vậy? Con đã sẵn sàng hành lý để
đi theo Ngài đây”.
Có
lẽ khi nghe lời đáp trả mạnh mẽ như thế, Chúa sẽ mỉm cười và nói với chúng ta
rằng: “Ta muốn con đi theo Ta vào chung hưởng phần gia nghiệp với Ta trong Nước
Trời”.
Lạy
Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời và cho ánh sáng ngàn thu,
chiếu soi trên các linh hồn ấy. Amen. (St)
LỄ
II: Is 25,6a.7-9; Rm 8,14-23; Mt 25,31-46
GIÚP ĐỠ CÁC ĐẲNG LINH HỒN
Tín điều các thánh
thông công do GH chỉ dạy, giúp chúng ta xác tín vào sự hiệp thông trong cùng
một Hội Thánh, đem đến niềm tin và hi vọng cho mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Hôm nay Hội Thánh
mời gọi chúng ta hướng về những người đã an giấc ngàn thu, đợi chờ ngày Đức
Kitô trở lại trong vinh quang để kết hợp hồn xác lại để được Chúa ban hưởng
phúc trường sinh vĩnh cửu.
Bổn phận chúng ta là
thành phần GH chiến đấu, những người còn đang lữ hành trên trần thế, phải tích
cực cộng tác vào chương trình cứu rỗi của Đức Kitô, nhờ công nghiệp hi sinh trên Thập Giá của Chúa, được tái diễn trên
bàn thờ, qua Thánh lễ Misa, chúng ta cùng được kết hợp vào cuộc khổ nạn và phúc
sinhcủa Đức Kitô, để chuyển cầu và cứu giúp các Đẳng linh hồn được hưởng ơn cứu
độ Phục Sinh, mà họ đang chờ đợi từng giây phút.
Để lời cầu nguyện và
cửa lễ hy sinh của chúng ta được Chúa chấp nhận, giờ đây chúng ta hãy thành tâm
thống hối.
Tín điều các thánh
thông công do GH chỉ dạy, giúp chúng ta xác tín vào sự hiệp thông trong cùng
một Hội Thánh, đem đến niềm tin và hi vọng cho mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Hôm nay Hội Thánh
mời gọi chúng ta hướng về những người đã an giấc ngàn thu, đợi chờ ngày Đức
Kitô trở lại trong vinh quang để kết hợp hồn xác lại để được Chúa ban hưởng
phúc trường sinh vĩnh cửu.
Bổn phận chúng ta là
thành phần GH chiến đấu, những người còn đang lữ hành trên trần thế, phải tích
cực cộng tác vào chương trình cứu rỗi của Đức Kitô, nhờ công nghiệp hi sinh trên Thập Giá của Chúa, được tái diễn trên
bàn thờ, qua Thánh lễ Misa, chúng ta cùng được kết hợp vào cuộc khổ nạn và phúc
sinhcủa Đức Kitô, để chuyển cầu và cứu giúp các Đẳng linh hồn được hưởng ơn cứu
độ Phục Sinh, mà họ đang chờ đợi từng giây phút.
Để lời cầu nguyện và cửa lễ hy sinh của chúng ta được Chúa chấp nhận, giờ đây chúng ta hãy thành tâm thống hối.
Để
nhắc nhở chúng ta siêng năng “đi viếng nhà thờ” mà cầu nguyện cho các đẳng linh
hồn vào tháng 11, người ta thường kể cho nhau nghe câu chuyện sau đây:
Ở
một Họ đạo nọ, có một người đàn ông sống đạo rất khô khan nguội lạnh. Ít khi
thấy anh ta đi đến nhà thờ để tham dự thánh lễ một mình. Anh chỉ đi nhà thờ,
khi nào đứa con trai cưng bảy tuổi của anh đòi đi mà thôi.
Số
là vào một buổi chiều trong tháng các đẳng linh hồn, đứa con của anh thấy bạn
bè mình đều được cha mẹ dẫn đi “viếng nhà thờ” để đọc kinh cầu nguyện cho ông
bà tổ tiên đã qua đời, nó cũng đòi đi cho bằng được, để cầu nguyện cho ông bà
nội đã qua đời.
Sau
khi đưa ra hết mọi lý lẽ để cản ngăn con đừng đi nhà thờ không thành công, anh
ta đành phải chiều lòng con mà đưa nó đến nhà thờ.
Nhưng
khi đến nhà thờ, anh không vào tham dự thánh lễ mà ngồi chờ con bên ngoài hành
lang nhà thờ. Anh dặn đứa con: “Khi nào con đọc kinh xong thì ra, ba sẽ đưa con
về!”.
Nhưng
vì ngồi chờ quá lâu ở ngoài nhà thờ, nên anh ta đã ngủ quên và không biết giờ
kinh đã xong lúc nào. Trong khi đang say ngủ như vậy thì anh mơ thấy một đoàn
các Thiên Thần đông vô kể, từ trên trời bay xuống, vị nào cũng ì ạch mang theo
những bao chứa đầy những thứ có màu trắng tựa như bông, lại bốc mùi rất thơm
không thể nào diễn tả được. Quá tò mò, anh chạy theo một vị Thiên Thần và hỏi
nhỏ: đó là thứ gì vậy? Vị Thiên Thần trả lời: đây là “các ơn thánh” mà những
người trên trần gian đã tích góp được nhờ vào việc đọc kinh, lần hạt và đi
viếng nhà thờ, nay gửi xuống cho người thân của họ đang bị giam cầm trong Luyện
ngục. Được lệnh của Thiên Chúa nay chúng tôi đi giao quà. Nghe vậy, anh liền
rón rén đi theo các Thiên Thần.
Khi
các Thiên Thần đi đến đâu thì các linh hồn đều rất vui mừng bởi họ đều nhận
được thật nhiều quà “ơn thánh” mà bà con thân thuộc của họ gửi đến cho họ nên
ai cũng đều cám ơn rối rít.
Sau
cùng, còn lại một món quà nho nhỏ, các Thiên Thần tìm đến một phòng giam trông
rất hoang vắng rồi gõ cửa và nói: “Này, ông bà cụ ơi, có quà của cháu nội gửi
cho ông bà đây, ra mà nhận!”. Bổng từ bên trong có tiếng vọng ra vừa vui mừng
vừa xúc động nói: “Trời ơi, chúng tôi mà cũng có người tưởng nhớ tới sao! Bởi
vì từ khi chết cho tới nay đã lâu quá rồi, đâu có ai nhớ đến chúng tôi nữa mà
gửi quà! Nhưng thật cảm động vì hôm nay chúng tôi nhận được món quà hết sức quý
giá của đứa cháu nội, ôi hạnh phúc biết bao!”.
Thật
bất ngờ không thể tin vào mắt mình nữa, bởi vì vừa khi mở cửa ra để lãnh quà
“ơn thánh” của đứa cháu nội, thì anh ta nhận ra đó chính là cha mẹ ruột của
anh. Nhưng giờ đây hình dáng của hai ông bà đã gầy óm và hốc hác đi quá nhiều,
trông rất là đau khổ.
Lúc
ấy anh thấy hai ông bà hướng mắt nhìn về anh rồi từ từ tiến lại gần anh với một
vẽ mặt rất tức giận. Với cái gậy đang cầm sẵn trong tay, ông bà đã phang thẳng
vào đầu anh một cái thật mạnh và quát lớn: “Thằng con bất hiếu kia, mi còn mò
tới đây làm gì nữa! Mi quả là đứa con bất hiếu! Mi coi gương đứa con của mi mà
từ nay ăn ở sao cho phải đạo đó!”. Bị đánh một cú quá bất ngờ và đau điếng, anh
chàng bèn tỉnh giấc. Khi ngước mặt lên, anh ta bất ngờ nhìn thấy ông từ trông
coi nhà thờ đang đứng trước mặt anh và la lớn tiếng: “Mi là ai mà giờ này còn
nằm trước cửa nhà thờ ngủ như thế này!”.
Bấy
giờ anh ta mới biết là mình đang mơ. Và cú gậy vừa rồi là do ông từ đánh, chứ
không phải ba mẹ anh đánh!
Trên
đường lủi thủi về nhà, người đàn ông ấy đã suy nghĩ thật nhiều về giấc mơ ấy.
Cuối cùng anh ta cũng quyết tâm đổi đời. Từ đó anh ta cương quyết sống đạo tốt
hơn, siêng năng tham dự thánh lễ thường xuyên và lúc nào cũng nhớ cầu nguyện
cho cha mẹ anh ta thật nhiều.
Câu
chuyện trên là lời nhắc nhớ mỗi người chúng ta hãy siêng năng cầu nguyện cho
các linh hồn, nhất là trong tháng 11 này, vì các ngài đang chờ đợi nơi chúng ta
những người còn sống tặng “quà ơn thánh” cho họ.
Qùa
ơn thánh mà những người đã chết mong chờ chính là những việc làm bác ái yêu
thương, là những kinh nguyện sáng chiều, là những hy sinh phục vụ chân thành và
nỗ lực chu toàn tốt bổn phận của mình trong gia đình, nơi họ đạo và ngoài xã
hội. Nhất là những thánh lễ mà chúng ta cùng hiệp dâng lên Chúa mỗi ngày với
niềm xác tín vào mầu nhiệm các thánh cùng thông công, nhờ vào tình thương cứu
chuộc của Chúa Giêsu Kitô.
Tin
tưởng vào tín điều các thánh thông công, chúng ta hãy tích lũy thật nhiều quà
công đức mà gửi tặng các linh hồn nơi luyện tội, trong đó rất có thể là ông bà,
cha mẹ, người thân của chúng ta, với niềm xác tín vào lòng thương
xót Chúa sẽ thanh luyện các đẳng nên trinh trong, hầu xứng
đáng bước vào nước trời chung hưởng niềm vinh phúc cùng các thánh trong nhà Cha
muôn đời. Amen.
LỄ III: Kn 3,1-9; Kh 21,1-5a.6b-7; Mt 5,1-12a
Một triết gia
đã khẳng định: “đã là người thì đều phải chết. Vậy, tôi là người, tôi
cũng phải chết”. Chết là cái đích cuối cùng của một đời người mà ai
cũng phải trải qua. Nhưng, khi nói về cái chết thì nó muôn màu, muôn vẻ, không
ai giống ai :
Có người sau một
đêm yên giấc, đã từ giã cõi đời này mà ra đi mãi mãi, không bao giờ trở lại.
Có người chết vì
già nua đau yếu, nhưng cũng có người chết trong lúc tuổi đời còn xuân xanh;
Có người chết bởi
tai ương họan nạn, nhưng cũng có kẻ chết trong lúc vui vẻ với người thân, bạn
bè;
Có người chết vì
bệnh tật hiểm nghèo, nhưng cũng có kẻ chết vì muốn tự kết liệu đời mình bởi
không tìm được lối thoát trong cuộc đời này...vv. Quả là cái chết của con ngươi
xảy ra "muôn hình, vạn trạng".
Với niềm tin Kitô
giáo thì cái chết sẽ dẫn đưa con người đến sự sống đời đời.
Cả ba bài đọc lời
Chúa trong thánh lễ sáng nay đều đề cập đến 3 điều căn bản của niềm tin người
kitô hữu chúng ta, đó là: chết, sống lại và thưởng phạt.
- Bài đọc 1, trích sách Gióp, tác giả tin rằng
cho dẫu phải trải qua cuộc đời này đầy gian nan thử thách, hay phải chết đi do
ma quỷ gây ra, ông vẫn tin tưởng vào tình thương và sự quan phòng của Thiên
Chúa là Đấng cầm quyền trên sự sống chết của con người, sẽ cứu ông thoát khỏi
mọi hiểm nguy và đưa ông vào cõi phúc trường sinh một khi ông nhắm mắt lìa đời. (x.G
19, 25-27).
- Bài đọc 2, trích thư gửi tín hữu Rô-ma,
thánh Phao-lô khuyên nhủ mọi tín hữu hãy luôn trông cậy vào TC. Dẫu biết rằng chúng ta là tội nhân nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương
chúng ta. Ngài đổ tình yêu vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần. Cũng chính vì yêu
thương, Thiên Chúa đã để cho người con duy nhất là Đức Giê su kitô đổ máu mình
ra Cứu độ và giao hòa chúng ta lại với Thiên Chúa. (x. Rm, 5-11)
- Còn bài Tin mừng của thánh Gioan, Chúa Giêsu
đã khẳng định với chúng ta rằng: sau cái chết là
một sự sống mới trong Đức Kitô. Nên ai tin vào Người thì được sự sống đời
đời, Người sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết và được cùng Người chung hưởng
sự sống đời đời. (x.Ga 6, 39-40).
Như thế phụng vụ
lời Chúa hôm nay giúp cho ta hiểu rằng: số phận của chúng ta hệ tại ở việc nhận
biết, tin tưởng và kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu. Nhờ đó mà ta mới có được
sống lại trong Chúa vào ngày sau hết.
Giáo lý công giáo cũng đã dạy cho chúng ta biết rằng: có
thiên đàng để thưởng người lành, có hoả ngục để phạt kẻ dữ, và có luyện ngục để
thanh tẩy các linh hồn còn vướng mắc các tội nhẹ chưa đền hết.
Các linh hồn trong luyện ngục tự mình không thể làm gì được
để được Chúa tha các hình phạt trong luyện ngục, ở đó họ chỉ trông mong có một
điều là hình phạt mau qua để chóng được hưởng nhan thánh Chúa, do đó họ rất cần
đến lời cầu nguyện của chúng ta, cần đến những việc lành phúc đức và những hy
sinh của chúng ta là những người đang còn sống ở thế gian.
Tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, Giáo Hội đã
dành trọn tháng Mười Một trong năm để cầu nguyện cho các linh hồn trong luyện
ngục, một tháng với biết bao nhiêu là việc lành mà chúng ta làm, với biết bao
nhiêu là thánh lễ mà chúng ta tham dự cách sốt sắng, với biết bao hy sinh mà
chúng ta đã thực hiện, thì chắc chắn có rất nhiều linh hồn trong luyện ngục
được thoát khỏi hình phạt luyện ngục mà về thiên đàng hưởng hạnh phúc với Thiên
Chúa.
Tín điều các thánh thông công của Giáo Hội cũng nhắc nhắc
nhở chúng củng cố tình hiệp thông rõ nhất trong tháng này: hiệp thông với các
thánh khải hoàn trên trời để xin ơn trợ giúp nâng đỡ chúng ta đang lữ hành trên
trần gian, hiệp thôn với các đẳng đang đau khổ trong luyện ngục bằng các lời
kinh nguyện và việc lành của chúng ta để góp phần giải thoát các linh hồn trong
nơi luyện tội.
Ai trong chúng ta cũng đều có người thân qua đời, nếu họ đã
được hưởng hạnh phúc thiên đàng, thì họ sẽ cầu bàu cho chúng ta trước toà Thiên
Chúa, nếu họ đang bị giam cầm trong luyện ngục thì họ đang rất cần đến lời cầu
nguyện và những hy sinh của chúng ta, mỗi thánh lễ, mỗi lời nguyện, mỗi việc
lành của chúng ta làm, tựa như những giọt nước mát mẻ làm dịu bớt những cơn
khát cháy trong đau khổ cũng như thâu ngắn thời gian đền tội lại của họ trong
luyện ngục.
Tháng Mười Một cũng là tháng báo hiếu của con cái đối với
ông bà cha mẹ đã qua đời. Xin lễ cầu nguyện, lần chuổi Mân Côi, làm việc lành
phúc đức.v.v...là những cách báo hiếu đúng đắn và hữu hiệu nhất mà chúng ta
dành cho các ngài.
Tin tưởng và cậy trông lòng lòng thương xót, chúng con cậy vì danh Chúa nhân từ cho các linh hồn được lên chốn nghỉ ngôi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen. (St)
SUY NIỆM LỄ CÁC ĐẲNG
SUY NIỆM 1: RA ĐI CŨNG LÀ TRỞ
VỀ
Ngày chết mà người ta gọi là ngày đại hoạ, ngày kinh hoàng, thì đối với người
tin Chúa, đó lại là ngày đoàn tụ sum vầy
Đối với những ai không tin có sự sống đời sau thì cái
chết là thảm hoạ khủng khiếp nhất trên đời, vì khi chết đến, nó sẽ cướp đi tất
cả, không những là tất cả tài sản, của cải tiền bạc, công danh sự nghiệp của một
đời người, mà còn cướp luôn mạng sống của họ.
Tuy nhiên, đối với các Ki-tô hữu, cái chết không
còn bi đát hãi hùng, không phải là một mất mát, nhưng là một sự trở về: chết là về nhà Cha.
Xin mượn câu chuyện sau đây để minh họa cho chân lý nầy :
Năm người con đưa tiễn người
mẹ yêu quý xuống tàu vượt biển đến một bến bờ xa cách vạn dặm nằm bên kia bờ đại
dương bát ngát.
Tàu rời bến, họ vẫy tay tiễn
biệt mẹ mà lòng tê tái buồn đau. Họ đứng lặng trên bờ, đăm đăm nhìn con tàu rẽ
sóng đưa mẹ ra khơi cho đến khi con tàu chỉ còn là một đốm trắng li ti và mất
hút ở cuối chân trời. Mắt mỗi người đều ngấn lệ vì mẹ đã đi xa, tưởng như không
bao giờ trở lại.
Mấy ngày sau đó, ở bờ bên kia
của đại dương, ông bà ngoại, cậu, dì và nhiều người thân yêu đang tụ tập trên bến
chờ đón mẹ về. Và khi thấy thấp thoáng từ xa con tàu buồm trắng mà họ tin là có
mẹ trên đó, thì họ cảm thấy tâm hồn nao nức mừng vui. Đến khi mẹ vừa ra khỏi
tàu, thì ông bà ngoại, cậu dì chạy ra ôm choàng lấy mẹ, mọi người rất vui mừng
hân hoan vì đã chờ đợi mẹ rất lâu mà mãi tới hôm nay mới có ngày sum họp.
Thế là việc ra đi của mẹ ở bờ
bên nầy lại là sự trở về của mẹ ở bờ bên kia. Sự vĩnh biệt đau thương bên nầy
được tiếp nối với cuộc đoàn tụ hân hoan hạnh phúc ở bờ bến khác.
Chúa Giê-su dạy ta biết sự chết như là con tàu buồm
trắng trong câu chuyện trên đây, đưa người ta rời khỏi bến nầy để đưa họ sang bờ
bến khác, giúp con người từ giã thế giới tạm bợ đời nầy để bước vào thế giới
vĩnh cửu, để được đoàn tụ với Thiên Chúa, với ông bà tổ tiên và thân nhân đã
lìa đời trên thiên quốc.
Chính vì thế, qua trích đoạn Lời Chúa trong Tin mừng
hôm nay, Chúa Giê-su an ủi những ai còn ở bờ bên nầy, nghĩa là những người còn
sống trên dương gian rằng: “Anh em đừng
xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều
chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu
Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy
ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,1-3).
Như thế, ngày chết mà người ta gọi là ngày đại hoạ,
ngày kinh hoàng, thì đối với người tin Chúa, đó lại là ngày đoàn tụ sum vầy.
Ngày đó, chúng ta sẽ được “đồng hưởng sự sống đời cùng với Đức Trinh nữ Maria,
Mẹ Thiên Chúa; Thánh Giu-se bạn trăm năm Đức Trinh nữ; các Thánh Tông đồ và
toàn thể các Thánh đã sống đẹp lòng Chúa qua mọi thời đại[1]”, nếu hôm nay ta sống theo Lời Chúa dạy.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đi trước để dọn chỗ cho
đoàn con và mai đây Chúa sẽ trở lại để đưa đoàn con về với Chúa.
Xin cho anh chị em tín hữu đã
ly trần nhưng còn đang được thanh luyện, sớm thoát khỏi chốn luyện hình để đến
nơi Chúa đã dọn sẵn cho họ trên thiên quốc và được đồng hưởng hạnh phúc cùng với
ba ngôi Thiên Chúa và triều thần thánh đến muôn đời. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
SUY NIỆM 2: TÂM HỒN
SIÊU THOÁT
Người có tâm hồn nghèo khó không bám víu vào đời này nhưng bám chặt vào
Chú, tựa nương vào Chúa, như con thơ nép vào lòng mẹ và nhờ đó họ được Thiên
Chúa ấp ủ, yêu thương và ban cho họ hạnh phúc đời đời.
Trên cõi đời này hiếm có ai nghèo như Chúa Giê-su. Mặc
dù Ngài là Thiên Chúa Ngôi Hai đầy quyền năng phép tắc, là bá chủ muôn loài
muôn vật, nhưng Ngài đã hạ mình xuống thế, trở nên người phàm, chấp nhận sinh
ra trong chuồng súc vật khốn hèn, sống kiếp nghèo không chỗ tựa đầu và cuối
cùng, Ngài đã chọn chết nghèo, chết thảm vào bậc nhất trong thiên hạ.
Chúa Giê-su không chỉ sống nghèo mà Ngài còn là Đấng có
tâm hồn nghèo khó và mong muốn chúng ta cũng có tâm hồn nghèo khó như Ngài.
Khởi đầu bài giảng trên núi, một bài giảng quan trọng của
mình, Ngài đã nêu lên 8 mối phúc, mà mối phúc đầu tiên là có tâm hồn nghèo khó.
Ngài nói: “Phúc cho những ai có tâm
hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.” Qua lời này, Chúa Giê-su không nhằm nói ai nghèo khổ là
có phúc, nhưng Ngài nói: “Phúc cho những
ai có tâm hồn nghèo khó.”
Thế nào là có tâm hồn
nghèo khó?
Người có tâm hồn nghèo khó là người ý thức rằng chẳng
có gì là của riêng ta. Mọi sự ta có đều là ân huệ Chúa trao ban cho ta. Ta quản
lý một thời gian, rồi mai đây Ngài sẽ lấy lại.
Thân xác ta thuộc về Chúa. Mai đây Chúa lấy đi, ta trở
về cát bụi.
Sự sống của ta thuộc về Chúa, khi Chúa lấy đi, ta không
giành lại được.
Sức khoẻ của ta cũng do Chúa ban, nếu Chúa cất đi, ta
trở thành người bại liệt tàn phế, nằm liệt giường không chỗi dậy nổi đâu.
Tiền bạc ta có cũng do Chúa ban. Chúa lấy đi, ta chỉ
còn 2 bàn tay trắng.
Nên phải luôn tâm niệm lời dạy của Chúa Giê-su: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn
thì được ích gì!”
Biết như thế, nên người có tâm hồn nghèo khó không bám
víu vào đời này nhưng bám chặt vào Chúa, không dựa vào tài năng sức lực của
mình, mà hoàn toàn tựa nương vào Chúa, như con thơ nép vào lòng mẹ và nhờ đó ta
được Thiên Chúa ấp ủ, yêu thương và ban cho ta hạnh phúc đời đời.
Thế là đúng như lời Chúa Giê-su dạy: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì
Nước Trời là của họ.”
- Còn đối với những ai không có tâm hồn nghèo, họ xem
tiền là Tiên là Phật, là chìa khóa vạn năng, là quyền lực vô song có thể giải
quyết mọi vấn đề. Thế là họ cam phận làm nô lệ cho đồng tiền, tôn thờ đồng tiền,
quay cuồng trong cơn lốc kiếm tìm tiền bạc. Họ lao vào tiền bạc như những con
thiêu thân lao vào lửa. Và cũng như thiêu thân lao vào lửa, họ đốt cháy đời
mình cách đau thương như lời thánh Phao-lô nói: “Chung cục là họ sẽ phải hư vong” (Pl 3, 19). Thánh Phao-lô
mô tả về tình trạng của hạng người này như sau: “Chúa họ thờ là cái bụng và cái họ lấy
làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự
thế gian…” (Pl 3, 19).
Hôm nay, lời dạy sống tinh thần nghèo khó của Chúa
Giê-su thúc đẩy chúng ta chọn lựa một trong hai điều này: Hoặc là tham lam, mê
đắm tiền bạc và tôn nó lên ngôi để rồi phải hư mất đời đời; hay là siêu thoát
khỏi mọi chi phối trói buộc của vật chất để chỉ bám víu vào Thiên Chúa mà thôi
để được Nước Trời làm gia nghiệp.
Lạy Chúa Thánh Thần,
Nếu không được Chúa
soi sáng và ban ơn, không ai trong chúng con có thể siêu thoát khỏi mọi quyến rủ
của vật chất để hướng tâm hồn về phúc lộc quê trời.
Xin ban cho chúng con
đức khôn ngoan của Chúa, để chúng con nhận biết rằng chỉ những ai có tâm hồn
nghèo khó, siêu thoát khỏi mọi trói buộc của tiền tài và hướng lòng về thượng
giới, thì mới là người thật sự có phúc vì sẽ đạt được hạnh phúc thiên đàng mà
thôi.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
SUY NIỆM 3: ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC HƯỞNG PHÚC THIÊN ĐÀNG
Trong lớp giáo lý nọ, giáo lý viên hỏi các học sinh:
- Ta phạm tội nào thì phải sa hỏa ngục?
Đây là một câu hỏi dễ nên có nhiều học sinh giơ tay xin
đáp. Các câu đáp quy về những thứ tội sau đây:
- Tội cố ý giết người, cố tình gây thiệt hại cho người
khác như trộm cắp, chiếm đoạt; cố tình phạm tội tà dâm, ngoại tình; cố ý lăng mạ
làm mất danh dự người khác, vân vân…
Giáo lý viên nói:
- Tất cả các câu đáp của các em đều đúng. Bây giờ thầy
hỏi tiếp:
- Có khi nào ta không phạm những thứ tội như thế, cũng
không cố tình làm hại ai, không đụng chạm gì đến tài sản hay thân thể người
khác… mà phải sa hỏa ngục không?
Sau một hồi cau mày suy nghĩ, các học sinh đều trả lời
là không. Thế nhưng thầy lại bảo là có, khiến cả lớp ngạc nhiên pha lẫn nghi ngờ.
Thầy nói tiếp: Có những khi ta không làm tổn thương ai,
không chiếm đoạt tài sản người khác, không xúc phạm đến ai… thế mà vẫn có thể bị
sa hỏa ngục vì không ra tay cứu giúp những người lâm cảnh gian nan khốn khó.
Nghe thế, học sinh lại thêm nghi ngờ. Để thuyết phục
học sinh tin chắc điều này, thầy trích dẫn lời dạy của Chúa Giê-su qua hai dụ
ngôn sau đây:
Thứ nhất là dụ ngôn
người giàu có với La-da-rô khốn khổ trong Tin mừng Luca.
Người giàu “mặc
toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có người nghèo khó tên
là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ
trên bàn ăn của ông ấy mà ăn cho đỡ đói, nhưng cũng chẳng ai cho.”
Thế rồi, cả hai người đều chết. La-da-rô thì được
vào thiên đàng vinh hiển; còn lão phú hộ thì phải sa hỏa ngục” (Lc 16, 19-21).
Người giàu đã làm gì đến nỗi phải sa hỏa ngục? Ông ta
không mắng chửi, không đánh đập, không xua đuổi La-da-rô… Thế thì tại sao lão lại
phải sa hỏa ngục?
Lão phải sa hỏa ngục vì lão không ra tay cứu
giúp La-da-rô đang đói khát trong khi lão thừa mứa thức ăn.
Thứ hai là qua dụ ngôn
cuộc “Phán xét cuối cùng” được trích đọc hôm nay, Chúa Giê-su lên án những người không
ra tay cứu giúp người cùng khổ bằng những lời lẽ hết sức nặng nề: “Hỡi phường bị chúc dữ kia! Hãy lui khỏi mặt Ta mà vào
lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng…”
Thế là những người này hết sức bàng hoảng, sửng sốt,
khiếp sợ và tự hỏi: “Mình đã làm gì nên tội mà Chúa bắt mình phải chịu hình phạt
khủng khiếp đến thế? Mình không giết người, không đốt nhà, không chiếm đoạt tài
sản của ai, không gian dâm, không ngoại tình, không mắng chửi hay làm mất thanh
danh phẩm giá bất cứ ai… Thế thì tại sao lại phải chịu hình phạt nặng nề kinh
khủng như thế?
Chúa Giê-su đáp: Các ngươi phải sa hỏa ngục “vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta
khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta
mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng
thăm Ta!”
“Bấy giờ họ cũng đáp lại
rằng: 'Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần,
yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?' Khi ấy Chúa đáp lại:
“Ta bảo thật cho các ngươi biết: Những gì các ngươi đã không làm cho một trong
các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta” (Mt 25, 46).
Lạy Chúa Giê-su,
Lâu nay chúng con
không ngờ có một thứ tội rất nặng nề mà ai vi phạm thì phải sa hỏa ngục đau khổ
muôn đời, đó là tội không biết ra tay cứu giúp những người lâm cảnh gian nan khốn
khổ.
Xin cho chúng con luôn
quan tâm giúp đỡ người khốn khó, biết giảm bớt những chi tiêu không cần thiết để
chia sẻ cho những anh chị em nghèo thiếu chung quanh; nhờ đó, mai đây Chúa sẽ
tuyên bố với chúng con rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh
lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ
trụ” vì các ngươi đã ra tay cứu giúp những anh chị em đang lâm cảnh gian nan.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
SUY NIỆM 4: LÒNG THẢO
HIẾU THEO TINH THẦN KITO GIÁO
Hàng năm dân tộc Khmer có ngày lễ Sen Dolta. “Sen” có
nghĩa là cúng, còn “Dol” có nghĩa là bà, “Ta” nghĩa là ông. Trong ngày lễ này bà con Khmer thể hiện tấm
lòng thành kính, hiếu thảo đối với ông bà tổ tiên. Vì
thế trong dịp lễ này bà con đồng bào dân tộc Khmer chuẩn bị hết sức chu đáo.
Còn các phật tử thì lại rộn ràng với ngày lễ hội “Vu
Lan- báo hiếu." vào ngày rằm tháng 7 (â.l). Tâm tình hiếu thảo của bà con
Phật tử không chỉ dành cho hương hồn ông bà cha mẹ mà còn hướng đến vong linh
những người thác oan, cô quả, vùi thân nơi đất khách quê người…
Cách riêng, Giáo Hội chúng ta không chỉ dành ngày lễ
các Đẳng Linh Hồn hôm nay nhưng còn là mỗi ngày, nhất là cả tháng 11 dương lịch
để tưởng nhớ và cầu nguyện cách đặc biệt cho những người đã qua đời, trong đó
có tổ tiên, ông bà chúng ta, được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng.
Thực hành này dựa trên nền tảng của niềm tin vào Đức
Giê-su Ki-tô, Đấng đã thực hiện ý Chúa Cha là cho “những ai thấy và tin vào Chúa Con” thì dù có chết cũng sẽ được sống
lại và sống mãi muôn đời.
Nhiều anh chị em lương dân vẫn chưa hiểu rõ về đạo hiếu
chúng ta nên hay nói: “Theo đạo Công Giáo là bỏ ông bỏ bà.” Nhưng thực tế chúng
ta luôn sống hiếu thảo với các ngài qua việc cầu nguyện hàng ngày trong thánh lễ,
vẫn xin lễ thường xuyên, vẫn dâng những việc lành phúc đức và âm thầm hy sinh chu
toàn bổn phận trong yêu thương phục vụ để cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ
và các đẳng linh hồn đã qua đời. Vậy mà, bà con lương dân vẫn chưa thấy được tấm
lòng hiếu thảo của người công giáo chúng ta.
Phải chăng lòng thảo kính đối với tổ tiên ông bà cha mẹ
nơi chúng ta chưa tích cực, chưa đi vào cuộc sống nên chưa có sức lan toả?
Ý thức điều này, nên trong tháng này, chúng ta hãy dành
nhiều thời gian, công sức để năng
đến tham dự thánh lễ, viếng nghĩa trang, làm thật
nhiều việc bác ái lập nhiều công đức, để cầu nguyện cho các linh hồn của ông bà
cha mẹ chúng ta đã qua đời.
Ngoài ra chúng ta cũng hãy quét dọn mồ mả người thân
chúng ta soa cho sạch đẹp. Sắp xếp lại bàn thờ gia tiên dưới bàn thờ Chúa trong
gia đình mình sao cho gọn gàng, trang trọng nhằmthể hiện lòng hiếu kính tổ tiên
trong niềm tin vào Thiên Chúa.
Xin thứ tha những lầm lỗi, thiếu sót của những người thân chúng con và xin cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên tất cả những ai đã được nghỉ yên trong Chúa. (St)
SUY NIỆM 5 : CUỘC
THANH TẨY CUỐI CÙNG
“Chúa đã thử thách các
ngài như thử vàng trong lửa”.
Trên một bia mộ, người ta đọc thấy dòng chữ: “Chỗ bạn
đang đứng, chỗ tôi đã đứng. Nơi tôi đang nằm, nơi bạn sẽ nằm!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Nơi tôi đang nằm, nơi bạn sẽ nằm!”. Lời Chúa ngày lễ
Các Đẳng Linh Hồn đưa chúng ta về “Luyện ngục”, một khái niệm thường bị hiểu lầm.
Luyện ngục là gì? Là nơi chúng ta phải chịu trừng phạt
vì tội lỗi? Cách Thiên Chúa hỏi tội về các sai phạm của mỗi người? hay đó là kết
quả cơn giận của Ngài?
Không! Luyện ngục không gì khác hơn là tình yêu cháy bỏng
và là ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ Thiên Chúa dành cho những người Chúa chọn.
Sách Khôn Ngoan nói, “Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa”.
Khi ai đó chết, rất có thể họ không được hoán cải 100%
để hoàn hảo về mọi mặt. Ngay cả các thánh vĩ đại nhất mà cũng có khiếm khuyết
trong cuộc sống.
Luyện ngục không
gì khác hơn là ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ tất cả vấn vương còn lại với tội lỗi.
Hãy tưởng tượng, bạn có một cốc nước tinh khiết 100%. Cốc này tượng trưng cho
thiên đàng. Bạn muốn thêm vào cốc đó một ít nước chỉ tinh khiết 99%. Nước không
tinh khiết 1% này đại diện cho những người lành thánh đã chết với một số chấp
trước nhẹ đối với tội lỗi. Nếu thêm nước đó vào cốc, cốc sẽ có một số tạp chất,
ít nữa 1%.
Vấn đề là thiên đàng không chứa bất kỳ tạp chất nào, dù
là nhỏ nhất. Vì thế, 1% đó vẫn cần được lọc sạch.
Làm thế nào điều này xảy ra? Chúng ta không biết. Chúng
ta chỉ biết nó có. Nhưng cần hiểu rằng, đó là kết quả của tình yêu vô hạn nơi
Thiên Chúa những muốn thanh tẩy chúng ta khỏi mọi ràng buộc, vướng bận.
Có đau không? Rất có thể! Nhưng đau theo nghĩa buông bỏ.
Và kết quả cuối cùng là tự do thực sự, đáng giá cho bất kỳ nỗi đau nào có thể
trải qua. Vì thế, luyện ngục là đau đớn, nhưng là ‘nỗi đau ngọt ngào’ cần có từ
‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ để kết hiệp với Chúa trọn vẹn hơn. Chúa Giêsu nói, “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều
sẽ đến với tôi”; đó là những con người với những chiếc áo trắng tinh tuyền,
và những trái tim cũng tuyệt đối tinh tuyền!
Tưởng nhớ các linh hồn, chúng ta sống mầu nhiệm Các
Thánh Thông Công. Các linh hồn trải qua cuộc thanh luyện này vẫn hiệp thông với
Chúa, với Giáo Hội dưới thế và Giáo Hội thiên quốc. Chúa sử dụng lời cầu của
chúng ta dành cho các linh hồn, cũng như việc các linh hồn cầu bầu cho chúng ta
như những công cụ thanh tẩy của Ngài; Ngài cho phép và mời chúng ta tham gia
vào ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ của họ. Điều này tạo nên một mối liên đới chặt
chẽ của chúng ta với các linh hồn.
Anh Chị em,
“Chúa đã thử thách các
ngài như thử vàng trong lửa”. Như vàng trong lửa, một ngày kia, tất cả chúng ta rồi cũng
được thanh luyện như các linh hồn. Và không nghi ngờ gì nữa, các thánh trên trời,
đặc biệt dâng lời cầu nguyện cho họ trong thời gian thanh luyện này. Đó là một
sự thật đáng hoan hỷ và là một niềm vui lớn lao khi chúng ta thấy cách thức
Thiên Chúa sắp xếp toàn bộ quá trình này cho mục đích cuối cùng của sự hiệp
thông thánh thiện mà chúng ta được kêu gọi! Như vậy, ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’
rõ ràng là cần thiết, nó là sáng kiến từ tình yêu và lòng thương xót của Thiên
Chúa!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, giúp con ‘tập chết’ trước khi chết thật, may
ra ‘nỗi đau ngọt ngào’ sau cùng sẽ chóng vánh hơn! Đó là những hy sinh con dành
cho các linh hồn!”, Amen.
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
*
SUY NIỆM MÙA THƯỜNG NIÊN: Lc 13,31-35
Để
thi hành sứ mạng cứu độ con người, Chúa Giêsu đã phải đối mặt với biết bao là
thử thách. Có những thử thách xem ra nhỏ nhoi, dễ dàng vượt qua, cũng có những
thử thách khắt nghiệt, có nguy hại đến mạng sống và lý tưởng, xem
chừng khó vượt thắng. Tin mừng hôm nay cho biết Chúa Giêsu phải đối mặt với hai
thử thách hết sức cam go đến từ hai phía.
1.
Đến từ bên ngoài: Vua Hêrôđê
đang tìm cách hãm hại và tiêu diệt Ngài. Vì thế khi đến địa hạt thuộc vua này
quản lý, Chúa Giêsu đã phải chịu áp lực bởi lời cảnh báo của một vài người...
Nhưng
trung thành với với sứ mạng, Chúa Giêsu đã không hề chùng bước và sợ hãi. Trái
lại Ngài tỉnh táo phân tích vấn đề và khẳng định nhiệm vụ ưu tiên của Ngài là
loan báo tin mừng cứu độ nên phải chu toàn. Mặt khác Ngài cũng rất hiểu về hoàn
cảnh và con người của vua Hêrôđê. Vì thế Ngài rất bìn tâm vì biết mình phải đối
phó với hoàn cảnh nguy hiểm ấy như thế nào.
2.
Đến từ bên trong: Người đời thường
nói: giặc ngoài không sợ, nhưng ngại nhất là thù trong. Giêrusalem được xem là
trung tâm chính trị, kinh tế , văn hóa và là cái nôi của tôn giáo. Ấy vậy mà
nơi đây đã trở nên kinh hoàng nhất vì bao ngôn sứ đã bị giết tại đây và sứ điệp
Tin mừng cũng bị khướt từ chính từ nơi này. Chúa Giêsu đã mạc khải cho biết về
đau khổ mà Ngài phải chịu, và cái chết đau thương mà Ngài đối mặt cũng sẽ xảy
ra chính tại nơi này, nơi mà được xem là người nhà và là cái nôi của tôn giáo.
Đời
sống đức tin của mỗi chúng ta cũng luôn phải đối đầu với bao là thử thách. Có
những thử thách đến từ bên ngoài, tuy nhiên cũng có những thử thách đến từ bên
trong, ngay trong chính bản thân ta cũng có sự xung khắc.
Xin
cho chúng ta luôn can đảm sống trọn bổn phận với Chúa với nhau; đồng thời xin
Chúa giúp chúng ta kiên vững niềm tin dù có gặp nguy khó trên đường đời.
Thứ
sáu: Lc 14, 1-6
Thiếu
bác ái, việc thực thi lề luật chỉ còn là cái xác không hồn và là những hành
động mù quáng. Tin mừng hôm nay, kêu gọi chúng ta ý thức trách nhiệm đối với
nhau trong cuộc sống, bằng việc thực thi tình bác ái, qua việc giúp đỡ những
người nghèo khổ và bất hạnh. Đó là cách thức ta thể hiện tâm tình tôn vinh
Chúa.
Anh
chàng trong bài Tin mừng hôm nay bị bệnh phù thủng chắc hẳn gặp rất nhiều khó
khăn và đau khổ.
-
Khó khăn trong việc đi lại. Nên việc gặp gỡ tiếp xúc với người khác không dễ.
-
Đau khổ vì bệnh tật hành hạ, cảm thấy mình là gánh nặng cho tha nhân. Đau khổ vì bị người đời khinh ghét, bị xã hội xem thường. Trên hết có lẽ là nỗi đau mặc cảm
vì bị mọi người xem là kẻ tội lỗi.
Nỗi
khát khao lớn nhất của anh là được làm người bình thường như bao người. Được xã
hội tôn trọng; được mọi người quan tâm, yêu mến; được tự do đi lại; nhất là
được khẳng định giá trị và phẩm giá làm người của mình.
Hôm
nay Chúa Giêsu đã trao ban cho anh món quà vô giá mà anh hằng khao khát đêm
ngày, đó là chữa anh khỏi căn bệnh phù thủng. Quả là niềm vui lớn lao, niềm vui
chính đáng. Ấy vậy mà niềm vui đó lại bị chống đối. “Hôm nay là ngày Sabát
không được phép”. Không những họ chống đối quyền làm người của anh, mà họ còn
chống đối cả Chúa Giêsu vì cho rằng Ngài đã vi phạm ngày Sabát.
Lòng
ích kỷ và luật lệ vô hồn, quả là một gánh nặng, một rào cản đáng sợ đẩy con
người đến chổ vô cảm và cư xử bất nhân với nhau, khiến người khác không thể
vươn lên sống xứng đáng nhận vị của con người. Họ không hiểu rằng: “Vinh quang Thiên
Chúa là con người được sống.” Bất cứ nơi nào phẩm giá con người được nhìn nhận,
bất cứ một con người nào được tôn trọng và được hưởng hạnh phúc, thì nơi đó Thiên Chúa
được tôn vinh.
Xin
cho chúng ta ý thức rằng: khi chối bỏ và khước từ thực hiện lòng nhân ái đối với
người khác, là chúng ta đã xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Yêu thương và thực
thi bác ái đối với người khác cũng là cách để chúng ta đền bù tội lỗi trong mùa
báo hiếu tháng 11 này.
Thứ
bảy: Lc 14, 1.7-11
Nhớ
Thánh Ca-rô-lô Bô-rô-mê-ô, giám mục
Tin
mừng hôm nay ghi lại những lời khuyến cáo của Chúa Giêsu dành cho những kẻ sống
kiêu ngạo và khích lệ cho những ai biết sống khiêm nhường. Nhưng làm thế nào để
ta phân biệt được đâu là kẻ kiêu ngạo và đâu là người sống khiêm nhường?
Dựa
vào câu nói cuối cùng của Chúa Giêsu trong đoạn tin mừng hôm nay: “Ai nhắc mình
lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên.” Như thế dấu hiệu
của kẻ kiêu ngạo là “tự nhắc mình lên”; và dấu hiệu của người khiêm
nhường là “tự hạ mình xuống”.
1.
Người kiêu ngạo “tự nhắc mình lên” bằng cách nào? Thưa lhọ:
-
Luôn cho mình là kẻ lớn nhất, biểu hiện ưa thích “chọn chỗ nhất” trong
đám tiệc.
-
Luôn khoe khoang thành tích của bản thân khi tiếp xúc với người khác.
-
Hay phàn nàn và luôn chê bai người khác là ngu dốt, ngầm ý mình là người khôn
ngoan và tài giỏi.
-
Luôn khăng khăng giữ ý kiến của mình xem thường ý kiến của người khác, không
còn khả năng lắng nghe và hợp tác với ai cả.
-
Mặt thì vênh váo, sẵn sàng nhẫn tâm chà đạp những người yếu thế, cô thân và
thích lên giọng dạy đời người khác.
-
Luôn tìm kiếm hư danh nên rất ưa nịnh nọt, sẵn sàng luồn cúi và tâng bốc bề
trên. Nhưng sau lưng thì lại chê bai, nói xấu…
Hậu
quả của kẻ kiêu ngạo là bị mọi người khinh ghét; bị bạn bè xa lánh… Tin mừng
hôm nay, Chúa Giêsu cho biết: họ sẽ bị chủ tiệc làm bẻ mặt khi mời họ nhường
chỗ cho người khác: “Xin ông nường chỗ cho người này”; nhất là họ
còn bị Thiên Chúa hạ bệ: “Vì hễ ai nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống”.
2.
Người khiêm nhường “tự hạ mình xuống” ra sao? Thưa đó là người:
-
Biết tôn trọng sự thật, dám nói và sống cho sự thật.
-
Biết nhận ra giới hạn bản thân, dám chấp nhận thiếu sót và lầm lỗi của mình
trước Chúa và tha nhân.
-
Luôn sống chân thành cởi mở với mọi người. Sẵn sàng lắng nghe những lời giáo
huấn của Chúa và GH. Luôn mở lòng đón nhận những lời góp ý chân thành và chỉ
bảo tốt đẹp của mọi người.
-
Biết ý thức những gì mình “là” và “có” đều do ân ban của Chúa nên luôn biết cảm
tạ và tôn vinh Chúa, sẵn sàng hy sinh chia sẻ với mọi người về vật chất lẫn
tinh thần…
+
Tóm lại: Người sống khiêm nhường là người biết mình là ai? Vị trí của mình đang
ở đâu? Và công việc của mình là gì?...
Vì
thế mà người sống khiêm nhường luôn được mọi người yêu mến, tôn trọng và thích
kết giao. Tin mừng hôm nay còn cho biết họ thật vinh dự khi được chủ tiệc mời
lên trên: “Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên”. Nhưng niềm vinh dự lớn
nhất của người sống khiêm nhường là được chính Thiên Chúa yêu thương và nâng đỡ
như lời Chúa Giêsu phán: “Ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên.”
Ta hãy mượn lại tâm tình bài hát sinh hoạt rất hay của nhạc sĩ linh mục Thái Nguyên mà dâng lên Chúa tâm tình cầu nguyện: “Xin cho con biết luôn tự hạ, sống khiêm như Giêsu từ ái. Lòng đơn sơ, chân thành cởi mở. Đời hồn nhiên như hoa nở thắm tươi.” Nhờ đó ta mới xứng đáng được Chúa yêu thương nâng đỡ và chúc lành; cũng như được mọi người trân trọng và yêu mến.
SUY NIỆM LỜI CHÚA
TUẦN XXX THƯỜNG NIÊN
Lm Minh Anh, Tgp. Huế
SUY NIỆM 1: ĐỨNG THẲNG LÊN
“Người đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và
tôn vinh Thiên Chúa!”.
“Bán chó con”. Một
cậu bé gõ cửa, “Cháu muốn một con!”. Chủ đáp, “25 đô la!”. Cậu bé bị nghiền
nát, “Cháu chỉ có hai đô la rưỡi. Cháu có thể xem?”. “Tất nhiên!”. Mắt cậu bé
rực sáng khi nhìn năm ‘quả bóng’ tuyệt vời. “Cháu nghe, có một con bị tật”;
“Đúng, ‘cô ấy’ chắc tàn tật suốt đời!”; “Ôi, cháu muốn nó. Cháu trả góp!”. Im
lặng. “Nhưng ‘cô ấy’ sẽ luôn đi khập khiễng”. Dũng cảm, cậu bé kéo ống chân
lên, một cái nẹp, “Cháu cũng vậy!”. Trìu mến nhìn con vật, cậu nói, “Cô ấy cần
nhiều tình yêu. Không dễ tàn tật như thế, ‘cô ấy’ sẽ đứng thẳng!”. “Đây, đưa
đi! Tôi biết ‘cô ấy’ sẽ có một người bạn tốt. Quên tiền đi!”.
Kính thưa Anh Chị
em,
“Cô ấy sẽ đứng
thẳng!”, nhưng không phải ‘cô cún’ tật nguyền của cậu bé tật nguyền, mà là một
phụ nữ được Chúa Giêsu chữa lành qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Ngài chạm vào
cô, khác nào chạm vào sự sống của cô; và cô đã có thể ‘đứng thẳng lên’.
Hẳn chắc, mỗi phép
lạ Chúa Giêsu làm đều là một hành động của lòng thương xót; thế nhưng, câu
chuyện “người con gái Abraham” còng lưng 18 năm này sẽ còn nhiều điều thú vị
hơn thế. Nó mang nhiều ý nghĩa biểu tượng sâu sắc hơn chúng ta tưởng!
Với phép lạ này,
dường như người phụ nữ đã không tìm kiếm một sự chữa lành nào. Thấy cô, trái
tim Chúa Giêsu xem ra ngừng đập và Ngài nhất định ra tay dẫu đó là ngày Sabbat!
Gần như tất cả các cuộc chữa lành của Ngài đều mang một ý nghĩa biểu tượng cho
những đau khổ sâu sắc hơn mà cùng lúc con người phải chịu! Điếc, không thể nghe
Lời và tiếng Thánh Thần; mù, không thể thấy sự hiện diện của Chúa; câm, không
thể nói về Ngài và sứ điệp của Ngài; liệt, không thể làm những gì ân sủng thúc
giục; hủi, bị cắt đứt hoặc tự cắt đứt các mối quan hệ; và quỷ ám, bị kìm kẹp
bởi tội lỗi, nghiện ngập… Tất cả những thiểu năng thương tật ấy không cho chúng
ta có khả năng ‘đứng thẳng lên!’.
Thông điệp thứ hai,
sau khi được chạm đến, phụ nữ này đã ‘đứng thẳng lên’. Đây cũng là hình ảnh
biểu tượng cho những gì được ân sủng chạm tới! Khi Thiên Chúa chạm ai, người ấy
có thể đứng thẳng; họ tự tin bước đi như con trai, con gái của Ngài. Qua thư
Rôma hôm nay, Phaolô xác tín, “Chúng ta có thể kêu lên, ‘Abba, Cha ơi’. Chính
Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng, chúng ta là con cái Thiên
Chúa”; và mỗi người có thể nói, “Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa cứu độ!”,
như Thánh Vịnh đáp ca chúc khen.
Anh Chị em,
“Cô ấy sẽ đứng
thẳng!”. Có một biểu tượng nhất định trong việc cô ấy phải còng lưng và không
thể đứng thẳng. Về mặt tâm linh, đó không phải là vấn đề của bạn và tôi sao?
Rất nhiều người trong chúng ta có thể đang co quắp với những gánh nặng triền
miên trong cuộc sống. Một vết thương lòng, một tiếc xót, một tội lỗi của quá
khứ… tất cả những điều đó có thể khiến chúng ta dị tật và không ‘đứng thẳng’.
Chúa Giêsu không chỉ chạm đến, Ngài còn hôn lấy nó; không chỉ hôn lấy nó, Ngài
còn ôm ấp; không chỉ ôm ấp, Ngài còn rước lấy thương tật của chúng ta đến nỗi
chết trên thập giá. Hãy sấn tới Ngài, cố chạm vào Ngài; Ngài sẽ nhìn thấy chúng
ta và biết chúng ta cần gì. Và hẳn Ngài cũng sẽ chữa lành để bạn và tôi có thể
‘đứng thẳng lên!’.
Chúng ta có thể cầu
nguyện,
“Lạy Chúa, chỉ mình
Chúa biết ‘tật nguyền’ của con; xin thương chạm đến nó, để con hết ‘còng!’”,
Amen.
SUY NIỆM 2: CỐT LÕI CỦA ÐẠO
Một đêm mùa Ðông lạnh như cắt,
một vị ẩn sĩ không chịu nổi cái lạnh của sa mạc, đã tìm đến xin trú ẩn tại một
ngôi chùa. Nhìn thấy gương mặt tiều tụy của vị ẩn sĩ, tu sĩ canh giữ ngôi chùa
không nỡ để ông ta đứng mãi giữa trời. Vị tu sĩ cho ông vào, nhưng lại nói một
cách cương quyết: “Ông có thể ngủ đêm trong chùa, nhưng chỉ một đêm thôi, ngày
mai ông phải rời khỏi nơi này tức khắc, vì đây là nơi tu hành, chứ không phải
là trại tế bần”.
Giữa đêm, vị tu sĩ nghe thấy
tiếng động kỳ lạ. Ông thức dậy và chứng kiến cảnh tượng khác thường: giữa ngôi
chùa vị ẩn sĩ đang ngồi sưởi ấm bên một đống lửa cháy phừng. Nhìn lên bàn thờ,
vị tu sĩ không còn thấy tượng Phật bằng gỗ nữa. Ông hỏi vị ẩn sĩ, vị này chỉ
vào đống lửa điềm nhiên đáp: “Tôi không chịu nổi cái lạnh, nên đã dùng tượng
Phật để nhóm lên đống lửa này”. Nghe thế, vị tu sĩ quát lớn: “Ông khùng rồi
sao? Ông có biết ông đã làm gì không? Ðây là tượng Phật, ông đã đốt cháy Ðức
Thích Ca của chúng tôi”.
Sáng hôm sau, vị tu sĩ trở lại
để đuổi vị ẩn sĩ ra khỏi chùa; ông thấy vị ẩn sĩ đang bới đống tro như để tìm
kiếm vật gì đó. Thấy vị tu sĩ thắc mắc, ông ta trả lời: “Tôi đang tìm kiếm
những cái xương của Ðức Phật mà ngài bảo là tôi đã thiêu đốt tối hôm qua”.
Về sau, vị tu sĩ canh giữ ngôi
chùa kể lại câu truyện cho một Thiền sư, và Thiền sư đã trách ông như sau: “Ông
là một tu sĩ xấu, bởi vì ông xem một tượng Phật chết trọng hơn một mạng người
sống”.
Một trong những nguyên nhân dẫn
đến cái chết của Chúa Giêsu, chính là cuộc xung đột giữa Ngài và những người
Biệt phái. Những người Biệt phái bám vào việc tuân giữ nghi thức và luật lệ đến
độ dẫm lên trên cả mạng sống con người. Trong khi đó, đối với Chúa Giêsu, cốt
lõi của đạo chính là tình yêu. Phân định về việc giữ ngày Hưu lễ, Chúa Giêsu
tuyên bố dứt khoát: “Ngày Hưu lễ được làm ra vì con người, chứ không phải con
người vì ngày Hưu lễ”. Ngài đã giải thoát một người đàn bà khỏi bị còng lưng
trong ngày Hưu lễ, để chứng tỏ sự sống của con người, giá trị của con người,
hay đúng hơn, tình yêu thương cao cả hơn tất cả những nghi thức và việc tuân
giữ bên ngoài.
Xin cho chúng ta hiểu rằng cái
cốt lõi của đạo chính là tình thương. Xin cho những lời cầu kinh, những việc
tuân giữ luật lệ không là những cái vỏ hình thức bên ngoài, mà phải dẫn chúng
ta đến những hành động cụ thể của tình yêu. Xin cho chúng ta luôn xác tín rằng
sống cho tình yêu là được sống trong Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
THỨ BA:
SUY NIỆM 1: NƯỚC THIÊN CHÚA GIỐNG NHƯ CHUYỆN MỘT HẠT CẢI…
Nguồn: The Word Among Us, September 2023
Lm. Phaolô Vũ Đức Thành, SDD.
chuyển ngữ
“Hãy dành mười lăm phút mỗi
ngày cho sự phát triển vương quốc Thiên Chúa!”
Mặc dù tiêu
đề đó nghe có vẻ giống như trong một tạp chí lá cải ở cửa hàng tạp hóa, nhưng
nó lại nắm bắt được điểm đằng sau những câu chuyện dụ ngôn trong Tin mừng hôm
nay.
Chúa Giêsu
dùng hai dụ ngôn này để minh họa tiềm năng kỳ diệu cho sự phát triển trong
vương quốc của Thiên Chúa. Chúng nói về quyền năng và ân sủng của Thiên Chúa,
đặc biệt là khả năng của Ngài để làm điều gì đó vượt xa những gì chúng ta mong
đợi, dù đó chỉ là một hạt giống bé nhỏ hoặc một chút men nhỏ nhất.
Điều này
cũng đúng đối với chúng ta. Ngay cả với nỗ lực nhỏ nhất của chúng ta, Thiên
Chúa cũng có thể làm được những điều đáng kinh ngạc. Hãy nghĩ xem chỉ mười lăm
phút cầu nguyện mỗi ngày có thể mạnh mẽ như thế nào. Đó chỉ là 1% của 24 giờ
mỗi ngày, nhưng thật đáng kinh ngạc là những gì có thể xảy ra trong vài phút
ngắn ngủi đó. Bạn có thể chạm vào chính sự hiện diện của Thiên Chúa. Cảm giác
về tội lỗi trong quá khứ có thể được xóa sạch khi bạn gặp được lòng thương xót
của Ngài. Trái tim bạn có thể dịu lại với tình yêu thương dành cho những người
xung quanh bạn. Bạn thậm chí có thể nghe thấy Thánh Thần nói với bạn và mở ra
những điều bí ẩn của Kinh thánh cho tâm hồn bạn! Bây giờ hãy xem xét tác động
của tất cả những điều này có thể có đối với cả ngày của bạn: sự bình an, sự
hướng dẫn, niềm hy vọng, sự tự tin.
Hoặc ở một
góc độ khác, hãy nghĩ về tác động mà một bữa trưa có thể kéo dài một tiếng đồng
hồ với bạn bè. Trong thời gian đó, bạn chia sẻ một câu chuyện ngắn về điều gì
đó bạn đã học được trong buổi cầu nguyện của mình ngày hôm trước. Hoặc có lẽ
bạn đề cập đến một số phúc lành mà Thiên Chúa đã ban cho bạn. Nhưng câu chuyện
nhỏ đó nằm trong trí nhớ của bạn như một hạt giống. Nó bén rễ và phát triển. Và
có lẽ, theo thời gian, bạn của bạn bắt đầu cầu nguyện, trở lại tham dự Thánh
lễ, hoặc hỏi bạn nhiều câu hỏi hơn. Tất cả từ một giờ ăn trưa đơn giản!
Thiên Chúa có
thể tận dụng bất kỳ nỗ lực nào có kích thước bằng hạt cải mà bạn bỏ ra để nuôi
dưỡng đức tin của mình và biến nó thành một thứ gì đó to lớn và đẹp đẽ đến bất
ngờ. Thậm chí chỉ mười lăm phút mỗi ngày cũng có thể tạo ra sự khác biệt rất
lớn!
Lạy Chúa,
con cảm ơn Chúa đã hứa sẽ mang lại rất nhiều sự phát triển trong cuộc sống của
con và cuộc sống của những người xung quanh con!
SUY NIỆM 2:
SỨC MẠNH NỘI TẠI CỦA NƯỚC CHÚA
Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu dùng hai dụ ngôn: hạt cải và nắm men để nói về Nước Trời.
Cả hai dụ
ngôn làm nổi bật khởi điểm khiêm tốn nhỏ bé của Nước Chúa so với sự thành toàn
cuối cùng.
Dụ ngôn hạt
cải nhấn mạnh sự phát triển theo chiều
rộng: từ hạt cải nhỏ bé trở thành cây to, đến độ chim trời có thể đến làm
tổ được.
Dụ ngôn nắm
men được đem trộn vào bột nhấn mạnh đến
chiều sâu, tức phẩm chất của Nước Chúa: từ một chút men có thể làm dậy cả
khối bột.
Cả hai dụ
ngôn đều nhấn mạnh đến sức mạnh nội tại của Nước Chúa, một sức mạnh chỉ được
nhìn thấy bằng đức tin mà thôi.
Thật thế,
khi kể hai dụ ngôn này, Chúa Giêsu không nhằm đến diễn tiến Nước Chúa đang xảy
ra như thế nào trong lịch sử, mà chỉ nhằm nhấn
mạnh đến tình trạng hoàn tất chung cuộc vào lúc cuối cùng của lịch sử: mặc
cho những thử thách, những ngăn trở, Nước Chúa dù được bắt đầu một cách khiêm
tốn nhỏ bé, nhưng chắc chắn sẽ đạt đến mức phát triển trọn vẹn.
Hai dụ ngôn:
Hạt Cải và Nắm Men trong bột, gởi đến
chúng ta một sứ điệp hy vọng, nhất là khi phải đương đầu với trở ngại, thử
thách trong đời sống đức tin. Nhìn thấy những điều tiêu cực luôn xảy ra trong
Giáo Hội và trên thế giới, chúng ta có thể tự hỏi:
Những hạt
cải giá trị Kitô liệu còn có thể mọc lên và phát triển trong một thế giới ngày
càng bị tục hóa và bị nhiễm tinh thần đối nghịch với Thiên Chúa không?
Một chút men
Lời Chúa có đủ sức thu hút và biến đổi con người nên tốt hơn không?
Ðã hơn 2.000
năm kể từ khi Con Thiên Chúa nhập thể làm người và thực hiện công cuộc cứu
chuộc nhân loại qua cái chết trên Thập giá, nhưng thử hỏi nhân loại ngày nay có
tốt đẹp hơn ngày xưa không?
Nếu suy nghĩ
theo lý luận tự nhiên, chúng ta có thể dễ dàng rơi vào thất vọng. Tuy nhiên,
những lời của Chúa Giêsu qua hai dụ ngôn trên đây không cho phép chúng ta bi
quan ngã lòng. Chúng ta không nhìn thấy tương lai Nước Chúa sẽ như thế nào
nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác vào đó, bằng sự cầu nguyện và dấn thân làm
những gì có thể, với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.
Xin Chúa mở rộng con mắt
đức tin chúng ta, để chúng ta nhìn thấy tác động âm thầm của tình yêu Chúa
trong những biến cố hằng ngày. Xin cho chúng ta luôn kiên trì trong thử thách
và luôn hy vọng vào Chúa trong mọi sự.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một
Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: SẼ HOÀN THÀNH
“Chúng ta đã được cứu độ,
nhưng vẫn còn phải trông mong!”.
Một du khách thăm một đại
giáo đường Ý vừa xây xong phần ngoài; bên trong, một nghệ sĩ đang quỳ trước một
bức tường rộng lớn; trên đó, anh sẽ tạo một bức khảm mosaic với hàng ngàn mảnh
gốm màu. “Làm sao anh có thể hoàn tất một công trình lớn đến thế?”. Nghệ nhân
trả lời, “Tôi chỉ biết, tôi có thể hoàn thành bao nhiêu trong một ngày. Mỗi
sáng, tôi đánh dấu phần sẽ hoàn tất hôm đó, và tôi không lo lắng về không gian
kia. Đó là điều tốt nhất tôi có thể; và nếu tôi tận tuỵ hết mình, một ngày kia,
bức khảm sẽ hoàn thành!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Không chỉ bức khảm của ngôi
thánh đường ngày kia ‘sẽ hoàn thành’, Lời Chúa hôm nay cho thấy ơn cứu độ của
chúng ta cũng thế! Nước Trời là một thực tại dở dang, nó chỉ hoàn thành và ‘sẽ
hoàn thành’ ngày chúng ta hợp hoan với Thiên Chúa trong Nước Ngài.
Bài đọc Rô-ma tiết lộ,
“Chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên
Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa”. Mỗi
chúng ta chưa phải là tất cả những gì Thiên Chúa định hình cho mỗi người phải
trở thành. Theo Phaolô, với Thánh Thần, Thiên Chúa đã bắt đầu công việc tốt
lành của Ngài trong cuộc sống mỗi người, nhưng công việc đó chưa hoàn tất, nó
‘sẽ hoàn thành’ ở cõi đời đời. Vì thế, chúng ta đang luôn ở trên đường; bạn và
tôi chưa đến đích!
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa
Giêsu ví Nước Trời như hạt cải người kia gieo vào vườn, hoặc như chút men phụ nữ
nọ trộn vào ba đấu bột. ‘Cải chưa mọc thành cây’, ‘men chưa làm dậy bột’; tuy
nhiên, công trình của Thiên Chúa đã vận hành trong thế giới và trong mỗi người.
Ngài mời chúng ta cộng tác; và nếu mỗi người tiếp tục quảng đại âm thầm dấn
thân cho Vương Quốc nơi chính mình và trong thế giới, nhân loại sẽ sớm cảm nghiệm
được sự cứu rỗi viên mãn của Thiên Chúa và sự ngự trị của Vương Quốc Ngài vốn một
ngày kia ‘sẽ hoàn thành’. Bấy giờ, nhân loại sẽ cảm nhận công trình cứu độ vĩ đại
của Ngài. Thánh Vịnh đáp ca thật sâu lắng, “Việc Chúa làm cho ta ôi vĩ đại!”.
Anh Chị em
“Vẫn còn phải trông mong!”.
Lời Chúa khích lệ sự kiên nhẫn, can đảm và hy vọng. Những nhân đức này đặc biệt
cần thiết cho những ai cống hiến hết mình để mở rộng Vương Quốc. Với ân sủng
Chúa, chúng ta chờ đợi ‘hạt giống’ mọc lên đang khi cắm rễ sâu vào đất tốt để dần
dần trở thành một cây. Hạt giống ở đây trước hết, chính là Chúa Giêsu; tiếp đến,
là bạn và tôi! Cần có niềm tin vào điều không trông thấy - khả năng sinh sản -
chứa đựng trong nó. Hạt giống còn là Lời; là Thánh Thể chúng ta rước lấy mỗi
ngày. Như Chúa Giêsu, chúng ta còn là men, nồng nàn trong thế giới. Thời gian
cũng là điều cốt yếu để hạt nẩy mầm và men có thể thực hiện chức năng tối thượng
của mình. Têrêxa Avila nói, “Hãy để sự tự tin và đức tin sống động nâng đỡ linh
hồn; ai tin tưởng và hy vọng sẽ đạt được mọi thứ!”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con thường vội,
Chúa thì không. Giúp con tận tuỵ hết mình, làm tốt nhất những gì có thể của
ngày hôm nay; dù bên ngoài, xem ra chúng thật nhỏ bé, tầm thường!”, Amen.
Lm Minh Anh, Tgp. Huế
THỨ TƯ: MỪNG KÍNH
CÁC THÁNH NAM NỮ
SUY NIỆM 1: HÃY LÀ MỘT VỊ THÁNH!
“Đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh nhan Ngài”.
Trong chuyến thăm nước Anh,
Đức Bênêđictô 16 đã nói với các bạn trẻ, “Cha hy vọng, trong số các bạn đang
nghe cha đây, sẽ có một số vị thánh tương lai của thế kỷ 21. Điều Chúa muốn
trên hết đối với chúng ta là phải nên thánh! Ngài yêu chúng con hơn những gì
chúng con có thể tưởng tượng, Ngài muốn điều tốt nhất cho chúng con. Và điều tốt
nhất là chúng con lớn lên trong sự thánh thiện!”. Bênêđictô không ngần ngại
thách đố các bạn trẻ Anh và các bạn trẻ trên thế giới rằng, “Hãy là một vị
thánh hơn là một người nổi tiếng!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Hãy là một vị thánh!”. Đó
cũng là những gì chúng ta được thách thức nhân ngày Giáo Hội mừng kính và tôn
vinh “Tất cả Các Thánh”. Các ngài đã thực hiện điều Chúa muốn; họ chọn trở nên những
vị thánh hơn là trở nên những người nổi tiếng! “Đây chính là dòng dõi những kẻ
tìm kiếm thánh nhan Ngài”, Thánh Vịnh đáp ca xác quyết.
Tưởng nhớ tất cả những tâm hồn
thánh thiện gồm đàn ông, phụ nữ, trẻ em, các vị tử đạo, những ai tuyên xưng đức
tin và những con người vô danh khác đã được rửa tội hoặc chưa được rửa tội;
trong đó, có cả ông bà, cha mẹ của bạn và tôi, những con người lành thánh. Bài
đọc Khải Huyền tiên báo, “Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc
mọi dân… mọi ngôn ngữ”. Điều phân biệt là họ đã mở lòng ra với ân sủng Chúa một
cách sâu sắc, trở nên mạnh mẽ trong Ngài. Theo những cách thức khác nhau, họ có
một điểm chung, “giặt áo mình trong Máu Con Chiên”; tức là phản ánh một nhân đức
nào đó về chân dung người môn đệ mà Chúa Giêsu đã phác hoạ qua từng mối phúc
trong bài Tin Mừng.
Và nếu các mối phúc Chúa
Giêsu nói đến, về căn bản, là một chân dung hoàn hảo của chính Ngài, thì từng mối
phúc sẽ là chân dung của từng vị thánh; mỗi vị mỗi vẻ đã góp phần làm nên cộng
đồng thiên triều. Đó là cộng đồng các thánh, những con người đã không để mình
‘rơi vào tinh thần thế tục của thời đại’ nhưng ‘vượt lên thời đại’; một số, thậm
chí đã ‘thay đổi thời đại!’. Họ không bị văng ra ngoài bởi vòng xoáy của những
sai trái; ngược lại, giữa sai trái, họ cuốn hút bao người tiếp cận, tin yêu Đấng
họ phụng thờ.
Các thánh còn là những con
người đang cầu thay nguyện giúp cho bạn và tôi. Họ nói với chúng ta rằng, sự
thánh thiện có thể có ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào; họ cầu cho chúng ta được
nên giống Chúa, nên con cái Ngài ngày một hơn. Bài đọc thứ hai cho biết, trong
cuộc sống mai ngày, chúng ta sẽ nên giống Chúa; cùng lúc tuyên bố rằng, ‘lúc
này và ở đây’, chúng ta đã là con cái Ngài, chia sẻ sự sống thần linh của Ngài
nhờ phép Thánh Tẩy đã nhận lãnh. Phải, phép Rửa là nền tảng của sự thánh thiện
cho mỗi chúng ta!
Anh Chị em,
“Đây chính là dòng dõi những
kẻ tìm kiếm thánh nhan Ngài”. Cảm tạ Chúa vì đã ban cho Giáo Hội vô vàn tâm hồn
thánh khiết. Thiên đàng đang chờ đợi bạn và tôi! Đó cũng là giấc mơ của Thiên
Chúa. Điều tốt nhất chúng ta cố đạt cho được ở đời này không phải là giàu có, nổi
tiếng, nhưng là nên thánh. Phép Rửa mời gọi bạn và tôi nên thánh, ân sủng giúp
chúng ta sống thánh bằng các lối hẹp Tin Mừng. Công việc của chúng ta là cộng
tác với ân sủng để nên thánh, không chỉ mai ngày, nhưng ngay hôm nay, trong bậc
sống mình.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, với ơn Chúa, con
sẽ không để mình ‘rơi vào tinh thần thế tục của thời đại’, nhưng ‘vượt lên thời
đại’; và con sẽ ‘thay đổi thời đại’. Tại sao không?”, Amen.
Lm Minh Anh, Tgp. Huế
SUY NIỆM 2: NGÀY HỘI VUI
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay, ngày hội lớn, ngày
vui mừng hân hoan của tất cả mọi thành phần con cái trong đại gia đình Giáo hội
mừng kính trọng thể Các Thánh Nam Nữ ở trên Trời, những người đang sống sự sống
của Thiên Chúa, những vị đang hưởng phúc vinh quang tràn đầy trước tòa cao
sang của Chúa Ba Ngôi trên thiên đàng.
Phụng vụ lễ trọng kính Các
Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa từ lời kinh, tiếng hát, đến các bài đọc, thánh ca
vang lên thánh thót, lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời
gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh.
Lời Ca Nhập Lễ đã khơi lên một niềm vui hân hoan bằng những lời hiệu
triệu : “Tất cả chúng ta hãy vui mừng
trong Chúa khi cử hành ngày lễ các Thánh Nam Nữ”.
Quả thật, gia đình Hội Thánh
hôm nay tràn ngập hân hoan vui mừng : Hội thánh lữ hành tại thế hân hoan ngưỡng
vọng về trời cao để dõi mắt chiêm ngưỡng những anh chị em kitô hữu đã hoàn
thành cuộc chiến đấu và chiến thắng vinh quang.
Các linh hồn trong luyện ngục
hân hoan trong niềm hy vọng mãnh liệt sẽ được đoàn tụ cùng các Thánh trên quê
trời.
Các Thánh Nam Nữ trên thiên
đàng hân hoan vui sướng vì đang được chiêm ngưỡng vinh quang rạng người của Ba
Ngôi Thiên Chúa như Kinh Tiền Tụng trong Thánh lễ hôm nay xác quyết : “Hôm nay,
nơi thành trì của Thiên Chúa, nơi Giêrusalem trên trời, có đông đảo anh em
chúng ta ca tụng Chúa muôn đời”.
Có người cho rằng sự thánh
thiện chỉ ưu tiên một số người có chuyên chăm cầu nguyện, là giáo hoàng, Hồng
Y, giám mục, linh mục hay tu sĩ nam nữ, hay những người đã sống và thực thi trọn
vẹn Điều răn mến Chúa yêu người, những người đã đạt tới đỉnh cao các nhân đức,
hoặc là đã trung thành đến chết vì niềm tin, vì tình yêu dâng hiến; hay là những
con người xuất chúng và có thể làm những việc lạ lùng.
Thánh Gioan nhìn thấy: “Số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi
bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel” (Kh 7, 4). Tuy nhiên, nếu con số
chỉ có thế thôi thì quả là một điều đáng lo sợ, vì người tín hữu như ta, phàm
phu tục tử, suốt ngày chật vật với miếng cơm manh áo, thường xuyên đối diện với
những nhỏ nhen đời thường…chắc đành “bó tay” trước lời Thiên Chúa mời gọi : “Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh”
(Lv 11,44), đâu có hy vọng được vào số những người đó.
Điều làm cho chúng ta vui mừng
và phấn khởi trong ngày lễ hôm nay, là Các Thánh là những người trong nhân loại
chúng ta, có thể có những người thân của chúng ta, khi còn sống, họ đã trải qua
biết bao nhiêu đau khổ và thăng trầm, nhưng cuối cùng đã được thanh tẩy mình
trong máu Con Chiên là Chúa Giêsu, họ đã trở nên tinh tuyền, sạch đẹp và đang
hưởng hạnh phúc với Chúa.
Các Thánh không phải các các
tiên nữ, hay thiên tử từ Trời mà đến. Không, họ là những con người hoàn toàn
như chúng ta là người, thuộc đủ mọi thành phần và mọi tầng lớp trong xã hội kể
từ Đức Mẹ, Thánh Giuse, Các Thánh Tổ Tông, Các Thánh Tiên Tri, Các Thánh Tông Đồ,
Các Thánh Từ Đạo, Các Thánh Mục Tử, Các Thánh Hiển Tu, Ẩn Tu, Các Thánh Đồng
Trinh Thủ Tiết, Các Thánh Nam Nữ, Các Thánh Anh Hài. v.v…
Có những vị rõ ràng là
thánh, những vị được tôn phong hiển thánh, những vị có tên trong kinh cầu các
thánh với đỉnh cao sáng rực. Nhưng cũng nhớ và kính mừng những vị thánh chìm
sâu trong lòng đất, trong xác thịt mồ hôi nước mắt của kiếp người, giờ đây trên
thiên quốc vui mừng hân hoan tận hưởng phần thưởng trọng đại Chúa dành cho. Há
chẳng phải là niềm vui lớn lao và hy vọng của tất cả chúng ta đang sống phận lữ
hành tiến về quê trời vinh phúc hay sao?
Vui, vì ai trong chúng ta,
dù yếu đuối hay tội lỗi, đều có thể nên trọn lành như lời Chúa Giêsu mời gọi: “Các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các
ngươi trên trời là Ðấng trọn lành” (Mt 5, 48).
Hôm nay Các Thánh Nam Nữ
thúc giục chúng ta: hãy cố làm thánh! Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo không ngừng mời
gọi chúng ta nên Thánh: “Các ngươi hãy là
thánh vì Ta là Thánh” (Lv 11,44). Thánh Phêrô lặp lại ý muốn của Chúa với
chúng ta: “Bởi chưng đã viết rằng: Các
ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh” (1Pr 1, 16).
Chúa Giêsu đã vạch ra cho
chúng ta con đường nên Thánh bằng Tám Mối Phúc: Phúc cho những ai nghèo khó
trong tinh thần, phúc cho những ai đau khổ, phúc cho những ai hiền lành, phúc
cho những ai đói khát sự công chính, phúc cho những kẻ có lòng nhân từ, phúc
cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai xây dựng hoà bình, phúc cho
những ai bị bách hại vì lẽ công chính (x. Mt 5, 3-10).
Một mối phúc đặc biệt linh hứng
sự chọn lựa đoạn này: “Phúc thay ai khát
khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng” (Mt
5,10).
Đức Giáo Hoàng Phanxicô
khuyên chúng ta: Đừng sợ nên thánh. Để nên thánh không cần phải là một giám mục,
linh mục hay tu sĩ. Chúng ta thường bị cám dỗ để nghĩ rằng sự thánh thiện chỉ
dành cho một số người. Không phải thế. Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên
thánh bằng cách sống đời mình với tình yêu và bằng cách làm chứng trong mọi việc
mình làm, ở bất cứ nơi nào mình sống.
Bạn được mời gọi sống đời
thánh hiến ư? Hãy nên thánh bằng cách sống sự dấn thấn ấy cách thật vui tươi.
Bạn đã kết hôn ư? Hãy nên
thánh bằng cách yêu thương và chăm sóc cho chồng hay vợ mình, như Đức Kitô chăm
sóc cho Hội thánh.
Bạn phải làm việc để kiếm sống
ư? Hãy nên thánh bằng cách làm việc thật tận tụy và chu đáo để phục vụ anh chị
em mình.
Bạn là cha mẹ hoặc ông bà ư?
Hãy nên thánh bằng cách kiên nhẫn dạy dỗ con cháu biết theo Chúa Giêsu.
Bạn đang ở một địa vị có quyền
lực ư? Hãy nên thánh bằng cách quên lợi riêng để phục vụ ích chung. (x. Bài
Giáo Lý, Triều Yết Chung ngày 19 tháng 11, 2014).
Các Thánh Nam Nữ của Chúa, cầu
cho chúng con. Amen.
THỨ NĂM: LỄ CÁC ĐẲNG
SUY NIỆM 1: THIÊN ĐÀNG-LUYỆN NGỤC-HỎA NGỤC
Giáo Hội gồm ba thành phần, một số
còn lữ hành trên trần gian; một số khác, đã rời bỏ đời này, hiện đang được
thanh luyện, và một số khác nữa, đã được hưởng vinh quang Thiên Chúa. Tất cả
cùng nhau làm thành một gia đình duy nhất trong Đức Kitô, là Hội thánh, để ca
ngợi và tôn vinh Chúa Ba Ngôi.
Đối
với niềm tin vào Thiên Đàng-Luyện Ngục và Hỏa Ngục, người ta thường có ba thái
độ:
Cứng
lòng tin: Chẳng có Thiên Đàng,
cũng chẳng có Luyện Ngục hay Hỏa Ngục như Giáo Hội Công Giáo dạy! Có chăng là
có Thiên Đàng nơi trần thế này mà thôi! Chết là hết, là kết thúc, xuôi tay nhắm
mắt xong là hết đau khổ, hết lo lắng và hết… nợ đời!
Chính
vì không tin vào thực tại của Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục ở đời sau,
cho nên họ như những con thiêu thân chỉ biết lao đầu vào ăn chơi, hưởng thụ,
trác táng, hút sách, phạm pháp, làm những việc vô luân thường đạo lý… Và cuối
cùng khi chán ngán cuộc đời này, khi họ chán sống rồi thì… tự tử. Chấm hết!
Tin
vào Chúa nhưng tin một cách lệch lạc: Tin vào Thiên Chúa và chỉ tin
có Thiên Đàng mà thôi! Luyện Ngục và Hỏa Ngục không thể có được bởi vì Thiên
Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4:16), Ngài không bao giờ dựng nên những thứ khủng khiếp
ấy để trừng phạt hay hành hạ con cái của Ngài. Luyện Ngục và Hoả Ngục là những
thứ mà Giáo Hội dựng nên để hù dọa người ta mà thôi! Vì không tin có Luyện Ngục
và Hoả Ngục cho nên họ chẳng quan tâm gì đến việc đọc kinh xin lễ, và làm việc
hy sinh, hãm mình… để cầu nguyện cho những người đã qua đời. “Tất cả
những ai tin vào danh Đức Giê-su và chịu phép Rửa Tội thì chắc chắn được cứu
rỗi, vậy cầu nguyện, đọc kinh, tham dự Thánh Lễ, hy sinh cho người quá cố để
làm gì? Vô ích! Tốn thời giờ” Họ dùng Thánh Kinh để lý luận như vậy!
Tin
nhưng lờ mờ: Những người thuộc nhóm
này thì tin vào những lời giáo huấn của Giáo Hội về sự sống đời sau, tin chắc
chắn có Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục, nhưng chẳng bao giờ họ hiểu rõ và
hiểu đúng về thực trạng của Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục cả. Họ cũng
chẳng hiểu Giáo Hội Công Giáo gồm có BA THÀNH PHẦN và sự liên đới chặt chẽ, và
mối liên quan mật thiết giữa ba thành phần này trong Giáo Hội. Còn bạn? Bạn
thuộc nhóm nào vậy? Tôi hy vọng là bạn không thuộc vào nhóm thứ nhất và thứ
hai! Nếu bạn thuộc vào một trong hai nhóm này thì… Amen! Chỉ có Chúa Thánh Thần
mới giúp bạn được thôi!
Còn
nếu bạn thuộc vào nhóm thứ ba thì trong ngày lễ Các Thánh và lễ Các Linh Hồn
hôm nay, mời bạn hãy cùng với tôi học hỏi và tìm hiểu sâu hơn về thực trạng của
Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục, về BA THÀNH PHẦN của Giáo Hội và sự liên
đới chặt chẽ, và mối liên quan mật thiết giữa ba thành phần này.
Rất
nhiều người, trong đó có tôi, và không chừng có cả bạn nữa, đã từng nghĩ hay
vẫn còn đang nghĩ Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục là những nơi chốn
(places):
Thiên
Đàng là một nơi trên trời cao, ở đó không có đau khổ, không có nước mắt mà chỉ
có vui vẻ, hạnh phúc, hoan lạc, bình an và yêu thương. Ở trên Thiên Đàng các
Thánh và các Thiên Thần suốt ngày suốt đêm chỉ ca hát, tán tụng và ngợi khen
Thiên Chúa…
Luyện
Ngục là một trại chuyển tiếp, một nơi tạm giam, nơi đây người ta phải chịu nóng
nảy, chịu đau khổ, có cả cực hình nữa để chờ hễ mãn hạn thì được chuyển lên
Thiên Đàng.
Hỏa
Ngục là một nơi sâu thẳm trong lòng đất, ở đó là nơi giam giữ đời đời những kẻ
ác, những người không có passport vào Thiên Đàng hay Luyện Ngục. Nơi đây xăng
dầu vừa nhiều, vừa rẻ, cho nên Sa-Tan và ma quỷ tha hồ dùng để thiêu đốt và
trừng phạt những thường trú nhân ở trong vương quốc của chúng.
Nếu
bạn đã từng nghĩ như tôi hoặc vẫn còn đang nghĩ Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa
Ngục là những nơi chốn thì sai rồi! Bạn cứ mở cuốn Toát Yếu Giáo Lý của Giáo
Hội Công Giáo do Đức Giáo Hoàng Benedictô soạn thảo thì sẽ thấy quan niệm về
NƠI CHỐN của Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục như là những NƠI CHỐN là sai!
Thiên
đàng là tình trạng hạnh phúc tối thượng và vĩnh viễn. Ai chết trong ân sủng của
Thiên Chúa và ai không cần bất cứ sự thanh luyện cuối cùng nào, sẽ được qui tụ
quanh Chúa Giêsu và Đức Maria, các thiên thần và các thánh… được chiêm ngắm
Thiên Chúa “mặt giáp mặt” ( 1 Cr 13,12)… sống trong sự hiệp thông tình yêu với
Chúa Ba Ngôi và chuyển cầu cho chúng ta (Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công
Giáo # 209).
Luyện
ngục là tình trạng của những người chết trong tình thân với Thiên Chúa, nhưng,
dù đã được đảm bảo ơn cứu độ vĩnh cửu, họ còn cần thanh luyện trước khi được
hưởng hạnh phúc thiên đàng (Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo # 210).
Hoả
ngục là [tình trạng] xa cách đời đời khỏi Thiên Chúa.… Đức Kitô diễn tả thực tại
hoả ngục bằng những lời này: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất
mắt Ta mà vào lửa đời đời” (Mt 25:41) (Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội
Công Giáo # 212).
Hy
vọng bạn sẽ không bao giờ nghĩ rằng Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục như là
những NƠI CHỐN nữa!
Bây
giờ chúng mình tiếp tục tìm hiểu về mối liên hệ chặt chẽ giữa các thành phần
trong Giáo Hội nhé! Nói về BA THÀNH PHẦN trong Giáo Hội: Giáo Hội Chiến Thắng,
Giáo Hội Ðền Bù và Giáo Hội Lữ Hành, sách Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công
Giáo # 195 dạy rằng: Một số còn lữ hành trên trần gian; một số khác, đã rời bỏ
đời này, hiện đang được thanh luyện, và cũng được trợ giúp bằng lời cầu nguyện
của chúng ta; sau hết, một số khác nữa, đã được hưởng vinh quang Thiên Chúa và
đang chuyển cầu cho chúng ta. Tất cả cùng nhau làm thành một gia đình duy nhất
trong Đức Kitô, là Hội thánh, để ca ngợi và tôn vinh Chúa Ba Ngôi.
Bạn
thấy mối quan hệ rất chặt chẽ và tình liên đới mật thiết giữa chúng mình với
các linh hồn nơi Luyện Ngục và với các Thánh ở trên Thiên Đàng chưa? Các linh
hồn thuộc Giáo Hội Đền Bù hoàn tất giai đoạn thanh luyện chậm hay mau là nhờ
vào sự cầu nguyện, hy sinh, hãm mình, thánh lễ, Kinh Mân Côi… của những người
thuộc về Giáo Hội Lữ Hành, tức là chúng mình, những người còn sống ở trần gian.
Sau khi hoàn thành quá trình thanh luyện, các linh hồn được vào Thiên Đàng, lúc
này các Ngài thuộc Giáo Hội Chiến Thắng sẽ cầu bầu, giúp đỡ cũng như chuyển cầu
cùng Chúa cho chúng ta.
Nếu
hôm nay bạn đã hiểu đúng về Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục và nhận ra mối
liên hệ chặt chẽ và mật thiết giữa ba thành phần trong Giáo Hội thì tôi đề nghị
với bạn hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục, bằng cách dâng lời cầu khẩn,
đặc biệt là Thánh lễ, và cả những việc bố thí, ân xá và những việc hãm mình để
cầu cho họ (Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo # 211).
Bạn
có muốn con cháu, bạn bè, thân thuộc và tha nhân làm những việc như hy sinh,
xin lễ, đọc kinh, lần hạt Mân Côi, Viếng Thánh Thể, cầu nguyện… cho bạn sau khi
bạn nhắm mắt từ giã cõi đời này và nhất là khi bạn bị kẹt ở trong trại chuyển
tiếp PURGATORY không? Nếu muốn thì tôi mạn phép đề nghị với bạn những công việc
nhỏ bé sau:
Xin
lễ, tham dự Thánh Lễ, xưng tội, rước Lễ, lần hạt Mân Côi, Chầu Thánh Thể… để
cầu nguyện cho các linh hồn đã ra đi trước chúng ta… Hy sinh, hãm mình, không
mua những đồ xa xỉ phẩm, một gói thuốc lá, một chai rượu, một két bia, một bữa
ăn ở nhà hàng… để dành tiền giúp cho các cơ quan từ thiện, trại cùi, các trẻ em
khuyết tật... Hy sinh không cãi lại cha mẹ, không nóng giận và kiên nhẫn với
những người chung quanh. Chăm sóc, quan tâm đến ông bà, cha mẹ hoặc đi thăm
viếng người già, những người đau yếu, tật nguyền, kém may mắn...
“Anh
em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc
6, 31). Hy sinh, xin lễ, đọc kinh, lần hạt Mân Côi, Viếng Thánh Thể, cầu
nguyện… cho các linh hồn là chúng mình đang làm cho chính chúng ta đấy!
Truyện: Bám Cọng Hành Mà Lên Trời
Một người phụ nữ người ta đặt tên là Bà Chằng,
vì rất hợp với bản tính khó nết, ích kỷ của bà. Lúc bà vừa tắt thở, quỷ lôi bà
đi ngay, vì nó biết bà này không ai ưa, thì chắc chắn phải xuống Hỏa Ngục không
cần đợi Chúa xét xử!
Thiên thần bản mạnh của bà giằng co với quỷ và
kêu nài với Chúa:
- Xin Chúa xét xử cho bà này theo lòng thương
xót của Ngài. Không thể để quỷ lôi bà đi ngay được!
- Con hãy mở sổ Nhật Ký xem bà có làm một điều
gì tốt cho ai không? Thiên Chúa nói với thiên thần.
Thiên thần mau mắn lật từng trang Nhật Ký về đời
sống Bà Chằng, lật cả mấy ngàn trang rồi mà chẳng thấy có việc tốt nào cả… À,
may quá, thiên thần reo lên và thưa với Chúa:
- Lạy Chúa, có một lần bà này đã cho người lối
xóm một cọng hành ạ!
- Thế thì con hãy dùng cọng hành đó mà kéo bà
lên! Chúa bảo thiên thần.
Thiên thần mau mắn làm ngay. Bà Chằng bám vào
cọng hành và được thiên thần nín thở kéo lên. Thấy vậy nhiều người dưới Hỏa Ngục
vội bám lấy bà mong được “ăn theo”, Bà Chằng nổi sùng giãy đạp, chửi thề …! Làm
cọng hành đứt phựt, thế là cả chùm người rơi xuống Hỏa Ngục!!
Hãy nhớ lời Thánh Kinh dạy:
“Đức
ái phủ lấp muôn vàn tội lỗi!”
(1 Pr 4, 8). Vì “ai có lòng nhân ái thì
được thắng án, án xử chỉ tàn nhẫn cho kẻ bất nhân!” (Gc 2,13).
SUY NIỆM 2: CHẾT LÀ TẾT CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ HẾT !
Lm. Nguyễn Xuân Trường
Người ta thường nói chết là
hết ! Nhưng Lễ Cầu Hồn của người Công Giáo lại cho thấy điều ngược lại: chết
là TẾT chứ không phải là hết.
Tết để người ta về nhà thì
chết cũng đưa người ta về Nhà Cha trên trời.
Tết đem mùa xuân cây cối đâm
chồi nảy lộc mới thì chết cũng đem người ta vào sự sống mới đời đời với Chúa.
Tết đem niềm vui đoàn viên
thì chết cũng đưa người ta về đoàn viên với tổ tiên ông bà cha mẹ.
Tết đem niềm vui hạnh phúc
đón xuân thì chết cũng đưa người ta vào hưởng hạnh phúc thiên đàng đời đời.
Chúa Giêsu đã khẳng định: “Thầy
là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù có chết cũng sẽ được sống”.
Đồng thời, người Công Giáo cũng luôn tuyên xưng lời kinh: “Tôi tin xác loài
người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy.” Amen.
SUY NIỆM 3: CUỘC THANH TẨY CUỐI CÙNG
Lm Minh Anh, Tgp. Huế
“Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa”.
Trên một bia mộ, người ta đọc,
“Chỗ bạn đang đứng, chỗ tôi đã đứng. Nơi tôi đang nằm, nơi bạn sẽ nằm!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Nơi tôi đang nằm, nơi bạn sẽ
nằm!”. Lời Chúa ngày lễ Các Đẳng Linh Hồn đưa chúng ta về “Luyện ngục”, một
khái niệm thường bị hiểu lầm. Luyện ngục là gì? Nơi chúng ta chịu trừng phạt vì
tội lỗi? Cách Thiên Chúa hỏi tội các sai phạm của mỗi người? Đó là kết quả cơn
giận của Ngài? Không! Luyện ngục không gì khác hơn là tình yêu cháy bỏng và là
‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ Thiên Chúa dành cho những người Chúa chọn. Sách Khôn
Ngoan nói, “Chúa đã thử thách các ngài
như thử vàng trong lửa”.
Khi ai đó chết, rất có thể họ
không được hoán cải 100% để hoàn hảo về mọi mặt. Các thánh vĩ đại nhất cũng có
khiếm khuyết trong cuộc sống. Luyện ngục không gì khác hơn là ‘cuộc thanh tẩy
cuối cùng’ tất cả vấn vương còn lại với tội lỗi. Hãy tưởng tượng, bạn có một cốc
nước tinh khiết 100%. Cốc này tượng trưng cho thiên đàng. Bạn muốn thêm vào cốc
đó một ít nước chỉ tinh khiết 99%. Nước không tinh khiết 1% này đại diện cho những
người lành thánh đã chết với một số chấp trước nhẹ đối với tội lỗi. Nếu thêm nước
đó vào cốc, cốc sẽ có một số tạp chất, ít nữa 1%. Vấn đề là thiên đàng không chứa
bất kỳ tạp chất nào, dù là nhỏ nhất. Vì thế, 1% đó vẫn cần được lọc sạch.
Làm thế nào điều này xảy ra?
Chúng ta không biết. Chúng ta chỉ biết nó có. Nhưng cần hiểu rằng, đó là kết quả
của tình yêu vô hạn nơi Thiên Chúa những muốn thanh tẩy chúng ta khỏi mọi ràng
buộc, vướng bận. Có đau không? Rất có thể! Nhưng đau theo nghĩa buông bỏ. Và kết
quả cuối cùng là tự do thực sự, đáng giá cho bất kỳ nỗi đau nào có thể trải
qua. Vì thế, luyện ngục là đau đớn, nhưng là ‘nỗi đau ngọt ngào’ cần có từ ‘cuộc
thanh tẩy cuối cùng’ để kết hiệp với Chúa trọn vẹn hơn. Chúa Giêsu nói, “Tất cả
những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi”; đó là những con người với
những chiếc áo trắng tinh tuyền, và những trái tim cũng tuyệt đối tinh tuyền!
Tưởng nhớ các linh hồn,
chúng ta sống mầu nhiệm Các Thánh Thông Công. Các linh hồn trải qua cuộc thanh
luyện này vẫn hiệp thông với Chúa, với Giáo Hội dưới thế và Giáo Hội thiên quốc.
Chúa sử dụng lời cầu của chúng ta dành cho các linh hồn, cũng như việc các linh
hồn cầu bầu cho chúng ta như những công cụ thanh tẩy của Ngài; Ngài cho phép và
mời chúng ta tham gia vào ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ của họ. Điều này tạo nên một
mối liên đới chặt chẽ của chúng ta với các linh hồn.
Anh Chị em,
“Chúa đã thử thách các ngài
như thử vàng trong lửa”. Như vàng trong lửa, một ngày kia, tất cả chúng ta rồi
cũng được thanh luyện như các linh hồn. Và không nghi ngờ gì nữa, các thánh
trên trời, đặc biệt dâng lời cầu nguyện cho họ trong thời gian thanh luyện này.
Đó là một sự thật đáng hoan hỷ và là một niềm vui lớn lao khi chúng ta thấy
cách thức Thiên Chúa sắp xếp toàn bộ quá trình này cho mục đích cuối cùng của sự
hiệp thông thánh thiện mà chúng ta được kêu gọi! Như vậy, ‘cuộc thanh tẩy cuối
cùng’ rõ ràng là cần thiết, nó là sáng kiến từ tình yêu và lòng thương xót của
Thiên Chúa!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, giúp con ‘tập chết’
trước khi chết thật, may ra ‘nỗi đau ngọt ngào’ sau cùng sẽ chóng vánh hơn! Đó
là những hy sinh con dành cho các linh hồn!”, Amen.
THỨ SÁU: NỖI ĐAU THÁNH
“Lòng tôi rất đỗi ưu phiền, và đau khổ mãi không ngơi!”.
Về hưu, cựu Tổng thống
Thomas Jefferson lập Đại học Virginia; ông tin rằng, sinh viên sẽ học hành
nghiêm túc. Nào ngờ, một cuộc bạo động dẫn đến đổ máu xảy ra; các giáo sư bị tấn
công! Hôm sau, một cuộc họp được tổ chức, Jefferson có mặt; có cả các sinh viên
nổi loạn. Jefferson nói, “Đây là một sự kiện đau đớn nhất trong đời tôi!”, và
ông bật khóc! Giám thị yêu cầu những kẻ bạo động tiến lên; tất cả nhận lỗi. Sau
đó, một trong các sinh viên ấy nói, “Không phải do lời của Jefferson, nhưng là
nước mắt của ông ta!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Jefferson đau đớn! Lời Chúa
hôm nay cho thấy một nỗi đau còn lớn hơn. Đó là nỗi đau của Phaolô, một ‘nỗi
đau thánh!’. Trước sự cứng lòng của những người anh em Do Thái giáo đương thời,
những người nhất mực từ chối sứ điệp Phaolô mang đến, Phaolô thở than, “Lòng
tôi rất đỗi ưu phiền, và đau khổ mãi không ngơi!”.
Một lý do khiến Phaolô vô
cùng đau đớn, là việc những người anh em này từ chối Chúa Giêsu; ở một số nơi,
họ mạnh mẽ chống lại các Kitô hữu, những người mà họ gọi là ‘phản bội’ hoặc ‘dị
giáo’. Phaolô nhấn mạnh, đây không phải là một lời than phiền bình thường,
nhưng là một nỗi đau thực sự đến nỗi ngài sẵn sàng tách khỏi Chúa Kitô theo
nghĩa đen, nếu điều này có lợi cho đồng bào mình. Phaolô tự nguyện là tù nhân,
bị nguyền rủa, loại trừ để anh em ngài nhận biết Chúa Kitô. Đây quả là một ‘nỗi
đau thánh!’.
Tin Mừng hôm nay cho thấy một
trải nghiệm tương tự nơi Chúa Giêsu. Một thủ lãnh biệt phái mời Ngài dùng bữa,
họ dò xét Ngài. Một người phù thũng xuất hiện; đây có thể là một sắp đặt! Và dẫu
đó là sự thật, Chúa Giêsu vẫn quyết đoán làm những gì phải làm để tỏ bày lòng
thương xót của Ngài, không chỉ với người bệnh nhưng với cả những ai đang rắp
tâm hại Ngài. Ngài hỏi, “Có được phép chữa bệnh ngày Sabbat không?”. “Họ làm
thinh!”. Chính sự làm thinh tố cáo ác tâm của họ. Và Ngài “đỡ lấy bệnh nhân, chữa
khỏi và cho về”. Họ tiếp tục làm thinh, để lại cho Ngài một ‘nỗi đau thánh!’.
Trong một thế giới từ chối
Thiên Chúa, tâm hồn các môn đệ Chúa Giêsu phải là nơi chịu giày vò bởi những nỗi
đau. Thế giới với lý do này, lý do khác, từ chối Ngài và sứ điệp của Ngài; Giáo
Hội cũng đang đối mặt với bao thách đố. Vấn đề chuyển giới, trợ tử, phá thai, đồng
tính, di dân và nạn buôn người… tất cả đang thực sự nhức nhối. Thế nhưng, lập
trường của Giáo Hội thật dứt khoát, phẩm giá và sự sống con người có giá trị vô
song; và việc nâng con người lên, chữa lành nó, phải là ưu tiên hàng đầu!
Anh Chị em
“Lòng tôi rất đỗi ưu phiền,
và đau khổ mãi không ngơi!”. Trước những sự kiện đau lòng của thế giới và của
Giáo Hội, liệu bạn và tôi có một cảm thức xót xa nào không? Cụ thể, trước sự cứng
cỏi của những con người chúng ta yêu thương, khi họ từ chối niềm tin hay đang đắm
chìm trong một nghiện ngập, một tội lỗi nào đó; thiết thực hơn, những người bỏ
nhà thờ, bỏ đạo, chúng ta có nhức nhối không? Và quan trọng hơn, bạn và tôi đã
làm gì? Chúng ta có cầu nguyện, hy sinh, thăm viếng, khuyên nhủ và cụ thể, có
ra sức nêu gương sáng để làm những gì có thể hầu đưa những anh chị em đó trở về?
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, trước những
‘thương tật’ của anh chị em con, giúp con cảm nhận một sự giày vò bên trong, hầu
một ngày kia, con không phát hiện mình bị ‘thiểu năng!’”, Amen.
THỨ BẢY: CHỖ THẤP NHẤT
“Xin ông nhường chỗ cho người này!”
“Khiêm nhường không có nghĩa
là nghĩ về bản thân kém hơn người khác; là đánh giá thấp về những quà tặng
riêng của mình. Khiêm nhường có nghĩa là tự do không nghĩ về bản thân cách này,
cách khác. Ai khiêm nhường, người ấy tự do!” - William Temple.
Kính thưa Anh Chị em,
“Ai khiêm nhường, người ấy tự
do!”, một cách tài tình, Chúa Giêsu và Phaolô sẽ khai triển câu nói của William
Temple trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Từ đó, chúng ta có thể rút ra những bài
học bổ ích khi biết chọn cho mình.
Được mời dùng bữa, Chúa
Giêsu thấy nhiều người chọn những cỗ nhất, Ngài nói cho họ rằng, chúng ‘rất
chông chênh’; bởi lẽ, chủ nhà có thể mời họ xuống cỗ dưới! Tuy nhiên, một người
khiêm nhượng thực sự sẽ không cảm thấy xấu hổ khi nghe những lời này, thay vào
đó, người ấy sẽ vui vẻ hồn nhiên nhường chỗ cho người khác; vinh dự thế gian chẳng
nghĩa lý gì đối với họ. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu không nói với người khiêm nhượng,
Ngài nói với những con người đang giành giật bằng được vinh dự phù hoa. Điều
này, cách nào đó, cho thấy bên trong họ, đang rất bất an và thiếu tự trọng.
Thú vị ở đây là các biệt
phái, những người đang cố chiếm những cỗ bàn ‘tròng trành’ đó. Chúa Giêsu tiết
lộ cho họ một sự thật rằng, niềm vui và hạnh phúc thực sự chỉ được tìm thấy nơi
những ai biết hạ mình và biết đề cao người khác. Xu hướng phổ biến của các biệt
phái phát xuất từ việc cá nhân họ bất an và nặng sĩ diện. Trẻ em luôn cảm thấy
tự do và an toàn vì không cần giữ sĩ diện! Yêu bản thân theo cách Thiên Chúa
yêu chúng ta, bạn và tôi có thể hoàn toàn bình an; chúng ta trân trọng phẩm giá
tha nhân, thậm chí vui mừng vì sự thành công của họ.
Cũng một chủ đề, qua thư
Rôma hôm nay, Phaolô xác định “Chúa không ruồng rẫy dân Người!” như Thánh Vịnh
đáp ca xác tín, dẫu xem ra thoạt đầu, Ngài quay sang ủng hộ dân ngoại. Bằng chứng
là chính Phaolô, một người Do Thái thuần huyết đã nghe và khiêm tốn đáp lại ơn
cứu độ. Sự không tin của người Do Thái chỉ là bước đầu Thiên Chúa cho xảy ra với
mục đích khiến họ “ghen tị” với người ngoại mà ăn năn; vì làm sao Ngài có thể bỏ
họ! Từ đó, những người Do Thái biết thống hối trở về, khiêm tốn đón nhận Chúa
Kitô, họ sẽ được lại tự do của con cái Chúa!
Anh Chị em,
“Xin ông nhường chỗ cho người này!” Chúa Giêsu không muốn ai trong chúng ta phải nghe những lời bất tiện này; Ngài muốn ngay từ đầu, chúng ta nhường ‘chỗ tốt’ cho người khác. Noi gương Ngài, chúng ta chiếm ‘chỗ thấp nhất’, tự do, an toàn; chỗ phục vụ, hạ mình, yêu thương! Trong thư Philipphê, Phquý trọng của thế gian; chỉ cần tình yêu Ngài dành cho chúng ta là đủ.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con chạy đôn chạy đáo vì những bã vinh hoa trần thế; để được tự do, bình an và sự tự trọng, cho con biết chọn ‘chỗ thấp nhất!’” Amen.aolô viết, “Phận là phận của một vì Thiên Chúa, Ngài đã trút bỏ hết mọi vinh quang”, chọn ‘chỗ thấp nhất’ trên thập giá; và “Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài!” Cũng thế, với bạn và tôi, khiêm tốn, đơn giản là chúng ta nhìn thấy chính mình dưới ánh sáng theo cách Thiên Chúa nhìn mình; không cần sự khen ngợi và