Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 14 tháng 10, 2023

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXVIII THƯỜNG NIÊN

                                                                             Lm. Nguyệt Giang 

CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN A

Is 25,6-10a; Pl 4,12-14.19-20; Mt 22, 1-14

Suy niệm 1:

Dụ ngôn tiệc cưới cho hoàng tử mà Chúa Giêsu nói đến trong đoạn tin mừng hôm nay hơi lạ.

- Lạ vì những người được nhà vua ưu ái mời đến đều từ chối vì nhiều lý do: “Người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi”.

- Lạ là sau khi những người được mời khướt từ thì vua lại sai đầy tớ ra các ngả đường để mời gọi tất cả mọi người không phân biệt tốt xấu vào tham dự tiệc cưới.

- Lạ vì bất ngờ nhà vua lại trừng phạt nặng nề đối với người không mặc y phục lễ cưới “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!”. 

Chính vì những điều lạ như thế nên ta mới hiểu rằng đây không phải là tiệc cưới bình thường mà là “tiệc cưới nước trời.”

Bàn tiệc nước trời được mở ra và lời mời gọi của Chúa được gửi đến tất cả mọi người. Được tham dự bữa tiệc nước trời là khao khát lớn nhất của con người. Tuy nhiên để xứng đáng tham dự vào bữa tiệc ấy, cần phải hội đủ hai điều kiện:

- Biết trân quý lời mời gọi của Chúa mà tích cực đáp lại.

- Phải “mặc y phục lễ cưới”. Nghĩa là mặc lấy con người mới trong Chúa Kitô là sống công chính và thánh thiện trước nhan Ngài: “Anh em hãy mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Eph 4,24).

Xin cho chúng ta biết tích cực đáp lại lời mời gọi của Chúa qua việc siêng năng đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể do chính Chúa Giêsu mời gọi và thết đãi hằng ngày trên bàn thờ. Xin Chúa cũng cho chúng ta luôn biết sống công chính, thánh thiện trước nhan thánh Chúa hầu chuẩn bị một tâm hồn xứng hợp cho việc tham dự vào bữa tiệc viên mãn trong nước trời mai ngày. Amen.

 

Suy niệm 2: ĐIỀU KIỆN ĐỂ THAM GIA BÀN TIỆC THÁNH THỂ

Chuyện kể rằng: Có một người nông dân nọ gia đình rất nghèo khổ. Để thay đổi số phận hẩm hiu, anh ta quyết định lên đường, thực hiện một chuyến làm ăn xa. Sau những năm tháng vất vả làm việc, anh ta đã trở thành một người giàu có.

Bấy giờ, anh có ý định trở về quê cũ, gặp lại người thân. Mặc lại bộ quần áo nông dân hôm nào, anh trở về quê nhà nên mọi người đón tiếp một cách tẻ nhạt.

Vui mừng sau nhiều năm xa cách, anh làm một bữa tiệc, mời mọi người thân quen đến dự. Nhưng ai cũng nghĩ rằng anh chỉ là một nông dân khố rách áo ôm, nên mọi người đều xa tránh và chẳng ai muốn đến dự vì sợ thấy chẳng ích lợi gì.

Cuối cùng chỉ có một đứa cháu đến tham dự bữa tiệc đó. Sau bữa tiệc, anh ta không những tặng quà, mà còn cho đứa cháu một khoản tiền lớn mà anh ta dự định sẽ trao tặng cho những người đến dự tiệc. Khi mọi người biết chuyện đều tiếc ngẩn tiếc ngơ.

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói đến một bữa tiệc, nhưng đó là tiệc cưới của hoàng tử. Tiệc cưới của dân thường đã là vui và náo nhiệt rồi, huống chi đây là tiệc cưới của con vua nên rất sang trọng và linh đình biết mấy. Ấy vậy mà những vị khách được nhà vua ưu ái mời gọi tham dự lại từ chối. Tại sao vậy? Có phải vì nhà vua mời cách hời hợt không? Thưa không! Nhà vua rất cẩn thận và chu đáo; chẳng những mời 1 lần mà đến những 3 lần; chẳng những gửi thiệp mà còn sai đầy tớ đến tận nơi để mời.

Vậy tại sao họ chối từ? Dụ ngôn cho ta biết vì họ bận công việc: “Kẻ thì đi thăm nông trại, người thì đi buôn…” Như vậy là đã rõ, bởi vì họ quá bận tâm vào những công việc làm ăn kiếm tiền. Họ cho rằng tiền bạc thì quan trọng hơn tình nghĩa; chuyện của họ thì quan trọng hơn chuyện của nhà vua... Qua đây, Chúa Giêsu cũng muốn nhắc nhở chúng ta cần phải sáng suốt trong việc chọn lựa cho giá trị trong đời sống hàng ngày. 

Bữa tiệc cưới hoàng từ, nhắc nhở chúng ta đến một bữa tiệc khác rất quan trọng, đó là bữa tiệc Lời Chúa và Thánh Thể trong Thánh lễ hàng ngày. Mỗi ngày Chúa đều dọn sẵn bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể và tha thiết mời mọi người chúng ta đến tham dự. Vậy mà nhiều lúc chúng ta lại chối từ, vì nhiều lý do. Những lý do mà chúng ta thường diện dẫn ra để chối từ phần nào cũng giống như những lý do của những vị khách được mời trong tin mừng hôm nay. 

Đó là vì tôi quá quan tâm đến những nhu cầu vật chất hơn nhu cầu tinh thần và tâm linh. Đó là vì tôi quá bận tâm tìm kiếm tiền bạc hơn tìm kiếm Chúa. Đó là vì tôi yêu thích gắn bó với tiền của thế gian hơn là gắn bó với Chúa và tha nhân; và trên hết là vì tôi không cảm nhận được niềm vui và bình an đích thực mỗi khi đến tham dự bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể. Vậy giờ đây mỗi người chúng ta hãy xin Chúa hướng dẫn và ban ơn giúp ta cảm nhận được giá trị cao quý của Lời Chúa và Thánh Thể chính là Lời ban sự sống và là nguồn mọi ơn phúc cho chúng ta.

Tuy nhiên để được tham dự vào bữa tiệc ấy, chúng ta cần phải tuân theo một số điều kiện sau đây:

Có lòng ao ước và hăng hái tham dự Thánh Lễ.

- Đi lễ đúng giờ và ăn mặc gọn gàng sạch sẽ.

- Giữ sự nghiêm trang đứng đắn, mở miệng thưa đáp với cộng đoàn

- Chuẩn bị tâm hồn trong sạch và ước ao đón nhận Chúa vào tâm hồn.

Sốt sắng nghiêm trang lên rước Mình Máu Thánh Chúa.

Lạy Chúa, xin cho chúng con cảm nghiệm niềm vui sống Đạo như đi dự tiệc cưới. Tạ ơn Chúa quảng đại yêu thương mời con dự tiệc Thánh. 

Xin cho chúng con ý thức mỗi khi đi tham dự Thánh lễ là dịp được dự tiệc Thánh Thể, tiệc Lời Chúa, cảm nếm trước tiệc Nước Trời phơi phới niềm vui. Amen.

Suy niệm 3:

Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta đến với Chúa để được tham dự vào tiệc cưới của Con Chiên. Xin cho chúng ta biết chuẩn bị tâm hồn xứng hợp, hầu có thể thông phần vào bữa tiệc Lời Chúa và Thánh Thể do chính Chúa Giêsu khoản đãi và mời gọi mỗi người chúng ta tham dự vào.

Chúa Nhật tuần này, Tin mừng thuật lạ câu chuyện dụ ngôn về tiệc cưới hoàng tử. Ngày xưa, đi dự tiệc cưới của hoàng cung có phải mang theo quà cáp hay phong bì gì chăng? Nhưng ngày nay rất nhiều người cứ đến mùa cưới là như trong tư thế sẵn sàng đi trả nợ đời. Cứ mỗi tấm thiệp mời ăn cưới là một tờ giấy báo nợ không hơn cũng chẳng kém.

Tìm được lý do hợp lý để thoái thác tham dự một tiệc cưới là kể như lập một chiến công, dù không trọn vẹn, vì cũng phải nhờ người gửi quà biếu, nhưng chí ít cũng tiết kiệm được một buổi công làm.

Trở lại với câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể. Được đức vua mời dự tiệc cưới của hoàng tử quả là một vinh dự to lớn mà nhiều người thời phong kiến hằng ước ao. Không chỉ vì được nhà vua sủng ái mà người được mời còn có nhiều vận hội lớn, mỗi khi được dịp vào hoàng cung.

Hơn nữa, ngôn sứ Isaia đã minh nhiên nói rõ sự hào phóng của đức vua: Thịt thì béo, rượu thì ngon mà khỏi phải trả đồng nào (x.Is 25,6; 55,1). Thế mà những người được mời lại hờ hững và từ chối với những lý do không chút gì tương xứng: “đi thăm nông trại, đi buôn bán. Có kẻ lại bắt đầy tớ của vua mà hành hạ và giết chết!” Đây là chuyện như không tưởng vì là loại trọng tội đáng bị tru di cửu tộc.

Chuyện tưởng chừng không thể xảy ra trong đời thường, nhưng lại có thể xảy ra trong đời sống đức tin. Thực sự là như thế, với lịch sử đoàn dân được tuyển chọn ngày xưa, Israel được Thiên Chúa ưu ái mời gọi đón nhận bao ân phúc của Người, dù họ chỉ là một dân nhỏ bé giữa các dân, chẳng có gì xứng đáng. Tất cả cũng chỉ vì tình Thiên Chúa sủng ái họ cách đặc biệt hơn các dân.

Thế mà khi sai các đầy tớ là các sứ ngôn đến mời gọi thì họ lại chối từ và còn nhẫn tâm hãm hại các ngài. Chính sự vô tình và sự nhẫn tâm của họ đã kết án họ, đã loại họ ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Và rồi muôn dân khắp thiên hạ đã được mời vào dự tiệc của Thiên Chúa.

Thiên hạ sẽ từ Đông chí Tây, từ Bắc chí Nam đến dự tiệc Nước Thiên Chúa, còn con cái trong nhà sẽ bị loại ra ngoài (x.Lc 13,28-29. Người ta bị loại ra chỉ vì thiếu một tấm lòng.

- Chúa Giêsu kể thêm một câu chuyện khác cũng về tiệc cưới của hoàng tử. Khi đức vua vào phòng tiệc thì thấy một người không mặc y phục lễ cưới.

Đi dự một đám cưới mà trên người chỉ có cái quần cụt, với áo đen , đầu chích khăn tang thì quả là xấc xược với đôi tân hôn, với chủ tiệc và với cả quan khách. Lại còn ương ngạnh, không thèm trả lời khi được chất vấn, thì quả là người chẳng coi ai ra gì.

Đi dự lễ hội, tiệc tùng hay đình đám ngoài đời thì ta rất quan tâm đến việc ăn mặc gì, kiểu dáng ra sao, màu sắc thế nào…không nguyên là để làm đẹp bản thân mà tiên vàn là để tôn trọng chủ nhà, tôn trọng nội dung, bầu khí buổi lễ, buổi tiệc…Đã là người biết nghĩ, thì không ai ăn mặc hở hang, lòe loẹt đi dự đám tang và cũng chẳng ai mặc toàn màu đen đi dự đám cưới.

Người không biết nghĩ đến kẻ khác thì không xứng đáng dự tiệc nước trời, vương quốc của tình yêu. Hãy mặc lấy Đức Kitô và mang lấy tâm tình của Người.

Vào đạo, gia nhập Hội Thánh…mà chỉ biết lo cho bản thân, cho dù đó là phần rỗi linh hồn của mình, thì cũng không xứng đáng lãnh nhận ân tình của Chúa.

Hiện nay khỏi lửa chiến tranh vẫn còn bao phủ trên các quốc gia như Nga và Ukraina, Israel và Palestin.

Sóng gió vẫn luôn bủa vây con thuyền Giáo hội, cho dù trong những ngày này Thượng Hội Đồng GM thế giới đang nhóm họp bàn về chủ đề “hiệp hành”.

Hy vọng rằng sẽ chẳng có ai đóng khung trong các mối lo toan riêng mình mà “an phận”, nhưng phải biết sống tinh thần hiệp hành: hiệp thông, tham gia để cùng nhau thi hành sứ vụ sống và làm chứng nhân cho niềm vui tin mừng cứu chuộc, với ước nguyện sao cho danh Cha cả sáng.

Được làm tín hữu trong Hội Thánh thì phải mến yêu người mẹ sinh ta trong đức tin. Nên mỗi người trong chúng ta phải ý thức gìn giữ và bảo vệ Hội Thánh Chúa trong chân lý và bình an.

Được làm con dân nước Việt thì phải đồng hành với dân tộc trong mọi hoàn cảnh lịch sử. Và tích cực cộng tác với mọi người xây dựng, gìn giữ và thăng tiến quê hương được thái bình thịnh vượng trong công lý.

Mặc lấy chiếc áo Chúa Giêsu trong ngày rửa tội thì phải sống tinh thần và phong cách của Chúa Giêsu, nghĩa là không “khoanh tay ngồi chờ”, nhưng luôn sẵn sàng “săn tay áo” lên mà thực thi thánh ý Cha trên trời. Amen. (St)

 

Suy niệm 4:

Tuần này Chúa Giêsu kể dụ ngôn Nước Trời giống như tiệc cưới con vua.

Đám cưới của người dân đã đông vui rồi, đám cưới của con vua chắc sẽ đông vui gấp bội. Ấy vậy có điều lạ là bao nhiêu khách mời lại không tới tham dự tiệc cưới.

Tại sao lại không tham dự? Tiệc cưới này nói gì về tiệc Chúa mời chúng ta?

1. Không tham dự

Cứ tưởng được vua mời dự tiệc cưới thì người ta phải hân hoan sung sướng, lấy làm vinh dự hãnh diện và háo hức đợi ngày đi dự, chứ sao lại từ chối không đến?

Có phải vì vua mời hời hợt không? Không, vua cẩn thận chu đáo mời khách những 3 lần, sai đầy tớ đến tận nơi mời.

Vậy sao họ vẫn chối từ? Phúc Âm cho biết lý do: “Kẻ thì đi thăm nông trại, người thì đi buôn.” Hóa ra họ đang lo công việc làm ăn của họ. Lòng họ bận tâm về tiền bạc hơn là tình nghĩa. Họ cho việc của họ quan trọng hơn việc nhà vua.

Trong đời, khi lòng người đang đam mê điều gì thì người ta sẽ ưu tiên cho điều đó.

2. Tiệc Chúa mời

Hàng ngày Chúa vẫn mở tiệc mời chúng ta tham dự tiệc Lời Chúa và tiệc Thánh Thể trong Thánh lễ.

Chúa là vua quảng đại mời hết mọi người tham dự, không loại trừ ai.

Thế nhưng đến lượt Chúa cũng bị nhiều người chối từ không đến dự. Tại sao?

Có lẽ giống như dụ ngôn, người ta cũng mải mê lo chuyện của mình hơn là tiệc Chúa mời. Và có lẽ nhiều người cũng chưa ý thức và cảm nghiệm Thánh lễ như bầu khí của một bữa tiệc: nơi ấy tràn đầy niềm vui của gặp gỡ, chúc tụng, ca hát, yêu thương.

3. Điều kiện tham dự tiệc Thánh Thể:

Để xứng đáng dự tiệc Thánh Thể, em phải làm gì?

- Phải làm những việc này:

Bên ngoài:

+ Siêng năng tham dự Thánh Lễ.

+ Đi lễ đúng giờ và ăn mặc gọn gàng sạch sẽ.

+ Giữ sự nghiêm trang đứng đắn, mở miệng thưa đáp với cộng đoàn.

Bên trong:

+ Dọn tâm hồn thật trong sạch thánh thiện.

+ Sốt sắng nghiêm trang đón rước Mình Máu Thánh Chúa.

Lạy Chúa, xin cho chúng con cảm nghiệm niềm vui sống Đạo như đi dự tiệc cưới. Tạ ơn Chúa quảng đại yêu thương mời con dự tiệc Thánh.

 Xin cho chúng con ý thức mỗi khi đi tham dự Thánh lễ là dịp được dự tiệc Thánh Thể, tiệc Lời Chúa, cảm nếm trước tiệc Nước Trời phơi phới niềm vui. Amen. (St)

 

Suy niệm 5:

- Bữa tiệc trong Kinh Thánh

Trong các nền văn hóa, tiệc tùng, ăn uống đóng vai trò quan trọng trong đời sống nhân sinh. Bữa ăn là nơi gặp gỡ, chia sẻ và sống thân tình với nhau. Bữa ăn cũng nơi bày tỏ lòng quý mến với nhau chứ không phải là nơi tranh cãi và chửi bới nhau, như cha ông ta đã khôn ngoan dặn dò: “Trời đánh tránh bữa ăn.”

Hình ảnh bữa ăn hay bữa tiệc được đề cập khá nhiều trong Thánh Kinh:  

- Cựu Ước nói tới bữa ăn mà tổ phụ Ápbraham khoản đãi ba người khách lạ dưới lều vải ở Mamrê (x. St 18,1-8); hay như hình ảnh bữa tiệc được tiên tri Isaia loan báo trong bài đọc I (x. Is 25,6-10).

- Tân Ước cũng nói đến bữa tiệc người cha già tổ chức mừng người con đi hoang trở về (x. Lc 15,22-32). Tiệc cưới ở Cana (x. Ga 2,1-10); Người làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để thiết đãi dân chúng ăn no nê từ năm chiếc bánh và hai con cá (x. Ga 6,5-15). Trước khi đi chịu tử nạn, Chúa Giêsu đã dự Tiệc Ly với các môn đệ (x. Ga 13,1-15). Sau khi phục sinh, Người dọn bữa ăn cho các môn đệ sau một đêm lao lực (x. Ga 21,1-14).

Trở lại với bài đọc I, tiên tri Isaia nói tới việc Thiên Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25,6).

Trong một bối cảnh mà dân Do Thái đang bị lưu đày ở Babilon, vua Ba Tư là Cyrus đã ký sắc lệnh cho họ trở về để tái thiết cuộc sống mới ở Giêrusalem. Viễn tượng mới mà Isaia mô tả chan chứa niềm vui, hy vọng và hạnh phúc mà Thiên Chúa sẽ ban cho dân Người, trong đó, mọi người sẽ được ăn uống no nê, có một cuộc sống bình an, ổn định, Thiên Chúa sẽ lau khô mọi dòng lệ và xóa tan mọi nỗi ô nhục của họ. Đó là hình ảnh tiên báo về Nước Trời được Đức Giêsu rao giảng và thực hiện với sự xuất hiện của Người như được nói trong bài Tin Mừng.

- Tiệc cưới theo Chúa Giêsu

Trước hết, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn tiệc cưới để diễn tả chân lý này: Thiên Chúa muốn ban hạnh phúc Nước Trời cho dân Do Thái, dân riêng, nhưng tiếc rằng họ là những người khách được mời đã từ chối lời mời gọi của Chúa và viện cớ vì nhiều lý do khác nhau, “kẻ thì đi thăm nông trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết” (Mt 22,5-6). Họ là đại diện cho tất cả những ai đã ưa chuộng và chạy theo những giá trị trần gian mà khước từ những giá trị đạo đức và vĩnh cửu của Nước Trời.

Trước sự từ chối đó, ông chủ đã sai các đầy tớ ra các ngã đường, gặp ai cũng mời vào tiệc cưới, bất luận tốt xấu, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách (x. Mt 22,5-10).

Qua đó, dụ ngôn muốn nói rằng: Bữa tiệc nói lên tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho dân Người. Bữa tiệc cũng là hình ảnh để diễn tả ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho con người. Đây cũng là hình ảnh tiên báo về bí tích Thánh Thể, là bữa tiệc mà Thiên Chúa sẽ thiết đãi dân Người trong giao ước mới.

Thiên Chúa đã ký kết giao ước hôn phối với loài người qua Con Một chí ái của Người. Qua giao ước này, Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người vào dự tiệc cưới đó. Điều đó cho thấy rằng Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Ơn cứu độ mà Chúa Kitô mang lại là phổ quát, chứ không chỉ dành cho một số người được ưu tiên và xứng đáng. Như thế, Thiên Chúa không chỉ mời gọi mọi người vào làm việc trong vườn nho của Chúa, nhưng còn mời gọi họ vào tận hưởng niềm vui cứu độ trong tiệc cưới với Chúa Con. Hạnh phúc cho những ai được mời vào dự tiệc cưới của Chúa!

- Áo cưới

Như thế cho thấy Thiên Chúa quảng đại mời hết mọi người vào tham dự tiệc cưới. Tuy nhiên, ở phần cuối bài Tin Mừng, có một chi tiết cần phải dừng lại để suy nghĩ, đó là chi tiết: “Nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới” (Mt 22,11), ông thắc mắc và lệnh bắt người đó và quăng vào chỗ khóc lóc nghiến răng (x. Mt 22,12-14). Chi tiết này làm chúng ta phải ngạc nhiên và xem ra bất công, bởi lẽ, ban đầu nhà vua bắt các đầy tớ ra đường đột xuất mời người ta vào dự tiệc, giờ sao lại bắt nạt người này không có áo cưới. Nhưng cần lưu ý rằng đây là chi tiết mang tính dụ ngôn và biểu tượng. Theo đó, áo cưới đây muốn ám chỉ đến những điều kiện tối thiểu mà người dự tiệc phải có khi vào dự tiệc theo phong tục Do Thái. Điều đó muốn nói rằng, một đàng, Thiên Chúa muốn ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người, nhưng đàng khác, những ai được mời vào dự tiệc phải có sự đáp trả, chuẩn bị chiếc áo cưới của mình, để xứng đáng dự tiệc cưới.

Chiếc áo cưới ở đây là biểu tượng của sự đáp trả cách tự do của mỗi người trước phần rỗi mình. Đây là điều kiện cần thiết để được cứu độ và để dự tiệc cưới Nước Trời. Như thánh Augustinô nói: “Thiên Chúa sáng tạo nên con, không cần có con, nhưng để cứu độ con, thì cần có con cộng tác.”

Theo chiều hướng đó, thánh Phaolô nói đến một chiếc áo mà mỗi người Kitô phải mặc, đó chính là Đức Kitô. Ngài mời gọi: “Anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô” (Rm 13,14).

Mặc áo xanh hay mặc áo đỏ, mặc áo nọ mặc áo kia, nhưng ta tin rằng ta đẹp nhất khi ta mặc áo Chúa Kitô. Nơi khác, thánh Phaolô khích lệ: “Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô” (Pl 2,5).

Nghĩa là phải từ bỏ những thói quen của con người cũ, canh tân và mặc lấy con người mới là Chúa Kitô (x. Ep 4,22-24). Chính ngài đã để cho Chúa Kitô sống và hướng dẫn ngài, nên ngài chia sẻ nơi bài đọc II: “Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng thiếu, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu đựng được hết” (Pl 4,12-13).

Thánh Grêgiôriô Cả giải thích theo một chiều hướng khác: “Áo cưới đây chính là lòng bác ái. Bởi vì Đấng Cứu Độ chúng ta đã mặc áo đó khi Người đến để kết hợp với Giáo Hội như là hiền thê của mình.”

Theo ý nghĩa này, áo cưới chính là lòng bác ái và những việc lành mà chúng ta thực hiện đối với tha nhân, nhất là với những người nghèo khổ. Vì ngày phán xét, Thiên Chúa chỉ xét xử chúng ta dựa trên tình yêu và lòng bác ái đối với tha nhân (x. Mt 25,31-46). Đó là áo cưới mà mỗi người cần có để mặc trong tiệc cưới cánh chung. Nếu không có bác ái là không visa, không có áo cưới để dự tiệc cưới, chúng ta sẽ bị đuổi ra ngoài, phải chịu cảnh khóc lóc và nghiến răng.

Như thế, Lời Chúa hôm nay một đàng mời gọi chúng ta xác tín vào ý định của Thiên Chúa là muốn cứu độ hết mọi người, và đàng khác, nhắc nhở chúng ta ý thức bổn phận của mình để cộng tác với ơn Chúa, biết chuẩn bị cho mình chiếc áo cưới đẹp nhất, bằng những việc bác ái để xứng đáng dự tiệc cưới Nước Trời mai sau. Amen! (St)

 

Suy niệm 6:

- Tiệc Nước Trời

Lời Chúa qua miệng tiên tri Isaia vang lên thật là vui đối với dân Do Thái khi họ đang sống trong một hoàn cảnh thật đen tối. Chưa bao giờ họ cảm thấy tuyệt vọng như thế. Họ buồn sầu, ứa lệ và thất vọng vì họ không còn đền thờ, không còn quê hương xứ sở, lễ tiến lễ hương cũng chẳng còn. Cảnh lưu đày đã kéo dài bao năm tháng, họ không còn nghĩ đến Giêrusalem nữa, mà có nghĩ đến thì cũng chỉ nghĩ để mà than mà khóc : “Bờ sống Babylon ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhở Sion” (Tv 136,1).

Isaia loan báo : “Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thết tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon. Trên núi này, Người sẽ cất khăn tang bao trùm muôn dân và tấm khăn liệm trải trên mọi nước. Người tiêu diệt sự chết đến muôn đời. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt, và cất bỏ khỏi toàn mặt đất sự tủi hổ của dân Người” (Is 25,6-9).

Cảnh hạnh phúc Nước Trời viên mãn tràn đầy trong thời sau hết Isaia đã mô tả là một bữa tiệc có những món ăn cao lương mỹ vị, bê béo, rượu ngon Thiên Chúa chuẩn bị cho hết thảy mọi người không phân biệt ai. Tiệc Nước Trời. Người đến dự chẳng những được thưởng thức những thức ăn ngon, mà còn được cất khỏi mọi buồn sầu tủi hổ, tang chế. Những lời trên thức tỉnh lòng dân.

Kẻ thù lớn nhất của con người là sự chết vì nó lấy đi tất cả những gì con người có. Đối diện với cái chết, con người không thể làm gì khác là đành chấp nhận. Nhưng khi Đấng Thiên Sai tới, Người sẽ đánh bại thần chết, và đem lại sự sống muôn đời cho con người. Lời sấm của Isaia đã bắt đầu được thực hiện khi Chúa cứu dân lưu lạc trở về. Nó được thực hiện thật sự với thời Ðấng Thiên Sai, khi Chúa Cứu Thế đến, và chỉ rõ ràng vào thời sau hết, thời cánh chung

- Thiên Chúa dọn, mời

Thiên Chúa đã mở tiệc khoản đãi mọi dân tộc khi ban ơn cứu độ cho loài người trên mặt đất này. Trước tiên dân Dothái qua việc sai các tiên tri đến mời, nhưng họ từ chối không đến. Ngài lại sai tiếp các tiên tri nữa đến với lời mời trang trọng và tha thiết : "Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới" (Mt 22,4). Nghĩa là ơn cứu độ đã hoàn thành. Chúa có ý nói đến công cuộc cứu thế của Ðức Kitô đã làm xong trên thập giá. Và như vậy chúng ta phải hiểu lớp tiên tri thứ hai được sai đi đây là chính các Tông đồ của thời Tân Ước, những người được sai đi trước là các Tiên tri Cựu Ước. Nhưng như họ đã không nghe Môsê và các tiên tri, thì bây giờ người Do Thái cũng từ chối luôn lời mời của các Tông đồ. Họ viện những lý do thông thường của những kẻ quen sống ích kỷ, không biết tạm hoãn những công việc riêng để đến chia sẻ niềm vui "cả đời mới có một lần" của một gia đình có tiệc cưới. Họ chẳng những không đến, họ còn đập đánh và giết chết nhiều sứ giả Tin Mừng của Ðức Kitô. Và điều này có ý nói rằng : người Do Thái đã bắt bớ và giết hại nhiều Tông đồ của Hội Thánh. Họ tệ hơn cả cha ông họ. Thế nên Thiên Chúa đã phải thịnh nộ cho quân xâm lăng tới, giày xéo thành trì của họ vào năm 70. Chắc chắn thánh Matthêu đã muốn ám chỉ biến cố này khi viết những lời trên. Và rõ ràng người muốn khẳng định rằng : Tin Mừng từ nay sẽ được đem đến rao giảng cho các dân ngoại. Hết mọi dân đều được đưa vào Hội Thánh; và như vậy, lời tiên tri Isaia đã thực sự được thực hiện.

- Y phục phải xứng đáng

Có một điều khiến người ta không khỏi thắc mắc và tìm lời giải đáp cho người được mời không mặc y phục lễ cưới, họ vào và bị đức vua ra lệnh: “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! " (Mt 22,13). Họ đang ở ngã ba đường, đầy tớ đức vua tình cờ gặp họ, mời họ vào bất luận họ là ai, sao lại đòi họ phải có y phục lễ cưới?

Áo cưới mà Tin Mừng nói tới ở đây là áo nào? Có phải các bí tích không? Hay là Phép Rửa tội? Vì không chịu phép Rửa tội, không ai có thể đạt tới Thiên Chúa được, nhưng có một số người lãnh nhận phép Rửa tội, không đến cùng Thiên Chúa... Có thể là bàn thờ hay điều người ta lãnh nhận từ bàn thờ không? “Vì kẻ ăn và uống, mà không phân biệt được Thân mình, tức là ăn và uống án phạt cho mình” (1Cr 11, 29). Vậy thì là cái gì? Ăn chay ư? Những kẻ gian ác cũng làm thế. Đi nhà thờ ư? Những kẻ gian ác cũng đi nhà thờ như bao người khác … Vậy áo cưới này là áo nào?

Ở đây, người vào dự tiệc cưới không thụ động, chấp nhận vào thì phải tìm cách thể hiện mình xứng đáng, và đó là áo cưới. Ơn cứu độ là phổ quát, đồng ý để được cứu độ là chấp nhận sống theo những đòi hỏi của Nước Trời, áo cưới vừa thể hiện sự đồng ý, vừa chứng tỏ trách nhiệm của chúng ta.

Đời sống luân lý không phải là điều kiện duy nhất để được cứu độ, Maria Mađalêna, Giakêu và nhiều người khác được mời, họ đã hoán cải để trở nên xứng đáng với Chúa hơn. Áo cưới là những điều tốt, người dự tiệc phải có. Người được mời đến dự tiệc cưới không đơn giản chỉ ăn, nhưng chia sẻ niềm vui với họ hàng hai bên, mừng hạnh phúc cho đôi bạn trẻ, nên phải có y phục xứng đáng.

Áo cưới được hiểu là biểu tượng của sự hoán cải. Sách Khải Huyền nói đến sự thánh và việc lành là chiếc áo bao phủ chúng ta (Kh 19,8). Thánh Giêrônimô thì nói : “Áo cưới, là những thánh chỉ của Chúa, và việc làm được thực hiện theo luật của Tin Mừng là chiếc áo cưới mới”. Áo cưới chính là “Đức Kitô Vị Hôn Phu” Thánh Phaolô khuyên : “anh em hãy mặc lấy Ðức Kitô” (Gl 3, 27).

Lạy Chúa, ước gì ân sủng Chúa vừa mở đường cho chúng con đi, vừa đồng hành với chúng con luôn mãi, để chúng con sốt sắng thực hành những điều Chúa truyền dạy. Amen.

 

Suy niệm 7:

Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết: Thiên Chúa là Đấng quảng đại, Ngài luôn tha thiết mời gọi và mở rộng lòng đón tiếp mọi người vào tham dự bàn tiệc Lời Chúa, Thánh Thể và Nước Trời. Nhưng trong thực tế lại nhiều người trong chúng ta từ chối lời mời gọi yêu thương ấy, bởi nhiều lý do khác nhau.

Xin cho mỗi người chúng ta nhận ra được tình thương và sự quan tâm của Chúa mà tích cực đáp lại lời mời gọi của Người qua việc siêng năng đến tham dự thánh lễ và chuẩn bị một tâm hồn xứng hợp để đón nhận lời Chúa và Bí Tích Thánh Thể.

Bài đọc 1: Tiên tri Isaia nói đến viễn cảnh huy hoàng, đầy tràn niềm vui và hạnh phúc qua hình ảnh một bữa tiệc độc lạ. Bữa tiệc ở trên núi cao, do Chúa các đạo binh dọn ra cho mọi người đến tham dự. Bữa tiệc có đầy đủ những cao lương mỹ vị, rượu ngon, thịt béo. Trong bữa tiệc đó, người dự không những được thưởng thức những thức ăn ngon, mà còn được cất khỏi mọi buồn sầu tủi hổ, tang chế.

Hình ảnh mà Isaia mô tả là hạnh phúc Nước Trời được Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người không phân biệt ai.

Bài đọc 2: Thư Thánh Phao-lô viết cho tín hữu Philipphê trong hoàn cảnh ông đang ở trong tù. Trong thư ngài bộc bạch những tâm tình về sự giúp đỡ vật chất của những tín hữu. Tuy sự giúp đỡ đó tuy không cần lắm, vì một mặt Ngài đã quen sống trong cảnh thiếu thốn về vật chất; mặc khác ngài đã có Chúa giúp đỡ nên ngài sẽ vượt thắng được mọi nghịch cảnh. Nhưng dẫu sao ngài cũng trân trọng lòng hảo tâm của họ và cho rằng tất cả những sự giúp đỡ ấy đều đáng qúi và Ngài xin Chúa đền đáp xứng đáng tấm lòng thơm thảo của họ,

Bài Tin mừng: Chúa Giêsu dùng dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử để cho biết: Thiên Chúa muốn ban hạnh phúc Nước Trời cho dân Do thái, dân ưu tuyển của Ngài, nhưng rất tiếc họ đã từ chối, vì họ chuộng những giá trị trần gian hơn.

Trước sự từ chối đó, Thiên Chúa đã mời tất cả mọi người khắp mọi nơi vào Nước Trời thay cho dân Do thái. Tuy nhiên, muốn vào được Nước Trời thì cũng cần có điều kiện: đó là phải mặc áo cưới.

Áo cưới đây ám chỉ sự hoán cải tâm hồn, một tâm hồn trong sạch, một tấm lòng bác ái yêu thương và một đức tin vững mạnh.

Lời mời gọi trong dụ ngôn hôm nay chính là lời mời gọi của Thiên Chúa dành co mọi người chúng ta hôm nay. Được mời gọi vào dự tiệc cưới, tiệc cưới Con Thiên Chúa, là một vinh dự lớn lao, lại không phải mất tiền. Nhưng nhiều khi chúng ta lại từ chối lời mời gọi của Chúa vì những lý do chẳng ra gì cả như: đi thăm ruộng, đi buôn bán...

Chúng ta dễ bận rộn với những giá trị tạm bợ và quên những điều liên quan tới đời đời. Quá bận tâm với những điều mắt thấy được mà dễ quên với những điều mắt không thấy được. Quá chăm chú nghe những lời mời gọi của thế gian mà không nghe được tiếng gọi êm dịu của Thiên Chúa.

Lời mời gọi của Chúa dành cho ta là lời mời gọi của ân sủng. Những kẻ được qui tụ từ khắp các nẻo đường không có quyền đòi hỏi gì nơi nhà vua cả. Nhưng họ không ngờ rằng mình lại được nhà vua quan tâm mời vào dự tiệc cưới của hoàng tử. Những việc xẩy đến với họ không bởi điều gì khác hơn là lòng quảng đại của nhà vua. Bởi ân sủng, lời mời được ban ra, và bởi ân sủng mà người ta được đón nhận.

Nhưng muốn vào dự tiệc cưới thì điều kiện tối thiểu phải mặc y phục lễ cưới. Đành rằng Thiên Chúa rất thương nhưng muốn mọi người vào tham dự bàn tiệc Thánh thể Chúa, nhưng Chúa cũng đòi hỏi chúng ta phải mắc lấy “chiếc áo trắng rửa tội”, bằng cách giữ tâm hồn trong sạch và tham dự dự bàn tiệc thánh thể cách sốt sắng và trang nghiêm.

Chiếc áo cưới là mặc lấy tinh thần bác ái kitô giáo và sống ngay chính và hiền lành.

Chiếc áo cưới còn là lòng khiêm tốn chân thành với lòng sám hối, cải thiện đời sống sao cho phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa. 

 

Thứ hai: Lc 11, 29-32

Mặc dù được nghe rất nhiều lời giảng dạy và chứng kiến không ít những phép lạ Chúa Giêsu làm. Nhưng người Do Thái thời Chúa Giêsu vẫn cứng lòng, không ăn năn hoán cải. Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu quở trách họ rất nặng lời. Xin đừng để chúng ta đi vào vết xe đổ của người Do Thái xưa. Nhưng cho chúng ta biết khiêm tốn đón nhận lời Chúa và Giáo huấn của Giáo hội chỉ dạy mà hoán cải đời sống mỗi ngày nên tốt hơn.

"Người buồn cảnh có vui bao giờ". Việc thay đổi con người không hệ tại ở hình thức bên ngoài, nhưng trước hết là phải thay đổi tận cõi lòng, thay đổi não trạng và cái nhìn. Dù có chứng kiến bao là phép lạ, dù có vỗ tay ca ngợi không ít những lời hay ý đẹp của Chúa Giêsu, rốt cùng họ vẫn không tin.

Như hết cách, Chúa Giêsu đành phải thốt lên: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác, chúng xin điềm lạ. nhưng chúng sẽ không thấy được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Gio-na.” Và như một cố gắng cuối cùng, Chúa Giêsu đã dùng lại hai câu chuyện ngày xưa, hy vọng họ suy nghĩ lại mà thay đổi não trạng.

- Nhắc lại chuyện Gio-na ngày xưa, nhằm lưu ý họ rằng: Ngày xưa chỉ lời rao giảng miễn cưỡng của Ngôn sứ Giona. Vậy mà cả thành Ninivê, từ vua đến dân, từ già đến trẻ, từ người đến súc vật đều ăn chay, sám hối và khẩn xin sự tha thứ của Chúa. Vậy mà hôm nay có Người còn hơn Giona. Đó là Đấng mà Giona loan báo đã đến, hiện diện giữa họ và đang rao giảng vậy mà họ lại không để tâm lắng nghe mà ăn năn hối cải. Thật đáng buồn!

- Nhắc lại câu chuyện nữ hoàng phương nam vượt đường xa vạn dặm, bất chấp khó khăn, tốn kém đến để diện kiến cho bằng được vị vua khôn ngoan là Salomon. Và bà đã toại nguyện, hết lòng cảm phục sự khôn ngoan của nhà vua. Nhưng ở đây còn trọng hơn vua Salomon nữa, vì Người chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và là vua trên hết các vị vua. Thế mà họ chẳng thèm nghe. Thật đau lòng!

Chính lòng tự mãn và định kiến khiến họ trở nên mù quáng nên đã làm hỏng hết mọi ơn phúc, vì thế không còn cách nào để tự chữa mình được nữa.

Xin cho chúng ta đừng như thế hệ Do Thái xưa mù quáng và tự mãn, nhưng trở nên giống dân thành Ninivê và nữ hoàng phương nam biết mau mắn lắng nghe lời Chúa mà quyết tâm ăn năn sám hối; cũng như biết khiêm tốn nhận mình còn nhiều khiếm khuyết, thiếu sót, tật xấu và tội lỗi, để nghe theo sự khôn ngoan của Chúa mà sửa đổi đời sống để mỗi ngày nên tốt hơn.

 

Thứ ba: Pl 3, 17- 4,1; Ga 12, 24-26

Nhớ Thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-ki-a, giám mục, tử đạo.

Lời Chúa trong đoạn tin mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu nhắc lại cho chúng ta nhớ lại quy luật tự nhiên của đời sống, chết đi để được sống, khi phân quyết: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt.” (Ga 12,24). Dựa trên nền tảng của nguyên tắc này, Chúa Giêsu khẳng định cho chúng hiểu rằng: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga 12,25).

Thánh Ignatio đã nhận ra nguyên tắc và hiểu được quy luật này nên ngài đã vui lòng dâng hiến đời mình, sẵn sàng chịu chết đau thương vì tin yêu Chúa và GH.

Ngài sinh trưởng năm 50 tại Syria, Inhaxiô trở lại Kitô giáo và sau đó làm giám mục Antiokia.

Vào năm 107, hoàng đế Trajan ghé thăm Antiokia và buộc các Kitô hữu phải chối đạo hoặc chịu chết. Inhaxiô vì lòng yêu mến Chúa nên đã cương quyết không chối bỏ đức tin mà chấp nhận án tử hình ở Rôma.

Trên đường từ Antiokia đến Rôma chịu tử đạo, GM Inhaxiô đã viết bảy lá thư nổi tiếng. Năm lá thư cho các Giáo hội ở Tiểu Á; khuyến khích các Kitô hữu trung thành với Thiên Chúa và vâng lời bề trên. Ngài cảnh giác họ đề phòng những giáo thuyết lầm lạc, và dạy bảo họ những chân lý vững chắc của đức tin Kitô Giáo. Lá thư thứ sáu ngài gửi cho Polycarp, Giám Mục ở Smyrna, là người sau này cũng tử đạo vì đức tin. Và trong lá thư sau cùng, ngài xin các Kitô hữu ở Rôma đừng ngăn cản ngài chịu tử đạo. “Điều duy nhất tôi xin các bạn là hãy để tôi được tự do dâng hiến máu tôi cho Thiên Chúa. Tôi là hạt lúa của Thiên Chúa, ước chi tôi được nghiền nát dưới nanh thú dữ để trở nên bánh tinh tuyền của Đức Kitô.”

Ước nguyện của ngài trở thành hiện thực khi chịu tử đạo dưới nanh vuốt của sư tử ở Colosseum năm 107. Thánh tích của ngài hiện còn lưu giữ tại Vương Cung Thánh Đường thánh Phêrô ở Rôma.

Có thể nói điều quan tâm lớn lao của thánh Inhaxiô là sự hiệp nhất và trật tự trong Giáo Hội. Nhưng cao quý hơn cả là ngài ao ước được tử đạo hơn là chối bỏ Đức Giêsu Kitô. Tuy nhiên không phải vì sự đau khổ mà người ta chú ý đến GM Inhaxiô, nhưng vì niềm tin và tình yêu tuyệt đối ngài dành cho Thiên Chúa. Chính vì niềm tin và tình yêu ấy thì dù ngài có chết thì Thiên Chúa cũng cho ngài sống lại trong vinh phúc.

Xin Chúa cho chúng ta biết noi gương thánh Ignatio, luôn đặt niềm tin kiên vững vào tình thương và quyền năng Chúa, để dù cho chúng ta có gặp gian nan thử thách, ngay cả phải hy sinh mạng sống mình, chúng ta vẫn an vui đón nhận bởi ta tin vào lời dạy của Chúa: "ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” 

 

* Suy niệm mùa thường niên: Lc 11, 37-41

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xác định lại tính sạch dơ phát xuất từ đâu? và đâu là nguồn dơ bẩn đáng sợ nhất trong đời sống?

Chúng ta đang sống trong một thế giới báo động đỏ về nạn ô nhiễm môi trường. Các nhà lãnh đạo tâm huyết của thế giới đã kêu gọi liên kết với nhau nhằm tìm ra những giải pháp làm giảm thiểu nạn ngây ô nhiễm môi sinh.

Năm 2015, ĐGH Phanxicô với thông điệp Laudato-si, ngài cho thấy tác hại ghê gớm của nạn ô nhiễm môi trường và tha thiết kêu gọi mọi người chung tay bảo vệ ngôi nhà chung, với mong muốn để lại cho thế hệ mai sau một di sản tốt lành, đó là bầu không khí trong sạch.

Tuy rằng những ô nhiễm bên ngoài tác động không nhỏ đến đời sống thể lý của con người cần phải thanh tẩy cho trong sạch, nhằm bảo vệ sức khỏe và tính mạng con người. Nhưng sự ô nhiễm bên trong mới nguy hiểm và là điều đáng lo ngại.

Chính ô nhiễm tâm hồn, ô nhiễm lối sống ích kỷ và tham lam vì lợi nhuận đã đánh mất đi những giá trị sống lành mạnh. Từ đó đẩy con người đến chỗ  hành xử thiếu văn hóa, dẫn đến tình trạng vức rác bừa bãi, xả thải nước bẩn độc hại công nghiệp và nông nghiệp ra môi trường cách vô tội vạ. Tình trạng thức ăn nhiễm bẩn được rao bán tràn lan…làm biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm ngập mặn và bệnh tật bùng phát khiến cho đời sống người dân trở nên điêu đứng khốn cùng!

Vì thế mà trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác nhận cho những người Biệt phái và Luật sĩ hiểu rằng: Những gì xuất phát từ bên trong mới gây nên những điều xấu xa và nguy hại. Nếu tâm trí lành mạnh sẽ dẫn đến hành động tốt đẹp, ngược lại tâm trí đầy u tối và toan tính xấu xa sẽ đưa đến những việc làm đen tối gây nguy hại cho con người và cuộc sống. Qua đó Chúa Giêsu như mời gọi chúng ta cũng hãy ý thức lo thanh tẩy tâm hồn hơn là chú tâm vào việc tẩy rửa bên ngoài chén đĩa. Chính khi con người biết nuôi dưỡng trong lòng những ý nghĩ tốt lành mới làm cho cuộc sống an toàn, đem lại hạnh phúc cho mọi người. 

Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết thanh tẩy tâm hồn khỏi những dơ bẩn của tính xấu và những vấn vương tội lỗi để chúng ta có những lời nói và hành vi tốt đẹp trong sáng chân thành dành cho Chúa và cho nhau trong đời sống.

 

Thứ tư: 2Tm 4, 10-17b; Lc 10, 1-9

KÍNH THÁNH LUCA, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG

Cùng với GH hôm nay chúng ta dâng thánh lễ mừng kính thánh Luca, tác giả sách Tin mừng. Chúng ta không biết rõ về quê quán và gia thế của ngài, chỉ biết ngài gia nhập kitô giáo ở Antiokia và qua đời bên Hy lạp. Ngài được thánh Phaolô nhắc đến như người bạn đồng hành trong bước đường loan báo Tin mừng. Ngài chính là tác giả của sách Tin mừng thứ ba và sách công vụ tông đồ.

Đọc những tác phẩm của thánh Luca ta nhận ra được thao thức lớn nhất của thánh nhân là làm chứng niềm vui Tin mừng của Chúa đến tận cùng trái đất theo lệnh truyền của Chúa Giêsu phục sinh.

Tạ ơn Chúa vì GH có được một vị thánh tài hoa và nhiệt tâm tông đồ. Tạ ơn Chúa đã chọn thánh Luca, sai đi rao giảng và viết sách Tin Mừng để làm cho mọi người nhận biết Chúa là người Cha giàu lòng thương xót.

Xin cho chúng ta biết siêng năng học hỏi TM của thánh Luca để chúng ta thêm hiểu biết và yêu mến Chúa, nhờ đó ta mới có thể loan báo niềm vui Tin mừng của Chúa cách tích cực và hiệu quả.

Công đồng Vatican II khẳng định rõ rằng: “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành là truyền giáo” (Ecclesia peregrinans natura sua missionaria est, Ad gentes 2). Sẽ không còn là Giáo Hội nữa nếu như Giáo Hội không truyền giáo. Chính Chúa Giê-su, trước khi về cùng Thiên Chúa Cha, đã trao lại sứ mạng truyền giáo cho Giáo Hội qua các tông đồ:“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng”(Mc 16,15). Nhưng không phải đợi đến khi về trời, Chúa mới trao sứ mạng này cho các Tông Đồ, mà ngay khi còn ở tại thế, Chúa đã sai phái không chỉ 12 tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng mà Người còn chỉ định thêm 72 môn đệ nữa.

Bài Tin Mừng hôm nay, tường thuật lại sự kiện Chúa Giê-su sai 72 môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng. Khi thi hành sứ vụ loan báo tin mừng, Chúa muốn các ngài phải đặt mối ưu tư truyền giáo lên hàng đầu, đừng quá bận tâm những chuyện vật chất khi truyền dạy: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép; cứ ăn những gì người ta dọn lên”

Trải qua mọi thời, ở mọi nơi, Hội Thánh không ngừng thực hiện sứ mạng cao cả này. Từ 12 Tông Đồ và 72 môn đệ, nay Hội Thánh Chúa đã phát triển và lan rộng đến mọi nơi trên thế giới. Hội Thánh cũng muốn con cái của mình cùng thao thức và hành động cho sứ mạng truyền giáo.

Phải chăng truyền giáo là công việc của hàng giáo sỹ và những nhà chuyên môn? Không phải như thế! Mỗi người tín hữu, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội đều được tham dự vào 3 chức vụ của Hội Thánh đó là: ngôn sứ, tư tế và vương giả. Với chức vụ ngôn sứ, mỗi người tín hữu có nhiệm vụ và bổn phận phải truyền giáo tùy theo bậc sống và khả năng của mình.

Mục đích truyền giáo là giới thiệu Chúa cho mọi người, giúp mọi người tin vào Chúa và đón nhận ơn cứu độ. Là một tín hữu bình thường, chúng ta phải có sự hiểu biết sâu xa về Chúa qua việc không ngừng trau dồi kiến thức giáo lý và học hỏi Phúc âm. Vì làm sao ta có thể giới thiệu một người cho người khác nếu ta không hiểu không biết người đó là ai?

Bên cạnh việc giới thiệu Chúa cho người khác, chúng ta còn phải làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày, đừng để đời sống của chúng ta phản chứng lại những gì chúng ta loan báo trên môi trên miệng. Vì ngày hôm nay người ta cần chứng nhân hơn thầy dạy, mặc dù thầy dạy cũng rất cần.

Vậy trước tiên chúng ta can đảm tuyên xưng mình là người tin theo Chúa, đừng vì những lợi ích vật chất mà ta chối bỏ niềm tin của mình.

Tiếp theo, chúng ta can đảm sống cho những giá trị Tin Mừng như: sự thật, công bằng, bác ái…mặc dù đôi lúc vì những giá trị này mà chúng ta phải chịu thiệt thòi, hiểu lầm.

Cuối cùng chúng ta phải thực hành niềm tin của chúng ta. Làm sao người ta có thể tin có Chúa khi thấy một người Công Giáo không thực hành niềm tin và lòng bác ái. Có ai đó đã thốt lên “Tôi tin có đạo Công Giáo nhưng tôi không tin người Công Giáo” thật là đau lòng!

Lạy Chúa, Chúa đã từng băn khoăn khắc khoải “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”, Chúa muốn mỗi người chúng con hãy là những tay thợ gặt lành nghề. Xin Chúa cho chúng con biết noi gương thánh Luca thao thức sứ mạng loan báo Tin mừng cho mọi người và mọi nơi. Xin cho chúng con biết cộng tác với Hội Thánh trong sứ mạng truyền giáo với hết khả năng và sức lực của mình theo gương thánh Luca mà hôm nay GH mừng kính.

 

* Suy niệm mùa thường niên: Lc 11, 42-46

Với những lời khiển trách của Chúa Giêsu dành cho những người Biệt phái và Tiến sĩ luật trong đoạn tin mừng hôm nay, giúp chúng ta nhận dạng ra những biểu hiện của lối sống giả hình:

- Tư lợi: Theo luật quy định thì: “Mỗi năm anh (em) phải trích một phần mười tất cả hoa lợi lấy từ những gì anh (em) gieo, những gì mọc lên ngoài đồng. Anh (em) sẽ dùng trước nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ở nơi Người chọn cho Danh Người ngự…để mọi ngày anh (em) học cho biết kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).” (Đnl 14, 22). Nhưng do quá tham lam tiền bạc nên giới Biệt phái và Luật sĩ đã đánh vào những loại thuế hơn những gì sách luật quy định như: “Bạc hà, vân hương và các thứ rau…”, từ đó làm mất đi ý nghĩa tôn giáo của bổn phận nộp thuế. Trong khi đó họ lại sao lãng “những điều quan trọng trong lề luật, là đức công bình, lòng yêu mến Thiên Chúa thì lại bỏ qua; lẽ ra phải làm những điều này và không được bỏ những điều kia.”

- Hám danh: Những người Biệt phái và Luật sĩ rất hám danh nên lúc nào cũng muốn đặt mình vào vị trí cao trọng nhất “ưa thích ngồi ghế nhất trong hội đường và ưa thích được chào hỏi ngoài phố chợ.” Nhưng họ có biết đâu rằng: danh dự không do tự mình đặt lên mà là do người khác nhìn nhận và đặt để cho mình lên mới xứng hợp.

- Chuộng hình thức: Vì muốn che đậy tâm địa xấu xa và thối nát bên trong nên những người Biệt phái và Luật sĩ cố tình tạo ra bên ngoài một lớp vỏ đạo đức bằng cách: “Họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài.” (Mt 23, 5). Nhưng những hành vi che đậy tinh vi ấy không thể nào qua được con mắt tinh tường của Chúa Giêsu. Vì thế, Ngài không ngần ngại dùng hình ảnh mồ mả để sánh ví lối sống chuộng hình thức của họ: “Khốn cho các ngươi, vì các ngươi giống những mồ mả không rõ rệt, người ta bước đi ở trên mà không hay biết.”

- Nói mà không làm: Lối sống này biểu hiện rất rõ nét nơi các Tiến sĩ luật. Theo truyền thống hội đường Do-thái thời Chúa Giêsu, các tiến sĩ luật đã đề ra đến 613 điều luật. 365 điều cấm làm và 248 điều phải làm. Giữa một rừng điều luật như thế thì ngay cả chính người thông luật còn bối rối huống chi là người dân. Nên có lần một người thông luật đã hỏi Đức Giêsu: “Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê ?” (Mt 22, 36). Chính vì quá nhiều luật lệ do các tiến sĩ luật đặt ra, vô hình chung đã trở nên gánh nặng chất chồng lên vai người dân. Trong khi đó, những tiến sĩ luật lại không hề thực hiện. Do đó, Chúa Giêsu đã không ngần ngại lên án họ rất nặng lời: “Hỡi những tiến sĩ luật, khốn cho các ngươi nữa, vì các ngươi chất lên người ta những gánh nặng không thể vác được, mà chính các ngươi dù một ngón tay cũng không động tới.”

Những lời quở trách của Chúa Giêsu dành cho những người Biệt phái và giới Luật sĩ khi xưa, âu cũng là lời nhắc nhở chúng ta hôm nay. Chúng ta hãy nghiêm túc xét mình, xem coi có những biểu hiện của lối sống giả hình như những người Biệt phái và Luật sĩ không? Nếu có, ta hãy khiêm tốn xin Chúa tha thứ mà can đảm chấn chỉnh lại đời sống sao cho phù hợp với ý muốn của Chúa.

 

Thứ năm: Lc 11, 47-54

Tin mừng hôm nay tiếp tục ghi lại những lời khiển trách nặng nề của Chúa Giêsu dành cho những người Biệt phái và các Tiến sĩ luật về 2 vấn đề:

1. Gían tiếp giết hại sứ giả của Chúa.

Họ đã cộng tác cách gián tiếp với cha ông họ mà giết hại các tiên tri. Nếu họ đã nhận ra được sự sai lầm của các tổ phụ vì đã giết hại các Tiên Tri từ xưa đến nay mà ra công xây lại mồ mả cho các tiên tri như là một sự bù đắp, thì giờ đây đáng lý họ phải cương quyết không đi theo vết xe đổ ấy của cha ông họ lại mới phải. Đàng này họ tiếp tục chống đối và khướt từ lời dạy của Đức Giêsu, một vị ngôn sứ tối cao đến từ Thiên Chúa.

2. Bẻ cong luật Chúa.

Những Tiến sĩ luật là những người thông thạo về thánh kinh và luật lệ. Họ có nhiệm vụ giải thích cho dân chúng hiểu biết và tuân giữ đúng luật Chúa. Ấy thế mà họ cố tình bẻ cong luật Chúa và sống không đúng tinh thần luật dạy. 

Vì lợi ích cá nhân và phe nhóm, họ đã tùy tiện đưa ra nhiều khoản luật theo hướng có lợi cho mình, nhưng lại trở nên gánh nặng chồng chất trên vai dân chúng, khiến dân chúng hoang mang vì không thể phân biệt được đâu là điều chính, đâu là điều phụ. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã không ngần ngại khiển trách họ rất nặng lời: "Các ngươi cất giữ chìa khóa sự hiểu biết. Chính các ngươi không được vào, mà những người muốn vào, các ngươi đã ngăn cản họ lại."

Xấu hổ và khó chịu vì bị Chúa Giêsu vạch mặt và lên án nên họ đã tìm mọi cách để loại trừ cái gai Giêsu ra khỏi con mắt họ. Và để hãm hại Chúa Giêsu, họ đã bày ra nhiều phương cách: từ chỗ tăng bốc đến đe dọa, hạ uy tín...và tìm cách giăng bẫy để đưa Chúa Giêsu sa lưới rơi vào khung hình phạt nặng nhất để lên án tử.

Chính lòng ghen tỵ và óc tự mãn đã làm cho cặp mắt của những người Biệt phái và Luật sĩ bị mờ đi. Họ không còn khả năng nhận ra ánh sáng chân lý nữa. Ngày nay ngoài xã hội cũng như trong gia đình vẫn còn đó những bóng tối của kiêu căng, gian dối, tham lam, ích kỷ và hận thù...làm cho bầu khí gia đình trở nên ngột ngạt khó thở. 

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết can đảm dẹp hãm đi những mưu cầu lợi ích cá nhân để mưu cầu hạnh phúc cho tha nhân. Nhất là biết khiêm tốn mở lòng đón nhận lời chân lý của Chúa dạy, nhờ đó mà ánh sáng của niềm vui Tin mừng được lan tỏa đến mọi người và mọi nơi.

 

Thứ sáu: Lc 12, 1-7

* Suy niệm 1: Tin mừng hôm nay gồm 2 phần:

1. Phần thứ nhất: Chúa Giêsu lên án lối sống giả hình của nhóm Biệt Phái và lưu ý các môn đệ cũng như đám đông dân chúng hãy ý tứ giữ mình khỏi lây nhiễm thứ men giả hình ấy của Biệt Phái.

2. Phần thứ hai: Chúa mời gọi các môn đệ can đảm sống và làm chứng cho sự thật, đừng sợ! Chúa Giêsu đưa ra nhiều lý do để khuyến khích các môn đệ can đảm sống và làm chứng cho sự thật:

- Thứ nhất: “không có gì che đậy mà không bị tiết lộ ra, và không có gì dấu kín mà chẳng biết được.”.

- Thứ hai: Tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa: “Năm con chim sẻ không bán được hai đồng tiền sao? Thế mà không con nào bỏ bị quên trước mặt Thiên Chúa. Tóc trên đầu các con cũng được đếm cả rồi. Vậy các con đường sợ: các con còn trọng hơn nhiều con chim sẻ.”

- Thứ ba: Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài làm chủ sự sống chết của chúng ta. Do đó Người nhắc nhở chúng ta “đừng sợ chi những kẻ giết được thân xác, rồi sau đó không thể làm gì hơn được nữa”. Nhưng “hãy sợ Đấng, sau khi đã giết chết, còn có quyền ném vào địa ngục.”

Trong một xã hội có quá nhiều gian dối như ngày nay. Xin cho chúng ta biết can đảm dám sống sự thật về mình trước Chúa, người khác và lương tâm.

 

* Suy niệm 2: Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng cảnh cáo các môn đệ tránh xa men Biệt Phái. Bởi lẽ loại men này rất nguy hiểm và có sức mạnh lan tỏa rất ghê gớm nên cần đề phòng.

Vậy loại men ấy là men gì mà nguy hiểm thế, đến nỗi Chúa Giêsu phải cảnh tỉnh các môn đệ Ngài tránh xa?

Thưa đó là men độc hại, xấu xa. Men của Biệt Phái chính là men kiêu căng, tự mãn và giả hình. Loại men này có độc tố mạnh và sức lan tỏa rất nhanh. Trái lại có một thứ men lành tính, bổ dưỡng có khả năng chữa trị tâm hồn rất tốt. Loại men ấy đã được Chúa Giêsu nhắc đến qua dụ ngôn nấm men trộn trong ba đấu bột cho đến khi toàn bộ bột dậy men. Men ấy là men Tin mừng, men của tình yêu, men của hy sinh, bao dung và tha thứ…nhưng đáng tiếc loại men này lại ít ai thích sử dụng nên sức lan tỏa rất yếu và chậm chạp.

Ngày nay luôn có những loại men độc hại ngày đêm âm thầm thấp nhập và lan tỏa sâu rộng vào xã hội và lòng người. Nên lời cảnh báo của Chúa Giêsu năm xưa nay vẫn còn nguyên giá trị.

Men của ích kỷ, dối trá, dửng dưng, tham vọng, tự do, phóng túng…rất nguy hiểm. Những loại men đó gây ra bất an cho xã hội, đầu độc và chết tâm hồn bao người nên cần phải tránh xa.

Xin Chúa cho chúng ta biết loại trừ khỏi tâm hồn chúng ta những độc tố của những loại men nguy hại bằng cách tiếp nhận những loại men tốt, mang lại sức khỏe và sự sống tinh thần. Nhất là luôn can đảm khước từ những cám dỗ do hương vị ngọt ngào của men độc tố mời gọi, bằng cách gắn bó với Chúa qua đời sống cầu nguyện, bác ái và chay tịnh tâm hồn.

 

Thứ bảy: Lc 12, 8-12

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục khuyến khích các môn đệ hãy can đảm xưng nhận Chúa trước mặt người đời, cũng như trước mặt vua quan thế quyền với những lý do sau:

- Chúa Giêsu sẽ bênh vực họ trước mặt Thiên Chúa, nên người môn đệ mạnh dạn tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu. Còn ngược lại nếu chối bỏ Chúa Giêsu thì Người cũng sẽ chối bỏ họ trước mặt Chúa Cha. Nếu chối bỏ Chúa Giêsu cũng là chối bỏ sự thật và chân lý, bởi lẽ “Chúa Giêsu là đường là sự thật và là chân lý”. Mà chối bỏ chân lý là xúc phạm đến Thần Chân Lý là Chúa Thánh Thần. Đó là tội mà Chúa Giêsu khẳng định là sẽ không được tha.

Cuộc đời của Giuđa Ítcariốt và Phêrô đều giống nhau là đã chối bỏ Chúa Giêsu. Nhưng lại có kết quả khác nhau: ông Giuđa không biết ăn năn, không tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa nên đã đi tự tử. Còn thánh Phêrô đã được tha thứ, vì ông tin vào tình thương tha thứ của Chúa nên đã ăn năn hối cải. Như thế tội xúc phạm đến Chúa Thánh Thần là cố tình chối bỏ chân lý, sự thật mà không chân thành sám hối.

- Có Chúa Thánh Thần bảo vệ và hướng dẫn. Chúa Giêsu cho biết khi làm chứng cho Chúa chắc chắn sẽ gặp nhiều nguy hiểm bởi thế gian và sẽ bị bắt hại bởi vua quan, chính quyền. Nhưng Chúa Giêsu cũng bảo đảm với các môn đệ là có Chúa Thánh Thần luôn hiện diện ngay bên để nâng đỡ họ: “Các con chớ lo lắng phải thưa làm sao, hay phải nói thế nào: vì trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy các con phải nói thế nào.”

Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con để chúng con can đảm sống và làm chứng cho chân lý. Xin Chúa Thánh Thần giúp chúng con kiên vững niềm tin để không bao giờ chối bỏ Chúa trước những lời mời gọi thấp hèn của thế gian nhưng luôn mạnh dạn xưng nhận Chúa trước mặt người đời.

 

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXVIII THƯỜNG NIÊN

 

Thứ hai:  Lc 11, 29-32

Suy niệm 1: MÙ TỊT TRƯỚC DẤU CHỈ

“Họ sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna!”.

Một gia đình nọ, cả thảy 5 người, phải đi cấp cứu, khi con mèo của họ co thắt bụng dữ dội vì đã ăn một món nấm như họ. Họ phải súc ruột dù tất cả không có dấu hiệu bệnh. Về nhà, họ thấy con mèo khoẻ lại, nằm cạnh 5 chú mèo con. Không chỉ bác sĩ gia đình của họ, nhưng cả 5 người đều đã ‘mù tịt trước dấu chỉ’ chuyển dạ của cô mèo!

Kính thưa Anh Chị em,

Sự ‘mù tịt trước dấu chỉ’ của các bệnh nhân bất đắc dĩ dẫn đến một sai lầm buồn cười không đáng có. Vậy mà, trong cuộc sống, không ít lần, chúng ta cũng đã có những quyết định sai lạc, vì đã không đọc ra các dấu chỉ của Chúa!

Như những người Do Thái trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta đi tìm các phép lạ và dấu chỉ; nhưng Chúa Giêsu cho biết, “Họ sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna!”. Giôna đã trải qua ba ngày trong bụng cá ám chỉ việc Con Thiên Chúa chịu chết, chôn trong mồ và phục sinh vinh hiển sau ba ngày trong lòng đất.

Với chúng ta, cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu là dấu lại vĩ đại nhất, cũng là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin Kitô giáo. Chúng ta không cần và không nên tìm kiếm một điều gì khác ngoài dấu chỉ này. Mọi thắc mắc, mọi nan đề, băn khoăn và bối rối đều có thể được giải đáp và giải quyết nếu chúng ta chỉ đơn giản chiêm ngắm mầu nhiệm cứu chuộc cao cả này; nói cách khác, chiêm ngắm sự sống, sự chết và phục sinh của Chúa Kitô. Tìm kiếm một dấu chỉ khác ngoài dấu chỉ này sẽ là một sai lầm thực sự; và cách nào đó, chúng ta cho rằng, cái chết và sự phục sinh của Ngài là không đủ.

Khởi đầu thư Rôma hôm nay, Phaolô gọi các Kitô hữu là “Những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi làm dân thánh”, nhờ Chúa Kitô, Đấng đã “xuất thân từ dòng dõi Đavít… Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần”. Ngài là dấu chỉ lớn nhất, trọng tâm nhất cho đời sống đức tin của chúng ta. Rõ ràng, “Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ!” không chỉ cho những kẻ Ngài yêu nhưng còn cho tất cả nhân loại, đúng như Thánh Vịnh đáp ca tuyên xưng.

Anh Chị em,

“Họ sẽ không được thấy dấu lạ nào!”. Bao lần, chúng ta thấy mình phải vật lộn với những vấn nạn cuộc sống, vấn nạn khổ đau, sự chết và cả vấn nạn tội lỗi của mình hay của người khác. Vậy Chúa muốn chúng ta làm gì trước những thập giá này? Thập giá của chiến tranh, của di dân, của người nghèo; thập giá của những người thân yêu hay thập giá của chính mình; và nó còn là ‘thập giá sỉ diện nhức nhối của một đất nước!’. Nếu không hướng mắt nhìn lên Chúa Kitô, chúng ta sẽ mù tịt và không bao giờ tìm được câu trả lời. Phải chăng, Chúa muốn bạn và tôi mở mắt đức tin, bớt sống ích kỷ, bớt bám víu vào của cải, biết tựa nương vào Ngài hơn; đồng thời, làm một điều gì đó cụ thể cho những anh chị em kém may mắn chung quanh mình, ngay hôm nay.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, chớ gì mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa sẽ là thấu kính giúp con nhìn ra thế giới, nhận biết chính mình và nhất là thấy được sự quan phòng của Chúa!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 

Suy niệm 2: DẤU CHỈ ƠN CỨU ĐỘ

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Thiên Chúa đã làm muôn vàn điềm kỳ dấu lạ. Tuy nhiên dấu lạ quan trọng nhất là dấu chỉ ơn cứu độ. Chính vì thế Chúa Giê-su cho biết sẽ tái diễn dấu lạ Gio-na.

Dấu lạ Gio-na là tình thương của Chúa. Muốn cứu độ dân Ni-ni-vê. Nên sai Gio-na đến. Đó là dấu lạ của quyền năng. Cho Gio-na vào bụng cá ba ngày vẫn còn sống. Trên hết đó là dấu lạ của ơn cứu độ. Nhưng ơn cứu độ chỉ đến được với người có niềm tin. Dân Ni-ni-vê ngoại đạo nhưng lại tin vào Chúa và tin lời Gio-na. Ăn năn sám hối nên được ơn cứu độ.

Chúa Giê-su còn hơn Gio-na. Nếu Gio-na là người được Chúa sai đến. Thì Chúa Giê-su là Thiên Chúa đích thân đến. Nếu Gio-na miễn cưỡng đến rao giảng. Thì Chúa Giê-su yêu thương con người, tự nguyện đến tìm con người. Nếu Gio-na được Chúa cho vào bụng cá ba ngày không chết. Thì Chúa Giê-su tự mình sống lại sau khi chết thật. Đó là dấu lạ lớn lao của ơn cứu độ. Tiếc rằng người Do thái không tin. Vì thế họ sẽ bị phán xét nặng nề. “Trong cuộc Phán Xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Gio-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa”.

Thư Rô-ma cho thấy tình yêu thương của Thiên Chúa có từ muôn ngàn đời. Muốn cứu độ con người qua các sứ giả. Nhưng đến thời sau cùng Thiên Chúa ban chính Con Một. Cái chết và sự sống lại của Chúa Giê-su cho thấy quyền năng và tình yêu cứu độ của Chúa. Vì thế thánh Phao-lô nguyện suốt đời đem Tin Mừng cứu độ đến cho mọi người. Để tình yêu và quyền năng Thiên Chúa được rạng rỡ: “Nhờ Người chúng tôi nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ, làm cho hết thảy các dân ngoại vâng phục Tin Mừng hầu danh Người được rạng rỡ”(năm lẻ).

Chúa Giê-su ban ơn cứu độ. Để ta được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi. Để ta được tự do. Chúa mặc lấy thân nô lệ để ta được tự do. Chúa chịu chết cho ta được sống. Ta hãy biết trân trọng tự do. Vì nó được chuộc lại bằng giá rất đắt. Ta hãy biết trân trọng sự sống. Vì nó được chuộc lại bằng giá Máu Chúa. Đó là dấu lạ lớn lao. Đó là dấu chỉ vĩ đại. Dấu chỉ tình yêu. Dấu chỉ ơn cứu độ. “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta. Vậy, anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa” (năm chẵn).

 

Thứ ba: Lc 11, 37-41

Suy niệm 1: TRÓI BUỘC

“Thật là ngốc!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Thật khó để tưởng tượng Chúa Giêsu gọi ai đó là “ngốc”, nhưng thực sự là Ngài đã nói với người biệt phái trong Tin Mừng hôm nay như thế! Tại sao? Vì với người này, lề luật thay vì giải thoát, nó ‘trói buộc’ và trở nên một chiếc bẫy!

Một biệt phái mời Chúa Giêsu dùng bữa; và người này trách Ngài không rửa tay. Nhân cơ hội, Ngài cho biết, ông ấy đã hiểu sai lề luật. Lề luật giải thoát để con người thờ phượng đúng đắn; nhưng khi nó tự trở thành mục đích, tách rời khỏi Đấng mà lẽ ra nó phải hướng về, thì lề luật là chiếc bẫy. Giáo Hội có đủ lề luật khiến những Pharisêu khắt khe nhất cũng phải tự hào; nhưng nguy hiểm ở chỗ, bạn có thể rơi vào cạm bẫy.

Trước tiên, luật được giữ cách cứng nhắc đến nỗi con người không để trái tim và tâm trí mình được giáo dục và hình thành bởi nó: thờ phượng Thiên Chúa và yêu mến tha nhân! Vì thế, thay vì giải thoát, nó ‘trói buộc’. Thứ hai, một thái cực khác. Đó là dễ dãi với bản thân khi cho rằng, “Nếu trái tim đặt đúng chỗ, tôi không cần phải lo lắng về quy tắc này, quy tắc nọ!”. Với một thái độ lỏng lẻo, bạn và tôi cho phép mình coi nhẹ những lề luật mà thực sự, nó giúp giải thoát. “Tôi phải đi lễ Chúa Nhật; nhưng hôm nay là kỳ nghỉ! Chúa biết tôi là người tốt!”. Vậy mà, chính trong Thánh Lễ Chúa Nhật, bạn nhận được ân sủng cần thiết để trở thành “người tốt” đó!

Trong thư Rôma hôm nay, Phaolô mạnh mẽ tố cáo thái độ biệt phái này. Họ là “Những người lấy sự bất chính mà giam hãm chân lý”. Và xem ra, Phaolô còn quyết liệt hơn cả Chúa Giêsu, “Đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội. Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên rồ!”.

Thế kỷ 18, nước Pháp nổi tiếng với triết gia Jean-Jacques Rousseau. Ông hợm hĩnh tuyên bố, “Trước nhan Chúa, ai dám nói, ‘Tôi tốt hơn Rousseau!’”. Trước khi chết, ông tự hào, “Ôi hạnh phúc! Một người không có lý do gì để hối hận hay tự trách mình!”; “Tôi trả lại linh hồn trong sáng cho Chúa như khi nó xuất phát từ Ngài; hãy để nó hạnh phúc với Ngài!”. Trong các tác phẩm, ông chủ trương ngoại tình, tự tử. Hơn 20 năm sống phô trương, hầu hết những đứa con của ông sinh ra ngoài giá thú và lớn lên từ viện mồ côi. Ông được biết như một người đểnh đoảng, bội bạc, giả hình và báng bổ!

Anh Chị em,

“Thật là ngốc!”. Hẳn Chúa Giêsu sẽ nói với Jean-Jacques Rousseau và cũng có thể với bạn và tôi như thế. Hãy thử lắng nghe, đừng cảm thấy bị xúc phạm! Đó là những lời yêu thương nhất. Hãy cho phép mình hưởng lợi từ những lời quở trách này! Ngài muốn bạn và tôi làm sạch chiếc cốc tâm hồn. Hãy để những lời này tiết lộ những gì cần đổi thay. Có thể đó là lòng kiêu hãnh vốn đã làm chệch hướng các thực hành nội tâm và cách giữ luật Chúa; nên thay vì giải thoát, nó ‘trói buộc’. Nó có thể đã khiến chúng ta mù quáng hoặc quá dễ dãi trước những tội lỗi cần thú nhận. Đừng làm ngơ; hãy cởi mở, khiêm tốn đón nhận! Nhờ đó, bạn và tôi trở nên công chính và có thể cùng “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa” như tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, để con bớt hợm hĩnh và không bị ‘trói buộc’ bởi một điều gì, xin đừng để con ngốc!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 

Suy niệm 2: NGƯỜI CÔNG CHÍNH SỐNG BỞI ĐỨC TIN

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Người Biệt phái tuyệt đối tin vào Lề Luật. Lề Luật làm cho họ nên công chính. Đến nỗi Thiên Chúa chỉ có việc thưởng công khi họ chu toàn Lề Luật. Và họ chẳng cần nhờ gì đến Chúa. Đó là một sai lầm lớn lao. Sai lầm nối tiếp sai lầm. Giữ Lề Luật chỉ cần hình thức bề ngoài là đủ. Làm như Lề Luật là bùa chú. Cứ theo công thức là thành. Vì thế đạo của họ không có nội tâm. Bên trong của họ tội lỗi xấu xa. Lại còn tự kiêu tự mãn.

Chúa Giê-su vạch rõ sai lầm của họ. Thiên Chúa là chủ cuộc đời. Không có Chúa con người chẳng làm gì nên công trạng. Người ta chẳng thể tự mình nên công chính. Vì thế phải sống trong đức tin. Đức tin cho thấy ta chẳng là gì. Chúa là tất cả. Ta chẳng có gì. Chúa có tất cả. Nhưng Chúa vô hình. Nên ta phải tin tưởng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng chỉ xét thâm tâm. Vì thế phải thanh tẩy bên trong tâm hồn. Khỏi mọi gian ác. Khỏi mọi tự kiêu tự mãn. Để Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc đời. Để ta sống hoàn toàn nhờ Chúa. Chính Chúa làm ta nên công chính.

Nhận thức đúng đắn sẽ đưa ta đến đời sống đạo đúng đắn. Không còn dừng lại bên ngoài. Không thờ những thần tượng khả giác của người phàm. Thậm chí cả dưới hình dạng súc vật. “Thay vì Thiên Chúa vinh quang bất tử, họ đã thờ hình tượng người phàm là loài phải chết, hay hình tượng các loài chim chóc, thú vật, rắn rết”. Tin vào Tin Mừng vì “Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin…Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải”. Chỉ sống trong đức tin vào Thiên Chúa: “Vì người công chính nhờ đức tin sẽ được sống”(năm lẻ).

Sống trong đức tin, con người được giải thoát, được tự do. Không còn lệ thuộc vào những gì bên ngoài. Lề Luật. Dư luận. Chỉ sống cho Chúa. Sống trong đức tin vào Thiên Chúa. “Anh em mà tìm sự công chính trong Lề Luật, là anh em đoạn tuyệt với Đức Ki-tô và mất hết ân sủng. Còn chúng tôi thì nhờ Thần Khí và dựa vào đức tin mà vững lòng chờ đợi được nên công chính như chúng tôi hy vọng. Quả thật, trong đức Ki-tô Giê-su, cắt bì hay không cắt bì đều không có giá trị, chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái” (năm chẵn).

Sống đức tin thực sự. Sống nội tâm thực sự. Tôi chẳng còn bận tâm đến bên ngoài. Đến người ngoài. Chỉ thanh tẩy nội tâm. Để một mình Thiên Chúa chiếm ngự tâm hồn. Thế là đủ.

 

* NHỚ THÁNH I-NHA-XI-Ô, GIÁM MỤC AN-TI-Ô-KI-A, TỬ ĐẠO

Lc 11,37-41: SẠCH TỪ TRONG LÒNG

“Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người.” (Lc 11,41)

Hãy thực thi công bình và bác ái đối với tha nhân.

 Suy niệm: Tin Mừng hôm nay thuật lại việc một ông Pha-ri-sêu mời Chúa Giêsu đến nhà dùng bữa: ông ta rất ngạc nhiên vì Chúa Giêsu không rửa tay trước khi ăn.

Cứ sự thường đây cũng là điều dễ hiểu vì rửa tay là một thói quen tốt giúp an toàn vệ sinh, là bài học cơ bản được dạy ngay từ trường mẫu giáo. Tuy nhiên, đối với người Pha-ri-sêu thì rửa tay là việc hết sức quan trọng không thể thiếu trong luật Mô-sê: phải rửa tay theo đúng những nghi thức luật định để có thể tẩy xoá mọi dơ bẩn trong tâm hồn và nhờ đó người ta nên thanh sạch.

Chúa Giêsu xác định sự thanh sạch đích thực phải phát xuất từ tâm hồn, và để có sự thanh sạch đó, các nghi thức bên ngoài là không đủ, mà phải có sự hoán cải từ tận đáy lòng, phải từ bỏ những chuyện “cướp bóc, gian tà” bằng việc tẩy rửa những tư tưởng, ước muốn điều đó ngay từ trong lòng con người.

Mời Bạn: Trong lòng đầy những tư tưởng gian tà, tình cảm thù hận và toan tính xấu xa, thì tất nhiên sẽ nảy sinh những việc làm đen tối, xâm phạm đến chính mình cũng như tha nhân; trên hết chúng là những hành động xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Tiến trình cần thiết để thanh tẩy từ tâm hồn đó là “bố thí những gì ở bên trong” và chứa đầy tâm hồn bằng “lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa” (Lc 11,42).

Sống Lời Chúa: Làm việc gì hãy xét xem việc đó có “lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa” hay không.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con đừng chỉ quan tâm làm đẹp bề ngoài, mà cần lo làm thanh sạch linh hồn con trước mặt Chúa, bằng việc thực thi công bình và bác ái đối với tha nhân. Amen.

 

Thứ tư: 2Tm 4,10-17a; Lc 10,1-9

KÍNH THÁNH LUCA, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG

Suy niệm 1: MÚT CÙNG THẾ GIỚI

“Chúa Giêsu chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Thật đáng kinh ngạc, thánh Luca hôm nay Giáo Hội mừng kính tuy chỉ là một tân tòng, đã trở nên một nhà truyền giáo lớn, một sử gia và là tác giả của hơn một phần tư sách Tân Ước. Như một công cụ của Thiên Chúa, Luca mang thông điệp cứu độ của Ngài đến ‘mút cùng thế giới’, đã tác động và thay đổi cuộc sống bao người thuộc mọi giới, mọi thời.

Là một thầy thuốc ngoại giáo, Luca say mê Phaolô; tại Troa, Luca xin trở lại. Trong thư Timôthê hôm nay, Phaolô nhắc đến Luca như một đồ đệ trung tín, “Chỉ một mình Luca ở với cha”. Đồ đệ này đã cống hiến hai công trình nền tảng là Tin Mừng thứ ba và Công Vụ Tông Đồ, ‘nhật ký’ của Giáo Hội sơ khai. Không thể hiện một sự am tường về niềm tin và phong tục, Luca chỉ chú tâm vào những gì cần thiết cho anh em lương dân: một Thiên Chúa xót thương, chữa lành. Chỉ Luca đề cập con số ‘72’; các Tin Mừng khác chỉ nói ‘nhóm 12’. Dẫu nhiều người trong số này đã đến các lãnh thổ Do Thái, nhưng hẳn một số đã đến những lãnh địa không Do Thái; vì thế, ‘nhóm 72’ này là biểu tượng cho sự chuẩn bị mọi lương dân ở ‘mút cùng thế giới’ đón nhận Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài.

Chỉ với Luca, chúng ta nợ ngài về những kiến thức của mầu nhiệm Nhập Thể. Khoản nợ rõ ràng như kinh Magnificat, Benedictus và Nunc dimittis mà Giáo Hội hát mỗi ngày. Với biến cố Truyền Tin, cứ như thể Luca thấp thỏm sau khuê phòng của một Maria trẻ trung xinh đẹp, nơi sứ thần Gabriel báo cho biết, cô sẽ là Mẹ Chúa Cứu Thế; bối cảnh nền tảng của kinh Kính Mừng. Và cũng chỉ với Luca, chúng ta nợ ngài về những gì đã xảy ra ở Lễ Ngũ Tuần và các hoạt động của Chúa Thánh Thần trong buổi thai nghén của Hội Thánh.

Luca được khoa khảo cổ và các học giả thế giới đánh giá cao. Nhà khảo cổ Sir William Ramsay gọi “Luca là một nhà sử học hạng nhất với những tuyên bố thực tế đáng tin cậy... Luca đáng được xếp với những nhà sử học vĩ đại nhất!”; E. M. Blaiklock, “Luca, một sử gia xuất sắc, ngang hàng với các nhà văn vĩ đại của Hy Lạp!”; N. L. Geisler cho biết, “Luca kể tên 32 miền, 54 thành phố và 9 hòn đảo mà không một sai sót!”. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là, trong sự nghiệp cầm bút, Luca không viết với tư cách một sử gia mà là một nhà truyền giáo; công bố sứ điệp của Thiên Chúa và lòng thương xót của Ngài. Có truyền thống cho rằng, Luca còn là một hoạ sĩ; một tác phẩm nổi tiếng về Đức Maria được gán cho Luca. Vì thế, Luca được gọi là người bảo trợ các nghệ sĩ và các bác sĩ.

Anh Chị em,

“Chúa Giêsu chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác!”. Chúng ta là những “môn đệ khác” được sai đến với những người cùng chung đức tin và những người chưa tin. Thánh Vịnh đáp ca báo trước, “Con cái Chúa làm cho loài người nhận biết vinh quang cao cả nước Chúa”. Bạn và tôi hãy làm cho người khác nhận biết vinh quang Nước Chúa! Hãy đặc biệt cầu nguyện cho một ai đó, cho một số người nào đó. Đừng ngần ngại trở thành một nhà truyền giáo như Luca với những phương tiện tuyệt vời ‘sẵn trên tay’ ngày nay! Khi làm vậy, chúng ta vẫn có thể tạo ‘một sự khác biệt vĩnh viễn’ trong cuộc sống của một ai đó, một nhóm nào đó, ở một góc trời nào đó. Như vậy, với Luca, bạn và tôi sẽ tiếp tục ra đi loan Tin Mừng cứu độ, lòng thương xót của Thiên Chúa cho đến ‘mút cùng thế giới’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, chớ để con lơi lỏng trong việc chuyển trao Lời Chúa đến ‘mút cùng thế giới’. Lạy quan thầy của các nghệ sĩ, đừng quên truyền cảm hứng cho con!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 

Suy niệm 2: HÃY BÌNH AN VÀ NIỀM VUI ĐẾN CHO MỌI NGƯỜI.

Chúa Giêsu dạy chúng ta về cung cách của người được sai đi loan báo Nước Trời.

1/ Cung cách khiêm nhu, hiền lành “như con chiên ở giữa bầy sói”, một sự hiện diện khích lệ chứ không áp đặt niềm tin cho ai.

2/ Cung cách nghèo khó, không ỷ lại vào phương tiện con người và các động cơ trần thế.

3/ Cung cách của người được Thánh Thần sai đi mang bình an và niềm vui đến cho mọi người.

4/ Cung cách sứ giả phúc lành và an ủi, khử trừ những sự dữ, đau khổ thân xác cũng như tinh thần.

5/ Cung cách ưu tiên dành cho Thiên Chúa và sự hiển trị của Nước Chúa. Nước Trời đã gần kề và đang tới rất nhanh. Việc loan báo Nước Trời quá khẩn cấp và quá quan trọng, không được phí thời giờ vào những việc vô bổ!

Mời Bạn: Mời bạn đọc cẩn thận và suy gẫm kỹ những lời tuyệt diệu trên đây của Đức Giêsu và dưới ánh sáng của Lời Chúa, hãy kiểm điểm lại cung cách đời sống chứng tá của mình!

Chia sẻ: Cụ thể bạn làm gì để đạt được một trong những cung cách trên?

Sống Lời Chúa: Bạn hãy chọn một cung cách mà bạn tâm đắc nhất và áp dụng vào cuộc sống tông đồ của bạn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin thương huấn luyện và biến đổi con làm môn đệ của Chúa với cung cách sống như lòng Chúa mong ước.

 

* SUY NIỆM MÙA THƯỜNG NIÊN: Lc 11, 42-46

ĐẠO THẬT

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Đạo Do thái rất chặt chẽ. Tầng lớp lãnh đạo gồm các thượng tế, các thày Lê-vi, các kinh sư, luật sĩ. Lại thêm nhóm Pha-ri-sêu rất nghiêm ngặt. Tất cả luôn bảo vệ Lề Luật. Học hỏi Lề Luật. Cắt nghĩa Lề Luật. Làm cho đạo trở thành một hệ thống Lề Luật vững vàng. Nhưng hôm nay Chúa Giê-su cho thấy đó không phải là đạo của Chúa. Nhưng là đạo của con người. Không phải đạo vì con người. Nhưng là đạo vì bản thân. Thật đáng sợ khi chỉ lo giữ bề ngoài mà không giữ bề trong. Chỉ giữ những điều phụ mà lại quên điều chính. Chỉ giữ những điều nhỏ mà lại quên điều lớn. Chỉ buộc người khác tuân giữ còn mình thì không. Nó biến đạo thành giả dối, lừa đảo và biến chất.

Đạo thật phải là đạo của Chúa. Đạo của Chúa thì phải giữ “lẽ công bằng và lòng yêu mến Thiên Chúa”. Và nhất là phải có lòng thương xót. Đừng “chất lên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào”.

Tầng lớp lãnh đạo Do thái sai lầm vì họ tự cho mình thay Chúa. Ở trên Lề Luật. Có quyền phán đoán xét xử người khác. Thư Rô-ma dạy ta biết ta không có quyền xét đoán tha nhân. Chính ta bị Thiên Chúa xét xử. “Dù bạn là ai đi nữa mà bạn xét đoán thì bạn cũng không thể tự bào chữa được”. Đạo vì Chúa và vì tha nhân chứ không phải vì bản thân sẽ nhắc ta biết mình tội lỗi bất toàn. Đừng xét đoán người. Hãy biết xét mình. “Vì khi bạn xét đoán người khác, mà bạn cũng làm như họ, thì bạn tự kết án chính mình”. Bản thân ta cũng tội lỗi bất toàn. Vì thế hãy biết “Thiên Chúa nhân hậu như thế là để thúc giục bạn hối cải” (năm lẻ).

Kẻ tự cho mình thay quyền Chúa để tìm quyền lợi cho bản thân, chèn ép anh em, là kẻ sống theo xác thịt. Thư Ga-lát dạy ta đừng sống theo xác thịt. Vì “những kẻ làm điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa”. Vì đó là đạo giả. Đạo thật phải sống theo Thần Khí. Sống theo Thần Khí là quên mình. Mến Chúa. Yêu người. Sống như thế là “thuộc về Đức Ki-tô Giê-su, đóng đinh tính xác thịt vào thâp giá cùng với các dục vọng đam mê”. Sẽ gặt hái được “hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (năm chẵn). Đó mới là đạo thật.

 

Thứ năm: Lc 11, 47-54

Suy niệm 1: LỊCH SỬ NÓI

“Họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng!”.

“Chưa bao giờ có một gương sáng đạo đức nào đáng kể nơi một người không tin Chúa; bởi lẽ, lỗ hổng trong tim họ không được lấp đầy bằng chính Ngài!” - Will & Ariel Durant.

Kính thưa Anh Chị em,

Nhận xét của Will & Ariel Durant thật sâu sắc! Lời Chúa hôm nay đề cập lịch sử của một Israel không tin. Chúa Giêsu thẳng thừng nói với những kẻ chống đối Ngài, “Các người vừa chứng thực vừa tán thành việc làm của cha ông các người, vì họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng!”. Ngài đã để ‘lịch sử nói’ đến những lỗ hổng của một dân tộc!

Chúa Giêsu tóm tắt và kết luận lịch sử của Israel là một lịch sử chối từ Thiên Chúa, giết các tiên tri. Và nay, đến lượt con cháu các tiền nhân, những kẻ chống đối Ngài, họ đang làm điều tương tự. Họ đang đi trên vết xe đổ của cha ông. Đó là lịch sử của một dân tộc không chung thuỷ, lạm dụng và vô ơn. Thế nhưng, tình yêu luôn lớn hơn sự bội bạc; Thiên Chúa luôn lớn hơn dân Ngài!

Lịch sử Israel là tấm gương phản chiếu lịch sử cuộc đời mỗi người chúng ta, đó là một ‘lịch sử nói’ ra những thất bại, bất trung của bạn và tôi như họ; và đáng khích lệ hơn, chúng ta được thôi thúc, cảm hứng để quay về với Thiên Chúa bằng việc thống hối ăn năn. Tuy nhiên, nếu không thừa nhận yếu đuối và thất bại của mình, chúng ta khác nào những người Pharisêu và luật sĩ, những kẻ sẽ chuốc lấy nợ máu vì sự cứng lòng!

Một thiếu nữ lững thững đi vào thánh đường, ngồi trong góc tối, chẳng để cầu nguyện, chẳng để chờ ai. Một bà nội trợ đi vào, tay xách giỏ rau; bà quỳ gối vài phút, sau đó, ra về. Cô gái sững sờ, cô đang đấu tranh với niềm tin. Và ngần ấy đủ cho cô! Bà ấy đã cho cô thấy niềm tin Công Giáo có cơ sở như thế nào trong đời sống. Cô đứng dậy, hớn hở ra về. Chúa quan phòng đã đổ ân sủng Ngài xuống để cứu linh hồn cô, một linh hồn đang nổi loạn. Chỉ một gương sáng của bà nội trợ, cô ấy đã là một vị thánh của nước Đức, một triết gia, một nhà thơ, một văn sĩ, một vị thánh bảo trợ Âu châu được Gioan Phaolô II tôn phong ngày 11/10/1998. Đó là chị Thérèse Bénédicte Edith Stein dòng Carmel.

Qua thư Rôma hôm nay, Phaolô nói đến lịch sử một nhân loại bất chính, nhưng đó cũng là lịch sử của xót thương, “Mọi người đã phạm tội, bị tước mất vinh quang Thiên Chúa!”; nhưng “Họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa… trong Đức Kitô”. Thánh Vịnh đáp ca thật ý tứ, “Chúa luôn luôn từ ái một niềm, ơn cứu độ nơi Người chan chứa!”.

Anh Chị em,

Lịch sử của Israel, một lịch sử được xót thương! Cũng thế, lịch sử của Edith Stein! Đó là một thiếu nữ mà trước đó, tâm hồn cô là một lỗ hổng. Và chỉ cần một gương sáng nhỏ của một người đầy Chúa, linh hồn cô đã được cứu, được biến đổi và cô đã trở thành một vị thánh. Blaise Pascal thật chí lý, “Bên trong mỗi người luôn tồn tại một lỗ hổng hình Chúa!”. Hãy để Chúa lấp đầy! Bạn và tôi với những mốc lịch sử riêng của mình, ngày thành hôn, ngày tuyên khấn, ngày chịu chức… chắc chắn có những khoảnh khắc lịch sử xót thương của mình! Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy nghe ‘lịch sử nói’ và đáp trả bằng một niềm tạ ơn liên lỉ, kèm theo một lòng thống hối để trở về với Chúa, Đấng xót thương!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, chớ gì lịch sử đời con, một lịch sử được xót thương, cũng là lịch sử của hoán cải và là một lịch sử thánh của ‘một người sắp nên thánh!’. Tại sao không?”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 

Suy niệm 2: VỊ TIÊN TRI CUỐI CÙNG

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Tiên tri, một nhiệm vụ không dễ. Vì người ta không muốn nghe sự thật. Nhất là khi sự thật đó làm tổn hại đến quyền lợi, danh vọng. Và để chứng tỏ mình có lý, người ta giết các tiên tri. Hê-rô-đê giết Gio-an Tẩy giả là một bằng chứng. A-ben bị giết ám muội giữa đồng đã đành. Nhưng Da-ca-ri-a bị giết giữa thanh thiên bạch nhật. Giữa đền thờ. Tại bàn thờ. Người ta đã giết vị triên tri để chiếm đoạt sự thật. Thậm chí còn nhân danh Thiên Chúa và đạo giáo.

Sự kiên nhẫn của Thiên Chúa thật vô biên. Người nhịn nhục tất cả. Tha thứ tất cả. Đến nỗi sai Con Một xuống trần. Đó là thời điểm quyết định. Đã đến thời cuối cùng. Vị tiên tri cuối cùng xuất hiện. Đó là cơ hội cuối cùng cho con người. Hoặc chọn sự sống. Hoặc chọn sự chết. Ván bài cuối cùng. Được ăn cả. Ngã về không. Chốt lại một vấn đề: tin hay không tin Chúa Giê-su Ki-tô.

Khi gửi Con Một xuống trần, Thiên Chúa làm mới lại tất cả. Thư Rô-ma cho biết: Vì Chúa Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa tha thứ tất cả tội lỗi xưa kia con người đã phạm. Vì Chúa Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa bãi bỏ tất cả Lề Luật. Chỉ cần một điều: Tin vào Chúa Giê-su Ki-tô: “Thưa anh em, ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Mô-sê. Điều này, sách Luật và các Ngôn Sứ làm chứng. Quả thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô” (năm lẻ).

Thư Ê-phê-sô còn đi sâu xa hơn nữa. Cho biết Chúa Giê-su chính là trung gian duy nhất. Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Nhờ Người mà muôn vàn ơn phúc được ban cho ta. Nhờ Người ta được trở nên nghĩa tử. Nhờ Người ta được thứ tha tội lỗi. Đó chính là bí mật của kế hoạch Thiên Chúa. Là kế hoạch yêu thương. Sẽ đến thời cuối cùng. Thời viên mãn. Mọi sự được quy tụ trong Chúa Ki-tô: “Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu; thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô”(năm chẵn).

Đây là thời điểm cuối cùng. Đây là cơ hội cuối cùng. Nhưng cũng là cơ may cuối cùng. Ta sẽ được tất cả. Được tha thứ tất cả. Được ơn lành tất cả. Chỉ cần tin vào Chúa Giê-su Ki-tô. Vị tiên tri cuối cùng. Nhưng hãy cẩn thận. Mất lần này là mất tất cả. Không còn cơ hội nào nữa.

 

Thứ sáu: Lc 12, 1-7

Suy niệm 1: TỰ TIN NHẤT ĐỊNH

“Đừng sợ, các con còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ!”.

Ngoại trừ một vài loài như chim gõ kiến, quạ Corvids và chim giẻ cùi, hầu hết các loài chim không bao giờ tích trữ thức ăn. Ngay cả kền kền, chúng không tha thịt rữa về cho chim non mà ựa ra từ diều để nuôi con. John Underhill nhận xét, “Chúng ta thường tích trữ những gì Chúa ban cho hôm nay vì không tin cậy Ngài sẽ chu cấp những gì chúng ta cần vào ngày mai!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Nhận xét của John Underhill thật sâu sắc! Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay tiết lộ, không ai và không có gì thoát khỏi sự chú ý của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa quan tâm đến từng con chim sẻ thì Ngài còn quan tâm đến chúng ta biết bao! Điều đó sẽ mang lại cho bạn và tôi một cảm giác bình yên và ‘tự tin nhất định!’.

Tất nhiên, một lý do khiến điều này vẫn khó tin là nhiều lúc, chúng ta cảm thấy như Thiên Chúa khá xa cách và thờ ơ với cuộc sống của tôi. Điều quan trọng cần nhớ là bất cứ khi nào bạn có cảm giác này thì đó chỉ là cảm giác chứ không phải thực tế! Thực tế là Chúa luôn chú ý đến từng chi tiết trong cuộc sống chúng ta hơn những gì chúng ta có thể nhận ra. Ngài quan tâm đến chúng ta nhiều hơn là chúng ta quan tâm đến chính mình! Không chỉ chú ý đến từng chi tiết, Ngài quan tâm ‘sâu sắc đến từng chi tiết!’.

Vậy tại sao đôi khi bạn có cảm giác như Chúa ở xa? Có thể có nhiều lý do, nhưng chắc chắn rằng, luôn có lý do! Có lẽ bạn đã không lắng nghe Ngài hoặc không cầu nguyện đủ; hoặc có lẽ Ngài đã chọn im lặng như một cách để kéo bạn đến gần Ngài hơn. Sự im lặng của Ngài có thể là một dấu hiệu rất rõ ràng về sự hiện diện và ý muốn của Ngài.

Chúa Giêsu thậm chí còn nói đến việc tóc trên đầu chúng ta đã được đếm. Nghĩa là ‘mọi phần’ trong cuộc sống của bạn và tôi đều hiện diện trọn vẹn trước Ngài. Hãy để những sự thật này mang đến cho chúng ta niềm an ủi và hy vọng cũng như sự ‘tự tin nhất định’ khi biết rằng, Thiên Chúa luôn chăm bẵm này cũng là Thiên Chúa của tình yêu và lòng thương xót hoàn hảo, Đấng sẽ cung cấp tất cả những gì bạn và tôi cần.

Thư Rôma hôm nay nói đến niềm tin của Abraham vào Chúa, Đấng ông tựa nương. Nhờ đó, ông được kể là công chính. Thánh Vịnh đáp ca có chung một tâm tình, “Chúa là nơi con ẩn náu, khắp bốn bề trổi vang những khúc ca mừng con được giải thoát!”.

Anh Chị em,

“Các con còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ!”. Thật vậy sao? Vì có những lúc bạn và tôi bi quan với những thất vọng và va chạm có thể khiến chúng ta cảm thấy tồi tệ về bản thân và rồi, bắt đầu đặt câu hỏi về giá trị của mình. Chúa Giêsu quả quyết, bạn và tôi quý giá vô ngần trước Thiên Chúa. Những lúc ấy, hãy lùi lại và nhớ đến phẩm giá của mình! Hãy nhủ lòng, một con chim sẻ mà Chúa không quên, phương chi mỗi người chúng ta. Hãy nhớ đến những người yêu quý đối với chúng ta, chúng ta đâu ‘cần cố gắng’ để nhớ họ. Chúa nhớ đến mỗi chúng ta, chúng ta là ‘con ngươi’ mắt Ngài. Và điều này, dĩ nhiên, sẽ tạo nên một sự ‘tự tin nhất định’ nơi con trai con gái của Chúa!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con thua cả loài kền kền, khi chỉ lo tích trữ và tha về những gì ‘thối rữa!’. Chúa biết con hơn con biết con, chú tâm ‘sâu sắc đến từng chi tiết’ đời con!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 

Suy niệm 2: SỐNG CÔNG CHÍNH

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Sống đạo là sống mối tương quan với Thiên Chúa. Mối tương quan này được người đời kính trọng. Vì thế sống đạo dễ biến chất. Trở thành phương tiện gây uy tín. Trục lợi. Thành giả hình. Sống hình thức trước mặt người đời. Quên mất điều cốt lõi là sống trước mặt Thiên Chúa.

Người Pha-ri-sêu sống kiểu này. Chính vì thế Chúa Giê-su khuyên dạy các tông đồ: “Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả”. Phải tránh xa. Vì giả dối trước sau gì cũng bại lộ trước mặt người đời. Nhưng còn hơn thế nữa. Giả dối không che được mắt Chúa. Chúa thấu biết mọi sự. Vì thế phải luôn sống ngay thẳng. Sống công chính.

Sống công chính có thể bị thiệt thòi trước mặt người đời. Không được lợi lộc gì. Có khi còn bị bắt bớ, hành hạ, và bị giết chết nữa. Giả hình là hèn nhát. Sợ người đời. Công chính là không sợ người đời. Chỉ sợ Thiên Chúa. Sống đúng mối tương quan với Thiên Chúa. Người giả hình chỉ được đời này mà mất đời sau. Người công chính có thể mất đời này. Nhưng được đời sau. Nhưng trên hết người công chính được Thiên Chúa yêu thương. Luôn quan phòng chăm sóc. Được tình yêu của Thiên Chúa. Được chính Thiên Chúa. Đó là hạnh phúc. “Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa…Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”.

Tổ phụ Áp-ra-ham được kể là công chính. Vì ngài từ bỏ hết những lợi lộc đời này. Chỉ tin vào lời hứa. Nên đi theo Chúa. Làm theo những gì Chúa chỉ dạy. Kể cả từ bỏ đứa con một yêu quí. Thực ra chẳng ai tự mình nên công chính. Chỉ Thiên Chúa mới làm cho ta nên công chính. Nên “lòng tin làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính”. Và người công chính sống bằng đức tin(năm lẻ).

Để giúp ta dễ dàng sống công chính, Thiên Chúa đã gửi Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Người xuống thế. Ai tin vào Chúa Giê-su sẽ nên công chính. Vì “trong Chúa Ki-tô, Thiên Chúa đã chọn chúng ta… Trong Chúa Ki-tô, cả anh em nữa, anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Chúa Ki-tô một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần…là bảo chững phần gia nghiệp của chúng ta” (năm chẵn).

Tạ ơn Chúa. Chúng ta vốn tội lỗi. Nhưng Chúa làm cho ta nên công chính. Tha tội lỗi chúng ta. Hãy vững tin vào Chúa. Ta sẽ được cứu chuộc.

 

Thứ bảy:  Lc 12, 8-12

Suy niệm 2: THIÊN CHÚA VÀ THIÊN HẠ

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Chúa Giê-su đặt Thiên Chúa đối diện với thiên hạ để cho ta phải dứt khoát chọn lựa. Thiên Chúa là chủ cả trời đất. Thiên hạ chỉ là người dưới gầm trời. Thế mà chọn lựa này vẫn khiến ta sợ hãi. Sợ hãi vì tuyên xưng Chúa trước mặt thiên hạ sẽ bị thiệt thòi. Thiệt thòi lớn nhất là mất mạng như các thánh tử đạo đã chịu. Thiệt thòi nhỏ hơn là bị mất chức quyền. Thiệt thòi tối thiểu là bị mất mối lợi trước mắt, mất ưu thế với người đời, mất tiền của… Thì ra khi gắn bó với trần gian ta đâm sợ thiên hạ. Ta sợ vì có gì để mất. Khi không có gì để mất ở trần gian, ta không còn gì phải sợ. Đó chính là thái độ của Áp-ra-ham. Đó chính là thái độ của người sống theo Chúa Thánh Thần.

Áp-ra-ham đã từ bỏ tất cả. Từ bỏ quê hương, gia tộc. Từ bỏ của cải đất đai. Thậm chí từ bỏ cả đứa con trai duy nhất, niềm hi vọng cuối cùng của tuổi già. Ông chỉ chọn Chúa. Ông chỉ đi theo ơn Chúa Thánh Thần. Ông chỉ sống, suy nghĩ, nói năng và hành động theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. “Không phải chiếu theo Lề Luật, mà Thiên Chúa đã hứa cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông được thế gian làm gia nghiệp; nhưng ông được lời hứa đó, vì đã trở nên công chính nhờ lòng tin” (năm lẻ).

Khi chọn Chúa chứ không chọn trần gian, ta hiên ngang ra trước cường quyền tuyên xưng Danh Chúa. Vì khi không còn bám víu gì vào trần gian, Chúa Thánh Thần sẽ làm việc. Tâm hồn con người giống như chiếc thuyền buồm. Khi trút bỏ mọi đam mê dục vọng, mọi ràng buộc gắn bó, thuyền sẽ nhẹ tênh. Khi không nhìn về trần gian, buồm sẽ căng gió Thánh Thần để đi đúng hướng Thiên Chúa. Và hoa trái của Thánh Thần thật lớn lao. Lớn lao nhất là được chính Chúa Giê-su tuyên dương trước mặt Chúa Cha và các thần thánh trên trời.

Vì thế thánh Phao-lô hằng cầu nguyện cho tín hữu Ê-phê-sô được “thần khí khôn ngoan” soi lòng mở trí, để nhận định rõ “đâu là niềm hi vọng, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao” để biết luôn chọn Chúa Ki-tô. Từ bỏ trần gian để chọn Chúa Ki-tô ta sẽ được tất cả. Vì “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Ki-tô” (năm chẵn).

Lạy Chúa, xin cho con đừng bao giờ chọn trần gian chóng qua, đừng bị những khuynh hướng thế tục chi phối, để tâm hồn con tự do theo ơn Chúa Thánh Thần. Như thế con sẽ hiên ngang trước mặt người đời để tuyên xưng Chúa bằng đời sống từ bỏ của con.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XIV THƯỜNG NIÊN Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN B Ed 2,2-5; 2Cr 12,7-10; Mc 6,1-6 Suy niệm 1: ...