Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 18 tháng 1, 2024

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN III THƯỜNG NIÊN

Lm. Nguyệt Giang

CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN B

Gn 3,1-5.10; 1Cr 7,29-31; Mc 1,14-20

Suy niệm 1: TÍCH CỰC THAM GIA VÀO SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG

Hôm nay GH dành một ngày Chúa nhật đặc biệt để tôn vinh Lời Chúa. 

Xin cho Lời Chúa thấm nhập vào tâm trí và chi phối toàn bộ đời sống của chúng ta, giúp ta nhận ra thân phận mỏng giòn yếu đuối và tội lỗi của mình mà thành tâm sám hối đổi mới đời sống cho phù hợp với Tin mừng do Chúa Giêsu mang đến, với trọn niềm tin tưởng vào Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người và sẵn sàng bước theo Người suốt cả cuộc đời mình. Vì “Người là đường là sự thật và là sự sống”.

Có thể nói cuộc đời công khai của Đức Giêsu được khai mở bởi biến cố Ngài chịu phép rửa của Gioan trên dòng sông Giođan. Và Tin mừng hôm nay cho biết Ngài bắt đầu đời sống công khai ấy bằng sứ vụ rao giảng Tin Mừng đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Để thực hiện sứ mạng cao cả này, Đức Giêsu tiến hành làm hai việc:

Kêu gọi mọi người “sám hối và tin vào Tin mừng”.

- Chọn gọi 4 môn đệ đầu tiên.

1. Vậy sám hối là gì? và tin vào Tin mừng có nghĩa như thế nào?

Sám hối có nhiều tầng nghĩa, ngoài ý nghĩa là nhìn nhận lỗi lầm của bản thân mà chê ghét, sám hối còn được hiểu là việc thay đổi não trạng, gạt bỏ những nhận thức trước đó để đón nhận một tri thức mới.

- Còn về niềm tin, tin là nhận thức chắc chắn về một sự vật, sự việc là đúng sự thật. Tin còn là tin vào một người. Khi tin vào ai đó, thì chúng ta dễ dàng mở lòng tiếp nhận những điều người ta tin truyền dạy. Chính vì thế, sám hối là điều kiện tiên quyết để đón nhận Tin mừng. Mà Tin Mừng được hiểu là những điều Đức Giê su loan báo và giảng dạy. Tin Mừng còn là chính Ngài. bởi Ngài là chân lý và là sự sống; Ngài chính là sự hoàn thành điều Thiên Chúa đã hứa và là ơn cứu độ cho chúng ta. Cho nên nếu không sám hối, chúng ta không có khả năng nhận ra những khiếm khuyết, tội lỗi… của mình mà chấn chỉnh. Không sám hối thì chúng ta không thể đổi mới tinh thần cho phù hợp với thời đại mới, thời đại của Tin mừng cứu độ do Chúa Giêsu mang đến.

2. Điều thứ hai chọn gọi các môn đệ. 

 Mặc dù Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng Người vẫn mang thân phận con người nên Ngài cũng lệ thuộc vào không gian và thời gian. Một mình Người không thể loan báo Tin mừng cứu độ đến cho hết mọi người ở khắp mọi nơi được. Nên điều ưu tiên thứ hai mà Chúa Giêsu phải thực hiện đó chính là kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên để cộng tác vào sứ vụ quan trọng của Người.

Cách thức mà Chúa Giêsu chọn gọi các môn đệ cũng rất lạ. Người không kêu gọi những cộng sự viên tài năng, có học thức hay có chổ đứng trong xã hội…Trái lại lại mời gọi những dân chài mộc mạc, dốt nát, nghèo khổ... Điều quan trọng Chúa mong muốn nơi người môn đệ là hãy biết đặt trọn niền tin tưởng vào tình thương và uy quyền của Chúa mà sẵn sàng từ bỏ mọi sự để dấn thân cho sứ vụ cao cả là tham gia vào sứ vụ loan báo Tin mừng cứu độ đến cho mọi người.

Lời kêu gọi hãy sám hối và tin vào Tin mừng để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng phải là sứ điệp quan trọng nhất mà Chúa thôi thúc nơi tâm hồn của chúng ta thực hiện mỗi ngày.

Xin cho chúng ta biết khiêm tốn nhận ra những thiếu sót, lầm lỗi… mà chấn chỉnh lại đời sống mình mỗi ngày sao cho phù hợp với tin mừng. Nhất là biết tích cực sống và làm chứng cho những giá trị tin mừng tình thương. Có như vậy chúng ta mới xứng danh là môn đệ đích thực của Chúa Giêsu.


Suy niệm 2: CHÚA MỜI CHÚNG TA CỘNG TÁC

Trong Kinh Thánh có một cuốn sách vừa ngắn vừa dễ hiểu, đó là sách Giôna mà chúng ta được nghe một đoạn trích trong bài đọc I hôm nay. Sách Giôna dài chỉ có ba trang nhưng chất chứa nhiều bài học quý báu, không những cho những người cùng thời với Giôna mà cho cả chúng ta hôm nay.

Điểm trước tiên, và cũng là điểm quan trọng nhất của câu truyện, đó là Thiên Chúa là Ðấng từ bi nhân hậu và giàu lòng thương xót. Dân thành Ninivê sống đồi bại đến nỗi Chúa nói với Giôna: “Hãy đứng dậy, đi đến Ninivê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã lên thấu tới Ta.” (1,2). Tuy nhiên, vừa khi thấy dân chúng tỏ dấu ăn năn sám hối trước lời loan báo của Giôna, Chúa liền bỏ ý định phạt họ.

Điểm thứ hai: Thiên Chúa là Chúa khắp hoàn vũ. Sự hiện diện của Chúa không bị giới hạn ở một nơi, một quốc gia, một đảng phái hay một tôn giáo nào. Vì thế người ta có thể cầu nguyện với Chúa khắp mọi nơi, ngoài ranh giới của Israel, trên tàu và ngay cả trong bụng cá.

Điểm thứ ba: những người mà chúng ta cho là ngoại đạo hoặc tội lỗi, lại là những người sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa hơn chúng ta. Chính Chúa Giêsu sau này cũng khẳng định điều này khi Người nói với các thượng tế và kỳ mục: “Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông.” (Mt 21,31).

Điểm thứ tư: Thiên Chúa muốn cứu toàn nhân loại chứ không phải chỉ cứu dân riêng của Người; giống như cha mẹ, Thiên Chúa yêu thương tất cả các con cái của mình, không trừ một ai.

Bên cạnh đó, những giáo huấn của sách Giôna còn giúp ta hiểu rõ hơn lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Ðại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Theo bản văn Hy Lạp, người ta có thể dịch như sau: “Anh em hãy sám hối, có nghĩa là anh em hãy tin vào Tin Mừng”. Sám hối là tin vào Tin Mừng, là tin rằng Thiên Chúa là tình thương và tha thứ, và tình yêu của Người là dành cho hết mọi người. Do đó, chúng ta không nên tự giam mình trong quá khứ và trong sự hối tiếc. Dù có sa đi ngã lại trong tội, dù tội lỗi của chúng ta có như thế nào đi nữa thì Chúa vẫn luôn luôn tha thứ. Ðiều đó có nghĩa là chúng ta vẫn luôn có thể thay đổi cách sống và làm lại cuộc đời.

Sám hối nhiều khi không nhất thiết là phải thay đổi những thực tại bên ngoài, những công việc, hay các mối quan hệ, nhưng là sống với một tâm thức khác, với một cái nhìn khác. Như trong bài đọc II, thánh Phaolô không nói phải coi thường những giây phút hiện tại, nhưng là đừng mặc cho nó những giá trị mà nó không có. Ðiều này đòi hỏi chúng ta phải có sự phân định.

Nói về sự phân định, chúng ta chắc đều ngạc nhiên về sự trả lời mau mắn và triệt để của các môn đệ. Vừa nghe Chúa Giêsu gọi, các ông lập tức bỏ thuyền, bỏ chài lưới, bỏ cha của mình để theo Người.

Thế nhưng, từ 2000 năm nay, Chúa không còn trực tiếp gọi chúng ta như Người đã gọi các môn đệ đầu tiên. Chúa gọi chúng ta qua trung gian những người khác, như trong câu chuyện Chúa gọi cậu bé Samuel mà chúng ta nghe tuần trước. Chúa gọi Samuel bốn lần, nhưng đến lần thứ bốn, phải nhờ sự chỉ bảo của thầy tư tế Êli, cậu mới nhận ra tiếng Chúa. Vì nhiều lúc “tiếng gọi” của Chúa cũng cần phải được phân tích, phân định và xác thực qua trung gian con người hay một biến cố nào đó. Và điều này dĩ nhiên cần phải có thời gian…

Trong mọi hoàn cảnh sống, Chúa luôn mời gọi chúng ta như đã gọi các môn đệ đầu tiên: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Thoạt nghe, chúng ta tưởng câu này dành riêng cho các linh mục và tu sĩ. Thực ra, không phải như vậy. Ðây là ngôn ngữ Kinh Thánh: biển là nơi trú ngụ của các quyền lực ác thần. Lưới người tức là cứu con người ra khỏi tử thần, ra khỏi sự dữ. Khi ta giúp người nào đó ra khỏi cảnh khổ cực, khi ngăn cản họ đắm chìm trong điều xấu xa, khi ta như là người cứu nạn trong cơn lũ lụt… ta là kẻ lưới người.

Chúa Kitô đã đến để cứu chúng ta khỏi sự dữ, Người cũng muốn chúng ta tham dự vào kế hoạch cứu độ của Người. Ðừng quên rằng nếu Chúa gọi chúng ta là để chúng ta “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Nhưng liệu hôm nay chúng ta có đủ tĩnh lặng để nghe lời mời gọi sám hối của Chúa hay không? Chúng ta có đủ can đảm buông bỏ những đam mê, tật xấu để cộng tác với Người trong việc trở thành người môn đệ loan báo Tin Mừng tình yêu và cứu độ hay không?

Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

Suy niệm 3: HÌNH ẢNH THEO TIẾNG GỌI

Trong đời sống hai bạn trẻ nữ nam xa lạ bỗng gặp nhau, làm quen với nhau… và họ bắt được làn sóng tiếng gọi tình yêu của nhau. Họ hứa hẹn với nhau, không đòi hỏi gì, rồi từ gĩa gia đình đi thành lập gia đình riêng, xây dựng một tổ ấm xã hội mới với nhau từ hai bàn tay trắng, bắt đầu từ con số không. Điều mà không ai ngờ trước được như vậy. Trong dân gian có ca ví khôn ngoan: Tình yêu mạnh hơn sự chết!

Trong nếp sống đạo giáo có hình ảnh như thế không?

Kinh thánh thuật kể lại nhiều trường hợp những người nghe theo tiếng gọi của Thiên Chúa, từ gĩa mọi sự đi theo Người.

Ngôn sứ Elija đi ngang qua cánh đồng thấy Elischa đang nỗ lực cày ruộng, Elija ném tấm áo choàng mình phủ trên Elischa. Hiểu ý đó là tíêng gọi của Elija. Elischa bỏ cày bừa lại trên thửa ruộng, vội vã chạy lại Elija và khẩn khoản nài nỉ“ Xin thầy cho con trở về nhà từ gĩa cha mẹ con, con sẽ trở lại theo Thấy ngay! Elija bằng lòng cho phép như Elischa xin. Sau khi từ gĩa gia đình bạn bè, Elischa đi đến theo làm môn đệ Ngôn sứ Elija.

Elischa nghe theo, vì nhận ra tấm áo choàng của Elija bỗng ném phủ trên người mình như tiếng gọi. Nghe theo tiếng gọi đi theo không thắc mắc “tại sao”, không đặt điều kiện với chữ “nhưng”, và không do dự “ như thế nào”!( 1. Các Vua 19,19-21)

Ngay giữa dòng đời sống đang làm ăn cày ruộng Elischa nhận ra đó là tiếng của Thiên Chúa kêu gọi qua tấm áo choàng của Ngôn sứ Elija phủ chụp trên người mình! Một sự thể lạ lùng, nhưng có thật.

Thánh sử Luca thuật lại biến cố Thiên Thần Gabriel hiện đến truyền tin cho Maria sứ mệnh được Thiên Chúa tuyển chọn làm mẹ Chúa Giêsu. Trong cuộc gặp gỡ truyền tin này không có thời giờ cho Maria suy nghĩ thêm, không có câu hỏi ngược trở lạị, chỉ có thắc mắc của Maria với chữ “ như thế nào được”. Sau khi nghe Thiên Thần cắt nghĩa, Maria nói vắn gọn xúc tích: Xin xảy ra cho tôi như lời Sứ Thần truyền!

Trong căn nhà sinh sống của Maria ở thành Nazareth, ý định chương trình của Thiên Chúa được Thiên Thần loan báo mang đến cho Maria. Căn phòng truyền tin lịch sử thánh này hiện còn ở bên dưới tầng hầm Vương cung Thánh Đường Truyền tin ở Nazareth.

Và theo tương truyền, bức tường căn nhà truyền tin của Đức Mẹ Maria ở Nazareth, từ hồi thế kỷ 13. sau Chúa giáng sinh, để bảo quản cho khỏi bị tàn phá ở thành Nazareth đã được Thiên Thần di chuyển đem về bên Ý thành phố Loreto. Vì thế trong Vương cung thánh đường Loreto có ngôi nhà với ba bức tường nhà Đức Mẹ, nơi ngày xưa Thiên Thần Gabreil hiện đến truyền tin. Ngôi nhà nhỏ này có kích thước 9,25 mét chiều dài, 4,12 mét chiều rộng và chiều cao 5 mét.

Phúc âm Chúa Giêsu thuật lại cảnh Chúa Giêsu đi dọc bờ hồ Galileo thấy các Ông Simon, Andre, Jacobe và Gioan đang làm công việc chài lưới đánh cá để sinh sống, chỉ nói vắn tắt kêu gọi họ” Hãy theo Thầy!”. Và họ cũng chẳng thắc mắc gì, không xin từ gĩa gia đình bạn bè, nhưng vô điều kiện lập tức bỏ chài lưới đồ nghề lại đi nghe theo tiếng gọi của Chúa Giêsu. (Mc 1,14-20).

Nơi bờ hồ chỗ làm ăn sinh sống đang đánh cá, Chúa Giesu đến kêu gọi họ ra đi làm Môn đệ “ Hãy theo Thầy!”

Giữa cảnh sống hằng ngày tiếng Chúa vang lên kêu gọi trong tâm hồn con người. Những gương nghe theo tiếng gọi theo Chúa như thế luôn hằng có trong đời sống xưa nay. Mẹ Thánh Teresa thành Calcutta, người Albania, nghe theo tiếng gọi của Chúa, sang tận nước Ấn Độ thành Calcutta, cả đời sống chết với người nghèo, giúp đỡ săn sóc an ủi người bị bỏ rơi, và thành lập Dòng bác ái sống nhiệm nhặt khó nghèo giữa xã hội người nghèo khổ. Mẹ Thánh và các Chị nữ Tu đã nghe theo tiếng gọi của Thiên Chúa tình yêu đi đến sống với những người cần tình yêu thương giúp đỡ an ủi săn sóc về miếng cơm manh áo và tinh thần tâm hồn.

Rồi có những người xưa nay từ bỏ cuộc sống bảo đảm an toàn về mọi mặt xã hội cũng như chức vị, như các Vị Thừa Sai xưa nay ở bên Âu Châu bỏ xứ sở quê hương sinh ra, đã nghe theo tiếng Chúa kêu gọi, ra đi sang tận miền những đất nước xa lạ bên Phi Châu, bên Á châu, bên Nam Mỹ…thiếu thốn về mọi phương diện cùng sống chia sẻ lăn lộn với họ, để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa., mà không đòi hỏi điều kiện gì.

Xưa nay tròng dòng lịch sử vẫn luôn hằng có biết bao nhiêu tâm hồn nghe nhận ra tiếng Thiên Chúa kêu gọi. Và họ đã từ bỏ mọi sự có thể được hưởng dùng, từ bỏ con đường công danh sự nghiệp đầy tương lai hứa hẹn, quảng đại hy sinh dấn thân chọn nếp sống đời vâng phục nhiệm nhặt khó nghèo tu trì theo tiếng ơn kêu gọi của Thiên Chúa giữa lòng dòng sông đời sống xã hội nơi các Tu Viện, nơi các Giáo phận xứ đạo cho việc mục vụ phụng vụ của Giáo hội Chúa.

Sống như thế có thể nói được họ kính trọng yêu qúy chất liệu nội dung đời sống hơn bao vỏ bọc bên ngoài. Nếp sống như thế khác nào hình ảnh phẩm chất rượu trong ly, trong chai bình quan trọng qúy giá hơn ly, hơn bình chai lọ đựng rượu. Họ nghe nhìn nhận ra từ trong sâu thẳm nội tâm tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa muốn họ dấn thân ra đi đến với con người xã hội là hình ảnh của Thiên Chúa tạo dựng nên.

Hai người nam nữ nghe theo tiếng gọi tình yêu của nhau ra đi cùng xây dựng tổ ấm gia đình không chỉ mang niềm vui hạnh phúc lại cho nhau, nhưng nhất là cho tương lai con cái của họ. Và như thế cũng cho xã hội và Giáo hội nữa.

Trong nếp sống con người ai cũng bị hay được hỏi, được kêu gọi dấn thân cho con người, và cho nước Chúa ở xã hội trần gian hôm nay và ngày mai. Và như Đức Giáo Hoàng qúa cố Benedictô 16. đã có suy tư xác tín về nếp sống theo tiếng Gọi của Thiên Chúa:” Chúng ta không được tạo dựng cho một đời sống an toàn dễ chịu, nhưng cho sự to lớn cao cả.”

Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long

Suy niệm 4: NĂM MỚI ĐỔI ĐỜI

Phúc Âm tuần này kể chuyện Chúa Giêsu bắt đầu giai đoạn mới trong cuộc đời Ngài bằng lời rao giảng: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”  Một lời kêu gọi đổi mới cuộc đời. Chúa đã đổi đời các môn đệ.

1. Quyết đoán từ bỏ. Để đổi đời thì việc đầu tiên là phải quyết đoán từ bỏ, không chỉ từ bỏ cái cũ, cái xấu, mà đôi khi phải từ bỏ cả những tình thân, những điều tốt để đời được tốt đẹp hơn. Để đổi đời, dân Ninivê đã bỏ đường gian ác để đi theo đường lối Chúa là đường công chính. Để đổi đời, các môn đệ đã không chỉ quyết đoán từ bỏ công việc chài lưới, mà còn từ bỏ cả bạn bè đồng nghiệp, cả gia đình để đi theo Chúa Giêsu cứ như thể một chàng trai, một cô gái rời bỏ gia đình cha mẹ để theo nhau kết hôn. Thế nên, sám hối cần bước đầu tiên là từ bỏ những dính bén cản trở đổi mới cuộc đời chúng ta.

2. Quyết tâm tiến bước. Từ bỏ rồi mà không tiến bước thì đời sẽ lạc trôi dang dở. Vì vậy, sau từ bỏ, bước tiếp theo để đổi đời là quyết tâm tiến bước để đạt mục đích, đạt khát vọng của mình. Thế nên, đích đến của sám hối là tin vào Tin Mừng, tin vào Chúa, đi vào liên hệ tình nghĩa mật thiết với Chúa Giêsu Kitô - Con Thiên Chúa làm người. Đi theo Chúa thì Chúa sẽ đổi đời các môn đệ như Ngài khẳng định: “Các anh hãy đi theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá.”

Đổi mới là quy luật của đất trời. Thế giới cũng đang đổi mới không ngừng. Thế nên, các môn đệ Chúa bắt buộc phải đổi mới. Muốn đổi mới rất cần một tầm nhìn xa trông rộng vượt ra khỏi bản thân, vượt ra khỏi ao làng để vươn ra biển lớn và vươn tới trời cao. Chúa Giêsu - Đấng từ trời xuống thế - sẽ soi sáng chúng ta thay đổi tầm nhìn và giúp sức chúng ta quyết tâm hành động nhằm thay đổi cuộc đời, thay đổi thế giới. Amen.

Lm. Nguyễn Xuân Trường

Suy niệm 5: “Các anh hãy đi theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá”.

Anh chị em thân mến,

Hể nói đến từ bỏ, là những người công giáo thường hay nghĩ đến các linh mục, các dì phước, và cho rằng các vị ấy là những người từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa. Họ đơn giản nghĩ rằng từ bỏ cha mẹ để đi tu là từ bỏ; từ chối kết hôn là từ bỏ; từ chối vinh hoa phú quý là từ bỏ... cho nên khi thấy một linh mục sống xa hoa là họ chê bai này nọ, khi thấy một nữ tu sống đài các thì họ không ưa, hoặc khi thấy một thanh niên muốn đi tu mà sống như những thanh niên khác thì họ đoán xa đoán gần: tướng đó mà tu cái nỗi gì !!!

Đức Chúa Giê-su mời gọi tất cả mọi người –không trừ một ai- từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa, Ngài mời gọi tất cả trở thành môn đệ của Ngài, tức là trở nên những người thánh thiện như Ngài.

Có ngừơi từ bỏ không lập gia đình nhưng lại tham tiền bạc, họ chưa từ bỏ; có người từ bỏ tiền bạc nhưng lại thích “đào sắc”, họ chưa từ bỏ; có người từ chối địa vị danh vọng nhưng lại sống như là công tử “Bạc Liêu”, họ chưa từ bỏ.

Đức Chúa Giê-su không trương bảng quảng cáo tài nghệ thần thông của mình để chiêu dụ môn sinh, Ngài cũng không hứa hẹn giàu sang phú quý gì cho những ai đi theo làm môn đệ của Ngài, Ngài chỉ nói: “Các anh hãy đi theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá”, và thế là An-rê và em là Phê-rô, Gia-cô-bê và em là Gioan đã từ bỏ mọi sự để đi theo làm môn đệ của Ngài. Các ông đã từ bỏ cha mẹ vợ con, đã từ bỏ nghề đánh cá truyền thống của gia đình để trở nên môn đệ của Đức Đức Chúa Giê-su.

Cái “từ bỏ” mà Đức Chúa Giê-su muốn nơi chúng ta chính là từ bỏ cái tôi, cái ý riêng của mình, có thể nói đó là những “truyền thống” bám chắc sâu xa trong con người của mình để đi theo làm môn đệ của Chúa, bởi vì dù cho anh là một linh mục hay một tu sĩ đã từ bỏ tình yêu cá nhân thường tình để đi làm môn đệ Chúa, mà anh không có từ bỏ cái tôi của mình, không từ bỏ ý riêng của mình, thì rồi từ từ anh sẽ đi kiếm những “tình yêu” vụng trộm khác; dù anh đã từ bỏ tất cả gia tài sự nghiệp mà chưa bỏ được ý riêng của mình, thì anh sẽ trở thành gánh nặng cho người khác. Cái tôi, cái ý riêng đó chính là bản thân tôi, là con người tôi; bỏ đi bản thân tôi, con người tôi thì chúng ta sẽ không còn gì để giữ lại, không còn gì để làm vướng tâm hồn chúng ta, nên chúng ta rất dễ dàng nhận được ân sủng của Thiên Chúa và thong dong đi theo Ngài mà “không thèm” ngó lui.

Trong vườn Cây Dầu, Đức Chúa Giê-su đã từ bỏ ý riêng để vâng theo thánh ý của Cha trên trời nên đã trở thành Đấng cứu chuộc nhân loại; Đức Mẹ Ma-ri-a đã từ bỏ ý riêng của mìng để vâng phục ý Thiên Chúa mà sinh hạ Đấng Mê-si-a, nên Mẹ đã trở thành Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng sinh; các thánh cũng đã từ bỏ tất cả nên đã được Nước Trời làm gia nghiệp.

Anh chị em thân mến,

Ngày hôm nay mỗi một người Ki-tô hữu đều hiểu rằng không phải chỉ có những người “đi tu” mới từ bỏ mọi sự để làm môn đệ của Chúa, nhưng là tất cả những ai đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội, trở thành con cái của Thiên Chúa và trở nên môn đệ của Ngài, cũng đều được Đức Đức Chúa Giê-su mời gọi từ bỏ mọi sự để đi theo Ngài.

Đức Chúa Giê-su không muốn chúng ta từ bỏ vợ con để theo Chúa, Ngài chỉ muốn chúng ta từ bỏ cái tôi tham sân si của mình; Đức Chúa Giê-su không muốn chúng ta từ bỏ công ăn việc làm để chết đói, nhưng Ngài muốn chúng ta từ bỏ cái ý riêng tham vọng của mình; Đức Chúa Giê-su cũng không muốn chúng ta từ bỏ bạn bè thân thiết, nhưng Ngài muốn chúng ta từ bỏ những thói quen không phù hợp với tinh thần Phúc Âm trong cuộc sống của mình.

Để kết luận bài suy niệm này, chúng ta mượn câu nói trong sách “Đường Hy Vọng” của đức cố hồng y Phan-xi-cô Nguyễn Văn Thuận để nhắc nhở mình mỗi ngày:

- “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con đã bỏ trước.”

Thật đúng thay !

Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

Thứ hai: Mc 3,22-30

Người Việt có câu: “Yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười”.  Đây là câu tục ngữ, ý nói khi yêu thương, quý mến nhau thì dành cho nhau những thứ ngon lành, đầy đặn, còn khi đã ghét bỏ nhau thì cư xử với nhau nhạt nhẽo, không tử tế.

Tin mừng hôm nay cho biết những người Biệt Phái vì ghen ghét Chúa Giêsu nên đã tìm mọi cách để hạ uy tín và hãm hại Người. Ngay cả những thực tại chân lý mà họ cũng bẻ cong để gán ghép một cách ác ý cho Chúa Giêsu.

Chứng kiến những phép lạ chữa bệnh và trừ quỷ mà Chúa Giêsu thực hiện, phần đông dân chúng vui mừng ngợi khen và tôn vinh Chúa Giêsu, nhưng bên cạnh đó lại có những người vì sợ mất chổ đứng và uy tín nên trở nên ghen tỵ với Chúa Giêsu nên họ tìm mọi cách để hạ bệ uy tìn của Người.

Cụ thể Tin mừng hôm nay họ gán ghép ác ý là Chúa Giêsu đã bị quỷ nhập và đã dùng sức mạnh của quỷ vương để trừ quỷ nhỏ ám hại con người. nhằm lay động đức tin của quần chúng, nhằm kéo cái nhìn của đám đông về họ mà loại trừ Đức Giêsu.

Trước lời vu khống thiếu nền tảng ấy Chúa Giêsu đã vạch ra cho dân chúng thấy rõ giả tâm của họ qua việc đưa ra những luận cứ giải thích hết sức rõ ràng:

- Ma quỷ chắc chắn sẽ không chống đối nhau. Nên không có chuyện tướng quỷ lớn tiêu diệt quỷ nhỏ. Làm như vậy thì thế lực của Satan sẽ tan rã.

- Chúa dùng hình ảnh kẻ cướp tấn công chủ nhà để lấy của và cho thấy rằng chỉ khi kẻ cướp mạnh hơn chủ nhà thì mới không chế và tước hết của cải của chủ nhà, bằng không nó sẽ bị chủ nhà tước lấy vũ khí và loại trừ. Ma quỷ là các Thiên Thần sa ngã nên sức mạnh con người không thể chống đở nổi, chỉ có quyền năng Thiên Chúa mới không chế được sức mạnh của chúng. Do đó khi Chúa Giêsu trừ khử ma quỷ ám hại, chứng minh cho thấy Đức Giêsu chính là TC làm người.

- Cuối cùng Chúa Giêsu cũng cảnh báo những ai cố tình chối bỏ chân lý và chai lì trong sai lầm tội lỗi thì không thể được TC tha thứ, và cho biết đó chính là tội xúc phạm đến CTT. Chối bỏ chân lý cũng đồng nghĩa loại trừ Chúa Thánh Thần ra khỏi tâm hồn mình và bẻ cong Chân Lý.

Xin cho chúng ta biết can đảm loại trừ khỏi tâm hồn mầm móng của ganh tỵ, ghen ghét để có cái nhìn trong sáng mà nhận ra chân lý; đồng thời cũng biết can đảm sống và làm chứng cho chân lý theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

 

Thứ ba: Mc 3,31-35

Làm thế nào để trở nên thành viên trong gia đình đức tin của Chúa? Đó là điều mà Tin mừng hôm nay chỉ dạy chùng ta. Xin cho chúng ta để tâm nghe lời Chúa dạy và thực hành để xứng đáng là những thành viên trong gia đình đức tin của Chúa.

Lời Chúa hôm nay Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta biết những điều kiện cơ bản cần thiết để xứng đáng trở nên thành viên trong gia đình của Người.

Nhờ tích tích rửa tội chúng ta trở thành con Chúa và là thành viên trong GH. Nên ngoài gia đình tự nhiên liên hệ bằng huyết thống, chúng ta ta còn có một gia đình thiêng liêng nhờ được sinh ra trong đức tin.

Vì thế Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định thành viên trong gia đình của Chúa chính là những người biết“lắng nghe và thực hành Lời Chúa”.

Nếu để trở thành người con ngoan trong gia đình tự nhiên theo huyết thống ta phải lắng nghe và thi hành điều mà cha mẹ và anh chị hướng dẫn chỉ bảo. Cũng vậy để trở thành con ngoan của Chúa và anh chị em thật sự với nhau trong gia đình thiêng liêng của đức tin ta phải lắng nghe và thực hành Lời Chúa với sự hướng dẫn của GH.

Hơn ai hết Đức Maria là người luôn để tâm lắng nghe và mau mắn thi hành thánh ý Chúa trong suốt cuộc đời mình. Nên Đức Maria trở nên kiểu mẫu cho đời sống cho chúng ta.

Khi khám phá những giọt máu trong chiếc khăn liệm thành Turin, các nhà khoa học chứng minh cho biết đó là loại máu B: Bái ái, bao dung và bình an.

Xin cho chúng ta mang lấy dòng máu của Chúa Giêsu để ta cũng biết sống bác ái, bao dung và bình an qua việc thực thi Lời dạy của Chúa. Nhờ đó ta xứng đáng trở thành người thân của Chúa trong gia đình thiêng liêng.


Thứ tư: Mc 4,1-20

Nhớ Thánh Phan-xi-cô Sa-lê-si-ô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh.

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu sánh ví tâm hồn chúng ta như là mảnh đất, và rất mong cho mảnh đất ấy chuẩn thật sẵn sàng để hạt giống Lời Chúa gieo vào đơm hoa kết trái dồi dào.

Dụ ngôn người gieo giống mà Chúa Giêsu nói đến hôm nay rất quen thuộc và gần gũi với người dân chúng ta.

- Hình ảnh người gieo hạt đó chính là Thiên Chúa.

- Hạt giống chính là Đức Kitô (Lời Chúa).

- Mảnh đất là tâm hồn của mỗi chúng ta.

Thiên Chúa thì luôn quảng đại và hào phóng sẵn sàng gieo hạt giống Lời Ngài khắp mọi nơi và vào trong mọi tâm hồn. Hạt giống Lời Chúa thì luôn mang mầm sự sống tốt lành, có khả năng trổ sinh dồi dào hoa trái. Nhưng kết quả có sinh được nhiều hoa trái hay không lại còn tùy thuộc rất nhiều vào tâm hồn của mỗi chúng ta.

Mong rằng tâm hồn của mỗi người chúng ta không trở nên chai lì như đất vệ đường, cũng đừng cứng cỏi như loại sỏi đá hay bị vướng bận như đất đầy cỏ dại; mà là mảnh đất tơi tốt để hạt giống Lời Chúa có cơ mai đâm chồi nẩy lộc, trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành mang đến ích lợi cho mình và cho mọi người.


Suy niệm 2:

Trong số những vị anh hùng xây dựng Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, phải kể đến Benjamin Franklin, tạ thế năm 1790. Ông là một văn sĩ, nhà ấn loát và xuất bản; lại còn là một nhà phát minh, một khoa học gia, thương gia và nhà ngoại giao.

Một hôm, ông nhận được món quà từ Ấn độ. Đó là một cây chổi bông lau. Nhìn cây chổi, ông thấy có vài hạt còn dính lại ở đó, ông đã nhặt ra và lấy đem gieo, thế là hạt giống nảy mầm, sinh hoa kết hạt. Tới mùa gặt, ông lại lấy những hạt giống đó đem phân phát cho các bạn bè xóm ngõ.

Tất cả đều đem gieo, và chẳng bao lâu, Hoa Kỳ đã có một kỹ nghệ làm chổi bông lau phát đạt rải rác khắp nơi trong quốc gia. Đó cũng là nhờ Benjamin đã có sáng kiến, biết lợi dụng vài hạt giống nhỏ mọn.

Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta dụ ngôn về người gieo giống. Trước hết, cần lưu ý đến sự khác biệt giữa dụ ngôn và những lời giải thích dụ ngôn.

- Khi kể dụ ngôn, Chúa Giêsu xem ra nhấn mạnh đến sự hiệu nghiệm của hạt giống hay đúng hơn sự thành công của người gieo giống: có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá, có hạt rơi vào bụi gai, nhưng cũng có hạt rơi trên đất tốt và sinh hoa kết quả gấp trăm.

- Còn khi giải thích dụ ngôn cho các môn đệ, Chúa Giêsu như muốn nhấn mạnh đến thái độ cộng tác của con người để làm cho Lời Chúa được sinh hoa kết quả.

Thật ra, hai khía cạnh này không đối nghịch nhau, nhưng được tổng hợp để diễn tả thực tại phong phú của mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa chắc chắn được phát triển, nhưng phần cộng tác của con người trong việc phát triển Nước Chúa cũng không thể bỏ qua được.

Tâm hồn mỗi người là một thửa ruộng, và không có thửa ruộng nào vô ích. Thiên Chúa sẽ gieo hạt giống Lời Chúa vào mỗi tâm hồn không loại trừ. Việc gieo Lời Chúa lúc nào cũng dồi dào phong phú, còn phía chúng ta, chúng ta sẽ đón nhận Lời Chúa với thái độ nào?

Theo bài Tin mừng, Đức Giêsu đã phân chia thành 4 loại đất mà người nông phu gieo hạt giống. Bốn loại đất ấy tiêu biểu cho 4 thái độ của con người trước Lời Thiên Chúa:

* Đất vệ đường: những kẻ chẳng tha thiết gì đến Lời Chúa. Lời gieo xuống đó chẳng bao lâu thì bị quỷ dữ cướp đi.

* Đất lẫn sỏi đá: những người mau mắn đón nhận Lời Chúa nhưng không quý chuộng bao nhiêu. Khi gặp chút gian khó là bỏ cuộc.

* Đất có nhiều gai: những người cũng đón nhận Lời Chúa, nhưng điều họ quan tâm hơn là những đam mê, vui thú, của cải... Các thứ sau này như gai góc um tùm dần dần làm cho Lời Chúa bị chết nghẹt.

* Đất tốt: những người sốt sắng đón nghe Lời Chúa, ghi sâu vào trong tâm hồn và quảng đại đem ra thi hành trong cuộc sống.

Nhờ nghe Lời Chúa, dân thành Ninivê ăn năn trở lại và được cứu rỗi.

Nhờ nghe Lời Chúa, vua Đavít bắt đầu nhận thấy tội lỗi nặng nề của mình và ăn năn thống hối, trở thành một vị vua thánh thiện.

Nhờ nghe Lời Chúa, Augustinô bắt đầu xấu hổ về những tội mình đã phạm hồi còn trẻ, ăn năn hối cải, trở lại với Chúa, và trở thành một vị giám mục thông thái, thánh thiện.

Nhờ nghe Lời Chúa, Phanxicô Xaviê đã từ bỏ những đeo đuổi vinh sang trần tục, ra đi làm việc tông đồ để trở thành một trong những nhà truyền giáo danh tiếng nhất của Giáo hội. (St)


Thứ năm: Cv 22,3-16; Mc 16,15-18

Kính Thánh Phao-lô, tông đồ trở lại

Mỗi ngày có 24 giờ, trong đó có biết bao là thay đổi. Sự thay đổi số phận con người có khi cũng lắm bất ngờ. Hôm qua tội lỗi, hôm nay trở nên tốt lành; hôm qua nghèo khổ, hôm nay trở nên giàu sang, hôm qua đầy tớ, hôm nay là ông chủ…và có thể ngược lại. Vận mạng con người thay đổi cũng bởi nhiều lý do khác nhau: có khi do một lời nói, một ánh mắt, một nụ cười, một gương sáng, một lời cầu nguyện chân thành hay một biến cố vui buồn, thành công thất bại… nào đó xảy ra trong cuộc sống.

Sách Cv hôm nay thuật lại biến cố ngã ngựa bất ngờ, làm thay đổi cuộc đời của Sao-lô, nhờ gặp gỡ Đức Giêsu.

Sách Cv cho biết: Sao-lô, quê ở Tác xô, là người Do-thái trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do-thái và Hy Lạp. Vốn là một biệt phái nhiệt thành, Sao-lô thường đi lùng sục bắt bớ đạo Chúa, tham gia vào vụ giết thánh Tê-pha-nô. Sau khi nhận được thư giới thiệu của vị thượng tế, chàng trai Sao-lô hăng máu phóng ngựa như bay rong ruổi khắp các nẻo đường thành Đa-mát để truy bắt các Ki-tô hữu đem về Giê-ru-sa-lem trị tội. Hành động ấy Sao-lô xem là nhiệt thành với lề luật Do Thái giáo đúng như lời Chúa Giêsu đã nói:“Có lúc, những người bắt bớ các con, cứ tưởng rằng đó là việc tôn thờ Thiên Chúa”. (Ga.16, 2). Nhưng không ngờ đang lúc ông hăng máu phóng ngựa truy cùng, diệt tận các kitô hữu trên đường Đa-mat, bất ngờ một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông, khiến ông ngã xuống đất. Lúc đó ông nghe có tiếng nói: "Sa-un, Sa-un, tại sao người bắt bớ Ta?". Ông hỏi: "Thưa Ngài, Ngài là ai?". Người ấy đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ". Nhưng không ai trông Chúa Giêsu. Sau đó Sao-lô được người ta đưa vào một căn nhà trong thành Đa-mát với tình trạng mắt ông bị mù. Tại đây Sao-lô được chữa lành đôi mắt và nhận lãnh Chúa Thánh Thần, nhờ việc đặt tay của Kha-na-ni-a, người môn đệ Chúa Giêsu sai đến.

Thế là sau ba ngày ông không nhìn thấy, cũng chẳng ăn uống được gì. Nay ông đứng dậy chịu phép rửa, rồi ăn uống và khỏe lại. Thế là đời ông được thay đổi từ đây!

Từ một con người trung thành với quan niệm duy Do Thái giáo, nay Phaolô lại thay đổi trở nên con người say mê Giêsu đến độ ngài nói: “kể từ khi tôi biết Đức Giêsu Phục Sinh, tôi coi mọi sự như phân bón. Kể từ khi biết Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi cả trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô Chúa tôi”. (Pl.3, 8-9).

Nếu trước đây Sao-lô tìm mọi cách để tiêu diệt những người theo Chúa Giêsu, thì nay Phao-lô lại hăng say rao giảng Tin mừng để đưa mọi người đến cùng Giêsu. Lòng nhiệt thành rao giảng Tin mừng của Chúa đã trở thành phương châm sống của ông: "khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng tin mừng". (1Cr 9,16)

Trong cuộc đời chúng ta cũng vậy, lắm khi một biến cố, một dấu chỉ nào đó xảy ra làm ta cảm thấy khó chịu, đau đớn lòng, nhưng có khi đó lại chính lại là hồng ân đổi mới. Giúp chúng ta trưởng thành hơn trong đức tin và dạng dày hơn trong cuộc sống nhờ ơn ban của Chúa.

Xin Chúa cho con biết nhìn các biến cố bằng cặp mắt đức tin, để chúng con không ngã lòng, buông xuôi khi gặp thử thách, thất bại; Và xin cho chúng con cũng đừng bao giờ tự mãn khi thành công. Vì cuộc đời có lắm đổi thay!.

 

* Suy niệm mùa thường niên: Mc 4, 21-25

Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nhắc chúng ta về bản chất và sứ mạng đích thực của người Kitô hữu. Ta hãy lắng nghe Lời Chúa chỉ dạy để chấn chỉnh lại đời sống của mình cho phù hợp với bản chất và sứ vụ mà Chúa muốn.

- Nếu bản chất của chiếc đèn là để thắp sáng, thì đức tin chính là bản chất của người kitô hữu. Vì chúng ta được gọi là "tín hữu".

- Còn nếu sứ mạng của chiếc đèn là chiếu giải ánh sáng cho mọi người nhìn thấy, thì sứ mạng của người kitô hữu là chiếu tỏa ánh sáng đức tin ấy cho mọi người nhìn thấy bằng những việc làm cụ thể. Vì "Đức tin không có việc làm là đức tin chết ". (Gc.2,17). Mà những việc làm cụ thể ấy chính là những việc lành. “Ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”.

Qua bí tích rửa tội, chúng ta được Chúa trao ban cho ánh sáng Đức tin và kêu mời chúng ta chiếu tỏ ánh sáng đó cho trần gian. Nhờ ánh sáng của những việc làm vì đức tin ta mới có thể đẩy lui được những bóng tối của gian dối, ghen ghét, hận thù, tranh chấp, chia rẽ, đau khổ và sự chết ta khỏi cuộc sống để nhường lại cho ánh sáng của yêu thương, tha thứ, bác ái, niềm vui và sự sống…

Nếu mỗi chúng ta tích cực thắp lên ánh sáng của đức tin thì bóng tối của sự dữ sẽ tan biến. Ngược lại nếu ta ích kỷ chỉ giữ lại ánh sáng cho riêng mình hay che đậy nó lại thỉ sẽ nguy hại cho ta và cho người nên Chúa Giêsu khuyến cáo chúng ta : “ai có sẽ được cho thêm, còn ai không có, cả điều mình tưởng có cũng bị lấy đi.”.

Xin Chúa củng cố Đức Tin nơi mỗi chúng con, hầu chúng con có thể can đảm thắp lên ngọn lửa đức tin ấy bằng những hành động yêu thương bác ái cụ thể cho tha nhân, để qua đó mà mọi người nhận ra Chúa và ngợi ca Danh Người.

 

Thứ sáu: 2 Tm 1,1-8; Lc 10,1-9

Nhớ Thánh Ti-mô-thê và thánh Ti-tô, Giám mục.

- Ti-mô-thê sinh tại Lít-tra, ngày nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ; cha là một người ngoại giáo, mẹ theo Do Thái giáo. Thánh Phaolô, trong chuyến truyền giáo lần thứ nhất, đã rửa tội cho Ti-mô-thê; từ đó Ti-mô-thê luôn theo Phaolô và trở thành cộng tác viên đắc lực cho thánh nhân. Cả khi Phaolô bị tù đày, Ti-mô-thê vẫn ở với ngài. Theo truyền thuyết, Ti-mô-thê là giám mục tiên khởi của giáo đoàn Êphêsô. Hai lá thơ Phaolô được đề tựa gửi cho ngài.

- Ti-tô là con của một gia đình hoàn toàn ngoại giáo. Trong Công vụ Tông đồ, Ti-tô không bao giờ được nhắc đến; nhưng trong các lá thơ, thánh Phaolô đều gọi ông Ti-tô là cộng tác viên. Phaolô đã rửa tội cho Ti-tô, đem theo lên Giêrusalem để dự Công đồng các Tông đồ. Phaolô đã trao cho Ti-tô nhiều trách vụ quan trọng. Theo truyền thuyết, thánh Phaolô đã đặt Ti-tô làm giám mục cho giáo đoàn Cờ-rê-ta.

Công đồng Vatican II khẳng định rõ rằng: “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành là truyền giáo” (Ecclesia peregrinans natura sua missionaria est, Ad gentes 2). Sẽ không còn là Giáo Hội nữa nếu như Giáo Hội không truyền giáo. Chính Chúa Giê-su, trước khi về cùng Thiên Chúa Cha, đã trao lại sứ mạng truyền giáo cho Giáo Hội qua các tông đồ:“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng”(Mc 16,15). Nhưng không phải đợi đến khi về trời, Chúa mới trao sứ mạng này cho các Tông Đồ, mà ngay khi còn ở tại thế, Chúa đã sai phái không chỉ 12 tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng mà Người còn chỉ định thêm 72 môn đệ nữa. 

Bài Tin Mừng hôm nay, tường thuật lại sự kiện Chúa Giê-su sai 72 môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng. Khi thi hành sứ vụ loan báo tin mừng, Chúa muốn các ngài phải đặt mối ưu tư truyền giáo lên hàng đầu, đừng quá bận tâm những chuyện vật chất khi truyền dạy: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép; cứ ăn những gì người ta dọn lên.”

Trải qua mọi thời, ở mọi nơi, Hội Thánh không ngừng thực hiện sứ mạng cao cả này. Từ 12 Tông Đồ và 72 môn đệ, nay Hội Thánh Chúa đã phát triển và lan rộng đến mọi nơi trên thế giới. Hội Thánh cũng muốn con cái của mình cùng thao thức và hành động cho sứ mạng truyền giáo.

Phải chăng truyền giáo là công việc của hàng giáo sỹ và những nhà chuyên môn? Không phải như thế! Mỗi người tín hữu, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội đều được tham dự vào 3 chức vụ của Hội Thánh đó là: Ngôn Sứ, Tư Tế Và Vương Giả. Với chức vụ ngôn sứ, mỗi người tín hữu có nhiệm vụ và bổn phận phải truyền giáo tùy theo bậc sống và khả năng của mình.

Mục đích truyền giáo là giới thiệu Chúa cho mọi người, giúp mọi người tin vào Chúa và đón nhận ơn cứu độ. Là một tín hữu bình thường, chúng ta phải có sự hiểu biết sâu xa về Chúa qua việc không ngừng trau dồi kiến thức giáo lý và học hỏi Phúc âm. Vì làm sao ta có thể giới thiệu một người cho người khác nếu ta không hiểu không biết người đó là ai? Bên cạnh việc giới thiệu Chúa cho người khác, chúng ta còn phải làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày, đừng để đời sống của chúng ta phản chứng lại những gì chúng ta loan báo trên môi trên miệng. Vì ngày hôm nay người ta cần chứng nhân hơn thầy dạy, mặc dù thầy dạy cũng rất cần.

- Vậy trước tiên chúng ta can đảm tuyên xưng mình là người tin theo Chúa, đừng vì những lợi ích vật chất mà ta chối bỏ niềm tin của mình.

- Tiếp theo, chúng ta can đảm sống cho những giá trị Tin Mừng như: sự thật, công bằng, bác ái…mặc dù đôi lúc vì những giá trị này mà chúng ta phải chịu thiệt thòi, hiểu lầm.

- Cuối cùng chúng ta phải thực hành niềm tin của chúng ta. Làm sao người ta có thể tin có Chúa khi thấy một người Công Giáo không thực hành niềm tin và lòng bác ái. Có ai đó đã thốt lên “Tôi tin có đạo Công Giáo nhưng tôi không tin người Công Giáo” thật là đau lòng!

Vậy, mỗi người trong chúng ta hãy thao thức ưu tư về việc truyền giáo. Thao thức lo âu chưa đủ, Chúa muốn chúng ta hãy có những hành động cụ thể tùy theo bậc sống và khả năng của mỗi người theo gương 2 thánh Ti-mô-thê và Ti-tô mà GH hôm nay kính nhớ. Thánh Timôthê và Titô là môn đệ nổi tiếng gắn bó mật thiết và nhiệt thành cộng tác với thánh Phaolô trên các hành trỉnh loan báo Tin mừng cho dân ngoại. Cho dẫu bước đường rao giảng của các ngài gặp phải trăm ngàn thử thách gian khổ như lời Chúa Giêsu tiên báo :“Như chiên con đi vào giữa bầy sói” (Lc 10,3). Nhưng các ngài đã vượt thắng tất cả nhờ sức mạnh của Chúa ban và đã chu toàn xuất sắc sứ mạng mà Chúa trao phó.

Xin cho chúng ta biết noi gương hai thánh Ti-mô-thê và Ti-tô can đảm hăng say chứng tá Tin mừng cho những người chung quanh chúng ta bằng lời nói và việc làm. Xin cho chúng ta biết ý thức: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.” (Lc 10, 2), để tích cực cộng tác với Hội Thánh trong sứ mạng truyền giáo với hết khả năng và sức lực của mình.

 

* Suy niệm mùa thường niên: Mc 4,26-34

Khi muốn nói những điều khó nói, người ta hay dùng cách nói ví von.

Khi muốn bộc bạch những tâm tình sâu kín, khó nói thành lời, người ta hay nhờ đến những câu truyện.

Còn khi mạc khải mầu nhiệm nước trời cho dễ hiểu, Chúa Giêsu lại hay dùng đến những dụ ngôn. Có thể nói dụ ngôn là con đường ngắn nhất, thực tế nhất, gần gũi nhất nhưng cũng hữu hiệu nhất đưa dẫn chúng ta tiếp nhận dễ dàng những giá trị thiêng liêng và thực tại vô hình.

Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu dùng đến hai dụ ngôn: Dụ ngôn hạt giống và dụ ngôn hạt cải để mạc khải về mầu nhiệm nước trời.

Với hai dụ ngôn này, Chúa Giêsu cho chúng ta biết nước trời khởi đầu bé tí ti như hạt cải, và mong manh như hạt lúa, nhưng với thời gian nó dần dần lớn lên, vững mạnh và mang đến những điều bất ngờ!

Hạt giống được gieo trong lòng đất, nó bị vùi lấp, bị hủy đi nó mới nảy mầm lớn lên và trổ sinh nhiều bông hạt tốt tươi mang lại mùa thu hoạch kết quả tốt đẹp, làm vui thỏa lòng người.

Với hạt cải nhỏ bé, nhưng khi được gieo vào lòng đất, nó lại âm thầm lớn lên vững mạnh, to lớn đến nổi làm chổ nương tựa cho chim trời ẩn trú an toàn.

Bằng hai hình ảnh gần gũi trên, Chúa Giêsu muốn nói đến những thực tại quan trọng của nước trời nơi Hội Thánh trần gian.

- Hội thánh Chúa ở trần gian khởi đầu rất khiêm tốn, nhỏ bé chỉ với nhóm tông đồ 12 nhỏ nhoi.  Nhưng trãi qua hơn 2000 năm, GH đã không ngừng phát triển và lớn mạnh. Đến nay đã có trên 2 tỷ người kitô giáo, chiếm 1/3 dân số thế giới. Đồng thời vai trò của Đức Thánh Cha trong HT có ảnh hưởng rất lớn trên các quốc gia trên toàn thế giới. Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói! Dù Hội Thánh ban đầu nhỏ nhoi ít ỏi thì hôm nay lớn mạnh lan rộng khắp nơi.

Như  hạt giống mang mầm sống nuôi dưỡng đời sống con người, thì Hội Thánh cũng là nơi chứa đựng sức sống thần lương nuôi dưỡng cho người tín hữu trên đường đời nơi Lời Chúa, qua Giáo huấn của Giáo hội nhất là nhờ lãnh nhận các bí tích do Chúa Giêsu trao ban.

Tựa như cây cải lớn rộng trở thành cây cao bóng cả làm nơi trú ẩn cho chim trời những khi mõi mệt và gặp hiểm nguy, thì GH cũng trở thành nơi tựa nương cho những ai yếu đuối, nghèo khổ tựa vào; làm bóng mát cho những ai mệt mỏi trên đường đời ẩn náo. Bởi lẽ lúc nào GH cũng đứng về người nghèo, cô thế cô thân để bên vực chở che nhằm đen lại cho họ nguồn bình an đích thực. Như lời Chúa Giêsu mời gọi: " những ai  vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.(Mt.11.28).

Với những ý nghĩa trên của hai dụ ngôn, Chúa Giêsu còn muốn nhắc nhở chúng ta hãy tích cực góp phần vào sự nghiệp nước trời nữa. Nhưng để góp sức mình cho sự nghiệp nước trời, chúng ta cần phải thể hiện hai việc cụ thể sau:

- Phải hy sinh như hạt giống tự hủy, nghĩa là mỗi ngày chúng ta phải tập chết đi cho ý riêng tích kỷ của mình, phải khử trừ những đam mê dục vọng thấp hèn nơi lòng mình và phải diệt trừ khỏi những thói hư tật xấu nơi bản thân, nhờ đó đời ta mới có thề trổ sinh được nhiều hoa trái bẳng những việc làm tốt đẹp dâng hiến cho người, cho đời.

- Phải kiên nhẫn như hạt giống, phải từng ngày âm thầm mọc lên và phát triển. Nước trời cũng vậy. Nên đừng vội nôn nóng khi thấy bản thân mình đã cố gắng nhiều mà không tiến triển gì trên đường nhân đức. Cũng đừng thất vọng khi thấy GH Chúa vẫn còn nhiều người xấu xa tội lỗi và nhất là đừng thua buồn vì công cuộc loan báo tin mừng của GH xem ra không có kết quả gì. Điều quan trọng là mỗi người chúng ta hãy kiên trì làm hết sức mình với sự phó thác cậy trông vào Chúa quan phòng. Nhiệm vụ của chúng ta là kiên nhẫn gieo trồng, việc còn lại là do Thiên Chúa mới có quyền cho mọc lên. Chúng ta chỉ cần nổ lực góp phần mình bằng việc năng cầu nguyện chân thành, kèm theo những việc làm bác ái cụ thể để phục vụ tha nhân. Nhất là những người đau khổ, bệnh tật và bị bỏ rơi. Nhờ những góp phần bé nhỏ của mỗi chúng cộng tác vào ơn Chúa mà HT mới có thể lớn mạnh và lan rông mỗi ngày một hơn.

 

Thứ bảy: Mc 4,35-41

Bài Tin mừng hôm nay thì nêu lên những sóng gió mà các tông đồ gặp phải khi xuống thuyền sang bờ bên kia biển hồ trong đêm tối. Nhưng nhờ có Chúa Giêsu hiện diện sóng nước mới yên lặng, con thuyền được cập bến bình an.

Cuộc đời ta của chúng ta có lúc yên bình nhưng cũng có lúc sóng gió nổi lên khiến ta sợ hãi bất an.  Xin Chúa luôn ở bên để che chở, chấn an nhờ đó ta mới dễ dàng vượt qua sóng gió hiễm nguy của biển đời trần gian mà đạt đến bến bờ của an vui và hạnh phúc.

Suy niệm về bài tin mừng hôm nay, ta nhận ra rằng:

Các môn đệ chính là mỗi người chúng ta.

Con thuyền là hình ảnh của Giáo Hội.

Biển Hồ là hình ảnh trần gian.

Đêm tối, bảo tố, gió mạnh là những thử thách do ma quỷ gây nên.

Bờ bên kia là hạnh phúc nước trời mà con người cần vươn tới.

Cũng như các môn đệ xưa, chúng ta đã bước vào con thuyền của Giáo Hội khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy. Cùng với con thuyền Giáo hội, chúng ta đang tiến bước trên biển đời trần gian.

Giống như con thuyền của các môn đệ bị những cơn sóng to, gió lớn đánh dữ dội, thì ở mọi thời, mọi nơi Giáo Hội cách chung, cách riêng mỗi chúng ta cũng đương đầu với những chống đối, những vu khống, bôi nhọ và loại trừ, do thế lực ma quỷ gây ra.

Có khi những bóng tối, những vết đen đáng tiếc xảy ra trong Giáo Hội cách chung hay những đau khổ, những thất bại và những bất hạnh xảy đến cho bản thân, làm cho ta dao động, mất hướng sống. Khi đó là lúc thuyền đời của ta đang đi trong đêm tối đức tin, đến nỗi ta muốn buông xuôi tất cả.

Quan trọng là Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi chúng ta khi gặp gian nan thử thách. Chính lúc đó, Chúa sẽ ra tay cứu giúp chúng ta, không để cho sóng gió nhận chìm chúng ta vì “Ơn Ta đủ cho con.” (2Cr 12, 9) Ngài vẫn ở bên Giáo Hội; Ngài luôn đồng hành và hiện diện bên mỗi người chúng ta. Ngài ban Chúa Thánh Thần hướng dẫn Giáo Hội và ban ơn trợ giúp chúng ta đủ sức lướt thắng mọi sóng to gió lớn và dìu bước chúng ta cập bến bình an, nếu chúng ta tin tưởng cậy trông phó thác vào quyền năng của Người.

Xin Chúa ban thêm lòng tin kiên vững nơi chúng con, để dù trong bất cứ hoàn cảnh thử thách nào, ngay cả những lúc bước đi trong đêm tối của đức tin, chúng con vẫn an tâm tiến bước trên biển đời. Xin Chúa luôn hiện diện và đồng hành với chúng con, để đưa dẫn chúng con đạt tới bến bờ bình an.


SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN III THƯỜNG NIÊN

CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN B

Gn 3,1-5.10; 1Cr 7,29-31; Mc 1,14-20

Suy niệm 1: CHÚA MỜI CHÚNG TA CỘNG TÁC

Trong Kinh Thánh có một cuốn sách vừa ngắn vừa dễ hiểu, đó là sách Giôna mà chúng ta được nghe một đoạn trích trong bài đọc I hôm nay. Sách Giôna dài chỉ có ba trang nhưng chất chứa nhiều bài học quý báu, không những cho những người cùng thời với Giôna mà cho cả chúng ta hôm nay.

Điểm trước tiên, và cũng là điểm quan trọng nhất của câu truyện, đó là Thiên Chúa là Ðấng từ bi nhân hậu và giàu lòng thương xót. Dân thành Ninivê sống đồi bại đến nỗi Chúa nói với Giôna: “Hãy đứng dậy, đi đến Ninivê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã lên thấu tới Ta.” (1,2). Tuy nhiên, vừa khi thấy dân chúng tỏ dấu ăn năn sám hối trước lời loan báo của Giôna, Chúa liền bỏ ý định phạt họ.

Điểm thứ hai: Thiên Chúa là Chúa khắp hoàn vũ. Sự hiện diện của Chúa không bị giới hạn ở một nơi, một quốc gia, một đảng phái hay một tôn giáo nào. Vì thế người ta có thể cầu nguyện với Chúa khắp mọi nơi, ngoài ranh giới của Israel, trên tàu và ngay cả trong bụng cá.

Điểm thứ ba: những người mà chúng ta cho là ngoại đạo hoặc tội lỗi, lại là những người sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa hơn chúng ta. Chính Chúa Giêsu sau này cũng khẳng định điều này khi Người nói với các thượng tế và kỳ mục: “Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông.” (Mt 21,31).

Điểm thứ tư: Thiên Chúa muốn cứu toàn nhân loại chứ không phải chỉ cứu dân riêng của Người; giống như cha mẹ, Thiên Chúa yêu thương tất cả các con cái của mình, không trừ một ai.

Bên cạnh đó, những giáo huấn của sách Giôna còn giúp ta hiểu rõ hơn lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Ðại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Theo bản văn Hy Lạp, người ta có thể dịch như sau: “Anh em hãy sám hối, có nghĩa là anh em hãy tin vào Tin Mừng”. Sám hối là tin vào Tin Mừng, là tin rằng Thiên Chúa là tình thương và tha thứ, và tình yêu của Người là dành cho hết mọi người. Do đó, chúng ta không nên tự giam mình trong quá khứ và trong sự hối tiếc. Dù có sa đi ngã lại trong tội, dù tội lỗi của chúng ta có như thế nào đi nữa thì Chúa vẫn luôn luôn tha thứ. Ðiều đó có nghĩa là chúng ta vẫn luôn có thể thay đổi cách sống và làm lại cuộc đời.

Sám hối nhiều khi không nhất thiết là phải thay đổi những thực tại bên ngoài, những công việc, hay các mối quan hệ, nhưng là sống với một tâm thức khác, với một cái nhìn khác. Như trong bài đọc II, thánh Phaolô không nói phải coi thường những giây phút hiện tại, nhưng là đừng mặc cho nó những giá trị mà nó không có. Ðiều này đòi hỏi chúng ta phải có sự phân định.

Nói về sự phân định, chúng ta chắc đều ngạc nhiên về sự trả lời mau mắn và triệt để của các môn đệ. Vừa nghe Chúa Giêsu gọi, các ông lập tức bỏ thuyền, bỏ chài lưới, bỏ cha của mình để theo Người.

Thế nhưng, từ 2000 năm nay, Chúa không còn trực tiếp gọi chúng ta như Người đã gọi các môn đệ đầu tiên. Chúa gọi chúng ta qua trung gian những người khác, như trong câu chuyện Chúa gọi cậu bé Samuel mà chúng ta nghe tuần trước. Chúa gọi Samuel bốn lần, nhưng đến lần thứ bốn, phải nhờ sự chỉ bảo của thầy tư tế Êli, cậu mới nhận ra tiếng Chúa. Vì nhiều lúc “tiếng gọi” của Chúa cũng cần phải được phân tích, phân định và xác thực qua trung gian con người hay một biến cố nào đó. Và điều này dĩ nhiên cần phải có thời gian…

Trong mọi hoàn cảnh sống, Chúa luôn mời gọi chúng ta như đã gọi các môn đệ đầu tiên: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Thoạt nghe, chúng ta tưởng câu này dành riêng cho các linh mục và tu sĩ. Thực ra, không phải như vậy. Ðây là ngôn ngữ Kinh Thánh: biển là nơi trú ngụ của các quyền lực ác thần. Lưới người tức là cứu con người ra khỏi tử thần, ra khỏi sự dữ. Khi ta giúp người nào đó ra khỏi cảnh khổ cực, khi ngăn cản họ đắm chìm trong điều xấu xa, khi ta như là người cứu nạn trong cơn lũ lụt… ta là kẻ lưới người.

Chúa Kitô đã đến để cứu chúng ta khỏi sự dữ, Người cũng muốn chúng ta tham dự vào kế hoạch cứu độ của Người. Ðừng quên rằng nếu Chúa gọi chúng ta là để chúng ta “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Nhưng liệu hôm nay chúng ta có đủ tĩnh lặng để nghe lời mời gọi sám hối của Chúa hay không? Chúng ta có đủ can đảm buông bỏ những đam mê, tật xấu để cộng tác với Người trong việc trở thành người môn đệ loan báo Tin Mừng tình yêu và cứu độ hay không?

Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

Suy niệm 2: HÌNH ẢNH THEO TIẾNG GỌI

Trong đời sống hai bạn trẻ nữ nam xa lạ bỗng gặp nhau, làm quen với nhau… và họ bắt được làn sóng tiếng gọi tình yêu của nhau. Họ hứa hẹn với nhau, không đòi hỏi gì, rồi từ gĩa gia đình đi thành lập gia đình riêng, xây dựng một tổ ấm xã hội mới với nhau từ hai bàn tay trắng, bắt đầu từ con số không. Điều mà không ai ngờ trước được như vậy. Trong dân gian có ca ví khôn ngoan: Tình yêu mạnh hơn sự chết!

Trong nếp sống đạo giáo có hình ảnh như thế không?

Kinh thánh thuật kể lại nhiều trường hợp những người nghe theo tiếng gọi của Thiên Chúa, từ gĩa mọi sự đi theo Người.

Ngôn sứ Elija đi ngang qua cánh đồng thấy Elischa đang nỗ lực cày ruộng, Elija ném tấm áo choàng mình phủ trên Elischa. Hiểu ý đó là tíêng gọi của Elija. Elischa bỏ cày bừa lại trên thửa ruộng, vội vã chạy lại Elija và khẩn khoản nài nỉ“ Xin thầy cho con trở về nhà từ gĩa cha mẹ con, con sẽ trở lại theo Thấy ngay! Elija bằng lòng cho phép như Elischa xin. Sau khi từ gĩa gia đình bạn bè, Elischa đi đến theo làm môn đệ Ngôn sứ Elija.

Elischa nghe theo, vì nhận ra tấm áo choàng của Elija bỗng ném phủ trên người mình như tiếng gọi. Nghe theo tiếng gọi đi theo không thắc mắc “tại sao”, không đặt điều kiện với chữ “nhưng”, và không do dự “ như thế nào”!( 1. Các Vua 19,19-21)

Ngay giữa dòng đời sống đang làm ăn cày ruộng Elischa nhận ra đó là tiếng của Thiên Chúa kêu gọi qua tấm áo choàng của Ngôn sứ Elija phủ chụp trên người mình! Một sự thể lạ lùng, nhưng có thật.

Thánh sử Luca thuật lại biến cố Thiên Thần Gabriel hiện đến truyền tin cho Maria sứ mệnh được Thiên Chúa tuyển chọn làm mẹ Chúa Giêsu. Trong cuộc gặp gỡ truyền tin này không có thời giờ cho Maria suy nghĩ thêm, không có câu hỏi ngược trở lạị, chỉ có thắc mắc của Maria với chữ “ như thế nào được”. Sau khi nghe Thiên Thần cắt nghĩa, Maria nói vắn gọn xúc tích: Xin xảy ra cho tôi như lời Sứ Thần truyền!

Trong căn nhà sinh sống của Maria ở thành Nazareth, ý định chương trình của Thiên Chúa được Thiên Thần loan báo mang đến cho Maria. Căn phòng truyền tin lịch sử thánh này hiện còn ở bên dưới tầng hầm Vương cung Thánh Đường Truyền tin ở Nazareth.

Và theo tương truyền, bức tường căn nhà truyền tin của Đức Mẹ Maria ở Nazareth, từ hồi thế kỷ 13. sau Chúa giáng sinh, để bảo quản cho khỏi bị tàn phá ở thành Nazareth đã được Thiên Thần di chuyển đem về bên Ý thành phố Loreto. Vì thế trong Vương cung thánh đường Loreto có ngôi nhà với ba bức tường nhà Đức Mẹ, nơi ngày xưa Thiên Thần Gabreil hiện đến truyền tin. Ngôi nhà nhỏ này có kích thước 9,25 mét chiều dài, 4,12 mét chiều rộng và chiều cao 5 mét.

Phúc âm Chúa Giêsu thuật lại cảnh Chúa Giêsu đi dọc bờ hồ Galileo thấy các Ông Simon, Andre, Jacobe và Gioan đang làm công việc chài lưới đánh cá để sinh sống, chỉ nói vắn tắt kêu gọi họ” Hãy theo Thầy!”. Và họ cũng chẳng thắc mắc gì, không xin từ gĩa gia đình bạn bè, nhưng vô điều kiện lập tức bỏ chài lưới đồ nghề lại đi nghe theo tiếng gọi của Chúa Giêsu. (Mc 1,14-20).

Nơi bờ hồ chỗ làm ăn sinh sống đang đánh cá, Chúa Giesu đến kêu gọi họ ra đi làm Môn đệ “ Hãy theo Thầy!”

Giữa cảnh sống hằng ngày tiếng Chúa vang lên kêu gọi trong tâm hồn con người. Những gương nghe theo tiếng gọi theo Chúa như thế luôn hằng có trong đời sống xưa nay. Mẹ Thánh Teresa thành Calcutta, người Albania, nghe theo tiếng gọi của Chúa, sang tận nước Ấn Độ thành Calcutta, cả đời sống chết với người nghèo, giúp đỡ săn sóc an ủi người bị bỏ rơi, và thành lập Dòng bác ái sống nhiệm nhặt khó nghèo giữa xã hội người nghèo khổ. Mẹ Thánh và các Chị nữ Tu đã nghe theo tiếng gọi của Thiên Chúa tình yêu đi đến sống với những người cần tình yêu thương giúp đỡ an ủi săn sóc về miếng cơm manh áo và tinh thần tâm hồn.

Rồi có những người xưa nay từ bỏ cuộc sống bảo đảm an toàn về mọi mặt xã hội cũng như chức vị, như các Vị Thừa Sai xưa nay ở bên Âu Châu bỏ xứ sở quê hương sinh ra, đã nghe theo tiếng Chúa kêu gọi, ra đi sang tận miền những đất nước xa lạ bên Phi Châu, bên Á châu, bên Nam Mỹ…thiếu thốn về mọi phương diện cùng sống chia sẻ lăn lộn với họ, để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa., mà không đòi hỏi điều kiện gì.

Xưa nay tròng dòng lịch sử vẫn luôn hằng có biết bao nhiêu tâm hồn nghe nhận ra tiếng Thiên Chúa kêu gọi. Và họ đã từ bỏ mọi sự có thể được hưởng dùng, từ bỏ con đường công danh sự nghiệp đầy tương lai hứa hẹn, quảng đại hy sinh dấn thân chọn nếp sống đời vâng phục nhiệm nhặt khó nghèo tu trì theo tiếng ơn kêu gọi của Thiên Chúa giữa lòng dòng sông đời sống xã hội nơi các Tu Viện, nơi các Giáo phận xứ đạo cho việc mục vụ phụng vụ của Giáo hội Chúa.

Sống như thế có thể nói được họ kính trọng yêu qúy chất liệu nội dung đời sống hơn bao vỏ bọc bên ngoài. Nếp sống như thế khác nào hình ảnh phẩm chất rượu trong ly, trong chai bình quan trọng qúy giá hơn ly, hơn bình chai lọ đựng rượu. Họ nghe nhìn nhận ra từ trong sâu thẳm nội tâm tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa muốn họ dấn thân ra đi đến với con người xã hội là hình ảnh của Thiên Chúa tạo dựng nên.

Hai người nam nữ nghe theo tiếng gọi tình yêu của nhau ra đi cùng xây dựng tổ ấm gia đình không chỉ mang niềm vui hạnh phúc lại cho nhau, nhưng nhất là cho tương lai con cái của họ. Và như thế cũng cho xã hội và Giáo hội nữa.

Trong nếp sống con người ai cũng bị hay được hỏi, được kêu gọi dấn thân cho con người, và cho nước Chúa ở xã hội trần gian hôm nay và ngày mai. Và như Đức Giáo Hoàng qúa cố Benedictô 16. đã có suy tư xác tín về nếp sống theo tiếng Gọi của Thiên Chúa:” Chúng ta không được tạo dựng cho một đời sống an toàn dễ chịu, nhưng cho sự to lớn cao cả.”

Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long

 

Suy niệm 3: NĂM MỚI ĐỔI ĐỜI

Phúc Âm tuần này kể chuyện Chúa Giêsu bắt đầu giai đoạn mới trong cuộc đời Ngài bằng lời rao giảng: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”  Một lời kêu gọi đổi mới cuộc đời. Chúa đã đổi đời các môn đệ.

1. Quyết đoán từ bỏ. Để đổi đời thì việc đầu tiên là phải quyết đoán từ bỏ, không chỉ từ bỏ cái cũ, cái xấu, mà đôi khi phải từ bỏ cả những tình thân, những điều tốt để đời được tốt đẹp hơn. Để đổi đời, dân Ninivê đã bỏ đường gian ác để đi theo đường lối Chúa là đường công chính. Để đổi đời, các môn đệ đã không chỉ quyết đoán từ bỏ công việc chài lưới, mà còn từ bỏ cả bạn bè đồng nghiệp, cả gia đình để đi theo Chúa Giêsu cứ như thể một chàng trai, một cô gái rời bỏ gia đình cha mẹ để theo nhau kết hôn. Thế nên, sám hối cần bước đầu tiên là từ bỏ những dính bén cản trở đổi mới cuộc đời chúng ta.

2. Quyết tâm tiến bước. Từ bỏ rồi mà không tiến bước thì đời sẽ lạc trôi dang dở. Vì vậy, sau từ bỏ, bước tiếp theo để đổi đời là quyết tâm tiến bước để đạt mục đích, đạt khát vọng của mình. Thế nên, đích đến của sám hối là tin vào Tin Mừng, tin vào Chúa, đi vào liên hệ tình nghĩa mật thiết với Chúa Giêsu Kitô - Con Thiên Chúa làm người. Đi theo Chúa thì Chúa sẽ đổi đời các môn đệ như Ngài khẳng định: “Các anh hãy đi theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá.”

Đổi mới là quy luật của đất trời. Thế giới cũng đang đổi mới không ngừng. Thế nên, các môn đệ Chúa bắt buộc phải đổi mới. Muốn đổi mới rất cần một tầm nhìn xa trông rộng vượt ra khỏi bản thân, vượt ra khỏi ao làng để vươn ra biển lớn và vươn tới trời cao. Chúa Giêsu - Đấng từ trời xuống thế - sẽ soi sáng chúng ta thay đổi tầm nhìn và giúp sức chúng ta quyết tâm hành động nhằm thay đổi cuộc đời, thay đổi thế giới. Amen.

Lm. Nguyễn Xuân Trường

Suy niệm 4: “Các anh hãy đi theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá”.

Anh chị em thân mến,

Hể nói đến từ bỏ, là những người công giáo thường hay nghĩ đến các linh mục, các dì phước, và cho rằng các vị ấy là những người từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa. Họ đơn giản nghĩ rằng từ bỏ cha mẹ để đi tu là từ bỏ; từ chối kết hôn là từ bỏ; từ chối vinh hoa phú quý là từ bỏ... cho nên khi thấy một linh mục sống xa hoa là họ chê bai này nọ, khi thấy một nữ tu sống đài các thì họ không ưa, hoặc khi thấy một thanh niên muốn đi tu mà sống như những thanh niên khác thì họ đoán xa đoán gần: tướng đó mà tu cái nỗi gì !!!

Đức Chúa Giê-su mời gọi tất cả mọi người –không trừ một ai- từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa, Ngài mời gọi tất cả trở thành môn đệ của Ngài, tức là trở nên những người thánh thiện như Ngài.

Có ngừơi từ bỏ không lập gia đình nhưng lại tham tiền bạc, họ chưa từ bỏ; có người từ bỏ tiền bạc nhưng lại thích “đào sắc”, họ chưa từ bỏ; có người từ chối địa vị danh vọng nhưng lại sống như là công tử “Bạc Liêu”, họ chưa từ bỏ.

Đức Chúa Giê-su không trương bảng quảng cáo tài nghệ thần thông của mình để chiêu dụ môn sinh, Ngài cũng không hứa hẹn giàu sang phú quý gì cho những ai đi theo làm môn đệ của Ngài, Ngài chỉ nói: “Các anh hãy đi theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá”, và thế là An-rê và em là Phê-rô, Gia-cô-bê và em là Gioan đã từ bỏ mọi sự để đi theo làm môn đệ của Ngài. Các ông đã từ bỏ cha mẹ vợ con, đã từ bỏ nghề đánh cá truyền thống của gia đình để trở nên môn đệ của Đức Đức Chúa Giê-su.

Cái “từ bỏ” mà Đức Chúa Giê-su muốn nơi chúng ta chính là từ bỏ cái tôi, cái ý riêng của mình, có thể nói đó là những “truyền thống” bám chắc sâu xa trong con người của mình để đi theo làm môn đệ của Chúa, bởi vì dù cho anh là một linh mục hay một tu sĩ đã từ bỏ tình yêu cá nhân thường tình để đi làm môn đệ Chúa, mà anh không có từ bỏ cái tôi của mình, không từ bỏ ý riêng của mình, thì rồi từ từ anh sẽ đi kiếm những “tình yêu” vụng trộm khác; dù anh đã từ bỏ tất cả gia tài sự nghiệp mà chưa bỏ được ý riêng của mình, thì anh sẽ trở thành gánh nặng cho người khác. Cái tôi, cái ý riêng đó chính là bản thân tôi, là con người tôi; bỏ đi bản thân tôi, con người tôi thì chúng ta sẽ không còn gì để giữ lại, không còn gì để làm vướng tâm hồn chúng ta, nên chúng ta rất dễ dàng nhận được ân sủng của Thiên Chúa và thong dong đi theo Ngài mà “không thèm” ngó lui.

Trong vườn Cây Dầu, Đức Chúa Giê-su đã từ bỏ ý riêng để vâng theo thánh ý của Cha trên trời nên đã trở thành Đấng cứu chuộc nhân loại; Đức Mẹ Ma-ri-a đã từ bỏ ý riêng của mìng để vâng phục ý Thiên Chúa mà sinh hạ Đấng Mê-si-a, nên Mẹ đã trở thành Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng sinh; các thánh cũng đã từ bỏ tất cả nên đã được Nước Trời làm gia nghiệp.

Anh chị em thân mến,

Ngày hôm nay mỗi một người Ki-tô hữu đều hiểu rằng không phải chỉ có những người “đi tu” mới từ bỏ mọi sự để làm môn đệ của Chúa, nhưng là tất cả những ai đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội, trở thành con cái của Thiên Chúa và trở nên môn đệ của Ngài, cũng đều được Đức Đức Chúa Giê-su mời gọi từ bỏ mọi sự để đi theo Ngài.

Đức Chúa Giê-su không muốn chúng ta từ bỏ vợ con để theo Chúa, Ngài chỉ muốn chúng ta từ bỏ cái tôi tham sân si của mình; Đức Chúa Giê-su không muốn chúng ta từ bỏ công ăn việc làm để chết đói, nhưng Ngài muốn chúng ta từ bỏ cái ý riêng tham vọng của mình; Đức Chúa Giê-su cũng không muốn chúng ta từ bỏ bạn bè thân thiết, nhưng Ngài muốn chúng ta từ bỏ những thói quen không phù hợp với tinh thần Phúc Âm trong cuộc sống của mình.

Để kết luận bài suy niệm này, chúng ta mượn câu nói trong sách “Đường Hy Vọng” của đức cố hồng y Phan-xi-cô Nguyễn Văn Thuận để nhắc nhở mình mỗi ngày:

- “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con đã bỏ trước.”

Thật đúng thay !

Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

Suy niệm 5: MẦU NHIỆM ƠN GỌI

Phàm làm một công việc gì cũng cần phải có nhân sự. Chúa Giêsu khởi sự cuộc đời hoạt động, Ngài cũng cần có nhân sự giúp sức, nếu Ngài muốn là Ngài là “người thật”. Còn nếu Ngài chọn Ngài chỉ là “Chúa” thật thôi, thì quyền năng của Ngài là Chúa chẳng cần gì tới cái động tay của con người góp vào. Ngài phán một lời mọi loài liền có, từ không ra có, huống chỉ phán một lời ai nấy nghe theo thì còn dễ hơn gấp bội. Nhưng vì Ngài sống ở trần gian, theo lời thuật của Luca,“càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan” tức là muốn sống hệt như con người, ngoại trừ tội lỗi, nên Ngài đã cần đến những con người giúp một tay với Ngài. Và bài Tin Mừng hôm nay, thuật lại việc Chúa gọi 4 tay giúp sức: 4 tay này là hai cặp anh em ruột: Phêrô và Anrê; Giacobê và Gioan. Ta hãy nương theo cách Chúa gọi 4 tay này để suy đến mầu nhiệm ơn gọi nơi mỗi người chúng ta.

1. Trước hết ta hãy ngó xem 4 “tay” đó là ai.

Họ chỉ là những người thông thường, không hề xuất thân từ một trường cao đẳng nào, họ không hề được tuyển chọn từ giới tư tế, hàng giáo phẩm hay dòng quí tộc; lại họ không có học thức mấy hay giàu có gì. Họ chỉ là các ngư dân, nghĩa là con người bình thường. Chưa hề có ai tin tưởng vào con người bình thường như Chúa Giêsu. Dường như Chúa Giêsu muốn mời gọi: “Hãy giao cho Tôi mười hai người tầm thường và với chừng ấy, nếu họ tự hiến thân cho Tôi, Tôi sẽ thay đổi cả thế giới này”. Đừng bao giờ chúng ta nghĩ quá nhiều về mình là gì, nhưng hãy nghĩ đến những gì Chúa sẽ khiến chúng ta trở thành.

2. Chúng ta chú ý lúc Chúa Giêsu gọi thì họ đang làm gì.

Họ đang làm công việc hằng ngày của mình : họ đang đánh cá (Phêrô và Anre), vá lưới (Gioan và Giacobe). Với nhiều nhà tiên tri cũng vậy. Amốt nói: “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Chẳng phải là con cái của ngôn sứ nào cả, (ra như là ‘con vua thì lại làm vua, con sãi nhà chùa thời quét lá đa’). Không, tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: ‘Hãy đi tuyên sấm cho Israen dân Ta’”(7,14-15). Rất nhiều người được Chúa gọi không phải tại nhà Thiên Chúa, tức là Nhà Thờ, lúc đang cầu nguyện; cũng không chỉ gọi ở nơi bí mật, nhưng giữa lúc người ấy làm công việc hằng ngày. Một người sống trong một thế giới mà chính Thiên Chúa dựng nên và điều khiển, sẽ không thể nào trốn tránh được Ngài.

3.Chúng ta chú ý xem Ngài đã gọi họ như thế nào.

Chúng ta có biết lời nói đầu tiên và lời nói cuối cùng của Đức Giêsu với tông đồ đầu tiên là lời gì không? Đơn giản thôi: “Hãy theo Tôi” (‘Follow me’: như chiếc xe con ở phi trường Tân Sơn Nhất khi có một chuyến bay đáp xuống đường băng, liền chạy ngay đến và đi trước để cơ trưởng máy bay cứ ‘follow me’ mà vào tới chỗ đậu). Hôm nay gặp Simon Phêrô đang quăng lưới đánh cá, ‘Follow me’ là lời Chúa Giêsu nói ngay với ông. “Hãy theo Tôi, Tôi sẽ làm cho anh trở thành kẻ lưới người như lưới cá”. Chúa không nói : “Hãy theo Tôi, đến Trường chuyên Tu Từ Học, để học cách dùng miệng lưỡi mà dẫn dụ người.” hoặc “Hãy theo Tôi, vào trường Tin Học, học cách vào mạng, (mạng là ‘lưới’) internet, để chụp bắt người như mạng lưới quốc tế internet lan tỏa khắp nơi. Chắc hẳn ngày nay nếu Đức Giêsu gọi bạn nào đang khi lên mạng để ‘chat’ chắc hẳn Ngài cũng sẽ dùng một kiểu như Phêrô xưa rằng: “Hãy theo Tôi, tôi sẽ làm cho bạn trở thành kẻ lưới người trên mạng”. Phêrô khi ấy đang lưới cá, nên ai đang ở ngành nghề nào thì Chúa để họ ở ngành nghề đó mà đi theo Người. “Hãy theo Tôi” là câu nói đầu tiên. Và cũng chính ‘follow me’ là câu nói cuối cho Phêrô. "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không?" Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: "Anh có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su bảo: “(...) Hãy theo Thầy” (*)

4. Suy tư về ơn gọi của chúng ta.

Người ta thường hiểu ơn gọi, ơn Chúa gọi, ơn Thiên triệu theo nghĩa hẹp là ơn gọi làm Linh mục, dì phước, làm Frère. Nhưng thực ra mọi kitô hữu cũng đều được Chúa gọi để làm kitô hữu xứng đáng trong bậc sống của mình. Tiếng Anh: Ơn Gọi là ‘Vocation’. Mà ‘Vocational Center’ lại mang nghĩa Trung Tâm Hướng Nghiệp, dạy Nghề, chứ không phải trung tâm tuyển lựa Ơn Gọi đâu. Vì cùng một gốc chữ dùng, cho nên nội dung ‘Ơn Gọi’ và ‘Nghề Nghiệp’ cũng có nét giống nhau: được ‘gọi’ tức là có ‘năng khiếu làm’ họa sĩ, làm nhạc sư, làm ca sĩ, làm thầy giáo, làm cô nuôi, làm sơ hiền, làm cha làm mẹ, làm anh làm em. Nhưng có một khác biệt lớn giữa ‘ơn gọi’ và ‘nghề nghiệp, công việc’.

- Nếu ta làm vừa đủ để thông qua, đó là ‘công việc’. Nếu ta làm để đạt tới tốt nhất có thể, đó là ‘ơn gọi’.

- Nếu ta làm vì có ai đó nói cần phải làm, đó là ‘công việc’. Nếu ta làm, vì chính ta xác tín rằng cần phải làm, đó là ‘ơn gọi’.

- Nếu ta bỏ cuộc vì chẳng ai để ý hoặc nói lời cám ơn, đó là ‘công việc’. Còn nếu ta cứ trung kiên, dẫu chẳng ai để tâm đến ta, đó là ‘ơn gọi’.

- Nếu quan tâm của ta thành quả, đó là ‘công việc’. Nếu trung thành với bổn phận là điều ta nhắm tới, đó là ‘ơn gọi’.

- Thật khó để tạo hứng thú cho một ‘công việc’, nhưng hầu như không thể không hứng thú, khi đó là một ‘ơn gọi’.

- Khi ta nói: ‘xong rồi’. Đó là ‘công việc’. Còn ‘ơn gọi’, thì chính Chúa sẽ nói: ‘xong rồi’.

Ta hãy chu toàn công viêc :

làm cha làm mẹ, làm con;

làm thầy làm xưởng làm trong văn phòng…

nhưng chu toàn như là được Chúa gọi. Đó chính là ơn gọi của bạn, để đến ngày kia, Chúa nói với bạn: ‘xong rồi’.

Một ngày kia, Phanxicô gọi một thầy khác cùng với mình đi rao giảng, như lời Chúa dạy, ‘anh em hãy đi từng 2 người một’. Thế là hai anh em ra đi, đi hết đường này đến đường nọ, vô ngõ này ra hẻm kia, rồi cuối cùng về đến nhà. Thầy dòng kia thắc mắc, ‘thưa cha, con nghe cha nói ta sẽ ra phố rao giảng cơ mà’.

“Ta đã giảng rồi đó.” Phanxicô đáp lại, “Khi ta đi đường, thấy cách ăn mặc đi đứng, nghe xầm xì về lối sống của ta, họ sẽ thắc mắc về đời sống của họ, như thế chẳng phải là giảng đạo rồi sao.”

Người Kitô hữu không có cách rao giảng nào hữu hiệu cho bằng chính đời sống nêu gương của mình.

Một người kia kể chuyện rằng, trước đó ông làm vườn. Khi chiến tranh bùng nổ, bị gọi động viên. Ông biết nếu quân đội Nhật đến làng ông, sẽ vơ vét hết, nên bao nhiêu của cải quý giá, ông cho vào chum, hàn bịt miêng lại, đào chôn trong vườn, chờ ngày chiến tranh hết, trở về lấy lên dùng.

Nhưng ông bị bắt, bị đầy đến đảo Salomon nhiều năm. Khi hết chiến tranh, quay trở lại, thì mọi sự thay đổi hẳn. Vườn cũ đã có chủ khác, và một ngôi nhà đã che kín bên trên. Ông đành đến gặp chủ và nói rõ có chôn cái hũ trong vườn, nay đã là nền nhà. Xin phép đào được không? Ông bà chủ mới, mới nghe tới hũ, liền… mỉm cười.

- “Chúng tôi có đào được cái hũ khi làm nền, và đang giữ nó đây. Nay biết ông là chủ, chúng tôi xin trao lại”. Nói dứt trao liền. Ông này nhận hũ mà mắt dán chặt vào người chủ mới, với câu hỏi: “Chắc hẳn ông bà là người Công Giáo”. Họ gật đầu mỉm cười.

Ta có được như vậy không? Người khác nhìn ta mà nhận ra được ta là người Công Giáo. Đó đúng là ‘ơn gọi’, chứ không phải ‘công việc’.

Anphong Nguyễn Công Minh, ofm

(theo một số gợi ý của cha Hàm)

Suy niệm 6: LỜI GIẢNG ĐẦU TIÊN CỦA ĐỨC GIÊSU

Sr. Teresa Đoàn Thụy Thúy Phượng, OP

Cuộc đời công khai của Đức Giêsu được khai mở bởi biến cố chịu phép rửa của Gioan trên dòng sông Giođan. Ngày hôm nay, Ngài bắt đầu rao giảng Tin Mừng khắp miền Galilê - được xem là cửa ngõ giao nhau của các tuyến đường giao thông và sắc tộc thời đó. Theo Tin Mừng Mac-cô, lời rao giảng đầu tiên của Đức Giêsu là: “Anh em hãy sám hối và Tin vào Tin Mừng”. Lời này có ý nghĩa và tầm quan trọng như thế nào mà Đức Giêsu phải công bố trước tiên như thế?

Trong lời rao giảng, chúng ta thấy có hai động từ diễn tả hai hành động là Sám hối và Tin. Thoạt tiên, chúng chẳng có can hệ gì đến nhau nhưng khi tìm hiểu ý nghĩa của mỗi hành động, chúng có liên hệ hỗ tương và bổ túc cho nhau.

1. Đây là cửa ngõ tiếp nhận hiểu biết

Sám hối có nhiều tầng nghĩa, ngoài ý nghĩa là nhìn nhận lỗi lầm của bản thân mà chê ghét, sám hối còn được hiểu là việc thay đổi não trạng, gạt bỏ những nhận thức trước đó để đón nhận một tri thức mới. Còn về niềm tin, tin là nhận thức chắc chắn về một sự vật - sự việc là đúng sự thật. Tin còn là tin vào một người. Khi tin vào ai đó, chúng ta dễ dàng mở lòng tiếp nhận những điều được truyền dạy. Do đó, sám hối và tin chuẩn bị cho người ta một tâm hồn trống rỗng để đón nhận những hiểu biết trong sự ngoan ngùy và trân trọng: hiểu biết chính mình, hiểu biết tha nhân và hiểu biết các mầu nhiệm.

2. Cảm nhận được mình được yêu thương

Chúng ta chỉ có thể nhận ra bản thân lầm lỗi khi đối diện với một sự thánh thiêng, một chân lý, và điều đó chỉ có được nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa đến với chúng ta đang khi chúng ta còn mang trong mình tội lỗi. Nó diễn tả một tình yêu lớn lao và vô hạn Thiên Chúa dành cho con người. Trước tình yêu ấy, chúng ta tin tưởng Thiên Chúa - Đấng là sự thiện hảo tha thứ lầm lỗi của chúng ta. Chúng ta biết mình được yêu thương và chúng ta ngụp lặn trong đó.

3. Cam kết dấn thân

Biết mình được yêu thương cộng với sự tin tưởng vào Thiên Chúa tạo nên động lực thúc đẩy chúng ta có sự đáp trả cách mạnh mẽ làm mọi sự để muốn làm vui lòng Thiên Chúa. Từ đây, chúng ta buông mình cho sự quan phòng của Ngài, buông bỏ những tiện nghi bảo đảm của thế gian “vì bộ mặt thế gian này đang biến đi” (1Cr 7,31b), để dấn thân phụng sự Chúa bằng việc tuân giữ lề luật Chúa, đi theo đường lối huấn lệnh của Người.

4. Đem lại cho chúng ta sự tự do và sự sống

Dân thành Ninivê sau khi nghe lời cảnh báo của Ngôn sứ Giona về lối sống sa đọa, trụy lạc đã tin vào Thiên Chúa và công bố lệnh ăn chay trong toàn thành, từ người lớn đến trẻ nhỏ (x. Gn 3, 5). Hành vi tin kéo theo hành vi sám hối của một cộng đồng đã làm Chúa nguôi cơn thịnh nộ mà không giáng phạt dân. Quả thật, đây là điều mà Thiên Chúa mong muốn, vì như Người đã phán “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống” (Ed 33,11).

5. Sám hối là tin vào Tin Mừng

Câu “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” còn được dịch chính xác hơn là “Anh em hãy sám hối, nghĩa là tin vào Tin Mừng”. Tin Mừng được hiểu ở đây là những điều Đức Giê su loan báo và rao giảng. Tuy nhiên, Tin Mừng còn là chính Ngài. Ngài là chân lý và sự sống, là sự hoàn thành điều Thiên Chúa hứa, là ơn cứu độ. Sám hối là tin thật vào chính Ngài sẽ giải thoát và cứu độ chúng ta.

Chúa Nhật thứ 3 thường niên dành để tôn vinh Lời Chúa, xin cho Lời của Người thấm nhập vào tâm trí chúng ta, chi phối toàn bộ đời sống và con người chúng ta với việc khởi đi bằng hành động sám hối, trở về với Thiên Chúa, tin tưởng Ngài là Chúa và xin Người dẫn dắt chúng ta đi theo Chúa suốt cả cuộc đời. Amen.

 

 

Thứ hai: Mc 3,22-30

Suy niệm 1: NGUYÊN TẮC SỐNG KHÔNG MÂU THUẪN

Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Người liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Sa tan làm sao trừ Sa tan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền.” (Mc. 3, 20. 23-24)

Chúa Giêsu vẫn có những kẻ luôn rình mò Người, họ không ngại đẩy Người vào những cuộc tranh luận ở nơi công cộng. Hôm nay, các kinh sư từ Giêrusalem xuống đả kích chính tư cách bản thân Người: “Ông ấy bị thần ô uế ám”.

Tố cáo

Theo cái nhìn của những kinh sư, Chúa Giêsu là con người có nhiều mâu thuẫn. Người cho mình là Thiên Chúa mà lại không tôn trọng luật giữ ngày sa-bát? Người giao du quá dễ dàng với những người tội lỗi và quân thu thuế. Người giảng dạy và chữa bệnh với uy quyền như vậy mà lại không giữ được tư cách đàng hoàng. Tại sao và tại sao? Tóm lại, những kinh sư cho rằng Chúa Giêsu chẳng có gì phù hợp với quan niệm hay mô hình về một ngôn sứ hoặc người công chính theo như họ tưởng.

Bào chữa

Đáp lại những lời tố cáo của các kinh sư, Chúa Giêsu cho họ thấy nơi Người không có gì là mâu thuẫn cả, viện lẽ rằng không ai lại tự hủy diệt chính mình. Khi giao tiếp với ác thần, Người có tiêu diệt được nó không? Khi can thiệp để chữa cho một người bị qủy ám, chẳng phải vì Người có quyền trên thần ô uế đó sao?

Chúng ta có liên đới vơi Người không?

Đến lượt mình, người tín hữu cũng sẽ bị người đời chất vấn: bạn theo ai? Người tín hữu cũng như bất cứ ai hằng gắn bó với một giáo thuyết hay một mẫu gương nào đó và muốn sống trọn với điều ôm ấp ấy, sớm muộn gì cũng sẽ phải trả lời cho biết hành động của mình có đi đôi với giáo thuyết mình tán dương không.

Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng, ngày nay chúng ta phải chịu nhiều tố cáo và phê phán, là bởi tại đời sống làm chứng của ta không thật trong sáng, vả chăng lại còn nhiều cách biệt và mâu thuẫn giữa việc ta làm và lời Chúa dạy. Ta vẫn biết cầu nguyện là cần thiết và phải dành thời giờ cho việc ấy, nhưng sự cần thiết và thời gian được dành có phù hợp với nhau không? Ta có phấn đấu và tẩy sạch những lu mờ để đời sống bác ái của ta là tấm gương sáng phản ảnh Chúa, và trở nên Thân thể Chúa Kitô không?

Tóm lại, các kinh sư là những người hay chất vấn. Những kinh sư của thời nay cũng vẫn còn dựa vào nguyên tắc “Ngôn hành tương ứng” nói sao làm vậy để đo lường giá trị con người của ta: cây tốt thì sinh quả tốt…. Cây tốt không thể sinh quả xấu. Họ không lầm để kiểm tra ta trong vấn đề này. (St)


Suy niệm 2: MỘT KẼ HỞ

“Ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời!”.

“Xét cho cùng, tha thứ là một điều buồn cười! Nó làm ấm trái tim và làm dịu vết đau. Bởi lẽ, sai lầm là của con người, tha thứ là của Thiên Chúa; không cần bàn cãi!” - William A. Ward.

Kính thưa Anh Chị em,

“Tha thứ là của Thiên Chúa; không cần bàn cãi!”, đúng như William A. Ward nói. Vậy mà trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu lại nói đến một thứ tội chẳng đời nào được tha. Có thứ tội đó thật sao?

Câu trả lời là vừa có, lại vừa không! ‘Có’, khi con người khoá chặt lòng trước một Thiên Chúa hết sức yêu thương và tôn trọng nó; và ‘không’, khi trái tim nó có ‘một kẽ hở’ dù nhỏ đến đâu, vẫn đủ cho Thiên Chúa thổi vào đó lòng thương xót và sự tha thứ của Ngài!

Sở dĩ Chúa Giêsu nói đến thứ tội “chẳng đời nào được tha”, vì sau khi Ngài trừ quỷ, các kinh sư cho rằng, Ngài dùng sức mạnh quỷ vương để trừ quỷ. Thật khó để tưởng tượng một đánh giá sai lầm hơn khi ai đó cho rằng, thần lực đang hoạt động trong Chúa Giêsu là thần lực của Satan; đang khi thực tế, đó là thần lực của Thánh Thần.

- Như thế, tội này sẽ là ‘có’, không phải Đấng hoạt động trong Ngài không muốn tha; nhưng đúng hơn, tình yêu thương xót của Ngài không thể xuyên thấu những trái tim cố chấp khi họ coi Chúa Giêsu là dụng cụ của Satan. Nói như thế là báng bổ Thiên Chúa, xúc phạm Thánh Thần, xúc phạm phẩm vị Thiên Chúa trong con người Ngài mà sau đó, không chút đau buồn, hoặc đơn giản chỉ lạm dụng lòng thương xót của Ngài mà không hề ăn năn.

- Thứ đến, tội này ‘không’ thể có; vì hễ khi nào trái tim con người có ‘một kẽ hở’ dù nhỏ đến đâu khi người ấy bắt đầu ý thức tội mình và lớn lên trong một nỗi buồn chân thành, thì Thiên Chúa lập tức chào đón người ấy trở lại với vòng tay rộng mở. Ngài sẽ không bao giờ quay lưng với bất cứ ai quay lại với tấm lòng tan nát, dù tội họ nặng đến mấy!

Anh Chị em,

“Tha thứ là của Thiên Chúa!”. Các kinh sư tìm kẽ hở để giết chết Chúa Giêsu; Ngài tìm ‘một kẽ hở’ để tha thứ cho họ, cứu lấy họ. Chỉ cần khiêm tốn nhìn nhận Ngài và hé mở trái tim cho Ngài, Ngài sẽ làm bao việc vĩ đại hơn những gì lòng người dám ước mong.

Một bài học khác có thể rút ra là bạn và tôi hãy tập nhận ra Thánh Thần trong cuộc sống mình và trong cuộc sống người khác. Thánh Thần đang hoạt động theo mọi cách khác nhau nơi những con người khác nhau. Bảy ân đức của Ngài sẽ ân sủng hoá cuộc sống chúng ta và cuộc sống người khác. Hãy chú ý đến những dấu hiệu của Thánh Thần và vui mừng trước những dấu hiệu đó ở bất cứ nơi nào, nơi bất cứ ai chúng ta tìm thấy; nghĩa là làm sao nhận ra những điều tốt đẹp ấy nơi anh chị em mình ngay cả khi nó bị che giấu.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để tim con khoá chặt trước lòng khoan dung của Chúa; và như thế, con không bao giờ mất lòng trông cậy vào Ngài!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp Huế

Thứ ba: QUAN HỆ TỐI THƯỢNG

“Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi!”.

“Tôi đã chuyển nhượng toàn bộ tài sản cho gia đình. Còn một điều tôi ước có thể mang lại cho họ nữa; đó là niềm tin vào Chúa Kitô! Nếu họ có Ngài, và tôi không có gì để cho họ, dù chỉ một xu, thì họ vẫn đã giàu rồi. Còn nếu họ không biết Chúa Kitô, không có Ngài, và tôi cho họ cả thế giới, họ thực sự vẫn nghèo!” - Patrick Henry.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay cho thấy tầm quan trọng của việc “biết và có” Chúa Kitô của Patrick Henry. Chúa Giêsu chỉ ra mối ‘quan hệ tối thượng’ của chúng ta vốn cao hơn mọi mối quan hệ huyết thống. Đó là mối quan hệ với Thiên Chúa và những ai thuộc về Ngài.

Chúa muốn mối quan hệ của chúng ta thế nào? Trước hết, đó là mối quan hệ của sự tin cậy, tình yêu, sự cam kết, lòng trung thành, sự thuỷ chung, lòng tốt, sự chu đáo, lòng trắc ẩn, thương xót, sự giúp đỡ, khuyến khích, hỗ trợ, sức mạnh, sự bảo vệ và rất nhiều phẩm chất khác gắn kết mọi người lại với nhau. Và còn hơn thế, Thiên Chúa mời chúng ta đi vào mối ‘quan hệ tối thượng’ với Ngài - sự kết hợp của trái tim, khối óc và tinh thần với chính Ngài, tác giả và là nguồn cội của tình yêu.

Thiên Chúa là tình yêu! Tình yêu Ngài không bao giờ thất bại, không bao giờ quên, không bao giờ thoả hiệp, không bao giờ dối trá, không bao giờ làm ai thất vọng. Nó nhất quán, không lay chuyển, vô điều kiện và không gì có thể cản ngăn. Bạn có thể chọn lìa xa Thiên Chúa, nhưng không gì khiến Ngài bỏ rơi hoặc xử tệ với bạn. Ngài đeo đuổi, yêu thương đến cùng, kêu gọi chúng ta quay về bất chấp mọi lực cản. Bản chất của Ngài là yêu! Đó là lý do Ngài tạo dựng chúng ta nên giống hình ảnh Ngài - để kết hợp và chia sẻ tình yêu của cộng đồng Ba Ngôi - Cha, Con và Thánh Thần. Ngài muốn tất cả mọi quan hệ bắt nguồn từ ‘quan hệ tối thượng’ - tình yêu vô cùng của chính Ngài.

Xuống thế làm người, Chúa Giêsu, hiện thân của tình yêu Thiên Chúa, cống hiến cho chúng ta mối quan hệ cá nhân với chính Ngài. Ngài là mục tử hy sinh mạng sống vì đàn chiên; người cha mong đứa con hư trở về. Ngài hiến mình trên thập giá để chúng ta được thứ tha và phục hồi địa vị làm con và tình bạn với Thiên Chúa. Chính nhờ Ngài, chúng ta trở nên con trai con gái của Chúa Cha. Đó là lý do tại sao Ngài nói với các môn đệ, “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi!”.

Anh Chị em,

“Người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi!”. Một vị tử đạo đã nói, “Người thân duy nhất của một Kitô hữu là các thánh!” - tức là những người đã được cứu chuộc bằng máu của Chúa Kitô, được nhận làm con cái Thiên Chúa. Như vậy, những ai được rửa tội trong Chúa Kitô và sống như môn đệ Ngài sẽ bước vào một gia đình mới, một gia đình gồm các ‘thánh’ ở trần gian và các thánh trên trời. Chúa Giêsu thay đổi trật tự các quan hệ và chỉ ra rằng, quan hệ thực sự không chỉ là vấn đề máu huyết, mà còn hơn thế: trở nên con cái Chúa. Và điều này biến đổi tất cả các mối quan hệ, đòi hỏi một trật tự mới về lòng trung thành với Thiên Chúa, với Vương Quốc công chính và bình an của Ngài.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con ‘thừa tiền’ mà ‘thiếu Chúa’; như thế, con mãi nghèo. Cho con ‘dư Chúa’ dù phải ‘hụt tiền’; vì dẫu vậy, con vẫn luôn luôn giàu!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp Huế

Thứ tư: THÁNH PHANXICÔ SALÊSIÔ, Giám Mục, Tiến Sĩ Hội Thánh.

1. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ

Thánh Phanxicô ra đời tại biệt thự Sales danh tiếng vùng Savoie nước Pháp ngày 21/8/1567. Thân phụ Ngài là ông Phanxicô Nouvelles, một lãnh chúa và thân mẫu ngài là bà Phanxicô Sion, miền Sales. Cả hai là những tín hữu khôn ngoan, nhân đức, hết lòng chăm sóc cho con và giáo dục chúng nên người. Nhờ được sống trong bầu khí đạo đức đày tình yêu thương như thế mà cậu Phanxicô sớm tỏ ra là một thiếu niên ngoan ngoãn và chăm chỉ học hành. Phanxicô còn được thấm nhuần tinh thần Tin Mừng ngay từ nhỏ nên đã sớm trở nên một đứa trẻ đạo đức, thánh thiện và bác ái.

Hơn mười tuổi, Phanxicô chịu phép Thêm sức, xưng tội lần đầu. Và vừa 14 tuổi được cha mẹ cho đi tu. Mấy năm sau ngài chịu phép cắt tóc.

Năm 1580 Phanxicô được gửi đến Paris theo học khóa tu từ và triết lý, dưới quyền giám hộ của linh mục thánh thiện Morac Deâge. Dù sống giữa đô thị lớn, ngập lụt những xa hoa trần tục, thầy Phanxicô không để mình xao xuyến, hay bị lôi cuốn. Chàng vẫn giữ tấm hồn trong sạch, trung thành với lý tưởng tận hiến. Đó là kết quả lòng tin tưởng thầm kín vào Chúa như lời ngài thường nói: “Thiên Chúa là Thầy dạy duy nhất của tôi về mọi khoa nên thánh. Và tôi hoàn toàn tín nhiệm vào Ngài”. Tại Paris ngài xin gia nhập Hiệp hội Thánh Mẫu sinh viên do các cha dòng Tên khởi xướng lập nên.

Qua sáu năm học tại Paris, Phanxicô trở về Savoie rồi sang Ý theo học tại trường Đại học Padoua. Tại đây ngài chuyên về luật khoa và thần học. Hai năm sau ngài nhận mũ tiến sĩ do Đức Giám mục thành Padoua trao tặng. Phanxicô từ giã kinh thành văn hóa, đi hành hương Rôma, Loretto, và về Savoie.

Với tấm bằng tiến sĩ Luật, Ngài Ngài nắm trong tay một tương lai sáng lạn, huy hoàng. Gia đình Ngài mong ước cho Ngài được nhận tước quận công miền Villaroget, giữ ghế luật sư tại Savoie, và sau cùng kết hôn với ái nữ của lãnh chúa trong vùng. Thế nhưng họ đã thất vọng. Cha của Ngài đã phẫn nộ vô ích trước lòng cương quyết và từ tốn của thánh nhân. Dù cuộc đời Ngài có dễ dàng thăng quan, tiến chức, có chỗ vững chắc trong xã hội, nhưng thánh nhân quyết tâm từ bỏ tất cả, để đi theo Chúa Giêsu. Thánh nhân được thụ phong linh mục năm 1595. Thánh nhân được Ðức Giám mục Granier tin tưởng, tín nhiệm đề cử làm nhà hộ giáo, giảng thuyết chính thức chống lại bè rối Calvin ở Challais. Với một tâm hồn lạc quan, vui tươi, tin tưởng và phó thác cho Chúa: "Chúa là nguồn vui của Con", thánh Phanxicô đã đưa trở lại với Giáo Hội 72 ngàn người lạc giáo. Và vào năm 1602 ngay sau khi Ðức Cha Granier từ trần Chúa yêu thương, cất nhắc Ngài, đặt Ngài làm giám mục thay thế Ðức Cha vừa qua đời. Thánh Phanxicô Salêsiô đã lập Dòng Chị Em Con Ðức Mẹ, sau này được đổi thành Dòng Thăm Viếng.

Ngài sống một đời sống hiền lành và khiêm nhường cố gắng làm việc cho tới phút cuối cùng. Ngài được Chúa gọi về trong một chuyến công tác tại Lyon. Hôm ấy nhằm ngày 27-12-1622. Theo lời ngài trối lại, người ta đưa xác ngài về dòng Thăm viếng tại Annecy. Đến ngày 19-4-1685, Đức Giáo Hoàng Alêxanđria VII phong người lên bậc hiển thánh, và tới năm 1877 dưới thời Đức Thánh Cha Piô IX, thánh Giám mục Phanxicô được tặng phong là một thánh tiến sĩ của Giáo Hội.

2. BÀI HỌC TỪ CUỘC SỐNG

Nhắc tới thánh Phanxicô Salêsiô, không ai là không phải cảm phục Ngài về sự hiền lành.

1. Sự hiền lành của thánh Phanxicô Salêsiô thật đáng nể.

Ngài là một người có bẩm tính rất nóng nảy, họ hàng bà con, bạn bè ai cũng biết thế...

Một hôm, có người đến Toà Giám Mục Annecy để thăm thánh nhân. Trong câu chuyện trao đổi hai bên, nhiều lần ông ta đã lớn tiếng cãi vã, đấm bán đấm ghế, chỉ trích phê bình và mắng nhiếc thánh nhân thậm tệ. Thế nhưng, thánh Phanxicô vẫn cứ ngồi nghe cách thinh lặng, thỉnh thoảng lại nhũn nhặn mời ông khách xơi trà, hút thuốc. Trước những câu nói nặng nề xấc láo, thánh nhân vẫn đáp lại bằng những lời lẽ hết sức dịu dàng, khiến ông khách quý bắt đầu cảm thấy hổ thẹn rồi từ từ rút lui.

Người anh của thánh nhân ngồi ở phòng sau chăm chỉ theo dõi câu chuyện giữa hai bên. Khi người khách vừa ra khỏi cổng, ông phóng ngay ra phòng thánh nhân và lạ thay... Phanxicô vẫn tươi cười bình tĩnh! Ông liền nói:

- Này chú Phanxicô, xưa nay chú tính nóng như lửa, sao độ này lại hiền từ nhịn nhục đến thế. Tôi ở phòng sau nghe ông ta nói mà sốt ruột lộn gan, muốn nhào ra đánh cho ông ta một trận vỡ mặt ra. Đồ lếu lo mất dạy!

- Anh ạ, ai cũng có máu Adong cả. Em cũng bực bội tức giận lắm chứ, nhưng em cố gắng theo gương Cha Giêsu, hiền Lành và khiêm nhượng trong lòng. Cứ mỗi dịp như vừa rồi, em lại tập thêm được một chút ít nhân đức bằng cách tự bảo: này hỡi Phanxicô, hãy đậy kỹ vung, đừng mở, đừng nói gì! Rồi cuối cùng em thấy rằng: lấy một giọt mật, thì bắt được cả bầy ruồi; chứ lấy cả thùng giấm, chẳng tóm được một con.

Rồi một hôm khác có người quí phái dẫn một đàn chó và đoàn gia nhân đến trước sân nhà Đức giám mục Phanxicô Salêsiô: chó thì để sủa ồn ào, gia nhân thì để chửi bới kịch liệt. Ông ta còn lên tận cửa phòng Đức giám mục, múa tay múa chân thóa mạ Ngài như giông nổi sét vang. Thánh nhân điềm tĩnh ngồi nghe bất động chẳng nói chẳng rằng. Đối phương cho như thế là khinh dể mình, lại càng tức giận, động viên toàn lực lượng thể xác và tinh thần, chửi rủa thêm gấp bội. Thánh nhân làm bộ như tượng gỗ nói trong Thánh Kinh: có tai mà không có nghe, có miệng mà không nói, có mắt mà không trông xem... Sau cùng ông kia kiệt lực phải rút lui...

Các bạn hữu của thánh nhân liền đến hỏi tại sao Ngài có thể giữ một thái độ thản nhiên như vậy được ?

Đức giám mục tiết lộ bí quyết:

- Tôi đã minh ước với lưỡi tôi là bao lâu tâm hồn tôi còn bị xúc động, lưỡi tôi không còn sản xuất một lời nào.

* Ước gì ngày hôm nay có được nhiều người hiền lành như thánh Phanxicô Salêsiô.

Eesóp có câu chuyện dụ ngôn rất hay kể lại cuộc tranh cãi giữa mặt trời và gió sau . Gió và mặt trời tranh cãi với nhau xem ai mạnh hơn.

Ngày nọ có người mặc áo choàng đi ngoài đường. Mặt trời nói với gió:

- Ai trong chúng ta làm cho người đó cởi áo choàng ra mau hơn là người đó thắng cuộc.

Gió chẳng những đồng ý mà còn ra tay trước. Nó thổi ùn ùn tới tấp, nhưng càng thổi mạnh người đó càng giữ chặt chiếc áo. Kiệt sức, gió đành chịu thua. Lúc đó mặt trời mới ra tay. Nó dọi ánh nắng cao độ của nó xuống, khiến người đi đường nóng bức quá, liền cởi áo choàng ra.

Như thế, chúng ta có thể nói thành công nhờ hiền từ dễ thương hơn là bạo lực.

Trong Tin mừng, Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta: “Anh em hãy học cùng tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường”.

Ngôn sứ Isaia đã nói về sự hiền lành và khiêm tốn của Chúa Giêsu như sau: “Ngài không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, Ngài không đành bẻ gãy. Tim đèn leo lét cũng chẳng nỡ tắt đi” (Is.42,2-3).

Xin được kết thúc bằng lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha Gioan XXIII: Ôi vị thánh khả ái! Trước mặt ngài con có lắm điều cần nói với ngài! Con yêu ngài tha thiết; lòng hằng tưởng nhớ, và mắt hằng nhìn về ngài! Ôi Thánh Phanxicô Salêsiô không cần nói, ngài biết tôi nghĩ gì, xin ngài thực hiện phần còn lại để tôi đi đến chỗ giống ngài.

Thánh nhân đã để lại cho hậu thế hai tác phẩm nổi tiếng là "Khởi đầu đời sống đạo đức" và "Luận án về Tình Yêu Thiên Chúa".

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Suy niệm: LUÔN LUÔN GIEO

“Người gieo giống đi ra gieo giống”.

Vào thập niên 1930, một du khách thám hiểm dãy Alpes, anh đến một dải đất trọc, rộng mênh mông. Bỗng anh sững sờ, vì giữa vùng đất cằn cỗi ấy, một cụ già đang lom khom với một ống sắt dài; ông dùng ống sắt đâm xuống làm thành những chiếc lỗ. Đoạn bốc ra từ chiếc túi những hạt nhỏ, ông gieo vào mỗi lỗ một hạt. Ông nói, “Tôi đã trồng hơn 100 ngàn hạt sồi. Có lẽ chỉ một phần mười sẽ mọc lên”. 20 năm sau, du khách kia về lại vùng đất hoang. Không thể tin được, một rừng sồi xinh đẹp trải dài hàng chục dặm!

Kính thưa Anh Chị em,

Câu chuyện cụ già trồng rừng đưa chúng ta về dụ ngôn “Người Gieo Giống” của Tin Mừng hôm nay. Dụ ngôn này rất thời sự. Chúa Giêsu ‘luôn luôn gieo’ Lời!

Rất nhiều người ngày nay lắng nghe Chúa Kitô qua vị đại diện của Ngài là Đức Giáo Hoàng, các thừa tác viên và các giáo dân nam nữ trung thành. Có một ‘cơn đói Giêsu’ trong thế giới ngày nay! Chưa bao giờ Giáo Hội lại mang ‘tính Công Giáo’ như vậy; những người nam nữ thuộc mọi chủng tộc và màu da đều tìm được sự che chở dưới đôi cánh của Giáo Hội. Chúa Kitô sai chúng ta đi khắp thế giới để gieo Lời, ‘luôn luôn gieo’, bất chấp những bóng tối của bức tranh toàn cảnh.

Biển, thuyền, bờ được thay thế bằng những địa điểm, những màn hình lớn nhỏ và các phương tiện truyền thông hiện đại. Tuy nhiên, Chúa Kitô hôm nay không khác hôm qua. Con người và sự thôi thúc ‘học cách yêu’ cũng không thay đổi. Ngay cả ngày nay, nhiều người tiếp nhận và hiểu Lời một cách trực tiếp hơn, nhờ ân sủng và sự thôi thúc của Thánh Thần… Đó là một mầu nhiệm! Dẫu thế, rất nhiều người cần được giải thích thêm, những giải thích mang tính cứu độ và có chủ ý hơn về mầu nhiệm Mặc Khải!

Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, Chúa Kitô vẫn chờ đợi hoa trái thánh thiện nơi mỗi Kitô hữu. Chúa Thánh Thần sẵn sàng giúp đỡ, ban ơn nhưng nếu không có sự hợp tác cá nhân của bạn và tôi với ý thức ‘luôn luôn gieo’ Lời ở bất cứ hoàn cảnh nào, thì thế giới vẫn luôn cồn cào vì ‘cơn đói Giêsu!’. Bởi thế, trước hết, cần có sự bền bỉ. Vì lẽ, nếu chúng ta phản ứng nửa vời, hoặc nếu bạn và tôi vẫn đứng ‘bên lề’ con đường Giêsu mà không đi vào đó, chúng ta sẽ dễ trở thành những con mồi cho quỷ dữ.

Thứ đến, hãy kiên trì cầu nguyện để hiểu biết và yêu mến Chúa Kitô ngày một sâu sắc hơn. Thánh Josemaria Escrivà nói, “Thánh mà không cầu nguyện? Tôi không tin sự thánh thiện này!”. Cuối cùng, tinh thần nghèo khó và quên mình là điều không thể thiếu đối với một môn đệ Kitô. Sự giàu có sẽ ngăn cản chúng ta, khiến chúng ta ‘nghẹt thở’.

Anh Chị em,

“Người gieo giống đi ra gieo giống”. Để có thể ‘luôn luôn gieo’, trước hết, tâm hồn chúng ta phải luôn thao thức và cần được chăm sóc. “Việc chăm sóc tâm hồn tựa hồ việc xới đất: nhổ cái ác, trồng cái thiện; bứng tróc niềm kiêu hãnh từ gốc rễ, vun quén sự khiêm nhường; vứt bỏ mọi tham lam và giữ lấy lòng thương xót; khinh thường sự ô uế và yêu thích sự trong trắng!” - Thánh Caesarius Arles. Một yếu tố cần thiết khác là biết chờ đợi, “Gieo là một cử chỉ tin tưởng và hy vọng; nhưng sau đó, bạn và tôi phải bước vào thời gian chờ đợi. Vì rằng, việc mọc lên là công việc của Chúa!” - Bênêđictô XVI.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin cứ dùng con như khí cụ bình an của Lời. Ngày nào con ngưng thở, ngày ấy con ngừng gieo!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp Huế


Thứ năm: CUỐN THEO THẦN KHÍ

Nhớ Thánh Phaolo trở lại

“Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng!”.

“Thập giá, cột thu lôi của ân sủng, làm tắt cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, để chỉ còn lại ánh sáng của tình yêu Ngài! Trên đường Đamas, một Saolô hung hãn đã bị cột thu lôi của ân sủng quật ngã, và người này đã ‘cuốn theo Thần Khí’ của Đấng Phục Sinh!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Hôm nay, Giáo Hội kính nhớ một con người đã bị “cột thu lôi của ân sủng quật ngã”; đúng hơn, một vị thánh mà sự cải đạo của ngài, có thể nói, là một trong những sự kiện quan trọng nhất sau biến cố chết và sống lại của Chúa Giêsu vào những năm đầu Kitô giáo. Bởi lẽ, ân sủng của Ngài đã biến đổi Phaolô, một con người đã để mình ‘cuốn theo Thần Khí’.

Phaolô cho biết, trước khi được Chúa tỏ mình, ông “đã nhiệt thành phục vụ Thiên Chúa”; tuy nhiên, theo cách rất phá hoại! Phaolô đàn áp những người tin “Đạo mới”; và rồi, cuộc hiện ra của Ngài trên đường Đamas với câu hỏi, “Saun, Saun, sao ngươi bắt bớ ta?”, kèm theo câu trả lời lạnh lùng, “Ta là Giêsu Nazareth mà ngươi đang bắt bớ” đã khiến Phaolô dừng bước - bài đọc một. Từ đó, Đấng Phục Sinh đã biến “Saun”, có nghĩa là ‘tìm kiếm, đòi hỏi và khát vọng’, thành một “Phaolô”, có nghĩa là ‘hèn mọn, nhỏ bé và khiêm tốn’. Phaolô đã chỗi dậy, tiến về phía trước, ‘cuốn theo Thần Khí’, phục vụ Chúa theo một cách rất khác. Thay vì bắt bớ những người tin, Phaolô loan báo tình yêu của Ngài như lệnh truyền, “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng!” - Thánh Vịnh đáp ca.

“Tôi ngã xuống đất”; “Ánh sáng chói loà kia làm cho tôi không còn trông thấy”. Một nghịch lý mang nhiều ý nghĩa! Không chỉ trong bóng tối, con người không nhìn thấy; nhưng ngay cả trong ánh sáng, nó cũng mù loà! Lúc Phaolô tưởng mình sáng, đó là lúc tối tăm nhất đời ông. Phaolô buộc phải nhắm mắt để thấy rằng, sự bốc đồng theo kế hoạch riêng mình là mù tối, và tình yêu trong trái tim Đấng Phục Sinh thật ngời sáng. Ngài quật Phaolô xuống tận đất; để sau đó, nâng ông lên đến mức vị “Tông Đồ Dân Ngoại”. Thế nhưng, hình ảnh đẹp nhất vẫn là khúc phim người ta cầm tay dắt Phaolô vào thành, một ‘Phaolô chập chững’ trong hành trình của ‘một con người mới’ ‘cuốn theo Thần Khí’ trong Chúa Kitô!

Anh Chị em,

“Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng!”. Mệnh lệnh của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay - theo Đức Phanxicô - “Là một mệnh lệnh mang chiều kích truyền giáo của đức tin! Hoặc đức tin có chiều kích truyền giáo, hoặc không phải là đức tin. Đức tin không phải là điều gì đó chỉ dành cho riêng tôi, để tôi có thể lớn lên với nó: đây là một tà giáo ngộ đạo! Đức tin luôn dẫn bạn thoát ra khỏi chính mình, đi ra ngoài và truyền tải nó! Đức tin được truyền đạt, được cống hiến, trên hết bằng chứng tá, “Hãy đi, để mọi người thấy anh sống thế nào!”. Trong việc truyền bá đức tin, hành động vì đức tin, có Chúa luôn đồng hành với tôi. Tôi không bao giờ đơn độc. Chính Chúa, Đấng truyền đạt đức tin, ở cùng tôi; miễn sao tôi để mình được tự do ‘cuốn theo Thần Khí’ của Ngài!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, chớ gì cột thu lôi ân sủng Chúa quật ngã con mỗi khi con mải mê chạy theo những phù phiếm của thế gian. Cho con mềm mại ‘cuốn theo Thần Khí’ mỗi ngày!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp Huế

Thứ sáu: KHÔNG PHẢI NGẪU NHIÊN

Nhớ thánh Timôthê và Titô

“Tất cả do ý muốn của Thiên Chúa!”.

Trong “Comme Des Cœurs Brûlants”, “Như Những Con Tim Cháy Bỏng”, A. Vidot tiết lộ lý do cải đạo của cô. “20 tuổi, tôi, sinh viên cần tĩnh lặng. Mua lại “phiếu đi nghỉ” tại một tu viện trên núi. Tôi điện thoại báo trước, tôi không đến để cầu nguyện; tôi chưa rửa tội. Họ nói, “Chúng tôi chờ cô!”. Ngay tối đầu tiên, sự quan tâm lắng nghe nhân ái của một nữ tu làm tôi bồi hồi. Nhưng động cơ thực sự là tôi nhận ra tình yêu của Chúa, một tình yêu duy nhất, đặc biệt. Bênêđictô 16 nói, “Không phải ngẫu nhiên mà chúng ta hiện hữu như một sản phẩm vô nghĩa của một quá trình tiến hoá. Mỗi chúng ta được mong đợi, được yêu thương, mỗi chúng ta là cần thiết!”. Tôi cảm nhận điều này đến tận xương tuỷ!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Cũng thế, ‘không phải ngẫu nhiên’ mà Giáo Hội mừng kính Timôthê và Titô ngay sau ngày kính thánh Phaolô; ‘không phải ngẫu nhiên’ mà hai người được chọn làm cộng sự viên của ngài; và càng ‘không phải ngẫu nhiên’ khi người đi gieo lại gieo được hạt vào đất tốt như Tin Mừng hôm nay đề cập. Vì lẽ, “Tất cả do ý muốn của Thiên Chúa” như khẳng định của Phaolô - khởi đầu bài đọc một.

Timôthê và Titô được gọi là “sứ đồ của Sứ Đồ”. Quả vậy, trong buổi đầu ân sủng, các tông đồ đã xới được những rãnh sâu đầu tiên tại các vùng đất dân ngoại, gieo vào đó những hạt mầm mà những người đi sau sẽ tưới tẩm, vun xới và thu hoạch. Đó là những Kitô hữu có một nền giáo dục tốt, “Cha hồi tưởng lại lòng tin không giả hình của con, lòng tin đã có nơi Lôít, bà ngoại con; nơi Êunikê, mẹ con, cũng như nơi con”.

Như vậy, ‘không phải ngẫu nhiên’ mà Phaolô chọn Timôthê và Titô; cũng ‘không phải ngẫu nhiên’ Lôít và Êunikê được chúng ta, những người đọc thư này, tưởng nhớ. Hãy mơ về những gì Phaolô sẽ kể nếu ngài viết thư cho con cháu chúng ta và những ai Chúa trao vào tay chúng ta! Hãy là những người ‘tốt lành’ sẽ được “Kể cho muôn dân”, cho các thế hệ như Thánh Vịnh đáp ca nói đến.

Với bài Tin Mừng, ‘không phải ngẫu nhiên’ Chúa Giêsu chọn 72 môn đệ và sai từng hai người đi trước Ngài vào các thành. Cũng ‘không phải ngẫu nhiên’ mà những người này được gọi, những người khác thì không!

Anh Chị em,

“Tất cả do ý muốn của Thiên Chúa!”. Vidot còn nhắc lại lời của Bênêđictô 16, “Gốc ngọn của sự kiện chúng ta là Kitô hữu không phải là một quyết định đạo đức hay một ý tưởng vĩ đại, nhưng là sự gặp gỡ cá vị với Đấng mang cho cuộc sống bạn một chân trời mới! Và đó là một định hướng quyết định cho cuộc sống!”. Đích thực đây là điều Vidot đã sống! Cũng thế, Timôthê, Titô có mặt trên đời, làm Giám mục, không phải chỉ do Phaolô đặt tay hoặc do bà ngoại, người mẹ, hay một ai sắp đặt; nhưng “do ý muốn của Thiên Chúa”. Cũng thế, nhờ Chúa Kitô, chúng ta được yêu thương, được chọn gọi bởi Thiên Chúa, dẫu Ngài luôn ẩn mình. Vấn đề là bạn và tôi biết giữ cho mình một tâm hồn lặng đủ để nghe Ngài. Chỉ khi mối tương quan với Ngài trở nên sâu sắc, chúng ta mới đủ sức tin tưởng, phó thác và mềm mỏng thực hiện ý muốn yêu thương ngàn đời của Ngài.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, ‘không phải ngẫu nhiên’ mà giờ này con đang ở đây với những gì con có, những gì con là. Đừng để con làm Chúa thất vọng!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp Huế

Thứ bảy: GIỮA LÒNG THUYỀN

“Các con vẫn chưa có lòng tin sao?”.

“The Storm on the Sea of Galilee”, “Bão Trên Biển Galilê”, là một kiệt tác sơn dầu vẽ về “biển” duy nhất gần 400 tuổi của Rembrandt! Tiếc thay, từ 1990, nó bị đánh cắp; đến nay, vẫn biệt vô âm tín. Danh hoạ mô tả khoảnh khắc nhóm Mười Hai cầu cứu Chúa Giêsu khi thuyền của họ sắp chìm. Một số cật lực chống chọi; số khác co rúm vì sợ hãi hoặc lùi về mạn thuyền; và thật thú vị, Rembrandt, môn đệ 13, xuất hiện giữa bức tranh. Tác giả như muốn nói, “Từ giữa lòng thuyền, Ngài nhận ra tôi!”; và bạn, “Bạn sẽ ở đâu trong bão?”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Bạn sẽ ở đâu trong bão?”. Lời Chúa hôm nay gợi lên những cơn bão cuộc đời. Nó có thể là cơn bão đang hất tung con thuyền Giáo Hội, đang vùi dập con tàu thế giới, hoặc đang muốn nhấn chìm con thuyền nan đời bạn. Trong cơn hỗn mang, bạn ở đâu? Ngài thấy bạn? Bạn có lắng đọng đủ để nghe Ngài trách yêu, “Các con vẫn chưa có lòng tin sao?”.

Con thuyền là một hình ảnh thiết thực của Giáo Hội, nó phải vượt bão và đôi khi, dường như sắp chìm. Điều cứu lấy Giáo Hội không phải là kỹ năng và lòng dũng cảm của thuỷ thủ đoàn, mà là niềm tin! Niềm tin cho phép Giáo Hội rẽ sóng, tiến lên, cả trong bóng tối. Nó cho thấy sự chắc chắn về sự hiện diện của Đấng ở ‘giữa lòng thuyền’; tay Ngài sẽ nắm lấy để kéo mỗi người chúng ta khỏi mọi nguy biến; và chúng ta cảm thấy an tâm khi có Ngài kề bên bất chấp những hạn chế và yếu nhược của chính mình. Chúng ta được an toàn khi mỗi người biết hướng về Giêsu, kêu cầu Ngài, vì Ngài là Đấng Cứu Độ.

Trong câu chuyện này, các môn đệ chỉ tập trung vào một điều, họ sắp chết! Nhưng Giêsu có đó, Ngài chờ được đánh thức. Để một khi chỗi dậy, Ngài sẽ trả lại sự yên tĩnh hoàn hảo! Điều quan trọng là chúng ta hướng mắt về Giêsu, Đấng đem lại yên tĩnh tuyệt đối cho linh hồn. Để được vậy, bạn phải tin rằng, “Từ ‘giữa lòng thuyền’ Ngài nhận ra tôi!”.

Trong cuộc sống, chúng ta rất dễ chán nản, dễ chỉ tập trung vào sự hỗn loạn. Một bất ổn dân sự, một vấn đề gia đình… và ngay cả một tội lỗi nghiêm trọng. Rất nhiều lý do để chúng ta rơi vào chiếc bẫy của sợ hãi, thất vọng và trầm cảm. Nhưng có khi nào bạn tự hỏi, “Lúc nào tôi gần Chúa nhất?”; câu trả lời, “Khi khổ đau”. Như vậy, từ trải nghiệm bão tố của các môn đệ, Chúa Giêsu mang đến một thông điệp rõ ràng và thuyết phục rằng: Ngài, hiện thân của bình an, đang ở ‘giữa lòng thuyền’. Chỉ cần tin! Đavít là một ví dụ. Sau khi Nathan nói cho biết tội của Đavít, ông đau buồn khóc lóc - bài đọc một. “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng!”. Chúa đã thứ tha! Đó cũng là tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca, một kiệt tác của Đavít, một người biết tìm về ‘một Ai đó’ ‘giữa lòng thuyền’.

Anh Chị em,

“Bạn sẽ ở đâu trong bão?”. Trong con thuyền Giáo Hội và thuyền nan của cuộc đời mỗi người, Giêsu luôn có đó. Không bao giờ Ngài rời chúng ta, Ngài là Emmanuel; căn tính của Ngài là Cứu Độ, tên Ngài là Cứu Chúa. Đừng sợ đánh thức Ngài! Cần ghi nhớ, Ngài có sự chiến thắng cuối cùng; Ngài cho phép bão tố xảy đến để chúng ta biết nương tựa Ngài hơn. Khi cuộc sống không còn đáng sống, bế tắc, tuyệt vọng… bạn cần đào sâu đức tin vào Đấng ở ‘giữa lòng thuyền’, Đấng sẽ viết chương cuối cùng cuộc đời của mỗi người.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con ‘văng khỏi thuyền’ khi bão ập xuống đời con; vì con tin rằng, ‘một Ai đó’ luôn có mặt ‘giữa lòng thuyền’ đời con, Ngài nhận ra con!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp Huế

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XIV THƯỜNG NIÊN Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN B Ed 2,2-5; 2Cr 12,7-10; Mc 6,1-6 Suy niệm 1: ...