Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 16 tháng 4, 2024

 SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN IV PHỤC SINH

Lm. Nguyệt Giang

CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH-CHÚA CHĂN CHIÊN LÀNH

Cv 4, 8-12; 1Ga 3,1-2; Ga 10,1-18

Suy niệm 1: CHÂN DUNG NGƯỜI MỤC TỬ NHÂN LÀNH

Hôm nay Chúa nhật IV phục sinh, GH tôn kính Chúa Giêsu là mục tử nhân lành. Ngày cầu nguyện đặc biệt cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Chúa Giêsu quả là vị mục tử nhân lành vì Ngài biết, chăm sóc, bảo vệ và sẳn sàng hy sinh mạng sống mình để cho chiên được sống và sống dồi dào.

Xin Chúa ban cho quý linh mục tu sĩ luôn trung thành và nhiệt tâm với ơn gọi và sứ vụ Chúa trao ban; ta cũng nguyện cầu cho mỗi người chúng ta luôn là chiên ngoan của Chúa qua việc lắng nghe và hăng hái bước theo sự hướng dẫn của Chúa Giêsu Phục sinh, vị mục tử nhân lành. 

Tin mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu đã khắc họa đậm nét bức chân dung đích thực của người mục tử nhân lành. Chân dung ấy đã được Chúa Giêsu chấm phá bằng những đường nét hết sức tinh tế và sống động như: “biết chiên” (x. Ga 10,11); “hy sinh vì chiên” (x. Ga 10,14); “quan tâm chăm sóc chiên” (x. Ga 10,10); “thao thức tìm kiếm và hiệp nhất đoàn chiên”…

Trong nhiều đường nét tinh tế ấy, nếu chiêm ngắm kỹ, ta sẽ bắt gặp hai đường nét chủ đạo, làm nên cái hồn của bức chân dung người Mục Tử Nhân Lành. Hai nét chủ đạo ấy là: “biết chiên” và “hy sinh cho đàn chiên”.

- Biết chiên: Để trở nên người mục tử nhân lành, trước hết phải “biết” rõ chiên mình: Biết từng con chiên một chứ không phải biết chung chung, nhưng là cái biết sâu xa, gắn kết như máu thịt, như hồn và xác theo nghĩa thánh kinh vậy. Biết khi nào chiên đói để cho ăn; khi nào chiên khát để cho uống. Biết con chiên nào lạc đàn để tìm về; con nào gặp nguy hiểm để tiếp cứu. Luôn chạnh lòng thương đối với những con chiên đang trong tình trạng mệt mỏi để dắt dìu; hằng bận tâm chăm sóc cứu chữa cho những con chiên đang trong tình trạng đau yếu và bệnh tật.

- Hy sinh vì đàn chiên: Có thể nói hy sinh chính là đường nét thứ hai làm nên cái hồn của bức chân dung người mục tử nhân lành. Sức hấp dẫn và lôi cuốn nơi bức chân dung người mục tử nhân lành chính là hết lòng “hy sinh” cho đoàn chiên: Hy sinh sức khỏe, thời giờ để đi tìm kiếm đồng cỏ xanh tốt; ra sức khai thác nguồn nước mát trong lành cho chiên được uống no thỏa. Không quản khó nhọc để tắm rửa cho chiên được sạch sẽ; sẵn sàng thức khuya dậy sớm để đưa chiên đi ăn và tối đưa chiên về nghỉ ngơi. Chấp nhận hy sinh giấc ngủ để canh giữ cho đoàn chiên được an giấc. Trên hết là anh dũng dám liều mạng sống mình chống lại sói dữ, trộm cướp để bảo vệ cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. (x.Ga 10,16).

Khác hẳn với những kẻ chăn thuê. Kẻ chăn thuê thì chẳng tha thiết gì với đàn chiên, khi gặp nguy hiểm là lập tức anh ta bỏ chạy lấy thân, mặt cho đàn chiên tan tác. Kẻ chăn thuê chỉ nhắm đến lợi ích bản thân mình, nên không quan tâm gì đến sức khỏe và sự sống của đàn chiên, bởi lẽ đàn chiên không phải của anh ta.

Chúa Giêsu không chỉ khắc họa chân dung tuyệt mỹ về người mục tử nhân lành bằng lời nói suông, bằng những nét vẽ vô hồn. Nhưng Người còn khắc họa bức chân dung ấy bằng chính đời sống. Trong suốt ba năm rao giảng Tin mừng, người đã cứu chữa biết bao người bệnh tật về thể xác và bao dung tha thứ cho bao người đau khổ về tâm hồn. Mà đỉnh cao là cái chết đau thương trên thập giá. Trên đỉnh cao thập giá ấy, Chúa Giêsu đã đổ hết máu và nước mình ra để hoàn thiện nét vẽ cuối cùng làm nên bức chân dung mục tử không thể hoàn hảo hơn. Vì thế, Ngài không ngần ngại tự xưng mình là vị Mục Tử Nhân Lành, chẳng những cho dân Israel mà cho toàn thể nhân loại ( x Ga 10,11-16). “Tôi chính là mục tử nhân lành, mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11). “Tôi chính là mục tử nhân lành, Tôi biết chiên của Tôi và chiên Tôi biết Tôi” (Ga 10,15). “Để nhờ danh Người mà chúng ta được ơn cứu độ” (x. Cv 4,12).

Hiểu theo một nghĩa nào đó, thì cha mẹ cũng chính là mục tử nhân lành nơi gia đình và là chủ chăn của con cái mình. Vì thế, cha mẹ cũng được kêu gọi trở nên người mục tử nhân lành theo mẫu gương của Chúa Giêsu.

Xin cho bậc làm cha mẹ biết quan tâm lắng nghe, tìm hiểu con cái để nhận ra tình trạng, tâm tư, nguyện vọng thầm kín…của chúng mà chia sẻ, chăm sóc và hướng dẫn chúng kịp thời. Biết kiến tạo gia đình mình trở thành mái ấm yêu thương hiệp nhất trong Chúa. Biết sẵn sàng hy sinh bảo vệ con cái mình khỏi sa vào lưới ba thù: xác thịt, thế gian, ma quỷ. Nhất là xin cho những bậc làm cha mẹ cũng biết hy sinh quảng đại dâng hiến những người con ưu tú của mình cho Chúa và Giáo hội trong ơn gọi tu trì, cũng như ước mong có nhiều bạn trẻ mạnh dạn dấn thân đáp lại tiếng Chúa kêu mờiAmen.

 

Suy niệm 2: CHÂN DUNG ĐÍCH THỰC CỦA NGƯỜI MỤC TỬ

Trong tin mừng Chúa Giêsu đã khắc họa lên bức chân dung đích thực của người mục tử nhân lành bằng nhiều đường nét tinh tế và sống động như: “hy sinh” (x.Ga 10,11); “hiểu biết” (x.Ga 10,14); “quan tâm lo lắng” (x. Ga 10, 10); “thao thức tìm kiếm”…

Trong nhiều đường nét tinh tế ấy, nếu chiêm ngắm kỹ, ta sẽ bắt gặp ngay hai đường nét chủ đạo, làm nên cái hồn của bức chân dung người Mục Tử Nhân Lành mà tin mừng hôm nay khắc họa. Đó là: “biết chiên” và “trao ban” cho chiên sự sống đời đời.

- Biết chiên: Để trở nên người mục tử nhân lành, trước hết phải “biết” rõ chiên mình: Biết từng con chiên một trong đàn. Biết khi nào chiên đói để cho ăn; khi nào chiên khát để cho uống. Biết con chiên nào lạc đàn để tìm về; con nào gặp nguy hiểm để tiếp cứu. Hơn thế nữa, người mục tử còn phải biết cảm thương những con chiên đang trong tình trạng mệt mỏi để dắt dìu và tận tâm yêu mến lo lắng những con chiên bị bệnh tật để tìm cách chữa trị… Cái biết của người mục tử nhân lành không theo kiểu cái biết của lý trí trên danh sách hay số liệu…mà là cái biết của trái tim, của tình thương. Bởi lẽ chỉ có cái biết trong tình yêu thì mới thấu hiểu, cảm thông, nâng đỡ, chăm lo cho nhau. Biết bằng yêu thương thì mới dám sống chết đoàn chiên của mình.

- Trao ban: Có thể nói “trao ban” sự sống đời đời, chính là nét nổi bậc thứ hai làm nên cái hồn của bức chân dung người mục tử nhân lành. Sức hấp dẫn và lôi cuốn nơi bức chân dung người mục tử chính là “trao ban” cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào: trao ban sức khỏe, thời giờ để đi tìm đồng cỏ xanh tốt; ra sức khai thác nguồn nước mát trong lành cho chiên uống no thỏa. Không quản khó nhọc để tắm rửa cho chiên được sạch sẽ; không ngần ngại thức khuya dậy sớm để đưa chiên đi ăn và tối đưa chiên về nghỉ ngơi. Sẵn sàng hy sinh giấc ngủ để canh giữ cho đoàn chiên được an giấc. Trên hết người mục tử nhân lành còn phải anh dũng dám liều mạng sống mình chống lại sói dữ và kẻ trộm để bảo vệ cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. (x. Ga 10, 16).

Chúa Giêsu không chỉ khắc họa chân dung tuyệt mỹ về người mục tử nhân lành bằng lời nói suông, bằng những nét vẽ vô hồn. Nhưng Người còn thể hiện bằng chính đời sống trong suốt ba năm rao giảng Tin mừng, mà đỉnh cao là cái chết đau thương trên thập giá. Trên đỉnh cao thập giá, Chúa Giêsu đã sẵn sàng đổ hết máu và nước mình ra hầu hoàn thiện nét vẽ cuối cùng làm nên bức chân dung mục tử không thể hoàn hảo hơn! Vì thế, Ngài không ngần ngại tự xưng mình là đấng Mục Tử Nhân Lành, chẳng những cho dân Israel mà cho toàn thể nhân loại ( x Ga 10,11-16). “Tôi chính là mục tử nhân lành, mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11). “Tôi chính là mục tử nhân lành, Tôi biết chiên của Tôi và chiên Tôi biết Tôi” (Ga 10,15). “Để nhờ danh Người mà chúng ta được ơn cứu độ” (x. Cv 4,12).

Phần chúng ta là chiên của Ngài thì chúng ta cần phải lắng nghe và sẵn sàng đi theo sự hướng dẫn của Ngài. Tựa như con cái cần nghe lời cha mẹ thì đoàn chiên cũng cần phải nghe lời Chúa.

Vậy ta nghe lời Chúa thế nào? Mỗi ngày ta dành bao nhiêu thời giờ để nghe lời Chúa? Khi tham dự thánh lễ không ta có để tâm nghe và sống lời Chúa không? Hay đi lễ cho có, cho qua. Nhưng chưa bao giờ ta ước muốn lắng nghe lời Chúa. Chỉ khi nào ta yêu mến Chúa thật sự, mới hy vọng ta mới có thể bó đời mình với Chúa và mới nghe theo sự hướng dẫn của Ngài.

Chúa Nhật này cũng là dịp đặc biệt để chúng ta cầu nguyện cho ơn thiên triệu, xin cho có nhiều người dâng hiến đời mình cho Chúa và Giáo Hội. Cầu xin cho Giáo hội có nhiều linh mục giống Chúa Giêsu mục tử nhân lành.

Cầu xin cho mỗi người trong chúng ta thật sự là chiên ngoan của Chúa qua việc tích cực lắng nghe lời Chúa chỉ dạy, gắn bó mật thiết đời mình với Chúa và can đảm bước theo con đường Chúa đã đi qua. Amen.

 

Suy niệm 3: LINH MỤC - NGƯỜI MỤC TỬ NHÂN LÀNH

“Công cuộc canh tân Hội Thánh cần được bắt đầu từ hàng Linh mục, vì thế, ước mong các Giám mục và Linh mục Việt Nam không chỉ là người quản trị giỏi, nhưng trước hết là người của Chúa và là những mục tử nhân lành”. (Sứ điệp Đại hội Dân Chúa Việt Nam 2010, số 5). Xin cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh là những chủ chăn đích thực như lòng Chúa mong ước, nhờ thế Hội Thánh Chúa được canh tân mỗi ngày nên tốt đẹp hơn.

Nhờ bí tích truyền chức, linh mục trở nên “Alter Christus” và được tham dự vào đức ái mục tử, tự hiến bản thân mình để phục vụ Hội Thánh theo gương hiến thân của Đức Kitô.

Như Đức Kitô đã cảm thương với dân chúng khi nhọc mệt, đuối sức ( x. Mt 9, 35-36; Ga 6, 15). Linh mục cũng phải biểu lộ lòng cảm thương của mình cách chân thành và cụ thể đối với mọi người mà mình gặp gỡ “anh em hãy vui với người vui, khóc với người khóc” ( Rm 12, 15).

Như Đức Kitô đã yêu mến những con chiên lạc đàn và vui mừng khi tìm gặp ( x. Mt 18, 12-14; Ga 8,11). Linh mục cũng phải tìm đến những ngưuời đang sống trong cô đơn thất vọng; những người tội lỗi, nhất là những người không mấy cảm tình với Giáo Hội…, vì họ cũng là đối tượng của lòng thương xót Thiên Chúa. “Con Người đến để tìm và cứu chữa những gì đã hư mất.” (Lc 19,10).

Như Đức Kitô hằng biết rõ và gọi tên từng người một (x.Ga 10,3). Linh mục phải nỗ lực quan tâm và phục vụ từng người trong Họ đạo mình, không loại trừ một ai.

Như Đức Kitô đã hy sinh hiến thân vì tình yêu nhân loại (x.Ga 10, 15). Linh mục cũng hãy yêu thương chăm sóc cộng đoàn mà Chúa trao phó. Người mục tử nhân lành không chỉ dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi và suối mát (x. Tv 23, 22),  mà còn phải nuôi dưỡng đàn chiên bằng chính sự sống mình qua việc hiến tế theo gương Chúa Giêsu (x.Ga 6, 56). Để có thể nói được như Chúa Giêsu đã nói: “Ta đến để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

Như ngọn nến cháy hao mòn theo tháng ngày để chiếu giãi ánh sáng; như hạt lúa mục nát để phát sinh sự sống mới, Linh mục cũng phải chấp nhận tiêu hao đời mình từng giây phút để phục vụ cộng đoàn dân Chúa. Người Linh mục giống Đức Kitô thì không trách khỏi qui luật “vượt qua” chết để được sống (x.Ga 12,25). Chính thánh Phanxicô Assisi cảm nghiệm quy luật này và đã thốt lên những lời nghịch lý trong bài ca bất hủ: “Chính lúc hiến thân là khi được nhận lãnh… Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.  Trên hết để thực hiện được vai trò người mục tử nhân lành, Linh mục phải có Đức Ái Mục Tử vì đó là nguyên lý và động lực thúc đẩy Linh mục sống xứng danh vai trò mục tử của mình.

Lạy Chúa Giêsu là mục tử tối cao, chúng con là những Linh mục bước theo Chúa trong vai trò người mục tử. 

Xin cho trái tim chúng con thuộc thuộc về Chúa và thuộc về mọi người. Xin cho trái tim chúng con biết yêu bằng tình yêu hiến dâng. Xin cho trái tim chúng con mở rộng đủ lớn để chứa mọi người và từng người một. Xin cho chúng  con có trái tim của Chúa để con say mê Chúa và say mê con người. Xin cho chúng con luôn yêu Chúa, vì khi yêu Chúa chúng con mới sẵn sàng hy sinh đời mình bảo vệ đoàn chiên và dẫn đưa đoàn chiên đến với Chúa là nguồn sống đích thực. Amen.

 

Suy niệm 4: KHẮC HỌA HÌNH ẢNH NGƯỜI MỤC TỬ NHẦN LÀNH

Hàng năm GH dành ngày Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh để suy tôn Chúa Giêsu vị Mục Tử tối cao. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết: Đức Giêsu chính là vị Mục tử nhân lành, Ngài biết rất rõ từng con chiên, Ngài yêu thương chăm sóc, gìn giữ đàn chiên cẩn thận, nhất là sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để cho chiên được sống và sống dồi dào.

 Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và Tu sĩ, chúng ta hãy sốt sắng hiệp dâng Thánh Lễ. Xin Chúa ban cho nhiều bạn trẻ biết quảng đại đáp lại tiếng Chúa mời gọi hiến mình trong ơn gọi Linh mục và Tu sĩ.

Xin cũng cho mỗi người chúng ta trở thành chiên ngoan của Chúa, biết lắng nghe tiếng Chúa, sẵn sàng dấn thân làm chứng nhân cho tình yêu của Chúa giữa dòng đời.

Bài đọc I, trích sách Cv cho ta biết, sau khi Phêrô chữa cho người què từ mới sinh được lành bệnh, ngài cùng với ông Gioan bị điệu đến Thượng hội đồng Do thái về việc chữa lành người què và vì việc ấy  đã phạm đến cấm kỵ không cho phép người tàn tật vào đền thờ.

 Trước Thượng hội đồng, Phêrô xác nhận người què ấy được khỏi không phải do quyền phép gì riêng của ông mà chỉ nhờ danh Đức Giêsu, Đấng mà họ đã giết chết nhưng Thiên Chúa đã cho sống lại.

 Lợi dụng dịp này, Phêrô giảng về Đức Giêsu : Ngài là viên đá bị những người thợ xây loại bỏ , nhưng Thiên Chúa dùng Ngài làm viên đá góc. Trên trần gian này khó có một Đấng cứu độ nào khác ngoài Đức Giêsu Kitô, nhờ danh Ngài mà mọi người được ơn cứu độ.

 Bài đọc II, trích thư thứ nhất của Thánh Gioan tông đồ. Thánh Gioan nói đến mức độ vô cùng lớn lao của tình yêu Thiên Chúa dành cho tín hữu. Ngài nói về tình yêu tuyệt vời mà Thiên Chúa bầy tỏ cho chúng ta biết là cho chúng ta trở nên những con cái của Ngài. Và tình trạng tương lai của chúng ta sẽ được trở nên giống như Đức Giêsu vinh quang.  Bài học này mời gọi chúng ta hãy vui lên trong tình trạng của mình, với tư cách là những dưỡng tử của Thiên Chúa.

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn giới thiệu Ngài chính là mục tử nhân lành bằng cách so sánh và phân tích mục tử tốt lành và người chăn chiên thuê.

a. Người mục tử tốt lành có những đặc điểm này :

- Thí mạng sống để bảo vệ đàn chiên.

- Sống thông hiệp với đàn chiên: biết các chiên từng con một, và được các chiên biết.

- Lo cho đàn chiên được no đủ và tăng thêm, lo tìm chiên lạc và đưa các chiên khác về cùng một đàn và cùng một chủ chiên.

b. Kẻ chăn chiên thuê thì không tha thiết gì với đàn chiên, khi gặp nguy hiểm thì bỏ chạy, họ chỉ biết lo cho bản thân mình, để cho đàn chiên tan tác.

 Như vậy, Chúa Giêsu đã phát thảo cho ta biết được 2 đường nét chủ đạo làm nên chân dung đích thực của người mục tử nhân lành đó là: biết chiên và hy sinh mạng sống vì chiên.

- Biết chiên: Để trở nên người mục tử nhân lành, trước hết phải “biết” rõ chiên mình. Cái biết ấy không chỉ là sự hiểu biết về kiến thức hay trên bàn giấy mà là cái biết của con tim, cái biết của tình yêu giữa hai chiều ““Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi.” Chỉ có cái biết ấy, người mục tử mới có thể thấu hiểu, cảm thông và chăm lo cho đàn chiên mình đúng mực.

Biết từng con chiên một chứ không phải biết chung chung, nhưng là cái biết sâu xa, gắn kết như máu thịt, như hồn và xác theo nghĩa thánh kinh vậy. Biết khi nào chiên đói để cho ăn; khi nào chiên khát để cho uống. Biết con chiên nào lạc đàn để tìm về; con nào gặp nguy hiểm để tiếp cứu. Luôn chạnh lòng thương đối với những con chiên đang trong tình trạng mệt mỏi để dắt dìu; hằng bận tâm chăm sóc cứu chữa cho những con chiên đang trong tình trạng đau yếu và bệnh tật.

- Hy sinh vì chiên: Có thể nói hy sinh chính là đường nét thứ hai làm nên cái hồn của bức chân dung người mục tử nhân lành. Sức hấp dẫn và lôi cuốn nơi bức chân dung người mục tử nhân lành chính là hết lòng “hy sinh” cho đoàn chiên: Hy sinh sức khỏe, thời giờ để đi tìm kiếm đồng cỏ xanh tốt; ra sức khai thác nguồn nước mát trong cho chiên được uống no thỏa. Không quản khó nhọc để tắm rửa cho chiên được sạch sẽ; sẵn sàng thức khuya dậy sớm để đưa chiên đi ăn và tối đưa chiên về nghỉ ngơi. Chấp nhận hy sinh giấc ngủ để canh giữ cho đoàn chiên được an giấc. Trên hết là anh dũng dám liều mạng sống mình chống lại sói dữ, trộm cướp để bảo vệ cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. (x.Ga 10,16). Cha ông ta thường nói: “Mạng sống hơn đống vàng". Quan niệm này cho biết ai cũng sợ chết. Được sống lâu, sống khỏe là mong ước lớn nhất của con người. Tuy nhiên nếu chỉ sống lâu và khỏe về thể chất thì chưa đủ, điều quan trọng là sống sao cho có ích, có giá trị và ý nghĩa thì mới đáng sống.

Khác hẳn với những kẻ chăn thuê. Kẻ chăn thuê thì chẳng tha thiết gì với đàn chiên, khi gặp nguy hiểm là lập tức anh ta bỏ chạy lấy thân, mặt cho đàn chiên tan tác. Kẻ chăn thuê chỉ nhắm đến lợi ích bản thân mình, nên không quan tâm gì đến sức khỏe và mạng sống của đàn chiên, bởi lẽ đàn chiên không phải là của anh ta.

Chúa Giêsu không chỉ khắc họa chân dung tuyệt mỹ về người mục tử nhân lành bằng lời nói suông, bằng những nét vẽ vô hồn. Nhưng Người còn khắc họa bức chân dung ấy bằng chính đời sống của Ngài. “Khi bắt đầu sứ vụ loan báo tin mừng, Chúa Giêsu đã bị cơn đói cồn cào nơi hoang địa sau 40 mươi ngày chay tịnh, nhưng qua đó, Ngài lại trở nên Bánh Trường Sinh nuôi sống mọi người. Và khi kết thúc sứ vụ ở trần gian, Ngài lại chịu phải cơn khát cháy khô cả họng, nhưng qua đó Ngài lại ban Nước Hằng Sống cho con người. Bị Giuđa phản bội bán ba mươi đồng bạc; nhưng Ngài lại trở nên nguồn ơn cứu chuộc cho cả thế gian. Cuối cùng Ngài đã phải chịu chết trên thập tự giá tựa như một con chiên bị sát tế, nhưng Ngài lại là vị Mục Tử Nhân Lành!” (ý: Grêgôriô Nazian). Vì thế, Ngài không ngần ngại tự xưng mình là vị Mục Tử Nhân Lành: “Tôi chính là mục tử nhân lành, mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11). “Tôi chính là mục tử nhân lành, Tôi biết chiên của Tôi và chiên Tôi biết Tôi” (Ga 10,15). 

Chúa nhật hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Chúng ta cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử tuyệt vời giống như Chúa Giêsu.

Trong đời sống hàng ngày, có khi chúng ta nghe người ta hay bàn tán nhận định về quý cha, quý tu sĩ nam nữ như sau: cha này, soeur kia thì tuyệt vời, cha kia, soeur này thì chán lắm. Dựa vào đâu mà người ta đánh giá như vậy? Thưa, tường người ta dựa vào ý riêng của mình: cha hợp với mình thì sẽ là tuyệt vời, cha không hợp với mình thì bị chê là chán lắm. Nhưng chín người mười ý thì biết đường nào mà lần!

May thay, Chúa Giêsu đã vẽ lên bức chân dung đích thực về người mục tử đúng nghĩa: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành Tôi biết chiên của Tôi… và Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” Điều này cho chúng ta hiểu được rằng: Người mục tử tuyệt vời không phải là người cấp tiến hay bảo thủ, cũng không phải người hoạt động xã hội rầm rộ bên ngoài hay khiêm tốn âm thầm ít ai biết đến, mà là người hiểu biết và dám xả thân sống chết vì chiên, quên mình đi để chăm lo cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào, theo mẫu gương của vị mục tử tối cao là Chúa Giêsu.

Nhờ bí tích rửa tội, mỗi người trong chúng ta được tham gia vào trong sứ vụ mục tử của Chúa Giêsu. Cho nên, mỗi người chúng ta đều được mời gọi tiếp bước theo gương Chúa Giêsu trở nên vị mục tử nhân lành là: Biết quan tâm chăm sóc và dấn thân hy sinh phục vụ mọi người, nhất là những người mà Chúa trao phó cho chúng ta. Và nếu có sự đòi buộc phải hy sinh mạng sống mình để gìn giữ, bảo vệ sự sống thể xác và linh hồn của họ thì chúng ta cũng phải sẵn sàng.

Tôi còn nhớ ngày 24/4/1994 Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho hai bà mẹ gia đình, một trong hai bà mẹ đó là bà Gian-na Be-ret-ta Mol-la, bà đã chấp nhận cái chết khi sinh con để con bà được sống. Trong lá thư bà để lại, có những dòng cảm động sau đây: “Thân ái gửi con… Khi con đọc được những dòng chữ này thì mẹ không còn thở chung với con một bầu khí nữa…”. Bà bị ung thư khi mang thai, và từ chối hoá trị, xạ trị, để bào thai lớn lên an toàn, còn bà thì lìa đời, khi con bà vừa chào đời bình an.

Trong bài giảng thánh lễ phong chân phước, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhận định rằng: “Việc làm mẹ có thể trở thành nguồn vui nhưng thường cũng là nguồn đau khổ. Trong trường hợp đó, tình yêu trở nên thật cần thiết ở một mức độ anh hùng trong con tim của bà mẹ.” ĐTC nói tiếp: “Ngày hôm nay chúng tôi muốn tôn kính không những hai bà mẹ phi thường này mà cả bao nhiêu bà mẹ khác nữa, không quản ngại hy sinh để giáo dục và hướng dẫn con cái như mục tử chăm sóc đàn chiên.”

Xin cho các bậc làm cha mẹ, biết noi gương Đức Giêsu, vị mục tử nhân lành biết quan tâm, chăm sóc, gìn giữ con cái mình cách cẩn trọng với lòng thương yêu. Nhất là sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình để che chở và bảo vệ những người thân yêu của mình khỏi mọi hiểm nguy của cái chết do sự dữ gây ra.

 

 Suy niệm 5:

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về cửa chuồng chiên. Nhưng cửa này không phải là vật dụng bằng gỗ hay đá mà là chính bản thân Ngài. Ngài tự ví mình là cửa chuồng chiên vì muốn nói lên tình yêu Ngài dành cho đàn chiên. Ngài là cửa chuồng chiên nên Ngài luôn bảo vệ cho chiên được nghỉ ngơi an toàn. Ngăn chặn sói rừng vào sát hại chiên cũng như không để cho kẻ trộm cướp vào bắt chiên.

Đức Kitô còn đưa ra hai hình ảnh trái ngược, người chăn chiên nhân lành, và người chăn chiên thuê mướn.

Người chăn chiên nhân lành, ngày đêm chăm sóc, bảo vệ đàn chiên, dẫn chúng đến nguồn nước trong lành, đồng cỏ xanh tươi. Người chăn chiên nhân lành luôn sẵn sàng bảo vệ đàn chiên khỏi bị thú dữ sát hại và anh dũng dấn thân vào chốn nguy hiểm để bảo vệ cho đàn chiên được sống dồi dào. Mục tử nhân lành còn biết rõ từng con chiên và chấp nhận mang lấy mùi chiên, hiểu biết và gọi đúng tên từng con chiên. Ngược lại chiên ngoan cũng nhận ra bóng dáng và tiếng gọi của chủ mình mà nghe theo.

Qua cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô minh chứng cho một tình yêu vĩ đại mà Đức Kitô, mục tử nhân lành dành cho chúng ta là đàn chiên của Người.

Vì là cửa chuồng chiên nên Đức Kitô để cho chúng ta có quyền tự do lựa chọn. Những ai tin yêu, chọn bước theo Ngài thì sẽ đón nhận được tình yêu hy hiến của Ngài. Ngược lại những ai chọn theo ý riêng mình thì không bao giờ đón nhận được tình yêu hy sinh của Người. 

Ai chọn yêu mến và tin theo Đức Kitô sẽ không mất gì cả mà còn nhận được nhiều ơn phúc của Chúa ban tặng. Cuộc sống họ trở nên phong phú, tinh thần thảnh thơi, tâm tư thoải mái và luôn sống trong vui, ngay cả khi gặp gian nan thử thách.

Chuồng chiên chỉ bảo vệ cho những ai yêu mến, tín trung còn những kẻ bất tín thì chuồng chiên không thể bảo vệ được. Vì lòng nhân lành, Chúa Kitô đã sẵn sàng mở cửa chuồng chiên để đón nhận bất cứ ai biết hồi tâm, thống hối quay trở về cùng đàn chiên Người chăn dắt. 

Đức Kitô không chỉ là người gác cửa mà Ngài còn là người đi tìm những con chiên lạc, khi tìm được thì vui mừng vác trên vai mang về đàn (x. Lc 15,5) với mong sao chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên duy nhất.

Trộm cắp dùng nhiều hình thức dụ dỗ để bắt chiên; còn sói dữ thì luôn rình rập cắn xé chiên. Người chăn chiên mướn là người làm thuê, chủ chiên trả công. Nếu người đó không hoàn thành nhiệm vụ được trao phó; người đó hành động khác chi kẻ trộm cướp hay sói rừng, trá hình, đội lốt, chăn chiên để cầu lợi, để ngầm cấu xé và cắn phá chiên.

Chúng ta dâng lời tạ ơn Đức Kitô, Đấng chăn chiên nhân lành đã yêu thương và hy sinh mạng sống vì ta. Xin cho chúng ta trở thành chiên ngoan luôn biết nghe lời của Chúa mà sống hiệp thông với nhau trong tình yêu thương  của Chúa. Amen.

 

THƠ

Chữa lành, Danh Chúa Giê su,

Ta là dân Chúa, thiên thu “Con Ngài”.

Giê-su “Mục Tử” Thiên oai,

Ngài thương và biết, những ai chiên Ngài.

 

Chữa lành, Danh Chúa Giê su,

Ta là dân Chúa, thiên thu “Con Ngài”.

Giê su “Mục Tử” Thiên oai,

Ngài thương và biết, những ai chiên Ngài.

 

TÌNH YÊU ĐỨC KITÔ

Giê su mục tử nhân lành,

Yêu thương, chăm sóc ban hành phúc ân.

Hôm nay Giáo Hội ân cần.

Xin ơn thiên triệu, “mang hình” Giê su.

 

Phê rô thương chữa cho dù,

Bị bắt ra trước Trung Khưu Hội Đồng.

Có Gioan đồng bước theo ông.

Phê rô xác nhận: ông không “chữa què”

Giê su: bị giết từng nghe.

Ngài đã sống lại, chở che cứu đời.

 

Gioan rằng: Tình Chúa tuyệt với.

Nhận ta “con Chúa”. Giống thời Giê su.

 

Giê su mục tử thiên thu:

Thí mạng: hiến tế, đền bù vì chiên;

Biết chiên: dù dữ hay hiền;

Muốn quy tụ hết, cho chiên vào đàn.

Chăn thuê thì chẳng ngó ngàn.

Gặp nguy bỏ trốn, khiến đàn nát tan.

Linh mục, tu sĩ sẵn sàng,

Thực thi Ý Chúa chăm đàn chiên ngoan.

Hai Lúa

Suy niệm 6: MỤC TỬ NHÂN LÀNH. Lm. Giuse Vũ Thái Hòa

Trong nền văn minh đô thị ngày nay, hình ảnh mục tử ít được sử dụng, hoặc bị coi thường, hoặc bị ngộ nhận vì được hiểu như sự thống trị của một người đối với một nhóm người không biết gì, chỉ biết nghe theo sự lãnh đạo của người khác như một đàn cừu ngoan ngoãn.

Tuy nhiên, mục tử lại là hình ảnh rất thân thuộc trong đời sống và văn hóa Do Thái. Trong Kinh Thánh, từ thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã được diễn tả như người mục tử: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi” (Tv 22,1), mà đoàn chiên là dân Israel: “…còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt” (Tv 94,7). Hình ảnh người mục tử này nói lên sự chăm sóc ân cần của Thiên Chúa, Đấng quy tụ dân Ngài: “Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng; bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40,11). Và thuật ngữ này còn được sử dụng để nói về các vua, các tư tế và tất cả những người có trách nhiệm lãnh đạo đối với dân Chúa.

Chúng ta biết rằng, thời xưa việc có nhiều gia súc là biểu hiện của sự giàu có. Trong sách Sáng Thế, ông Abraham được giới thiệu là “rất giàu, ông có nhiều súc vật và vàng bạc” (St 13,2). Vì thế, nếu bầy chiên được coi là của cải, là biểu hiện của sự giàu có, thì chúng ta có thể dám nghĩ rằng, đối với Thiên Chúa, chúng ta chính là tất cả gia sản, là “của cải” của Người.

Hôm nay, Chúa Giêsu cũng sử dụng hình ảnh mục tử để diễn tả ý nghĩa sứ mạng và mối quan hệ của Người với con người.

Trước tiên, Chúa Giêsu khẳng định Người chính là mục tử, vì Người biết chiên của Người và chiên của Người biết Người. Là mục tử nhân lành, Người “đi tìm con chiên bị mất, đưa về con chiên đi lạc, băng bó con chiên bị thương và con nào bệnh tật Người sẽ làm cho mạnh” (Ez 34,16), Người quy tụ những con chiên tản mác lại với nhau trong cùng một ràn chiên duy nhất, cho chúng được nghỉ ngơi. Người là mục tử duy nhất đã “hy sinh mạng sống mình” cho đoàn chiên (Chúa Giêsu lặp lại điều này đến bốn lần trong đoạn Tin Mừng ngắn này).

Trang Tin Mừng mà chúng ta đọc hôm nay được thánh Gioan viết vào cuối thế kỷ thứ nhất dành cho các cộng đoàn mà sự hiệp nhất đang bị đe dọa. Thánh sử muốn nhắc lại một cách mạnh mẽ rằng, nguồn gốc của sự hiệp nhất Kitô giáo chính là tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Người. Chúa Giêsu là mục tử đã yêu đến hy sinh mạng sống để cho chiên được sống và sống dồi dào. Đối với Thiên Chúa, tình yêu là điều kiện duy nhất để trở thành mục tử. Nếu không có tình yêu đối với đàn chiên, họ chỉ là người làm thuê. Khi gặp khó khăn nguy hiểm, họ sẽ bỏ chiên mà chạy. Mục tử là người không chỉ chăm sóc nhưng còn sẵn sàng hy sinh để bảo vệ đàn chiên của mình.

Chúng ta còn nhớ câu chuyện Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ ở Biển Hồ Tibêria. Khi đó Người hỏi Phêrô ba lần có yêu mến Người không, và ba lần ông đáp lại: “Thầy biết con yêu mến Thầy”, thì Người giao cho ông trách nhiệm của mục tử: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Ga 21,15-17). Và chính qua hình ảnh người mục tử này mà người ta đặt tên cho các “mục tử của Giáo hội” là Đức giáo hoàng, giám mục, linh mục, cũng như các mục sư của Giáo hội Tin lành. Nhưng danh hiệu mục tử không chỉ dành cho những vị có chức thánh. Người ta còn dùng trong các “mục vụ giới trẻ”, “mục vụ gia đình”, “mục vụ ngoại kiều”… “hội đồng mục vụ”, v.v. Như vậy, tất cả dân Chúa đều được mời gọi tích cực tham gia vào hoạt động mục vụ của Chúa Kitô. Thật vậy, qua phép Thánh tẩy, mỗi người chúng ta đã trở nên “chi thể của Đức Kitô, Đấng là tư tế, tiên tri và vương đế”. Vì vậy, mỗi người đều được mời gọi trở thành “mục tử nhân lành”.

- Ơn gọi linh mục và tu sĩ mà Giáo hội cầu nguyện cách đặc biệt ngày hôm nay dựa trên điểm cốt yếu này: tình yêu đối với Thiên Chúa. Có thể nói rằng, linh mục, tu sĩ, đó là những người đã khám phá ra tình yêu Thiên Chúa dành cho họ, và họ muốn đáp lại tình yêu ấy bằng cách đi theo Chúa Kitô là Đấng yêu thương họ. Càng tiến gần Người, họ càng được lôi cuốn trong tình yêu mà Thiên Chúa dành cho thế gian này. Như thế, nguồn gốc của mọi ơn gọi, đó là tình yêu, một tình yêu duy nhất dành cho Thiên Chúa và con người.

Hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta cầu nguyện cách riêng cho ơn gọi linh mục, tu sĩ. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho có nhiều bạn trẻ biết quảng đại đáp lại tình yêu của Chúa trong ơn gọi tu trì, và cầu nguyện cho các linh mục, tu sĩ được sống tròn đầy ơn gọi của mình.

Tuy nhiên chúng ta cũng không quên rằng, tất cả chúng ta đều được mời gọi trở thành “mục tử nhân lành” trong những trách nhiệm và vai trò mà chúng ta đang đảm nhận. Vì vậy chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau biết sống tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân trong đời sống hằng ngày, bằng chứng từ phục vụ và hiến thân, bằng việc quan tâm đến những người khác, bằng lời cầu nguyện cũng như các hoạt động cho sự hiệp thông và hiệp nhất.

 

Suy niệm 7: SỐNG CHẾT VÌ CHIÊN. Lm. Nguyễn Xuân Trường

Thế nào là một mục tử tuyệt vời? Thế nào là một giáo dân ngoan đạo? Phúc Âm tuần này cho chúng ta những chuẩn mực để nhận biết ai là mục tử tốt, ai là giáo dân ngoan.

1. Mục tử tuyệt vời. Nhiều nơi người ta hay bàn tán nhận định: cha xứ này tuyệt vời, cha xứ kia chán lắm. Dựa vào đâu mà đánh giá như vậy? Thường người ta dựa vào ý riêng của mình: cha hợp với mình thì sẽ là tuyệt vời, cha không hợp với mình thì bị chê là chán lắm. Nhưng chín người mười ý thì biết đường nào mà lần?

May thay, Chúa Giêsu đã cống hiến một chuẩn mực về người mục tử tuyệt vời: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” Thế nên, mục tử tuyệt vời không phải là người cấp tiến hay bảo thủ, cũng không phải người hoành tráng hay âm thầm, mà là người dám hy sinh mạng sống vì đoàn chiên, dám sống chết vì chiên, dám quên mình đi để chăm lo cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào.

2. Chiên nghe lời Chúa. Con ngoan là con vâng lời cha mẹ, chiên ngoan là chiên vâng lời Chúa. Chúa là mục tử nhân lành ban lời hằng sống cho chiên. Quan trọng là chiên có nghe lời Chúa hay không?

Rất tiếc là thực tế hôm nay, nhiều con chiên không muốn nghe Lời Chúa. Cứ thử hỏi chính mình: mỗi ngày tôi dành bao nhiêu thời gian để đọc, để học Lời Chúa? Tôi có siêng năng tham dự thánh lễ để nghe Lời Chúa không? Và kể cả đi lễ thì tôi có thực sự chăm chú lắng nghe Lời Chúa không? Có bao nhiêu người sau khi đi lễ về nhớ được Lời Chúa hôm nay nói gì với mình để đem ra thực hành trong đời sống?

Chúa Nhật Chúa Chiên lành hôm nay cũng là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Chúng ta cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử tuyệt vời giống như Chúa Giêsu. Đồng thời, chúng ta cũng cầu nguyện cho chính mình trở nên con chiên ngoan hiền, biết khiêm tốn vâng nghe và thực hành Lời Chúa chỉ dạy. Amen.

 

Thứ hai: Cv 11, 1-18; Ga 10,1-10

Suy niệm 1:

Đoạn sách Cvtđ hôm nay ghi lại cuộc đối thoại giữa Phêrô và những người tín hữu gốc Do thái về vấn đề: có nên mở cửa để tiếp nhận dân ngoại vào ngôi nhà Hội Thánh theo lệnh truyền của Chúa Giêsu Phục sinh là: các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20), hay là đóng chặt cửa để bảo toàn những giá trị truyền thống của dân tộc mình?

Với những người tín hữu gốc Do Thái thì không được vượt ra những luật lệ truyền thống như: không được đi vào nhà dân ngoại, không được ăn uống những thức ăn bị xem là ô uế; nhất là phải giữ luật cắt bì. Cho nên khi họ nghe biết sự việc ông Phêrô vào nhà ông Cornêliô là người ngoại ăn uống, giảng dạy giáo lý và rửa tội cho ông và cả gia đình, mà không phải giữ luật cắt bì. Điều này đã làm cho họ rất khó chịu. Vì thế, ngay khi ông Phêrô đặt chân về Giêrusalem thì họ kéo đến phản đối mạnh mẽ việc làm của Phêrô.

Nhưng, sau khi lắng nghe Phêrô giải thích về những gì ông làm không phải là do sáng kiến của ông mà xuất phát từ ý muốn của Thiên Chúa, ngang qua hai thị kiến kỳ lạ đã xảy ra với ông và với ông Cornêliô. Từ hai thị kiến ấy đã làm cho bản thân Phêrô hiểu và xác quyết chắc chắn hơn về ý định của Thiên Chúa là: “Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta”. 

Sau khi lắng nghe được lời giải thích của Phêrô, các tín hữu ở Giêrusalem đã bị thuyết phục và họ đã thay đổi cái nhìn về dân ngoại. Họ cũng nhận ra rằng: “Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn sám hối để được sự sống”. Thế là mọi việc được giải quyết êm đẹp nhờ vào việc gặp gỡ, lắng nghe và phân định dưới ánh sáng của Lời Chúa.

Bế quan tỏa cảng để gìn giữ và bảo toàn hay là mở rộng cửa tiếp nhận cái mới làm phong phú và hoàn thiện hơn, đó luôn là vấn đề được đặt ra để bàn luận không những trên bình diện vĩ mô mà còn là vấn đề được đặt ra trên bình diện vi mô, cụ thể nơi các gia đình hôm nay, khi mà quyền tự do chính kiến nơi mỗi người được xã hội bảo hộ và tôn trọng.

Xin cho các thành viên trong gia hiểu rằng: gìn giữ bảo vệ những giá trị truyền thống của cha ông là điều đáng trân quý, nhưng nếu vì tục lệ truyền thống mà gây bất ổn xã hội và làm tổn hại đến môi trường thì cũng nên xét lại. Nhất là với các gia đình Công giáo khi có những bất đồng quan điểm xảy ra thì phải biết lấy Lời Chúa và đường hướng của GH làm nền tảng để giải quyết vấn đề. Bởi ta tin rằng Lời Chúa là chân lý và Giáo huấn GH là lẽ khôn ngoan hướng dẫn chúng ta. Đó cũng là chọn lựa khôn ngoan của thánh Phêrô: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm.” (Cv 5,32).

 

Suy niệm 2: 

Đoạn tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta biết những đặc tính cần phải có của người mục tử nhân lành:

1. Dám hy sinh mạng sống mình: Đoàn chiên không phải là của người chăn thuê, nên anh ta không thiết tha gì để bảo vệ đàn chiên. Mục tiêu của người chăn thuê thường là vì lợi ích của bản thân. Vì thế khi có sói dữ tấn công, anh ta sẽ dễ dàng bỏ mặt chiên cho sói dữ ăn thịt, còn anh ta thì sẽ tìm cách thoát thân. Còn mục tử chân chính thì sẵn sàng đứng ra chống lại sói dữ để bảo vệ đàn chiên mình, dù phải đối mặt với hiểm nguy, cho dù phải hy sinh mạng sống.

2. Biết chiên của mình: Cái biết của người mục tử không chỉ là cái biết chung chung về số lượng, hời hợt về tên gọi. Nhưng mục tử đích thực phải biết chất lượng: tình trạng, nhu cầu, ước muốn sâu xa của chiên mình. Cái biết đến độ đồng thân, đồng phận, đồng cảm và đồng tử với chiên mình.

3. Quan tâm và đưa những chiên xa lạc về đàn: Vì chiên cần có chủ chiên nên chủ chiên phải quy tụ chiên vào cùng một đàn để chăm sóc, bảo vệ và nuôi dưỡng cho chúng được sống và sống dồi dào. Do đó chủ chiên không chỉ quan tâm đến chiên trong đàn mà còn tìm cách để đem các chiên ngoài đàn về, để chúng được hiệp nhất trong cùng một đàn dưới sự hướng dẫn của cùng một chủ chiên.

Xin cho các vị chủ chăn sẵn sàng hy sinh không chỉ thời giờ sức khoẻ mà cả mạng sống để phục vụ cho cộng đoàn được lớn mạnh trong sức sống của Chúa. 

Xin cho các vị chủ chăn cũng khiêm tốn tìm hiểu và lắng nghe những tâm tư nguyện vọng chính đáng của mọi người trong cộng đoàn mà sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu ấy bằng tình thương của người mục tử nhân từ. Đừng vì tự cao, tự ái mà bỏ ngoài tai những đòi hỏi, nhu cầu chính đáng của giáo dân. Xin cho các vị chủ chăn ngoài việc lo lắng chăm sóc cho đàn chiên mình cho tốt, còn phải quan tâm đến những con chiên ngoài đàn. Tìm mọi cách để dẫn đưa họ về với Chúa, hầu họ cũng được sống trong tình thương chăm sóc của tình yêu Chúa.

 

Suy niệm 3:

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về cửa chuồng chiên. Nhưng cửa này không phải là vật dụng bằng gỗ hay đá mà là chính bản thân Ngài. Ngài tự ví mình là cửa chuồng chiên vì muốn nói lên tình yêu Ngài dành cho đàn chiên. Ngài là cửa chuồng chiên nên Ngài luôn bảo vệ cho chiên được nghỉ ngơi an toàn. Ngăn chặn sói rừng vào sát hại chiên cũng như không để cho kẻ trộm cướp vào bắt chiên.

Đức Kitô còn đưa ra hai hình ảnh trái ngược, người chăn chiên nhân lành, và người chăn chiên thuê mướn.

Người chăn chiên nhân lành, ngày đêm chăm sóc, bảo vệ đàn chiên, dẫn chúng đến nguồn nước trong lành, đồng cỏ xanh tươi. Người chăn chiên nhân lành luôn sẵn sàng bảo vệ đàn chiên khỏi bị thú dữ sát hại và anh dũng dấn thân vào chốn nguy hiểm để bảo vệ cho đàn chiên được sống dồi dào. Mục tử nhân lành còn biết rõ từng con chiên và chấp nhận mang lấy mùi chiên, hiểu biết và gọi đúng tên từng con chiên. Ngược lại chiên ngoan cũng nhận ra bóng dáng và tiếng gọi của chủ mình mà nghe theo.

Qua cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô minh chứng cho một tình yêu vĩ đại mà Đức Kitô, mục tử nhân lành dành cho chúng ta là đàn chiên của Người.

Vì là cửa chuồng chiên nên Đức Kitô để cho chúng ta có quyền tự do lựa chọn. Những ai tin yêu, chọn bước theo Ngài thì sẽ đón nhận được tình yêu hy hiến của Ngài. Ngược lại những ai chọn theo ý riêng mình thì không bao giờ đón nhận được tình yêu hy sinh của Người. 

Ai chọn yêu mến và tin theo Đức Kitô sẽ không mất gì cả mà còn nhận được nhiều ơn phúc của Chúa ban tặng. Cuộc sống họ trở nên phong phú, tinh thần thảnh thơi, tâm tư thoải mái và luôn sống trong vui, ngay cả khi gặp gian nan thử thách.

Chuồng chiên chỉ bảo vệ cho những ai yêu mến, tín trung còn những kẻ bất tín thì chuồng chiên không thể bảo vệ được. Vì lòng nhân lành, Chúa Kitô đã sẵn sàng mở cửa chuồng chiên để đón nhận bất cứ ai biết hồi tâm, thống hối quay trở về cùng đàn chiên Người chăn dắt. 

Đức Kitô không chỉ là người gác cửa mà Ngài còn là người đi tìm những con chiên lạc, khi tìm được thì vui mừng vác trên vai mang về đàn (Lc 15,5) với mong sao chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên duy nhất.

Trộm cắp dùng nhiều hình thức dụ dỗ để bắt chiên; còn sói dữ thì luôn rình rập cắn xé chiên. Người chăn chiên mướn là người làm thuê, chủ chiên trả công. Nếu người đó không hoàn thành nhiệm vụ được trao phó; người đó hành động khác chi kẻ trộm cướp hay sói rừng, trá hình, đội lốt, chăn chiên để cầu lợi, để ngầm cấu xé và cắn phá chiên.

Chúng ta dâng lời tạ ơn Đức Kitô, Đấng chăn chiên nhân lành đã yêu thương và hy sinh mạng sống vì ta. Xin cho chúng ta trở thành chiên ngoan luôn biết nghe lời của Chúa mà sống hiệp thông với nhau trong tình yêu thương  của Chúa. Amen.

  

Thứ ba: Cv 11,19-26; Ga 10, 22-30.

Suy niệm 1: 

Đoạn sách Cvtđ hôm nay gồm 2 phần:

- Phần thứ nhất: ghi lại thành quả tốt đẹp của GH sau những ngày tháng lo sợ chạy trốn vì cuộc bách hại xảy ra nhân sự kiện phó tế Stêphanô tử đạo tại Giêrusalem. Các môn đệ phải tản mác đến các miền Phênixi, đảo Syp và thành Antiôkhia để trú ẩn.  Tại những nơi đây, các môn đệ chỉ rao giảng cho người Do Thái. Tuy nhiên trong đó, có mấy người gốc Syp và Kyrênê, những người này, khi đến Antiôkhia, đã mạnh dạn loan Tin mừng của Chúa cho người Hy-lạp nữa. Kết quả thật bất ngờ là “một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa”. Nhờ đâu mà có nhiều người ngoại giáo tin theo Chúa như vậy? Thánh Luca cho biết đó là nhờ“bàn tay Chúa ở với họ”. Nghĩa là nhờ vào sức mạnh và quyền năng Thiên Chúa phù giúp họ. Chính tại Antiokhia mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu.

- Phần thứ hai: Đề cao đến tình hiệp thông trong Hội Thánh. Khi nghe biết một số đông dân ngoại tại Antiokhia tin theo đạo, thì các vị hữu trách của Hội Thánh tại Giêrusalem cử ông Barnaba đến để chia sẻ niềm vui và củng cố đức tin cho các tín hữu ở đây bằng cách khuyên nhủ họ hãy bền lòng gắn bó với Chúa. Rồi ông lên đường đi Tácxô để tìm Saolô về để cộng tác với ngài lo cho giáo đoàn tại đây. Nhờ đó, giáo đoàn Antiokhia càng thêm lớn mạnh. Qua đây cho thấy sự quan tâm, nâng đỡ kịp thời của Hội Thánh. Điều này làm nổi bậc lên tính phổ quát và tình hiệp thông của GH Công giáo.

Với cái nhìn của con người thì sự kiện Hội Thánh bị bách hại gắt gao ở Giêrusalem là nỗi đau, nhưng với Thiên Chúa thì đó lại là cơ hội để Tin mừng đến được với dân ngoại. Nhất là trong mọi hoàn cảnh GH luôn biết quan tâm tìm hiểu để nâng đỡ cách tốt nhất trong tình hiệp thông.

Xin cho chúng ta luôn biết phó thác vào đường lối khôn ngoan của Chúa và tin tưởng vào đường hướng của GH. Phần ta hãy luôn biết tận dụng mọi hoàn cảnh để làm chứng tin mừng của Chúa theo gương các tín hữu Hy Lạp hóa theo tinh thần nhiệt tâm của thánh Barnaba và Phaolô: Hãy rao giảng Lời Chúahãy lên tiếnglúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiệnhãy biện báchãy khiển tráchhãy khuyên lơnhết tình đại lượng và dụng tâm dạy dỗ” (2 Tim 4, 2).

 

Suy niệm 2:

Nhờ bí tích rửa tội, chúng ta trở thành chiên của Chúa. Xin cho chúng ta hết lòng tin kính, vâng lời và sẵn sàng đi theo sự hướng dẫn của Chúa Giêsu, vị chủ chăn tốt lành chúng ta.

Dù được nghe những lời giảng dạy và chứng kiến biết bao phép lạ Chúa làm, nhưng những người Do Thái, cách riêng Biệt Phái và Kinh Sư vẫn không tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Do đâu mà họ không tin nhận và nghe theo lời của Chúa Giêsu?

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho biết, vì họ không thuộc về đoàn chiên của Ngài. Theo nghĩa phổ quát, mọi người đều là chiên của Chúa, vì mọi người đều được Chúa yêu thương dựng nên và hy sinh đổ máu cứu chuộc. Tuy nhiên để trở thành chiên thật thuộc về Chúa thì cần phải thỏa mãn hai điều kiện:

1. Tin nhận Chúa và chịu phép rửa tội. Vì giáo lý công giáo dạy: nhờ bí tích rửa tội, chúng ta được thanh tẩy mọi tội lỗi, được làm con Chúa, được gia nhập vào đoàn chiên Chúa là Giáo Hội.

2. Phải nghe theo lời Chúa là mục tử tối cao, cũng như tuân giữ mọi điều răn và luật lệ Chúa truyền dạy với tình yêu mến.

Nhiều người Do Thái đã không thành tâm yêu mến Chúa, nên cho dù Chúa Giêsu ở giữa họ, có giảng dạy và làm nhiều phép lạ, họ vẫn không tin nhận, vì họ không thuộc đoàn chiên đích thực của Chúa.

Như Chúa Giêsu đã nói: chỉ những ai thuộc đoàn chiên Chúa, thì mới được Chúa gìn giữ và ban cho sự sống đời đời .

Xin cho chúng ta biết tin kính và yêu mến Chúa Giêsu, đấng chăn chiên tốt lành của chúng ta. Đồng thời cho chúng ta luôn là những con chiên ngoan hiền của Chúa. Biết lắng nghe, vâng lời và thi hành điều Chúa chỉ dạy với tình con thảo.

 

Thứ tư: Cv 12,24-13,5a; Ga 12,44-50

Suy niệm 1:

Như chúng ta đã biết, sách Cvtđ ghi lại những sự việc xảy ra trong GH lúc ban đầu, cũng như trình bày về những hoạt động truyền giáo của các tông đồ, khởi đi từ “Giêrusalem trong khắp miền Giuđê, Sammari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1,8), nhằm thực thi lệnh truyền của Chúa Giêsu phục sinh, trước khi Người lên trời.

Dựa vào nội dung những gì thánh Luca ghi lại, người ta có thể chia sách Cvtđ ra làm 2 phần (hoặc 3 phần) tùy theo cái nhìn của đọc giả.

A. Nếu chia sách Cvtđ thành 2 phần thì:

1. Phần thứ nhất (chương 1-12): nói về những sự việc xảy ra của GH và nhấn mạnh đến sứ vụ làm chứng của các tông đồ tại Giêrusalem và những vùng phụ cận như: Samaria (8,4-40), Xêdarê Duyên Hải (10,1-11,18), Phênixi và Sýp (11,19, và Antiokhia (11,22-26).

2. Phần thứ hai (chương 13-28): nói nhiều về hoạt động của thánh Phaolô và nhấn mạnh đến 3 cuộc hành trình truyền giáo của ngài:

- Hành trình truyền giáo thứ nhất (13,4-14,28): bắt đầu từ An-ti-ô-khi-a miền Xy-ri-a đến tận Lý-tra, Đéc-bê, rồi trở về An-ti-ô-khi-a (13,1) vào những năm 46-48.

- Hành trình truyền giáo thứ hai (15,36-18,22): Bắt đầu từ An-ti-ô-khi-a miền Xy-ri-a đến A-thê-na (Hy lạp), Cô-rin-tô qua Giê-ru-sa-lem và về An-ti-ô-khi-a (18,22) vào những năm 49 đến 52.

- Hành trình truyền giáo thứ ba (18,23-21,16): Bắt đầu từ An-ti-ô-khi-a đến Cô-rin-tô, rồi về Giê-ru-sa-lem (20,1-6).

Nói đến sự kiện Phaolô bắt giam tại Giêrusalem, rồi tại Xê-da-rê Duyên Hải (21,17-26,32), nhưng vì Phaolô có quốc tịch Rôma (16,21.37) nên ngài được bị dẫn độ về Rôma xét xử. (Lm. Tanila Hoàng Đắc Ánh, OP).

B. Còn nếu chia sách Cvtđ làm 3 phần thì:

1. Phần thứ nhất (1-7): Phêrô và các tông đồ làm chứng tại Giêrusalem.

2. Phần thứ hai (8-12): Phêrô và các phó tế làm chứng tại Giuđê và Sammaria.

3. Phần thứ ba (13-28): Phaolô làm chứng cho dân ngoại đến tận cùng thế giới (Rôma), mà theo cái nhìn thời bấy giờ thì đế quốc Rôma được coi là hùng mạnh nhất trên trái đất, nên cũng xem như là tận cùng của thế giới. (Lm. Phêrô Lê Tấn Lợi).

Khi nhìn lại như thế, ta dễ dàng nhận ra bài đọc 1 được trích đọc trong thánh lễ hôm nay được ví như là bản lề hay cánh cửa thời gian để khép lại giai đoạn thứ nhất trong sứ vụ “làm chứng” của các tông đồ tại Giêrusalem, Giuđê và Sammaria và mở ra giai đoạn thứ hai trong sứ vụ “làm chứng” cho Chúa đến tận cùng thế giới, theo như lệnh truyền của Chúa Giêsu phục sinh.

- Giai đoạn 1 (1- 12, 25): Nhìn lại giai đoạn đầu, các tông đồ chỉ làm chứng cho Chúa tại Giêrusalem và những vùng phụ cận thôi, nhưng các ngài cũng gặp rất nhiều khó khăn thử thách. Tuy nhiên với lòng nhiệt thành và với ơn ban của Thánh Thần nên lời Chúa vẫn được lớn lên (6,7), phát triển (12, 24), lan tràn và vững mạnh (19,20) cả về số lượng lẫn chất lượng. Nghĩa là Tin Mừng của Chúa đã được nhiều người đón nhận và niềm tin của các tín hữu ngày thêm vững mạnh. GH có thêm 3000 người theo đạo (2, 41), số người đàn ông hôm sau thêm đến 5000 người (4,4), số môn đệ thêm đông (6,1), thêm rất nhiều (6,7). Rất đông người Do Thái và Hylạp tin theo đạo (14, 1).

- Giai đoạn 2 (13, 1-5tt): Bắt đầu sứ vụ làm chứng cho Chúa đến tận cùng thế giới. Đây sẽ là giai đoạn mà các tông đồ sẽ đối mặt với nhiều gian nan thử thách vì phải “làm chứng” cho dân ngoại, nơi những miền xa xôi.

Ý thức được điều đó nên trước khi bắt đầu cuộc hành trình truyền giáo đầy khó khăn này, cộng đoàn An-ti-ô-khi-a đã họp nhau trong bầu khí phụng vụ thờ phượng Chúa, để lắng nghe lời Chúa hướng dẫn. Và khi ấy họ đã nghe được tiếng Thánh Thần phán: “Hãy dành Barnaba và Saolô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy”.

Cộng đoàn Antiokhia hiểu rằng sứ vụ truyền giáo của Phaolô và Barnaba trong chuyến hành trình thứ nhất này sẽ phải gặp nhiều gian khổ, nên họ đã hiệp thông cầu nguyện và phó dâng hai ông cho TC, qua việc “ăn chay, cầu nguyện, và đặt tay trên hai ông và tiễn đưa hai ông lên đường”.

Hình ảnh hiệp nhất thờ phượng Chúa qua cầu nguyện và ăn chay ấy của giáo đoàn Antiokhia thật tuyệt đẹp và cũng là bài học quý giá cho chúng ta ngày hôm nay, khi phải đối mặt với cơn đại dịch Covid-19, và trong những lúc gặp gian lao, đau khổ trong cuộc sống.

Xin Chúa cho chúng ta biết dành nhiều thời gian để hiệp thông với nhau trong cầu nguyện và chay tịnh hãm mình để đủ sức mạnh của Chúa mà vượt thắng mọi trở ngại. Xin Chúa cũng cho chúng ta cũng biết tích cực góp phần vào việc truyền giáo của GH theo khả năng của mình.  Đồng thời phải luôn ý thức rằng công cuộc truyền giáo hay loan báo tin mừng không phải là việc làm tùy tiện mang tính cá nhân nhưng phải được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần qua sự điều phối chính thức của GH, thì sứ mạng loan báo tin mừng hay “làm chứng” cho Chúa mới mang lại những kết quả tốt đẹp.

 

Suy niệm 2:

Ánh sáng rất cần thiết trong cuộc sống tự nhiên. Ánh sáng đem lại niềm vui tươi sinh động. Ở đây bài Tin Mừng muốn nói đến ánh sáng siêu nhiên, tượng trưng sự hiện diện của Thiên Chúa. Ðức Giêsu chính là ánh sáng. Ai không tin vào Ðức Giêsu, không giữ lời Ngài thì sống trong tối tăm bất hạnh. Ðức Giêsu được sai đến không để xét xử nhưng để ban ơn cứu độ. Bởi thế, nếu khước từ Lời Ngài, là tự lên án chính mình, tự tách mình ra khỏi ánh sáng vinh quang Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con hằng khao khát hạnh phúc. Mà chỉ có Chúa mới cho chúng con được hạnh phúc đích thực và trường tồn. Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng con gặp những trở ngại, khó khăn, u ám. Xin cho chúng con biết tìm đến Chúa. Nhờ ánh sáng của Chúa, chúng con sẽ tìm ra con đường đem lại hạnh phúc: Ðó là chúng con biết tin tưởng phó thác và sống theo sự hướng dẫn của Chúa. Amen.

 

Suy niệm 3:

Sống trong xã hội vàng thau lẫn lộn, con người không còn khả năng phân biệt đúng sai, tốt xấu, thật giả…vì thế, hơn bao giờ hết con người ngày hôm nay cần có ánh sáng thật soi đường, chỉ lối.

Chúa Kitô, ánh sáng thật, đến trần gian để soi đường chỉ lối. Xin cho chúng ta tin nhận và sống theo sự hướng dẫn của Ngài.

Ánh sáng là chủ đề tài nổi bậc trong tin mừng.

Ngay những trang đầu của tin mừng, thánh Gioan đã cho biết Chúa Giêsu chính “là ánh sáng, ánh sáng thật, ánh sáng đến trần gian và chiếu soi mọi người”.

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự xưng là ánh sáng thế gian và Ngài mời gọi con người đi trong ánh sáng của Ngài.

Từ hai ngàn năm qua, Ngôi Lời Thiên Chúa đã chiếu ánh sáng Thiên Chúa vào trần gian. Người mang lửa xuống trần gian. Người mong ước cho ngọn lửa ấy cháy bừng lên, lan rộng ra. Nhưng nhìn vào tình hình thế giới hôm nay, ta thấy bóng tối vẫn còn vây phủ con người.

 Bóng tối chết chóc của chiến tranh, hận thù, của ô nhiễm môi trường, của đói nghèo, áp bức, phân biệt chủng tộc, của nền văn hóa sự chết giết hại cả những mầm mống sự sống.

Bóng tối tội lỗi. Tội lỗi vẫn tiếp tục lan tràn. Sự dữ nổi lên dưới nhiều hình thức khác nhau. Nguy hiểm nhất là người ta đánh mất cảm thức về tội lỗi, thản nhiên sống trong tội, sống chung với tội lỗi.

Bóng tối của hận thù ghen ghét. Trong thế giới văn minh mà con người hô hào hôm nay, vẫn còn có những người say máu giết hại đồng bào của mình, gây nên tội ác diệt chủng. Vẫn có những thế lực đen tối ngấm ngầm gây chia rẽ giữa các quốc gia, dân tộc, giữa các cộng đoàn, hội thánh...

Sống trong xã hội tràn ngập bóng tối của sự chết, của tội lỗi và hận thù…như thế, Chúa Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta phải chiếu giãi  trước mặt mọi người.

“Các con là ánh sáng thế gian”. Ngày nhận lãnh bí tích rửa tội, Giáo Hội trao cho ta cây nến sáng để nhắc nhớ chúng ta hãy gìn giữ ngọn nến ấy luôn cháy sáng mãi trong suốt cuộc đời.

Cây nến phục sinh mà người kitô hữu chúng ta thắp lên trong đêm lễ phục sinh nhắc nhở chúng ta nhiệm vụ mang ánh sáng Chúa Kitô chia sẻ cho mọi người chung quanh.

Xin Chúa giúp chúng ta tẩy sạch mọi bóng tối tội lỗi, để thực sự được sinh lại cùng với Đức Giê-su. Trở nên con cái sự sáng bằng đời sống tươi vui, an hoà, khiêm nhường, nhịn nhục, yêu thương, đoàn kết đến cho anh em. 


Thứ năm: 1Pr 5,5b-14; Mc 16,15-20

KÍNH THÁNH MAR-CÔ, TÁC GIẢ TIN MỪNG

Suy niệm 1:

"Công cuộc truyền giáo mãi mãi là vấn đề sống còn của Hội Thánh trên đất nước chúng ta". Đó là lời mở đầu của UB Loan Báo Tin Mừng/HĐGMVN sau 50 năm (1960-2010) nỗ lực truyền giáo.

Vì thế truyền giáo hay loan báo tin mừng là nhiệm vụ hàng đầu của Gíao Hội. Gíao Hội có được lớn mạnh hay không tùy thuộc vào việc loan báo tin mừng.

Công đồng Vatican II khẳng định rõ rằng: “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành là truyền giáo” (Ecclesia peregrinans natura sua missionaria est, Ad gentes 2).

Sẽ không là Gíao hội hay là người kitô hữu nữa nếu không loan báo tin mừng.

Trên hết truyền giáo hay loan báo tin mừng là lệnh truyền tâm quyết của Chúa Giêsu. Nên trước khi về trời Ngài đã di chúc lại cho các tông đồ: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án" (Mc 16,15).

Vậy đã rõ mục đích của việc loan báo tin mừng là để người khác tin vào Chúa Giêsu, nhận lãnh phép rửa và được cứu độ.

Nhưng làm thế nào để việc loan báo tin mừng mang lại hiệu quả?

Thư thứ nhất của thánh Phêrô, trong bài đọc I hôm nay cho ta biết những điều tóm lượt quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm để sống:

- "Lấy đức khiêm nhường đối xử với nhau". Muốn đối xử khiêm nhường với nhau, trước hết phải tự khiêm hạ trước Chúa.Không khiêm hạ trước Chúa làm sao ta dễ khiêm nhường với anh em. Kiêu ngạo luôn là cám dỗ nguy hiểm đánh mất hạnh phúc thiêng đàng mà nguyên tổ Adam và Eva đã mắc phải.

- "Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em". Nghĩa là phải đặt trọn vẹn niềm tin vào sự quan phòng đầy yêu thương của Thiên Chúa.

- "Hãy sống tiết độ và tỉnh thức". Sống đúng với ơn gọi và chu toàn tốt bổn phận mà Chúa trao phó cho mình.

- "Hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự". Trong mọi hoàn cảnh, ngay cả cái chết cũng luôn trung thành làm chứng cho niềm tin của mình. Vì phần thưởng mà Chúa ban tặng cho ta chính là được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường; nhất là được hưởng vinh quang đời đời trong Đức Kitô.

Xin Chúa cho chúng ta ý thức được tầm quan trọng của việc truyền giáo, để như thánh Mác-cô, ta biết tận mọi khả năng, hoàn cảnh mà tham gia tich cực vào sứ vụ loan báo tin mừng.

Xin cho chúng ta trở nên chứng nhân trung thành của Chúa Giêsu nhờ biết siêng năng tìm hiểu học hỏi và sống theo lời Chúa dạy trong các sách Tin Mừng, trong đó có Tin Mừng thánh Mác-cô để lại, bằng đời sống khiêm nhường, phó thác, tiết độ, tỉnh thức và kiên vững đức tin cho dẫu phải đối mặt với bao gian lao thử thách. Nhờ đó mà Tin mừng của Chúa mới có sức thuyết phục và ơn cứu độ của Chúa mới được lan tỏa đến mọi người ở khắp nơi.

 

Suy niệm 2:

Mỗi khi tưởng nhớ hay tôn kính một vị thánh nào đó, GH thường nhắc lại thân thế và sự nghiệp của các ngài để tri ân công đức, nêu gương bắt chước đời sống tốt lành và khấn xin các ngài khấn cầu cùng Chúa ban ơn cho ta. Do đó trong ngày mừng kính thánh Marcô tác giả Tin mừng hôm nay, chúng ta cũng hãy nhìn lại thân thế và sự nghiệp của thánh Marcô.

1. Thân thế:

Chúng ta không biết nhiều về quãng đời niên thiếu của thánh Marcô. Chỉ biết rằng ngài là một trong bốn vị thánh sử đã ghi chép Phúc Âm.

Tên đầy đủ của ngài là Gioan Marcô (x.Cv 12,12). Thánh nhân là người Do Thái, thuộc dòng họ Lêvi. Mẹ của ngài là bà Maria, một góa phụ giàu có, nơi ngôi nhà này, các tín hữu tiên khởi Giêrusalem hay đến tụ họp để cầu nguyện (x. Cv 12, 12tt). Cũng vì thế mà sau khi ra khỏi tù Phêrô đã về đây trú ẩn: “Mở cổng ra, thấy ông, họ kinh ngạc. Ông giơ tay làm hiệu cho họ im lặng, rồi kể cho họ nghe Chúa đã đưa ông ra khỏi tù thế nào” (Cv 12,16-17).

Trong ba năm Chúa Giêsu đi rao giảng Tin mừng, ta không thấy nhắc đến tên ngài, nhưng trong biến cố Chúa Giêsu bị bắt thì ngài có mặt ở đó, nhưng vì sợ liên lụy, ngài đã bỏ chạy thục mạng, đến tuột cả quần ra (x. Mc 14,51-52).

2. Sự nghiệp:

Vâng theo lệnh truyền của Chúa Giêsu trước khi về trời, Marcô đã đi theo tông đồ Barnaba và Phaolô để loan báo Tin mừng. Nhưng trong chuyến truyền giáo thứ nhất có vì gặp quá nhiều gian lao, vất vả nên Marcô đã bỏ về Giêrusalem (x. Cv 13, 13). Do đó mà trong chuyến truyền giáo thứ hai, Phaolô nhất quyết không cho Marcô theo, mặc dù Barnaba tha thiết yêu cầu. Sự kiện này đã gây đổ vỡ đến sự cộng tác giữa Phaolô và Barnaba (x. Cv 15,36-40).

Nhưng nhờ thế mà sau đó Marcô lại theo Phêrô đến Rôma và làm thông dịch cho Phêrô, nên trong bức thư thứ nhất, Phêrô đã gọi Marcô là người con của ngài. (x. 1Pr 5,13).

Là người thông ngôn cho Phêrô nên Marcô lãnh trách nhiệm chép lại những lời Phêrô giảng dạy và là người đầu tiên soạn thảo “sách Tin Mừng”, vào khoảng năm 64-70, với nhiều mục đích:

- Nhằm lưu lại lời rao giảng của các tông đồ cùng với những truyền thồng tiên khởi của GH vì e rằng thế hệ chứng nhân “mắt thấy tai nghe” sắp qua đi.

- Nhằm nâng đỡ và củng cố đức tin cho các tín hữu gốc lương dân, sống ngoài lãnh thổ Palestin, đang sống trong hoàn cảnh bị bách hại dữ dội bởi hoàng đế Nêron.

- Nhằm để giúp tín hữu mới theo đạo có được cảm nghiệm về Chúa Giêsu như thánh Phêrô. Cảm nghiệm ấy được Marcô trình bày một cách tiệm tiến qua ba giai đoạn được tóm lược vào câu đầu tiên trong Tin Mừng của ngài: “Khởi đầu Tin mừng Đức Giêsu-Kitô-Con Thiên Chúa”. Trước hết Chúa Giêsu là một người, tiếp đến Người là Đức Kitô như lời tuyên xưng của Phêrô (x. Mc 8,29), Sau cùng Marcô trình bày cho thấy Đức Kitô ấy chính là Con TC, qua lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng Rôma dưới chân thập giá (x. Mc 15,39),

Nếu so sánh với các Thánh sử khác, thì Phúc âm của Thánh Marcô là ngắn nhất, 16 chương. Trong khi đó Matthêu có đến 28 chương, Luca 24 chương, và Gioan 21 chương. Lối trình bày của Ngài đơn sơ, mộc mạc, mang tính kể chuyện về cuộc đời của Chúa Giêsu, thích hợp cho mọi độc giả, đặc biệt cho những anh chị em bình dân.

Người ta quen vẽ hình ngài là một con sư tử, một trong bốn con vật được tiên tri Ezekiel xem thấy trong thị kiến. Quả thật sách Tin Mừng của Marcô khởi đầu bằng việc trình bày Gioan Tẩy Giả như là tiếng hô trong sa mạc (x. Mc 1,3).

Theo một tài liệu không chắc lắm cho biết thánh nhân được ủy phái đi truyền giáo ở Ai Cập sau đó. Với cuốn Phúc Âm, ngài đã đưa nhiều người trở về với Chúa. Ngài là vị sáng lập và là Giám Mục đầu tiên giáo đoàn Alexandria. Nhờ tài lợi khẩu, trí thông minh và sự thánh thiện, ngài đã dẫn đưa được nhiều người về cùng Chúa.

Cũng như các tông đồ, thánh nhân cũng gặp nhiều gian lao thử thách trong sứ mạng làm chứng cho Chúa. Cuối cùng ngài cũng chịu bách hại bởi những lương dân tại giáo đoàn ngài đang phục vụ. Họ đã bắt ngài điệu qua các phố với mục đích bêu xấu ngài, và lôi kéo ngài trên đường đá gồ ghề cho tới khi tắt thở. Hôm đó là ngày 25/04/67.

Ngài mất đi để lại một sự nghiệp vô giá. Phúc Âm do ngài biên soạn vẫn còn mãi. Danh ngài sẽ luôn được nhắc đến trong Giáo Hội, nhưng quan trọng hơn hết là phần thưởng bội hậu mà Thiên Chúa đã ban cho ngài trên Thiên Quốc.

Nguyện xin Chúa qua lời chuyển cầu của thánh nhân ban cho mỗi người chúng ta biết tích cực cộng tác với GH trong sứ mạng loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Ðức Kitô phục sinh trong những bổn phận hằng ngày với hết khả năng của mình bằng con tim cháy lửa yêu mến theo gương thánh Marcô tác giả của Tin mừng, mà chúng ta mừng kính hôm nay.

 

* Mùa phục sinh: Cv 13,13-25; Ga 13,16-20.

Suy niệm 1:

Sách Cvtđ hôm nay tiếp tục ghi lại cuộc hành trình truyền giáo lần thứ I của Phaolô và Barnaba nơi vùng đất dân ngoại, ngoài lãnh thổ Giêrusalem. Có lẽ cuộc hành trình truyền giáo này gặp rất nhiều vất vả, khó khăn nênmôn đệ Gioan-Márcô đã rời bỏ nhóm mà trở về Giêrusalem, chỉ còn lại Phaolô và Barnaba. Hai ông rời bỏ Paphô để vượt biển đến Antiokhia xứ Pisiđia. Tại đây, vào ngày Sabath, Phaolô cùng với Barnaba vào hội đường người Do Thái để cử hành nghi thức phụng vụ (đọc và nghe giải thích thánh kinh, học hỏi lề luật và cầu nguyện). Tận dụng cơ hội này, Phaolô đã đứng lên giảng dạy. Nội dung bài giảng của Phaolô chủ yếu là điểm lại những chặng đường lịch sử mà dân tộc Israel đã đi qua:

- Từ Ai-cập cho đến xuất hành khỏi cảnh nô lệ.

- Từ vượt qua hành trình 40 năm trong sa mạc cho đến vào đất hứa.

- Từ thời các thủ lãnh đến thời quân chủ

- Cuối cùng là thời Messia đã được Gioan Tẩy Giả loan báo. Đấng Messia ấy chính là Đức Giêsu-Kitô. Người đến để hoàn tất kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ.

Sau khi tóm tắt lại những chặng đường lịch sử mà dân tộc Israel đã đi qua, Phaolô muốn chứng minh cho khán giả thấy rằng: Thiên Chúa là Đấng luôn trung tín trong lời hứa với tổ phụ Abraham nên đã ban cho Israel Đấng Cứu Độ xuất thân từ giòng dõi vua Đavid và Đất hứa làm gia nghiệp.

Xin cho chúng ta luôn ý thức: Lời hứa rất quan trọng trong đời sống. Nếu một người biết giữ lời hứa và thực hiện lời hứa, chứng tỏ người ấy sống có trách nhiệm với bản thân và người khác, sẽ được người khác quý mến, tôn trọng và tín nhiệm. Ngược lại, nếu nói mà không làm, thường xuyên thất hứa, chứng tỏ người ấy sống thiếu trách nhiệm, không biết tôn trọng bản thân và người khác, chắc chắn sẽ không được tôn trọng. Nên trước khi hứa với ai điều gì ta nên cẩn trọng xem mình có khả năng thực hiện được không? Và nếu một khi đã hứa, hãy cố gắng thực hiện!

Trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, ta (hay cha mẹ thay ta) đã hứa với Chúa và GH là từ bỏ tà thần và tuyên xưng đức tin, trung thành sống với Chúa trong tình con thảo. Xin cho mỗi chúng ta luôn ý thức sống trung thành với lời đã thề hứa ấy. Nhất là xin cho các đôi vợ chồng trẻ luôn biết tôn trọng và tuân giữ lời mình đã tự nguyện thề hứa trước mặt Thiên Chúa và cộng đoàn trong ngày cử hành bí tích hôn phối mà trung thành với nhau trong đời vợ chồng, cho dẫu phải đối mặt với những nghịch cảnh trong đời sống.

 

Suy niệm 2: 

Các nhà xã hội học định nghĩa con người là con vật có xã hội tính. Thật vậy “không ai là một hòn đảo”. Con người sống là sống với, sống cùng, sống cho và sống nhờ… người khác. Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mở lòng đón tiếp những sứ giả Chúa với tấm lòng yêu mến và hy sinh phục vụ. Yêu mến phục vụ các ngài chính là yêu mến và phục vụ Chúa.

“Tôi tớ không lớn hơn chủa nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi” (Ga 13, 16). Các tông đồ là môn đệ Chúa nên các ông không thể bằng Chúa. Nhưng các ngài diễm phúc được Chúa Giêsu đặt ngang hàng với Người. “Ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy”. Như thế, Chúa mời gọi chúng ta phải lưu tâm đón tiếp và phục vụ những sứ giả của Chúa sai đến là các tông đồ. Tiếp nối các tông đồ là các Linh mục. Các ngài cũng là những Chúa Kitô thứ hai. Do đó đón tiếp các ngài là đón tiếp chính Chúa.

Trong Thánh Kinh chúng ta thấy còn ghi lại một vài nét đẹp của sự tiếp đón đáng cho chúng ta bắt chước. Những gương sáng này vẫn luôn giữ được tính cách thời sự của nó.

1.  Ông Abraham.

Ông là một con người hiếu khách và quảng đại. Khi thấy ba khách lạ đang đi trong sa mạc nắng cháy, không những ông mời mà còn năn nỉ họ vào nhà nghỉ và ân cần săn sóc họ một cách chu đáo. Ba người khách lạ đó là ai ? Đó là ba sứ giả của Thiên Chúa. Đáp lại tấm thịnh tình và lòng quảng đại của ông, ba sứ giả ban cho vợ chồng hiến muộn này một đứa con trai đầu lòng. Đó là cậu Isáac.

2.  Một gia đình ở Su-nêm.

Khi tiên tri Elia qua Su-nêm, một bà giầu có rất hiếu khách đã mời Elia vào nhà dùng bữa với sự săn sóc tỉ mỉ. Bà còn dọn cho tiên tri một phòng trên gác đầy tiện nghi để tiên tri có thể lui tới tự do. Đáp lại tấm lòng quảng đại của bà, Elia cũng hứa ban cho bà một đứa con vì bà son sẻ: ‘Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng”

3.  Gia đình ba chị em ở Bêtania.

Chúa Giêsu rất thương ba chị em này, mỗi khi đi qua Bêtania, Chúa và các môn đệ thuờng ghé thăm chị em và nghỉ ngơi. Chị cả Matta rất hiếu khách, dọn cho Chúa những bữa ăn ngon. Còn cô em Maria  đón tiếp Chúa bằng cách ngồi dưới chân Chúa mà nghe Ngài dạy dỗ, cách đón tiếp này cũng làm cho Chúa rất hài lòng. Còn Lagiarô là đàn ông thì tiếp theo kiểu đàn ông là ăn uống và chuyện trò với Chúa. Đáp lại sự đón tiếp ân cần và thành thực của ba chị em, Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô sống lại sau khi chết bốn ngày.

Khi tiếp đón các tông đồ của Chúa, dĩ nhiên chúng ta phải mất mát : mất thì giờ, mất tiền của, mất công... Nhưng tất cả sẽ được Chúa thưởng công cho ở đời này hay đời sau. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa, đã tiên liệu cho chúng ta có những người kế tiếp Chúa, là các Linh mục, để đem Chúa đến cho chúng ta và dạy bảo chúng ta về đời sống đạo.

 Chúng ta cầu xin cho các linh mục biết sống và thể hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trước mặt Chúa cho xứng đáng, để mọi người nhận ra khuôn mặt Đức Kitô qua đời sống linh mục.

 

Thứ sáu: Cv 13,26-33; Ga 14,1-6.

Suy niệm 1: 

Sau khi nhắc lại những chặng đường lịch sử mà dân Israel đã trãi qua dưới sự dẫn dắt đầy khôn ngoan của TC, Phaolô tiếp tục dùng khung bài giảng Kerygma (bài giảng truyền giáo) để khái quát về cuộc đời của Đức Giêsu nơi trần thế và khẳng định mọi điều Thiên Chúa hứa ban nay đã được thành toàn nơi Đức Kitô qua cái chết và sự Phục Sinh vinh hiển của Người.

- Về sự phục sinh của Đức Giêsu: Phaolô khẳng định chính Đức Kitô đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ: "Trong nhiều ngày, Đức Giêsu đã hiện ra với những kẻ từng theo Người từ Galilê lên Giêrusalem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người trước mặt dân". Và Phaolô và Barnaba chính là chứng nhân cho tin mừng ấy: "Còn chúng tôi, chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: Điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Đức Giêsu sống lại, đúng như lời đã chép trong Thánh vịnh 2: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2,7).

- Về cái chết của Đứcc Giêsu: Phaolô nhấn mạnh cái chết của Đức Giêsu là do "dân cư thành Giêrusalem và các thủ lãnh của họ” gây nên. Nhưng cũng như Phêrô, ngài cho biết sở dĩ họ giết Đức Giêsu là vì họ không nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ.

+ Từ đó, Phaolô hướng mọi người nhìn về cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu là kế hoạch cứu độ đầy khôn ngoan của TC, vì đã ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã nói về Người Tôi Trung của TC. Và ông kêu gọi mọi người sám hối, tin nhận Đức Giêsu để đón nhận ơn cứu độ.

Với cái nhìn đức tin, Phaolô cho thấy: dù con người có từ chối và đóng đinh Chúa Giêsu trên Thập Giá, họ cũng không tài nào vô hiệu hóa được kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, để từ nay, không những dân Israel mà mọi người đều có thể nhận được ơn cứu độ.

Xin cho chúng ta biết phó thác đời mình cho kế hoạch đầy khôn ngoan và giàu lòng yêu thương của TC. Để cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu vẫn phải chấp nhận ngang qua con đường thập giá. Vì thế thập giá chính là con đường mà chúng ta phải bước theo nếu muốn được cứu độ. Xin cho chúng ta luôn can đảm sống tinh thần của thánh Phaolô để sẵn sàng "cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống lại như Người".

 

Suy niệm 2: 

Ngày xưa chưa có đường. Nhưng do đi lại nên trở thành đường mà thôi. Muốn đi và đạt đến đỉnh hạnh phúc vinh quang ta cần có con đường để đi. Con đường ấy chính là Đức Giêsu Kitô, Ngài đi từ trời xuống và từ đất lên và trở nên đường đưa dẫn chúng ta về trời sum họp cùng với Ngài trong nhà Cha. Xin cho chúng ta biết đi trên con đường mà chính Chúa đã vạch ra hầu chúng ta đạt tới quê trời vinh phúc.

Sau một thời gian rời bỏ Việt Nam để tìm cho mình cuộc sống tự do nơi quê hương xứ sở mới. Nay cuộc sống của hầu hết Việt Kiều ở nước ngoài đều ổn định và sung túc. Trong khi đó những người thân của họ ở lại thì phải sống trong cảnh khó khăn, vất vã. Với chính sách đoàn tụ gia đình, những năm gần đây, nhiều việt kiều đã về nước để bảo lãnh người thân của mình sang để sum họp gia đình và hưởng được cuộc sống tiện nghi thoải mái. Tuy nhiên để được đoàn tụ với người thân bên nước ngoài, công dân việt nam phải thoả mãn nhiều điều kiện....

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho các tông đồ biết : Ngài sẽ ra đi để dọn chỗ cho các ông, rồi một ngày nào đó, Chúa sẽ trở lại, đem các ông lên ở với Chúa trên nhà Cha trên trời, để hưởng vinh phúc đời đời. Tuy nhiên để được đoàn tụ với Chúa Giêsu trên quê hương thiêng đường, Chúa cũng đòi hỏi chúng ta phải thoả mãn các điều kiện mà Chúa đưa ra. Đó là đi đúng con đường của Chúa đã đi, tuân giữ chân lý mà Chúa đã truyền và hiệp thông trong sự sống của Chúa.

Con đường mà Chúa Giêsu đi là con đường hẹp, con đường thập giá. Chấp nhận hy sinh, gian khổ để thi hành những giời răn mà Chúa đã chỉ dạy. Biết khiêm tốn, hạ mình chấp nhận thiệt thòi để phục vụ tha nhân với tình yêu mến.

Cố gắng sống theo chân lý mà Chúa đã dạy. Chân lý ấy là sống yêu thương. Yêu không chỉ những người thân cận, không phải những kẻ yêu mình mà tình yêu phải quy chiếu vào tình yêu của Chúa Giêsu: “Yêu như Chúa yêu”, tình yêu ấy phải dành cho hết mọi người, không phân biệt một ai, ngay cả kẻ thù.

Ý thức nổ lực sống hiệp thông với Chúa, bằng việc lắng nghe và thi hành Lời Chúa cũng như tha thiết kết hiệp với Chúa qua việc kính yêu và năng đón nhận Mình Thánh Chúa. Nhờ thế sự sống và sức mạnh Chúa tuôn chảy trong ta. Như nhựa cây cần thiết để nuôi sống cây nho và cành nho thế nào thì linh hồn chúng ta cũng cần đến Lời Chúa và Mình Thánh Chúa như thế.

 Mục đích một đời sống đạo là hạnh phúc thiêng đàng. Nhưng để đạt được điều mong đó, không gì khác hơn là chúng ta phải đi theo đường Chúa đã đi, sống theo chân lý mà Chúa đã sống và chỉ dạy, nhất là phải luôn sống bằng sức sống của Chúa qua việc thi hành Lời Chúa và năng kết hiệp với Chúa nơi bàn tiệc Thánh Thể.

 

Thứ bảy: Cv 13,44-52; Ga 14,7-14.

Suy niệm 1: 

Với chủ đích ban đầu của các môn đệ là loan báo Tin mừng Cứu độ chủ yếu cho người Do Thái nên Phaolô và Barnaba luôn tận dụng Hội đường để rao giảng. Lần này cũng vậy, Phaolô và Barnaba đến Hội đường vào ngày Sabath để rao giảng theo lời mời của một số người Do Thái. Tuy nhiên lần này hai ông lại bị chống đối quyết liệt bởi những người Do Thái quá khích.

Hai lý do họ chống đối Phaolô và Barnaba là:

- Thứ nhất vì ghen tương: Họ không muốn Phaolô và Barnaba có ảnh hưởng trên đám đông; vì nếu đám đông nghe theo Phaolo va Barnaba thì họ sẽ không còn ảnh hưởng trên dân chúng nữa. Họ không muốn thấy ai được phép bằng họ.

- Thứ hai vì quan niệm hẹp hòi: Truyền thống Do Thái quan niệm chỉ có họ mới là con Thiên Chúa và có đặt quyền nghe lời của Thiên Chúa. Giờ đây cả dân ngoại cũng được làm con Thiên Chúa và được nghe lời Thiên Chúa thì họ đâu còn chi đặc biệt nữa. Nên khi “thấy đám đông dân chúng, thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy”.

Cách giải quyết của Phaolô và Barnaba trước sự chống đối:

1. Bình tĩnh can đảm giải thích: Lẽ ra "Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân Ngoại".

2. Dùng Lời Chúa để minh chứng: Phaolô và Barnaba đã trích lại lời Thiên Chúa trong sách Isaia để cho thấy việc rao giảng Lời của Chúa cho dân ngoại chính là lệnh truyền của Thiên Chúa: “Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dânđể ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất." (Is 49, 6).

Nhưng khi nghe những lời đó, họ càng phẩn nộ, đã xách động và xúi dục nhóm phụ nữ thượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, ngược đãi ông Phaolô và ông Barnaba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ.

Trước thái độ cố chấp của họ, cuối cùng hai ông đành phải cắt đứt liên hệ với họ qua cử chỉ“giũ bụi chân phản đối họ và đi tới Icôniô”, theo như lời Chúa Giêsu đã dạy:“Nếu người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi thành ấy, anh em hãy giũ bụi chân lại.” (Mt 10,14). Chính nhờ đó mà Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy và dân ngoại được hân hoan ca tụng Lời Chúa.

Xin cho chúng ta biết noi gương hai thánh tông đồ Phaolô và Barnaba luôn nhiệt tâm rao giảng Tin mừng cho mọi người dù gặp phải nhiều gian nan thử thách. Nhất là cho mỗi người Kitô hữu chúng ta biết tích cực góp phần cho công cuộc truyền giáo với hết khả năng của mình. Đừng vì tính ích kỷ, ghen tị, tự mãn… hay bất cứ lý do nào làm ngăn cản cho sứ vụ loan báo Tin Mừng.

 

Suy niệm 2: 

 "Xin cho chúng con thấy Chúa Cha" (Ga 14,8). Đó không chỉ là khao khát của tông đồ phi-lip-phê mà là mỗi chúng ta, những người tin Chúa. Khao khát đó sẽ được Đức Giêsu làm thoả mãn qua sứ điệp của lời Chúa hôm nay.

 Tin Mừng hôm nay, Philipphê xin với Chúa Giêsu: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện" (Ga14,8). Khao khát của Phi-lip-phê, cũng là khao khát mỗi chúng ta.

Thiên Chúa đã đáp lại khát vọng đó qua việc cho Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử Giêsu.” (Dt 1,1- 20). Nơi Đức Giêsu Kitô, chúng ta gặp được Thiên Chúa, dễ gần, dễ thấy, dễ quen.

Thiên Chúa đâu chỉ ở nơi cao thẳm ngàn trùng, Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Giữa Ngài và Thiên Chúa Cha có một gắn bó lạ lùng đến nỗi Đức Giêsu dám nói: "Ai biết Thầy là biết Cha" (Ga 14,7). "Ai thấy Thầy là thấy Cha." (Ga 14,9) vì "Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy." (Ga 14,10).

Lời nói và việc làm của Đức Giêsu chính là lời nói và việc làm của Thiên Chúa (x. Ga 14, 10). Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu được Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt, phản chiếu khuôn mặt và trái tim Thiên Chúa, đầy nhân ái và bao dung với hết mọi người. Kitô hữu là người có Chúa Kitô nên được mời gọi trở nên giống Chúa Giêsu để có thể nói rằng: Ai biết tôi là biết Đức Kitô, ai thấy tôi là thấy Đức Kitô.

Lạy Chúa Giêsu! Ðã bao lần con làm cho khuôn mặt Chúa trở méo mó, biến dạng và có thể là rất khó thương vì đời sống không tốt đẹp của con. Xin cho con biết nhìn lên Chúa như một khuôn mẫu tuyệt vời để tu tập thành con người mới, con người có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và tình yêu thương, để nhờ đó con trở thành hình ảnh trung thực về Chúa cho thế giới hôm nay. Amen.


SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN IV PHỤC SINH

Lm Minh Anh, Tgp Huế

CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH-CHÚA CHĂN CHIÊN LÀNH

Cv 4, 8-12; 1Ga 3,1-2; Ga 10,1-18

ĐỂ PHỤC VỤ

“Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”.

“Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ bằng việc bị đói; tuy nhiên, Ngài là Bánh Trường Sinh. Kết thúc sứ vụ bằng cơn khát; tuy nhiên, Ngài là Nước Hằng Sống. Bị bán ba mươi đồng bạc; tuy nhiên, Ngài cứu chuộc cả thế gian. Và đã chết như một con chiên; tuy nhiên, Ngài là Mục Tử Nhân Lành!” - Grêgôriô Nazian.

Kính thưa Anh Chị em,

Hôm nay, Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, ngày cầu cho ơn gọi. Hạn từ “ơn gọi” thường bị giới hạn trong chức linh mục và đời sống tu trì. Vậy mà, như chính Chúa Giêsu, mọi thành viên trong Giáo Hội đều đã nhận một “ơn gọi”, ơn gọi đó là ‘để phục vụ’ tha nhân.

Chúa Giêsu là mẫu mực hoàn hảo của mọi ơn gọi, Ngài đến không để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình. Ngài nói, “Tôi là mục tử nhân lành!”. Tất cả những gì Ngài nhận được từ Chúa Cha, Ngài đều cho người khác. Đây cũng là trọng tâm ơn gọi phục vụ của chúng ta. Những gì chúng ta có, những gì chúng ta là đều đến từ Thiên Chúa, và chúng ta được kêu gọi dùng tất cả chúng ‘để phục vụ’ anh chị em mình.

Ai cũng có thể phục vụ bằng những cử chỉ tưởng chừng như nhỏ bé - nhưng thực ra lại rất vĩ đại - nếu chúng được làm bởi một tình yêu chân thành. Những cách chúng ta sống ơn gọi này thường rất khiêm tốn và ẩn giấu; những gì dường như không đáng kể - một đôi tai biết lắng nghe, một lời khích lệ, một cử chỉ nhỏ nào đó - điều mà Tin Mừng có lúc gọi là “chén nước lã”. Bạn không cần phải nghĩ đến một công việc to tát hoặc một nhiệm vụ hấp dẫn nào đó; nhưng hãy làm những gì xem ra tầm thường với một trái tim phi thường!

Phần lớn cuộc đời được diễn ra trên các sân khấu nhỏ! Chính trong không gian đó, ơn gọi phục vụ của chúng ta được thực hiện. Cách bạn và tôi sống ơn gọi phục vụ trong không gian đó sẽ không gây chú ý và có thể không bao giờ được biết đến; tuy nhiên, khi các mối quan hệ được gợi hứng bởi một trái tim yêu thương thì một thế giới mới sẽ được tạo ra.

Hãy chiêm ngắm những tố chất nơi Mục Tử Nhân Lành Giêsu! Ngài yêu thương, biết từng con chiên và cuối cùng, hy sinh mạng sống cho chiên. Ngài yêu thương chúng ta với những sở trường lẫn sở đoản của mỗi người; Ngài biết từng con hẽm tối, từng lối mòn của chiên. Vì thế, Ngài không ngần ngại cất công tìm kiếm. Cuộc đời của Ngài là một cuộc đời quan tâm và hy sinh. Ngài đến, để yêu thương, ‘để phục vụ’, quên mình và chết cho chiên.

Ngài tiếp tục phục vụ, trao ban chính Ngài. Chúng ta hãy tham dự Thánh Lễ với tấm lòng rộng mở, đón nhận sự phục vụ của Ngài, “Hãy cầm lấy mà ăn!”. Khi nhận lấy chính Ngài, chúng ta để mình được Ngài phục vụ; nhờ đó, có thể sống ơn gọi phục vụ của mình. Chúng ta sẽ phục vụ Ngài nơi người khác như Ngài đã phục vụ chúng ta qua người khác.

Anh Chị em,

“Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”. Đó phải là mẫu mực và là tiếng gọi bền bỉ trong suốt cuộc đời mà chúng ta không ngừng khám phá những cách thức mới mẻ để đáp trả. Hãy luôn có cho mình một bước đi mới, bất kể chúng ta đang ở đâu trên hành trình cuộc đời. Là con cái Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi tiếp tục phát triển bản thân theo hình ảnh Ngài, và như thế, chúng ta đang nên thánh!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con như đứa chăn thuê chăm chút vun quén cho bản thân, cho con dám sống, dám chết cho linh hồn của những ai Chúa trao cho con!”, Amen.

 

Thứ hai: TIẾNG NGƯỜI LẠ

“Chúng sẽ không theo nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ”.

Một người Mỹ du lịch Syria, thấy ba người chăn chiên dẫn đoàn vật của mình đi chung trên một con đường.

Một lúc sau, người thứ nhất hô to, “Men ah! Men ah!”, tiếng Ả Rập là “Hãy theo tôi!”. Chiên của anh tách đàn, túc tắc theo anh lên một ngọn đồi.

Người thứ hai cũng làm thế, chiên lững thững theo anh. Người Mỹ nói với người thứ ba, “Cho tôi mượn mũ, gậy của anh; tôi sẽ gọi, xem làm sao?”. Người ấy vui lòng.

Người Mỹ gọi, “Men ah! Men ah!”. Chẳng con nào ngẩng lên! “Chiên không nghe ai khác, chỉ trừ một mình anh?”. Người ấy trả lời, “Có chứ! Vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai!”. Lời Chúa hôm nay bất ngờ hỏi chúng ta, “Con có khoẻ không?”. Và hy vọng, bạn khoẻ, để từ chối ‘tiếng người lạ’ và chỉ nghe tiếng Giêsu - Chủ Chiên - như lời Ngài nói, “Chúng sẽ không theo người lạ!”.

Có lẽ chúng ta thường tự trấn an, ‘tiếng người lạ’ không ảnh hưởng mấy đến tôi! Thế nhưng, tiếng của ‘tin lạ’, ‘người lạ’, ‘tiền lạ’, dục vọng và các thứ khác… lại ảnh hưởng lên bạn và tôi nhiều hơn chúng ta tưởng. Và dù tin hay không tin, chúng vẫn tác động và áp lực mạnh mẽ! Chúa Giêsu nói đến sự khác biệt giữa tiếng mục tử và ‘tiếng người lạ’. Chiên dễ thuần thục khi được dạy để phản ứng có điều kiện, vì chủ chiên thường nói chuyện với chiên. Nghe anh, chiên ngẩng lên và đi theo anh; với người lạ thì không!

Điều này cũng đúng với chúng ta. Bạn sẽ đi theo tiếng mà bạn quen thuộc! Vậy thì bạn quen với điều gì nhất? Lý tưởng là chúng ta dành đủ thời gian cho việc đọc Lời Chúa, học ngôn ngữ, giọng điệu và tiếng của Ngài; lý tưởng là chúng ta dành một phần thời gian trong ngày, mỗi ngày, để im lặng đủ mà chiêm ngắm, cầu nguyện. Khi làm điều này, bạn xây dựng cho mình một ‘thói quen nghe’ và trở nên dễ chịu với tiếng Chúa. Một khi thói quen này được hình thành, chúng ta sẽ dễ dàng hơn rất nhiều trong việc nhận ra tiếng Chúa giữa những bận rộn ‘đời đời’ của mình và làm theo ngay!

Câu chuyện Công Vụ Tông Đồ hôm nay là một minh hoạ. Những người đồng hương trách Phêrô vì ông giao du với người ngoại. Nhưng nhờ cầu nguyện và lắng nghe, Phêrô nhận ra tiếng Chúa qua câu chuyện dài mà ông đã kể, “Nghe xong, họ mới chịu im”; họ nói, “Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho các dân ngoại ơn sám hối để được sự sống”.

Anh Chị em,

“Chúng không nhận biết tiếng người lạ”. Chúa Giêsu không bao giờ nghe ‘tiếng người lạ!’; cuộc chiến của Ngài trong hoang địa 40 đêm ngày chứng tỏ điều đó. Ngài luôn hướng về Chúa Cha, quen với tiếng của Cha, nên Ngài luôn làm điều đẹp lòng Cha. Cũng thế, với chúng ta, đừng để ‘tiếng người lạ’ lấn át tiếng nói của Giêsu Mục Tử và Thánh Thần của Ngài! Ngài không bao giờ xa lạ; Ngài là bạn, là anh em, miệt mài nói to nói nhỏ với chúng ta mỗi ngày để bạn và tôi có thể ‘phản xạ có điều kiện’ mỗi khi Ngài gọi. Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng nhạy bén để nghe được Ngài giữa bao bận rộn. Vì thế, hãy cẩn thận! Chúng ta luôn có nguy cơ bị phân tâm bởi những ‘tiếng lạ’ vốn luôn ngọt ngào, lôi cuốn. Đừng để mình thuộc số “Vài con bị bệnh, sẽ đi theo bất cứ ai!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, có lẽ con ‘không khoẻ’ lắm, nếu không nói là ‘bệnh’. Xin cứu con, để con không đi theo bất cứ ai!”, Amen.

 

Thứ ba: LUÔN KHÍCH LỆ

“Tôi ban cho chúng sự sống đời đời”.

“Hãy tâng bốc tôi, tôi có thể không tin bạn! Hãy chỉ trích tôi, tôi có thể không thích bạn! Hãy quên bẵng tôi, tôi có thể không tha cho bạn! Nhưng hãy khích lệ tôi, tôi sẽ không bao giờ quên bạn!” - William Arthur Ward.

Kính thưa Anh Chị em,

“Hãy khích lệ tôi, tôi sẽ không bao giờ quên bạn!”. Thật thú vị! Các nhân vật của Lời Chúa hôm nay là những con người ‘luôn khích lệ’ mà Giáo Hội và thế giới sẽ không bao giờ quên lãng: Barnaba, ‘Con của sự khích lệ’; và Giêsu, ‘Thiên Chúa của sự khích lệ!’.

Công Vụ Tông Đồ tường thuật cuộc viếng thăm của Barnaba; “Barnaba”, tiếng Hy Lạp có nghĩa là ‘Con của sự khích lệ!’. Từ Giêrusalem, Barnaba được cử xuống Antiôkia để xét xem hiện tình. Vui mừng khi thấy “ơn Thiên Chúa” ban, Barnaba “khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa”; ông dành cho anh chị em tân tòng một sự khích lệ lớn lao. Sau đó, đến Taxô, Barnaba tìm Phaolô, người mới tin; đưa Phaolô đi Antiôkia để hỗ trợ cho Hội Thánh non trẻ này. Từ đó, Phaolô trở thành trụ cột của Antiôkia; và “Chính tại Antiôkia, lần đầu tiên, các môn đệ được gọi là Kitô hữu”, Hội Thánh ngày càng có nhiều người tin; Thánh Vịnh đáp ca bộc lộ nỗi hân hoan, “Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa!”.

Lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay cũng thật khích lệ, “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời”. Với Ngài, hạnh phúc tối thượng của mỗi con chiên là “sự sống đời đời”. Tuy nhiên, không phải là những con chiên thụ động nhưng là những con chiên biết lắng nghe Chủ Chiên, một điều gì đó không thể thiếu trong mối quan hệ của nó với Ngài, “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi”. Ngài ra sức bảo vệ chiên, “Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”; nhưng để khỏi bị cướp, mỗi con chiên cần đóng góp phần tích cực của mình. Nghĩa là, chúng ta phải im ắng đủ để nghe tiếng Mục Tử Giêsu qua từng biến cố, từng cử hành phụng vụ, từng trang Phúc Âm; siêng năng tìm đến suối nguồn ân sủng, các Bí tích. Bởi lẽ, ngày nay, đang có nhiều ‘tiếng người lạ’ dành giật sự chú ý; và thật không dễ để bạn và tôi có thể nghe được những lời ‘luôn khích lệ’ của Ngài.

Anh Chị em,

“Tôi ban cho chúng sự sống đời đời”. Noi gương Chúa Giêsu, ‘Thiên Chúa của sự khích lệ’; bắt chước Barnaba, ‘Con của sự khích lệ’, chúng ta cũng ao ước “sự sống đời đời” cho mình và cho tha nhân. Như các ngài, chúng ta khuyến khích nhau trong đức tin, giúp nhau lớn lên trong sự thân tình với Chúa và sống liên đới với nhau. Cha mẹ khuyến khích con cái, con cái khuyến khích cha mẹ; anh chị em, bạn bè khuyến khích nhau để nên thánh mỗi ngày; vì “Chúng ta không lên thiên đàng một mình!”. Ước gì bạn và tôi có một trái tim lặng đủ để nhanh nhạy ‘ngẩng lên’ khi nghe Giêsu Mục Tử gọi và mau mắn thi hành điều Ngài muốn! Từ đó, dám dấn thân, trở nên những con người sẵn sàng vực dậy những ai đang bủn rủn, đầu gối rã rời. Như vậy, trong mọi lĩnh vực, ‘mục vụ khuyến khích’, ‘văn hoá khuyến khích’ vẫn đóng một vai trò nhất định, không chỉ ở các Hội Thánh non trẻ, mà cả với Giáo Hội trưởng thành và ngay trong thế giới hiện đại!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, giúp con sống và dạy ‘văn hoá khuyến khích’. Đừng để con nhìn mọi sự dưới lăng kính tiêu cực. Cho con luôn dấn thân trong ‘mục vụ khuyến khích!’”, Amen.

 

Thứ tư: NGHE TRONG ÁNH SÁNG

“Tôi là ánh sáng!”.

“Rất nhiều người chỉ thay đổi khi họ cảm nhận sức nóng; nhưng một số khác sẽ thay đổi khi họ biết nghe trong ánh sáng!” - Anon.

Kính thưa Anh Chị em,

“Một số khác sẽ thay đổi khi họ biết nghe trong ánh sáng!”. Câu nói trên trùng hợp với những gì mà Lời Chúa hôm nay tiết lộ. Hội Thánh Antiôkia ‘nghe trong ánh sáng’; Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài ‘nghe trong ánh sáng’, chính Ngài! “Tôi là ánh sáng!”.

Bài đọc Công Vụ Tông Đồ cho biết, tuy Barnaba và Saolô là hai trụ cột của Hội Thánh Antiôkia; nhưng các tín hữu ở đây - nhờ sức nóng của Thánh Thần - đã vui lòng để hai ông ra đi. Sở dĩ họ có thể làm được một nghĩa cử hào hiệp đến thế là vì họ đã có khả năng ‘nghe trong ánh sáng’ Chúa Phục Sinh! Từ đó, họ dám buông bỏ ‘hai tài sản’ lớn nhất của mình hầu Tin Mừng có thể vươn tận những chân trời xa xôi, mới mẻ. Chúa Phục Sinh và Thánh Thần của Ngài đã ‘đốt cháy’ trái tim những con người này; cho họ ‘cảm nhận’ sức nóng của Ngài; nhờ đó, họ đủ khả năng tự làm rỗng mình, trở nên nghèo, để nhiều người thuộc các miền dân ngoại được nên giàu có thiêng liêng.

Phaolô sẽ tiếp tục quảng diễn đề tài này trong thư Côrintô, “Đức Kitô vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có”. Chúa Thánh Thần cũng hoạt động trong chúng ta theo một kiểu thức tương tự! Ngài luôn dịch chuyển bạn và tôi về phía trước, dạy chúng ta hiến thân và làm rỗng chính mình hầu những người khác nhận biết Giêsu - chân lý và ánh sáng -hầu Thiên Chúa được ngợi khen. Thánh Vịnh đáp ca là một lời ước, một lời cầu sâu sắc, “Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài!”.

“Tôi là ánh sáng!”. Chúa Giêsu muốn người đương thời, các môn đệ và cả chúng ta nhận biết Ngài là ánh sáng của Chúa Cha. Nhận thức này sẽ thay đổi hướng đi của một đời người; lối nhìn này sẽ thay đổi cảm nhận bên trong của một trái tim. Đó là nhìn và ‘nghe trong ánh sáng’ Kitô, “Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”. Trong Ngài, bạn có niềm vui, tự do và sự toàn vẹn thể xác, tâm trí, trái tim và linh hồn!

Anh Chị em,

“Tôi là ánh sáng!”. Vào trần gian trong ánh sáng của Thánh Thần và tiến về phía trước nhờ sự dun dủi của Ngài, Chúa Giêsu rọi chiếu Ánh Sáng Chúa Cha. Ngài nói, “Tôi đến không phải để xét xử, nhưng để cứu thế gian”. Đức Phanxicô viết, “Chúa Giêsu cứu chúng ta khỏi bóng tối bên trong, bóng tối của đời sống hằng ngày, bóng tối của đời sống xã hội, bóng tối của đời sống chính trị, bóng tối của đời sống quốc gia, quốc tế… Có quá nhiều bóng tối bên trong. Ngài cứu chúng ta, nhưng Ngài yêu cầu chúng ta nhìn thấy chúng trước tiên! Có can đảm nhìn thấy bóng tối của mình, chúng ta mới có thể để ánh sáng Chúa Kitô rọi vào và cứu thoát”. Được như thế, Thánh Thần sẽ dễ dàng dịch chuyển chúng ta về phía trước; và nương theo Ánh Sáng Ngài, chúng ta sẽ có một tầm nhìn rộng lớn hơn để thấy rõ chương trình, kế hoạch xót thương của Thiên Chúa; và - bằng một đời sống chứng tá - giúp người khác có khả năng ‘nghe trong ánh sáng’ Giêsu.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, hãy rọi vào những vùng tối chết chóc trong con và giải thoát con! Nhờ đó, con không chỉ cảm nhận sức nóng nhưng còn được biến đổi bởi nó!”, Amen.

Thứ năm: KÍNH THÁNH MARCO, TÁC GIẢ TIN MỪNG

AN LÒNG VỀ MỘT SỰ HIỆN DIỆN

"Các tông đồ đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông”.

“Đứng trên đỉnh đồi, tôi nhìn thung lũng này đến thung lũng khác; từ ánh nắng đến sương mù, từ bóng tối của đêm. Bước theo Ngài trên đường đời quanh co, bằng niềm tin nhiều hơn bằng thị giác. Ngài hiện diện như tia chớp, tiếng Ngài như sấm ran; nhưng Ngài lại dẫn tôi trong yên ắng thì thầm của Thánh Thần. Và tôi ruổi theo! Mạnh mẽ hay dịu dàng, tình yêu Ngài vẫn lênh láng. Tôi an lòng về một sự hiện diện liên lỉ!” - William Cowper.

Kính thưa Anh Chị em,

“Tôi ‘an lòng về một sự hiện diện’ liên lỉ!”. Cùng với William Cowper, Lời Chúa lễ kính thánh Marcô cho thấy sự hiện diện liên lỉ của Chúa Phục Sinh nơi những kẻ Ngài sai đi!

Marcô, tác giả cuốn Phúc Âm ra đời sớm nhất, cũng là cuốn ngắn nhất, ghi lại mệnh lệnh “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo!”. Đó là một lệnh truyền cho một sứ mệnh có tên “Vô Biên!”. Vô biên vì không biên giới, vô thời gian và quá sức người! Giao cho một nhóm nhỏ quá đỗi bình thường, sứ mệnh đó xem ra không tưởng! Tuy nhiên, các môn đệ vẫn ra đi làm chứng về một Giêsu Vô Hình, sống chết cho Đấng ấy, bởi lẽ họ ‘an lòng về một sự hiện diện’ tràn đầy của “Đấng cùng hoạt động với họ” khắp hang cùng ngõ hẻm cho đến mút cùng thế giới. Và đó là một sự thật!

Sứ mệnh “Vô Biên” không dành riêng cho nhóm nhỏ đầu tiên, nhưng còn cho bạn và tôi! Trong “Memoirs of St. Peter”, “Hồi Ký Của Thánh Phêrô”, Michael Pakaluk có một cái nhìn khá sâu sắc, “Việc loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo ngụ ý rằng, sự khéo léo cũng như sự chăm chỉ của chúng ta cần được Tin Mừng thắm đượm; từ đó, ngang qua các nền văn hoá khác nhau - với một sự chủ động tốt - Kitô hữu chỉnh đốn lại những gì hỏng hóc, tái thiết những nơi Satan từng ở, cũng là nơi nó bị trục xuất. Theo một nghĩa nào đó, sứ mệnh vô biên này bao gồm mọi hình thức và cách cư xử ‘có thể có’ của mọi tín hữu. Bất kể nghề nghiệp, đấng bậc, tuổi tác… họ được sai đi rao truyền tình yêu và lẽ thật của Thiên Chúa cho thế giới. Và ở đó, họ ‘an lòng về một sự hiện diện’ quyền năng của một Đấng Vô Hình đang đồng hành!”.

Trong thư của mình hôm nay, Phêrô bảo đảm với các Hội Thánh rằng, mặc dù họ đang đau khổ, nhưng “Chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường”. Hãy ‘an lòng về một sự hiện diện’ của “Đấng chăm sóc”, Đấng mà tình yêu Ngài được ngợi khen miên viễn, “Lạy Chúa, tình thương Chúa đời đời con ca tụng!” - Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

“Có Chúa cùng hoạt động với các ông”. Nhờ Đấng ‘cùng hoạt động’ đó, bao con người kế tiếp nhau đã ra đi hơn hai thiên niên kỷ qua. Họ sống và chết cho Ngài. Bạn và tôi thì sao? Đừng quên, đây là công việc của Đấng dẫn dắt “bằng tiếng thì thầm của Thánh Thần”. Vì vậy, dẫu khó khăn đến đâu, bạn cứ “ruổi theo Ngài”; gian nan đến mấy, cứ ‘an lòng về một sự hiện diện’ liên lỉ của Ngài “bằng niềm tin nhiều hơn bằng thị giác!”. Vấn đề là bạn và tôi “phải được Tin Mừng thắm đượm”, hầu “chỉnh đốn lại những gì hỏng hóc, tái thiết những nơi Satan từng ở”. Và như thế, chúng ta đang tạo một sự khác biệt cho thế giới!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, chớ gì con - như Marcô - là một dụng cụ sắc bén của Lời, một vũ khí lợi hại trong tay Chúa mà Satan phải run khiếp!”, Amen.

 

Thứ sáu: NHÀ CỦA CHA

“Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”.

Tháng 4/1667, John Milton đã bán bản quyền “Thiên Đàng Đã Mất” - bộ sử thi vĩ đại nhất của nước Anh - cho nhà xuất bản Samuel Simmons, với giá 10 bảng. Ông qua đời, bà Elizabeth Milton bán tất cả tác quyền vĩnh viễn còn lại cho cùng nhà xuất bản với giá 8 bảng. Thật khó để tưởng tượng “giá” một kiệt tác tầm cỡ quốc gia, tầm cỡ thế giới, lại hời đến thế!

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay không nói đến một “Thiên Đàng Đã Mất”, nhưng nói đến một “Thiên Đàng Sẽ Được”. Chúa Giêsu mời chúng ta nhìn vào thực tế vinh quang Nước Trời, đó là Vương Quốc của Cha, ‘Nhà của Cha’; một ngôi nhà có nhiều chỗ mà chúng ta mong ước.

Ngài từng nói với anh trộm lành, “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng!”. Trong toàn bộ Phúc Âm, đây là lần đầu, cũng là lần cuối, chữ “thiên đàng” xuất hiện trên môi miệng Chúa Cứu Thế; điều này có nghĩa là, thiên đàng, một sự thật 100%. Thiên đàng là có thật! Nó không phải là cảnh trí của một câu chuyện cổ tích, hay là một khu vườn hoang tưởng! Nếu hiểu đúng thiên đàng, chúng ta sẽ khát khao nó với một tình yêu sâu sắc; sẽ mong chờ nó với một ước vọng mạnh mẽ; sẽ tưởng nhớ nó với một nỗi vui ngập tràn. Tuy nhiên, thật không may, với một số người, ý nghĩ rời khỏi trái đất để gặp Đấng tạo thành mình là một suy nghĩ không mấy vui, nếu không nói là sợ hãi. Có lẽ đó là một nỗi sợ về những điều chưa biết; họ nghĩ, họ sẽ bỏ lại những người thân yêu, hoặc ngay cả sợ rằng, thiên đàng không phải là nơi an nghỉ.

Là con cái Chúa, điều cần thiết là bạn và tôi cần nuôi dưỡng một tình yêu lớn lao đối với thiên đàng, bằng cách hiểu đúng về nó, hiểu rõ ‘mục đích của cuộc sống hôm nay’ đang khi hướng về nó. Thiên đàng phải định hướng và sắp xếp cuộc sống của chúng ta! Chúa Giêsu nói về ‘đích đến’ này bằng cách đưa ra một hình ảnh rất thân thiện, gần gũi: ‘Nhà của Cha!’. Nó tiết lộ rằng, thiên đàng là ‘nhà mình’, nơi an toàn mà bạn và tôi thư thái bên những người thân yêu và cảm thấy đó là nơi những con trai, con gái của Cha ‘thuộc về’.

Đức Phanxicô nói, “Chúa Giêsu đã dành một chỗ trên trời cho mỗi người chúng ta. Đừng quên, ‘nơi ở’ chờ đợi chúng ta là thiên đàng. Bạn đang quá cảnh ở trần gian, chỉ quá cảnh thôi! Bạn được tạo dựng cho thiên đàng, để sống mãi mãi với những người thân yêu; và cùng họ, chia sẻ niềm vui vĩnh cửu trong ‘Nhà Cha mình!’”.

Anh Chị em,

“Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”. Mỗi chúng ta có nhiều chỗ để đi, nhưng chỉ có một chỗ ‘để ở’; đúng hơn, ‘để về!’. Đó là ‘Nhà của Cha’. Vậy mà, thật bất ngờ! Thiên đàng không ở đâu xa, không chỉ ở đời sau; nó ‘ở đây, lúc này’. Ở đâu có Giêsu, ở đó có thiên đàng; Giêsu là thiên đàng. Vì thế, ở đâu có Thánh Thể, ở đó là ‘một góc’ của thiên đàng. Mỗi ngày, với lòng sạch tội, rước Chúa Giêsu, bạn và tôi ‘ẵm lấy’ thiên đàng. Tác giả “Giêsu Khoan Nhân”, một thánh ca xưa, viết, “Chúa đến thăm con, thăm con mỗi sáng ngày, linh hồn thấy lại tuổi thơ ngây; thiên đàng chớm nở, chớm nở ngay dưới thế, tháng năm hoan lạc trôi từ đây!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, trần gian chỉ là lữ điếm mà con - lữ khách - quá cảnh; đừng để con quên, con đang về ‘nhà Cha’. Bằng không, con sẽ ‘vất vưởng’ không chỉ mai ngày nhưng ngay hôm nay!”, Amen.

 

Thứ bảy: VIỆC LỚN HƠN

“Ai tin vào Thầy, người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa!”.

“Những bước đi của niềm tin dường như rơi vào khoảng không vô định, nhưng tìm thấy đá tảng bên dưới!” - Whittiers.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay có thể khó hiểu, làm sao các môn đệ của Chúa Giêsu có thể làm những ‘việc lớn hơn’ Thầy mình? Nhưng đó là sự thật! Bởi lẽ, họ đã chẳng bước vào những khoảng không vô định; nhưng trong niềm tin, bước trên đá tảng, chính Ngài!

Chính trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu muốn tiết lộ cho các môn đệ rằng, việc Ngài ra đi vào chiều hôm sau - đi chịu chết - không phải là một thảm hoạ. Và việc Ngài “đi về cùng Cha” không chỉ bao hàm cái chết mà còn cả sự phục sinh vinh hiển; đồng thời, nó dẫn đến việc Ngài sẽ gửi Thánh Thần xuống. Việc Thánh Thần được ban sẽ giúp Chúa Phục Sinh tiếp tục công việc của Ngài trong các môn đệ và qua các môn đệ. Với tư cách Phục Sinh, Ngài sẽ thực hiện những việc vĩ đại hơn trong quyền năng Thánh Thần.

Ba mươi ba năm thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu gặp phải giới hạn trong không gian và thời gian; nhưng với tư cách Phục Sinh, Ngài sẽ tiếp tục công việc của Ngài cho mọi thế hệ trên toàn thế giới. Tuy nhiên, Ngài chỉ có thể làm những ‘việc lớn hơn’ đó qua chúng ta - những kẻ tin - vốn luôn bước đi trên chính Ngài.

Bài đọc Công Vụ Tông Đồ hôm nay là một bằng chứng. Dân ngoại nô nức đón nhận Tin Mừng, “Hầu hết cả thành đến nghe lời Thiên Chúa!”. Thánh Vịnh đáp ca chung một niềm vui, “Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta!”. Điều này chỉ có thể xảy ra dưới sự dẫn dắt của Thánh Thần.

Như các tông đồ, nhiều Kitô hữu ngày nay với các phương tiện đi lại và liên lạc sẵn có, có thể mang thông điệp của Chúa Giêsu đến với số lượng lớn hơn và hiệu quả hơn. Đức Thánh Cha, trong một lễ Giáng Sinh, có thể tiếp cận hàng tỷ khán giả thông qua truyền hình, đài phát thanh và các trang webs. Chúa Giêsu không làm được những điều này!

Giờ đây, trong Thân Mình và sức mạnh phục sinh của của Chúa Kitô, Giáo Hội thực sự có thể làm những việc lớn hơn Thầy mình, và điều này được thực hiện bởi chúng ta. Bạn và tôi có trách nhiệm phải thực hiện những ‘việc lớn hơn’ đó với những phương tiện sẵn có. Vậy bạn có muốn tạo nên một sự khác biệt như các tông đồ?

Anh Chị em,

“Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa!”. Đây là một ơn gọi! Trong những việc lớn Chúa Giêsu nói, trước hết và quan trọng hơn hết, là việc chúng ta ‘sống’ và ‘loan báo’ Tin Mừng. Sự thật này khiến chúng ta đầy lòng biết ơn vì đã được mời gọi dự phần vào công việc vĩ đại của Chúa mà không thế lực trần gian nào có thể ngăn cản. Thế nhưng, bạn và tôi có thể bị cám dỗ để nản lòng vào những lúc không thuận lợi vì tưởng rằng, mình bước vào những khoảng không. Lời Chúa bảo đảm rằng, với niềm tin, các công việc tốt lành của chúng ta vẫn tiếp tục, nếu bạn và tôi cứ bước đi trên đá tảng Kitô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con bước vào những khoảng không vô định; cho con tin yêu để bước đi trên chính Chúa; và cùng Chúa, con làm những ‘việc lớn hơn’ cho thế giới!”, Amen.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XIV THƯỜNG NIÊN Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN B Ed 2,2-5; 2Cr 12,7-10; Mc 6,1-6 Suy niệm 1: ...