Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 11 tháng 1, 2024

 SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN II THƯỜNG NIÊN

Lm. Nguyệt Giang

CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN B

1Sm 3, 3b-10.19; 1Cr 6,13c-15a.17-20; Ga 1, 35-42

Suy niệm 1: SỨ VỤ LÀM CHỨNG NHÂN CHO CHÚA

Sách công vụ tông đồ cho biết, trước khi Chúa Giêsu về trời Ngài đã trao phó trách nhiệm làm chứng cho các tông đồ: “Các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất" (Cvtđ 1,8). Sau khi lãnh nhận CTT các ngài đã hăng say thi hành sứ mạng ấy cách tuyệt vời.

Khi lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta cũng được mời gọi thi hành sứ vụ làm chứng nhân cho Chúa trong vai trò trung gian để giới thiệu Chúa cho mọi người và mọi người cho Chúa. Đó cũng là sứ điệp lời Chúa hôm nay nhắc bảo chúng ta.

Xin Chúa ban lửa nhiệt quyết tông đồ nơi chúng ta để ta chu toàn thật tốt sứ vụ này trong đời sống của mình.

Điểm nhấn của phụng vụ lời Chúa hôm nay tập chú vào chủ đề “làm chứng nhân cho Chúa”.

- Bài đọc I, trích sách Samuel quyển thứ nhất nói đến vai trò làm chứng của thầy cả tư tế Hê-li. Để nhận biết được tiếng Chúa gọi, cậu bé Samuel đã phải cần đến vai trò hướng dẫn của thầy cả tư tế Hê-li. Nhờ đó mà người bạn trẻ Samuel biết được đó chính là tiếng gọi của Chúa và cậu đã mạnh dạng đáp trả lời kêu gọi ấy: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” (1Sm 3,10).

- Bài Tin mừng cho ta biết, chính nhờ lời giới thiệu của thầy Gioan Tẩy Gỉa mà hai môn đệ của ngài là An-rê và Gioan mới nhận biết Đức Giêsu chính là “Chiên Thiên Chúa” và là “Đấng Messia”, Đấng đến từ Thiên Chúa và là Con Chiên Thiên Chúa đã được Cựu ước nói đến với sứ mạng là hiến mình chịu chết để đền tội thay cho nhân loại.

Tiếp nối sứ mạng làm chứng của Gioan Tẩy Gỉa, môn đệ An-rê cũng giới thiệu Chúa Giê-su cho anh mình là Si-mon, sau khi An-rê đến xem và ở lại ngày hôm đó với Chúa Giê-su. Rồi đến lượt Simon khi gặp gỡ Chúa Giêsu, ông đã được Chúa cảm hoá và trao ban sứ vụ làm chứng nhân cho Người, với tư cách đứng đầu GH ngang qua việc thay đổi tên ông từ Simon trở thành Kê-pha (theo Thánh Kinh việc đặt tên vừa nói lên quyền sở hữu vừa là cách thức trao ban sứ vụ mới của Chúa cho một ai đó).

- Bài đọc II, trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô tông đồ. Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín Corinto cũng như chúng ta về vai trò trung gian của thân xác. Ngài khẳng định thân xác của mỗi chúng ta chính là trung gian trực tiếp để kết hợp với Chúa Kitô. Thân xác ta còn là đền của Chúa Thánh Thần ngự trị.

Tóm lại, nhờ vai trò trung gian hay làm chứng nhân của thầy cả Hê-li mà cậu bé Samuel nhận biết được tiếng Chúa gọi; nhờ vai trò trung gian của Gioan Tẩy Gỉa mà hai môn đệ của ông đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Messisa và là Chiên Thiên Chúa; nhờ vai trò trung gian của An-rê mà Simon Phê-rô tin nhận Đức Giêsu là Đấng Messia; đến nỗi thân xác hay hư nát của chúng ta cũng được Chúa dùng làm trung gian để Chúa Thánh Thần ngự trị và trở nên phần thân thể quan trọng trong nhiệm thể Chúa Kitô.

Chúng ta được Chúa mời gọi thực hiện sứ mạng này khi lãnh nhận bí tích rửa tội, nhất là được củng cố cách vững mạnh qua bí tích thêm sức. Vậy chúng ta hãy ý thức thi hành tích cực sứ vụ làm trung gian hay làm chứng nhân cho Chúa trong đời sống hằng ngày của mình. Nhưng để thi hành sứ vụ này có hiệu quả:

- Trước hết chúng ta cần phải hiểu biết, yêu mến và gắn bó với Chúa qua việc tìm hiểu Thánh Kinh, chuyên chăm học hỏi giáo lý và siêng năng cầu nguyện; nhất là luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu nơi bí tích thánh thể. Vì chúng ta không thể cho người khác những gì chúng ta không có.

- Thứ hai ta cần lưu ý khi làm chứng cho Chúa, ta không được áp đặt quyền tự do của người khác; cũng không nhằm lôi kéo người ta về phía mình, nhưng hãy ý thức mình chỉ là dụng cụ là trung gian đưa dẫn tha nhân tìm đến với Chúa, tựa như vai trò của thầy cả Hê-li, như Gioan Tẩy Giả, thánh Phao-lô và An-rê. Các ngài chỉ mời gọi, hướng dẫn người khác đến với Chúa, với ý thức tôn trọng quyền tự do của mọi người. Hy vọng sau khi tìm đến, gặp gỡ, chuyện trò trực tiếp với Chúa, mỗi cá nhân cảm nghiệm sâu sắc về Chúa và được Chúa biến đổi trở nên môn đệ của Người.

Xin Chúa Thánh Thần hằng ở lại trong ta mà nung nấu ngọn lửa nhiệt quyết tông đồ trong ta để ta hăng say thi hành tốt sứ vụ làm chứng nhân cho Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Amen.

 Suy niệm 2: VAI TRÒ TRUNG GIAN

Như chúng ta biết trong các hoạt động kinh doanh buôn bán cũng như dịch vụ trao đổi ngày nay hình như đều thông qua trung gian mà thiên hạ gọi là “cò”, mà hễ có cò thì không khỏi “chấm, mút”. Biết thế nhưng vai trò trung gian vẫn có một chỗ đứng và vai trò cần thiết không thể thiếu trong đời sống kinh tế, xã hội lẫn tâm linh.

Thật vậy, trong niềm tin Kitô giáo cho biết: Thiên Chúa ban ơn cho con người thường là qua các trung gian. Ngoài việc trực tiếp phú ban linh hồn cho mỗi chúng ta, thì Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống thể lý cùng những ơn lành khác đều thông qua các trung gian là: tổ tiên, ông bà, bố mẹ, thầy cô, các vị mục tử trong Hội thánh…Và ngược lại, để đến với Thiên Chúa thì cũng cần đến vai trò trung gian theo ý định của Thiên Chúa.

Bài đọc 1 hôm nay, nói đến hai lần Thiên Chúa gọi Samuel, thế mà Samuel vẫn không nhận biết. Để có thể nhận ra tiếng Chúa phán, trẻ Samuel đã phải cần đến sự chỉ dạy của tư tế Hêli (x.1Sm 3,3b-10).

Bài tin mừng hôm nay cũng cho biết, nhờ lời giới thiệu của thầy Gioan Tẩy Giả mà hai môn đệ mới tiếp cận được với Chúa Giêsu để rồi theo Người và ở lại với Người ngày hôm ấy.

Sau đó, Chúa đã dùng Anrê làm trung gian để đưa dẫn ông Simon Phêrô đến gặp Chúa Giêsu. Nhờ đó mà Hội Thánh chúng ta mới có được một vị Tông đồ nhiệt thành, vị Giáo hoàng tiên khởi (x.Ga 1,35-42).

Trong bài đọc 2, Thánh Tông đồ dân ngoại là Phao-lô cũng đã khẳng định rằng: thân xác chúng ta là một trung gian để chúng ta kết hợp nên một với Chúa Kitô. Và thân xác của chúng ta chính là Đền thờ, và là một trung gian để Chúa Thánh Thần ngự vào trong chúng ta (x. 1Cor 6,13-20).

Qua các sứ điệp của lời Chúa được gợi lên hôm nay, chúng ta có thể rút ra một vài điều quan trọng giúp chúng ta thực hiện tốt vai trò làm trung gian hay làm chứng nhân cho Chúa nhằm kết nối Thiên Chúa với con người.

1. Biết Chúa và biết người: Anrê đã trở thành một người trung gian đích thực giữa Simon, anh mình với Chúa Giêsu là nhờ ông vốn biết rõ anh mình. Chuyện anh em ruột biết rõ nhau là chuyện bình thường. Anh em như thể tay chân mà. Anrê còn là người biết Chúa Giêsu một cách nào đó, nhờ đã đến và ở lại với Chúa Giêsu ngày hôm ấy, sau khi được thầy mình là Gioan Tẩy giả giới thiệu.

Thật dễ nhìn nhận rằng để làm trung gian hiệu quả thì cần phải biết cả hai phía. Tuy nhiên cái biết ở đây không dừng lại sự nhận thức bằng lý trí mà còn với cả sự gắn bó bằng ý chí. Không mến phục Đức Giêsu hoặc không yêu thương anh mình thì Anrê chưa chắc đã tích cực thi hành vai trò trung gian của mình cách hiệu quả như thế.

2. Đựơc Chúa chọn gọi và trao phó trách nhiệm: Chúng ta nhận ra điều này qua vai trò của Gioan Tẩy Giả. Ngài là đấng được Thiên Chúa chọn gọi ngay từ trong dạ mẹ (x.bGr 1,4-5) Ngài được Chúa trao phó cho trách nhiệm làm tiếng hô trong hoang địa là dọn đường cho đấng Thiên sai ngự đến (x. Is 40,1-5).

Vấn đề đặt ra là làm sao nhận ra được tiếng Chúa chọn gọi. Dễ được mấy ai có diễm phúc được Chúa Giêsu chọn gọi cách trực tiếp như các tông đồ ngày xưa. Nhìn vào cuộc đời của Gioan Tẩy Gỉa, chúng ta có thể xác định rằng tiếng Chúa gọi chúng ta thường qua các biến cố cuộc sống (những hiện tượng lạ xảy ra với nhà ông Giacaria), qua việc dạy bảo của cha mẹ (việc ông Giacaria và bà Isave đặt tên cho con trẻ khác với truyền thống nói lên điều này), qua việc nghiền ngẫm Thánh Kinh (nếu thiếu yếu tố này thì Gioan sẽ khó nhận ra vai trò của mình qua lời tiên báo của Ngôn sứ Isaia ngày nào).

3. Được Hội Thánh chuẩn nhận: Điều này được thể hiện qua vai trò của vị Tư Tế Hê-li trong việc hướng dẫn trẻ Samuel nhận biết và lắng nghe tiếng Chúa phán.

Trong dòng lịch sử cứu độ cũng đã minh định rõ ràng. Trong thời Cựu Ước Thiên Chúa đã truyền lệnh cho Mô-sê cắt đặt Aaron làm Tư Tế và chọn chi tộc Lê-vi lo việc tế tự (x.Xh 4,13-16; 28,1-5).

Và đến thời Tân Ước, Chúa Giêsu đã minh nhiên thiết lập Hội Thánh trên nền tảng các Tông đồ. Chúa đã trao quyền giáo huấn và tháo cởi cho các ngài (x.Mt 16,13-19; Ga 20,19-23).

Đến với Thiên Chúa, gặp gỡ Thiên Chúa là một diễm phúc của nhân loại chúng ta. Thiên Chúa đã tạo các trung gian là để cho mọi người có thể đến với Người, gặp gỡ Người cách thuận lợi dễ dàng và hữu hiệu theo hoàn cảnh, khả năng và điều kiện của từng người. Chính vì thế các tác nhân trung gian mãi luôn cần thiết cho nhân loại chúng ta. Tuy nhiên các tác nhân trung gian ấy vẫn ở bên ngoài chúng ta. Có một tác nhân gần gũi, thiết thân nhất với mỗi người chúng ta đó là chính con người, thân xác chúng ta. Chúa Kitô đã tự hiến thân mình trong hình bánh rượu làm hiến tế trên bàn thờ. Con người, thân xác chúng ta là nơi Chúa muốn đến để nên một với chúng ta. Dù chẳng đáng Chúa ngự vào, nhưng với tâm hồn khiêm nhu, xin Chúa làm cho tâm hồn, thân xác chúng ta được lành mạnh thì chúng ta sẽ làm một với Chúa cách trọn vẹn. Và Nước Trời đang ở giữa chúng ta (x.Lc 17,21).

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa, Ban Mê Thuột

Suy niệm 3: THAM GIA VÀO ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI

Cùng với GH, Hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật thứ hai mùa thường niên. Nếu các mùa khác chỉ tưởng nhớ đến một phần cuộc đời Chúa Giêsu, thì mùa thường niên là mùa kính nhớ toàn bộ cuộc đời Chúa Giêsu ở thế gian này.

Người chính là Ðấng Cứu Thế mà Chúa Cha ban cho loài người. Nhưng Người lại không muốn thực hiện việc cứu rỗi nhân loại một mình mà Người lại muốn mời gọi mỗi người chúng ta cộng tác với Người. Đó là ý tưởng của các bài đọc Lời Chúa hôm nay nói đến.

Xin cho mỗi người chúng ta biết luôn trung thành với ơn gọi làm con Chúa và cố gắng chu toàn tốt sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa với mong muốn danh Chúa được cả sáng, nước Chúa được mở mang và ý Chúa được mọi người thực hiện.

Cùng với toàn thể Giáo hội hoàn vũ chúng ta đang được mời gọi hướng đến một lối sống hiệp hành: Hiệp thông-tham gia và sứ vụ. Năm rồi chúng ta đã tích cực thực hiện chủ đề “củng cố sự hiệp thông” bằng cách đặt Lời Chúa làm nền tảng đời sống; gắn bó mật thiết với Bí tích Thánh Thể suối nguồn của sự hiệp thông và thi hành tình bác ái kitô giáo với mọi người. Năm nay, Hội đồng Giám mục Việt Nam tiếp tục thúc đẩy chúng ta tích cực “tham gia vào đời sống Giáo Hội” trong các lãnh vực như: mục vụ, phụng vụ, đạo đức, văn hóa xã hội, môi trường và bác ái kitô giáo. Trong ý hướng đó, sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hai điều cần thiết phải có để sống tinh thần tham gia vào đời sống GH. Đó là phải biết tương trợ lẫn nhau và tích cực dấn thân bước đi trong đường lối của Chúa.

1. Phải biết tương trợ lẫn nhau

Trong xu hướng của xã hội ngày nay, khi đề cập đến tín ngưỡng và tôn giáo, người ta hay nhấn mạnh đến quyền tự do cá nhân. Họ xem đó là chuyện riêng tư của mỗi người. Tuy nhiên Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một cái nhìn khác.

Việc theo Chúa, đến với Chúa và tin nhận Chúa không phải là chuyện tự mình có thể khám phá, nhận biết được mà cần đến sự tương trợ lẫn nhau.

Bài tin mừng chúng ta vừa nghe cho thấy để 2 môn đệ của Gioan Tẩy Gỉa nhận biết Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa và là Đấng Messia thì cần phải có lời giới thiệu của thầy mình là Gioan Tẩy Gỉa. Cũng như chuyện ông Simon đến gặp gỡ Chúa Giêsu cũng cần đến lời giới thiệu của anh mình là ông Anrê, sau khi ông này đã gặp gỡ Chúa, đi theo Chúa và ở lại với Chúa, ông đã tin nhận Đức Giêsu chính là Đấng Messia, rồi khi trở về ông đã kể lại cho em mình biết và nhiệt tình dẫn đưa em mình đến gặp gỡ Chúa. Nhờ đó mà Simon được biết Chúa và được Chúa biến đổi thành Kê-pha nghĩa là đá tảng và là vị lãnh đạo Hội Thánh thay mặt Chúa ở trần gian sau này.

Cũng thế, trong bài đọc 1 cho biết cậu bé Samuen chỉ nhận ra tiếng Chúa gọi trong đêm sau khi cậu được sự hướng dẫn và khai sáng của thầy cả Êli. Điều này đặt ra nơi mỗi người chúng ta 2 câu hỏi lớn là: Khi tham gia vào đời sống Giáo Hội, tôi đã, đang và sẽ làm gì để nhận ra Chúa, nếu chúng ta không được sự tương trợ của ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo lý viên, quý tu sĩ nam nữ và các vị chủ chăn, nói chung là sự hướng dẫn của GH. Và câu hỏi thứ hai là ta phải làm gì để tương trợ người khác đến được với Chúa? Nếu chúng ta không dám dấn thân bước theo Chúa.

2. Vì vậy dấn thân bước đi theo Chúa là điều cần thiết thứ hai để ta tham gia vào đời sống Giáo hội.

Cậu bé Samuen đang ngủ giữa đêm khuya khi nghe tiếng Chúa gọi cậu đã nhiều lần vùng dậy, ra khỏi giường, chạy đến với thầy của mình là thầy cả Êli.

Hai môn đệ đang đứng với ông Gioan, sau khi được thầy mình giới thiệu về Đức Giêsu chính là “Chiên Thiên Chúa” hai ông đã nhanh chóng bỏ lại mọi sự để đi theo Chúa Giêsu đến tận nhà của Ngài và đã ở lại với Chúa ngày hôm đó. Điều này giúp chúng ta hiểu được rằng muốn tham gia vào đời sống Giáo hội đòi hỏi chúng ta phải hy sinh dấn thân tiến bước, nghĩa là phải chuyển đổi từ trạng thái tĩnh đang ngủ, đang đứng để bước sang một trạng thái động là thức dậy, bước đi, đến xem và ở lại với Chúa để được Chúa biến đổi.

Vậy để tham gia vào đời sống Giáo hội, đòi buộc chúng ta phải noi gương cậu bé Samuel, cũng như hai môn đệ của Gioan Tẩy Gỉa mà ra đi dấn thân bước theo Chúa, ở lại với Chúa, nhờ đó ta mới được Chúa hướng dẫn hầu chu toàn tốt sứ vụ làm chứng nhân cho Chúa giữa dòng đời.

Có thể nói Gioan Tẩy Giả đã thực hiện cách tuyệt hảo vai trò tương trợ và sự vụ dấn thân đời mình cho Chúa. Vậy ta hãy noi gương Thánh Gioan Tẩy Gỉa biết khiêm tốn sẵn sàng lui vào hậu trường để cho Chúa được lớn lên khi tham gia vào việc tương trợ mọi người, cũng như tích cực dấn thân vào sứ vụ làm chứng nhân cho Chúa, với mong muốn duy nhất là miễn sao danh Chúa được cả sáng, nước Chúa được hiển trị và ý Chúa được mọi người thực hiện trong toàn cỏi thiên hạ.  Amen. (St)

Thứ hai: Mc 2,18-22

Sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta thành tâm oán cải đời sống sao cho phù hợp với tinh thần mới của Tin mừng mà Chúa Giêsu mang đến.

Ba việc đạo đức mà người Do Thái rất quan tâm thực hành, đó là: cầu nguyện, ăn chay và bác ái. Nên khi thấy các môn đệ của Thầy Giêsu không giữ chay, trong khi đó môn đệ của Gioan, cũng như môn đệ của những người Pharisêu thì giữ luật ăn chay cách nghiêm ngặt. Điều này khiến cho một số người trong nhóm Pharisêu khó chịu, nên họ lên tiếng phàn nàn với Thầy Giêsu:“sao môn đệ ông lại không ăn chay?”.

Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu vừa giải thích cho những người Pharisêu biết lý do vì sao các môn đệ Chúa không ăn chay; đồng thời Chúa Giêsu cũng vừa mạc khải cho họ biết về bản thân và sứ mạng của Ngài.

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa tự ví Người là chàng rể và Israel là nàng dâu: "Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về, như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ." (Is 62,5)

Như thế khi đem trường hợp tiệc cưới ra để giải thích về việc ăn chay, Chúa Giêsu muốn cho họ biết rằng: Ngài là chàng rể và Israel là nàng dâu. Qua đó mặc nhiên tuyên bố Ngài chính là Thiên Chúa đã đến giữa lòng nhân loại.

Hơn nữa, mục đích chính của việc ăn chay bấy giờ là mong đợi Đấng Messia đến. Mà Chúa Giêsu chính là Đấng Messia (chàng rể) đã đến với loài người (nàng dâu) rồi, thì cớ gì phải ăn chay.

Việc ăn chay phải gắn liền với cuộc đời của Đức Giêsu. Do đó lúc Ngài vui thì con người phải chia vui với Ngài. Khi Ngài khổ thì con người cùng chung đau khổ. Lúc Ngài chết thì con người phải cùng chấp nhận chịu chết với Ngài. Khi Ngài sống lại thì con người cũng cùng sống lại với Ngài.

Tóm lại, Chúa Giêsu không hề phủ nhận việc ăn chay, nhưng qua lời giải đáp thắc mắc trên, Chúa Giêsu muốn cho biết: Ngài chính là chàng rể Chúa Cha sai đến kết hôn với loài người, yêu thương loài người và cứu độ loài người. Cũng như xác định rõ cho chúng ta biết việc ăn chay là để dọn lòng tiếp rước Chúa. Một khi đã tiếp nhận Chúa rồi thì không cần ăn chay nữa, trái lại phải vui mừng phấn khởi trong niềm tin yêu Chúa.

Xin cho chúng ta biết lo ăn chay hãm mình, để dọn lòng xứng đáng đón nhận Chúa qua bàn tiệc Thánh Thể mỗi ngày, nhờ đó mà được thông hiệp với Chúa nguồn hạnh phúc đời ta.

Thứ ba: Mc 2,23-28

Suy niệm 1: 

Tin mừng hôm nay tiếp tục trình thuật về cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với những người Biệt phái. Qua cuộc tranh luận này, Chúa Giêsu cho chúng ta biết rõ về ý nghĩa và mục đích thật sự của việc tuân giữ luật ngày Sabat như thế nào.

Xin cho mỗi người chúng ta có cái nhìn đúng đắn về việc tuân giữ luật ngày Chúa nhật cách riêng và luật lệ nói chung theo tinh thần như Chúa Giêsu mong muốn.

Lý do xảy ra cuộc tranh luận mà tin mừng hôm nay trình thuật là vì các môn đệ Chúa Giêsu bứt bông lúa ăn cho đỡ đói vào ngày Sabát.

Nguyên nhân chính của cuộc tranh luận này là vì bất đồng quan điểm.

- Với người Do Thái, ngày Sa-bát có đến 39 việc cấm làm như: kéo nước, săn thú, cưỡi lừa, gặt hái, đập lúa... Những người Pharisêu tuân giữ những quy định này trong ngày Sa-bát hết sức nghiêm ngặt. Ai vi phạm một những quy định này trong ngày Sa-bát có thể bị xử tử (x. Xh 31,14), bị ném đá đến chết (x. Ds 15,32-36).

Đối với họ bứt bông lúa để ăn trong ngày Sa-bát là một hành vi không thể chấp nhận được. Mặc dù theo sách Đệ Nhị Luật (23,26) thì hành động này được phép làm: “Khi vào đồng lúa của người đồng loại, anh em có thể lấy tay bứt bông lúa”. Nhưng vì đố kỵ, ghen ghét Chúa Giêsu nên họ cho rằng việc bứt vài bông lúa và vò trong tay để ăn cho đỡ đói cũng giống như hành vi gặt và xay lúa vậy.

- Còn Chúa Giêsu thì cho rằng: Thiên Chúa lập nên ngày Sa-bát để loài người có thời gian nghỉ ngơi hầu nhớ đến công trình tạo dựng và giải phóng của Ngài (Đnl 5,14-15). Ngày Sa-bát đúng là ngày của Chúa, dành cho Chúa, nhưng nó cũng là ngày để phục vụ nhu cầu lợi ích cho con người và vì con người: "Ngày Sa-bát được đặt ra vì con người".

Do đó, việc các môn đệ Chúa bứt lúa ăn cho đỡ đói trong ngày Sa-bát là một nhu cầu chính đáng vì nó phục vụ cho nhu cầu chính đáng cho con người. Chính vua Đa-vít và đoàn tùy tùng cũng đã vào đền thờ và đã lấy bánh dâng tiến để ăn khi bụng đói! Nhưng vì ghen ghét và hận thù đã làm cho những người Pharisêu trở nên mù quáng mà quên đi ý nghĩa và mục đích chính của việc giữ luật là vì lợi ích cho con người.

Để giúp cho những người Pharisêu có cái nhìn đúng đắn về ý nghĩa và mục đích của luật, Chúa Giêsu đã không ngần ngại đối đầu với họ đến cùng, dù có phải trả giá bằng cái chết trên Thập giá, tất cả nhằm để minh chứng rằng: chỉ có một lề luật duy nhất để tuân giữ, đó là luật yêu thương, và chỉ có một giá trị cao cả nhất để sống và chết cho, đó là tình yêu. Bởi sống "yêu thương là chu toàn lề luật." (Rm 13,10).

Xin Chúa loại trừ nơi chúng ta những đố kỵ, ghen ghét tầm thường để chúng ta có được cái nhìn trong sáng đúng đắn. Và xin Chúa cũng giúp chúng ta luôn biết sống nhân ái và bao dung với hết mọi người như  chính Chúa đã bao dung và yêu thương chúng ta. Amen.

Suy niệm 2: MUỐN TỐT ĐẸP THÌ PHẢI CÓ LUẬT PHÁP.

Chuyện cổ Đông Phương kể rằng: ngày xưa, có vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn kỳ diệu và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quí hiếm và gắn nhiều kim cương lóng lánh. Nó kỳ diệu ở chỗ: Nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó vừa vặn và chiếu sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy xiết rất mạnh, và ngón tay sẽ vô cùng đau đớn.

Tự nó, luật pháp khi phục vụ ích chung thì tốt đẹp. Nhưng trong thực tế luật đã bị lạm dụng vì nhiều mục đích, nhiều khi rất tầm thường.

Chính vì thế mà chúng ta thấy có một sự khác biệt rất lớn giữa cái nhìn của Chúa Giêsu và cái nhìn của những người luật sĩ và Pharisêu về vấn đề này. Cái nhìn của Chúa Giêsu thì khoan dung quảng đại, còn cái nhìn của những người luật sĩ và Pharisêu thì hẹp hòi và nhiều lúc nhỏ nhen đến ti tiện.

- Xã hội nào mà chẳng phải có luật pháp.

Khi muốn thành lập dân Israel dưới chân núi Sinai, lúc đầu Chúa đã ban cho họ một bộ luật gồm 10 điều răn được khắc trên hai bia đá và rồi với thời gian, cùng với sự tiếp xúc với các nền văn hóa chung quanh, người Do Thái đã từ từ hình thành một bộ luật rất chi tiết, chi phối cả cuộc sống và mọi hành động của người dân. Bộ sách luật ấy người Do Thái gọi là Torah. Sách gồm 5 quyển, dầy 250 trang, chứa 613 khoản luật chia ra 365 khoản cấm (tương đương số ngày trong một năm) và 248 khoản buộc (tương đương số lượng các khúc xương trong cơ thể con người).

 Ngoài bộ luật chính ra, còn rất nhiều khoản khác được thêm vào. Đây không phải là luật mà là những tập tục được lưu truyền từ đời này sang đời kia. Các tập tục này được truyền lại cho những thế hệ mai sau. Và sau cùng thì người ta đã chép lại và đóng lại thành tập gọi là Talmud. Talmud là bộ sách giải thích Luật của Do Thái giáo. Bộ sách này được chia thành 2 loại; Một là Mishna và hai là Gemara. Bộ sách này có tới 523 quyển (Wim Barclay).

Việc các môn đệ của Chúa bị người ta bắt bẻ trong bài Tin Mừng hôm nay dựa theo những qui định trong tập Talmud này. Luật qui định rằng, nếu nhằm vào ngày thường thì có làm việc đó cũng không sao. (Đnl 23,24). Thậm chí khách đi đường còn có thể tự do bứt lúa mì, miễn là đừng đem lưỡi hái vào đồng ruộng của người ta mà gặt. Phiền một nỗi là các môn đệ của Chúa lại làm việc này trong ngày Sabat, là ngày vốn được bảo vệ bằng bao nhiêu qui tắc luật lệ nhỏ nhặt. Mọi công việc đều bị cấm đoán.

- Quan điểm của Chúa về việc giữ luật

Rõ ràng là Chúa không thể chịu được cách cắt nghĩa luật như thế. Điều luật mà Chúa nhấn mạnh, đó là điều răn mới, đó là tình yêu thương. Khi tuyên bố mình là chủ ngày sabbat, Chúa muốn xác định với mọi người rằng “Hình thức mục vụ duy nhất có giá trị trước mặt Chúa là biết cảm thông với con người. Chỉ những ai biết tôn trọng con người, người đó mới là người tôn trọng Luật của Thiên Chúa”.

Susan là một em bé gái rất đáng yêu. Nhưng thật không may, vừa mới tập tễnh bước chân vào cấp một thì bác sĩ đã phát hiện ra một khối u quái ác trong đầu của em. Em cần phải nhập viện để chữa trị bằng phương pháp xạ trị trong vòng ba tháng. Sau khi xuất viện, em bé vốn dĩ đã ốm yếu, bây giờ trông còn thảm hại hơn. Trước đây, em có một mái tóc vàng rất đẹp, giờ thì đã bị rụng sạch. Dầu vậy, với sự động viên của mọi người, em đã cố gắng vươn lên. Em đã trở lại trường để học phụ đạo, bù cho những bài đã mất. Mỗi ngày em đều đến trường với bộ não vừa bị phẫu thuật. Em phải đội một chiếc mũ để che cái đầu trọc của mình. Đối với một em bé sáu tuổi mà phải chịu như vậy thì thật tội nghiệp.

Cô giáo hiểu rất rõ nỗi đau của em. Trước khi Susan chính thức quay trở lại trường, cô giáo nhiệt tình và trịnh trọng tuyên bố với toàn thể các em học sinh của mình rằng: “Kể từ học kỳ sau, chúng ta sẽ học nhận biết về các loại mũ. Cho nên các em học sinh đều phải đội chiếc mũ yêu thích của mình đến trường, càng mới lạ càng tốt”.

Sau ba tháng vắng mặt, đây là lần đầu tiên Susan quay trở lại nơi quen thuộc này. Em đứng trước cửa lớp, từ từ đi vào, trong lòng đầy lo lắng, lưỡng lự vì chiếc mũ mình đang đội.

Thế nhưng, điều khiến em không thể ngờ được là trong lớp tất cả các bạn đều đội mũ, đủ kiểu đủ loại, đầy màu sắc. Susan cảm thấy mình và các bạn khác đều như nhau. Lòng em thấy nhẹ nhõm. Một nụ cười rất xinh đẹp đã nở trên môi em.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống với mọi người với tình yêu thương. Amen. (St)

Thứ tư: Mc 3,1-6

Nhớ Thánh An-tôn, viện phụ

Làm việc lành không phải lúc nào cũng được ủng hộ, nhưng lắm khi lại bị lên án và ngăn cấm. Nhưng không vì thế mà Chúa Giêsu buông xuôi bỏ cuộc. Trái lại Người vượt lên tất cả để hoàn thành sứ mạng phục vụ hạnh phúc cho con người. Đó là điều mà Tin mừng hôm nay nói đến.

Tin mừng hôm nay cho thấy 2 thái độ và cách hành xử khác nhau:

- Của những người Pharisêu: không nhắm đến phục vụ hạnh phúc con người, nhưng nhắm đến phụng sự cho lề luật. Không có cái nhìn cảm thông, nhưng lại có cái nhìn vô cảm trước đau khổ của đồng loại. Không dám chấp nhận sự thật hiển nhiên, nhưng lại cố tình tìm cách giải thích sai lệch. Tất cả những điều ấy đều phát xuất từ óc tự cao và lòng đố kỵ của họ dành cho Chúa Giêsu.

- Của Chúa Giêsu: Có cái nhìn đầy yêu thương trước những con người bị đau khổ. Dẫu biết rằng, chung quanh Người có nhiều ánh mắt không thiện cảm bởi những người Pharisêu. Họ đang theo dõi và đang giương những mũi tên độc ác hướng về Chúa Giêsu để tiêu diệt bất cứ lúc nào. Ấy vậy mà Chúa Giêsu không hề nao núng và lo sợ. Chính bởi sức mạnh tình yêu đã làm cho Chúa vượt qua mọi rào cản và sẵn sàng cứu chữa người bị tay khô bại ngay trong ngày Sabat.

Xin cho chúng ta tránh được thái độ ghen tỵ trước những việc làm tốt của tha nhân. Để ta không buông ra những lời ác độc hay tìm cách hãm hại tha nhân như những người Pharisêu.

Xin cho chúng ta cũng can đảm vượt qua những rào cản do quan niệm sai lạc hay do lòng đố kị của những người chung quanh mà quyết tâm làm những việc lành, việc thiện cho tha nhân, nhất là những người đang gặp đau khổ về thể xác và tinh thần theo gương Chúa Giêsu.

Suy niệm 2:

Tin mừng hôm nay cho biết: Chúa Giêsu rất khó chịu trước thái độ kiêu căng bảo thủ của những người Biệt phái và tỏ ra rất buồn phiền trước hành vi ghen tị của họ. Chúa cũng sẽ rất buồn phiền nếu chúng ta cũng giữ luật Chúa và Giáo Hội bằng hình thức và thiếu lòng yêu mến.

Bài Tin mừng tiếp tục trình thuật lại cuộc đối đầu không cân sức giữa Chúa Giêsu và với giới chức lãnh đạo tôn giáo đã liên kết với nhóm cầm quyền chính trị quân sự là phái Hêrôđê. Bao vây Chúa Giêsu không chỉ là sức mạnh của giới chức đạo-đời, mà còn bởi sự kiềm hãm bởi những lề luật trói buột, giữa những quan niệm củ kỷ khắc nghiệt…Nhưng Chúa Giêsu đã không ngần ngại đấu đầu, tất cả chỉ vì giá trị của Tin mừng tình yêu. Với câu hỏi “Ngày Sabat làm việc lành hay sự dữ”. Chúa Giêsu cho thấy đích điểm của mọi lề luật là hướng đến hạnh phúc và sự sống cho con người. Nên Chúa Giêsu đã không ngần ngại cứu chữa cho người bị khô bại tay trong ngày Sabát được khỏi.

Xin cho chúng ta cũng can đảm làm việc thiện nhằm phục vụ lợi ích cho tha nhân mà không sợ thua thiệt hay tính toán hơn thiệt. Nhất là can đảm sống đức tin và thi hành các việc đạo đức cho dẫu gặp phải những chống đối, ngăn đe hay chỉ trích.

Thứ năm: Mc 3, 7-12 (bắt đầu tuần lễ cầu cho các Ki-tô hữu hợp nhất)

Suy niệm 1: Giữa lúc mà uy danh Chúa Giêsu được dân chúng không ngớt lời ca ngợi chúc tụng. Ngay cả ma quỷ cũng tôn vinh danh thánh Người. Nhưng không vì thế mà Chúa Giêsu hãnh diện về những lời tâng bốc ấy. Trái lại Người biết làm chủ bản thân nên đã giữ một khoảng cách an toàn khi tiếp xúc với mọi người, cũng như trước những lời đường mật của ma quỷ.

Có thể nói đây là thời kỳ vàng son của Chúa Giêsu với những thành công vang dội. Chính vì thế mà được rất đông đảo dân chúng đi theo để nghe Người giảng dạy và được chữa lành bệnh tật. Điều này khiến cho lịch làm việc của Chúa trở nên dày đặc. Tuy vậy, Chúa Giêsu luôn là người biết giữ khoảng cách tâm lý và vật lý chứ không bị cuốn theo những cuồng nhiệt của dân chúng.

Để cho lời giảng dạy đạt hiệu quả tốt và loan truyền dễ dàng đến tai người nghe, Chúa Giêsu dùng một chiếc thuyền để tách mình ra khỏi đám đông ồn ào và dùng sự lan truyền âm thanh mặt nước để rao giảng tin mừng.

Để tránh những người hâm mộ và những tình trạng quá khích có thể xảy ra, cũng như không chìm vào những thành công ngọt ngào, Chúa Giêsu đã tách mình ra khỏi họ và tìm cách giữ mình không sa đọa vào những lời tung hô của dân chúng.

Để tránh gây ra hiểm lầm về một Đấng Messia trần tục của dân chúng, Chúa Giêsu đã nghiêm cấm Ma quỷ không được tiết lộ về danh tính về con Thiên Chúa của Người. Bởi lẽ những lời tăng bốc ấy sẽ dễ cám dỗ Người rơi vào con đường riêng mình mà không vâng theo thánh ý Chúa Cha.

Xin cho mỗi người chúng ta cũng biết giữ khoảng cách tâm lý và vật lý trong mọi vấn đề trong cuộc sống, để ta có điểm dừng đúng lúc, nhớ đó có nhận định sáng suốt đúng đắng trước mọi cám dỗ của ma quỷ giăng bẩy.

 Suy niệm 2: HIỂU BIẾT CHÚA GIÊSU

Có một giai thoại về Trang Tử như sau:

Một hôm, Trang Tử cùng đệ tử đi chơi núi, một người thợ rừng hỏi: “Tại sao cây này không dùng được?”, Trang tử liền nói: “Cây này vì bất tài mà được sống lâu”.

Về đến nhà, nguời thợ bắt con chim không biết gáy để làm tiệc đãi khách. Hôm sau đệ tử hỏi Trang Tử: Hôm qua, cái cây trên núi vì bất tài mà sống, con chim hồng vì bất tài mà chết; theo Thầy, Thầy xử trí thế nào?

Trang Tử cười và nói:

- Tài và bất tài đều là quấy cả. Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống.

Ðông Phương đề cao sự khôn ngoan ở đời; Tây Phương chịu ảnh hưởng Hy Lạp cũng dạy: con người lý tưởng là con người biết nhiều. Nhưng biết không chỉ là biết sự vật, mà là biết con người, và biết con người không chỉ là một nhận thức suông, mà thiết yếu là đi vào tri giao mật thiết.

Trong Tin Mừng hôm nay, dường như tác giả muốn đưa chúng ta vào một sự hiểu biết như thế. Thánh Marcô trình bày cho chúng ta nhiều phản ứng hay đúng hơn nhiều nhận thức khác nhau về con người CHÚA GIÊSU. Trước hết là đám đông từ các nơi tìm đến với CHÚA GIÊSU, họ nghe và chứng kiến nhiều phép lạ Ngài thực hiện. Nhưng trong nhận định của Marcô, đám đông chỉ tìm đến để được ăn no nê, để được chữa trị khỏi các bệnh tật, chứ không phải để hoán cải; đám đông chỉ thấy cái trước mắt là phép lạ, mà không đọc ra được ý nghĩa của phép lạ là dấu chỉ của Nước Trời mà CHÚA GIÊSU đã loan báo. Nói tắt, đám đông không biết gì về CHÚA GIÊSU, và đây là lý do tại sao CHÚA GIÊSU tỏ ra dè dặt đối với đám đông, Ngài thường lẩn tránh họ. Duy chỉ có ma quỷ biết CHÚA GIÊSU là ai, nhưng biết đối với ma quỷ không đồng nghĩa với tri giao, mà chỉ là thù hận.

Ðặt vào đúng văn mạch, thì Tin Mừng hôm nay muốn trình bày cho chúng ta nhiều thứ hiểu biết về CHÚA GIÊSU: 

ma quỷ biết CHÚA GIÊSU, nhưng biết trong thù hận; 

đám đông thì tìm đến với Ngài vì mục đích trục lợi; 

bà con thân thuộc của Ngài chỉ có về Ngài một sự hiểu biết hời hợt, thiếu chiều sâu; 

những người Biệt phái thì hoàn toàn mù tịt về con người CHÚA GIÊSU; 

chỉ có Nhóm Mười Hai về sau này mới có một hiểu biết chính xác về Ngài. Nhưng đối với CHÚA GIÊSU, biết Ngài không chỉ là một nhận thức của trí tuệ, mà là đi vào tri giao mật thiết với Ngài, đi theo Ngài, nên một với Ngài. Ðó là lý do tại sao sau khi Phê-rô đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng Ngài là Ðức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài liền loan báo về cuộc Tử nạn của Ngài và mời gọi họ vác lấy Thập giá mỗi ngày và đi theo Ngài. Và đó chính là sự hiểu biết về Ngài mà CHÚA GIÊSU đang chờ đợi nơi mỗi Kitô hữu. 

Biết và tuyên xưng trên môi miệng mà thôi chưa đủ, biết Ngài thật sự là nên một với Ngài đến độ thốt lên như Thánh Phao-lô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

Ước gì tâm tình và xác tín của Thánh Phao-lô cũng thấm nhập và hướng dẫn chúng ta từng giây phút của cuộc sống.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Thứ sáu: Mc 3,13-19

Tin mừng hôm nay trình thuật lại việc Chúa Giê-su tuyển chọn 12 tông đồ để Người huấn luyện, đào tạo và trao ban sứ vụ cộng tác với Người trong sứ mạng rao giảng Tin mừng. Mỗi người chúng ta cũng được Chúa chọn gọi và trao ban sứ vụ làm chứng cho Chúa nơi gia đình và môi trường xã hội chúng ta đang sống. Xin cho chúng ta biết cố gắng thi hành tốt nhiệm vụ do Chúa trao ban.

Để rao giảng tin mừng cứu độ con người một mình Chúa Giê-su là đủ, bởi lẽ Người là Thiên Chúa quyền năng nên Người làm được mọi sự. Nhưng Chúa lại không thực hiện theo cách thế đó. Trái lại, Người mời gọi con người cộng tác.

Cụ thể Tin mừng hôm nay, Chúa tuyển chọn 12 tông đồ để ở với Người, nghe và học hỏi đời sống của Người. Sau đó Người trao ban quyền năng và sứ mạng quan trọng là cộng tác với Người ra đi rao giảng Tin mừng.

Điều đáng nói là 12 tông đồ mà Chúa Giê-su chọn lựa không phải là những con người học cao hiểu rộng mà là những con người ít học và chậm hiểu. Đa phần họ là dân làng chài quen với nắng mưa và dạn dày với sóng nước biển cả. Các ông cũng không phải là những người được giáo dục đúng mức nên tính các ông cũng rất khác biệt và lắm khi lại nóng nảy và cộc tính. Vậy mà Chúa lại chọn gọi và tin tưởng trao ban sứ mạng quan trọng cho các ông. Vượt qua tất cả những yếu hèn của con người nếu biết tin tưởng vào sức mạnh của Chúa và can đảm làm theo ý muốn của Chúa, thì mọi việc sẽ hoàn thành tốt đẹp “vì ơn Ta đủ cho con”.

Mỗi người chúng ta mỗi tánh tình khác nhau; và chúng ta cũng là những con người thật yếu đuối và bất tài, nhưng Chúa vẫn yêu thương gọi tên, chọn ta làm con và làm môn đệ của Người. Xin cho chúng ta biết tích cực thi hành tốt sứ mạng loan báo niềm vui tin mừng mà Chúa trao phó, với niềm hy vọng xứng đáng với tình thương mà Chúa dành cho chúng ta.

Thứ bảy: Mc 3,20-21

Suy niệm 1: CAN ĐẢM SỐNG NIỀM TIN

Sứ mạng loan báo Tin mừng, đem ơn giải thoát đến cho con người khỏi đau khổ và sự chết của Chúa Giê-su không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió mà đầy dãy những khó khăn và thách đố. Nhưng điều đó không làm cho Người nao lòng nản chí mà chùn bước. Trái lại, Người luôn kiên định trong lập trường mà trung thành với lý tưởng do Chúa Cha trao phó.

Xin cho chúng ta luôn can trường sống niềm tin, cho dẫu phải đối mặt với những gian nan thử thách của cuộc đời.

Có thể nói trên bước đường thi hành sứ mạng loan báo Tin mừng, Chúa Giêsu phải đối mặt với bao nhiêu là khó khăn, thử thách.

- Khó khăn từ những chống đối bên ngoài của nhóm Biệt phái, Hêrôđê, Sa-đốc... luôn tìm cách gài bẩy và hãm hại Ngài.

- Thử thách từ bên trong bởi những người thân thuộc. Có lẽ họ không ác ý khi cho rằng Đức Giêsu bị tâm thần. Nhưng vì họ bị áp lực bởi những lời kết án của giới chức tôn giáo và sự đe dọa bởi những nhà lãnh đạo xã hội nên họ lo sợ về sự an nguy của Đức Giêsu. Vì thế mà họ cho rằng Đức Giê-su đã bị tâm thần, mất trí với hy vọng nếu Đức Giê-su có bị bắt thì cũng sẽ được giảm nhẹ mức án.

Nhưng cho dẫu sao ý nghĩ và sự thừa nhận về sự mất trí của những người thân cũng làm cho Chúa Giêsu đau buồn. Đúng ra, khi nhìn thấy những nhọc nhằn, vất vả của Chúa Giêsu trong sứ mạng loan báo tin mừng cứu độ, đến nỗi không còn thời giờ để nghỉ ngơi và ăn uống, thì những người thân của Ngài phải cảm thông, ủng hộ và tìm mọi cách giúp đỡ Ngài chu toàn tốt sứ mạng của mình. Đàng này họ lại hiểu lầm và tìm cách ngăn cản. Quả là một điều đáng buồn!

Qua đây giúp cho chúng ta hiểu rằng: Sống đạo và làm chứng cho Tin mừng của Chúa không phải lúc nào cũng êm ái dễ dàng; trái lại có lúc sẽ gặp phải nhiều khó khăn thử thách. Những thử thách ấy có thể đến từ bên ngoài, nhưng đáng buồn là nó đến từ những người rất thân yêu của chúng ta trong cùng một gia đình. Lý do có thể vì không cùng lý tưởng, quan niệm và niềm tin...

Xin Chúa ban thêm niềm tin nơi chúng ta, để chúng ta can đảm dấn thân phục vụ hạnh phúc cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ, cho dẫu phải đối mặt với nhiều gian nan thử thách và bách hại.


SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN II THƯỜNG NIÊN

Lm. Minh Anh, Tgp Huế

CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN B

1Sm 3, 3b-10.19; 1Cr 6,13c-15a.17-20; Ga 1, 35-42

NGHỆ THUẬT LẮNG NGHE THIÊNG LIÊNG

“Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe!”.

“Khoảnh khắc bạn thức dậy vào mỗi sáng, mong ước và hy vọng của bạn ùa về như những con thú hoang. Và công việc đầu tiên của bạn mỗi sáng bao gồm việc đẩy tất cả chúng lùi trở lại; để bạn có thể lắng nghe một tiếng nói khác, cho một cuộc sống khác, lớn hơn, mạnh mẽ hơn, yên tĩnh hơn tràn vào. Đó là nghệ thuật lắng nghe thiêng liêng!” - C.S. Lewis.

Kính thưa Anh Chị em,

Thật thú vị, ý tưởng của Lewis được gặp lại qua Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay. Qua đó, bạn và tôi học lại ‘nghệ thuật lắng nghe thiêng liêng!’. Chúng ta cần chú ý và đón nhận những lời chỉ dạy của Thiên Chúa qua những trung gian Ngài cho gặp gỡ trong đời.

‘Trung gian’ này có thể là một người thân, một người bạn hay một đồng nghiệp; cũng có thể là một em bé hoặc một ai đó, hoặc ngay cả một biến cố nào đó. Nhờ những trung gian này, chúng ta đến với Chúa, muốn biết Ngài và yêu mến Ngài nhiều hơn.

Anna đưa con trai Samuel đến đền thờ để được thầy cả Êli dạy dỗ - bài đọc một. Êli chỉ cho Samuel hướng đi đúng đắn về phía Chúa, Samuel lắng nghe và làm theo. Trong Tin Mừng, Gioan Tẩy Giả cũng làm như vậy với các đồ đệ, họ đã lắng nghe và đi theo Chúa Giêsu. Anrê dẫn em trai mình là Phêrô đến với Ngài, Phêrô cũng nghe lời và đi theo. Trong tất cả những trường hợp này, chúng ta thấy, mối quan hệ với Chúa bắt đầu từ những mối quan hệ nhỏ mà chúng ta có ở hiện tại, và chìa khoá cho mối quan hệ sâu sắc hơn này là lắng nghe và làm theo sự chỉ dạy của người trung gian. Nhờ ‘nghệ thuật lắng nghe thiêng liêng’ này, cuộc sống chúng ta sẽ thay đổi, nó tốt hơn nhiều như trường hợp của Phêrô, người sau khi gặp Chúa Giêsu đã trở thành Kêpha - tảng đá của đức tin.

Bạn và tôi đều cần học ‘nghệ thuật lắng nghe thiêng liêng’ không chỉ trong sấm sét, mà còn nơi Đấng đã nói với chúng ta qua thánh thư, qua những sự kiện bình thường hàng ngày, qua nụ cười của một em bé, trong sâu thẳm tâm hồn, trong trái tim và qua những hy vọng, ước mơ, khát vọng của mình. Thiên Chúa mong đợi chúng ta lắng nghe Ngài và đáp lại một cách phù hợp. Đây là lý do tại sao Chúa Giêsu nói, “Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”. Đi theo bao hàm việc chấp nhận lối sống của Ngài. Khi làm vậy, đức tin và sự dấn thân là những yêu cầu thiết yếu. Theo Chúa Giêsu là hiệp nhất nên một với Ngài, nghĩa là “Bạn không còn thuộc về mình” - Phaolô.

Anh Chị em,

“Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe!”. Khi đọc về những phản ứng lắng nghe tích cực của Samuel, Phêrô và Anrê trước tiếng gọi của Chúa, bạn đừng quên rằng, tất cả chúng ta đều được mời gọi làm môn đệ của Ngài. Chúa đang mời gọi bạn và tôi làm một điều gì đó tốt lành; đang kêu gọi chúng ta trở thành một điều gì đó tuyệt vời hơn. Hãy không ngừng tự hỏi mình hàng ngày trong mọi tình huống cuộc sống rằng, “Ngài gọi tôi để làm gì? Ngài gọi tôi để nói gì? Ngài gọi tôi là gì? Và nhất là sẵn sàng thưa lên mọi lúc, mọi nơi, ‘Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe!’”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, giúp con đẩy lùi mọi thú hoang đang gầm gừ mỗi sáng, để con có thể nghe được tiếng thì thầm của Chúa vốn thường rất khẽ!”, Amen.

 

Thứ hai: NIỀM VUI KHÔNG BAO GIỜ MẤT

“Sẽ đến ngày chàng rể bị đem đi, bấy giờ họ sẽ ăn chay!”.

“Không ai đội vương miện trên thiên đàng mà không là người phải ‘đội ngược’ nó dưới đất! Cũng không ai ôm chặt, yêu mến thánh giá dưới đất, nếu không biết mình sẽ được lại niềm vui trên thiên đàng, một ‘niềm vui không bao giờ mất!’” - Một nhà tu đức.

Kính thưa Anh Chị em,

Để có được ‘niềm vui không bao giờ mất’, bạn và tôi phải đội ngược những chiếc vương miện gai góc. Đó là những gì Lời Chúa hôm nay soi rọi! Sở dĩ, các môn đệ của Chúa Giêsu không ăn chay, vì “Chàng Rể” đang ở với họ; nhưng họ sẽ ăn chay khi Thầy của họ và chính họ nếm trải những khổ đau do thập giá gây nên.

Trong cuốn “The Better Part”, “Phần Tốt Hơn”, cha John Bartunek, viết, “Dẫu thập giá không bao giờ vắng mặt trong đời sống một Kitô hữu, nhưng vị Thiên Chúa gặp gỡ mỗi người trên thập giá cũng là vị Thiên Chúa đã tạo dựng trời và đất, đại dương và núi non, tiếng cười và ánh mặt trời. Ngài cũng là Thiên Chúa của tất cả mọi niềm vui trên địa cầu!”. Tự nhận là “Chàng Rể”, Chúa Giêsu mặc cho mình tước hiệu vốn chỉ dành cho Thiên Chúa. Cựu Ước mô tả mối quan hệ giữa Israel và Chúa Trời như một giao ước hôn nhân; Israel là nàng dâu, thường là bất trung, và Thiên Chúa là Chàng Rể. Vì yêu thương, Chúa Kitô đến, mang đến niềm vui, một niềm vui dù phải trải qua cái chết, nhưng nó là một niềm vui tiềm tàng sắc màu phục sinh, ‘một niềm vui không bao giờ mất!’.

Vậy khi nào các môn đệ ăn chay? Khi “Chàng Rể” bị đem đi, khi Thầy họ đi vào cuộc khổ nạn. John Bartunek nhận định, “Một số Kitô hữu ấn tượng rằng đi theo Chúa Kitô là một công việc u ám, hoặc đời sống Kitô hữu trên hết chỉ bao gồm những hy sinh khắc nghiệt với những nghĩa vụ nhàm chán, buồn bã, thê lương và chán chường. Sẽ không có gì ngạc nhiên khi bạn bè của họ muốn tránh khỏi loại Kitô giáo đó càng xa càng tốt! Nếu tình bạn với Chúa Kitô không khiến trái tim chúng ta tràn đầy một lòng nhiệt huyết dễ lây lan, thì có lẽ chúng ta là một người bạn nửa vời!”. Không! Như Thầy mình, Kitô hữu phải sống ‘niềm vui không bao giờ mất’ của Thầy mình, Đấng đã trải nghiệm một niềm vui thiên đàng, một niềm vui tiềm tàng ánh phục sinh ngay trên thập giá!

Anh Chị em,

“Sẽ đến ngày chàng rể bị đem đi, bấy giờ họ sẽ ăn chay!”. Điều đặc biệt, là “Chàng Rể” bị đem đó nay đã phục sinh. Giờ đây, chẳng ai có thể đem Ngài đi, và Ngài cũng chẳng bao giờ chịu rời đi, trừ khi chúng ta nhất tâm chối từ Ngài, quay lưng với Ngài. Còn những ai ngày càng gắn bó với Ngài, dẫu phải đội ngược vương miện; đồng thời, ý thức mình là những người được Ngài cứu chuộc, có Ngài đồng hành, thì nhất định, cuộc sống họ vẫn luôn là một cuộc sống đầy tràn niềm vui. Họ được hưởng niềm vui thật sự không chỉ trên thiên đàng mai sau, nhưng ngay hôm nay, dưới thế. Niềm vui đó có tên “Cứu Độ”. Ý nghĩa biết bao Thánh Vịnh đáp ca, “Ai sống đời hoàn hảo, Ta cho hưởng ơn cứu độ Chúa Trời!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đội ngược vương miện, không bao giờ dễ chịu. Giúp con gắn kết thập giá đời con vào thánh giá Chúa, và con sẽ sở hữu một ‘niềm vui không bao giờ mất!”, Amen.

 

Thứ ba: AI SẼ CỨU CON NGƯỜI?

“Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabbat!”.

Đầu thế kỷ 20, Trung Quốc uỷ cho một tác giả viết tiểu sử Hudson Taylor, nhà truyền giáo vĩ đại của lục địa này, với mục đích bôi nhọ ông và xuyên tạc sự thật. Nhưng càng nghiên cứu, tác giả ngày càng ấn tượng bởi tính cách thánh thiện và đầy niềm tin của Taylor. Cuối cùng, trước nguy cơ mất mạng, ông gác bút, vượt biên, từ bỏ chủ nghĩa vô thần và tin nhận Chúa Kitô. Ông nói, “Nhân loại cần một Đấng Cứu Rỗi biết bao!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Nhân loại cần một Đấng Cứu Rỗi biết bao!”. Câu nói này không chỉ xuất phát từ cảm nhận của người viết tiểu sử Taylor, nhưng còn từ trải nghiệm thất bại của chính quyền Trung Quốc, khi tác giả không chỉ ‘không làm bồi bút’, mà còn tin nhận Chúa Kitô! Tin Mừng hôm nay làm sáng tỏ điều đó.

Các môn đệ đang đói đưa tay hái lúa mà ăn. Rủi thay, hôm ấy là ngày Sabbat. Các biệt phái bắt lỗi. Khi luật trở thành mục đích, đứng trên con người, cả những người đói, thì ‘ai sẽ cứu con người?’. Là những nhà lãnh đạo, các biệt phái đã chôn sâu luật Thiên Chúa bên dưới lớp luật nhân tạo của họ, đến nỗi cả những người đói cũng không được phép hái những bông hạt để ăn trong ngày Sabbat. Vậy thì làm thế nào nhân loại có thể được dẫn dắt một cách an toàn trên con đường đích thực dẫn đến sự cứu rỗi, mà không vướng vào gai gốc của những nghi lễ sai lầm và những giới luật tuỳ tiện một cách vô vọng! ‘Ai sẽ cứu con người?’. Con Thiên Chúa, Đấng hạ mình làm người, đem đến sự thật viên mãn; một sự thật giải thoát con người bằng tình yêu.

Trước những biệt phái đường bệ, Chúa Giêsu không nhượng bộ nhưng nhân ái thu phục họ bằng việc trích dẫn đoạn Thánh Kinh mà họ biết rất rõ; từ đó, Ngài tiết lộ sự thật theo cách mà họ có thể chấp nhận. Rằng, họ đã lạc xa tôn giáo chân chính; trong đó, tình yêu đối với Thiên Chúa và con người chiếm ưu thế. Không dừng ở đó, Ngài còn táo bạo thốt lên, “Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabbat!”. Ngài muốn nói rằng, thẩm quyền của Ngài ngang bằng thẩm quyền Thiên Chúa. Vì thế, điều Ngài chờ đợi nơi họ không gì khác hơn là một hành vi đức tin, tin nhận ngôi vị Thiên Chúa của Ngài.

‘Ai sẽ cứu con người?’. Chính Thiên Chúa đã chuẩn bị ‘Đấng Sẽ Cứu’ đó từ ngàn xưa. Ngài reo lên qua Thánh Vịnh đáp ca hôm nay, “Ta đã tìm ra nghĩa bộc Đavít!”. Đúng thế, bài đọc Samuel tường thuật việc chuẩn bị đó. Loại bỏ Saun, Thiên Chúa đã chọn Đavít. Từ dòng dõi này, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ ra đời.

Anh Chị em,

‘Ai sẽ cứu con người?’. Chính Chúa Kitô! Đức Phanxicô nói, “Bất cứ điều gì dẫn bạn đến với Chúa Kitô đều có giá trị cứu rỗi, và chỉ những gì đến từ Chúa Kitô mới có giá trị. Ngài là trung tâm! Hãy luôn tự hỏi, điều này có đưa bạn đến với Chúa Kitô không? Hãy tiếp tục! Thái độ này có đến từ Chúa Kitô không? Hãy tiếp tục! Nhưng nếu nó không dẫn bạn đến với Chúa Kitô và nếu nó không đến từ Ngài thì điều đó khá hiểm nghèo. Nếu bạn không thể tôn thờ Chúa Kitô, thì thiếu một điều gì đó. Vì Ngài là Cứu Chúa!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, hãy thanh tẩy con khỏi mọi giả hình của ‘chủ nghĩa pháp lý’ và ‘chủ nghĩa lễ nghi!’. Cho con một trái tim luôn thổn thức vì con người như trái tim của Chúa!”, Amen.

 

Suy niệm 2: Cốt lõi của Lề Luật chính là tình yêu

Câu chuyện: Một cha xứ mới được bổ nhiệm đến một nhà thờ nọ, giáo dân ở đây nổi tiếng là đánh bài, cá độ, đá gà. Vào ngày Chúa nhật đầu tiên, cha xứ mới giảng về thói xấu của cờ bạc, cá độ, đá gà và những tai họa do nó gây nên cho gia đình và xã hội. Sau thánh lễ, ông chủ tịch hội đồng Gx liền đến bên cha tân chánh xứ và bảo rằng, những người dâng cúng cho nhà thờ đa số là những người cờ bạc, cá độ và đá gà…

Vào Chúa nhật thứ hai kế tiếp, cha xứ giảng về nạn hút thuốc và những tai họa do hút thuốc gây nên, như bị ung thư phổi và chết sớm… Cũng như lần trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ riêng ra và bảo rằng đa số những người dâng cúng rộng rãi cho nhà thờ là những người trồng cây thuốc lá và tiểu bang Kentucky là nổi tiếng nghề này.

Vào Chúa nhật thứ ba kế tiếp, cha xứ giảng về nạn uống rượu bia và tai họa do rượu bia gây nên cho các gia đình, như gây tai nạn xe cộ và đập phá nhà cửa. Cũng như lần trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ lại và bảo rằng, đa số những người dâng cúng rộng rãi cho nhà thờ là những nhà nấu rượu và tiểu bang Kentucky nổi tiếng về công việc này.

Cha xứ thất vọng mới hỏi lại ông chủ tịch rằng: “Vậy tôi có thể giảng về vấn đề gì?”. Ông chủ tịch liền trả lời: “Hãy giảng chống lại các nhà chính trị lừa đảo, mà trong Gx chúng ta không có những hạng người này”.

Giữ đạo hình thức, theo cách suy diễn của cá nhân bỏ lề luật Chúa để giữ những điều con người tự coi là đúng… Chúa Giêsu đã nói với những người biệt phái về cách sống đạo hình thức ấy như sau: “Các ông gạt bỏ giới răn của Thiên Chúa qua một bên, mà duy trì truyền thống của người phàm” (Mc 7,8).

Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

 

Suy niệm 3: MUỐN TỐT ĐẸP THÌ PHẢI CÓ LUẬT PHÁP.

Chuyện cổ Đông Phương kể rằng: ngày xưa, có vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn kỳ diệu và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quí hiếm và gắn nhiều kim cương lóng lánh. Nó kỳ diệu ở chỗ: Nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó vừa vặn và chiếu sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy xiết rất mạnh, và ngón tay sẽ vô cùng đau đớn.

Tự nó, luật pháp khi phục vụ ích chung thì tốt đẹp. Nhưng trong thực tế luật đã bị lạm dụng vì nhiều mục đích, nhiều khi rất tầm thường.

Chính vì thế mà chúng ta thấy có một sự khác biệt rất lớn giữa cái nhìn của Chúa Giêsu và cái nhìn của những người luật sĩ và Pharisêu về vấn đề này. Cái nhìn của Chúa Giêsu thì khoan dung quảng đại, còn cái nhìn của những người luật sĩ và Pharisêu thì hẹp hòi và nhiều lúc nhỏ nhen đến ti tiện.

Xã hội nào mà chẳng phải có luật pháp.

Khi muốn thành lập dân Israel dưới chân núi Sinai, lúc đầu Chúa đã ban cho họ một bộ luật gồm 10 điều răn được khắc trên hai bia đá và rồi với thời gian, cùng với sự tiếp xúc với các nền văn hóa chung quanh, người Do Thái đã từ từ hình thành một bộ luật rất chi tiết, chi phối cả cuộc sống và mọi hành động của người dân. Bộ sách luật ấy người Do Thái gọi là Torah. Sách gồm 5 quyển, dầy 250 trang, chứa 613 khoản luật chia ra 365 khoản cấm (tương đương số ngày trong một năm) và 248 khoản buộc (tương đương số lượng các khúc xương trong cơ thể con người).

 Ngoài bộ luật chính ra, còn rất nhiều khoản khác được thêm vào. Đây không phải là luật mà là những tập tục được lưu truyền từ đời này sang đời kia. Các tập tục này được truyền lại cho những thế hệ mai sau. Và sau cùng thì người ta đã chép lại và đóng lại thành tập gọi là Talmud. Talmud là bộ sách giải thích Luật của Do Thái giáo. Bộ sách này được chia thành 2 loại; Một là Mishna và hai là Gemara. Bộ sách này có tới 523 quyển (Wim Barclay).

Việc các môn đệ của Chúa bị người ta bắt bẻ trong bài Tin Mừng hôm nay dựa theo những qui định trong tập Talmud này. Luật qui định rằng, nếu nhằm vào ngày thường thì có làm việc đó cũng không sao. (Đnl 23,24). Thậm chí khách đi đường còn có thể tự do bứt lúa mì, miễn là đừng đem lưỡi hái vào đồng ruộng của người ta mà gặt. Phiền một nỗi là các môn đệ của Chúa lại làm việc này trong ngày Sabat, là ngày vốn được bảo vệ bằng bao nhiêu qui tắc luật lệ nhỏ nhặt. Mọi công việc đều bị cấm đoán.

Chúa đã phản ứng lại như thế nào?

Rõ ràng là Chúa không thể chịu được cách cắt nghĩa luật như thế. Điều luật mà Chúa nhấn mạnh, đó là điều răn mới, đó là tình yêu thương. Khi tuyên bố mình là chủ ngày sabbat, Chúa muốn xác định với mọi người rằng “Hình thức mục vụ duy nhất có giá trị trước mặt Chúa là biết cảm thông với con người. Chỉ những ai biết tôn trọng con người, người đó mới là người tôn trọng Luật của Thiên Chúa”.

Susan là một em bé gái rất đáng yêu. Nhưng thật không may, vừa mới tập tễnh bước chân vào cấp một thì bác sĩ đã phát hiện ra một khối u quái ác trong đầu của em. Em cần phải nhập viện để chữa trị bằng phương pháp xạ trị trong vòng ba tháng. Sau khi xuất viện, em bé vốn dĩ đã ốm yếu, bây giờ trông còn thảm hại hơn. Trước đây, em có một mái tóc vàng rất đẹp, giờ thì đã bị rụng sạch. Dầu vậy, với sự động viên của mọi người, em đã cố gắng vươn lên. Em đã trở lại trường để học phụ đạo, bù cho những bài đã mất. Mỗi ngày em đều đến trường với bộ não vừa bị phẫu thuật. Em phải đội một chiếc mũ để che cái đầu trọc của mình. Đối với một em bé sáu tuổi mà phải chịu như vậy thì thật tội nghiệp.

Cô giáo hiểu rất rõ nỗi đau của em. Trước khi Susan chính thức quay trở lại trường, cô giáo nhiệt tình và trịnh trọng tuyên bố với toàn thể các em học sinh của mình rằng: “Kể từ học kỳ sau, chúng ta sẽ học nhận biết về các loại mũ. Cho nên các em học sinh đều phải đội chiếc mũ yêu thích của mình đến trường, càng mới lạ càng tốt”.

Sau ba tháng vắng mặt, đây là lần đầu tiên Susan quay trở lại nơi quen thuộc này. Em đứng trước cửa lớp, từ từ đi vào, trong lòng đầy lo lắng, lưỡng lự vì chiếc mũ mình đang đội.

Thế nhưng, điều khiến em không thể ngờ được là trong lớp tất cả các bạn đều đội mũ, đủ kiểu đủ loại, đầy màu sắc. Susan cảm thấy mình và các bạn khác đều như nhau. Lòng em thấy nhẹ nhõm. Một nụ cười rất xinh đẹp đã nở trên môi em.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống với mọi người với tình yêu thương. Amen. (St)

 

Thứ tư: CHIỀU THEO ĐIỀU LÀNH

“Ngày Sabbat, được phép làm điều lành hay điều dữ!”.

Một nhà tâm lý nói, “Nhìn chung, con người muốn trở nên tốt; nhưng không quá tốt, và không phải lúc nào cũng tốt! Vì thế, không dễ dàng, để nó chiều theo điều lành!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Một sự trùng hợp thú vị khi Lời Chúa hôm nay giới thiệu hai con người ‘chiều theo điều lành!’. Một Đavít thời Cựu Ước, một Giêsu, ‘Hậu duệ Đavít’, thời Tân Ước. Thật ý nghĩa, câu hỏi của Chúa Giêsu, “Ngày Sabbat, được phép làm điều lành hay điều dữ!”.

Bài đọc Samuel tường thuật cuộc chiến không cân sức vốn đã đi vào sử thi Israel. Trước đạo quân dữ tợn Philitinh, cầm đầu là hổ tướng Gôliát, Đavít xung trận chỉ với sức mạnh của Chúa. Cậu nói, “Mày mang gươm, mang giáo, cầm lao đến với tao; còn tao, tao đến với mày nhân danh Chúa các đạo binh”. Để rồi, chỉ với một hòn đá, Chúa trao mạng Gôliát - biểu tượng điều ác - cho Đavít. Đavít chiến thắng điều ác, vì đã dám chiến đấu cho điều lành nhờ sức mạnh của Chúa. Nhờ đó, cậu có thể “Chúc tụng Chúa là núi đá cho tôi nương ẩn!” - Thánh Vịnh đáp ca. Đừng quên, Đavít mang theo đến ‘năm’ hòn đá; lẽ ra, chỉ một, tại sao ‘năm?’. Hú hồn! Thiên Chúa làm ngơ, vì Ngài vô cùng nhân hậu!

Với bài Tin Mừng, như một ‘Đavít khác’, Chúa Giêsu vào hội đường, các biệt phái rình rập Ngài. Ở đó, có một người bại tay; họ xem Ngài có chữa người ấy trong ngày Sabbat không nhằm kiếm cớ tố cáo Ngài. Vậy mà, khá thách thức, Chúa Giêsu gọi người bệnh, “Anh đứng dậy, ra giữa đây!”. Đoạn, với hai câu hỏi, Ngài đặt các nhân vật phản diện của mình vào một tình thế khó xử, “Ngày Sabbat, được phép làm điều lành hay điều dữ!”; “Nên cứu mạng người hay giết người?”. Theo Barclay, “Ở đây, Ngài muốn nói huỵch toẹt rằng, ‘Khi Tôi đang tìm cách để cứu lấy sự sống cho một người; thì các ông lại đang tìm cách lấy mạng sống Tôi’. Vậy mà với bất kỳ tính toán nào, cứu sống vẫn tốt hơn giết chết!”. Bởi đó, không có gì ngạc nhiên khi Tin Mừng nói, “Họ làm thinh!”.

Tội lỗi làm tổn hại đến mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa, nó khiến chúng ta thiên về điều ác và không ‘chiều theo điều lành’. Vậy mà, sự cứng lòng lại còn tai hại hơn vì nó kéo dài mãi sự tổn hại do tội lỗi gây ra. Và trái tim của một người càng chai đá thì thương tổn lại càng kéo dài. Chúa Giêsu đau buồn trước sự cứng lòng của người Pharisêu, và nỗi đau buồn đó đã thúc đẩy cơn giận thánh của Ngài. Cơn giận thánh của Ngài không gây ra những lời chỉ trích phi lý; đúng hơn, nó đã thúc đẩy Ngài chữa lành người này hầu họ biết hoán cải và ‘chiều theo điều lành’. Buồn thay, họ vẫn cứng lòng!

Anh Chị em,

Vậy nên “làm điều lành hay điều dữ?”. Trong thế giới hôm nay, Thiên Chúa xem ra đang nhượng bộ sự dữ vốn đang hoành hành cả nhân loại. Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi hãy quyết liệt chiến đấu cho sự thiện, luôn ‘chiều theo điều lành’, không bao giờ khuất phục điều ác khởi đi từ cuộc chiến với cái tôi của mình. Điều ác ấy đang mai phục ngay trong tâm hồn bạn và tôi nhằm kéo ghì chúng ta, không cho chúng ta nên thánh. Là Kitô hữu chúng ta nhất mực chiến đấu cho điều lành đến cùng bằng sức mạnh của Chúa.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con muốn trở nên tốt; đừng để con tốt nửa vời! Cho con không chiều theo điều ác một khi nó dấy lên; giúp con tỉnh táo, khôn ngoan ‘chiều theo điều lành!”, Amen.

 

Thứ năm: MỘT AI ĐÓ Ở CÙNG

“Vua Saun, cha tôi, đang tìm cách giết anh!”.

Lincoln, một tổng thống bị nhiều chỉ trích. Dù biết mình có những sai lầm, nhưng ông không bao giờ làm tổn hại đến tính chính trực. Ông thật mạnh mẽ, “Tôi ước được hoàn thành kế hoạch của chính quyền này, dẫu cuối cùng, khi rời chức vụ, tôi đánh mất mọi bạn bè. Nhưng lúc đó, ít nhất còn lại một người và người ấy sẽ ở bên tôi, trong tôi; ‘một Ai đó ở cùng’ tôi!”.

Kính thưa Anh Chị em,

‘Một Ai đó ở cùng’ Abraham Lincoln cũng là ‘một Ai đó ở cùng’ Đavít và Giêsu, ‘hậu duệ của Đavít!’. Thật thú vị, Lời Chúa hôm nay cho thấy cả Đavít và ‘hậu duệ của ông’ xem ra không chút sợ hãi trước cái chết đang rình rập mình.

Bài đọc Samuel tiết lộ đầu dây mối nhợ cho tà ý của vua Saun. Đó là việc các phụ nữ bên xướng, bên hoạ, nhảy múa chào đón người hùng Đavít trở về, “Saun hạ được hàng ngàn, Đavít hàng vạn!”. Lời tung hô dành cho Đavít khiến Saun cay cú, “Nó chỉ còn thiếu ngôi vua”. Vì thế, Saun quyết định loại Đavít khỏi cuộc chơi! May thay, Gionathan, con vua tiết lộ, “Cha tôi, đang tìm cách giết anh!”.

Về phần mình, Gionathan ra sức thuyết phục vua cha bỏ ý định tà khúc này. Và dĩ nhiên, dù biết dã tâm của vua, Đavít vẫn không khiếp đảm; vì lẽ, đã có ‘một Ai đó ở cùng’ cậu. ‘Ai đó’ không ai khác là Chúa các đạo binh, Đấng đã cho Đavít hiển thắng Gôliát khổng lồ. Thánh Vịnh đáp ca hé lộ, “Tôi tin tưởng vào Thiên Chúa và không còn sợ hãi!”.

Điều tương tự cũng đã xảy ra với Chúa Giêsu! Một khi danh thơm Ngài toả lan, dân chúng từ khắp các thành đổ xô đến, thì Chúa Giêsu cũng hiểu rằng, giới lãnh đạo tôn giáo và chính trị kiên quyết tiễu trừ Ngài. Tuy nhiên, như Đavít, Chúa Giêsu ý thức đã có ‘một Ai đó ở cùng’. Với Ngài, điều đáng lo lắng chính là sự cứng lòng của giới cầm quyền và sự hời hợt của những kẻ kiếm tìm Ngài. Tìm kiếm Ngài vẫn chưa đủ, Ngài muốn họ biết Ngài là ai và nhận ra ‘một Ai đó ở cùng’ và ở trong Ngài. Ngài muốn những cuộc tìm gặp Ngài phải vượt quá những thoả mãn tức thời. Ngài đến, mang một điều gì đó nhiều hơn thế, một chân trời rộng mở, một Vương Quốc mới. Đó là tình yêu cứu độ của Thiên Chúa dành cho con người.

Anh Chị em,

‘Một Ai đó ở cùng!’. Đấng ở cùng Đavít đã quan phòng cho Gionathan, con vua, ở bên cậu; nhờ đó, Đavít giữ được mạng. Bạn và tôi may mắn hơn Đavít ngàn lần; Giêsu, con Vua các vua, không chỉ ở bên cạnh, Ngài ở trong chúng ta, và chúng ta ở trong Ngài. Chúng ta giữ được mạng sống không chỉ ở đời này nhưng cả sự sống đời sau. Thánh Phaolô xác tín, “Có Thiên Chúa bênh đỡ, ai còn chống lại được chúng ta!”.

Lịch sử Giáo Hội cho thấy các nhà truyền giáo, các vị tử đạo dẫu biết theo Chúa Kitô, làm chứng cho Ngài là có thể bị giết chết; nhưng các ngài không hề tỏ ra sợ hãi, bởi đã tin có ‘một Ai Đó ở cùng’. Hãy can đảm đứng vững và dám đương đầu với mọi nghịch cảnh; vì lẽ, chúng ta đặt niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa rằng, Ngài là “Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con sợ ai hoặc sợ bất cứ điều gì ngoài việc sợ làm mất lòng Chúa; và sợ hơn, khi trong con, chẳng có ‘một Ai Đó ở cùng!’”, Amen.

 

Thứ sáu: CHUYỂN ĐỘNG KÉP

“Để các ông ở với Người, và để Người sai các ông đi”.

“Chứng nhân phải có kinh nghiệm trực tiếp về Chúa Kitô. Những gì ‘bạn nghe’ không được chấp nhận trước toà án cũng như trước công luận thế giới. Mọi người sẽ chỉ lắng nghe những gì cá nhân bạn và tôi đã thấy, đã nghe và đã chứng kiến!” - David Watson.

Kính thưa Anh Chị em,

Ý tưởng “Đã thấy, đã nghe và đã chứng kiến” của Watson được gặp lại trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu chọn Nhóm Mười Hai “để các ông ở với Người, và để Người sai các ông đi”. Ở đây, Marcô tinh tế ghi nhận một ‘chuyển động kép’ vốn không thể tách rời nhau, không thể có cái này mà không có cái kia.

Trước hết, các môn đệ được Chúa Giêsu kêu gọi. Và điều đầu tiên là “để các ông ở với Người”. Họ phải “ở lại” với Ngài trong tình bạn, và tình bạn này ngày càng phải sâu sắc hơn, thâm trầm hơn. Trong giai đoạn này, họ học cách lắng nghe, học cách Ngài cầu nguyện, cách Ngài cư xử với tất cả những ai Ngài gặp gỡ. Bất kể những người đến với Chúa Giêsu là ai. Họ là những người nghèo, người tội lỗi, hoặc ngay cả những biệt phái, những kẻ chống báng Ngài.

Chuyển động thứ hai bắt nguồn từ chuyển động thứ nhất. Sau khi “ở lại” với Chúa Giêsu để xem những việc Ngài làm, nghe những gì Ngài nói… các môn đệ được Ngài sai đi với tư cách những chứng nhân. Họ sẽ nói, sẽ làm và hành động yêu thương nhân danh Ngài.

Bài đọc Samuel hôm nay cho thấy, Saun coi Đavít như kẻ thù và tìm cách giết ông. Tuy nhiên, khi có cơ hội giết Saun, thì Đavít lại từ chối. Đavít từ chối lấy ác báo ác, hận thù trả hận thù. Đây là một sự thật mà Saun nhìn nhận khi vua nói với Đavít, “Con công chính hơn cha, vì con xử tốt với cha, còn cha thì xử ác với con”. Cách Đavít cư xử với Saun khác nào cách Chúa Giêsu cư xử với kẻ thù của Ngài. Trong thư Rôma, Phaolô viết, “Đừng để điều ác thắng anh em, nhưng hãy lấy điều thiện để thắng điều ác”. Và đây là lối sống bắt nguồn từ sự ở lại và được sai đi của người môn đệ Chúa Giêsu ở mọi thời.

‘Chuyển động kép’ đó cũng là một mô tả tuyệt vời về ơn gọi Bí tích Rửa Tội của bạn và tôi. Chúa Giêsu đã kêu gọi chúng ta trở thành bạn đồng hành của Ngài, dành thời gian ở bên Ngài. Một trong những cách chúng ta làm điều này là cầu nguyện. Trong cầu nguyện, chúng ta hướng về Chúa, Đấng luôn ở bên chúng ta. Khi cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa, chúng ta lắng nghe Ngài, quan sát cuộc đời của Ngài. Đây là lời cầu nguyện trong sự hiện diện với Chúa. Chúng ta luôn ý thức rằng, Chúa đang hiện diện với tôi. Khi làm vậy, chúng ta lớn lên trong tương quan với Ngài và Ngài sống trọn vẹn hơn trong chúng ta.

Anh Chị em,

“Để các ông ở với Người, và để Người sai các ông đi”. “Ở lại” với Chúa; sau đó, được Chúa sai đi, chúng ta mang theo sự hiện diện của Ngài và trở thành nhân chứng của Ngài trên thế giới, bằng tất cả những gì chúng ta nói, chúng ta làm. Đó không phải là những gì chúng ta “chỉ nghe”; vì lẽ, nó “không được chấp nhận trước toà án cũng như trước công luận thế giới”. Làm chứng cho Chúa có nghĩa là sống yêu thương người khác như Chúa đã yêu chúng ta, kể cả yêu thương những người muốn hại chúng ta.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con ý thức rằng, người ta chỉ tin con, một khi họ biết, ‘một Ai đó’ đang ở trong con, ‘một Ai đó’ con đã có kinh nghiệm trực tiếp!”, Amen.

 

Suy niệm 2: CHÚNG TA ĐƯỢC MỜI GỌI ĐẾN VÀ Ở VỚI THẦY

Có nhiều người nhìn bộ dạng bên ngoài “rất cốt tu”, nhưng kỳ thực anh ta không hề nghĩ là sẽ đi tu! Hay nhìn những người trông xem ra có vẻ đơn sơ, chất phác, nông dân thì Chúa lại chọn và gọi để trở thành linh mục, tu sĩ của Ngài.

Như vậy, chỉ cần đưa ra một vài hình ảnh, chúng ta cũng nhận thấy rất rõ rằng: ơn gọi tu trì là một mầu nhiệm, vì Chúa chọn và gọi những ai Ngài muốn.

Hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu chọn nhóm 12 trở thành môn đệ của Ngài, để họ tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Qua danh sách 12 môn đệ, chúng ta thấy không ai là trọn vẹn cả. Ai cũng có những khuyết điểm, thiếu xót, đôi khi những lỗi mắc phải trước, trong, và sau khi ở với Đức Giêsu là những lỗi rất nặng.

Nhưng điều quan trọng đối với các ông là: tập trung quy vào Đức Giêsu. Thầy của các ông như là cái tâm trong một vòng tròn. Nhiều khi vì yếu đuối, nên xao nhãng đi xa tâm của vòng tròn, nhưng khi tỉnh lại và ngộ ra sự yếu đuối, tội lỗi của mình, các ông lại tiếp tục nhập vào vòng tròn đó và hướng về Đức Giêsu là tâm điểm, đích đến của cuộc đời. Vì thế, tuy bất toàn, nhưng các ông ở lại với Ngài, Ngài đã huấn luyện và làm cho các ông xứng đáng là kẻ lưới người như lưới cá trên hành trình loan báo Tin Mừng.

Mỗi người chúng ta ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được mời gọi bước theo Đức Giêsu để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài khi mang trong mình những tâm tư của chính Đấng mà chúng ta đi theo.

Tuy nhiên, điều quan trọng là chúng ta có sẵn sàng thi hành những giáo huấn và lời dạy của Đức Giêsu không hay nhiều khi chúng ta chỉ có tên tuổi mà không có chất? Chỉ có phẩm mà không có lượng?

Lạy Chúa Giêsu, được trở thành môn đệ của Chúa là một hồng ân. Tuy nhiên, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết làm cho hồng ân ấy triển nở trong cuộc sống thường ngày của mình qua những hoa trái tốt lành. Amen.

Ngọc Biển SSP

 

Suy niệm 3: VỚI NGÀI VÀ TRONG NGÀI 

“Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn.”

Chúa không muốn một mình mãi mãi đích thân đi rao giảng Tin Mừng, mặc dù một mình Ngài có thể làm được hết mọi sự mà không cần đến con người. Nhưng, Ngài đã tuyển chọn và kêu gọi một số anh em để cùng làm công việc này.

“Muốn đi nhanh thì đi một mình, mà muốn đi xa thì phải đi cùng nhau.”

Chúa muốn con người chia sẻ sứ mạng của Ngài. Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo đã giải thích việc làm này như sau: “Để cho tiếng gọi ấy vang lên trong toàn cõi địa cầu, Đức Kitô đã sai các tông đồ do Người tuyển chọn, trao cho các ông nhiệm vụ loan báo Tin Mừng: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền dạy cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”

Cảm tạ Chúa đã cho loài người chúng con được tham dự vào công việc cao cả mà chính Chúa Cha đã trao cho Người.

Nhưng, để cho công việc tham dự vào sứ mạng của Chúa có kết quả tốt đẹp, những người được Chúa tuyển chọn phải làm gì? Điều quan trọng và tiên quyết đó là phải “ở với Ngài”. Đây là việc cần thiết nhất.

Bạn không thể rao giảng và làm chứng cho một Thiên Chúa mà bạn không biết. Dù bạn có nói thật hay, có truyền cảm đến đâu, thì cũng đều thất bại. Vì đó không phải là một Thiên Chúa mà bạn đã từng gặp gỡ. Bạn làm chứng cho một điều mà ngay bạn con chưa vững tin.

Chính vì vậy, việc ở với Ngài, lắng nghe Ngài đang hiện diện trong mỗi thánh lễ. Ngài ẩn mình trong tấm bánh nhỏ bé, Ngài vẫn dạy bảo chúng ta qua Lời Chúa mỗi ngày. Chúa ở ngay bên chúng ta, nhưng chúng ta có đến với Ngài hay không thì còn tùy vào chúng ta quyết định.

Chúa chọn hết tất cả chúng ta. Mỗi người đều có ơn gọi riêng, có người chọn đời sống hôn nhân, có người theo cuộc đời thánh hiến, có người nguyện độc thân vì nước trời. Song, tất cả phải được xây dựng trên chính Chúa Giêsu Kitô là nền móng vững chắc nhất. Ngày hôm nay, bạn đã đến với Chúa chưa? Bạn đã ở với Ngài chưa?

Ngọn cỏ ven đường.  

 

Thứ bảy:

Suy niệm 1: MẤT TRÍ

“Thân nhân của Chúa Giêsu hay tin, liền đi bắt Ngài, vì họ nói, “Ngài đã mất trí!”.

Holmes Jr., “Người Bất Đồng Vĩ Đại”, được coi là một trong những thẩm phán xuất sắc nhất lịch sử Toà án Tối cao Hoa Kỳ. Holmes ngồi trên Toà Tối cao suốt 30 năm cho đến tuổi 91. Ngày kia, Roosevelt đến thăm Holmes, thấy ông đang đọc Plato; tổng thống hỏi, “Ngài đọc Plato?”; Holmes đáp, “Tôi cải thiện tâm trí, vì tôi được tiếng là mất trí!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Không chỉ Holmes được tiếng là ‘mất trí’, Chúa Giêsu cũng thế! Tin Mừng hôm nay cho biết, thân nhân Ngài tìm cách bắt Ngài! Đây là một chi tiết thú vị vốn tiết lộ phần nào hành trình đức tin của tất cả chúng ta; vì đôi khi, bạn và tôi cũng được tiếng là ‘mất trí!’.

Hãy bắt đầu với tiền đề hiển nhiên là Chúa Giêsu hoàn hảo về mọi mặt! Ngài là Thiên Chúa; mọi điều Ngài nói, mọi việc Ngài làm… chứng tỏ tình yêu của Ba Ngôi. Nhưng đáp lại là gì? Dĩ nhiên, một số người đã đón nhận Ngài với niềm tin và sự ngạc nhiên tột độ; họ nhận biết Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ thế giới. Ngược lại, số khác, ngay trong họ hàng Ngài, nghĩ rằng, Ngài ‘mất trí!’. Theo cha John Bartunek, “Chúa Giêsu được tiếng là ‘mất trí’, vì với Ngài, không gì quan trọng hơn việc nuôi dưỡng các linh hồn bằng tình yêu và lẽ thật, nó quan trọng đến nỗi Ngài bỏ mặc việc nuôi sống bản thân. Thái độ hy sinh quên mình này thấm nhuần từng giây phút của Ngài trên trần gian, và đỉnh điểm là sự phục tùng trọn vẹn thánh ý Chúa Cha trên thập giá”.

Nếu người ta gọi Chúa Giêsu là ‘mất trí’, họ sẽ gọi chúng ta những gì còn tệ hơn nếu chúng ta đi trên con đường Ngài đi và làm theo điều Ngài dạy. Bởi lẽ, trong cuộc sống, việc thực hành ý muốn thánh thiện của Thiên Chúa không phải lúc nào cũng được chấp nhận; nói cách khác, điều tốt lành chúng ta nói và làm sẽ dẫn đến sự chỉ trích của người khác, ngay cả những người thân. Khi điều này xảy ra, đừng ngạc nhiên, đừng cho là tổn thương, gương xấu hay xúc phạm. Ngược lại, hãy vui mừng, bạn đang giống Chúa Giêsu; đồng thời, nhớ lại bao phán xét sai lầm người ta gán cho Ngài và nhất là, không để những cay đắng đang trải nghiệm ngăn cản chúng ta tiếp tục làm điều Chúa muốn.

Đavít là một ví dụ. Với tư cách bề tôi, cậu đã liều mạng với Philitinh, đem chiến thắng về cho Saun; nhưng cũng vì đó, chuốc lấy sự cừu hận. Đến khi ‘Chúa trao Saun vào tay Đavít’, thì Đavít lại nhân ái với người tìm giết mình. Một lần nữa, bài đọc Samuel hôm nay chứng thực điều đó. Hay tin Saun tử trận, Đavít khóc lóc thảm thiết thay vì ăn mừng. Với các thuộc hạ của Đavít, thân chủ của họ khác nào một người ‘mất trí!’.

Anh Chị em,

“Họ nói, “Ngài đã mất trí!”. Chúa Giêsu ‘mất trí’ vì quá say mê Thiên Chúa, say mê con người. Cuộc đời Ngài thực sự được điều hướng bởi sự say mê này. Ngài say mê đến độ quên ăn quên uống, vì “Của ăn của Tôi là làm theo ý Đấng đã sai Tôi”; và cũng vì say mê, Ngài bị treo lên thập giá. Nhưng đó là chiến thắng bất tận của tình yêu. Ai khôn ngoan? Phải chăng là người chỉ lo làm giàu, chăm chút bản thân và gia đình? Còn những người sống vị tha, những người độc thân vì Nước Trời, các anh hùng tử đạo, những người miệt mài trên những cánh đồng truyền giáo là hạng ‘mất trí?’. Không đâu!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con khờ khạo, ‘mất trí’ chỉ vì những chuyện vô duyên của thế gian; cho con dám điên vì Chúa, vì sự thật và vì tình yêu đối với các linh hồn!”, Amen.

 

Suy niệm 2: MẤT TRÍ

Người bình thường lo cho bản thân. Những nhu cầu tối thiểu trong đời sống hằng ngày: ăn uống, ngủ nghỉ. Nhưng “Chúa Giê-su cùng với các môn đệ trở về nhà, và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được”. Người đời và nhất là thân nhân, những kẻ thương mến Người “liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí”. Người đã rất quyết liệt. Nên không để bị bắt trở về. Từ đây Người giã từ gia đình trần thế. Để hiến thân cho gia đình Nước Trời. Để thi hành thánh ý của Cha. Để toàn tâm toàn ý cho tha nhân. Cho gia đình mới của Người.

Anh hùng là những người quên bản thân, quên lợi ích riêng tư, vì quyền lợi chung của đất nước, của dân tộc. Sa-un và Gio-na-than là những bậc anh hùng. Vì đất nước, dân tộc mà tử nạn. Nên Đa-vít và toàn dân khóc thương các ngài. Các ngài quên mình vì dân tộc: “Thiếu nữ Ít-ra-en hỡi, hãy khóc Sa-un, người đã mặc cho các cô vải điều lộng lẫy, đính trên áo các cô đồ trang sức bằng vàng”(năm chẵn).

Chúa Ki-tô đáng ca tụng gấp bội. Vì Sa-un và Gio-na-than lo cho đời sống vật chất mau qua của dân Ít-ra-en. Còn Chúa Ki-tô hiến mình vì đời sống vĩnh cửu và vì kho tàng không hư nát của mọi dân tộc trên thế giới.

Sa-un và Gio-na-than bất đắc dĩ chịu chết. Còn Chúa Ki-tô tự hiến thân mình để đền tội muôn dân.

Chúa Ki-tô là Thượng Tế trổi vượt. Các thượng tế dâng lễ vật là súc vật. Còn Chúa Ki-tô dâng chính bản thân mình. Các thượng tế phải dâng nhiều lần. Còn “Người vào chỉ một lần, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta” Máu chiên bò chỉ làm cho thân xác trong sạch. “Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết”(năm lẻ).

Người không chỉ mất trí. Mà còn điên dại. Yêu ta nên tự hiến mình chịu chết. Đổ máu mình ra. Nhưng chính nhờ tình yêu điên dại của Người ta được ơn cứu độ. Được sống. Được hạnh phúc.

Thế giới hôm nay cần nhiều người mất trí để lo cho tha nhân. Cần nhiều môn đệ bước theo tình yêu điên dại của Thầy Giê-su. Thế giới mới được cứu rỗi.

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

 

Suy niệm 3: VÌ SỨ VỤ

Có một linh mục sống tại một đất nước phồn thịnh, sau khi làm linh mục được 5 năm, ngài đã xin phép bề trên để về Việt Nam phục vụ những bệnh nhân sida, nghiện ngập, những bạn trẻ cơ nhỡ và trẻ em mồ côi. Khi quyết định của ngài được thông báo cho gia đình thì bà cố không chấp nhận và cho rằng con mình có vấn đề…!!!

Hôm nay, Tin Mừng thuật lại những việc làm tất bật của Đức Giêsu để chăm lo cho dân chúng, đến nỗi không có thời giờ để nghỉ ngơi và ăn uống. Những việc như: giảng dạy, chữa bệnh, xua trừ Ma Quỷ… Ngài làm mọi việc không xuể, nên đã gọi và chọn các môn đệ để hỗ trợ Ngài trong sứ vụ.

Tuy nhiên, sự nhiệt tình vì sứ vụ khi chăm lo cho người nghèo, bệnh tật, ốm đau thì lại là mối lo của bà con, họ hàng của Ngài khi họ nghe tin đổn thổi Ngài bị mất trí…, vì thế, họ đã đến để tìm cách ngăn cản Ngài.

Anh hùng là những người quên bản thân, quên lợi ích riêng tư, vì quyền lợi chung của đất nước, của dân tộc. Sa-un và Gio-na-than là những bậc anh hùng. Vì đất nước, dân tộc mà tử nạn. Nên Đa-vít và toàn dân khóc thương các ngài. Các ngài quên mình vì dân tộc: “Thiếu nữ Ít-ra-en hỡi, hãy khóc Sa-un, người đã mặc cho các cô vải điều lộng lẫy, đính trên áo các cô đồ trang sức bằng vàng” (năm chẵn).

Chúa Ki-tô đáng ca tụng gấp bội. Vì Sa-un và Gio-na-than lo cho đời sống vật chất mau qua của dân Ít-ra-en. Còn Chúa Ki-tô hiến mình vì đời sống vĩnh cửu và vì kho tàng không hư nát của mọi dân tộc trên thế giới.

Sa-un và Gio-na-than bất đắc dĩ chịu chết. Còn Chúa Ki-tô tự hiến thân mình để đền tội muôn dân.

Chúa Ki-tô là Thượng Tế trổi vượt. Các thượng tế dâng lễ vật là súc vật. Còn Chúa Ki-tô dâng chính bản thân mình. Các thượng tế phải dâng nhiều lần. Còn “Người vào chỉ một lần, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta” Máu chiên bò chỉ làm cho thân xác trong sạch. “Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết”(năm lẻ).

Người không chỉ mất trí. Mà còn điên dại. Yêu ta nên tự hiến mình chịu chết. Đổ máu mình ra. Nhưng chính nhờ tình yêu điên dại của Người ta được ơn cứu độ. Được sống. Được hạnh phúc.

Thế giới hôm nay cần nhiều người mất trí để lo cho tha nhân. Cần nhiều môn đệ bước theo tình yêu điên dại của Thầy Giê-su. Thế giới mới được cứu rỗi. Thật vậy, trong cuộc sống, chúng ta vẫn thấy xuất hiện đây đó những hình ảnh sống động của Đức Giêsu khi những anh chị em Kitô hữu luôn sống chu toàn bổn phận và sẵn sàng đặt lợi ích của cộng đoàn, gia đình lên trên cá nhân của mình. Luôn đứng về phía người nghèo khổ để nâng đỡ và phụ giúp họ… Luôn coi sứ vụ là chính yếu, nhu cầu cá nhân là phụ thuộc…Nhưng lẽ ra, theo lối suy nghĩ của người đời thì họ phải được tán dương, chúc tụng mới xứng! Tuy nhiên, điều đó có lẽ có nhưng họa hiếm, ngược lại có khi chỉ là những lời dè môi bỉu mỏ cho rằng: họ bị điên, bị khùng thì mới làm những chuyện như thế!

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đặt sứ vụ lên trên hết mọi chuyện. Nếu có phải khinh thường, chỉ trích, thì chúng ta cũng biết vui chịu để danh Chúa được cả sáng và Nước Chúa được trị đến. Chỉ khi nào chúng ta trở nên giống Chúa, thì hình ảnh, khuôn mặt của Ngài mới được lộ hiện nơi chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa tha thiết. Luôn biết trung thành với sứ vụ được trao. Và xin cho chúng con biết đón nhận tất cả, miễn sao anh chị em chúng con được hạnh phúc và Chúa được loan báo. Amen.

Ngọc Biển SSP

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XIV THƯỜNG NIÊN Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN B Ed 2,2-5; 2Cr 12,7-10; Mc 6,1-6 Suy niệm 1: ...