SUY NIỆM LỜI CHÚA SAU LỄ HIỂN LINH
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT CHÚA HIỂN LINH-B
Is 60,1-6; Ep 3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12
Suy niệm 1: HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN
Cùng vời GH, hôm nay
chúng ta mừng kính trọng thể lễ Chúa Hiển Linh, kỉ niệm biến cố Chúa Giêsu tỏ
mình ra cho ba nhà đạo sĩ, đại diện cho những người chưa có niềm tin vào Chúa,
nhờ ánh sao lạ.
Chiêm ngắm cuộc hành
trình đức tin của 3 nhà đạo sĩ là dịp chúng ta cảm nhận được hành trình đức tin
của chúng ta đã và đang tiến bước. Đồng thời cũng nhắc nhở bản thân về nhiệm vụ
giới thiệu Chúa cho tha nhân. Xin cho mỗi Kitô hữu chúng ta trở nên ánh sao
sáng làm dấu chỉ đưa dẫn nhiều người tìm đến gặp gỡ Chúa.
Khi suy niệm lời
Chúa dựa trên biến cố Chúa Giêsu tỏ mình cho ba nhà Đạo sĩ, ta nhận ra 3 điều
quan trọng sau đây:
1. Những cách thức
Thiên Chúa tỏ mình.
2. Hành trình tìm
kiếm Chúa.
3. Đời sống phải có
sau khi gặp gỡ Chúa.
1. Những cách thức
Thiên Chúa tỏ mình.
H. Giáo lý Công
Giáo có hỏi làm thế nào mà biết có ĐCT?
T. Ta nhìn xem trời
đất muôn vật và trật tự lạ lùng trong vũ trụ, liền biết có ĐCT.
Đúng vậy, khi nhìn
vào vũ trụ vạn vật, ta liền nhận ra có một Đấng uy quyền dựng nên. Mà
người có niềm tin Công giáo chúng ta gọi là Thiên Chúa.
Đọc thánh kinh Cựu
ước, chúng ta biết được Thiên Chúa không chỉ tỏ mình qua công trình sáng tạo mà
Thiên Chúa còn ban Lề Luật qua Môsê; ký kết giao ước với tổ phụ
Ápraham, và ban Lời và giáo huấn của Người qua các tiên tri.
Đến thời Tân Ước,
thời kỳ viên mãn, Thiên Chúa mạc khải qua Chúa Con, Ngôi Lời nhập thể và được
sinh ra bởi Đức trinh nữ Maria. Người là Thiên Chúa thật và là người
thật. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa hiện diện một cách hữu hình và trực tiếp với nhân
loại. Đúng như thánh Phaolô đã nói: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách,
Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết
này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.” (Dt 1,1). Vì thế
từ nay ai thấy Đức Giêsu Kitô là thấy Chúa Cha. Ai tin vào Đức Giêsu thì
sẽ được cứu độ.
2. Hành trình tìm
kiếm và gặp gỡ Chúa.
Hành trình tìm kiếm
để gặp gỡ Chúa Giêsu không dễ dàng chút nào. Tin mừng hôm nay thuật lại:
Nhờ thao thức tìm kiếm nên ba nhà Đạo sĩ đã khám phá ra vị Vua
tối cao xuất hiện ở Phương Đông qua dấu chỉ “ngôi sao lạ”. Từ
đó, Ba Vua đã không ngại dấn bước lên đường tìm đến Bêlem để
triều bái Người. (Mt 2,7).
Hành trình Đức Tin
của ba Đạo sĩ (ba Vua) gặp rất nhiều khó khăn và thử thách. Nhưng ba
Vua đã không nản chí sờn lòng. Dưới sự hướng dẫn của ngôi sao
chỉ đường, họ đã vượt qua tất cả để cuối cùng tìm gặp Đấng Cứu Thế.
Khi gặp
Chúa Giêsu Hài Đồng, họ dâng lên Chúa vàng, nhũ hương, mộc dược. Các
Giáo Phụ giải thích rằng những tặng phẩm này mang nhiều ý nghĩa: “Dâng hương để
nhận Người là Chúa, dâng vàng để nhận Người là Vua, và dâng mộc dược để loan
báo Người sẽ chết.” (Thánh Phêrô Kim Ngôn).
Tuy nhiên, ngày nay
ba tặng phẩm ấy được giải thích theo nghĩa khác: vàng tượng
trưng cho đức tin vào thiên tính của Đấng Thiên Sai; nhũ hương tượng
trưng cho đức cậy là lời cầu nguyện như hương trầm bay lên để tôn vinh
Chúa; mộc dược tượng trưng cho đức mến là sự hy sinh và sự từ
bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa.
3. Đời sống phải có
sau khi gặp gỡ Chúa.
Một chi tiết đáng
quan tâm được thánh Matthêu ghi lại: “Sau khi đã gặp Đấng Cứu Thế, được
mộng báo nên họ không trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nhưng đã đi lối khác mà về xứ
mình.” (x. Mt 2,12). Chi tiết này mang ý nghĩa biểu tượng. Nghĩa là
sau khi họ đã gặp Chúa Giêsu, họ đã thay đổi hướng đi, thay đổi suy nghĩ, từ bỏ
con đường cũ, và đi vào con đường mới; họ có tầm nhìn mới, suy nghĩ mới và cuộc
sống mới. Những ai gặp Chúa đều có sự biến đổi tận căn như thế.
Cũng như Ba Vua, sau
khi gặp Chúa, chúng ta cũng được mời gọi thay đổi lối sống cũ, mặc lấy con
người mới và sống theo tinh thần mới theo những giá trị Tin mừng mời gọi.
Ngày hôm nay, nhiều
người vẫn còn đang sống trong bóng tối lầm lạc, chưa nhận biết và tôn thờ Chúa
Giêsu là Đấng Cứu Độ. Chúng ta được mời gọi trở thành những “ánh sao dẫn đường”
đưa họ đến với Chúa như Lời Chúa dạy: “Chính anh em là ánh sáng cho
trần gian.” (Mt 5,14) và “Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy
chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời.” (Pl 2,15).
Lạy Chúa, Chúa đã tỏ
mình ra cho Ba Vua nhận biết và đến thờ lạy Chúa qua ánh sao lạ dẫn đường, xin
cho chúng con biết tin nhận và tôn thờ Chúa là Đấng Cứu Độ muôn dân. Đồng thời,
xin cũng biến đổi chúng con thành những ánh sao dẫn đường cho người
khác đến gặp gỡ và tôn thờ Chúa như Chúa là Đấng đáng được
tôn thờ. Amen
(Dựa trên ý tưởng
của Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
Suy
niệm 2: THẮP LÊN MỘT NGỌN NẾN
Lời
Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a hôm nay được vang lên như một lời hiệu triệu,
thôi thúc kêu gọi chúng ta hãy toả sáng: “Hãy đứng lên, bừng sáng lên!
… Kìa bóng tối bao trùm mặt đất và mây mù phủ lấp chư dân…” (Is
60,1-6).
Nếu
hôm xưa, Thiên Chúa đã nhờ ngôi sao lạ để soi đường dẫn lối cho các nhà chiêm
tinh ngoại giáo tìm đến thờ lạy Chúa hài nhi tại Bê-lem, thì hôm nay, Ngài cũng
cậy nhờ chúng ta như những ánh sao Bê-lem mới để dẫn đường đưa lối muôn dân về
với Chúa (Mt 2,1-12). Vì lẽ đó mà Chúa Giê-su đã phán dạy: “Chính anh
em là ánh sáng cho trần gian... Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt
thiên hạ, để họ xem thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha
của anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5,14-16). Và Thánh Phao-lô
cũng nhắc nhở chúng ta: “Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ… anh em hãy
chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời.” (Pl 2,15).
Nếu
chúng ta không thể là “ánh sáng cho trần gian” như lời Chúa
Giê-su truyền dạy hoặc không thể là “ngôi sao trên vòm trời” như
lời Thánh Phao-lô nhắc nhở, thì ít ra chúng ta cũng phải là một “ngọn nến” nhỏ
trong gia đình, trong khu xóm, trong họ đạo chúng ta đang cháy sáng.
-
Cùng nhau thắp nến
Một
ngọn nến nhỏ không toả sáng nhiều, nhưng nhiều ngọn nến được đốt lên sẽ làm
sáng tỏ cả một không gian rộng lớn. Việc tốt của một người chưa có ảnh hưởng
bao nhiêu, nhưng việc tốt của nhiều người sẽ mang lại ảnh hưởng lớn.
Trong đêm vọng phục sinh, sau nghi thức làm phép
lửa và nến phục sinh, đang khi cả nhà thờ chìm trong bóng tối… ánh nến phục
sinh trong tay linh mục chủ tế từ cuối nhà thờ từ từ tiến lên, tiến lên… Ánh
lửa này được thắp cho vài cây nến nhỏ của các em lễ sinh và các ngọn lửa từ tay
lễ sinh lại truyền qua cho những người kế cận... Thế rồi chỉ trong chốc lát, cả
nhà thờ bừng sáng trước hàng trăm ngọn nến lung linh.
Nếu chúng ta để cho ánh lửa của yêu thương và
việc tốt bừng cháy lên trong đời mình, và để cho lửa ấy tiếp tục lan sang những
người kế cận… thì hy vọng một ngày không xa, cả phố phường làng mạc sẽ bừng
sáng.
-
Mỗi ngày làm một việc tốt
Hằng
ngày, các phương tiện truyền thông như báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền
hình… đề cập đến nhiều thứ “bóng tối” đang bao trùm xã hội. Đó là những tệ nạn
lan tràn khắp nơi. Trước tình hình đó, người thì quy trách cho các nhà
giáo dục; người khác thì đổ lỗi cho thế lực này, tổ chức kia… Thế rồi người ta
đua nhau nguyền rủa “bóng tối” mà không chịu thắp lên một ngọn đèn. Làm như thế
thì “bóng tối” ngày càng lan rộng, càng dày đặc thêm. Vậy tại sao chúng ta
không thắp lên một “ngọn nến nhỏ” trong gia đình, trong thôn xóm mình mà lại
ngồi đó khoanh tay nguyền rủa “bóng tối”? Mỗi người hãy cố gắng thắp lên nơi
mình một ngọn nến ngay từ hôm nay.
Mỗi
ngày hãy thắp ngọn nến của mình lên bằng cách làm một việc tốt, như mỉm cười
chào hỏi người hàng xóm khó thương, ủi an người gặp khó khăn gian khổ, thăm
người già yếu bệnh tật... Nay một việc tốt, mai một việc tốt, mỗi tháng có đến
30 việc tốt, mỗi năm có 365 việc tốt thì thật tuyệt vời!
Nếu
chúng ta nhẫn nại thắp nến hằng ngày như thế, chắc chắn, bóng tối sẽ bị đẩy
lùi, ánh sáng sẽ toả lan, gia đình và làng xóm sẽ an vui hạnh phúc.
Lạy
Chúa Giê-su,
Xin
giúp mỗi người chúng con quyết tâm làm một việc tốt mỗi ngày. Đó là bổn phận
của người tín hữu vốn là ánh sáng trần gian. Đó là lễ vật cao đẹp mà Chúa ưa
thích và chờ đợi nơi chúng con mỗi ngày. Đó cũng là ánh nến nhỏ mà chúng con
cần phải thắp lên để đẩy lùi bóng tối đang bao phủ phố phường, thôn xóm chúng
con. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Suy
niệm 3: HIỂN LINH HÀNH TRÌNH SỐNG ĐẠO
Tin
mừng chúng ta vừa nghe kể lại chuyện ba vua hiệp hành với nhau để ra đi tìm
kiếm và thờ lạy Chúa Giêsu Hài Đồng. Hành trình tìm kiếm và thờ lạy Chúa của ba
vua cũng chính là hành trình sống đạo của mỗi chúng ta. Có thể nói hành trình
sống đạo của chúng ta được thể hiện cụ thể ở 3 động từ căn bản: Mắt nhìn, chân
bước, và lòng dâng.
1. Mắt
Nhìn. Xã hội lúc nào cũng đề cao đến 3 chữ ”T”. Ngoài Tình-Tiền-Tửu.
Các nhà lãnh đạo còn đề cập nhiều đến Tâm, Tầm và Tài.
Khi
nói đến mắt nhìn, ta liền liên tưởng đến chữ “Tầm”. Tầm là có cái nhìn xa,
trông rộng, biết tính toán trước sau, không vì cái lợi trước mắt mà làm cho cái
lâu dài bị sa sút, bị mai một, bị kém hiệu quả. Tầm nhìn xa trông rộng rất cần
thiết cho hành trình đức tin của người Kitô hữu chúng ta.
Ngay
từ xa xưa, Kinh Thánh đã nói đến tầm quan trọng của mắt nhìn. Mắt nhìn sai sẽ
gây nên hậu quả rất tai hại. Tổng lãnh Thiên Thần Luxiphe và bà Evà đã có cái
nhìn sai lạc về Thiên Chúa nên đã phải lãnh lấy hậu quả hết sức tai hại, làm
ảnh hưởng đến cả nhân loại. Trái lại khi có cái nhìn đúng sẽ giúp chúng ta đón
nhận được chân lý và ơn cứu độ, tựa như người trộm lành đã nhận ra đấng bị treo
trên thập giá với mình là chính là Đấng cứu chuộc. Nên ông đã tin và tuyên xưng
niềm tin của mình, nhờ đó ông đã được Chúa ban thưởng hạnh phúc thiên đàng.
Ba
vua đã có tầm nhìn cao và sâu qua ánh sao lạ trên cao. Vì thế Ba vua đã nhận ra
một vị vua tối cao hiện diện nơi Hài Nhi Giêsu bé nhỏ đang nằm trong máng cỏ. Cho nên mắt nhìn là điều hết sức quan trọng trong đời sống đạo. Mắt nhìn sáng suốt sẽ dẫn đến nhận định đúng, nhận định đúng ta sẽ có lối sống đúng, nhờ đó
mà đời sống của ta mới có được an vui và hạnh phúc đích thực.
2. Chân
Bước. Đạo là đường. Đường là để đi chứ không để ngồi ì một chỗ. Phúc Âm cho
biết khi thi hành sứ vụ loan báo tin mừng, Chúa Giêsu luôn bước đi trên khắp
các đường Palestine, chứ Ngài không đứng hay ngồi ì một chỗ.
Khi
Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem, có nhiều người vẫn biết sự xuất hiện của Ngài như:
vua Hêrôđê, các thượng tế, các kinh sư nhưng họ lại ngồi yên ở nhà, không dám
dấn bước lên đường; chỉ có ba vua một khi nhìn thấy ánh sao lạ, họ bỏ lại tất
cả để dấn bước lên đường tìm kiếm Chúa.
Đức
Thánh Cha Phanxicô, vị chủ chăn của GH cũng đang mời gọi tất cả chúng ta cùng
hiệp hành với nhau, nghĩa là cùng nhau tiến bước trên cùng một con đường theo
Chúa Kitô, dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, theo sự chỉ dẫn của Lời Chúa.
Nên không lạ gì chúng ta được gọi là thành phần Hội Thánh lữ hành. Vậy ta hãy
mạnh dạn ra đi và tiến bước.
3. Lòng
Dâng. Khi thấy Hài Nhi, ba vua đã thể hiện tấm lòng của mình, bằng
cách sấp mình thờ lạy và dâng tiến lễ vật là: vàng, nhủ hương và mộc dược mà tỏ
lòng tôn kính và yêu mến Chúa .
Sống
đạo rất cần đến tấm lòng yêu mến và quảng đại dâng hiến chứ không phải là khép
lòng cầu vinh, cầu lợi cho riêng mình. Điều này nhắc nhở chúng ta hãy nhìn lại tấm
lòng của mình mỗi khi ta tham gia: cầu nguyện, tham dự thánh lễ, làm các việc
đạo đức và thực thi bác ái… Vậy ta có làm với tấm lòng yêu mến, bao dung và quảng
đại với Chúa và với mọi người không?.
Lễ
Hiển Linh là dịp kỉ niệm lại biến cố Thiên Chúa tỏ mình ra nơi một trẻ thơ bé
nhỏ là Hài Nhi Giêsu. Hình ảnh này nhắc nhở chúng ta hướng đến một cái nhìn
siêu nhiên và cao sâu hơn để nhận ra Chúa hiện diện nơi những anh chị em chúng
ta, đặc biệt là nơi những người bé nhỏ, nghèo khổ. Nhờ đó chúng ta mới có thể
đối xử với anh chị em chúng ta bằng một tấm lòng yêu mến, tôn trọng như là chúng
ta ứng xử với Chúa vậy.
Xin cho chúng con có được
đôi mắt sáng để nhận ra Chúa qua những dấu chỉ của thời đại; xin cho con có đôi
chân vững để hăng say tiến bước lên đường tìm đến Chúa và anh chị em con. Xin
cho con có được tấm lòng yêu thương của Chúa để con cũng biết chạnh lòng trước
nỗi đau của anh chị em con, mà tận tâm giúp đỡ với lòng quảng đại chân thành. Nhờ
đó, chúng con mới có thể trở thành những ánh sao sáng, nhằm đưa dẫn cho nhiều người
tìm đến gặp gỡ và tôn thờ Chúa. Bởi vì Chúa chính là Đấng đáng
được mọi người tôn thờ. Amen
Lm. Nguyễn Xuân Trường
Suy niệm 4:
1. TÊN BA NHÀ ĐẠO
SĨ:
Theo truyền thuyết
kể lại, 3 nhà Đạo sĩ có tên: Bal-tha-sar, Mel-chi-or và Gas-per, là những nhà
chiêm tinh hay vũ trụ học, họ là chuyên gia nghiên cứu về
những hiện tượng xảy ra trong trời đất, năm ấy các ngài đã phát hiện
một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời. Sau khi tìm hiểu cẩn thận, các ngài biết
được ngôi sao lạ này báo hiệu một nhân vật quan trọng đã sinh ra đời và
vị ấy sẽ là cứu tinh cho nhân loại. Nên các ngài đã bỏ lại tất cả
để quyết tâm lên đường tìm kiếm.
2. Ý NGHĨA CỦA BA
LỄ VẬT:
- Ba tặng phẩm
này mang nhiều ý nghĩa: Theo Thánh Phêrô Kim Ngôn:
Dâng hương nhằm nhận Người là Chúa;
Dâng vàng để nhận Người là Vua;
Dâng mộc dược để loan báo Người sẽ chết.” (Thánh Phêrô Kim Ngôn).
Vàng: muốn
nói em bé này là Vua của nhân loại. Nhũ hương: ý nói em bé
này chính là Thiên Chúa. Mộc dược: ý chỉ sẽ ướp xác
em bé sau này.
- Các nhà chuyên
môn ngày nay thì giải thích khác một chút:
Vàng tượng trưng cho đức tin vào thiên tính của Đấng
Thiên Sai;
Nhũ hương tượng trưng cho đức cậy là lời cầu nguyện
như hương trầm bay lên để tôn vinh Chúa;
Mộc dược tượng trưng cho đức mến là sự hy sinh và sự từ bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa.
Tin mừng hôm nay đề cập đến hai sự chỉ
dẫn quan trọng, giúp cho ba vua- đại diện cho dân ngoại- tìm đến gặp gỡ và thờ
lạy Hài Nhi Giêsu. Đó là ánh sao lạ (dấu chỉ tự nhiên) và Lời Chúa (dấu chỉ
siêu nhiên).
1. Ánh sao, dấu chỉ tự nhiên
Vào đêm Chúa Giáng Sinh bầu trời Belem lấp
lánh ánh sao lạ và rộn ràng tiếng ca hát của các thiên thần. Nhưng chẳng có ai
hay biết. Chỉ có mấy mục đồng nhận được sứ điệp của thiên thần. Chỉ có mấy nhà
đạo sĩ- ba vua- ngoại giáo nhận ra ánh sao lạ.
Khi nhận ra ánh sao lạ báo hiệu Đấng
Cứu Thế ra đời, các đạo sĩ đã vui mừng lên đường tìm kiếm. Dõi theo ánh sao,
các đạo sĩ tìm đến Giêrusalem, trung tâm chính trị, văn hoá và tôn giáo của
Israel, dân riêng Thiên Chúa. Nhưng khi đến Giêrusalem, thì ánh sao biến mất,
khiến các đạo sĩ phải hỏi thăm tin tức về nơi chốn của vị “Vua dân Do thái vừa mới sinh ở đâu.”
2. Lời Chúa, mạc khải siêu nhiên
Nhận được câu hỏi của các đạo sĩ về nơi
chốn vị “Vua dân Do thái vừa mới sinh”, vua quan và dân chúng của kinh thành
Giêrusalem bối rối xôn xao. Nhưng nhờ vào lời Chúa được ghi trong Thánh Kinh mà
các thượng tế và kinh sư đã đưa ra câu trả lời cho ba vua về nơi chốn và ngày
giờ của vị Vua người Do Thái vừa mới giáng sinh, đó là ờ Belem. Nhờ sự chỉ dẫn
của Lời Chúa mà các đạo sĩ biết được chính xác nơi chốn Hài Nhi Giêsu giáng
sinh.. Khi ấy họ liền ra khỏi thành Giêrusalem, và kìa ngôi sao lạ đã xuất hiện
trở lại đưa dẫn họ tìm đến gặp Hài Nhi
Giêsu. Khi ấy họ liền qùi gối xuống thờ lạy, rồi dâng lễ vật để tỏ lòng yêu mến
và tôn kính.
3. Sống Tin mừng
Từ những điểm trên, ta nhận thấy vai
trò của mạc khải tự nhiên trong việc giúp con người tìm kiếm Thiên Chúa rất
quan trọng. Đúng như Thánh vịnh 18 viết: “Trời xanh tường thuật
vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm…”. Quả
thật, khi nhìn ngắm trời đất muôn loài muôn vật, và trật tự lạ lùng torng vũ
trụ chúng ta có thể nhận ra Thiên Chúa chính là tác giả của công trình vĩ đại
và lạ lùng ấy.
Vì thế mà dấu chỉ tự nhiên trong trời
đất muôn vật rất cần thiết để thúc đẩy con người hăng say kiếm tìm, khám phá
chân lý. Tuy nhiên tự nó không đủ để dẫn đưa con người đến với Thiên Chúa hằng
sống, mà còn cần đến có sự trợ giúp của mặc khải siêu nhiên đó là Lời Chúa,
được chứa đựng trong Thánh Kinh và Thánh Truyền, con người mới chắc chắn tìm
gặp được Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ nhân loại.
Để chuẩn bị cho nhân loại đón nhận Đấng
Cứu Độ và những chân lý mạc khải siêu nhiên, Thiên Chúa đã chọn gọi dân Israel
làm dân riêng. Nói khác đi, dân Israel như là một khí cụ Thiên Chúa dùng để đón
nhận và trao ban Đấng Cứu Độ cho muôn dân. Vì thế muôn dân muôn nước sẽ phải
đến với dân Israel như lời tiên tri Isaia loan báo trong bài đọc 1 (x. Is 60,1-
6).
Ngày nay vai trò của dân Isarael đã
được Giáo Hội thế chỗ. Giáo Hội là dân Israel mới, được Đức Giêsu tuyển chọn và
thành lập trên nền tảng 12 thánh Tông đồ theo thánh ý Chúa Cha với sự hướng dẫn
của Chúa Thánh Thần. Nên Giáo Hội có vai trò đón nhận, gìn giữ, trình bày, giải
thích kho tàng mạc khải siêu nhiên cách nguyên tuyền và đúng đắn cho nhân loại,
và chỉ cho nhân loại con đường chắc chắn dẫn đưa tới Thiên Chúa và sự sống đời
đời. Vì thế chúng ta cần phải:
- Vâng lời Giáo Hội để tham gia vào
việc xây dựng và phát triển Giáo Hội ngay tại địa phương, môi trường sống của
mình, nhờ đó mà Giáo Hội, Họ đạo chúng ta trở nên ‘ánh sao sáng’ và là một địa chỉ
đáng tin cậy, giúp anh chị em chung quanh chúng ta tìm đến với Chúa. Đừng bao
giờ coi thường, chống phá Giáo Hội, hay gây gương mù gương xấu, làm cho người
ngoại giáo không còn coi Giáo Hôi, họ đạo chúng ta là địa chỉ đáng tin cậy tìm
đến với Chúa nữa.
- Hãy năng đọc và suy gẫm Thánh Kinh. Tích
cực học hỏi sâu rộng về giáo lý đức tin cũng như kiến thức về văn hoá trong đời
sống hàng ngày. Nhờ đó đời sống của chúng ta mới có thể “chiếu sáng như những
vì sao trên vòm trời; và sẵn sàng trả lời cho những ai chất vấn niềm tin và
niềm hy vọng của chúng ta” tựa như các Kinh sư và Luật sĩ xưa đã trả lời cho ba nhà đạo sĩ.
Nếu như kinh không thuộc, giáo lý không
biết, Lời Chúa ta không đọc không học, thì làm sao ta có thể trả lời cho những
ai tra hỏi chúng ta về lẽ đạo! Không trả lời được về lẽ Đạo thì ta không thể dẫn
đưa người khác đến với Chúa được. Khi ấy, đời chúng ta thay vì chiếu sáng lại
trở nên tối tăm! Thay vì làm sáng danh Chúa ta lại làm ô danh Chúa!
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết yếu thích
học hỏi lời Chúa và giáo huấn giáo hội, cũng như những kiến thức về văn hoá xã
hội, để chúng ta sẵn sàng trả lời cho những ai chất vấn niềm tin của chúng ta.
Nguyện xin Chúa cũng biến đổi chúng ta thành những ánh sao sáng giữa bầu trời xã hội còn nhiều tăm tối này, nhờ đó ta mới có thể đưa dẫn anh chị em chúng ta tìm đến và gặp gỡ được Chúa, là nguồn cội của sự sống và là bến bờ hạnh phúc đích thực . Amen.
Linh mục Giuse Nguyễn Văn Hữu
Suy niệm 5:
- Vào lúc 15h34
phút ngày 31 tháng 12 năm 2022, Hội thánh hoàn vũ
phải ngậm ngùi tiển biệt một ngôi sao sáng trên bầu trời triết lý và
thần học đã lịm tắt , đó là ĐGH danh dự
Bê-nê-đic-tô 16. Một người Cha thánh thiện, một vị Mục tử
nhân từ, một bậc Thầy lỗi lạc, một Chứng nhân trung kiên trong đức
tin đã ra đi về với Chúa.
- Hôm nay Giáo hội
hân hoan mừng Lễ Chúa Hiển Linh, kỷ niệm lại biến cố Hài nhi Giê-su là Thiên
Chúa, tỏ mình ra cho dân ngoại qua 3 nhà Đạo sĩ Phương Đông nhờ ánh
sao lạ dẫn đường.
- Theo truyền thuyết
kể lại, 3 nhà Đạo sĩ có tên: Bal-tha-sar, Mel-chi-or và Gas-per, là những nhà
chiêm tinh hay vũ trụ học, họ là chuyên gia nghiên cứu về
những hiện tượng xảy ra trong trời đất, năm ấy các ngài đã phát hiện
một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời. Sau khi tìm hiểu cẩn thận, các ngài
biết được ngôi sao lạ này báo hiệu một nhân vật quan trọng đã sinh
ra đời và vị ấy sẽ là cứu tinh cho nhân loại. Nên các ngài
đã bỏ lại tất cả để quyết tâm lên đường tìm kiếm. Đây chính là nguồn
gốc của Lễ Ba Vua trước đây, sau này Phụng vụ đổi thành Lễ Hiển Linh.
- Từ truyền thuyết
trên và qua tường thuật Tin mừng của Thánh Mát-thêu mà chúng ta
vừa nghe, có lẽ chúng ta nghĩ việc 3 nhà Đạo sĩ này tìm đến tôn thờ
Chúa quá dễ dàng. Chỉ tình cớ nhìn thấy ngôi sao lạ, nhận ra có
một nhân vật quan trọng vừa xuất hiện, rồi cuốn gói lên đường. Tuy nhiên
nếu đọc lại kỹ đoạn Tin mừng, và suy tư tìm hiểu chúng mới nhận ra
rằng:
1. Đây là một
hành trình dài đầy gian lao vất vả.
- 3 nhà Đạo sĩ là
những người ngoại đạo, chưa một lần được biết hay nghe nói về Chúa; hơn nữa,
lại họ là những người giàu có, quyền thế và thông thái. Theo quan
niệm bình thường, khi không bị ràng buộc do trách nhiệm và có dư đầy của cải,
danh vọng trong cuộc sống, người ta thích ngồi đó ăn chơi, hưởng thụ chứ tội gì
phải vất vả rước vào mình vào những thứ phiền phức. Nhưng các nhà Đạo
sĩ đã không nghĩ thế, các ông không để cho vật chất và quyền lực cản bước tâm
hồn khao khát tìm kiếm chân lý và sự thật.
- Chính tấm lòng
chân thành này đã giúp các ông nhận ra dấu chỉ của ánh sao lạ trong bầu trời
bao la, cho các ông sức mạnh và lòng can đảm bỏ mọi tiện
nghi cuộc sống để kiên trì tiến bước trên một hành trình dài với bao gian khổ,
nguy hiểm, có khi lâm vào nỗi hy vọng. Nhưng với lòng kiên nhẫn và
chân thành cuối cùng, các ông cũng tìm đến nơi, mà đó lại không phải
một cung điện nguy nga, sang trọng trái lại là một chuồng bò tồi tàn, hôi
thối, với một Hài nhi bé nhỏ nằm trong máng cỏ giữa vòng
tay yêu thương của cha mẹ. Vây mà các ông vẫn tin đó là vị cứu tinh nhân loại.
Vì thế các ông đã tôn thờ và cung kính dâng cho Hài Nhi Giêsu những
lễ vật quý giá.
Như vậy, có thể
nói hành trình của 3 nhà Đạo sĩ tìm đến thờ lạy Chúa Hài nhi Giê-su
là một hành trình của lòng chân thành, kiên tâm và không toan
tính. Cho nên lòng hiểm độc và toan tính như Vua Hê-rô-đê và
những người biệt phái, dù thông thạo Kinh Thánh, nhưng lại không nhận
ra Chúa. Chỉ có Thánh Giu-se, Đức Mẹ, các mục đồng và 3 nhà Đạo
sĩ với tấm lòng đơn sơ, chân thành và trung tín mới nhận ra
Chúa.
2. Các ông dâng Chúa
Hài nhi những món quà quí giá nhất.
- Ba nhà Đạo sĩ đã
dâng cho Chúa Hài nhi Giê-su những món quà quí giá của mọi thời đại:
Vàng: muốn nói em bé này là Vua của nhân loại, Nhũ hương: em bé
này chính là Thiên Chúa và Mộc dược: ý chỉ sẽ ướp xác
em bé sau này. Ba tặng phẩm ấy được các nhà chuyên
môn ngày nay giải thích theo nghĩa khác: vàng tượng trưng
cho đức tin vào thiên tính của Đấng Thiên Sai; nhũ hương tượng
trưng cho đức cậy là lời cầu nguyện như hương trầm bay lên để tôn vinh
Chúa; mộc dược tượng trưng cho đức mến là sự hy sinh và sự từ
bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa.
- Mừng Lễ Chúa Hiển
Linh, chúng ta vừa dâng lời chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa, vì yêu
thương, đã mạc khải mình ra cho nhân loại nhận biết Ngài. Đồng
thời, chúng ta cũng được mời gọi khám phá những ngôi sao sáng trong cuộc sống quanh
ta. Những ngôi sao này đang hiện diện ở nơi các gia đình
qua đời sống thánh thiện, yêu thương và hy sinh của ông bà, cha
mẹ ta; cũng như nơi những anh chị em công khai hoặc âm
thầm đóng góp phần mình để xây dựng Họ đạo hay phục vụ cho
cộng đồng xã hội với lòng quảng đại bác ái. Chính những ngôi sao sáng này
sẽ là ánh sao hữu hiệu chỉ đường cho nhiều người
tìm gặp Chúa.
- Trong cuộc sống
thường ngày, anh chị em cũng đừng quên dâng cho Chúa những món quà quí giá của
riêng mình. Chắc chắn Chúa Hài đồng Giêsu không cần
tiền tài, danh vọng, quyền lực, áo quần, bánh kẹo và đồ chơi…. Nhưng
Ngài thích những món quà của tình bác ái, sự quan tâm giúp
đỡ chân tình của chúng ta dành cho nhau nơi gia đình, khu
xóm và trong Họ đạo. (St)
Suy niệm 5: MẦU NHIỆM
LUÔN MỚI MẺ
Trích sách Năm
trăm luận đề thần học của thánh Mác-xi-mô Tuyên giáo, viện phụ.
Ngôi Lời Thiên Chúa
sinh làm người chỉ có một lần (do lòng quảng đại và nhân ái của Người) ; nhưng
Người muốn sinh ra cách thiêng liêng luôn mãi nơi những ai ao ước. Người trở
nên trẻ thơ, ép mình cho vừa khả năng của họ. Người tỏ chính mình ra theo tầm mức
lãnh hội của kẻ đón nhận ; Người giảm thiểu vẻ oai nghiêm của mình mà lòng
chẳng chút đắng cay. Tuỳ theo mức độ và cách thức của những kẻ ước ao thấy
Người, Người thích ứng với khả năng tiếp nhận của họ. Dầu vậy, không ai thấu
hiểu được Người vì mầu nhiệm của Người cao cả.
Vì thế, khi suy nghĩ
về chiều kích của mầu nhiệm này, thánh Tông Đồ đã nói cách khôn ngoan : Đức
Giê-su Ki-tô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời.
Như thế, thánh nhân muốn hiểu rằng mầu nhiệm Đức Ki-tô luôn luôn mới, không bao
giờ cũ kỹ vì chẳng một tâm trí nào có thể lãnh hội hết được.
Đức Ki-tô vốn là
Thiên Chúa ; khi sinh làm người, đã mặc lấy xác phàm cùng với hồn thiêng. Chính
Người đã cho vạn vật được phát xuất từ hư vô. Một ngôi sao xuất hiện từ phương
đông chiếu sáng và dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đến nơi ở của Ngôi Lời làm
người. Ngôi sao ấy chứng tỏ rằng Ngôi Lời mà sách Lề Luật và sách các Ngôn Sứ
đã nói đến, Ngôi Lời mầu nhiệm ấy vượt qua mọi sự hiểu biết của giác quan con
người và dẫn đưa muôn dân tới ánh sáng chan hoà, tức là sự hiểu biết đích thực.
Quả vậy, những lời
trong sách Lề Luật và sách các Ngôn Sứ, tựa như ngôi sao, một khi được hiểu
cách trung thực, sẽ dẫn đưa những người được Chúa thương kêu gọi theo thánh ý
đến nhận biết Ngôi Lời nhập thể.
Bởi thế, Thiên Chúa
trở nên con người cách trọn vẹn, không thay đổi điều gì thuộc bản tính loài
người, ngoại trừ tội lỗi (vì chính tội không thuộc bản tính ấy). Người muốn đưa
thân xác ra làm mồi để khiêu khích con mãng xà đang háu đói chực nuốt trửng
thân xác ấy. Thân xác ấy sẽ trở nên thuốc độc cho con mãng xà, có khả năng huỷ
diệt nó, nhờ quyền năng Thiên Chúa tiềm ẩn bên trong. Nhưng thân xác ấy lại là
linh dược cứu thoát loài người, cho họ lại được hưởng các ân huệ xưa, cũng nhờ
quyền năng Thiên Chúa tiềm ẩn bên trong.
Quả thật, con người
đã làm hư hỏng bản tính của mình khi nếm thuốc độc tuôn ra từ cây biết lành
biết dữ thế nào, thì cũng vậy, khi định nuốt trửng thân xác của Chúa, con mãng
xà đã bị phanh thây và bị tiêu diệt do quyền năng Thiên Chúa tiềm ẩn bên trong.
Mầu nhiệm Thiên Chúa
nhập thể thật là cao siêu và mãi mãi vẫn là mầu nhiệm. Làm sao Ngôi Lời nhập
thể được, vì xét theo yếu tính, Người là một ngôi vị, mà tự bản thể, cũng một
ngôi vị ấy hoàn toàn hiện hữu nơi Chúa Cha ? Làm sao chính Người hoàn toàn là
Thiên Chúa xét theo bản tính, và cũng hoàn toàn là người xét theo bản tính,
chẳng hề thiếu một bản tính nào, không thiếu bản tính Thiên Chúa để là Thiên
Chúa, cũng không thiếu bản tính loài người chúng ta để làm người ?
Chỉ có đức tin mới
lãnh hội được các mầu nhiệm này, vì chính bản chất và nền tảng của các mầu
nhiệm ấy vượt quá mọi giác quan và hiểu biết của lý trí.
(Nguồn Kinh Sách, thứ năm trước lễ Hiển Linh)
Thứ hai: KÍNH CHÚA GIÊSU
CHỊU PHÉP RỬA
Is 42,1-4.6-7; Cv
10,34-38; Mt 3,13-17
Suy niệm 1: TIẾNG
NÓI BÊN DÒNG SÔNG GIO-DAN
Khởi đầu sứ mạng
công khai, loan báo Tin mừng cứu độ, Đức Giêsu đã đến dòng sông Giodan để lãnh
nhận phép rửa của Gioan Tẩy Gỉa. Trong biến cố này, Đức Giêsu được xác
nhận là con yêu dấu của Chúa Cha, đồng thời Chúa Cha cũng mời gọi chúng ta hãy
lắng nghe lời Con yêu dấu của Người chỉ dạy.
Xin cho chúng ta
biết khiêm tốn để tâm lắng nghe và thực thi những lời dạy của Chúa Giêsu hầu
xứng danh là con yêu dấu của Chúa Cha.
Có thể nói, biến cố Chúa
Giêsu chịu phép rửa trong dòng sông Giodan mà Tin mừng hôm trình thuật, muốn
nói với chúng ta biết 3 điều quan trọng:
1. Mầu nhiệm Một
Chúa Ba Ngôi được minh định. Trong biến cố này có sự xuất hiện của
Chúa Cha qua tiếng nói từ trời cao; có Chúa Thánh Thần ngự xuống dưới hình dáng
chim bồ câu; và của Chúa Con nơi Đức Giêsu qua lời xác nhận của Chúa Cha: “Con
là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con.” (Lc 3, 22).
2. Cuộc Sáng Tạo Mới
được khai mào.
Biến cố Chúa Giêsu
chịu phép rửa ở sông Giođan là khai mở một cuộc sáng tạo mới. Bởi khi ấy trời
mở ra và có sự xuất hiện của Chúa Thánh Thần với hình chim câu ngự xuống. Hình
ảnh ấy gợi nhớ lại lúc khởi nguyên, Thần Khí Chúa cũng bay là trên nước, từ đó
công trình tạo dựng vũ trụ và con người được hình thành. Nhưng công cuộc sáng
tạo ban đầu ấy đã bị phá vỡ do tội nguyên tổ. Nay trong Đức Giêsu một cuộc tạo
dựng mới lại được Thiên Chúa khai mở.
3. Đức Giêsu là hiện
thân của Thiên Chúa làm người.
Hình ảnh người tôi
trung của TC đã được Isaia loan báo từ ngàn xưa (Khoảng 700 năm trước), nay đã
được ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, rất đổi khiêm nhường. Cho dẫu
rằng Người là Thiên Chúa nhưng Người nhưng vì yêu và để cứu chuộc chúng ta, Người đã chấp nhận nhập thể, nhập thế làm người để ở giữa chúng ta, ngoại trứ tội lỗi, như lời Thánh Phaolô đã nói trong thư gửi tín hữu Philipphê: “Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không
nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn
toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như
người trần thế.” (Pl 2, 6-7).
Cho dẫu Người là Đấng vô
tội, nhưng Người lại sẵn sàng hòa mình với tội nhân, tham gia xếp hàng với mọi người để lãnh nhận phép rửa
sám hối của Gioan Tẩy Gìa. Như vậy, Chúa Giêsu đã chấp nhận đi vào dòng đời để sống phận người hầu đồng thân, đồng phận và sau này đồng tử với con người, hầu cứu chuộc
con người. Với lòng khiêm tốn hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Chúa
Giêsu đã trở nên Ađam mới. Nơi Người một trời mới đất mới được khai mở và thời
kỳ ơn cứu độ của Thiên Chúa đã đến trong thế gian.
Xin cho chúng ta
biết đón nhận Chúa Giêsu vào trong cuộc đời của mình qua việc khiêm tốn lắng
nghe và thực hành lời Người chỉ dạy. Nhờ đó chúng ta mới xứng đáng trở thành
người con yêu của Chúa Cha.
Xin Chúa cũng
cho chúng ta luôn biết sống hòa hợp với mọi người và sẵn sàng đón nhận mọi
nghịch cảnh xảy đến trong đời sống, theo tinh thần của Chúa Giêsu. Nhờ đó chúng
ta mới trở nên chứng nhân của tình yệu Chúa giữa thế gian và là niềm hy vọng
ơn cứu độ cho mọi người.
Suy
niệm 2:
“Chịu phép rửa xong, Đức Giê-su thấy Thần Khí Thiên Chúa đến ngự trên Người.” Câu Lời Chúa trên đây có làm cho bạn suy nghĩ nào không, chứ riêng tôi thì có suy nghĩ như thế này.
1.
Ân sủng của bí tích Rửa Tội thật là vô cùng lớn lao, mà
có khi trong cuộc sống chúng ta quên mất không biết cảm tạ Thiên Chúa, ân sủng
đó là: làm cho chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa, và tha tội nguyên tổ
cũng như những tội mà chúng ta đã phạm trước khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội.
2.
Bí tích Rửa Tội cũng dìm chúng ta trong nước, không phải nước của
sông Gio-đan, nhưng là nước được thánh hóa bởi quyền năng Thiên Chúa, nước này
đủ sức rửa sạch tội lỗi của chúng ta, và trả lại cho chúng ta ơn làm con Thiên
Chúa, qua sự chết và sống lại của Chúa Giê-su. Đó chính là hồng ân cao quý nhất
mà Chúa Giê-su có thể ban cho chúng ta, do đó mà Chúa Cha cũng nói với chúng ta
như đã nói với Chúa Giê-su: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về
con.” Chúa Cha không hài lòng sao được khi chính Con Một của Ngài đã
vì chúng ta mà chết trên thập giá !
Chúa Giê-su chịu phép rửa xong, Thần Khí Thiên Chúa ngự trên Ngài để từ đó Ngài công khai rao giảng tin mừng Nước Trời cho mọi người. Bạn và tôi cũng như thế, chúng ta có bổn phận rao giảng Tin Mừng cho mọi người, bởi vì ân sủng của bí tích Rửa Tội không phải là một trò đùa, hay như một bùa phép làm cho có lệ, nhưng là một dấu chỉ được sai đi, một tác động của Chúa Thánh Thần để chúng ta trở nên chứng nhân trung thành của Tin Mừng trong cuộc sống hôm nay.
Bạn thân mến,
Lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa là chấm dứt mùa giáng sinh, cũng có nghĩa là chúng ta đem mầu nhiệm giáng sinh ấy làm nền tảng để làm chứng có một Đấng Cứu Thế đã đến trong thế gian, Ngài đã sống và đã chia sẻ thân phận với con người, và vì yêu thương nên Ngài đã chịu khổ hình thập giá, đã chết đã sống lại và đã lên trời. Đấng Cứu Thế ấy vẫn hằng ngày hiện diện với Giáo Hội với chúng ta qua bí tích Thánh Thể, và chúng ta sẽ là những chứng nhân của Ngài...
Xin
Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài,
csjb.
Suy niệm
3: SỐNG TÌNH CON THẢO VỚI CHÚA CHA
Truyện: GƯƠNG KHIÊM NHƯỜNG TỰ HẠ CỦA MỘT ÔNG QUAN
Một
vị quan lớn mở tiệc mời nhiều người đến dự. Tất cả các người được mời đều ăn
mặc sang trọng và dùng xe đi đến. Trong số ấy có một vị khách cao niên. Rủi
thay, vì già yếu nên ông này khi bước xuống xe đã bị trượt chân té vào vũng bùn
khiến quần áo vấy bẩn. Khách đến dự tiệc thấy vậy liền phá lên cười.
Xấu
hổ và cảm thấy mình không xứng đáng, ông lão quyết định quay về nhà. Gia nhân
nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc. Khi nghe biết sự việc, viên
quan chủ tiệc đã từ trong nhà vội bước ra sân, tới chỗ vũng nước dơ, ông cũng
cố tình té ngã vào vũng nước. Thế là áo quần của ông cũng dơ bẩn y như cụ già
kia. Lần này mọi người chẳng ai còn dám cười nhạo nữa. Sau đó, vị quan lớn đến
cầm tay vị khách quý đưa vào phòng tiệc. Bây giờ ông lão chẳng thể nào chối từ
nữa.
Chính
hành động khiêm tốn hạ mình của viên quan chủ tiệc : cố tình té ngã xuống bùn
để trở nên lem luốc giống ông lão, mới đánh tan được mặc cảm tự ti của ông và
mới đưa được ông vui vẻ vào nhà dự tiệc.
1.
Mạc khải mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi :
Sự
kiện tại sông Gio-đan sau khi Đức Giê-su chịu phép rửa, chính là mạc khải của
Thiên Chúa cho loài người về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi : Chỉ có một Thiên Chúa
nhưng xuất hiện qua Ba Ngôi vị như sau :
-
Ngôi Con là Đức Giê-su vừa được ông Gio-an làm phép rửa bằng nước sông và từ
dưới nước trồi lên.
-
Ngôi Ba là Thần Khí Thiên Chúa từ trên cao đáp xuống như chim bồ câu và
ngự trên Đức Giê-su.
-
Ngôi Cha xuất hiện qua tiếng phán từ trời : “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta
hài lòng về Người”.
2.
Đức Giêsu nêu gương khiêm hạ cho chúng ta :
Đức
Giê-su là Con Thiên Chúa ngự trên trời cao, lại hạ mình xuống trở thành một
phàm nhân. Người là đấng thánh thiện vô cùng, lại khiêm nhu đứng xếp hàng chung
với những kẻ có tội.
Là
Đấng xóa tội trần gian, lại sẵn sàng hòa mình ở giữa đoàn người tội lỗi.
Là
Đấng thanh sạch vô biên, lại chấp nhận dìm mình trong dòng sông để nêu gương
sám hối cho các tội nhân.
Là
Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần, lại khiêm tốn xin Gio-an làm phép rửa.
Hành
động khiêm hạ của Đấng Cứu Thế cho thấy tình yêu vô biên Thiên Chúa đối với
loài người : Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người để chia sẻ thân phận đói
nghèo, khổ đau, bệnh tật của con người; Để cảm thông với nỗi đau khổ mà các tội
nhân đang phải chịu để đền tội và để ban ơn Thánh Thần giúp tội nhân được đổi
mới nên con yêu của Thiên Chúa.
3.
Kết hiệp với Chúa Giêsu để nên con thảo của Chúa Cha :
-
Sau khi nhận được Thần Khí, Đức Giê-su đã bắt đầu sứ mệnh Thiên Sai :
Trong
thời gian gần 3 năm, Người luôn theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để
chiến thắng ma quỷ cám dỗ, cầu nguyện kết hiệp với Chúa Cha, rao giảng Tin
Mừng Nước Trời, làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế. Cuối cùng, Người đã vâng lời
Chúa Cha, sẵn sàng theo đường « Qua đau khổ vào vinh quang » là chấp nhận trải
qua cuộc tử nạn để đền tội thay cho chúng ta và sống lại để phục hồi sự sống
cho chúng ta.
-
Phép rửa của Gio-an Tẩy Giả là hình bóng của phép rửa là cuộc Tử Nạn
và Phục Sinh mà Đức Giê-su sẽ trải qua để vâng theo ý Cha (x Mt 26,39). Vì
thế Người đã được Chúa Cha xác nhận là con yêu dấu luôn làm vui lòng Cha : “Ta
hài lòng về Người” (Mt 3,17b).
4.
Sống tình con thảo bằng việc “xin vâng” theo thánh ý Thiên Chúa :
-
Một đứa con ngoan sẽ không vùng vằng cãi trả mỗi khi cha mẹ sai bảo điều gì. Trái
lại phải vui vẻ mau mắn thi hành những điều cha mẹ chỉ dạy. Đối với Thiên Chúa
cũng vậy. Để xứng đáng làm con cái hiếu thảo của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải
vui vẻ và mau mắn thực thi thánh ý Ngài noi gương Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a.
-
Ngày nay vâng theo thánh ý Thiên Chúa là làm theo tiếng lương tâm, tuân giữ các
giới răn Thiên Chúa và điều luật Hội Thánh, nhất là giữ giới răn mến Chúa yêu
người, khiêm tốn vâng phục các vị chủ chăn trong Hội Thánh..
Lm. Đan Vinh
Thứ ba: Mc 1,21-28
Suy niệm 1:
Với lời giảng dạy và
sức mạnh khống chế thần ô uế của Đức Giêsu mà Tin mừng hôm nay trình thuật minh
chứng Đức Giêsu chính là Thiên Chúa quyền năng. Xin cho chúng ta luôn
biết tin tưởng và phó thác cuộc đời của mình vào sức mạnh và quyền năng của Chúa.
Giáo lý Công Giáo
dạy chúng ta biết: Thiên Chúa dựng nên hai thế giới, thế giới hữu hình và vô
hình. Trong thế giới hữu hình, Thiên Chúa dựng nên con người. Con người có xác
và hồn và là tạo vật cao quý nhất. Còn trong thế giới vô hình, Chúa dựng nên
loài Thiên Thần thiêng liêng cao sang. Nhưng vì là loài thiêng liêng nên chúng
ta không nhìn thấy các ngài được.
Giáo lý cũng cho
biết: Vì bất tuân phục TC nên Thiên Thần Luxia đã bị TC giáng phạt thành ma quỷ
hay còn gọi là Satan (kẻ chống đối). Do đó mà thế lực của ma quỷ rất mạnh, con
người không có khả năng để chống đối lại được nếu không biết nương tựa vào
quyền năng của TC.
Với lời nói đầy uy
lực và phép lạ khống chế sức mạnh của thần ô uế mà tin mừng hôm nay trình
thuật, minh chứng rõ ràng Đức Giêsu không chỉ có sức mạnh trong lời nói “Người
giảng dạy như một Đấng có uy quyền”, mà Người còn có uy quyền trong hành
động. Phép lạ Chúa Giêsu trục xuất thần ô uế ra khỏi người bị ám hại minh chứng
rõ ràng uy quyền của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu.
Xin cho chúng ta luôn
vững tin vào sức mạnh và quyền năng nơi Chúa Giêsu mà sẵn sàng đón nhận Chúa
vào cư ngụ trong gia đình ta để Người hướng dẫn, bảo vệ và gìn giữ các thành
viên trong gia đình chúng ta được hiệp nhất trong tin yêu và an vui trong cuộc
sống.
Suy niệm 2:
Với lời giảng dạy
đầy uy quyền và phép lạ khống chế ma quỷ của Đức Giêsu, minh chứng cho
biết Người chính là TC quyền năng. Xin cho chúng ta luôn tin tưởng và phó
thác đời mình trong bàn tay uy quyền và yêu thương của Chúa.
Sau khi chịu phép
rửa của Gioan Tẩy Gỉa ở sông Giodan, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai
bằng cách thực thi 3 chức năng: tư tế, ngôn sứ và vương đế, để đem lại ơn cứu
cho nhân loại.
- Với chức năng tư
tế: Chúa Giêsu đã vào hội đường để cùng với mọi người cầu nguyện, nghe lời
Chúa, dâng của lễ cũng như những ước nguyện của mình lên TC trong ngày Sabat.
- Với chức năng ngôn
sứ: Chúa Giêsu đã trang trọng đọc Lời Chúa và thi hành nhiệm vụ giảng dạy. Lời
giảng dạy của Người rất thu hút và có một sức mạnh lôi cuốn, khiến mọi người
phải thán phục. Bởi vì Người giảng dạy như Đấng có uy quyền chứ không như các
Kinh sư và Biệt phái.
- Với chức năng
vương đế: Chúa Giêsu đã dùng quyền năng TC mà trục xuất ma quỷ ra khỏi người bị
nó ám hại, để trả lại quyền tự do làm chủ bản thân, thoát khỏi vòng khống chế
bời sức mạnh của ác thần của ma quỷ.
Khi lãnh nhận lãnh
nhận bí tích rửa tội, Chúa cũng trao ban cho mỗi chúng ta ba nhiệm vụ hay chức
năng: ngôn sứ, tư tế và vương đế.
Xin cho chúng ta thi
hành tốt 3 chức năng này theo gương Chúa Giêsu: Luôn ý thức loan báo tin mừng
và giới thiệu Chúa cho người khác. Chuyên chăm đến nhà thờ để cùng với mọi
người hiệp dâng thánh lễ tưởng niệm hy tế thập giá mà Chúa Giêsu đã dâng lên
Chúa Cha trên thập giá trong vai trò tư tế; nhất là ý thức làm chủ bản thân,
can đảm loại trừ tính hư tật xấu và tội lỗi ra khỏi tâm hồn, ngõ hầu tâm hồn
chúng ta xứng hợp là đền thờ thiêng liêng xứng đáng là nơi Thiên Chúa ngự trị.
Suy niệm 3:
Nếu lời giảng dạy
của các Biệt phái và Kinh sư không được dân chúng đón nhận là vì "họ
nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng
chính họ lại không buồn động ngón tay vào" (Mt 23, 3-4). Và lối
sống giả hình của họ khiến dân chúng chán ngán, mệt mỏi. Thì với Chúa Giêsu lại
khác. Ngài không chỉ giảng dạy mà còn làm phép lạ kèm theo nữa. Với lời giảng
dạy như một Đấng có uy quyền và phép lạ trục xuất ma quỷ ra khỏi người bị nó ám
hại, Chúa Giêsu đã làm cho mọi người trong hội đường Ca-phác-na-um hôm ấy phải
ngạc nhiên và vô cùng sững sờ.
Vì vậy, để thuyết
phục người khác tin vào Chúa, chúng ta không chỉ rao giảng suông bằng lời,
nhưng còn đòi hỏi chúng ta phải thực hiện bằng những việc làm cụ thể nữa.
Nguyện xin Chúa
Giêsu, Ðấng giảng dạy uy quyền, giúp chúng con biết thống nhất giữa lời nói và
việc làm để những giá trị Tin mừng mà chúng con loan báo được người nghe đón
nhận và tin theo.
Thứ tư: Mc 1, 29-39
Lẽ sống ưu tiên của
Chúa Giêsu là gắn kết đời mình mật thiết với Chúa Cha và liên đới với mọi
người, nhất là với những người gặp đau khổ. Xin cho chúng ta cũng biết theo
gương Chúa Giêsu hằng gắn kết đời mình với Chúa và sống thân tình với mọi người
trong mỗi ngày đời của chúng ta.
Tin mừng hôm nay
thuật lại một ngày sống tiêu biểu của Chúa Giêsu ở Caphácnaum với biết bao công
việc: Vào Hội đường giảng dạy, rồi đến nhà chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô; mãi
đến lúc mặt trời lặn, Ngài vẫn còn tất bật chữa lành đủ mọi loại bệnh hoạn, tật
nguyền. Sáng sớm tinh mơ, Chúa lại tìm đến nơi hoang vắng để cầu nguyện cùng
Chúa Cha.
Ngày sống tiêu biểu
của Chúa Giêsu phải trở nên khuôn mẫu cho ngày sống của mỗi người kitô hữu
chúng ta.
- Hãy bắt đầu ngày
mới bằng việc cầu nguyện.
Cầu nguyện để gặp gỡ
Chúa, được sống thân tình bên Chúa, để lắng nghe lời Chúa chỉ dạy. Trên hết cầu
nguyện để nhận lấy nguồn ơn sức mạnh nâng đỡ của Chúa nhằm chu toàn tốt bổn
phận hằng ngày. Một ngày sống khởi đầu với kinh nguyện, thánh lễ, chúng ta được
gia tăng lòng Tin Cậy Mến, nhờ đó mà nhiệt thành làm mọi việc trong ngày sáng
danh Chúa.
- Học nơi Chúa
Giêsu, chúng ta hãy chuyên chăm làm việc.
Con người được tạo
dựng theo hình ảnh Thiên Chúa để sống trong thế giới hữu hình và được đặt trong
thế giới này để "làm chủ trái đất". Vì thế, ngay từ
đầu con người đã được kêu gọi để lao động. Chính Chúa Giêsu cũng đã nêu gương
cho ta : "cho đến nay, Cha tôi làm việc, thì tôi cũng làm
việc" (Ga 5, 17).
Làm việc để có của
nuôi sống bản thân và gia đình; để đóng góp vào sự tiến bộ liên tục của khoa
học kỹ thuật, nhất là làm cho cộng đồng xã hội anh em của mình luôn luôn thăng
tiến về văn hóa và đạo đức, đó là ý định của Chúa và mong muốn của con người.
Tóm lại: Chúa Giêsu
đã đi bước trước trong đời sống lao động và cầu nguyện. Lao động mà không cầu
nguyện sẽ làm cuộc sống con người mệt mỏi và đơn điệu; ngược lại cầu nguyện mà
không lao động khiến con người trở nên sống hình thức, lười biếng và ỷ lại.
Xin cho chúng ta
luôn biết noi gương Chúa Giêsu kết hợp hài hoà giữa lao động và cầu nguyện
trong đời sống thường ngày.
Thứ năm: Mc 1, 40-45
Tin mừng hôm nay
trình thuật lại phép lạ của Chúa Giêsu chữa cho người phong cùi được lành sạch.
Phép lạ này nói lên tình thương và quyền năng của TC nơi Đức Giêsu. Xin cho
chúng ta luôn biết tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Người, nhất là
khi chúng ta gặp những gian nan thử thách.
Người
mắc bệnh cùi thời Chúa Giêsu phải chịu nhiều đau khổ.
- Đau về thể xác
Vì không có
thuốc chữa trị, nên bệnh cùi hành hạ thân xác rất nhức nhối.
Vi trùng cùi
Hansen ăn vào da thịt dần mòn làm lỡ loét mặt mày, tay chân đau buốt.
Gân cốt tay
chân thường bị co vấp lại, không còn khả năng làm việc như người bình thường.
Tình cảnh họ rất là đau thương.
- Khổ về tâm hồn
Quan niệm
bệnh là do tội lỗi lỗi gây nên, cùi là bệnh nặng chứng tỏ tội của người cùi
phải rất nhiều.
Người cùi bị
mọi người xem thường, khinh bỉ và xa lánh vì sợ lây uế. Người cùi phải sống
tách biệt với cộng đồng vì xã hội đẩy họ ra bên lề cuộc sống.
Người bị
bệnh cùi luôn phải sống nhờ người khác và bị xem là thành phần ăn bám xã hội.
Thật chua xót!
Việc Chúa
Giêsu chữa lành bệnh cùi chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa quyền năng và giàu lòng
thương yêu..
Việc Chúa
Giêsu chữ lành bệnh cùi đồng nghĩa với việc Chúa phục hồi phẩm giá làm người
của họ, trả lại cho họ tình trạng tốt đẹp thuở ban đầu mà Chúa đã tác tạo.
Việc Chúa
chữa lành bệnh cùi cho họ là lời mời gọi mọi người hãy mở rộng vòng tay đón
nhận nhau trong tình anh em, dù họ là ai.
Việc Chúa
chữa lành bệnh cùi cũng chính là mời gọi tha thiết đối với những ai đang mang
nặng những nỗi đau về thể xác hay những vết thương nơi tâm hồn hãy mạnh dạn đến
với Chúa để kêu xin ơn cứu chữa của Ngài; và hãy can đảm hòa nhập với cộng đồng
xã hội để có được niềm vui, nguồn an ủi.
Có lẽ chúng
ta không mắc phải bệnh cùi về thể lý vì ngày nay đã có thuốc đặc trị. Nhưng rất
có thể chúng ta lại mắc phải bệnh cùi về tâm linh.
Cùi tâm
linh là khi chúng ta vô ơn đối với Thiên Chúa. Sống xa cách Chúa,
không quan tâm đến thánh lễ Chúa nhựt, không còn biết cám ơn Chúa qua giờ kinh
sáng-tối nơi gia đình, không để tâm học hỏi Thánh kinh và giáo lý….
Cùi tâm linh
là khi chúng ta tự tách rời khỏi anh em trong các sinh hoạt của họ đạo. Có thể
vì mặc cảm hay vì tự cao mà ta sống cu ki một mình, không còn khả năng hòa nhập
với cộng đoàn họ đạo.
Cùi tâm linh
là khi chúng ta vô tâm, thờ ơ, dửng dưng, ích kỷ, tư
lợi mà không biết chạnh lòng thương trước nỗi đau của người khác.
Những thứ đó chính là những chứng bệnh cùi về tâm linh nguy hiểm.
Vậy mỗi
người chúng ta hãy ý thức về bệnh cùi tâm
linh của mình và xin Chúa cứu chữa.
Xin Chúa cho chúng con biết khiêm tốn nhận ra
bệnh tình nguy hiểm đang mang trong người. Và xin Chúa thương cứu chữa cho lành
sạch. “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!”.
Thứ sáu: Mc 2, 1-12
Tin mừng hôm nay
tiếp tục trình thuật phép lạ Chúa Giêsu chữa cho người bị bại liệt được khỏi.
Xin cho chúng ta cũng biết can đảm đến gặp gỡ Chúa Giêsu để được Người chữa
lành căn bệnh bại liệt thiêng liêng của chúng ta; và cũng cho chúng ta biết
quan tâm giúp đỡ những ai đang trong tình trạng bại liệt thiêng liêng để họ
cũng được chữa lành.
Cuộc đời của
người bại liệt tại Caphanaum được biến đổi và tâm hồn anh ta nhận được ơn tái
sinh, tất cả là nhờ anh ta gặp gỡ được Đức Kitô. Nhưng hành trình để gặp gỡ
Chúa Giêsu lại gặp rất nhiều cản trở:
- Cản trở về thể lý,
do bệnh tật: Bởi mang căn bệnh bại liệt nên chính anh không thể thân hành đi
đến với Chúa. Có thể anh ta rất muốn đến gặp Chúa.
- Cản trở về địa lý,
do phải vượt qua đoạn đường dài mới đến gặp được Chúa Giêsu.
- Cản trở về tâm lý,
do ngần ngại đám đông bao quanh Chúa Giêsu chật ních làm anh không thể đến gần
Chúa được…
Nhưng mọi cản trở ấy
được dẹp bỏ nhờ và tình thương và sự hy sinh cao cả của những người thân anh.
Họ đã đưa anh lên chõng và cùng nhau khiêng anh đến với Chúa; họ đã vượt qua
trở ngại không gian để đưa anh lên mái nhà và vất vả dỡ mái mới thòng anh xuống
ngay trước mặt Chúa Giêsu.
Chính sức mạnh của
niềm tin và tình thương của bản thân anh và những người thân của anh làm thành
sức mạnh giúp họ vượt qua mọi rào cản. Nhờ đó mà người bị bại liệt mới có thể
đến được với Chúa Giêsu và được Người thương cứu chữa.
Tuy nhiên để cứu
chữa người bất toại khỏi căn bệnh thể xác và tâm hồn, Chúa Giêsu cũng phải vượt
qua những rào cản khắc nghiệt bởi sự chống đối của những người Biệt phái và
Luật sĩ. Dẫu họ không nói ra, nhưng Chúa Giêsu biết trong thâm tâm họ có sẵn
một bản án dành cho Chúa Giêsu khi Người thốt lên lời tha tội cho người bị bại
liệt. “Người này là ai mà dám phạm thượng?”.
Quyền tha tội là đặc
quyền của TC, khi nói lời tha tội là Đức Giêsu đặt mình ngang hàng với Thiên
Chúa nên xét về luật lệ thì Ngài đã phạm vào khung luật tử hình. Tuy nhiên Đức
Giêsu lại là Thiên Chúa làm người nên Ngài vượt trên mọi rào cản của nghi kỵ
luật lệ của con người để thực hiện giới luật tình yêu, là vừa chữa lành bệnh
thể xác vừa bệnh tâm hồn cho người bị bại liệt, qua việc tha tội cho anh ta.
Xin Chúa chúng ta
biết can đảm vượt qua mọi cản trở mà can đảm đến với Chúa để được Người tha thứ
tội lỗi và chữa lành mọi vết thương lòng. Nhất là xin cho chúng ta biết can đảm
đến với tha nhân, nhất là những anh chị em đang xa lìa Chúa và xa cách cộng
đoàn, để yêu thương và an ủi họ, giúp họ vượt qua mọi vướn mắc với niềm hy vọng
đưa họ trở về cùng Chúa và hiệp nhất trong đức tin hầu đón nhận niềm vui Tin
mừng cứu độ của Chúa.
Thứ bảy: Mc 2, 13-17
Tin mừng hôm nay
thuật lại sự kiện Chúa Giêsu kêu gọi Lêvi, người thu thuế tội lỗi làm môn đệ
Chúa và Người sẵn lòng đồng bàn ăn uống với tội nhân. Sự kiện này minh chứng
mạnh mẽ cho lời xác quyết của Chúa: “Tôi không đến để kêu gọi người
công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”.
Xin cho chúng ta
cũng có cái nhìn tích cực và bao dung với mọi người, nhất là những người bị coi
là tội lỗi. Đồng thời cũng cho chúng ta biết can đảm từ bỏ tội lỗi mình để xứng
đáng bước theo Chúa trong đời sống mới.
Ông Lêvi làm nghề
thu thuế nên được xem là người tội lỗi công khai đáng sợ đối với người Do Thái
thời bấy giờ, bởi vì:
Những người thu thuế
thường lạm dụng quyền hành để đánh thuế cao hơn theo luật định, nhằm làm giàu
cho bản thân và gia đình mình.
Người thu thuế cũng
bị coi là người trực tiếp cộng tác với ngoại bang bóc lột xương máu đồng bào
mình. Bởi vì tiền nộp thuế là công sức lao động do mồ hôi nước mắt người dân đổ
ra mà có.
Trong xã hội xưa
nay, hạng người bán thân để nuôi miệng luôn được gắn liền với hạng người dắt
mối, bảo kê được gọi là ma cô. Trong khi gái điếm kiếm tiền bằng thân xác mình,
thì hạng người ma cô lại kiếm tiền trên thân xác người khác.
Đọc tin mừng chúng
ta thấy nhóm người thu thuế thường được gắn liền với phường bán thân nuôi miệng.
Dưới cái nhìn này thu thuế chẳng khác gì ma cô, mà còn tệ hại hơn vì họ kiếm
tiền trên xương máu của người khác. Chính vì thế mà ai ai cũng cái nhìn ác cảm,
khinh bỉ đối với những người làm nghề thu thuế. Nhưng Chúa Giêsu lại có cái
nhìn khác về họ. Chúa không nhìn họ làm nghề gì? xem họ thuộc băng nhóm nào?
chơi với ai? Nhưng trên hết Chúa có cái yêu thương. Chính cái nhìn đầy
yêu thương, cộng với lời mời gọi tin tưởng của Chúa Giêsu mà Lêvi đã đáp lời
bằng cách dứt khoát từ bỏ cái nghề gặt hái ra tiền dễ dàng với nguồn thu lợi
béo bỡ để đi theo Chúa. “Tình yêu vẫy gọi tình yêu”, Lêvi đã không chỉ
dứt khoát bỏ nghề nghiệp mà ông còn chấp nhận bỏ chổ ở an toàn, êm ấm quen
thuộc để dấn thân vào con đường tình yêu. Yêu Chúa bằng từ bỏ tất cả để theo,
yêu anh em đồng nghiệp bằng việc tạo điều kiện để đưa anh em mình đến gặp gỡ
Chúa với mong muốn anh em mình cũng được biến đổi nhờ cảm nhận tình yêu và lòng
nhân từ tha thứ của Chúa Giêsu.
Chính trong khung
cảnh bàn tiệc gây khó chịu cho nhiều người chung quanh ấy, Chúa lại bất ngờ
tuyên bố sứ mạng làm kinh ngạc mọi người: “người khoẻ mạnh không cần
thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính mà
để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”.
Xin Chúa chữa chúng con lành sạch hết những bệnh tật tâm hồn là những tính hư nết xấu và tội lỗi. Xin cho chúng con biết tích cực và kiên nhẫn dùng những linh dược mà Chúa đã chỉ dẫn là: cầu nguyện, ăn chay, bố thí” mà chữa trị tâm hồn, sửa đổi đời sống cho tốt đẹp hầu xứng đáng với tình yêu và xứng danh là môn đệ Chúa. Khi đã được Chúa chữa trị lành sạch, xin cho chúng ta cũng biết quan tâm giới thiệu những người bệnh khác đến với Chúa với hy vọng họ cũng được Chúa chữa lành.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét