SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN III PHỤC SINH
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH-B
Cv 3,13-15.17-19; 1Ga
2,1-5a; Lc 24,13-35
TIN-YÊU-LÀM CHỨNG
Tin mừng hôm nay tường thuật lại sự kiện Chúa Giêsu Phục
sinh hiện ra với các môn đệ. Ngài trao chúc bình an, chấn an, củng cố niềm tin
cho các ông và trao ban sứ vụ làm chứng nhân phục sinh cho Chúa.
Xin Chúa củng cố niềm tin cho chúng ta để chúng ta đủ can
đảm sống và thi hành sứ mạng làm chứng nhân tin mừng phục sinh cho mọi người.
Bài đọc 1: Trích sách Cvtđ, thánh Luca ghi lại những
hoạt động thời Gíao hội sơ khai. Đoạn sách hôm nay tường thuật lại bài giảng
của tông đồ Phê-rô cho những người vừa chứng kiến phép lạ ngài chữa lành cho
người què ăn xin tại cửa đẹp đền thờ Giêrusalem. Bài giảng gồm hai phần:
- Phần đầu, Phê-rô xác nhận nhận việc chữa lành người
què không do tài năng hay công đức của ông, nhưng đó là do quyền năng và ân huệ
của Chúa Kitô.
- Phần hai, Phêrô nhắc lại cái chết của Chúa Giêsu là do
người Do Thái gây ra, vì họ không biết Ngài là Đấng Cứu Thế. Nhưng TC đã cho
Đức Giêsu sống lại. Sự kiện này chứng tỏ Người là Đấng Messia. Từ đó Phêrô mời
gọi họ hãy tỏ lòng sám hối, từ bỏ tội lỗi để đón nhận ơn cứu độ của Chúa.
Bài đọc 2: Trích thư thứ nhất của thánh Gioan tông đồ.
Thánh Gioan mời gọi các kitô hữu đừng quá tự hào về sự hiểu biết của mình đến
nỗi cho rằng chính nhờ sự hiểu biết của mình mà được cứu độ. Thật ra sự hiểu biết về Đức
Giêsu chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ để được cứu độ vẫn là phải thực
thi các giới răn của Chúa. Mà các giới răn của Chúa được tóm gọn qua việc mến
Chúa và yêu người: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng
nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống
điều răn ấy, là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả
Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt
22,37-40). Đúng như lời thánh Giacôbê tông đồ đã nói: "Đức tin không có
việc làm là đức tin chết" (Gc 2,17).
Bài tin mừng hôm nay, thánh Luca tường thuật lại sự kiện
Chúa Giêsu phục sinh hiện ra lần thứ ba với các môn đệ trong nhà tiệc ly (lần
thứ nhất không có Tôma, 8 ngày sau có Tôma và lần này) trong khi các cửa đều
đóng kín vì sợ người Do Thái.
Chúa Giêsu hiện đến nhằm chấn an, trao ban bình an và
củng cố niềm tin cho các môn đệ. Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn Người;
ăn uống trước mặt các ông và nhắc lại lời thánh kinh đã nói về Đấng Messia nay
được ứng nghiệm nơi Người. Sau cùng Người trao ban sứ vụ làm chứng nhân cho các
ông.
Như vậy để làm chứng nhân cho Chúa Giêsu phục sinh,
chúng ta cần phải xác tín về niềm tin của mình vào Chúa phục sinh cách vững
vàng. Cần phải học hỏi lời Chúa và tích cực sống lời dạy của Người. Nhất là
phải có lòng khiêm tốn nhận mình còn nhiều thiếu sót, lầm lỗi và yếu đuối mà
chân thành ăn năn sám hối, với mong muốn đón nhận ơn tha thứ của Chúa mà đổi
mới đời sống.
Truyện kể về cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân
tòng và một người chưa có niềm tin như sau:
- Anh đã theo đạo Công giáo rồi
sao?
+ Vâng, nói đúng hơn là tôi theo
Đức Kitô.
- Vậy xin hỏi anh, ông ta sinh ra
trong quốc gia nào?
+ Rất tiếc là tôi đã quên mất chi
tiết này.
- Thế khi chết, ông ta được bao
nhiêu tuổi?
+ Tôi cũng nhớ rõ nên chẳng dám
nói.
- Vậy ông ta đã thuyết giảng bao
nhiêu bài?
+ Tôi không biết!
- Quả thật, anh biết quá ít, quá
mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thật sự đi theo ông Kitô!
+ Anh nói đúng một phần. Tôi rất
hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ
là thế này: Ba năm trước, tôi là người nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ nần
lút đầu ngập cổ, gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng.
Mỗi tối, khi trở về nhà, vợ con tôi đều tức giận và buồn
tủi. Thế mà bây giờ tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng làm việc chăm chỉ và
trả được hết nợ, gia đình tôi đã tìm lại được niềm vui và hạnh phúc; các con
tôi trông ngóng, chờ đợi tôi về nhà sau giờ tan ca. Những điều này không ai
khác hơn, chính là Đức Kitô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết
về Người.
Người tân tòng trong câu chuyện trên đây,
tuy không biết Chúa Giêsu trên lý thuyết nhiều, nhưng anh ta đã tin nhận vào
Chúa và đã được Chúa đổi mới hoàn toàn. Và anh ta đã làm chứng bằng chính đời sống
mới tốt lành của mình.
Xin Chúa phục sinh luôn đồng hành, hướng dẫn và nâng đỡ đời sống đức tin còn yếu kém của mỗi người chúng ta. Amen.
Suy niệm 2: CHÍNH ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN VỀ NHỮNG ĐIỀU NÀY
Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
Lời mời gọi cuối cùng Đức Ki-tô phục sinh ngỏ với các tông đồ, và qua các
ngài, với tất cả chúng ta, là mời gọi trở thành chứng nhân: Chính anh
em là những chứng nhân về những điều này. (c. 48)
Nhưng đâu là cách thức hay con đường để trở thành chứng nhân của Đức Ki-tô?
Cách thức hay con đường trở thành chứng nhân được dệt nên bởi hai kinh nghiệm
nền tảng, liên kết chặt chẽ với nhau: kinh nghiệm lắng nghe các chứng nhân khác
và kinh nghiệm đích thân nhận ra sự hiện diện sống động của Đức Ki-tô phục
sinh.
“Chính anh em là
chứng nhân về những điều này.”
1. Kinh nghiệm lắng nghe các chứng
nhân (c. 35)
2. Kinh nghiệm gặp gỡ và nhận ra Đức Ki-tô phục sinh
- Đức Ki-tô phục sinh tỏ mình ra
trực tiếp (c. 36-43)
- Đức Ki-tô phục sinh tỏ mình ra ngang qua Kinh Thánh (c. 44-48)
Đó là con đường của các tông đồ và của những chứng nhân đầu tiên; nhưng
trong con đường của các ngài, chúng ta sẽ tìm ra những kinh nghiệm nền tảng làm
nên con đường dành riêng cho mỗi người chúng ta hôm nay.
1. Kinh nghiệm lắng nghe các chứng nhân (c. 35)
Kinh nghiệm đầu tiên là kinh nghiệm lắng nghe các chứng nhân. Điều này có
nghĩa là, trước khi trở thành chứng nhân, chúng ta được mời gọi mở lòng ra để
lắng nghe các chứng nhân. Và điều này phải làm chúng ta ngặc nhiên, vì kinh
nghiệm này cũng phải có, ngay cả đối với các tông đồ, vốn là các chứng nhân ưu
tuyển! Thật vậy, trước khi trở thành chứng nhân, chính các tông đồ cũng đã phải
trải qua kinh nghiệm lắng nghe các chứng nhân khác, vốn đã được ban ơn nhận ra
Đức Ki-tô phục sinh trước. Đó là chứng từ của bà Maria Mác-đa-la (Mc 16, 11 và
Ga 20, 18), chính vì thế bà được Truyền Thống Giáo Hội tặng ban tước hiệu “Tông
đồ của các Tông Đồ”; và đó cũng là chứng từ của hai môn đệ từ Emmau trở về:
Bấy giờ, hai môn đệ từ Emmau trở về, thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường
và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. (c. 35)
Chúng ta hãy lắng nghe và đi vào tâm tình của các chứng nhân chia sẻ kinh
nghiệm gặp gỡ Đức Ki-tô phục sinh: hai môn đệ đã chia sẻ với tất cả niềm xác
tín và niềm vui như thế nào? Và các ông đã ước ao thông truyền kinh nghiệm của
mình như thế nào? Đức tin và ơn gọi của chúng ta cũng dựa trên lời chứng của
Giáo Hội và của rất nhiều người xa gần. Tuy nhiên, để trở thành chứng nhân,
lắng nghe lời chứng vẫn chưa đủ, bởi vì đó mới chỉ là lời mời gọi hướng đến,
chứ không thay thế được, kinh nghiệm đích thân nhận ra sự hiện diện sống động
của Đức Ki-tô phục sinh. Theo trình thuật Tin Mừng, kinh nghiệm nhận ra Đức
Ki-tô phục sinh được diễn ra theo hai cách thức:
- Cách thứ nhất: Đức Ki-tô phục sinh tỏ mình ra cách trực tiếp.
- Cách thứ hai: Ngài mở trí để hiểu toàn bộ Kinh Thánh dưới ánh sáng của
mầu nhiệm Vượt Qua, tương tự Ngài đã thực hiện đối với hai môn đệ Emmau.
2. Đức Ki-tô phục sinh tỏ mình ra (c. 36-43)
Ngay cả khi Đức Ki-tô phục sinh tỏ mình ra cách trực tiếp, các tông đồ và
các bạn vẫn gặp khó khăn trong việc nhận ra Ngài là ai; điều này chứng tỏ, Ngài
vẫn là Ngài trước đó, nhưng đã đi vào một cách thể hiện hữu khác hẳn, vượt qua
bình diện thể lí[1]:
Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Bình
an cho anh em!” Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma! (c. 36-37)
Chúng ta hãy đồng cảm với các ông trong sự sợ hãi. Bởi vì, các ông thực sự
có đủ lí do để sợ hãi: chúng ta hãy tưởng tượng, một người thân yêu đã chết, đã
được chôn táng, và mọi sự đã diễn ra được mấy ngày rồi; vậy mà giờ đây lại thấy
xuất hiện ngay trước mặt chúng ta! Chính vì thế, chúng ta không nên đòi hỏi Đức
Ki-tô hiện ra, vì những lí do khác nhau. Hơn nữa, không “thấy” Chúa cách hữu
hình, đó chính là điều Chúa ước ao: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga
20, 29)[2].
Đòi hỏi Chúa hiện ra, là làm khó Chúa rồi, nếu không muốn nói là thử thách
Chúa, vì làm sao sự sống mới hoàn toàn khác lại có thể hiện hiện trong sự sống
này được, nếu không phải trở lại như cũ. Chính vì thế, Chúa ước ao chúng ta
không thấy mà tin, nghĩa là nhận ra Chúa qua những dấu chỉ Lời Chúa, bí tích
Thánh Thể, các chứng nhân, và nhất là hoa trái phong phú do Đức Ki-tô phục sinh
đem lại cho nhân loại, cho Giáo Hội, cho Hội Dòng, cho cộng đoàn, cho gia đình
chúng ta. Như hai môn đệ Emmau, chúng ta được mời gọi nhận ra Chúa sống động
ngang qua việc hiểu Kinh Thánh dưới ánh sáng của Mầu Nhiệm Vượt Qua và dấu chỉ
“bẻ bánh”, trong cuộc sống và trong cử hành Thánh Thể.
Sau khi phục sinh, Đức Ki-tô đi vào trong sự sống mới, vượt không gian và
thời gian. Chính vì thế, người ta không bao giờ nhận ra Chúa ngay; đó là trường
hợp của bà Maria Magdala, hai môn đệ Emmau, mười một tông đồ và các bạn hữu.
Chỉ khi nào Chúa cho nhận ra, thì mới nhận ra, như ở đây:
- “Nhìn chân tay thầy coi…”. Ngôi vị lạ lùng mà họ đang gặp gỡ cũng
chính là ngôi vị đã từng sống với họ, và nhất là cũng chính là ngôi vị đã bị
đóng đinh.
- Chúa muốn “ăn”, để gợi lại những bữa ăn xưa kia; như trường hợp bữa ăn
đối với hai môn đệ Emmau.
Như tất cả các lần hiện ra khác, Chúa luôn luôn cho thấy mình chính là
Người đã bị đóng đinh. Chân lí này có ý nghĩa trọng đại cho đức tin của chúng
ta:
- Sự sống mới phát xuất từ con đường Thập Giá.
- Đức Ki-tô chịu đóng đinh và Đức Ki-tô phục sinh vừa là một, những cũng
rất khác, khiến cho những người đã từng sống với ngài không nhận ra.
- Tuy Ngài đã đi vào sự sống mới, nhưng tất cả những gì đến từ cuộc Thương
Khó, mãi mãi gắn bó với ngôi vị của Ngài: đó là những vết thương, những dấu
đinh ở chân tay, vết đâm ở cạnh sườn… Điều này mang lại cho chúng ta tràn đầy
niềm vui và hi vọng, vì lòng thương xót, ơn tha thứ và ơn chữa lành được bày tỏ
trong cuộc Thương Khó và cái chết của Chúa, mãi mãi tồn tại nơi Đức Ki-tô phục
sinh. Bởi vì “muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136).
Xin Chúa ban cho chúng ta ơn bình
an và niềm vui, không chỉ vì Đức Ki-tô đi vào sự sống mới, nhưng còn là vì, mầu
nhiệm Phục Sinh của Chúa có liên quan sâu xa đến cuộc đời và hành trình ơn gọi
của chúng ta: tất cả, dù là thử thách, đau khổ, tội lỗi, bệnh tật và sự chết,
đều trở thành đường đi dẫn đến niềm vui phục sinh, và sự sống phục sinh đã được
gieo và sinh hoa kết quả ngay hôm nay. Như thánh Phaolo nói:
Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay
ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao
hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng
ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng
ta. (Rm 8,38-39)
3. Kinh nghiệm nhận biết Đức Ki-tô ngang qua Kinh Thánh (c. 44-48)
Đức Ki-tô phục sinh bày tỏ mình ra cách trực tiếp, đó là ơn đặc biệt Ngài
dành cho các chứng nhân đầu tiên, để có thể thực hiện sứ mạng lớn lao và khó
khăn; nhưng các chứng nhân này không được miễn trừ khỏi kinh nghiệm thứ hai, là
kinh nghiệm dành cho mọi người, đó là hiểu Kinh Thánh trong tương quan với cuộc
đời của Đức Giê-su và nhất là với mầu nhiệm chết và phục sinh của Ngài.
Rồi Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất
cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy
đều phải được ứng nghiệm.” Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và
Người nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng (dịch sát bản văn Hi-lạp:
như đã được viết): Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi
chết sống lại. (c.44-45)
Ngày hôm nay, Đức Ki-tô vẫn hiện diện cách kín đáo, như Ngài đã làm với hai
môn đệ Emmau, qua rất nhiều trung gian, để giúp chúng ta có kinh nghiệm nhận ra
Ngài trong Thánh Lễ hằng ngày và trong đời sống cầu nguyện của chúng ta. Đức
Ki-tô phục sinh giải thích mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài khởi đi từ Sách Thánh:
Sách Thánh loan báo Đức Ki-tô và Đức Ki-tô hoàn tất Kinh Thánh. Đức Ki-tô đã
“hoàn tất” Kinh Thánh như thế nào, thì cũng sẽ “hoàn tất” đời tôi như thế: Đời
tôi cũng “loan báo” Đức Ki-tô và Đức Ki-tô hoàn tất đời tôi. Chính sự tương hợp
này đã đem lại kinh nghiệm thiêng liêng: “con tim bừng cháy”
Bởi vì, kinh nghiệm của các môn đệ, kinh nghiệm về sự tương hợp giữa Đức
Giêsu và Sách Thánh không chỉ là một suy luận. Bởi vì hiểu Sách Thánh được hoàn
tất nơi Đức Giêsu, điều này đi ngang qua chốn sâu thẳm của tâm hồn, và làm cho
sinh động mọi gốc rễ của tâm hồn. Chúng ta thấy mình có liên quan, bởi vì sự
vâng phục của Đức Giêsu đối với Chúa Cha được bày tỏ ra cho Ngài ngang qua con
người. “Kế hoạch của Chúa Cha” được ghi khắc ở đâu, nếu không phải là trên con
người, trên toàn thể một dân tộc có trước Ngài? Hẳn là kế hoạch này được viết
trong một cuốn sách (Sách Thánh); nhưng nếu các trang sách biết nói, đó là bởi
vì chúng qui về những cuộc đời cụ thể, giống như cuộc đời cụ thể của chúng ta,
và Thiên Chúa đã dùng những cuộc đời cụ thể này để ghi khắc trên đó kế
hoạch Ngài thiết lập cho Đức Kitô của Ngài. Và, vì dân tộc này giống như chúng
ta, con tim chúng ta có thể “bừng cháy” khi chúng ta nhận ra nơi chính
mình cuộc vượt qua của Đức Ki-tô.
[1] Chính vì thế, không nên hữu hình hóa, bằng tranh ảnh hay phim ảnh,
Đức Ki-tô phục sinh. Vì nhận ra Đấng Phục Sinh luôn luôn là một kinh nghiệm
thiêng liêng, và do đó, chỉ có thể được diễn tả bằng ngôn ngữ của các Tin Mừng
và bằng việc chia sẻ thiêng liêng mà thôi. Khi hữu hình hóa Đức Ki-tô phục
sinh, sẽ có nguy cơ làm sai lạc sự hiện diện “phi thể li”, sống động và mới mẻ
của Ngài.
[2] Ma quỉ hiện ra nhiều lần nói với một vị ẩn tu: “Ta là Đức Ki-tô đây”. Nhưng lần nào, vị ẩn tu cũng cúi mặt xuống không thèm nhìn. Một ngày kia, ma quỉ sốt ruột hỏi: “Đức Ki-tô đây, tại sao thầy không thèm nhìn?”. Vị ẩn tu trả lời: “Tôi không cần phải ‘thấy’ Đức Ki-tô để sống đức tin và đời tu của mình!” (tuyển tập “Chuyện các vị ẩn tu”).
Suy niệm 3: CHÍNH ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN CỦA THẦY
Sr. Teresa Đoàn Thụy Thúy Phượng,
OP
Chúng ta đang sống trong những ngày mừng biến cố Đức Giêsu Phục sinh sau
khi chịu tử nạn đau thương để cứu độ nhân loại. Sự chết đã không thể giam cầm
được Người. Trong suốt những ngày vừa qua, chúng ta đã được nghe nhiều về việc
Đức Giêsu hiện ra với nhiều người, liên hệ cách này hay cách khác. Đây là tin
vui lớn lao không chỉ cho các tông Đồ thời xưa nhưng còn cho hết thảy mọi người
mọi thời. Tin vui này cần được loan truyền cho mọi người biết đến và tin nhận.
Nhưng ai sẽ là những người đảm nhận sứ mạng rao giảng về những điều này?
Bài Tin Mừng Chúa Nhật Thứ III Phục Sinh hôm nay đã hai lần nêu lên sứ mạng
loan báo Tin Mừng: đầu tiên là việc mở đầu với hình ảnh hai môn đệ trở về từ
Emmau để báo tin mừng Chúa đã sống lại cho các anh em; và kế đến là lệnh truyền
dành cho các môn đệ “phải nhân danh Thầy mà rao giảng cho muôn dân” ở
cuối đoạn Tin Mừng. Sự lập lại này chứng tỏ sự cấp thiết của việc loan báo Tin
Mừng Phục Sinh và sứ mạng trở nên chứng nhân cho Đấng Phục Sinh. Qua trích đoạn
Tin Mừng, chúng ta nhận thấy hành trình trở nên chứng nhân của các môn đệ là
một quá trình tiệm tiến và cá vị với các điểm đáng lưu ý:
1. Họ
là người được gặp gỡ trực tiếp Đấng Phục Sinh
Hai môn đệ trên đường Emmau sau khi đã nhận ra Chúa Phục Sinh đã mau mắn
trở về cùng anh em ngay trong đêm để loan báo Tin Mừng trọng đại này. Sự tiếp
xúc trực tiếp này thật rõ ràng và chân thật đã thôi thúc các ông phải về loan
tin ngay lập tức không thể chần chừ. Chúng ta có thể hình dung sự nao nức, hân
hoan, mạnh mẽ trong lời kể của hai ông, và chúng ta tin rằng, điều hai ông nói
rất chắn chắn và có sức thuyết phục vì các ông đã nói những điều“mắt đã
thấy, tai đã nghe, tay được sờ chạm và lòng được bừng sáng”.
2. Họ
lắng nghe người khác kể lại việc gặp gỡ Đấng Phục Sinh
Các môn đệ khác trong đoàn tề tựu với nhau cùng lắng nghe lời loan báo Tin
Mừng của hai chứng nhân. Nghe một người kể một lần về một sự kiện có thể làm
chúng ta nghi ngờ, nhưng nếu nghe cùng một sự kiện được kể bởi nhiều người, mà
lời kể không có chi khác biệt, cộng thêm những gì người kia nói với tất cả xác
quyết “mắt thấy tai nghe” thì sức thuyết phục sẽ tăng lên đáng
kể. Dần dà, dù không tin những điều được nghe, người ta cũng tự đặt ra những
nghi vấn cho chính mình. Và vì điều đó có tầm ảnh hưởng và ý nghĩa chung cuộc,
nó sẽ thúc đẩy bản thân tìm kiếm sự thật. Họ thật sự cần một sự gặp gỡ thân
tình và cá vị với Đấng Phục Sinh vì “trăm nghe không bằng một thấy”. Cuối
cùng, với thiện chí kiếm tìm, Chúa đã tỏ mình ra với họ.
3. Chính
họ được Đấng Phục Sinh tỏ mình và có kinh nghiệm nhận ra Ngài
Các môn đệ còn lại cũng đã có được đặc ân nhìn thấy Đấng Phục Sinh khi
Người hiện ra, trò chuyện, nhìn xem, sờ chạm những vết thương của cuộc khổ nạn
và hơn hết là họ được Đức Giêsu giảng giải Lời Kinh Thánh. Một khi đã hiểu, đã
cảm và kinh nghiệm thật rõ ràng, họ được thúc đẩy ra đi làm chứng cho Chúa Phục
Sinh. Và vì đây là một kinh nghiệm cá vị và là ân ban nên cho dù có mất mạng
sống mình, họ cũng trung thành loan rao Tin Mừng đã được nhận lãnh.
Vào thời sau hết này, chúng ta không có “đặc ân” được gặp
gỡ trực tiếp Chúa Phục Sinh sau khi Người trỗi dậy từ cõi chết như các môn đệ
xưa. Liệu rằng chúng ta sẽ lấy gì chắc chắn để trở nên chứng nhân cho biến cố
Chúa Phục Sinh? Chúng ta cùng chiêm ngắm hình ảnh vị Tông Đồ “rốt hết” trong số
các Tông Đồ, Thánh Phaolô. Thánh nhân cũng không có cơ hội gặp gỡ Đức Giêsu
Phục Sinh bằng xương bằng thịt nhưng Thánh nhân vẫn là vị tông đồ đắc lực trong
việc loan báo Tin Mừng. Thánh Nhân đã để cho mình được thụ huấn bởi chính Đấng
Phục Sinh và nhờ đó Thánh Nhân có được sự hiểu biết, yêu mến và dấn thân truyền
giảng Tin Mừng.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, sau khi đã chiến thắng sự chết, Ngài không
còn bị giới hạn trong không gian-thời gian, vì thế, cách thức Ngài
đến gặp gỡ chúng con cũng vô cùng phong phú. Xin Chúa tỏ
mình cho chúng con sự hiện diện của Ngài trong những hoàn cảnh cụ thể và xin cho chúng con được nhận ra Chúa: Khi chúng con có được niềm
vui-dấu chỉ của sự sống; khi chúng con gặp những thương tổn, đau khổ,
bế tắc nhưng được chữa lành, được giải thoát, được nâng
dậy… Những kinh nghiệm này làm cho đôi mắt đức tin
của chúng con thêm mạnh mẽ. Trước tình thương và ân ban
cao trọng Chúa dành cho mỗi người, đến lúc chúng con cũng được thúc đẩy trở
nên chứng nhân cho Chúa Phục Sinh ngay trong đời sống mình. Amen.
Không biết,
nên giết “Giê-su”.
Phải biết và giữ để tu sửa mình.
Nhận ra Chúa, Đấng Cứu Tinh,
Bằng Lời của Chúa, thịt mình Giê-su.
NHẬN BIẾT ĐỨC GIÊSU
Trần thế, có Chúa đồng hành.
Xác phàm, mắt thịt ta đành bất “trông”.
Phê rô xác nhận cõi lòng.
Người què được chữa thì không do mình,
Giê su, Đấng chết, Phục Sinh.
Người Do
Thái giết vì “nhìn” không ra.
Vậy nay sám hối thật thà,
Nhận biết, Thờ Chúa để mà được ơn.
Gioan giải
thích thiệt hơn:
Giê su ta "biết", bước chơn theo Ngải.
Lời Ngài, ta giữ chẳng sai.
Đó là "biết" Chúa, ai, ai cũng tưởng.
Em mau môn đệ cháng chường,
Họ chỉ "biết" Chúa theo đường họ suy.
Giê su bị giết một khi,
Họ coi là hết, quyết đi về nhà.
Giê su giúp họ "nhận" ra,
Nhờ nghe Lời Chúa, và qua “Tiệc Ngải”.
Hai ông "biết" nhận ra ngay.
Trở lại, theo Chúa mỗi ngày bên ông.
Ăn năn sám hối từ tâm.
Để nhận ra Chúa âm thầm bên tôi.
Thứ hai: Cv 6, 8-15; Ga 6,22-29
Suy niệm 1: Cv 6, 8-15
Sách công vụ tông đồ thuật lại cuộc tranh luận giữa thầy
phó tế Stêphanô với những người thuộc nhóm hội đường, gọi là hội đường của
“nhóm nô lệ được giải phóng”, gốc Cyrene và Alexandria, cùng với một số người
gốc Cilicia và Asia.
- Nguyên nhân xảy ra tranh luận là vì bất đồng quan
điểm, chung quanh vấn đề: đền thờ và lề luật. Khi ấy ông Stêphanô được đầy ân
sủng và quyền năng, đã làm những điềm thiêng dấu lạ lớn lao trong dân. Những
lời lẽ khôn ngoan do Thánh Thần ban cho ông khiến cho những kẻ thù ghét ông
không thể nào địch nổi.
- Kết quả là khi nghe những lời ấy, lòng họ giận điên
lên, và họ nghiến răng căm thù Stêphanô. Để hả cơn giận dữ vì đuối lý trước lời
lẽ khôn ngoan của Stêphanô, họ đã dùng đến hạ sách là xách động một số người tố
cáo gian Stêphanô về tội lộng ngôn, phạm thượng Thiên Chúa và ông Maisen, với
mục đích vịnh vào chứng cớ gian dối ấy mà ném đá ông (x. Cv 6,14). Nhưng cho dù
họ có dùng sức mạnh của "tâm lý đám đông" hay chiêu trò tiểu nhân bỉ
ỏi che đậy chân lý, thì chân lý vẫn không hề bị dập tắt, trái lại vẫn được
chiếu sáng rạng ngời tựa như ánh sáng của Thiên Thần chiếu tỏa trên khuôn mặt
của vị phó tế Stêphanô can đảm và khôn ngoan như họ nhìn thấy.
Trong đời sống cộng đoàn Họ đạo không thể nào mà không
xảy ra những bất đồng quan điểm về nhiều vấn đề... Những bất đồng này có thể
làm phương hại đến tình hiệp nhất. Đây đó, không ít những trường hợp chống đối
và tìm cách nói xấu, hạ bệ lẫn nhau.
Xin cho mỗi người trong Họ đạo chúng ta có được cái nhìn
khách quan và lòng thiện chí tìm đến sự thật, dưới sự tác động và hướng dẫn của
lời Chúa, nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần. Nhờ đó mà cộng đoàn Họ đạo chúng
ta mới có thể tránh được những cuộc cải vả hận thù đáng tiếc xảy ra.
Xin cho cộng đoàn Họ đạo chúng ta luôn biết noi gương
cộng đoàn ki-tô hữu đầu tiên, biết từ bỏ ý riêng, chấp nhận hy sinh ích lợi cá
nhân để hướng đến lợi ích chung mà xây dựng tình hiệp nhất huynh đệ chân thành.
Suy niệm 2: Ga 6, 22-29
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến hai loại thức
ăn. Thức ăn nhanh và thức ăn thường tồn. Thức ăn nhanh thì chỉ nuôi sống thể
xác nhưng mau qua, còn thức ăn thường tồn thì chẳng những nuôi dưỡng thể xác mà
cả tâm hồn; chẳng những bảo đảm sự sống đời này mà cả sự sống mai sau. Nhưng
chúng ta lại thích chạy theo lối sống thực dụng nên từ chối chọn lựa thức ăn
thường tồn để ăn.
Xin Chúa cho chúng ta đủ tỉnh táo và khôn ngoan để chọn
lựa những giá trị cao quý nhất trong đời sống mình.
Làm việc để tìm kiếm cơm bánh, nuôi dưỡng thân xác là
mục tiêu cơ bản nhất của con người. Nhưng con người không chỉ có nhu cầu ăn
uống mà con người còn có những nhu cầu khác về tri thức, tinh thần, tâm linh...
nữa.
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải vượt
lên những giá trị tầm thường của cuộc sống mau qua này mà vươn đến những giá
trị cao quý vĩnh cửu. Muốn vươn lên giá trị của sự sống vĩnh cửu, Chúa Giêsu
mời gọi chúng ta hãy “Đến” với Chúa và hãy “Tin” vào Ngài.
Đức Giêsu đã làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám
đông. Cho thấy Ngài quan tâm đến nhu cầu của thân xác của con người. Nhưng Ngài
không dừng lại ở việc thỏa mãn nhu cầu cơ bản là “đói cho ăn, khát cho uống.”
Bởi xét cho cùng thì cơm bánh chỉ là thứ lương thực mau qua dành cho thân xác,
chứ không phải là thứ lương thực trường tồn đem lại sự sống đời đời cho con
người. Do đó, Ngài muốn ban cho con người chúng ta một thứ lương thực khác, thứ
lương ấy sẽ đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu.
Để có được của ăn mau qua, nuôi dưỡng thân xác, con
người chúng ta cần phải ra công làm việc vất vã “đổ mồ hôi sót con mắt ” mới có
của ăn. Để có được của ăn vĩnh cửu, nuôi dưỡng tinh thần và tâm linh, con người
chỉ cần làm hai việc: “Đến với” Chúa Giêsu và “Tin
vào” Ngài.
Cái đói của thân xác không cồn cào bằng cái đói tinh
thần. Con người đói công bằng và hạnh phúc, đói yêu thương và sự kính trọng…Con
người khát niềm vui và bình an, cảm thông và sự thật.
Thực tế cho thấy trong sâu thẳm tâm hồn, con người chúng
ta luôn đói khát một “ai đó” để mình yêu mến và tôn thờ. Đức Giêsu mời ta hãy
tin vào Ngài là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Hãy đến với Chúa Giêsu để ta bắt
đầu được nếm thử tấm bánh do chính Ngài ban tặng, vì chính Ngài là Tình yêu, sự
thật, bình an và sự sống.
Xin cho chúng ta biết siêng năng đến với Chúa Giêsu với
niềm tin yêu, để chúng ta được chính Chúa nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Bánh
Thánh, là thứ lương thực không hư nát và có giá trị đem lại sự sống đời đời.
Thứ ba: Cv 7, 51-8,1a; Ga 6,30-35
Chính vì đặt trọn niềm tin vào Chúa Giêsu, bánh trường
sinh đem lại sự sống đời đời (x. Ga 6,35), mà thầy phó tế Stêphanô đã sẵn sàng
chấp nhận chịu nhiều thiệt thòi ngay cả hy sinh mạng sống mình, đó là điều mà
bài sách Cvtđ hôm nay nói đến.
- Với niềm tin vững vàng vào Đức Giêsu, bánh ban sự
sống, Thầy phó tế Stêphanô đã say mê rao giảng Tin mừng Đức Giêsu đã truyền
dạy, cho dù gíao huấn ấy có đi ngược lại với quan niệm cố hữu của hàng lãnh đạo
tôn giáo Do Thái thời bấy giờ.
- Với lòng tin mạnh mẽ vào Chúa Giêsu, nguồn sống đích
thực, ngài đã không ngần ngại nói lên sự thật, dù phải đối mặt với bao hiểm
nguy: thù ghét, đàn áp, khống chế, lên án và giết hại của giới chức lãnh đạo Do
Thái thời bấy giờ.
- Với đức tin kiên trung vào Đức Giêsu, tấm bánh nuôi
sống đời đời, nên cho dù phải đứng trước pháp đình, Stêphanô cũng mạnh dạn minh
chứng về Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đã đến trần gian và đã chịu chết trên thập
giá để cứu chuộc loài người. Ngài cũng không ngần ngại vạch trần tội vong ân,
bội nghĩa của cha ông họ và của họ; đồng thời ngài cũng không ngừng nhắc đến
lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa dành cho dân Người.
Lời lẽ khôn ngoan minh chứng niềm tin, cũng như lời biện
hộ đanh thép tố cáo tội ác của những kẻ muốn hãm hại ngài, càng khiến cho đối
phương tức giận đến sôi máu và quyết định đưa ngài ra ném đá tử hình. Dù chịu
cực hình đau đớn, nhưng lòng ngài vẫn chan chứa niềm vui, sự cảm thông và tình
yêu tha thứ theo gương vị Thầy Chí Thánh. Nên trước khi tắt thở, thánh Stêphanô
đã không quên cầu nguyện cho những kẻ giết hại ngài: “Lạy Chúa, xin đừng chấp
họ tội này. Nói thế rồi, ông an nghỉ".
Nguyện cho mỗi người trong chúng ta luôn xác tín mạnh mẽ
vào Chúa Giêsu là tấm bánh hằng sống, để chúng ta biết can đảm noi gương
Stêphanô sẵn sàng làm chứng cho niềm tin của mình. Và cũng xin cho chúng ta
cũng biết noi gương thánh Stêphanô có lòng bao dung sẵn sàng tha thứ cho những
ai làm hại ta. Biết can đảm lấy tình thương xóa bỏ hận thù, theo như lời dạy và
gương lành của Chúa Giêsu.
Suy niệm 2: Ga 6,30-35
Giúp đỡ cơm áo gạo tiền, chỉ là phương tiện chứ không
phải là mục đích của các nhà truyền giáo. Mục đích của nhà truyền giáo là tạo
điều kiện để người khác có đủ sức đến gặp gỡ Chúa, đón nhận Chúa là lương thực
đích thực, mang lại sự sống vĩnh cửu. Đó là sứ điệp lời Chúa hôm nay nhắc nhở
chúng ta.
Để đủ sức tiến về đất hứa, Thiên Chúa đã ban cho dân Do
Thái manna làm của ăn. Nhưng họ cứ tưởng đó là bánh do Môsê ban cho họ. Để có
của ăn mang lại sự sống đời đời, Chúa Giêsu mời gọi dân chúng hãy tin vào Ngài.
Nhưng dân chúng lại đòi hỏi phép lạ như Môsê. Chúa Giêsu giải thích cho họ biết
Manna ngày xưa họ hưởng dùng nơi sa mạc không phải do Môsê ban cho, mà là do
chính Chúa thương ban để nuôi sống họ. Nhưng Manna chỉ là lương thực nuôi dưỡng
thể xác. Cha ông họ đã ăn Mana nhưng rồi cũng chết. Còn lương thực bảo đảm đem
lại cho họ sự sống vĩnh cửu mà Thiên Chúa ban cho họ chính là Đức Giêsu (bánh
trường sinh). Bởi lẽ Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa làm
người. Trong Đức Giêsu được kết hợp bởi nhân tính và Thiên tính mang sự sống
vĩnh cửu. Do đó khi hiến thân mình làm của ăn, Chúa Giêsu trở nên lương thực
mang sự sống vĩnh cửu. Ai tin nhận và ăn lấy tấm bánh Đức Giêsu thì đồng nghĩa
với việc tham dự vào sự sống vĩnh cửu nơi Chúa Giêsu.
Nếu ngày xưa, Chúa ban cho dân Do Thái Manna làm của ăn,
nhờ đó họ đủ sức vượt qua sa mạc, tiến vào đất hứa; thì ngày nay, Chúa cũng ban
cho chúng ta lương thực là Mình Thánh Chúa, Bánh Bởi Trời đích thực làm của ăn
nuôi dưỡng chúng ta đủ sức tiến về nhà Cha.
Xin cho chúng ta đừng quá bận tâm vào cơm bánh, thứ
lương thực mau qua nuôi dưỡng thân xác ở đời này, bởi ăn rồi cũng phải chết.
Nhưng cho chúng ta biết lưu tâm tìm kiếm thứ lương thực làm no thỏa tâm hồn,
mang lại sự sống đời đời, đó chính là Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô.
Thứ tư: Cv 8,1b-8; Ga 6,35-40
Suy niệm 1: Cv 8,1b-8
Cái chết của thầy phó tế Stêphanô là tiếng chuông báo
động khởi đầu cho cuộc bách hại gắt gao mà Gíao hội sơ khai phải gánh chịu.
Nguyên nhân chính gây ra cuộc bách hại là vì Giáo hội sơ
khai phát triển theo hướng tách ra khỏi Do Thái giáo. Bài giảng của phó tế
Stêphanô nêu lên tính cách tạm thời chuyển tiếp của tôn giáo Do Thái (x. Cv 7).
Nó phải nhường chỗ cho giá trị vĩnh cửu của tôn giáo do Đức Giêsu Kitô thiết
lập, một tôn giáo phổ quát không còn bị giới hạn trong một quốc gia hay một đền
thờ nào cả. Vì lời lẽ đó, Stêphanô phải trả giá cho sự thật mà ngài đã rao
giảng bằng chính mạng sống mình. Ngài đã bị ném đá cho đến chết và tiếng chuông
báo động cho những cuộc bách hại kitô hữu khốc liệt bắt đầu được khai mào.
Dưới cái nhìn tự nhiên, thì cuộc bách hại này là biến cố
đau thương của Gíao hội sơ khai. Nhưng với cái nhìn đức tin thì chính cuộc bách
hại ấy lại mang một ý nghĩa hết sức to lớn trong sự quan phòng kì diệu của
Thiên Chúa.
- Qua cuộc bách hại ấy cho thấy lời Chúa Giêsu
phán: "Tôi tớ không trọng hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt Thầy, thì họ
cũng sẽ bắt bớ anh em; nếu họ tuân giữ lời Thầy, thì họ cũng tuân giữ lời anh
em. Tại vì danh Thầy mà họ sẽ làm cho anh em tất cả những điều đó, bởi vì họ
không biết Ðấng đã sai Thầy." (Ga 15, 20) đã được ứng nghiệm.
- Chính cuộc bách hại ấy mà các môn đệ và các tín hữu
phải tản mác về các vùng miền quê của Giuđa và Samaria để hoạt động. Phó-tế
Philipphê thì xuống vùng Samaria và thành công trong việc rao giảng Tin Mừng
tại đó. Cuộc phân tán này trở thành cơ hội cho các Kitô hữu đem hạt giống Tin
Mừng đi gieo vãi khắp nơi (x. Cv 11, 19-21).
- Trong cuộc bách hại ấy cho thấy một đức tin kiên trung
vào Chúa Giêsu của các Kitô hữu non trẻ. Họ sẵn sàng chịu mọi gian lao thử
thách và can đảm nhận lấy cái chết để minh chứng cho niềm tin. Đúng như ai đó
đã nói: "Thiên Chúa vẽ đường thẳng với những nét cong"; hay “khi
Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ”.
Tin tưởng vào sự quan phòng kì diệu của Chúa, nên những
khi gặp đau khổ, chúng ta đừng bao giờ phàn nàn, kêu trách Chúa; cũng đừng bao
giờ than thân trách phận hoặc chán nản, buông xuôi, nhưng hãy tin tưởng, cậy
trông và gia tăng cầu nguyện xin Chúa trợ giúp.
Xin cho tất cả chúng ta biết cảm tạ Chúa vì đã ban cho
Gíao Hội những vị chứng nhân anh dũng đã can đảm gieo vãi Tin Mừng của Chúa
khắp nơi. Xin cho mỗi người trong Họ đạo chúng ta luôn ý thức bổn phận loan báo
tin mừng để mọi người có cơ hội nhận biết và tin vào Đức Kitô.
Suy niệm 2: Ga 6,35-40
Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, Chúa Giêsu đến trần
gian là để thi hành thánh ý Chúa Cha: Cứu độ và ban cho con người sự sống muôn
đời. Tuy nhiên chỉ những ai đến và tin nhận Ngài là Đấng Thiên Sai là bánh bởi
trời mới đáng được hưởng sự sống trường sinh Ngài mang đến. Xin Chúa củng cố
niềm tin nơi chúng ta để ta năng đến với Người.
Để giúp dân chúng hiểu về thứ bánh trường sinh là chính
Người, Chúa Giêsu đã mạc khải cho họ biết về nguồn gốc, mục đích và ý nghĩa về
Người. Chúa Giêsu khẳng định cho dân chúng biết nguồn gốc về Người: “Tôi
từ trời mà xuống”. Ngầm ý minh chứng rằng: Nếu ngày xưa Thiên Chúa ban
Manna từ trời xuống, thì ngày nay, Thiên Chúa cũng ban Chúa Giêsu xuống từ
trời. Như thế Chúa Giêsu chính là Bánh bởi trời ban. Nếu xưa kia mục đích Thiên
Chúa ban manna là để làm lương thực nuôi tất cả dân Do Thái lưu lạc trong sa
mạc, thì ngày nay, Chúa Giêsu cũng cho biết mục đích Ngài đến sa mạc trần gian
cũng là để thi hành ý Cha, nuôi sống tất cả mọi người, không để mất một ai. Nếu
xưa kia trong sa mạc, dân chúng đã tin vào Thiên Chúa và nghe lời Môsê xem
Manna là bánh nuôi sống họ trên đường về đất hứa; thì hôm nay, Chúa Giêsu cũng
mời gọi họ đón nhận và tin vào Ngài chính là tấm bánh trường sinh nuôi dưỡng và
thêm sức để họ tiến về quê trời mà Chúa hứa ban.
Khi Chúa Giêsu khẳng định: “Chính Tôi là bánh
trường sinh”, Ngài muốn quả quyết rằng, chỉ duy mình Ngài mới là lương
thực và là sự sống cho mọi người, vì chính Ngài là Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và
thông ban sự sống cho muôn loài.
Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống trần gian và sự
sống đời đời. Sự sống trần gian được nuôi dưỡng bằng Manna và cơm bánh. Sự sống
đời đời phải được nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa chính là nguồn sống và là
Đấng ban sự sống đời đời. Xin cho chúng con biết gắn bó mật thiết với Chúa qua
việc tin và đón nhận Thánh Thể Chúa vào lòng, để chính nguồn sự sống đời đời
của Chúa nơi bí tích Thánh Thể nuôi dưỡng chúng con.
Thứ năm: Cv 8,26-40; Ga 6,44-51
Suy niệm 1: Cv 8,26-40
Muốn biết Đấng Ki-tô là ai? thì phải tìm đến Kinh Thánh,
như thánh Giê-rô-ni-mô đã quả quyết: "Không biết Kinh Thánh là không biết
Chúa Ki-tô".
Trong bài đọc I, cho biết: Viên thái gíam Ethiopia chỉ
có thể biết được Chúa Kitô khi ông yêu thích tìm đọc Thánh kinh. Nhưng nếu đọc
Thánh kinh mà không được giải thích bởi Gíao Hội thì cũng không thể hiểu đúng ý
nghĩa điều mà Thánh kinh muốn nói. Nhờ sự hướng dẫn của vị phó tế Philipphê và
dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần nên viên Thái Gíam đã hiểu đúng đoạn sách
(x. Is 53,7-8 ) mà ông đang đọc ám chỉ về "Chúa Giêsu là Người Tôi
Trung, Ngài chịu đựng đau khổ cho con người, để cứu chuộc con người khỏi chết
và cho con người được sống muôn đời. Để được hưởng những đặc quyền này, con
người phải tin vào Đức Kitô và chịu Phép Rửa." Nên viên Thái Gíam
đã tin và xin nhận lãnh phép rửa với lòng đầy hoan hỷ, tiếp tục cuộc hành
trình…
Đúng như điều Chúa Giêsu quả quyết: "Chẳng
ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người
ấy." (Ga 6,44). Viên Thái Gíam được sự lôi kéo bời Thiên Chúa nên
ông đã tìm đến đọc Thánh kinh, nhờ sự giải thích của vị phó tế Philípphê, người
của Gíao hội, dưới sự tác động của Thánh Thần nên ông đã tin và chịu phép rửa.
Xin cho chúng ta biết bắt chước viên thái giám: siêng đọc
Lời Chúa, khiêm tốn lắng nghe lời Chúa qua sự hướng dẫn của các vị chủ chăn. Và
nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần càng ngày chúng ta thêm hiểu biết lời Chúa,
yêu mến Chúa và đặt trọn niềm tin vào Chúa hơn, hầu xứng đáng đón nhận ơn cứu
độ mà Chúa thương ban.
Suy niệm 2: Ga 6,44-51
Tiếp tục đề tài Bí Tích Thánh Thể, Tin mừng hôm nay Chúa
Giêsu xác quyết chính Ngài là bánh từ trời xuống, bánh hằng sống, ai ăn sẽ được
sống muôn đời. Nhưng để đến và đón nhận sự sống của Ngài cần phải được Chúa Cha
ban ơn trợ giúp. Xin Chúa thương ban ơn giúp sức cho chúng ta, để chúng ta tin
nhận và đến cùng Chúa Giêsu nguồn ban sự sống đời đời.
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục kêu gọi chúng ta
đến với Ngài và tin vào Ngài. Bởi chính Người là bánh từ trời, bánh hằng sống.
Ai đón nhận Ngài thì sẽ được sống đời đời. Nhưng để đến được với Chúa, chúng ta
phải được Chúa Cha lôi kéo. Tự sức ta không thể đến với Chúa được, vì con người
chúng ta hèn mọn và tội lỗi. Mà muốn được Chúa Cha lôi kéo, chúng ta phải đón
nhận giáo huấn của Chúa qua việc lắng nghe và thi hành Lời Chúa dạy. Chính Chúa
Giêsu là Lời của Chúa Cha. Lời Chúa Cha là Lời ban sự sống cho con người. Vì
thế đến được với Chúa Giêsu là “Lời”, ta tiếp nhận sự sống từ nơi Chúa Cha.
Nhiều người cho mình đã chọn Chúa, tin kính Chúa và
thường xuyên đến với Chúa là do khả năng và nổ lực của bản thân mình. Nhưng
thật sai lầm, vì không ai có thể tin nhận và đến với Chúa nếu không cậy nhờ ơn
ban của Chúa Cha lôi kéo người ấy.
Xin Chúa thương lôi kéo chúng ta siêng năng đến với Chúa
nơi Bí Tích Thánh Thể, cũng như trung thành lắng nghe và thực hành lời Chúa
dạy. Nhờ đó chúng ta được Chúa ban sự sống đời đời.
Thứ sáu: Cv 9,1-20; Ga 6,52-59
Suy niệm 1: Cv 9,1-20
Mỗi ngày có 24 giờ, trong đó có biết bao là thay đổi. Sự
thay đổi số phận con người có khi cũng lắm bất ngờ! Hôm qua tội lỗi, hôm nay
trở nên tốt lành; hôm qua nghèo khổ, hôm nay trở nên giàu sang, hôm qua đầy tớ,
hôm nay là ông chủ…và có thể ngược lại. Vận mạng con người thay đổi cũng bởi
nhiều lý do khác nhau: có khi do một lời nói, một ánh mắt, một nụ cười, một
gương sáng, một lời cầu nguyện chân thành hay một biến cố vui buồn, thành công
thất bại nào đó xảy ra trong cuộc sống.
Xin đừng để chúng ta quá đau buồn về những thất bại xảy
ra trong cuộc sống, cũng như đừng quá tự mãn về những thành công của mình.
Nhưng trên hết hãy khiêm tốn “ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người,
Người sẽ ra tay” (Mt 6, 25-34).
Sách Cvtđ hôm nay thuật lại biến cố ngã ngựa bất ngờ,
làm thay đổi cuộc đời của Sao-lô, nhờ gặp gỡ Đức Giêsu. Sách Cv cho biết:
Sao-lô, quê ở Tác xô, là người Do-thái trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng
miền Do-thái và Hy Lạp. Vốn là một biệt phái nhiệt thành, Saolô thường đi lùng
sục bắt bớ đạo Chúa, tham gia vào vụ giết thánh Stêphanô. Sau khi nhận được thư
giới thiệu của vị thượng tế, chàng trai Sao-lô hăng máu phóng ngựa như bay rong
ruổi khắp các nẻo đường thành Đa-mát để truy bắt các Ki-tô hữu đem về
Giê-ru-sa-lem trị tội. Hành động ấy Sao-lô xem là nhiệt thành với lề luật Do
Thái giáo đúng như lời Chúa Giêsu đã nói: “Có lúc, những người bắt bớ
các con, cứ tưởng rằng đó là việc tôn thờ Thiên Chúa” (Ga16, 2). Nhưng
không ngờ đang lúc ông hăng máu phóng ngựa truy cùng, diệt tận các kitô hữu
trên đường Đa-mat, bất ngờ một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao pbủ lấy
ông, khiến ông ngã xuống đất. Lúc đó ông nghe có tiếng nói:"Sa-un,
Sa-un, tại sao người bắt bớ Ta?". Ông hỏi: "Thưa Ngài,
Ngài là ai?". Người ấy đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang
bắt bớ". Nhưng không ai trông Chúa Giêsu. Sau đó Sao-lô được người ta
đưa vào một căn nhà trong thành Đa-mát với tình trạng mắt ông bị mù. Tại đây
Sao-lô được chữa lành đôi mắt và nhận lãnh Chúa Thánh Thần, nhờ việc đặt tay
của Kha-na-ni-a, người được Chúa Giêsu sai đến. Thế là sau ba ngày ông không
nhìn thấy, cũng chẳng ăn uống được gì nay ông đứng dậy chịu phép rửa, rồi ăn
uống và khỏe lại. Từ đó đời ông được thay đổi!
Từ một con người trung thành với quan niệm duy Do Thái
giáo, nay Phaolô lại thay đổi trở nên con người say mê Giêsu đến độ ngài
nói: “kể từ khi tôi biết Đức Giêsu Phục Sinh, tôi coi mọi sự như phân
bón. Kể từ khi biết Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi cả trước cái
lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô Chúa tôi” (Pl 3, 8-9).
Nếu trước đây Sao-lô tìm mọi cách để tiêu diệt những
người theo Chúa Giêsu, thì nay Phao-lô lại hăng say rao giảng Tin mừng để đưa
mọi người đến cùng Giêsu. Lòng nhiệt thành rao giảng Tin mừng của Chúa đã trở
thành phương châm sống của ông: "khốn cho tôi nếu tôi không rao
giảng tin mừng." (1Cr 9,16).
Trong cuộc đời chúng ta cũng vậy, lắm khi một biến cố,
một dấu chỉ nào đó xảy ra làm ta cảm thấy khó chịu, đau đớn lòng, nhưng có khi
đó lại chính lại là hồng ân đổi mới. Giúp chúng ta trưởng thành hơn trong đức
tin và dạng dày hơn trong cuộc sống nhờ ơn ban của Chúa.
Xin Chúa cho con biết nhìn các biến cố bằng cặp mắt đức
tin, để chúng con không ngã lòng, buông xuôi khi gặp thử thách, thất bại; Và
xin cho chúng con cũng đừng bao giờ tự mãn khi thành công. Vì cuộc đời có lắm
đổi thay!.
Suy niệm 2: Ga 6,52-59
Thiên Chúa dựng nên con người có hồn và xác. Phần xác
muốn sống phải ăn cơm bánh hằng ngày; phần hồn muốn sống phải rước Mình Máu
Thánh Chúa. Mình Máu Thánh Chúa chính là của ăn nuôi sống linh hồn ta. Xin cho
chúng ta biết yêu mến và quý trọng của ăn thiêng liêng mà Chúa Giêsu tặng bằng
cách dọn mình xứng đáng và siêng năng đến rước Chúa nơi bàn tiệc Thánh.
Nhân gian thường nói “Ăn gì thì bổ cái đó”, là một thực
tế của sự sống luân chuyển trong thân xác con người và các tạo vật.
Nếu ăn nhiều thịt thì áp xuất máu sẽ tăng lên và tính
tình thường hay nóng nảy. Ngược lại ăn rau, củ, quả nhiều, thì cơ thể cảm thấy
nhẹ nhàng, tính tình cũng điềm đạm hơn. Đó là kinh nghiệm bình thường ở những
cơ thể cũng bình thường, ngoại trừ những cơ thể bất thường thì có thể khác.
Căn cứ vào kinh nghiệm đó, chúng ta có thể hiểu được lời
Chúa Giêsu phán dạy: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh
này thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian
được sống... Ai ăn Thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ
ấy". Đúng vậy, Chúa Giêsu Kitô không chỉ có bản tính nhân loại, mà còn
mang bản tính Thiên Chúa trong Ngài, nên thịt và máu Ngài ở trong trạng thái
của sự sống đời đời.
Khi ăn thịt và uống máu Ngài, một kiểu nói khiến những
người Do Thái đương thời với Chúa Giêsu phải rùng mình sợ hãi và bỏ đi, và
những người thời nay không tin Chúa Giêsu thì cho đầu óc những người Công Giáo
là điên rồ. Nhưng ngược lại, lại rất quen thuộc thường tình và trở nên vô cùng
quan trọng đối với sự sống tinh thần và thiêng liêng của mọi Kitô hữu, nhất là
những người Công Giáo.
Người công giáo chẳng những tin vào Lời Chúa Giêsu phán
về việc ăn thịt và uống máu Ngài, nhưng còn có kinh nghiệm ăn thịt và uống máu
ấy hằng ngày, để cảm nghiệm sự trưởng thành trong đời sống tinh thần của mình ở
mức độ đời đời thế nào. Vì thế trên cả thế giới, cứ vài giây đồng hồ lại có một
Thánh Lễ để cung cấp cho trên 1 tỷ người Công giáo sự sống trường sinh là thịt
và máu Chúa Giêsu. Bất cứ ai đến ăn thịt và uống máu Ngài, đều cảm nhận sự bình
an khôn tả, nhiều khi nhận được cả sự chữa lành thể xác nữa.
Bí tích Thánh Thể, lương thực thần lương mang sự sống
đời đời. Xin cho chúng ta biết tin tưởng và khao khát tìm đến đón nhận chính
nguồn lương thực này, hầu đem lại cho chúng ta nguồn bình an và sự sống đời
đời. (st)
Thứ bảy: Cv 9,31-42; Ga 6,51.60-69
“Anh em có muốn bỏ Thấy không?”. Đây không chỉ là câu hỏi Giêsu dành cho các
tông đồ xưa nhưng còn cho mỗi chúng ta hôm nay. Ta có theo Chúa hay không? Phải
dứt khoát không thể nửa chừng, nước đôi. Chọn theo Chúa ta sẽ được sống. Chính
Chúa mới đem lại cho chúng ta phúc trường sinh.
Xin cho chúng ta biết thân thưa với Chúa như thánh
Phêrô: “Bỏ thầy con biết đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời
đời”.
Kết quả diễn từ về Bí Tích Thánh Thể của Chúa Giêsu hầu
như bị thất bại. Dân chúng thì bỏ đi. Nhiều môn đệ thì cảm thấy khó chịu, lẩm
bẩm: “Lời gì mà chướng tai thế?”. Ông ta làm sao lấy thịt mình
cho người ta ăn được? họ tỏ ra chán ngán và rút lui. May thay, Simon Phêrô thay
mặt nhóm 12 tuyên tín vào Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con
biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con,
chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” Thật
là an ủi và ấm lòng Chúa Giêsu biết bao!
Tin vào Bí Tích Thánh Thể luôn là thử thách lớn lao
chẳng những đối với dân chúng và các môn đệ xưa, mà cho cả những người kitô hữu
chúng ta ngày nay. Làm sao chúng ta có thể tin nhận Chúa Giêsu lại hiện diện
nơi tấm bánh đơn sơ, bé nhỏ? Làm sao Chúa Giêsu lại biến bánh và rượu trở nên
thịt và máu Ngài để nuôi sống chúng ta? Nếu không được Chúa ban ơn đức tin.
Tin Chúa quyền năng làm được mọi sự. Tin vào tình yêu
Thiên Chúa dành cho chúng ta: Chính vì tình yêu, Chúa dựng nên chúng ta; chính
vì tình yêu Chúa xuống thế làm người ở với chúng ta; chính vì tình yêu Ngài đã hiến
thân chịu chết để cứu chuộc chúng ta; chính vì quá yêu loài người nên Ngài đã
biến bánh và rượu trở nên thịt máu Ngài nuôi dưỡng và ở lại mãi trong ta, để
ban sự sống đời đời cho những ai tin nhận Ngài.
Xin cho mỗi lần tham dự thánh lễ, chúng cảm nhận được tình thương vô vàn mà Chúa dành cho chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể; cho chúng ta ý thức dọn tâm hồn cho xứng đáng để đón nhận Chúa vào ở trong lòng chúng ta.
SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN III PHỤC SINH
Lm. Minh Anh
CHÚA NHẬT III PHỤC SINH-B
Cv 3,13-15.17-19; 1Ga 2,1-5a; Lc 24,13-35
ĐỂ KHỔ ĐAU
“Đấng Kitô phải chịu khổ
hình!”.
“Đừng đặt quyền năng của
Chúa Kitô Phục Sinh ngang hàng với những mánh khoé của các pháp sư, để Ngài có
vẻ như không phải là chính mình. Như thế, khác nào cứ cho là Ngài đã ăn mà
không có răng, đi mà không có chân, bẻ bánh mà không có tay, nói mà không có lưỡi;
và để lộ một bên hông không có xương sườn!” - Thánh Jêrôme.
Kính thưa Anh Chị em,
Chiều ngày Phục Sinh, Chúa
Giêsu hiện ra cho các tông đồ, họ kinh hồn bạt vía, tưởng mình thấy ma. Bởi lẽ,
với họ, Ngài đã chết. Và nhất là vì thiếu hiểu biết Thánh Kinh, họ không thể
tin! Họ quên lời Thầy đã nói, “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ
cõi chết sống lại!”. Ơn gọi của Ngài là ơn gọi cứu độ, Ngài đến ‘để khổ đau’, để
chuộc lại và Chúa Cha quyền năng làm sao có thể để cho sự chết là tiếng nói cuối
cùng!
Chúa Giêsu Kitô đã chết và sống
lại. Đó chính là Mầu Nhiệm Vượt Qua! Nhiều lần, chúng ta nghe những lời này
nhưng không hiểu hết. Mầu Nhiệm Vượt Qua là nội dung các tông đồ rao giảng cho
thế giới. Rằng, Giêsu Kitô, Đấng Chúa Cha sai đến ‘để khổ đau’, chết đi vì tội
lỗi con người và đã sống lại, tiêu diệt tội lỗi, chiến thắng nó hầu cứu độ con
người.
Phêrô đã mạnh mẽ loan báo Mầu
Nhiệm này, “Đấng ban sự sống thì anh em giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Ngài sống
lại từ cõi chết!” - bài đọc một; Gioan cũng cao rao cùng một nội dung, “Chính
Ngài là của lễ đền tội chúng ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng
còn đền tội cho cả thế gian!” - bài đọc hai.
Trọng tâm toàn bộ các sách
Tin Mừng là Ơn Cứu Độ con người phát xuất từ Đấng Cứu Độ Giêsu, một Giêsu đã chết
vì con người và đã sống lại để con người có thể tái hưởng Nước Thiên Chúa. Không
ai vào đó đơn giản vì họ là người tốt; đúng hơn, bất cứ ai vào Nước Thiên Chúa
cũng chỉ nhờ hành động cứu độ chết và sống lại của Chúa Kitô.
Tin Mừng nói, Chúa Giêsu “mở
trí cho các ông hiểu Thánh Kinh”. Phải, hiểu biết Thánh Kinh là điều tối quan
trọng! “Ai không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô!” - Jêrôme. Ngài đã mở
ra những bí ẩn của Thiên Chúa mặc khải trong Thánh Kinh; chỉ cho họ hiểu rằng,
ơn gọi của Ngài cũng như của chính họ không thể loại trừ lời mời được gọi ‘để
khổ đau’. Mặc dầu khổ đau không tự nó cứu thoát; nhưng nó là con đường dẫn đến
vinh quang khi chúng ta thông phần vào thập giá của Ngài.
Anh Chị em,
“Đấng Kitô phải chịu khổ
hình!”. Không ai muốn khổ hình, nhưng một nghịch lý là không ai không gặp khổ
đau. Hãy đón nhận chúng như Chúa Kitô! Bạn và tôi không thể đón nhận Chúa Kitô
mà không đón nhận thập giá của Ngài, bạn cũng không nhận lấy thập giá nếu ở đó
không có Chúa Kitô. Thiên Chúa Cha muốn chúng ta nên một với Con Ngài, kết hợp
với hy tế của Ngài trong mọi biến cố đời mình để cùng Ngài, trở nên hy tế cho
tha nhân. Một số tín hữu nghĩ, họ sẽ làm được một việc lớn lao nào đó cho Chúa,
nhưng tất cả những gì Chúa cho phép họ làm là ‘chịu khổ đau’. Mỗi người đều có
một câu chuyện khác với người khác, nhưng mọi người đều có chung câu chuyện khổ
đau. Nhưng ai biết thông phần vào thập giá Chúa Kitô, mặc dù ‘nước sâu’, tất cả
đều có thể ‘qua bờ bên kia!’.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con tìm
an nhàn; cho con biết, với Chúa, con chỉ cứu độ được con, cứu độ anh chị em con
nhờ thông phần vào sự chết và sự sống lại của Ngài!”, Amen.
Thứ hai: Cv
6, 8-15; Ga 6,22-29
CƠN ĐÓI CỦA LINH HỒN
“Hãy ra công làm việc không
phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc
trường sinh!”.
Allen Gardiner trải qua nhiều
gian khổ khi truyền giáo tại Picton, cực nam Nam Mỹ. Năm 1851, ở tuổi 57, ông
qua đời. Thi thể ông được tìm thấy với cuốn nhật ký ghi lại những trải nghiệm về
đói, khát và cô đơn. Dòng cuối cùng cho thấy sự vật lộn của bàn tay run rẩy khi
ông cố sức để viết cho dễ đọc, “Tôi choáng ngợp với cảm giác về sự tốt lành của
Thiên Chúa, và đó là điều duy nhất thoả mãn cơn đói của linh hồn!”.
Kính thưa Anh Chị em,
‘Cơn đói của linh hồn’
Gardiner được Chúa Giêsu chỉ ra trong Tin Mừng hôm nay, đó là “đói chính Ngài,
sự tốt lành của Thiên Chúa!”. Ngài là “Lương thực thường tồn đem lại phúc trường
sinh!”. Vậy bạn đang nỗ lực làm việc cho lương thực nào? Loại “mau hư nát?”,
hay loại “thường tồn?”.
Nhìn chung quanh, chúng ta
nhận ra rằng, có rất nhiều nguồn cung cấp ‘lương thực’ không đến từ Thiên Chúa
và xem ra, chúng có vẻ hấp dẫn. Một số người nuôi dưỡng bản thân bằng tiền bạc;
số khác, bằng thành công và danh tiếng; số khác nữa, bằng quyền lực và kiêu
hãnh. Vậy mà, ‘lương thực’ đích thực thoả mãn ‘cơn đói của linh hồn’ chỉ có thể
là Giêsu, ‘Lương Thực’ đến từ trời!
Chúa Giêsu coi trọng “lương
thực hay hư nát” cho nhu cầu thể chất; Ngài không chịu được cảnh hàng ngàn người
phải đói giữa đồng vắng. Ngài cho họ ăn, chữa lành bệnh tật; Ngài kêu gọi người
giàu chia sẻ cho người nghèo. Tuy thế, Ngài cũng tiết lộ cho chúng ta một chân
trời không thuộc thế giới này; Ngài muốn chúng ta đi đến tận cuối chân trời đó,
ở đúng vị trí của Ngài, để có thể nhìn thấy vinh quang “Con Một của Chúa Cha”,
cũng là “lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”, chính Ngài! Ngài kêu
gọi những kẻ kiếm tìm Ngài hãy để cho mình đói một cơn đói sâu xa hơn, cơn đói
tinh thần, ‘cơn đói của linh hồn’ mà chỉ mình Ngài có thể thoả mãn. Đó là tin
vào Ngài.
Têphanô, người đã được Thánh
Thần dẫn đến tận cuối chân trời đó. Kìa! Ông ngước mắt lên và nhìn thấy “vinh
quang Thiên Chúa và Đức Giêsu đứng bên hữu”. Ở đó, ‘cơn đói của linh hồn’ vị
phó tế được no thoả; người ta thấy “mặt ông như mặt thiên sứ” - bài đọc một.
Anh Chị em,
“Hãy ra công làm việc không
phải vì lương thực mau hư nát!”. Khi chúng ta ra công làm việc, phép lạ ‘bánh hoá ra nhiều’ vẫn
tiếp tục xảy ra. Nhưng như những người đương thời với Chúa Giêsu, bạn và tôi
hãy không ngừng hỏi, “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa
muốn?” và chúng ta hãy nghe cho được câu trả lời của Chúa Giêsu, “Hãy tin vào Đấng
Người đã sai đến!”; nói cách khác, “Hãy đói khát Giêsu!”. Thú vị thay, chính
Chúa Giêsu cũng đang thực sự đói khát chúng ta; Ngài mong chờ tình yêu của của
chúng ta. Ước gì, chúng ta không ngừng tìm đến với Chúa Giêsu, chuyên cần rước
lấy Thánh Thể Ngài; vì chỉ nơi Ngài, ‘cơn đói của linh hồn’ mới được thoả mãn;
cũng chỉ nơi Ngài, ‘cơn đói của Ngài, của Thiên Chúa và của con người’ được no
thoả!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cho con biết đói
khát Chúa vì biết rằng, Chúa cũng đang đói khát linh hồn con!”, Amen.
Thứ ba: Cv 7,
51-8,1a; Ga 6,30-35
NO THOẢ VÔ TẬN
“Ai đến với tôi, không hề phải
đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”.
Cha linh hướng của chị Catarina
Siêna kể, “Một hôm, có việc phải đi sớm, tôi không dâng lễ. Chiều về, Catarina
đến thưa, “Thưa cha, con đói lắm!”. Tôi hiểu, chị muốn rước Chúa. Tôi nói, “Nhọc
lắm, không dâng lễ được”. Catarina buồn bã rời đi; nhưng vài phút sau, trở lại,
thưa như trước. Không thể cầm lòng, tôi ra kéo chuông và dâng lễ. Lạ lùng thay,
khi vừa bẻ Mình Thánh làm hai, một nửa trong tay tôi biến mất. Tôi lo sợ tìm kiếm,
nhưng Catarina nói, “Chúa đã đến với con!”. Quả thực, lúc ấy, mặt chị sáng như
mặt thiên thần”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Con đói lắm!”. Cơn đói của
chị thánh Catarina Siêna - ‘cơn đói của linh hồn’ - sẽ được Chúa Giêsu khai triển
trong Tin Mừng hôm nay. Ngài nói đến cơn đói siêu nhiên; đồng thời, nói đến
“lương thực thường tồn”, đem lại sự ‘no thoả vô tận!’.
Trước hết, thật hữu ích khi
bạn và tôi xem xét những lời của Chúa Giêsu trong bối cảnh của nó. Kìa, mới hôm
qua, Ngài làm phép lạ bánh cá hoá nhiều để nuôi hàng ngàn người; và bây giờ, họ
muốn điều đó tái diễn. Nhân dịp này, Chúa Giêsu bắt đầu dạy họ về Bí tích Thánh
Thể và Ngài cũng muốn làm như thế cho bạn và tôi!
Vậy bạn đói khát điều gì nhất?
Có lẽ bạn có nhiều thức ăn, hoặc cũng có thể là không. Nhưng như Catarina, một
khi xác định được cơn đói sâu xa nhất của mình ngay giờ này - đói Giêsu - bạn
hãy cho phép Ngài nói với bạn về “Bánh Ban Sự Sống”. Hãy nói với Ngài, “Đó đúng
là cơn đói của con!”. Sau đó, hãy để linh hồn lắng nghe Ngài, “Ta muốn ban cho
con nhiều hơn nữa. Ta là những gì con thực sự mong đợi. Hãy đến với Ta, con sẽ
‘no thoả vô tận!’”. Đây là nội dung diễn từ Chúa Giêsu đã nói với đám đông
đương thời trong suốt chương 6 Tin Mừng Gioan.
Đừng quên, Thánh Thể có khả
năng biến đổi bạn ở mức độ sâu xa nhất! Bởi lẽ, chúng ta thường đến với Bí tích
này cách uể oải và hay sao nhãng; kết quả là, bạn và tôi thường không thực sự
tiếp nhận Chúa Giêsu ở mức độ mang lại niềm vui, sự phấn khích, cũng như sự ‘no
thoả vô tận’ sâu sắc nhất. Như Catarina Siêna, Têphanô - mặt sáng như mặt thiên
thần - cho thấy sự no thoả đó khi ông sắp phó linh hồn cho Chúa, “Kìa, tôi thấy
trời mở ra và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” - bài đọc một. Thánh Vịnh đáp
ca có chung một tâm tình, “Trong tay Ngài, lạy Chúa, con xin phó thác hồn
con!”.
Anh Chị em,
“Ai đến với tôi, không hề phải
đói!”. Thánh Thể, Bánh Ban Sự Sống cho con người không còn phải đói chính là
Chúa Kitô. Đó là quà tặng có khả năng không chỉ nâng đỡ tâm hồn và thể xác mà
còn lôi kéo chúng ta vào những niềm vui lớn nhất của thiên đàng. Bánh Ban Sự Sống
mang lại ý nghĩa và niềm hy vọng cho hành trình thường xuyên quanh co của cuộc
sống; đồng thời, trao cho chúng ta một nhiệm vụ - đến lượt chúng ta - làm thoả
mãn cơn đói tinh thần và vật chất của anh chị em mình, bằng cách loan báo Tin Mừng
cho khắp thế giới. Nhờ đó, linh hồn bạn và linh hồn bao người được ‘no thoả vô
tận’.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con đói lắm! Bao
anh chị em con trong thế giới này đói lắm! Cho con no thoả Chúa và con sẽ đi đến
tận mút chân trời, mang Chúa đến cho anh chị em con!”, Amen.
Thứ tư: Cv 8,1b-8; Ga 6,35-40
KHÔNG GÌ LẤP ĐẦY
“Tất cả những kẻ Chúa Cha đã
ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai!”.
“Tôi có cảm tưởng dường như
trong tim tôi có một lỗ hổng lớn; và tôi không thể lấp đầy nó bằng bất cứ thứ
gì!”. Đó là cảm nhận của một cô gái trẻ vừa trở lại với các Bí tích sau nhiều
năm. Chúa Kitô không cho phép bất cứ điều gì lấp đầy trái tim cô! Nó đang khao
khát Ngài, một khát khao cháy bỏng. Trái tim cô thuộc về Ngài, và chỉ một mình
Ngài!
Kính thưa Anh Chị em,
Hẳn cô gái trẻ mà ‘không gì
lấp đầy’ trái tim cô đã hiểu rất rõ câu nói của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm
nay, “Tất cả những kẻ Chúa Cha đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai!”. Gặp
lại Chúa Kitô, ngụp lặn trong lòng thương xót của Ngài, cô trải nghiệm một điều
gì đó thật vĩnh cửu.
Được tạo dựng cho vô biên, mỗi
người có một khao khát bên trong; cơn khát đó có tên ‘Lỗ Hổng’ của trái tim. Dù
nhỏ hay không quá nhỏ, nó vẫn là một lỗ hổng ‘có kích cỡ bằng Chúa Kitô!’ và nó
thuộc về Ngài. Ngài không cho phép bất cứ điều gì khác lấp đầy! Vậy nếu điều
đáng khao khát thực sự của trái tim bạn là Chúa Kitô, thì thử hỏi, điều gì có
thể ngăn cản bạn và tôi đến với Ngài? Phải chăng đó là kiêu hãnh, lười biếng
tinh thần, hay hời hợt thiêng liêng? Vậy mà, đằng sau những lý do ấy, thường là
một nỗi sợ. Sợ mở lòng cho Chúa Kitô! Bởi lẽ, chúng ta thường nghĩ rằng, mở
lòng cho Ngài, tôi sẽ thua cuộc! Chính xác! Đó là nỗi sợ đụng chạm đến cái tôi
của mình.
“Đừng sợ Chúa Kitô! Ngài
không lấy gì đi, nhưng ban cho bạn tất cả. Hãy dâng toàn thân cho Ngài, chúng
ta sẽ nhận lại gấp trăm. Vâng. Hãy mở ra, mở rộng những cánh cửa cho Chúa Kitô
và bạn sẽ tìm thấy sự sống đích thực!” - Bênêđictô XVI. Trải nghiệm ‘mở ra’ này
cũng là trải nghiệm của Saolô. Đó là một biệt phái cuồng tín, đã từng lầm lạc đến
nỗi giết chóc Hội Thánh; một con người hãnh tiến, kiêu ngạo và mù quáng - bài đọc
một. Thế nhưng, một khi mở ra cho Chúa Kitô, Saolô - nay là Phaolô - không còn
là mình, nhưng trở nên một lợi khí của Ngài. Nhờ Phaolô, Hội Thánh mừng vui,
dân ngoại vui mừng và hoàn vũ hân hoan, “Cả trái đất, hãy tung hô Thiên Chúa!”
- Thánh Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Tôi sẽ không để mất một
ai!”. Chúa Giêsu không để mất một ai, kể cả những kẻ chống đối Ngài, giết Ngài.
Ngài đến tìm kiếm một nhân loại hư mất; trong đó, có những con người đã mất hoặc
trên đà hư mất. Ngài tìm Matthêu, Giakêu; tìm người phụ nữ Samaria; tìm thiếu
phụ ngoại tình; tìm biệt phái Nicôđêmô, Saolô. Và đến cuối đời, Ngài kịp tìm
người trộm lành. Hãy để cho Ngài nhận ra bạn! Nói cho Ngài ‘nơi’ bạn và tôi
đang hư mất! ‘Không gì lấp đầy’ trái tim chúng ta ngoài Ngài, Đấng không cho
phép bất cứ điều gì khác lấp đầy nó! Thú vị thay, đây cũng là ước vọng của
chính Thiên Chúa, Đấng sở hữu muôn loài lại ước ‘được lấp đầy’ bởi bạn và tôi.
Hãy để cho ‘giấc mơ kép’ của Ngài thành hiện thực bằng cách làm rỗng trái tim để
Ngài tự do yêu bạn, sử dụng bạn, lấp đầy bạn! Và ngược lại, hãy lấp đầy trái
tim Ngài bằng tình yêu của trái tim bạn!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, không được lấp đầy
bởi Chúa, trái tim con sẽ được lấp đầy bởi những thứ khác. Cho con biết, con
thuộc về ai. Hãy lấp đầy con, và con sẽ lấp đầy Chúa!”, Amen.
Thứ năm: Cv 8,26-40; Ga 6,44-51
ĐƯỢC LÔI KÉO
“Chẳng ai đến với tôi được,
nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy!”.
“Lo lắng là lãng phí thời
gian hôm nay, xáo trộn các cơ hội của ngày mai với những rắc rối của ngày hôm
qua! Đang khi điều đáng lo nhất là lúc bạn nghĩ rằng, tự sức bạn, bạn làm được
mọi sự! Bạn quên Thiên Chúa là Đấng trợ giúp bạn. Bạn luôn ‘được lôi kéo’ về
phía Ngài!” - Anon.
Kính thưa Anh Chị em,
“Bạn luôn ‘được lôi kéo’ về
phía Ngài!”. Đó là một nguyên tắc tuyệt vời trong đời sống thiêng liêng mà Tin
Mừng hôm nay tiết lộ. Từng từ một, Chúa Giêsu xác định rất rõ, “Chẳng ai đến với
tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy!”.
“Chẳng ai đến được với tôi”
nghĩa là chẳng ai tự sức mình có thể sống đức tin, lớn lên trong đức tin vào
Chúa Kitô! Vì thế, Thiên Chúa luôn đi bước trước; Ngài không ngừng vươn tới,
không ngừng nói, không ngừng cuốn hút và khơi lên cơn khát tâm linh trong trái
tim mỗi người. Phần chúng ta, không phải thụ động chờ Chúa ra tay, nhưng luôn tỉnh
thức, lắng nghe và đáp lại Ngài. Vì vậy, bạn và tôi cần hoà mình vào lời ‘tán tỉnh’
nhẹ nhàng và tiếng thầm thì của Thánh Thần. Điều này thường xảy ra dưới hình thức
ân sủng, vốn tinh tế, thúc giục, gọi mời những ai biết mình được Chúa Cha lôi
kéo.
Trong một thế giới bận rộn vốn
tài tình trong việc khiến chúng ta “lãng phí thời gian hôm nay, xáo trộn các cơ
hội của ngày mai với những rắc rối của ngày hôm qua”, chúng ta phân tâm! Tiếng
thì thầm của Thiên Chúa lại hoàn toàn khác. Chúng chỉ được lắng nghe qua im ắng
nội tâm, dẫu không cần ai đó phải ở trong một tu viện. Chỉ cần bền bỉ cầu nguyện
và hình thành thói quen hướng về Chúa mọi lúc, bạn sẽ cảm nhận ân phúc này. Và
điều đó sẽ đạt được khi mỗi người biết làm đi làm lại thói quen tốt lành này!
Câu chuyện viên thái giám của
nữ hoàng Êthióp là một ví dụ - bài đọc một. Thần Khí nói với Philipphê, “Tiến
lên, đuổi kịp xe đó!”. Philipphê tiến lên, được mời lên xe, giảng giải Thánh
Kinh, nói về Chúa Giêsu cho ông; sau cùng, là phép rửa. Vị quan này ‘được lôi
kéo’ qua vị tông đồ. Đây quả là việc của Thánh Thần! Thật thú vị, bản thân
Philipphê cũng ‘được lôi kéo’; ông tiếp tục hành trình, lòng hỷ hoan. Mọi thành
ông đi qua được rao giảng Tin Mừng. Thánh Vịnh đáp ca diễn tả, “Cả trái đất,
hãy tung hô Thiên Chúa!”.
Anh Chị em,
“Chẳng ai đến với tôi được,
nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy!”. Tiếng của thần dữ
lôi kéo bao giờ cũng dễ nghe hơn tiếng của thần lành, tiếng của vật chất bao giờ
cũng hấp dẫn hơn tiếng của Thiên Chúa. Vì thế, Ngài phải đi bước trước. Vấn đề
là liệu chúng ta có sẵn sàng và cởi mở như viên thái giám - một gương mẫu đáng
yêu - để lắng nghe và hoà mình trong lời ‘tán tỉnh’ nhẹ nhàng của Ngài không.
Tuy nhiên, lời ‘tán tỉnh’ không phải luôn êm ái, lắm lúc nó nổ ran như sấm rền.
Chớ gì bạn và tôi đủ bình tâm trước mọi biến cố, mọi vấn đề; luôn ý thức, “tôi
không tự sức làm được mọi sự”, hầu có thể cảm nghiệm sự chèo kéo của Ngài. Bởi
lẽ, nếu không cảm nhận ‘được lôi kéo’ bởi Chúa, bạn dễ dàng buông mình cho vô
vàn chèo kéo thế gian!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, lôi con về phía
Chúa mỗi ngày, hầu con đủ sức kéo người khác về phía Chúa! Và con cảm nhận đang
‘được bay bổng’ bởi ân sủng từ trên!”, Amen.
Thứ sáu: Cv 9,1-20; Ga 6,52-59
LỐC THÁNH THẦN
“Saun, Saun, sao ngươi bắt bớ
Ta?”.
Trong một bữa tiệc, Mark
Twain ngồi đối diện với một mệnh phụ xinh đẹp nhưng xem ra khá kênh kiệu. Ông
nói, “Cô thật xinh!”. Phụ nữ ấy không hề cảm kích mà còn khích nộ, “Rất tiếc,
không cách nào để tôi có một lời khen tương tự dành cho ông!”. Mark Twain bình
thản, “Không sao cả, cô có thể nói một điều gì đó ‘hơi dối’ như tôi vậy!”. Nghe
xong, cô ấy xấu hổ, cúi mặt và nói lí nhí, “Tôi, một con người cao ngạo, thành
thật xin lỗi ông!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Nếu hai tuần qua, chúng ta mục
kích những hoạt động của Thánh Thần trên các tông đồ, những con người ‘được ru
hời’ khi họ để mình ‘cuốn theo chiều gió’ Thánh Linh, thì trình thuật Phaolô -
“một con người cao ngạo” - bị quật ngã và trỗi dậy hôm nay là một cái gì khốc
liệt hơn, chớp nhoáng hơn và mạnh mẽ hơn. Nó được gọi là ‘lốc Thánh Thần!’.
“Saun, Saun, sao ngươi bắt bớ
Ta?”, tiếng sấm từ trời ấy đã hỏi một con người nửa tỉnh nửa mê đang ngã quỵ; một
người ‘cuồng nhiệt’ mang dáng dấp một kẻ ‘cuồng tín!’. Saun đâu biết, nhiệt
thành với điều thánh thiêng không luôn đồng nghĩa với một con tim rộng mở trước
Thiên Chúa. Saun gục ngã; nhưng may thay, lốc dịu lại và gió Thánh Thần lại
nâng ông lên. Dẫu sợ hãi, nhưng tâm hồn Saun bắt đầu mở ra để ân sủng được ban
xuống cho một phẩm giá được phục hồi. Vậy mà, tất cả những điều ấy chỉ xảy ra
ngang qua sự khiêm nhường của một con người đã từng cao ngạo cuồng tín đáng
thương.
Hành trình của Saun là hành
trình của một người dám để Chúa biến đổi trái tim mình. Tiếng sấm từ trời không
chỉ tra vấn Saun, nhưng còn mời ông “Đứng lên!”. Đứng dậy, Saun biết mình đã
mù, ông đưa tay cho người ta dắt. Từ đó, tim ông mở ra và Thánh Thần đã biến
Saun thành một “Phaolô” khiêm hạ. Cũng từ đó, Phaolô thi hành sứ mệnh mới, “Hãy
đi khắp tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin Mừng!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Phaolô không còn là mình,
nhưng đã nên một với Chúa Kitô, “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà Chúa
Kitô sống trong tôi!”. Tin Mừng hôm nay nói đến việc nên một - ở lại trong Chúa
Kitô - nhờ việc rước Mình Máu Ngài, “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại
trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy!”. Chớ gì ‘lốc Thánh Thần’ không chỉ thổi
tróc những cao ngạo của bạn và tôi nhưng còn ‘lôi kéo’ chúng ta đến với Thánh
Thể hầu có thể nên một với Chúa Kitô mỗi ngày!
Anh Chị em,
“Sao ngươi bắt bớ Ta?”. Một
khi mời gọi ai, Thiên Chúa luôn luôn tra vấn người ấy. Và Ngài cho phép xảy ra
những gì cần thiết vốn chỉ nhằm giúp người ấy trở nên khiêm tốn để có thể mở rộng
con tim cho Ngài. Thế nhưng, chúng ta đừng quên, nhân vật chính ở các câu chuyện
của những con người được ‘lốc Thánh Thần’ không phải là các “đương sự” nhưng là
Chúa Thánh Thần. Nhân vật chính trong Giáo Hội là Thánh Thần; chủ thể của các
câu chuyện trong Tông Đồ Công Vụ là Thánh Thần. Ngài không ngừng hà hơi và nếu
cần, tạo nên những cơn lốc. Có thể đó là việc quật ngã sự nhiệt thành cuồng tín
hay một ý chí lệch lạc; cũng có thể là đánh sập một sự cao ngạo hay tự phụ nơi
một ai đó. Tất cả như để dọn đường cho những kế sách Ngài đang hoạch định.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa Thánh Thần, cứ thổi
tróc cao ngạo của con, nhưng đừng quên nâng con lên, cho con được ru hời hầu có
thể trở nên con người Chúa muốn con trở thành!”, Amen.
Thứ bảy: Cv 9,31-42; Ga 6,51.60-69
CHƯỚNG TA
“Lời này chướng tai quá! Ai
mà nghe nổi?”.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay cho thấy sự
tương phản của dân chúng thời Chúa Giêsu và thời các tông đồ. Cả hai bài đọc
nói đến thuận lợi của trò, bất lợi của Thầy; thành quả của trò, thất đoạt của
Thầy. Bằng chứng là dân tuôn đến trò, dân rời bỏ Thầy; vì lẽ Lời Thầy “chướng
tai quá! Ai mà nghe nổi?”.
Hội Thánh sơ khai phớn phở
như ngày tết vì Phêrô đi đến đâu phép lạ xảy ra đến đó. Kìa, Ênê bất toại được
lành; Tabitha, người chết biết đi. Hội Thánh Giuđê, Galilê, Samari, Lốt, Saron
và Giaphô vui mừng, nhiều người tin theo. Đang khi với Chúa Giêsu, bối cảnh khá
ê chề, vì không ít người nói, “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?”; để rồi,
“Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa”. Mục kích phép lạ
nhưng quan trọng là lòng tin, điều phải đến sau đó! Con người mọi thời luôn chạy
theo các dấu lạ tức thời, đang khi điều thiết yếu là tin nhận những gì các dấu
lạ nhắm đến: tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu, “Thầy là Đấng Thánh của Thiên
Chúa!”.
Ở mọi thời, Lời Chúa luôn
gây sốc; Tin Mừng luôn là điều khó hiểu, khó chịu và nhất là khó sống. Theo
Chúa suốt đời, nhưng Kitô hữu vẫn phải đặt mình trước Lời để chọn lựa mỗi ngày,
một chọn lựa căn bản cần làm mới lại thường xuyên ngang qua các chọn lựa nhỏ.
Kitô hữu mất đức tin bởi không dám sống niềm tin cũng như không đáp lại những
thách thức của niềm tin; vì Lời Chúa là “gươm hai lưỡi, dò xét tâm hồn và thử
thách tâm can”. Vậy mà, ở mọi thời, vẫn có nhiều người khôn ngoan mà với họ, “Bỏ
Thầy, chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời!”.
Lời Chúa tuy khó nghe, nhưng ban sự sống; dẫu ‘chướng tai’, nhưng là thần khí
chiếu rọi.
Cũng có một số người bỏ Chúa
không vì Lời Chúa ‘chướng tai' nhưng vì Kitô hữu sống ‘gai chướng!’. Những gì họ
nghe người đạo gốc nói, những gì họ thấy người đạo dòng làm, họ hồ nghi và mất
niềm tin. Không ít người dè bĩu và khoá chặt trái tim!
Một anh đạo dòng biết người
láng giềng của mình là một ông già cực đoan vốn tự xưng là vô thần. Anh tìm
cách tiếp xúc, kết bạn, giới thiệu Chúa và thành công trong việc tặng ông già một
cuốn Thánh Kinh, lòng đầy hy vọng. Ông hàng xóm vui vẻ nhận và hứa đọc. Sau một
thời gian, tình cờ anh ghé thăm, thấy cuốn Thánh Kinh nằm trong xó dưới sàn
nhà. Rất đỗi ngạc nhiên, anh hỏi, “Sao cuốn sách nằm đây? Ông có đọc nó
không?”. Ông hàng xóm lạnh nhạt đáp, “Mỗi ngày tôi đọc cuộc sống anh, tôi đâu cần
đọc thêm nó!”.
Anh Chị em,
“Tôi đọc cuộc sống anh!”. Bạn
và tôi có cả hồng ân lẫn trách nhiệm trong việc sống và thông chuyển Lời Chúa
cho người khác, hầu dẫn họ tin theo Ngài! Tại sao người vô thần kia lại lạnh
lùng đến thế? Hãy đọc những lời của cha Flor McCarthy: “Tôi là cuốn Thánh Kinh
đối với người hàng xóm; người ấy đọc tôi mỗi ngày. Người ấy đọc tôi trong nhà
tôi; đọc tôi trên đường. Người ấy là họ hàng, một người bạn, hoặc chỉ là một
người quen biết sơ giao. Cũng có thể người ấy không biết tên tôi; tuy nhiên,
anh ta vẫn đang đọc Thánh Kinh qua cuộc sống tôi!”. Bạn và tôi có trở nên Lời của
Chúa, Lời bình an, Lời yêu thương?
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, mỗi ngày, Chúa ‘hào hoa’ gieo Lời, con ‘hào hiệp’ hứng Lời; cho con dám ‘hào hùng’ sống Lời, hầu nó có thể mọc và đơm hoa kết trái trong các tâm hồn!”, Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét