SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN IV PHỤC SINH
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT IV PHỤC
SINH-CHÚA CHĂN CHIÊN LÀNH
Cv 4, 8-12; 1Ga 3,1-2; Ga
10,1-18
Suy niệm 1: CHÂN DUNG NGƯỜI
MỤC TỬ NHÂN LÀNH
Hôm nay Chúa nhật IV phục sinh, GH
tôn kính Chúa Giêsu là mục tử nhân lành. Ngày cầu nguyện đặc biệt cho ơn thiên
triệu linh mục và tu sĩ. Chúa Giêsu quả là vị mục tử nhân lành vì Ngài biết,
chăm sóc, bảo vệ và sẳn sàng hy sinh mạng sống mình để cho chiên được sống và
sống dồi dào.
Xin Chúa ban cho quý linh mục tu sĩ
luôn trung thành và nhiệt tâm với ơn gọi và sứ vụ Chúa trao ban; ta cũng nguyện
cầu cho mỗi người chúng ta luôn là chiên ngoan của Chúa qua việc lắng nghe và
hăng hái bước theo sự hướng dẫn của Chúa Giêsu Phục sinh, vị mục tử nhân
lành.
Tin mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu đã khắc họa đậm
nét bức chân dung đích thực của người mục tử nhân lành. Chân dung ấy đã được
Chúa Giêsu chấm phá bằng những đường nét hết sức tinh tế và sống động như: “biết
chiên” (x. Ga 10,11); “hy sinh vì chiên” (x. Ga 10,14); “quan tâm chăm sóc
chiên” (x. Ga 10,10); “thao thức tìm kiếm và hiệp nhất đoàn chiên”…
Trong nhiều đường nét tinh tế ấy, nếu chiêm ngắm kỹ, ta
sẽ bắt gặp hai đường nét chủ đạo, làm nên cái hồn của bức chân dung người Mục
Tử Nhân Lành. Hai nét chủ đạo ấy là: “biết chiên” và “hy sinh
cho đàn chiên”.
- Biết chiên: Để trở nên người mục tử nhân lành, trước hết phải “biết” rõ
chiên mình: Biết từng con chiên một chứ không phải biết chung chung, nhưng là
cái biết sâu xa, gắn kết như máu thịt, như hồn và xác theo nghĩa thánh kinh
vậy. Biết khi nào chiên đói để cho ăn; khi nào chiên khát để cho uống. Biết con
chiên nào lạc đàn để tìm về; con nào gặp nguy hiểm để tiếp cứu. Luôn chạnh lòng
thương đối với những con chiên đang trong tình trạng mệt mỏi để dắt dìu; hằng
bận tâm chăm sóc cứu chữa cho những con chiên đang trong tình trạng đau yếu và
bệnh tật.
- Hy sinh vì đàn chiên: Có thể nói hy sinh chính là đường nét thứ hai làm nên cái hồn của
bức chân dung người mục tử nhân lành. Sức hấp dẫn và lôi cuốn nơi bức chân dung
người mục tử nhân lành chính là hết lòng “hy sinh” cho đoàn chiên: Hy sinh sức
khỏe, thời giờ để đi tìm kiếm đồng cỏ xanh tốt; ra sức khai thác nguồn nước mát
trong lành cho chiên được uống no thỏa. Không quản khó nhọc để tắm rửa cho
chiên được sạch sẽ; sẵn sàng thức khuya dậy sớm để đưa chiên đi ăn và tối đưa
chiên về nghỉ ngơi. Chấp nhận hy sinh giấc ngủ để canh giữ cho đoàn chiên được
an giấc. Trên hết là anh dũng dám liều mạng sống mình chống lại sói dữ, trộm
cướp để bảo vệ cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. (x.Ga 10,16).
Khác hẳn với những kẻ chăn
thuê. Kẻ chăn thuê thì chẳng tha thiết gì với đàn chiên, khi gặp nguy hiểm là
lập tức anh ta bỏ chạy lấy thân, mặt cho đàn chiên tan tác. Kẻ chăn thuê chỉ
nhắm đến lợi ích bản thân mình, nên không quan tâm gì đến sức khỏe và sự sống
của đàn chiên, bởi lẽ đàn chiên không phải của anh ta.
Chúa Giêsu không chỉ khắc họa chân dung tuyệt mỹ về
người mục tử nhân lành bằng lời nói suông, bằng những nét vẽ vô hồn. Nhưng
Người còn khắc họa bức chân dung ấy bằng chính đời sống. Trong suốt ba năm rao
giảng Tin mừng, người đã cứu chữa biết bao người bệnh tật về thể xác và bao
dung tha thứ cho bao người đau khổ về tâm hồn. Mà đỉnh cao là cái chết đau
thương trên thập giá. Trên đỉnh cao thập giá ấy, Chúa Giêsu đã đổ hết máu và
nước mình ra để hoàn thiện nét vẽ cuối cùng làm nên bức chân dung mục tử không
thể hoàn hảo hơn. Vì thế, Ngài không ngần ngại tự xưng mình là vị Mục Tử Nhân
Lành, chẳng những cho dân Israel mà cho toàn thể nhân loại ( x Ga
10,11-16). “Tôi chính là mục tử nhân lành, mục tử nhân lành hy sinh
mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11). “Tôi chính là mục tử nhân
lành, Tôi biết chiên của Tôi và chiên Tôi biết Tôi” (Ga 10,15). “Để
nhờ danh Người mà chúng ta được ơn cứu độ” (x. Cv 4,12).
Hiểu theo một nghĩa nào đó, thì cha mẹ cũng chính là mục
tử nhân lành nơi gia đình và là chủ chăn của con cái mình. Vì thế, cha mẹ
cũng được kêu gọi trở nên người mục tử nhân lành theo mẫu gương của Chúa Giêsu.
Xin cho bậc làm cha
mẹ biết quan tâm lắng nghe, tìm hiểu con cái để nhận ra tình trạng, tâm
tư, nguyện vọng thầm kín…của chúng mà chia sẻ, chăm sóc và hướng dẫn chúng kịp
thời. Biết kiến tạo gia đình mình trở thành mái ấm yêu thương hiệp nhất trong
Chúa. Biết sẵn sàng hy sinh bảo vệ con cái mình khỏi sa vào lưới ba thù: xác
thịt, thế gian, ma quỷ. Nhất là xin cho những bậc làm cha mẹ cũng biết hy
sinh quảng đại dâng hiến những người con ưu tú của mình cho Chúa và Giáo hội
trong ơn gọi tu trì, cũng như ước mong có nhiều bạn trẻ mạnh dạn dấn thân đáp
lại tiếng Chúa kêu mời. Amen.
Suy niệm 2: CHÂN DUNG ĐÍCH
THỰC CỦA NGƯỜI MỤC TỬ
Trong tin mừng Chúa Giêsu đã khắc họa lên bức chân dung
đích thực của người mục tử nhân lành bằng nhiều đường nét tinh tế và sống động
như: “hy sinh” (x.Ga 10,11); “hiểu biết” (x.Ga 10,14); “quan tâm lo lắng” (x.
Ga 10, 10); “thao thức tìm kiếm”…
Trong nhiều đường nét tinh tế ấy, nếu chiêm ngắm kỹ, ta sẽ
bắt gặp ngay hai đường nét chủ đạo, làm nên cái hồn của bức chân dung người Mục
Tử Nhân Lành mà tin mừng hôm nay khắc họa. Đó là: “biết chiên” và “trao ban” cho chiên sự sống đời đời.
- Biết chiên: Để trở nên người mục tử nhân lành, trước hết phải
“biết” rõ chiên mình: Biết từng con chiên một trong đàn. Biết khi nào chiên đói
để cho ăn; khi nào chiên khát để cho uống. Biết con chiên nào lạc đàn để tìm
về; con nào gặp nguy hiểm để tiếp cứu. Hơn thế nữa, người mục tử còn phải biết
cảm thương những con chiên đang trong tình trạng mệt mỏi để dắt dìu và tận tâm
yêu mến lo lắng những con chiên bị bệnh tật để tìm cách chữa trị… Cái biết của người mục tử nhân lành không
theo kiểu cái biết của lý trí trên danh sách hay số liệu…mà là cái biết
của trái tim, của tình thương. Bởi lẽ chỉ có cái biết trong
tình yêu thì mới thấu hiểu, cảm thông, nâng đỡ, chăm lo cho nhau. Biết bằng yêu
thương thì mới dám sống chết đoàn chiên của mình.
- Trao ban: Có thể nói “trao ban” sự sống đời đời, chính là
nét nổi bậc thứ hai làm nên cái hồn của bức chân dung người mục tử nhân lành.
Sức hấp dẫn và lôi cuốn nơi bức chân dung người mục tử chính là “trao ban” cho
đoàn chiên được sống và sống dồi dào: trao ban sức khỏe, thời giờ để đi
tìm đồng cỏ xanh tốt; ra sức khai thác nguồn nước mát trong lành cho chiên uống
no thỏa. Không quản khó nhọc để tắm rửa cho chiên được sạch sẽ; không ngần ngại
thức khuya dậy sớm để đưa chiên đi ăn và tối đưa chiên về nghỉ ngơi. Sẵn sàng
hy sinh giấc ngủ để canh giữ cho đoàn chiên được an giấc. Trên hết người mục tử
nhân lành còn phải anh dũng dám liều mạng sống mình chống lại sói dữ và kẻ trộm
để bảo vệ cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. (x. Ga 10, 16).
Chúa Giêsu không chỉ khắc họa chân dung tuyệt mỹ về
người mục tử nhân lành bằng lời nói suông, bằng những nét vẽ vô hồn. Nhưng
Người còn thể hiện bằng chính đời sống trong suốt ba năm rao giảng
Tin mừng, mà đỉnh cao là cái chết đau thương trên thập giá. Trên đỉnh cao thập
giá, Chúa Giêsu đã sẵn sàng đổ hết máu và nước mình ra hầu hoàn thiện nét vẽ
cuối cùng làm nên bức chân dung mục tử không thể hoàn hảo hơn! Vì thế, Ngài
không ngần ngại tự xưng mình là đấng Mục Tử Nhân Lành, chẳng những cho
dân Israel mà cho toàn thể nhân loại ( x Ga 10,11-16). “Tôi
chính là mục tử nhân lành, mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn
chiên” (Ga 10,11). “Tôi chính là mục tử nhân lành, Tôi biết chiên
của Tôi và chiên Tôi biết Tôi” (Ga 10,15). “Để nhờ danh Người
mà chúng ta được ơn cứu độ” (x. Cv 4,12).
Phần chúng ta là chiên của
Ngài thì chúng ta cần phải lắng nghe và sẵn sàng
đi theo sự hướng dẫn của Ngài. Tựa như con cái cần nghe lời cha mẹ
thì đoàn chiên cũng cần phải nghe lời Chúa.
Vậy ta nghe lời Chúa thế nào? Mỗi ngày ta dành bao nhiêu
thời giờ để nghe lời Chúa? Khi tham dự thánh lễ không ta có để tâm nghe và
sống lời Chúa không? Hay đi lễ cho có, cho qua. Nhưng chưa bao giờ ta ước
muốn lắng nghe lời Chúa. Chỉ khi nào ta
yêu mến Chúa thật sự, mới hy vọng ta mới có thể bó đời
mình với Chúa và mới nghe theo sự hướng dẫn của Ngài.
Chúa Nhật này cũng là dịp đặc biệt để chúng
ta cầu nguyện cho ơn thiên triệu, xin cho có nhiều người dâng hiến đời
mình cho Chúa và Giáo Hội. Cầu xin cho Giáo hội có nhiều linh mục giống Chúa
Giêsu mục tử nhân lành.
Cầu xin cho mỗi người trong chúng ta thật sự là
chiên ngoan của Chúa qua việc tích cực lắng nghe lời Chúa chỉ dạy, gắn bó mật
thiết đời mình với Chúa và can đảm bước theo con đường Chúa đã đi
qua. Amen.
Suy niệm 3: LINH MỤC - NGƯỜI
MỤC TỬ NHÂN LÀNH
“Công cuộc canh tân Hội Thánh cần
được bắt đầu từ hàng Linh mục, vì thế, ước mong các Giám mục và Linh mục Việt
Nam không chỉ là người quản trị giỏi, nhưng trước hết là người của Chúa và là
những mục tử nhân lành”. (Sứ điệp Đại hội Dân Chúa Việt Nam 2010, số 5). Xin cho
các vị chủ chăn trong Hội Thánh là những chủ chăn đích thực như lòng Chúa mong
ước, nhờ thế Hội Thánh Chúa được canh tân mỗi ngày nên tốt đẹp hơn.
Nhờ bí tích truyền chức, linh mục trở nên “Alter
Christus” và được tham dự vào đức ái mục tử, tự hiến bản thân mình để phục
vụ Hội Thánh theo gương hiến thân của Đức Kitô.
Như Đức Kitô đã cảm thương với dân chúng khi
nhọc mệt, đuối sức ( x. Mt 9, 35-36; Ga 6, 15). Linh mục cũng phải biểu lộ lòng
cảm thương của mình cách chân thành và cụ thể đối với mọi người mà mình gặp
gỡ “anh em hãy vui với người vui, khóc với người khóc” ( Rm
12, 15).
Như Đức Kitô đã yêu mến những con chiên lạc
đàn và vui mừng khi tìm gặp ( x. Mt 18, 12-14; Ga 8,11). Linh mục cũng phải tìm
đến những ngưuời đang sống trong cô đơn thất vọng; những người tội lỗi, nhất là
những người không mấy cảm tình với Giáo Hội…, vì họ cũng là đối tượng của lòng
thương xót Thiên Chúa. “Con Người đến để tìm và cứu chữa những gì đã hư
mất.” (Lc 19,10).
Như Đức Kitô hằng biết rõ và gọi tên từng
người một (x.Ga 10,3). Linh mục phải nỗ lực quan tâm và phục vụ từng người
trong Họ đạo mình, không loại trừ một ai.
Như Đức Kitô đã hy sinh hiến thân vì tình yêu
nhân loại (x.Ga 10, 15). Linh mục cũng hãy yêu thương chăm sóc cộng đoàn mà
Chúa trao phó. Người mục tử nhân lành không chỉ dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi
và suối mát (x. Tv 23, 22), mà còn phải nuôi dưỡng đàn chiên bằng chính
sự sống mình qua việc hiến tế theo gương Chúa Giêsu (x.Ga 6, 56). Để có
thể nói được như Chúa Giêsu đã nói: “Ta đến để chiên được sống và sống
dồi dào” (Ga 10,10).
Như ngọn nến cháy hao mòn theo tháng ngày để chiếu giãi
ánh sáng; như hạt lúa mục nát để phát sinh sự sống mới, Linh mục cũng phải chấp
nhận tiêu hao đời mình từng giây phút để phục vụ cộng đoàn dân Chúa. Người Linh
mục giống Đức Kitô thì không trách khỏi qui luật “vượt qua” chết để được sống
(x.Ga 12,25). Chính thánh Phanxicô Assisi cảm nghiệm quy luật này và đã thốt
lên những lời nghịch lý trong bài ca bất hủ: “Chính lúc hiến thân là
khi được nhận lãnh… Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Trên
hết để thực hiện được vai trò người mục tử nhân lành, Linh mục phải có Đức Ái
Mục Tử vì đó là nguyên lý và động lực thúc đẩy Linh mục sống xứng danh vai trò
mục tử của mình.
Lạy Chúa Giêsu là mục tử tối cao,
chúng con là những Linh mục bước theo Chúa trong vai trò người mục tử.
Xin cho trái tim chúng con thuộc
thuộc về Chúa và thuộc về mọi người. Xin cho trái tim chúng con biết yêu bằng tình yêu hiến
dâng. Xin cho trái tim chúng con mở rộng đủ lớn để chứa mọi người và từng
người một. Xin cho chúng con có trái tim của Chúa để con say mê Chúa và say
mê con người. Xin cho chúng con luôn yêu Chúa, vì khi yêu Chúa chúng
con mới sẵn sàng hy sinh đời mình bảo vệ đoàn chiên và dẫn đưa đoàn chiên đến
với Chúa là nguồn sống đích thực. Amen.
Suy niệm 4: KHẮC HỌA HÌNH ẢNH NGƯỜI MỤC TỬ
NHẦN LÀNH
Hàng năm GH dành ngày Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh để suy
tôn Chúa Giêsu vị Mục Tử tối cao. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng
ta biết: Đức Giêsu chính là vị Mục tử nhân lành, Ngài biết rất rõ từng con
chiên, Ngài yêu thương chăm sóc, gìn giữ đàn chiên cẩn thận, nhất là sẵn
sàng hy sinh mạng sống mình để cho chiên được sống và sống dồi dào.
Hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh
mục và Tu sĩ, chúng ta hãy sốt sắng hiệp dâng Thánh Lễ. Xin
Chúa ban cho nhiều bạn trẻ biết quảng đại đáp lại tiếng Chúa mời gọi
hiến mình trong ơn gọi Linh mục và Tu sĩ.
Xin cũng cho mỗi người chúng ta trở thành chiên ngoan của Chúa, biết lắng nghe tiếng Chúa, sẵn sàng dấn thân làm chứng nhân cho tình yêu của Chúa giữa dòng đời.
Bài đọc
I, trích sách Cv cho ta biết, sau
khi Phêrô chữa cho người què từ mới sinh được lành bệnh, ngài cùng với ông
Gioan bị điệu đến Thượng hội đồng Do thái về việc chữa lành người què và vì
việc ấy đã phạm đến cấm kỵ không cho phép người tàn tật vào đền thờ.
Trước Thượng hội đồng, Phêrô xác nhận người què ấy được khỏi
không phải do quyền phép gì riêng của ông mà chỉ nhờ danh Đức Giêsu, Đấng mà họ
đã giết chết nhưng Thiên Chúa đã cho sống lại.
Lợi dụng dịp này, Phêrô giảng về Đức Giêsu : Ngài là viên đá bị
những người thợ xây loại bỏ , nhưng Thiên Chúa dùng Ngài làm viên đá góc. Trên
trần gian này khó có một Đấng cứu độ nào khác ngoài Đức Giêsu Kitô, nhờ danh
Ngài mà mọi người được ơn cứu độ.
Bài đọc II, trích thư thứ nhất của
Thánh Gioan tông đồ. Thánh Gioan nói đến mức độ vô cùng lớn lao của
tình yêu Thiên Chúa dành cho tín hữu. Ngài nói về tình yêu tuyệt vời mà Thiên
Chúa bầy tỏ cho chúng ta biết là cho chúng ta trở nên những con cái của
Ngài. Và tình trạng tương lai của chúng ta sẽ được trở nên giống như Đức
Giêsu vinh quang. Bài học này mời gọi chúng ta hãy vui lên trong
tình trạng của mình, với tư cách là những dưỡng tử của Thiên Chúa.
Tin mừng hôm
nay, Chúa Giêsu muốn giới thiệu Ngài chính là
mục tử nhân lành bằng cách so sánh và phân tích mục tử tốt lành và người chăn
chiên thuê.
a. Người mục tử tốt lành có những đặc điểm này :
- Thí mạng sống để bảo vệ đàn chiên.
- Sống thông hiệp với đàn chiên: biết các chiên từng con một, và được
các chiên biết.
- Lo cho đàn chiên được no đủ và tăng thêm, lo tìm chiên lạc và đưa các
chiên khác về cùng một đàn và cùng một chủ chiên.
b. Kẻ chăn chiên thuê thì không tha thiết gì với đàn chiên, khi gặp
nguy hiểm thì bỏ chạy, họ chỉ biết lo cho bản thân mình, để cho đàn chiên tan
tác.
Như vậy, Chúa Giêsu đã phát thảo cho ta biết được 2 đường nét chủ đạo làm
nên chân dung đích thực của người mục tử nhân lành đó là: biết chiên và hy
sinh mạng sống vì chiên.
- Biết chiên: Để trở nên người mục tử nhân lành, trước hết phải “biết” rõ
chiên mình. Cái biết ấy không chỉ là sự hiểu biết về kiến thức hay
trên bàn giấy mà là cái biết của con tim, cái biết của tình yêu giữa hai
chiều ““Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi.” Chỉ
có cái biết ấy, người mục tử mới có thể thấu hiểu, cảm thông và chăm lo cho đàn
chiên mình đúng mực.
Biết từng con chiên một chứ không
phải biết chung chung, nhưng là cái biết sâu xa, gắn kết như máu thịt, như hồn
và xác theo nghĩa thánh kinh vậy. Biết khi nào chiên đói để cho ăn; khi nào
chiên khát để cho uống. Biết con chiên nào lạc đàn để tìm về; con nào gặp nguy
hiểm để tiếp cứu. Luôn chạnh lòng thương đối với những con chiên đang trong
tình trạng mệt mỏi để dắt dìu; hằng bận tâm chăm sóc cứu chữa cho những con
chiên đang trong tình trạng đau yếu và bệnh tật.
- Hy sinh vì chiên: Có
thể nói hy sinh chính là đường nét thứ hai làm nên cái hồn của bức chân dung
người mục tử nhân lành. Sức hấp dẫn và lôi cuốn nơi bức chân dung người mục tử
nhân lành chính là hết lòng “hy sinh” cho đoàn chiên: Hy sinh sức khỏe, thời
giờ để đi tìm kiếm đồng cỏ xanh tốt; ra sức khai thác nguồn nước mát trong cho
chiên được uống no thỏa. Không quản khó nhọc để tắm rửa cho chiên được sạch sẽ;
sẵn sàng thức khuya dậy sớm để đưa chiên đi ăn và tối đưa chiên về nghỉ ngơi.
Chấp nhận hy sinh giấc ngủ để canh giữ cho đoàn chiên được an giấc. Trên hết là
anh dũng dám liều mạng sống mình chống lại sói dữ, trộm cướp để bảo vệ cho đàn
chiên được sống và sống dồi dào. (x.Ga 10,16). Cha ông ta thường nói:
“Mạng sống hơn đống vàng". Quan niệm này cho biết ai
cũng sợ chết. Được sống lâu, sống khỏe là mong ước lớn nhất của con
người. Tuy nhiên nếu chỉ sống lâu và khỏe về thể chất thì chưa đủ, điều
quan trọng là sống sao cho có ích, có giá trị và ý nghĩa thì mới đáng sống.
Khác hẳn với những kẻ chăn
thuê. Kẻ chăn thuê thì chẳng tha thiết gì với đàn chiên, khi gặp nguy hiểm là
lập tức anh ta bỏ chạy lấy thân, mặt cho đàn chiên tan tác. Kẻ chăn thuê chỉ
nhắm đến lợi ích bản thân mình, nên không quan tâm gì đến sức khỏe và mạng sống
của đàn chiên, bởi lẽ đàn chiên không phải là của anh ta.
Chúa Giêsu không chỉ khắc họa chân dung tuyệt mỹ về
người mục tử nhân lành bằng lời nói suông, bằng những nét vẽ vô hồn. Nhưng
Người còn khắc họa bức chân dung ấy bằng chính đời sống của Ngài. “Khi bắt đầu sứ vụ loan báo tin mừng, Chúa Giêsu đã bị
cơn đói cồn cào nơi hoang địa sau 40 mươi ngày chay tịnh, nhưng qua đó, Ngài
lại trở nên Bánh Trường Sinh nuôi sống mọi người. Và khi kết thúc sứ vụ ở trần
gian, Ngài lại chịu phải cơn khát cháy khô cả họng, nhưng qua đó Ngài lại ban
Nước Hằng Sống cho con người. Bị Giuđa phản bội bán ba mươi đồng bạc; nhưng
Ngài lại trở nên nguồn ơn cứu chuộc cho cả thế gian. Cuối cùng Ngài đã phải
chịu chết trên thập tự giá tựa như một con chiên bị sát tế, nhưng Ngài lại là
vị Mục Tử Nhân Lành!” (ý: Grêgôriô Nazian). Vì thế, Ngài không ngần ngại tự
xưng mình là vị Mục Tử Nhân Lành: “Tôi chính là mục tử nhân lành, mục
tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11). “Tôi
chính là mục tử nhân lành, Tôi biết chiên của Tôi và chiên Tôi biết Tôi” (Ga
10,15).
Chúa nhật hôm nay là ngày cầu
nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Chúng ta cầu nguyện cho Giáo Hội
có nhiều mục tử tuyệt vời giống như Chúa Giêsu.
Trong đời sống hàng ngày, có khi
chúng ta nghe người ta hay bàn tán nhận định về quý cha, quý tu sĩ nam nữ như
sau: cha này, soeur kia thì tuyệt vời, cha kia, soeur này thì chán lắm. Dựa vào
đâu mà người ta đánh giá như vậy? Thưa, tường người ta dựa vào ý riêng của
mình: cha hợp với mình thì sẽ là tuyệt vời, cha không hợp với mình thì bị chê
là chán lắm. Nhưng chín người mười ý thì biết đường nào mà lần!
May thay, Chúa Giêsu đã vẽ lên bức
chân dung đích thực về người mục tử đúng nghĩa: “Tôi chính là Mục Tử
nhân lành Tôi biết chiên của Tôi… và Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn
chiên.” Điều này cho chúng ta hiểu được rằng: Người mục tử tuyệt vời
không phải là người cấp tiến hay bảo thủ, cũng không phải người hoạt động xã hội
rầm rộ bên ngoài hay khiêm tốn âm thầm ít ai biết đến, mà là người hiểu biết và
dám xả thân sống chết vì chiên, quên mình đi để chăm lo cho đoàn chiên được
sống và sống dồi dào, theo mẫu gương của vị mục tử tối cao là Chúa Giêsu.
Nhờ bí tích rửa tội, mỗi người trong
chúng ta được tham gia vào trong sứ vụ mục tử của Chúa Giêsu. Cho nên, mỗi
người chúng ta đều được mời gọi tiếp bước theo gương Chúa Giêsu trở nên vị mục
tử nhân lành là: Biết quan tâm chăm sóc và dấn thân hy sinh phục vụ mọi
người, nhất là những người mà Chúa trao phó cho chúng ta. Và nếu có sự đòi buộc
phải hy sinh mạng sống mình để gìn giữ, bảo vệ sự sống thể xác và
linh hồn của họ thì chúng ta cũng phải sẵn sàng.
Tôi còn nhớ ngày 24/4/1994 Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho hai bà mẹ gia đình, một
trong hai bà mẹ đó là bà Gian-na Be-ret-ta Mol-la, bà đã chấp nhận cái chết khi
sinh con để con bà được sống. Trong lá thư bà để lại, có những dòng cảm động
sau đây: “Thân ái gửi con… Khi con đọc được những dòng chữ này thì mẹ không
còn thở chung với con một bầu khí nữa…”. Bà bị ung thư khi mang thai,
và từ chối hoá trị, xạ trị, để bào thai lớn lên an toàn, còn bà thì lìa đời,
khi con bà vừa chào đời bình an.
Trong bài giảng thánh lễ phong chân
phước, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhận định rằng: “Việc làm mẹ có thể trở
thành nguồn vui nhưng thường cũng là nguồn đau khổ. Trong trường hợp đó, tình
yêu trở nên thật cần thiết ở một mức độ anh hùng trong con tim của bà mẹ.” ĐTC
nói tiếp: “Ngày hôm nay chúng tôi muốn tôn kính không những hai bà mẹ phi
thường này mà cả bao nhiêu bà mẹ khác nữa, không quản ngại hy sinh để giáo dục
và hướng dẫn con cái như mục tử chăm sóc đàn chiên.”
Xin cho các bậc làm cha mẹ, biết noi gương Đức Giêsu, vị
mục tử nhân lành biết quan tâm, chăm sóc, gìn giữ con cái mình cách cẩn
trọng với lòng thương yêu. Nhất là sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình để che
chở và bảo vệ những người thân yêu của mình khỏi mọi hiểm nguy của cái chết do
sự dữ gây ra.
Suy niệm 5:
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về cửa chuồng
chiên. Nhưng cửa này không phải là vật dụng bằng gỗ hay đá
mà là chính bản thân Ngài. Ngài tự ví mình là cửa chuồng chiên
vì muốn nói lên tình yêu Ngài dành cho đàn chiên. Ngài là cửa chuồng
chiên nên Ngài luôn bảo vệ cho chiên được nghỉ
ngơi an toàn. Ngăn chặn sói rừng vào sát hại chiên cũng như không để
cho kẻ trộm cướp vào bắt chiên.
Đức Kitô còn đưa ra hai hình ảnh trái
ngược, người chăn chiên nhân lành, và người chăn chiên thuê mướn.
Người chăn chiên nhân lành, ngày đêm chăm sóc, bảo
vệ đàn chiên, dẫn chúng đến nguồn nước trong lành, đồng cỏ xanh tươi. Người
chăn chiên nhân lành luôn sẵn sàng bảo vệ đàn chiên khỏi bị thú dữ sát hại
và anh dũng dấn thân vào chốn nguy hiểm để bảo vệ cho đàn
chiên được sống dồi dào. Mục tử nhân lành còn biết
rõ từng con chiên và chấp nhận mang lấy mùi chiên, hiểu biết và
gọi đúng tên từng con chiên. Ngược lại chiên ngoan cũng nhận ra bóng dáng và
tiếng gọi của chủ mình mà nghe theo.
Qua cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô minh chứng cho
một tình yêu vĩ đại mà Đức Kitô, mục tử nhân lành dành cho chúng ta
là đàn chiên của Người.
Vì là cửa chuồng chiên nên Đức Kitô để cho chúng ta
có quyền tự do lựa chọn. Những ai tin yêu, chọn bước theo Ngài thì
sẽ đón nhận được tình yêu hy hiến của Ngài. Ngược lại những ai chọn
theo ý riêng mình thì không bao giờ đón nhận được tình yêu hy sinh của
Người.
Ai chọn yêu mến và tin theo Đức Kitô sẽ không mất gì cả
mà còn nhận được nhiều ơn phúc của Chúa ban tặng. Cuộc sống họ trở nên
phong phú, tinh thần thảnh thơi, tâm tư thoải mái và luôn sống trong vui, ngay
cả khi gặp gian nan thử thách.
Chuồng chiên chỉ bảo vệ cho những ai yêu mến, tín
trung còn những kẻ bất tín thì chuồng chiên không thể bảo vệ được. Vì lòng nhân
lành, Chúa Kitô đã sẵn sàng mở cửa chuồng chiên để đón nhận bất cứ ai biết hồi
tâm, thống hối quay trở về cùng đàn chiên Người chăn dắt.
Đức Kitô không chỉ là người gác cửa mà Ngài còn là người
đi tìm những con chiên lạc, khi tìm được thì vui mừng vác trên vai mang về đàn (x.
Lc 15,5) với mong sao chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên duy nhất.
Trộm cắp dùng nhiều hình thức dụ dỗ để bắt chiên; còn
sói dữ thì luôn rình rập cắn xé chiên. Người chăn chiên mướn là người làm thuê,
chủ chiên trả công. Nếu người đó không hoàn thành nhiệm vụ được trao phó; người
đó hành động khác chi kẻ trộm cướp hay sói rừng, trá hình, đội lốt, chăn chiên
để cầu lợi, để ngầm cấu xé và cắn phá chiên.
Chúng ta dâng lời tạ ơn Đức Kitô, Đấng chăn chiên nhân
lành đã yêu thương và hy sinh mạng sống vì ta. Xin cho chúng ta trở thành
chiên ngoan luôn biết nghe lời của Chúa mà sống hiệp thông với nhau trong tình
yêu thương của Chúa. Amen.
THƠ
Chữa lành, Danh Chúa Giê su,
Ta là dân Chúa, thiên thu “Con Ngài”.
Giê-su “Mục Tử” Thiên oai,
Ngài thương và biết, những ai chiên Ngài.
Chữa lành, Danh Chúa Giê su,
Ta là dân Chúa, thiên thu “Con Ngài”.
Giê su “Mục Tử” Thiên oai,
Ngài thương và biết, những ai chiên Ngài.
TÌNH YÊU ĐỨC KITÔ
Giê su mục tử nhân lành,
Yêu thương, chăm sóc ban hành phúc ân.
Hôm nay Giáo Hội ân cần.
Xin ơn thiên triệu, “mang hình” Giê su.
Phê rô thương chữa cho dù,
Bị bắt ra trước Trung Khưu Hội Đồng.
Có Gioan đồng bước theo ông.
Phê rô xác nhận: ông không “chữa què”
Giê su: bị giết từng nghe.
Ngài đã sống lại, chở che cứu đời.
Gioan rằng: Tình Chúa tuyệt với.
Nhận ta “con Chúa”. Giống thời Giê su.
Giê su mục tử thiên thu:
Thí mạng: hiến tế, đền bù vì chiên;
Biết chiên: dù dữ hay hiền;
Muốn quy tụ hết, cho chiên vào đàn.
Chăn thuê thì chẳng ngó ngàn.
Gặp nguy bỏ trốn, khiến đàn nát tan.
Linh mục, tu sĩ sẵn sàng,
Thực thi Ý Chúa chăm đàn chiên ngoan.
Hai Lúa
Suy niệm 6: MỤC TỬ NHÂN LÀNH. Lm. Giuse Vũ Thái Hòa
Trong nền văn minh đô thị ngày nay, hình ảnh mục tử ít
được sử dụng, hoặc bị coi thường, hoặc bị ngộ nhận vì được hiểu như sự thống
trị của một người đối với một nhóm người không biết gì, chỉ biết nghe theo sự
lãnh đạo của người khác như một đàn cừu ngoan ngoãn.
Tuy nhiên, mục tử lại là hình ảnh rất thân thuộc trong
đời sống và văn hóa Do Thái. Trong Kinh Thánh, từ thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã
được diễn tả như người mục tử: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi” (Tv
22,1), mà đoàn chiên là dân Israel: “…còn ta là dân Người lãnh đạo, là
đoàn chiên tay Người dẫn dắt” (Tv 94,7). Hình ảnh người
mục tử này nói lên sự chăm sóc ân cần của Thiên Chúa, Đấng quy tụ dân Ngài: “Như
mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ
chiên con, Người ấp ủ vào lòng; bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is
40,11). Và thuật ngữ này còn được sử dụng để nói về các vua, các tư tế và tất
cả những người có trách nhiệm lãnh đạo đối với dân Chúa.
Chúng ta biết rằng, thời xưa việc có nhiều
gia súc là biểu hiện của sự giàu có. Trong sách Sáng Thế, ông Abraham được giới
thiệu là “rất giàu, ông có nhiều súc vật và vàng bạc” (St
13,2). Vì thế, nếu bầy chiên được coi là của cải, là biểu hiện của sự giàu có,
thì chúng ta có thể dám nghĩ rằng, đối với Thiên Chúa, chúng ta chính là tất cả
gia sản, là “của cải” của Người.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng sử dụng hình ảnh mục tử để diễn
tả ý nghĩa sứ mạng và mối quan hệ của Người với con người.
Trước tiên, Chúa Giêsu khẳng định Người chính là mục tử,
vì Người biết chiên của Người và chiên của Người biết Người. Là mục tử nhân
lành, Người “đi tìm con chiên bị mất, đưa về con chiên đi lạc, băng bó con
chiên bị thương và con nào bệnh tật Người sẽ làm cho mạnh” (Ez 34,16),
Người quy tụ những con chiên tản mác lại với nhau trong cùng một ràn chiên duy
nhất, cho chúng được nghỉ ngơi. Người là mục tử duy nhất đã “hy sinh
mạng sống mình” cho đoàn chiên (Chúa Giêsu lặp lại điều này đến bốn
lần trong đoạn Tin Mừng ngắn này).
Trang Tin Mừng mà chúng ta đọc hôm nay được thánh Gioan
viết vào cuối thế kỷ thứ nhất dành cho các cộng đoàn mà sự hiệp nhất đang bị đe
dọa. Thánh sử muốn nhắc lại một cách mạnh mẽ rằng, nguồn gốc của sự hiệp nhất
Kitô giáo chính là tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Người. Chúa Giêsu là
mục tử đã yêu đến hy sinh mạng sống để cho chiên được sống và sống dồi dào. Đối
với Thiên Chúa, tình yêu là điều kiện duy nhất để trở thành mục tử. Nếu không
có tình yêu đối với đàn chiên, họ chỉ là người làm thuê. Khi gặp khó khăn nguy
hiểm, họ sẽ bỏ chiên mà chạy. Mục tử là người không chỉ chăm sóc nhưng còn sẵn
sàng hy sinh để bảo vệ đàn chiên của mình.
Chúng ta còn nhớ câu chuyện Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra
với các Tông đồ ở Biển Hồ Tibêria. Khi đó Người hỏi Phêrô ba lần có yêu
mến Người không, và ba lần ông đáp lại: “Thầy biết con yêu mến Thầy”,
thì Người giao cho ông trách nhiệm của mục tử: “Hãy chăm sóc chiên của
Thầy” (Ga 21,15-17). Và chính qua hình ảnh người mục tử này mà người
ta đặt tên cho các “mục tử của Giáo hội” là Đức giáo hoàng, giám mục, linh mục,
cũng như các mục sư của Giáo hội Tin lành. Nhưng danh hiệu mục tử không chỉ
dành cho những vị có chức thánh. Người ta còn dùng trong các “mục vụ giới trẻ”,
“mục vụ gia đình”, “mục vụ ngoại kiều”… “hội đồng mục vụ”, v.v. Như vậy, tất cả
dân Chúa đều được mời gọi tích cực tham gia vào hoạt động mục vụ của Chúa Kitô.
Thật vậy, qua phép Thánh tẩy, mỗi người chúng ta đã trở nên “chi thể của Đức
Kitô, Đấng là tư tế, tiên tri và vương đế”. Vì vậy, mỗi người đều được mời gọi
trở thành “mục tử nhân lành”.
- Ơn gọi linh mục và tu sĩ mà Giáo hội cầu nguyện cách
đặc biệt ngày hôm nay dựa trên điểm cốt yếu này: tình yêu đối với Thiên Chúa.
Có thể nói rằng, linh mục, tu sĩ, đó là những người đã khám phá ra tình yêu
Thiên Chúa dành cho họ, và họ muốn đáp lại tình yêu ấy bằng cách đi theo Chúa
Kitô là Đấng yêu thương họ. Càng tiến gần Người, họ càng được lôi cuốn trong
tình yêu mà Thiên Chúa dành cho thế gian này. Như thế, nguồn gốc của mọi ơn
gọi, đó là tình yêu, một tình yêu duy nhất dành cho Thiên Chúa và con người.
Hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta cầu nguyện cách riêng
cho ơn gọi linh mục, tu sĩ. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho có nhiều bạn trẻ
biết quảng đại đáp lại tình yêu của Chúa trong ơn gọi tu trì, và cầu nguyện cho
các linh mục, tu sĩ được sống tròn đầy ơn gọi của mình.
Tuy nhiên chúng ta cũng không quên rằng, tất cả chúng ta
đều được mời gọi trở thành “mục tử nhân lành” trong những trách nhiệm và vai
trò mà chúng ta đang đảm nhận. Vì vậy chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau biết
sống tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân trong đời sống hằng ngày,
bằng chứng từ phục vụ và hiến thân, bằng việc quan tâm đến những người khác,
bằng lời cầu nguyện cũng như các hoạt động cho sự hiệp thông và hiệp nhất.
Suy niệm 7: SỐNG CHẾT VÌ CHIÊN. Lm. Nguyễn Xuân
Trường
Thế nào là một mục tử tuyệt vời?
Thế nào là một giáo dân ngoan đạo? Phúc Âm tuần này cho chúng ta những chuẩn
mực để nhận biết ai là mục tử tốt, ai là giáo dân ngoan.
1. Mục tử tuyệt vời. Nhiều nơi
người ta hay bàn tán nhận định: cha xứ này tuyệt vời, cha xứ kia chán lắm. Dựa
vào đâu mà đánh giá như vậy? Thường người ta dựa vào ý riêng của mình: cha hợp
với mình thì sẽ là tuyệt vời, cha không hợp với mình thì bị chê là chán lắm.
Nhưng chín người mười ý thì biết đường nào mà lần?
May thay, Chúa Giêsu đã cống hiến
một chuẩn mực về người mục tử tuyệt vời: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành
hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” Thế nên, mục tử tuyệt vời
không phải là người cấp tiến hay bảo thủ, cũng không phải người hoành tráng hay
âm thầm, mà là người dám hy sinh mạng sống vì đoàn chiên, dám sống chết vì
chiên, dám quên mình đi để chăm lo cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào.
2. Chiên nghe lời Chúa. Con ngoan
là con vâng lời cha mẹ, chiên ngoan là chiên vâng lời Chúa. Chúa là mục tử nhân
lành ban lời hằng sống cho chiên. Quan trọng là chiên có nghe lời Chúa hay
không?
Rất tiếc là thực tế hôm nay, nhiều
con chiên không muốn nghe Lời Chúa. Cứ thử hỏi chính mình: mỗi ngày tôi dành
bao nhiêu thời gian để đọc, để học Lời Chúa? Tôi có siêng năng tham dự thánh lễ
để nghe Lời Chúa không? Và kể cả đi lễ thì tôi có thực sự chăm chú lắng nghe
Lời Chúa không? Có bao nhiêu người sau khi đi lễ về nhớ được Lời Chúa hôm nay
nói gì với mình để đem ra thực hành trong đời sống?
Chúa Nhật Chúa Chiên lành hôm nay
cũng là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Chúng ta cầu
nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử tuyệt vời giống như Chúa Giêsu. Đồng thời,
chúng ta cũng cầu nguyện cho chính mình trở nên con chiên ngoan hiền, biết
khiêm tốn vâng nghe và thực hành Lời Chúa chỉ dạy. Amen.
Thứ hai: Cv 11, 1-18; Ga
10,1-10
Suy niệm 1:
Đoạn sách Cvtđ hôm nay ghi lại cuộc đối thoại giữa Phêrô
và những người tín hữu gốc Do thái về vấn đề: có nên mở cửa để tiếp nhận dân
ngoại vào ngôi nhà Hội Thánh theo lệnh truyền của Chúa Giêsu Phục sinh là: “các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ
nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã
truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20), hay là đóng chặt cửa để bảo
toàn những giá trị truyền thống của dân tộc mình?
Với những người tín hữu gốc Do Thái thì không được vượt
ra những luật lệ truyền thống như: không được đi vào nhà dân ngoại, không được ăn
uống những thức ăn bị xem là ô uế; nhất là phải giữ luật cắt bì. Cho nên khi họ
nghe biết sự việc ông Phêrô vào nhà ông Cornêliô là người ngoại ăn uống, giảng
dạy giáo lý và rửa tội cho ông và cả gia đình, mà không phải giữ luật cắt bì. Điều
này đã làm cho họ rất khó chịu. Vì thế, ngay khi ông Phêrô đặt chân về
Giêrusalem thì họ kéo đến phản đối mạnh mẽ việc làm của Phêrô.
Nhưng, sau khi lắng nghe Phêrô giải thích về những gì
ông làm không phải là do sáng kiến của ông mà xuất phát từ ý muốn của Thiên
Chúa, ngang qua hai thị kiến kỳ lạ đã xảy ra với ông và với ông Cornêliô. Từ
hai thị kiến ấy đã làm cho bản thân Phêrô hiểu và xác quyết chắc chắn hơn về ý
định của Thiên Chúa là: “Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như
Người đã ban cho chúng ta”.
Sau khi lắng nghe được lời giải thích của Phêrô, các tín
hữu ở Giêrusalem đã bị thuyết phục và họ đã thay đổi cái nhìn về dân ngoại. Họ
cũng nhận ra rằng: “Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn sám hối để
được sự sống”. Thế là mọi
việc được giải quyết êm đẹp nhờ vào việc gặp gỡ, lắng nghe và phân định dưới
ánh sáng của Lời Chúa.
Bế quan tỏa cảng để gìn giữ và bảo toàn hay là mở rộng
cửa tiếp nhận cái mới làm phong phú và hoàn thiện hơn, đó luôn là vấn đề được
đặt ra để bàn luận không những trên bình diện vĩ mô mà còn là vấn đề được đặt
ra trên bình diện vi mô, cụ thể nơi các gia đình hôm nay, khi mà quyền tự do
chính kiến nơi mỗi người được xã hội bảo hộ và tôn trọng.
Xin cho các thành viên trong gia
hiểu rằng: gìn giữ bảo vệ những giá trị truyền thống của cha ông là điều đáng
trân quý, nhưng nếu vì tục lệ truyền thống mà gây bất ổn xã hội và làm tổn hại
đến môi trường thì cũng nên xét lại. Nhất là với các gia đình Công giáo khi có
những bất đồng quan điểm xảy ra thì phải biết lấy Lời Chúa và đường hướng của
GH làm nền tảng để giải quyết vấn đề. Bởi ta tin rằng Lời Chúa là chân lý và
Giáo huấn GH là lẽ khôn ngoan hướng dẫn chúng ta. Đó cũng là chọn lựa khôn
ngoan của thánh Phêrô: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người
phàm.” (Cv 5,32).
Suy niệm 2:
Đoạn tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu
cho chúng ta biết những đặc tính cần phải có của người mục tử nhân lành:
1. Dám hy sinh mạng sống
mình: Đoàn chiên không phải là của người chăn thuê, nên anh ta không thiết
tha gì để bảo vệ đàn chiên. Mục tiêu của người chăn thuê thường là vì lợi ích
của bản thân. Vì thế khi có sói dữ tấn công, anh ta sẽ dễ dàng bỏ mặt
chiên cho sói dữ ăn thịt, còn anh ta thì sẽ tìm cách thoát thân. Còn mục tử
chân chính thì sẵn sàng đứng ra chống lại sói dữ để bảo vệ đàn chiên mình, dù
phải đối mặt với hiểm nguy, cho dù phải hy sinh mạng sống.
2. Biết chiên của mình: Cái
biết của người mục tử không chỉ là cái biết chung chung về số lượng, hời hợt về
tên gọi. Nhưng mục tử đích thực phải biết chất lượng: tình trạng, nhu cầu, ước
muốn sâu xa của chiên mình. Cái biết đến độ đồng thân, đồng phận, đồng cảm và
đồng tử với chiên mình.
3. Quan tâm và đưa những chiên xa
lạc về đàn: Vì chiên cần có chủ chiên nên chủ chiên phải quy tụ chiên vào
cùng một đàn để chăm sóc, bảo vệ và nuôi dưỡng cho chúng được sống và sống dồi
dào. Do đó chủ chiên không chỉ quan tâm đến chiên trong đàn mà còn tìm cách để
đem các chiên ngoài đàn về, để chúng được hiệp nhất trong cùng một đàn dưới sự
hướng dẫn của cùng một chủ chiên.
Xin cho các vị chủ chăn sẵn sàng hy
sinh không chỉ thời giờ sức khoẻ mà cả mạng sống để phục vụ cho cộng đoàn được
lớn mạnh trong sức sống của Chúa.
Xin cho các vị chủ chăn cũng khiêm
tốn tìm hiểu và lắng nghe những tâm tư nguyện vọng chính đáng của mọi người
trong cộng đoàn mà sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu ấy bằng tình thương của người
mục tử nhân từ. Đừng vì tự cao, tự ái mà bỏ ngoài tai những đòi hỏi, nhu cầu
chính đáng của giáo dân. Xin
cho các vị chủ chăn ngoài việc lo lắng chăm sóc cho đàn chiên mình cho tốt, còn
phải quan tâm đến những con chiên ngoài đàn. Tìm mọi cách để dẫn đưa họ về với
Chúa, hầu họ cũng được sống trong tình thương chăm sóc của tình yêu Chúa.
Suy niệm 3:
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về cửa chuồng
chiên. Nhưng cửa này không phải là vật dụng bằng gỗ hay đá
mà là chính bản thân Ngài. Ngài tự ví mình là cửa chuồng chiên
vì muốn nói lên tình yêu Ngài dành cho đàn chiên. Ngài là cửa chuồng
chiên nên Ngài luôn bảo vệ cho chiên được nghỉ
ngơi an toàn. Ngăn chặn sói rừng vào sát hại chiên cũng như không để
cho kẻ trộm cướp vào bắt chiên.
Đức Kitô còn đưa ra hai hình ảnh trái
ngược, người chăn chiên nhân lành, và người chăn chiên thuê mướn.
Người chăn chiên nhân lành, ngày đêm chăm sóc, bảo
vệ đàn chiên, dẫn chúng đến nguồn nước trong lành, đồng cỏ xanh tươi. Người
chăn chiên nhân lành luôn sẵn sàng bảo vệ đàn chiên khỏi bị thú dữ sát hại
và anh dũng dấn thân vào chốn nguy hiểm để bảo vệ cho đàn
chiên được sống dồi dào. Mục tử nhân lành còn biết
rõ từng con chiên và chấp nhận mang lấy mùi chiên, hiểu biết và
gọi đúng tên từng con chiên. Ngược lại chiên ngoan cũng nhận ra bóng dáng và
tiếng gọi của chủ mình mà nghe theo.
Qua cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô minh chứng cho
một tình yêu vĩ đại mà Đức Kitô, mục tử nhân lành dành cho chúng ta
là đàn chiên của Người.
Vì là cửa chuồng chiên nên Đức Kitô để cho chúng ta
có quyền tự do lựa chọn. Những ai tin yêu, chọn bước theo Ngài thì
sẽ đón nhận được tình yêu hy hiến của Ngài. Ngược lại những ai chọn
theo ý riêng mình thì không bao giờ đón nhận được tình yêu hy sinh của
Người.
Ai chọn yêu mến và tin theo Đức Kitô sẽ không mất gì cả
mà còn nhận được nhiều ơn phúc của Chúa ban tặng. Cuộc sống họ trở nên
phong phú, tinh thần thảnh thơi, tâm tư thoải mái và luôn sống trong vui, ngay
cả khi gặp gian nan thử thách.
Chuồng chiên chỉ bảo vệ cho những ai yêu mến, tín
trung còn những kẻ bất tín thì chuồng chiên không thể bảo vệ được. Vì lòng nhân
lành, Chúa Kitô đã sẵn sàng mở cửa chuồng chiên để đón nhận bất cứ ai biết hồi
tâm, thống hối quay trở về cùng đàn chiên Người chăn dắt.
Đức Kitô không chỉ là người gác cửa mà Ngài còn là người
đi tìm những con chiên lạc, khi tìm được thì vui mừng vác trên vai mang về đàn (Lc
15,5) với mong sao chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên duy nhất.
Trộm cắp dùng nhiều hình thức dụ dỗ để bắt chiên; còn
sói dữ thì luôn rình rập cắn xé chiên. Người chăn chiên mướn là người làm thuê,
chủ chiên trả công. Nếu người đó không hoàn thành nhiệm vụ được trao phó; người
đó hành động khác chi kẻ trộm cướp hay sói rừng, trá hình, đội lốt, chăn chiên
để cầu lợi, để ngầm cấu xé và cắn phá chiên.
Chúng ta dâng lời tạ ơn Đức Kitô, Đấng chăn chiên nhân
lành đã yêu thương và hy sinh mạng sống vì ta. Xin cho chúng ta trở thành
chiên ngoan luôn biết nghe lời của Chúa mà sống hiệp thông với nhau trong tình
yêu thương của Chúa. Amen.
Thứ ba: Cv 11,19-26; Ga 10, 22-30.
Suy niệm 1:
Đoạn sách Cvtđ hôm nay gồm 2 phần:
- Phần thứ nhất: ghi lại
thành quả tốt đẹp của GH sau những ngày tháng lo sợ chạy trốn vì cuộc bách hại
xảy ra nhân sự kiện phó tế Stêphanô tử đạo tại Giêrusalem. Các môn đệ phải tản
mác đến các miền Phênixi, đảo Syp và thành Antiôkhia để trú ẩn. Tại
những nơi đây, các môn đệ chỉ rao giảng cho người Do Thái. Tuy
nhiên trong đó, có mấy người gốc Syp và Kyrênê, những người này, khi đến
Antiôkhia, đã mạnh dạn loan Tin mừng của Chúa cho người Hy-lạp nữa. Kết quả
thật bất ngờ là “một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa”. Nhờ
đâu mà có nhiều người ngoại giáo tin theo Chúa như vậy? Thánh Luca cho biết đó
là nhờ“bàn tay Chúa ở với họ”. Nghĩa là nhờ vào sức mạnh và quyền năng
Thiên Chúa phù giúp họ. Chính tại Antiokhia mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi
là Kitô hữu.
- Phần thứ hai: Đề cao đến tình hiệp thông
trong Hội Thánh. Khi nghe biết một số đông dân ngoại tại Antiokhia tin theo
đạo, thì các vị hữu trách của Hội Thánh tại Giêrusalem cử ông Barnaba đến để
chia sẻ niềm vui và củng cố đức tin cho các tín hữu ở đây bằng cách khuyên nhủ
họ hãy bền lòng gắn bó với Chúa. Rồi ông lên đường đi Tácxô để tìm Saolô về để
cộng tác với ngài lo cho giáo đoàn tại đây. Nhờ đó, giáo đoàn Antiokhia càng
thêm lớn mạnh. Qua đây cho thấy sự quan tâm, nâng đỡ kịp thời của
Hội Thánh. Điều này làm nổi bậc lên tính phổ quát và tình hiệp thông của GH
Công giáo.
Với cái nhìn của con người thì sự kiện Hội Thánh bị bách
hại gắt gao ở Giêrusalem là nỗi đau, nhưng với Thiên Chúa thì đó lại là cơ hội
để Tin mừng đến được với dân ngoại. Nhất là trong mọi hoàn cảnh GH
luôn biết quan tâm tìm hiểu để nâng đỡ cách tốt nhất trong tình hiệp thông.
Xin cho chúng ta luôn biết phó thác vào đường lối khôn
ngoan của Chúa và tin tưởng vào đường hướng của GH. Phần ta hãy luôn biết tận
dụng mọi hoàn cảnh để làm chứng tin mừng của Chúa theo gương các tín hữu Hy Lạp
hóa theo tinh thần nhiệt tâm của thánh Barnaba và Phaolô: “Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy
lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận
tiện; hãy biện bác, hãy khiển
trách, hãy khuyên lơn, hết tình đại lượng
và dụng tâm dạy dỗ” (2 Tim 4, 2).
Suy niệm 2:
Nhờ bí tích rửa tội, chúng ta trở
thành chiên của Chúa. Xin cho chúng ta hết lòng tin kính, vâng lời và sẵn sàng
đi theo sự hướng dẫn của Chúa Giêsu, vị chủ chăn tốt lành chúng ta.
Dù được nghe những lời giảng dạy và chứng kiến biết bao
phép lạ Chúa làm, nhưng những người Do Thái, cách riêng Biệt Phái và Kinh Sư
vẫn không tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Do đâu mà họ không tin nhận và
nghe theo lời của Chúa Giêsu?
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho biết, vì họ không thuộc
về đoàn chiên của Ngài. Theo nghĩa phổ quát, mọi người đều là chiên của Chúa,
vì mọi người đều được Chúa yêu thương dựng nên và hy sinh đổ máu cứu chuộc. Tuy
nhiên để trở thành chiên thật thuộc về Chúa thì cần phải thỏa mãn hai điều
kiện:
1. Tin nhận Chúa và chịu phép rửa tội. Vì giáo lý công
giáo dạy: nhờ bí tích rửa tội, chúng ta được thanh tẩy mọi tội lỗi, được làm
con Chúa, được gia nhập vào đoàn chiên Chúa là Giáo Hội.
2. Phải nghe theo lời Chúa là mục tử tối cao, cũng như
tuân giữ mọi điều răn và luật lệ Chúa truyền dạy với tình yêu mến.
Nhiều người Do Thái đã không thành tâm yêu mến Chúa, nên
cho dù Chúa Giêsu ở giữa họ, có giảng dạy và làm nhiều phép lạ, họ vẫn không
tin nhận, vì họ không thuộc đoàn chiên đích thực của Chúa.
Như Chúa Giêsu đã nói: chỉ những ai thuộc đoàn chiên
Chúa, thì mới được Chúa gìn giữ và ban cho sự sống đời đời .
Xin cho chúng ta biết tin kính và yêu mến Chúa Giêsu,
đấng chăn chiên tốt lành của chúng ta. Đồng thời cho chúng ta luôn là những con
chiên ngoan hiền của Chúa. Biết lắng nghe, vâng lời và thi hành điều Chúa chỉ
dạy với tình con thảo.
Thứ tư: Cv 12,24-13,5a; Ga 12,44-50
Suy niệm 1:
Như chúng ta đã biết, sách Cvtđ ghi lại những sự việc
xảy ra trong GH lúc ban đầu, cũng như trình bày về những hoạt động truyền giáo
của các tông đồ, khởi đi từ “Giêrusalem trong khắp miền Giuđê, Sammari và
cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1,8), nhằm thực thi lệnh truyền của
Chúa Giêsu phục sinh, trước khi Người lên trời.
Dựa vào nội dung những gì thánh Luca ghi lại, người ta
có thể chia sách Cvtđ ra làm 2 phần (hoặc 3 phần) tùy theo cái nhìn của đọc
giả.
A. Nếu chia sách Cvtđ thành 2 phần thì:
1. Phần thứ nhất (chương 1-12): nói về những sự việc xảy
ra của GH và nhấn mạnh đến sứ vụ làm chứng của các tông đồ tại Giêrusalem và
những vùng phụ cận như: Samaria (8,4-40), Xêdarê Duyên Hải (10,1-11,18),
Phênixi và Sýp (11,19, và Antiokhia (11,22-26).
2. Phần thứ hai (chương 13-28): nói nhiều về hoạt
động của thánh Phaolô và nhấn mạnh đến 3 cuộc hành trình truyền giáo của ngài:
- Hành trình truyền giáo thứ nhất (13,4-14,28): bắt đầu
từ An-ti-ô-khi-a miền Xy-ri-a đến tận Lý-tra, Đéc-bê, rồi trở về An-ti-ô-khi-a
(13,1) vào những năm 46-48.
- Hành trình truyền giáo thứ hai (15,36-18,22): Bắt đầu
từ An-ti-ô-khi-a miền Xy-ri-a đến A-thê-na (Hy lạp), Cô-rin-tô qua
Giê-ru-sa-lem và về An-ti-ô-khi-a (18,22) vào những năm 49 đến 52.
- Hành trình truyền giáo thứ ba (18,23-21,16): Bắt đầu
từ An-ti-ô-khi-a đến Cô-rin-tô, rồi về Giê-ru-sa-lem (20,1-6).
Nói đến sự kiện Phaolô bắt giam tại Giêrusalem, rồi tại
Xê-da-rê Duyên Hải (21,17-26,32), nhưng vì Phaolô có quốc tịch Rôma (16,21.37)
nên ngài được bị dẫn độ về Rôma xét xử. (Lm. Tanila Hoàng Đắc Ánh, OP).
B. Còn nếu chia sách Cvtđ làm 3 phần thì:
1. Phần thứ nhất (1-7): Phêrô và các tông đồ làm
chứng tại Giêrusalem.
2. Phần thứ hai (8-12): Phêrô và các phó tế làm
chứng tại Giuđê và Sammaria.
3. Phần thứ ba (13-28): Phaolô làm chứng cho dân
ngoại đến tận cùng thế giới (Rôma), mà theo cái nhìn thời bấy giờ thì đế quốc
Rôma được coi là hùng mạnh nhất trên trái đất, nên cũng xem như là tận cùng của
thế giới. (Lm. Phêrô Lê Tấn Lợi).
Khi nhìn lại như thế, ta dễ dàng nhận ra bài đọc 1 được
trích đọc trong thánh lễ hôm nay được ví như là bản lề hay cánh cửa thời gian
để khép lại giai đoạn thứ nhất trong sứ vụ “làm chứng” của các tông đồ tại
Giêrusalem, Giuđê và Sammaria và mở ra giai đoạn thứ hai trong sứ vụ “làm chứng”
cho Chúa đến tận cùng thế giới, theo như lệnh truyền của Chúa Giêsu phục sinh.
- Giai đoạn 1 (1- 12, 25): Nhìn lại giai đoạn đầu,
các tông đồ chỉ làm chứng cho Chúa tại Giêrusalem và những vùng phụ cận thôi,
nhưng các ngài cũng gặp rất nhiều khó khăn thử thách. Tuy nhiên với lòng nhiệt
thành và với ơn ban của Thánh Thần nên lời Chúa vẫn được lớn lên (6,7), phát
triển (12, 24), lan tràn và vững mạnh (19,20) cả về số lượng lẫn chất lượng.
Nghĩa là Tin Mừng của Chúa đã được nhiều người đón nhận và niềm tin của các tín
hữu ngày thêm vững mạnh. GH có thêm 3000 người theo đạo (2, 41), số người đàn
ông hôm sau thêm đến 5000 người (4,4), số môn đệ thêm đông (6,1), thêm rất
nhiều (6,7). Rất đông người Do Thái và Hylạp tin theo đạo (14, 1).
- Giai đoạn 2 (13, 1-5tt): Bắt đầu sứ vụ làm chứng cho
Chúa đến tận cùng thế giới. Đây sẽ là giai đoạn mà các tông đồ sẽ đối mặt với
nhiều gian nan thử thách vì phải “làm chứng” cho dân ngoại, nơi những miền xa
xôi.
Ý thức được điều đó nên trước khi bắt đầu cuộc hành
trình truyền giáo đầy khó khăn này, cộng đoàn An-ti-ô-khi-a đã họp nhau trong
bầu khí phụng vụ thờ phượng Chúa, để lắng nghe lời Chúa hướng dẫn. Và khi ấy họ
đã nghe được tiếng Thánh Thần phán: “Hãy dành Barnaba và Saolô cho Ta,
để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy”.
Cộng đoàn Antiokhia hiểu rằng sứ vụ truyền giáo của
Phaolô và Barnaba trong chuyến hành trình thứ nhất này sẽ phải gặp nhiều gian
khổ, nên họ đã hiệp thông cầu nguyện và phó dâng hai ông cho TC, qua việc “ăn
chay, cầu nguyện, và đặt tay trên hai ông và tiễn đưa hai ông lên đường”.
Hình ảnh hiệp nhất thờ phượng Chúa qua cầu nguyện và ăn
chay ấy của giáo đoàn Antiokhia thật tuyệt đẹp và cũng là bài học quý giá cho
chúng ta ngày hôm nay, khi phải đối mặt với cơn đại dịch Covid-19, và trong
những lúc gặp gian lao, đau khổ trong cuộc sống.
Xin Chúa cho chúng ta biết dành nhiều thời gian để hiệp
thông với nhau trong cầu nguyện và chay tịnh hãm mình để đủ sức mạnh của Chúa
mà vượt thắng mọi trở ngại. Xin Chúa cũng cho chúng ta cũng biết tích cực
góp phần vào việc truyền giáo của GH theo khả năng của mình. Đồng thời
phải luôn ý thức rằng công cuộc truyền giáo hay loan báo tin mừng không phải là
việc làm tùy tiện mang tính cá nhân nhưng phải được thực hiện dưới sự hướng dẫn
của Chúa Thánh Thần qua sự điều phối chính thức của GH, thì sứ mạng loan báo
tin mừng hay “làm chứng” cho Chúa mới mang lại những kết quả tốt đẹp.
Suy niệm 2:
Ánh sáng rất cần thiết trong cuộc sống tự nhiên. Ánh
sáng đem lại niềm vui tươi sinh động. Ở đây bài Tin Mừng muốn nói đến ánh sáng
siêu nhiên, tượng trưng sự hiện diện của Thiên Chúa. Ðức Giêsu chính là ánh
sáng. Ai không tin vào Ðức Giêsu, không giữ lời Ngài thì sống trong tối tăm bất
hạnh. Ðức Giêsu được sai đến không để xét xử nhưng để ban ơn cứu độ. Bởi thế,
nếu khước từ Lời Ngài, là tự lên án chính mình, tự tách mình ra khỏi ánh sáng
vinh quang Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con hằng khao khát hạnh phúc. Mà
chỉ có Chúa mới cho chúng con được hạnh phúc đích thực và trường tồn. Trong
cuộc sống, nhiều lúc chúng con gặp những trở ngại, khó khăn, u ám. Xin cho chúng
con biết tìm đến Chúa. Nhờ ánh sáng của Chúa, chúng con sẽ tìm ra con đường đem
lại hạnh phúc: Ðó là chúng con biết tin tưởng phó thác và sống theo sự hướng
dẫn của Chúa. Amen.
Suy niệm 3:
Sống trong xã hội vàng thau lẫn lộn, con người không còn
khả năng phân biệt đúng sai, tốt xấu, thật giả…vì thế, hơn bao giờ hết con
người ngày hôm nay cần có ánh sáng thật soi đường, chỉ lối.
Chúa Kitô, ánh sáng thật, đến trần gian để soi đường chỉ
lối. Xin cho chúng ta tin nhận và sống theo sự hướng dẫn của Ngài.
Ánh sáng là chủ đề tài nổi bậc trong tin mừng.
Ngay những trang đầu của tin mừng, thánh Gioan đã cho
biết Chúa Giêsu chính “là ánh sáng, ánh sáng thật, ánh sáng đến trần
gian và chiếu soi mọi người”.
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự xưng là ánh sáng thế
gian và Ngài mời gọi con người đi trong ánh sáng của Ngài.
Từ hai ngàn năm qua, Ngôi Lời Thiên Chúa đã chiếu ánh
sáng Thiên Chúa vào trần gian. Người mang lửa xuống trần gian. Người mong ước
cho ngọn lửa ấy cháy bừng lên, lan rộng ra. Nhưng nhìn vào tình hình thế giới
hôm nay, ta thấy bóng tối vẫn còn vây phủ con người.
Bóng tối chết chóc của chiến tranh, hận thù, của ô
nhiễm môi trường, của đói nghèo, áp bức, phân biệt chủng tộc, của nền văn hóa
sự chết giết hại cả những mầm mống sự sống.
Bóng tối tội lỗi. Tội lỗi vẫn tiếp tục lan tràn. Sự dữ
nổi lên dưới nhiều hình thức khác nhau. Nguy hiểm nhất là người ta đánh mất cảm
thức về tội lỗi, thản nhiên sống trong tội, sống chung với tội lỗi.
Bóng tối của hận thù ghen ghét. Trong thế giới văn minh
mà con người hô hào hôm nay, vẫn còn có những người say máu giết hại đồng bào
của mình, gây nên tội ác diệt chủng. Vẫn có những thế lực đen tối ngấm ngầm gây
chia rẽ giữa các quốc gia, dân tộc, giữa các cộng đoàn, hội thánh...
Sống trong xã hội tràn ngập bóng tối của sự chết, của
tội lỗi và hận thù…như thế, Chúa Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta phải chiếu
giãi trước mặt mọi người.
“Các con là ánh sáng thế gian”. Ngày nhận lãnh bí tích
rửa tội, Giáo Hội trao cho ta cây nến sáng để nhắc nhớ chúng ta hãy gìn giữ
ngọn nến ấy luôn cháy sáng mãi trong suốt cuộc đời.
Cây nến phục sinh mà người kitô hữu chúng ta thắp lên
trong đêm lễ phục sinh nhắc nhở chúng ta nhiệm vụ mang ánh sáng Chúa Kitô chia
sẻ cho mọi người chung quanh.
Xin Chúa giúp chúng ta tẩy sạch mọi bóng tối tội lỗi, để thực sự được sinh lại cùng với Đức Giê-su. Trở nên con cái sự sáng bằng đời sống tươi vui, an hoà, khiêm nhường, nhịn nhục, yêu thương, đoàn kết đến cho anh em.
Thứ năm: 1Pr 5,5b-14; Mc 16,15-20
KÍNH THÁNH MAR-CÔ, TÁC GIẢ TIN MỪNG
Suy niệm 1:
"Công cuộc truyền giáo mãi mãi là vấn đề sống còn
của Hội Thánh trên đất nước chúng ta". Đó là lời mở đầu của UB Loan Báo
Tin Mừng/HĐGMVN sau 50 năm (1960-2010) nỗ lực truyền giáo.
Vì thế truyền giáo hay loan báo tin mừng là nhiệm vụ
hàng đầu của Gíao Hội. Gíao Hội có được lớn mạnh hay không tùy thuộc vào việc
loan báo tin mừng.
Công đồng Vatican II khẳng định rõ rằng: “Tự bản tính,
Giáo hội lữ hành là truyền giáo” (Ecclesia peregrinans natura sua missionaria
est, Ad gentes 2).
Sẽ không là Gíao hội hay là người kitô hữu nữa nếu không
loan báo tin mừng.
Trên hết truyền giáo hay loan báo tin mừng là lệnh
truyền tâm quyết của Chúa Giêsu. Nên trước khi về trời Ngài đã di chúc lại cho
các tông đồ: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho
mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì
sẽ bị kết án" (Mc 16,15).
Vậy đã rõ mục đích của việc loan báo tin mừng là để
người khác tin vào Chúa Giêsu, nhận lãnh phép rửa và được cứu độ.
Nhưng làm thế nào để việc loan báo tin mừng mang lại
hiệu quả?
Thư thứ nhất của thánh Phêrô, trong bài đọc I hôm nay cho ta
biết những điều tóm lượt quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm để sống:
- "Lấy đức khiêm nhường đối xử với nhau". Muốn
đối xử khiêm nhường với nhau, trước hết phải tự khiêm hạ trước Chúa.Không khiêm
hạ trước Chúa làm sao ta dễ khiêm nhường với anh em. Kiêu ngạo luôn là cám dỗ
nguy hiểm đánh mất hạnh phúc thiêng đàng mà nguyên tổ Adam và Eva đã mắc phải.
- "Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em". Nghĩa là phải đặt trọn vẹn niềm tin vào sự quan phòng đầy yêu thương của Thiên Chúa.
- "Hãy sống tiết độ và tỉnh thức". Sống đúng
với ơn gọi và chu toàn tốt bổn phận mà Chúa trao phó cho mình.
- "Hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự".
Trong mọi hoàn cảnh, ngay cả cái chết cũng luôn trung thành làm chứng cho niềm tin
của mình. Vì phần thưởng mà Chúa ban tặng cho ta chính là được nên hoàn thiện, vững
vàng, mạnh mẽ và kiên cường; nhất là được hưởng vinh quang đời đời trong Đức
Kitô.
Xin Chúa cho chúng ta ý thức được tầm quan trọng của
việc truyền giáo, để như thánh Mác-cô, ta biết tận mọi khả năng, hoàn cảnh mà tham gia tich cực vào sứ vụ loan báo tin mừng.
Xin cho chúng ta trở nên chứng nhân trung thành của Chúa
Giêsu nhờ biết siêng năng tìm hiểu học hỏi và sống theo lời Chúa dạy trong các
sách Tin Mừng, trong đó có Tin Mừng thánh Mác-cô để lại, bằng đời sống khiêm
nhường, phó thác, tiết độ, tỉnh thức và kiên vững đức tin cho dẫu phải đối mặt
với bao gian lao thử thách. Nhờ đó mà Tin mừng của Chúa mới có sức thuyết phục
và ơn cứu độ của Chúa mới được lan tỏa đến mọi người ở khắp nơi.
Suy niệm 2:
Mỗi khi tưởng nhớ hay tôn kính một vị thánh nào đó, GH
thường nhắc lại thân thế và sự nghiệp của các ngài để tri ân công đức, nêu
gương bắt chước đời sống tốt lành và khấn xin các ngài khấn cầu cùng Chúa ban
ơn cho ta. Do đó trong ngày mừng kính thánh Marcô tác giả Tin mừng hôm nay,
chúng ta cũng hãy nhìn lại thân thế và sự nghiệp của thánh Marcô.
1. Thân thế:
Chúng ta không biết nhiều về quãng đời niên thiếu của
thánh Marcô. Chỉ biết rằng ngài là một trong bốn vị thánh sử đã ghi chép Phúc
Âm.
Tên đầy đủ của ngài là Gioan Marcô (x.Cv 12,12). Thánh
nhân là người Do Thái, thuộc dòng họ Lêvi. Mẹ của ngài là bà Maria, một góa phụ
giàu có, nơi ngôi nhà này, các tín hữu tiên khởi Giêrusalem hay đến tụ họp để
cầu nguyện (x. Cv 12, 12tt). Cũng vì thế mà sau khi ra khỏi tù Phêrô đã về đây
trú ẩn: “Mở cổng ra, thấy ông, họ kinh ngạc. Ông giơ tay làm hiệu cho họ im
lặng, rồi kể cho họ nghe Chúa đã đưa ông ra khỏi tù thế nào” (Cv 12,16-17).
Trong ba năm Chúa Giêsu đi rao giảng Tin mừng, ta không
thấy nhắc đến tên ngài, nhưng trong biến cố Chúa Giêsu bị bắt thì ngài có mặt ở
đó, nhưng vì sợ liên lụy, ngài đã bỏ chạy thục mạng, đến tuột cả quần ra (x. Mc
14,51-52).
2. Sự nghiệp:
Vâng theo lệnh truyền của Chúa Giêsu trước khi về trời,
Marcô đã đi theo tông đồ Barnaba và Phaolô để loan báo Tin mừng. Nhưng trong
chuyến truyền giáo thứ nhất có vì gặp quá nhiều gian lao, vất vả nên Marcô đã
bỏ về Giêrusalem (x. Cv 13, 13). Do đó mà trong chuyến truyền giáo thứ hai,
Phaolô nhất quyết không cho Marcô theo, mặc dù Barnaba tha thiết yêu cầu. Sự
kiện này đã gây đổ vỡ đến sự cộng tác giữa Phaolô và Barnaba (x. Cv 15,36-40).
Nhưng nhờ thế mà sau đó Marcô lại theo Phêrô đến Rôma và
làm thông dịch cho Phêrô, nên trong bức thư thứ nhất, Phêrô đã gọi Marcô là
người con của ngài. (x. 1Pr 5,13).
Là người thông ngôn cho Phêrô nên Marcô lãnh trách nhiệm
chép lại những lời Phêrô giảng dạy và là người đầu tiên soạn thảo “sách Tin
Mừng”, vào khoảng năm 64-70, với nhiều mục đích:
- Nhằm lưu lại lời rao giảng của các tông đồ cùng với
những truyền thồng tiên khởi của GH vì e rằng thế hệ chứng nhân “mắt thấy tai
nghe” sắp qua đi.
- Nhằm nâng đỡ và củng cố đức tin cho các tín hữu gốc
lương dân, sống ngoài lãnh thổ Palestin, đang sống trong hoàn cảnh bị bách hại
dữ dội bởi hoàng đế Nêron.
- Nhằm để giúp tín hữu mới theo đạo có được cảm nghiệm
về Chúa Giêsu như thánh Phêrô. Cảm nghiệm ấy được Marcô trình bày một cách tiệm
tiến qua ba giai đoạn được tóm lược vào câu đầu tiên trong Tin Mừng của ngài:
“Khởi đầu Tin mừng Đức Giêsu-Kitô-Con Thiên Chúa”. Trước hết Chúa Giêsu là một
người, tiếp đến Người là Đức Kitô như lời tuyên xưng của Phêrô (x. Mc 8,29),
Sau cùng Marcô trình bày cho thấy Đức Kitô ấy chính là Con TC, qua lời tuyên
xưng của viên đại đội trưởng Rôma dưới chân thập giá (x. Mc 15,39),
Nếu so sánh với các Thánh sử khác, thì Phúc âm của Thánh
Marcô là ngắn nhất, 16 chương. Trong khi đó Matthêu có đến 28 chương, Luca 24
chương, và Gioan 21 chương. Lối trình bày của Ngài đơn sơ, mộc mạc, mang tính
kể chuyện về cuộc đời của Chúa Giêsu, thích hợp cho mọi độc giả, đặc biệt cho
những anh chị em bình dân.
Người ta quen vẽ hình ngài là một con sư tử, một trong
bốn con vật được tiên tri Ezekiel xem thấy trong thị kiến. Quả thật sách Tin
Mừng của Marcô khởi đầu bằng việc trình bày Gioan Tẩy Giả như là tiếng hô trong
sa mạc (x. Mc 1,3).
Theo một tài liệu không chắc lắm cho biết thánh nhân
được ủy phái đi truyền giáo ở Ai Cập sau đó. Với cuốn Phúc Âm, ngài đã đưa
nhiều người trở về với Chúa. Ngài là vị sáng lập và là Giám Mục đầu tiên giáo
đoàn Alexandria. Nhờ tài lợi khẩu, trí thông minh và sự thánh thiện, ngài đã
dẫn đưa được nhiều người về cùng Chúa.
Cũng như các tông đồ, thánh nhân cũng gặp nhiều gian lao
thử thách trong sứ mạng làm chứng cho Chúa. Cuối cùng ngài cũng chịu bách hại
bởi những lương dân tại giáo đoàn ngài đang phục vụ. Họ đã bắt ngài điệu qua
các phố với mục đích bêu xấu ngài, và lôi kéo ngài trên đường đá gồ ghề cho tới
khi tắt thở. Hôm đó là ngày 25/04/67.
Ngài mất đi để lại một sự nghiệp vô giá. Phúc Âm do ngài
biên soạn vẫn còn mãi. Danh ngài sẽ luôn được nhắc đến trong Giáo Hội, nhưng
quan trọng hơn hết là phần thưởng bội hậu mà Thiên Chúa đã ban cho ngài trên
Thiên Quốc.
Nguyện xin Chúa qua lời chuyển cầu của thánh nhân ban cho mỗi người chúng ta biết tích cực cộng tác với GH trong sứ mạng loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Ðức Kitô phục sinh trong những bổn phận hằng ngày với hết khả năng của mình bằng con tim cháy lửa yêu mến theo gương thánh Marcô tác giả của Tin mừng, mà chúng ta mừng kính hôm nay.
* Mùa phục sinh: Cv
13,13-25; Ga 13,16-20.
Suy niệm 1:
Sách Cvtđ hôm nay tiếp tục ghi lại cuộc hành trình
truyền giáo lần thứ I của Phaolô và Barnaba nơi vùng đất dân ngoại, ngoài lãnh
thổ Giêrusalem. Có lẽ cuộc hành trình truyền giáo này gặp rất nhiều vất vả, khó
khăn nênmôn đệ Gioan-Márcô đã rời bỏ nhóm mà trở về Giêrusalem, chỉ còn lại
Phaolô và Barnaba. Hai ông rời bỏ Paphô để vượt biển đến Antiokhia xứ Pisiđia.
Tại đây, vào ngày Sabath, Phaolô cùng với Barnaba vào hội đường người Do Thái
để cử hành nghi thức phụng vụ (đọc và nghe giải thích thánh kinh, học hỏi lề
luật và cầu nguyện). Tận dụng cơ hội này, Phaolô đã đứng lên giảng
dạy. Nội dung bài giảng của Phaolô chủ yếu là điểm lại những chặng
đường lịch sử mà dân tộc Israel đã đi
qua:
- Từ Ai-cập cho đến xuất hành khỏi cảnh nô lệ.
- Từ vượt qua hành trình 40 năm trong sa mạc cho đến vào
đất hứa.
- Từ thời các thủ lãnh đến thời quân chủ
- Cuối cùng là thời Messia đã được Gioan Tẩy Giả loan
báo. Đấng Messia ấy chính là Đức Giêsu-Kitô. Người đến để hoàn tất kế hoạch cứu
độ mà Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ.
Sau khi tóm tắt lại những chặng đường lịch sử mà dân tộc
Israel đã đi qua, Phaolô muốn chứng minh cho khán giả thấy rằng: Thiên Chúa là
Đấng luôn trung tín trong lời hứa với tổ phụ Abraham nên đã ban cho
Israel Đấng Cứu Độ xuất thân từ giòng dõi vua Đavid và Đất hứa làm gia
nghiệp.
Xin cho chúng ta luôn ý thức: Lời hứa rất quan trọng
trong đời sống. Nếu một người biết giữ lời hứa và thực hiện lời hứa, chứng tỏ
người ấy sống có trách nhiệm với bản thân và người khác, sẽ được người khác quý
mến, tôn trọng và tín nhiệm. Ngược lại, nếu nói mà không làm, thường xuyên thất
hứa, chứng tỏ người ấy sống thiếu trách nhiệm, không biết tôn trọng bản thân và
người khác, chắc chắn sẽ không được tôn trọng. Nên trước khi hứa với ai điều gì
ta nên cẩn trọng xem mình có khả năng thực hiện được không? Và nếu một khi đã
hứa, hãy cố gắng thực hiện!
Trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, ta (hay cha mẹ
thay ta) đã hứa với Chúa và GH là từ bỏ tà thần và tuyên xưng đức tin, trung
thành sống với Chúa trong tình con thảo. Xin cho mỗi chúng ta luôn ý thức sống
trung thành với lời đã thề hứa ấy. Nhất là xin cho các đôi vợ chồng trẻ luôn biết tôn trọng và
tuân giữ lời mình đã tự nguyện thề hứa trước mặt Thiên Chúa và cộng đoàn trong
ngày cử hành bí tích hôn phối mà trung thành với nhau trong đời vợ chồng, cho
dẫu phải đối mặt với những nghịch cảnh trong đời sống.
Các nhà xã hội học định nghĩa con
người là con vật có xã hội tính. Thật vậy “không ai là một hòn đảo”. Con người
sống là sống với, sống cùng, sống cho và sống nhờ… người khác. Tin mừng hôm
nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mở lòng đón tiếp những sứ giả Chúa với tấm
lòng yêu mến và hy sinh phục vụ. Yêu mến phục vụ các ngài chính là
yêu mến và phục vụ Chúa.
“Tôi tớ không lớn hơn chủa nhà, kẻ
được sai đi không lớn hơn người sai đi” (Ga
13, 16). Các tông đồ là môn đệ Chúa nên các ông không thể bằng Chúa. Nhưng các
ngài diễm phúc được Chúa Giêsu đặt ngang hàng với Người. “Ai đón tiếp
người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy”. Như thế, Chúa mời gọi chúng
ta phải lưu tâm đón tiếp và phục vụ những sứ giả của Chúa sai đến là các
tông đồ. Tiếp nối các tông đồ là các Linh mục. Các ngài cũng là những Chúa Kitô
thứ hai. Do đó đón tiếp các ngài là đón tiếp chính Chúa.
Trong Thánh Kinh chúng ta thấy còn ghi lại một vài nét
đẹp của sự tiếp đón đáng cho chúng ta bắt chước. Những gương sáng này vẫn luôn
giữ được tính cách thời sự của nó.
1. Ông Abraham.
Ông là một con người hiếu khách và quảng đại. Khi thấy
ba khách lạ đang đi trong sa mạc nắng cháy, không những ông mời mà còn năn nỉ
họ vào nhà nghỉ và ân cần săn sóc họ một cách chu đáo. Ba người khách lạ
đó là ai ? Đó là ba sứ giả của Thiên Chúa. Đáp lại tấm thịnh tình và lòng quảng
đại của ông, ba sứ giả ban cho vợ chồng hiến muộn này một đứa con trai đầu
lòng. Đó là cậu Isáac.
2. Một gia đình ở
Su-nêm.
Khi tiên tri Elia qua Su-nêm, một bà giầu có rất hiếu
khách đã mời Elia vào nhà dùng bữa với sự săn sóc tỉ mỉ. Bà còn dọn cho tiên
tri một phòng trên gác đầy tiện nghi để tiên tri có thể lui tới tự do. Đáp lại
tấm lòng quảng đại của bà, Elia cũng hứa ban cho bà một đứa con vì bà son sẻ: ‘Vào
thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng”
3. Gia đình ba
chị em ở Bêtania.
Chúa Giêsu rất thương ba chị em này, mỗi khi đi qua
Bêtania, Chúa và các môn đệ thuờng ghé thăm chị em và nghỉ ngơi. Chị cả Matta
rất hiếu khách, dọn cho Chúa những bữa ăn ngon. Còn cô em Maria đón
tiếp Chúa bằng cách ngồi dưới chân Chúa mà nghe Ngài dạy dỗ, cách đón tiếp này
cũng làm cho Chúa rất hài lòng. Còn Lagiarô là đàn ông thì tiếp theo kiểu đàn
ông là ăn uống và chuyện trò với Chúa. Đáp lại sự đón tiếp ân cần và thành thực
của ba chị em, Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô sống lại sau khi chết bốn ngày.
Khi tiếp đón các tông đồ của Chúa, dĩ nhiên chúng ta
phải mất mát : mất thì giờ, mất tiền của, mất công... Nhưng tất cả sẽ được Chúa
thưởng công cho ở đời này hay đời sau. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa, đã tiên liệu
cho chúng ta có những người kế tiếp Chúa, là các Linh mục, để đem Chúa đến cho
chúng ta và dạy bảo chúng ta về đời sống đạo.
Chúng ta cầu xin cho các linh mục biết sống và thể
hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trước mặt Chúa cho xứng đáng, để mọi người
nhận ra khuôn mặt Đức Kitô qua đời sống linh mục.
Thứ sáu: Cv 13,26-33; Ga 14,1-6.
Suy niệm 1:
Sau khi nhắc lại những chặng đường lịch sử mà dân Israel
đã trãi qua dưới sự dẫn dắt đầy khôn ngoan của TC, Phaolô tiếp tục dùng khung
bài giảng Kerygma (bài giảng truyền giáo) để khái quát về cuộc đời của Đức
Giêsu nơi trần thế và khẳng định mọi điều Thiên Chúa hứa ban nay đã được
thành toàn nơi Đức Kitô qua cái chết và sự Phục Sinh vinh hiển của Người.
- Về sự phục sinh của Đức Giêsu: Phaolô khẳng định chính
Đức Kitô đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ: "Trong nhiều ngày,
Đức Giêsu đã hiện ra với những kẻ từng theo Người từ Galilê lên Giêrusalem. Giờ
đây chính họ làm chứng cho Người trước mặt dân". Và Phaolô và
Barnaba chính là chứng nhân cho tin mừng ấy: "Còn chúng tôi, chúng
tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: Điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng
ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Đức
Giêsu sống lại, đúng như lời đã chép trong Thánh vịnh 2: Con là Con của Cha,
ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2,7).
- Về cái chết của Đứcc Giêsu: Phaolô nhấn mạnh cái chết
của Đức Giêsu là do "dân cư thành Giêrusalem và các thủ lãnh của
họ” gây nên. Nhưng cũng như Phêrô, ngài cho biết sở dĩ họ giết Đức
Giêsu là vì họ không nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ.
+ Từ đó, Phaolô hướng mọi người nhìn về cái chết và sự
phục sinh của Đức Giêsu là kế hoạch cứu độ đầy khôn ngoan của TC, vì đã ứng
nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã nói về Người Tôi Trung của TC. Và ông kêu gọi
mọi người sám hối, tin nhận Đức Giêsu để đón nhận ơn cứu độ.
Với cái nhìn đức tin, Phaolô cho thấy: dù con người có
từ chối và đóng đinh Chúa Giêsu trên Thập Giá, họ cũng không tài nào vô hiệu
hóa được kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, để từ nay, không những dân Israel mà
mọi người đều có thể nhận được ơn cứu độ.
Xin cho chúng ta biết phó thác đời mình cho kế hoạch đầy
khôn ngoan và giàu lòng yêu thương của TC. Để cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu
vẫn phải chấp nhận ngang qua con đường thập giá. Vì thế thập giá chính là con
đường mà chúng ta phải bước theo nếu muốn được cứu độ. Xin cho chúng ta luôn
can đảm sống tinh thần của thánh Phaolô để sẵn sàng "cùng chết với Đức
Kitô, chúng ta sẽ cùng sống lại như Người".
Ngày xưa chưa có đường. Nhưng do đi
lại nên trở thành đường mà thôi. Muốn đi và đạt đến đỉnh hạnh phúc vinh quang
ta cần có con đường để đi. Con đường ấy chính là Đức Giêsu Kitô, Ngài đi từ
trời xuống và từ đất lên và trở nên đường đưa dẫn chúng ta về trời sum họp cùng
với Ngài trong nhà Cha. Xin cho chúng ta biết đi trên con đường mà chính Chúa
đã vạch ra hầu chúng ta đạt tới quê trời vinh phúc.
Sau một thời gian rời bỏ Việt Nam để tìm cho mình cuộc
sống tự do nơi quê hương xứ sở mới. Nay cuộc sống của hầu hết Việt Kiều ở nước
ngoài đều ổn định và sung túc. Trong khi đó những người thân của họ ở lại thì
phải sống trong cảnh khó khăn, vất vã. Với chính sách đoàn tụ gia đình, những
năm gần đây, nhiều việt kiều đã về nước để bảo lãnh người thân của mình sang để
sum họp gia đình và hưởng được cuộc sống tiện nghi thoải mái. Tuy nhiên để được
đoàn tụ với người thân bên nước ngoài, công dân việt nam phải thoả mãn nhiều
điều kiện....
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho các tông đồ biết :
Ngài sẽ ra đi để dọn chỗ cho các ông, rồi một ngày nào đó, Chúa sẽ trở lại, đem
các ông lên ở với Chúa trên nhà Cha trên trời, để hưởng vinh phúc đời đời. Tuy
nhiên để được đoàn tụ với Chúa Giêsu trên quê hương thiêng đường, Chúa cũng đòi
hỏi chúng ta phải thoả mãn các điều kiện mà Chúa đưa ra. Đó là đi đúng con
đường của Chúa đã đi, tuân giữ chân lý mà Chúa đã truyền và hiệp thông trong sự
sống của Chúa.
Con đường mà Chúa Giêsu đi là con đường hẹp, con đường
thập giá. Chấp nhận hy sinh, gian khổ để thi hành những giời răn mà Chúa đã chỉ
dạy. Biết khiêm tốn, hạ mình chấp nhận thiệt thòi để phục vụ tha nhân với tình
yêu mến.
Cố gắng sống theo chân lý mà Chúa đã dạy. Chân lý ấy là
sống yêu thương. Yêu không chỉ những người thân cận, không phải những kẻ yêu
mình mà tình yêu phải quy chiếu vào tình yêu của Chúa Giêsu: “Yêu như
Chúa yêu”, tình yêu ấy phải dành cho hết mọi người, không phân biệt một ai,
ngay cả kẻ thù.
Ý thức nổ lực sống hiệp thông với Chúa, bằng việc lắng
nghe và thi hành Lời Chúa cũng như tha thiết kết hiệp với Chúa qua việc kính
yêu và năng đón nhận Mình Thánh Chúa. Nhờ thế sự sống và sức mạnh Chúa tuôn
chảy trong ta. Như nhựa cây cần thiết để nuôi sống cây nho và cành nho thế nào
thì linh hồn chúng ta cũng cần đến Lời Chúa và Mình Thánh Chúa như thế.
Mục đích một đời sống đạo là hạnh phúc thiêng
đàng. Nhưng để đạt được điều mong đó, không gì khác hơn là chúng ta phải đi
theo đường Chúa đã đi, sống theo chân lý mà Chúa đã sống và chỉ dạy, nhất là
phải luôn sống bằng sức sống của Chúa qua việc thi hành Lời Chúa và năng kết
hiệp với Chúa nơi bàn tiệc Thánh Thể.
Thứ bảy: Cv 13,44-52; Ga 14,7-14.
Suy niệm 1:
Với chủ đích ban đầu của các môn đệ là loan báo Tin mừng
Cứu độ chủ yếu cho người Do Thái nên Phaolô và Barnaba luôn tận dụng Hội đường
để rao giảng. Lần này cũng vậy, Phaolô và Barnaba đến Hội đường vào ngày Sabath
để rao giảng theo lời mời của một số người Do Thái. Tuy nhiên lần này hai ông
lại bị chống đối quyết liệt bởi những người Do Thái quá khích.
Hai lý do họ chống đối Phaolô và Barnaba là:
- Thứ nhất vì ghen tương: Họ không muốn Phaolô và
Barnaba có ảnh hưởng trên đám đông; vì nếu đám đông nghe theo Phaolo va Barnaba
thì họ sẽ không còn ảnh hưởng trên dân chúng nữa. Họ không muốn thấy ai được
phép bằng họ.
- Thứ hai vì quan niệm hẹp hòi: Truyền thống Do
Thái quan niệm chỉ có họ mới là con Thiên Chúa và có đặt quyền nghe lời của
Thiên Chúa. Giờ đây cả dân ngoại cũng được làm con Thiên Chúa và được nghe lời
Thiên Chúa thì họ đâu còn chi đặc biệt nữa. Nên khi “thấy đám đông dân
chúng, thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy”.
Cách giải quyết của Phaolô và Barnaba trước sự chống đối:
1. Bình tĩnh can đảm giải thích: Lẽ ra "Anh
em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh
em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì
đây chúng tôi quay về phía dân Ngoại".
2. Dùng Lời Chúa để minh chứng: Phaolô và Barnaba
đã trích lại lời Thiên Chúa trong sách Isaia để cho thấy việc rao giảng Lời của
Chúa cho dân ngoại chính là lệnh truyền của Thiên Chúa: “Ta đặt ngươi làm
ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta
đến tận cùng cõi đất." (Is 49, 6).
Nhưng khi nghe những lời đó, họ càng phẩn nộ, đã xách
động và xúi dục nhóm phụ nữ thượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào
trong thành, ngược đãi ông Phaolô và ông Barnaba, và trục xuất hai ông ra khỏi
lãnh thổ của họ.
Trước thái độ cố chấp của họ, cuối cùng hai ông đành
phải cắt đứt liên hệ với họ qua cử chỉ“giũ bụi chân phản đối họ và đi tới
Icôniô”, theo như lời Chúa Giêsu đã dạy:“Nếu người ta không đón tiếp và
nghe lời anh em, thì khi ra khỏi thành ấy, anh em hãy giũ bụi chân lại.” (Mt
10,14). Chính nhờ đó mà Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy và dân ngoại được hân
hoan ca tụng Lời Chúa.
Xin cho chúng ta biết noi gương hai thánh tông đồ Phaolô
và Barnaba luôn nhiệt tâm rao giảng Tin mừng cho mọi người dù gặp phải nhiều
gian nan thử thách. Nhất là cho mỗi người Kitô hữu chúng ta biết tích cực góp
phần cho công cuộc truyền giáo với hết khả năng của mình. Đừng vì tính ích kỷ,
ghen tị, tự mãn… hay bất cứ lý do nào làm ngăn cản cho sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Suy niệm 2:
"Xin cho chúng con
thấy Chúa Cha" (Ga 14,8). Đó không chỉ là khao khát của tông đồ
phi-lip-phê mà là mỗi chúng ta, những người tin Chúa. Khao khát đó sẽ được Đức
Giêsu làm thoả mãn qua sứ điệp của lời Chúa hôm nay.
Tin Mừng hôm nay, Philipphê xin với Chúa
Giêsu: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn
nguyện" (Ga14,8). Khao khát của Phi-lip-phê, cũng là khao khát mỗi chúng
ta.
Thiên Chúa đã đáp lại khát vọng đó qua việc cho Ngôi Hai
Thiên Chúa làm người. “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã
phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này, Thiên
Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử Giêsu.” (Dt 1,1- 20). Nơi Đức
Giêsu Kitô, chúng ta gặp được Thiên Chúa, dễ gần, dễ thấy, dễ quen.
Thiên Chúa đâu chỉ ở nơi cao thẳm ngàn trùng, Thiên Chúa
hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Giữa Ngài và Thiên Chúa Cha có một
gắn bó lạ lùng đến nỗi Đức Giêsu dám nói: "Ai biết Thầy là biết Cha" (Ga
14,7). "Ai thấy Thầy là thấy Cha." (Ga 14,9)
vì "Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy." (Ga
14,10).
Lời nói và việc làm của Đức Giêsu chính là lời nói và
việc làm của Thiên Chúa (x. Ga 14, 10). Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu được Cha
chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt, phản chiếu khuôn mặt và trái tim
Thiên Chúa, đầy nhân ái và bao dung với hết mọi người. Kitô hữu là người có
Chúa Kitô nên được mời gọi trở nên giống Chúa Giêsu để có thể nói rằng: Ai biết
tôi là biết Đức Kitô, ai thấy tôi là thấy Đức Kitô.
Lạy Chúa Giêsu! Ðã bao lần con làm cho khuôn mặt Chúa trở méo mó, biến dạng và có thể là rất khó thương vì đời sống không tốt đẹp của con. Xin cho con biết nhìn lên Chúa như một khuôn mẫu tuyệt vời để tu tập thành con người mới, con người có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và tình yêu thương, để nhờ đó con trở thành hình ảnh trung thực về Chúa cho thế giới hôm nay. Amen.
SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN IV PHỤC SINH
Lm Minh Anh, Tgp Huế
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH-CHÚA CHĂN CHIÊN LÀNH
Cv 4, 8-12; 1Ga 3,1-2; Ga 10,1-18
ĐỂ PHỤC VỤ
“Mục tử nhân lành hy sinh mạng
sống mình cho đoàn chiên”.
“Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ bằng
việc bị đói; tuy nhiên, Ngài là Bánh Trường Sinh. Kết thúc sứ vụ bằng cơn khát;
tuy nhiên, Ngài là Nước Hằng Sống. Bị bán ba mươi đồng bạc; tuy nhiên, Ngài cứu
chuộc cả thế gian. Và đã chết như một con chiên; tuy nhiên, Ngài là Mục Tử Nhân
Lành!” - Grêgôriô Nazian.
Kính thưa Anh Chị em,
Hôm nay, Chúa Nhật Chúa
Chiên Lành, ngày cầu cho ơn gọi. Hạn từ “ơn gọi” thường bị giới hạn trong chức
linh mục và đời sống tu trì. Vậy mà, như chính Chúa Giêsu, mọi thành viên trong
Giáo Hội đều đã nhận một “ơn gọi”, ơn gọi đó là ‘để phục vụ’ tha nhân.
Chúa Giêsu là mẫu mực hoàn hảo
của mọi ơn gọi, Ngài đến không để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến mạng sống
mình. Ngài nói, “Tôi là mục tử nhân lành!”. Tất cả những gì Ngài nhận được từ
Chúa Cha, Ngài đều cho người khác. Đây cũng là trọng tâm ơn gọi phục vụ của
chúng ta. Những gì chúng ta có, những gì chúng ta là đều đến từ Thiên Chúa, và
chúng ta được kêu gọi dùng tất cả chúng ‘để phục vụ’ anh chị em mình.
Ai cũng có thể phục vụ bằng
những cử chỉ tưởng chừng như nhỏ bé - nhưng thực ra lại rất vĩ đại - nếu chúng
được làm bởi một tình yêu chân thành. Những cách chúng ta sống ơn gọi này thường
rất khiêm tốn và ẩn giấu; những gì dường như không đáng kể - một đôi tai biết lắng
nghe, một lời khích lệ, một cử chỉ nhỏ nào đó - điều mà Tin Mừng có lúc gọi là
“chén nước lã”. Bạn không cần phải nghĩ đến một công việc to tát hoặc một nhiệm
vụ hấp dẫn nào đó; nhưng hãy làm những gì xem ra tầm thường với một trái tim
phi thường!
Phần lớn cuộc đời được diễn
ra trên các sân khấu nhỏ! Chính trong không gian đó, ơn gọi phục vụ của chúng
ta được thực hiện. Cách bạn và tôi sống ơn gọi phục vụ trong không gian đó sẽ
không gây chú ý và có thể không bao giờ được biết đến; tuy nhiên, khi các mối
quan hệ được gợi hứng bởi một trái tim yêu thương thì một thế giới mới sẽ được
tạo ra.
Hãy chiêm ngắm những tố chất
nơi Mục Tử Nhân Lành Giêsu! Ngài yêu thương, biết từng con chiên và cuối cùng,
hy sinh mạng sống cho chiên. Ngài yêu thương chúng ta với những sở trường lẫn sở
đoản của mỗi người; Ngài biết từng con hẽm tối, từng lối mòn của chiên. Vì thế,
Ngài không ngần ngại cất công tìm kiếm. Cuộc đời của Ngài là một cuộc đời quan
tâm và hy sinh. Ngài đến, để yêu thương, ‘để phục vụ’, quên mình và chết cho
chiên.
Ngài tiếp tục phục vụ, trao
ban chính Ngài. Chúng ta hãy tham dự Thánh Lễ với tấm lòng rộng mở, đón nhận sự
phục vụ của Ngài, “Hãy cầm lấy mà ăn!”. Khi nhận lấy chính Ngài, chúng ta để
mình được Ngài phục vụ; nhờ đó, có thể sống ơn gọi phục vụ của mình. Chúng ta sẽ
phục vụ Ngài nơi người khác như Ngài đã phục vụ chúng ta qua người khác.
Anh Chị em,
“Mục tử nhân lành hy sinh mạng
sống mình cho đoàn chiên”. Đó phải là mẫu mực và là tiếng gọi bền bỉ trong suốt
cuộc đời mà chúng ta không ngừng khám phá những cách thức mới mẻ để đáp trả.
Hãy luôn có cho mình một bước đi mới, bất kể chúng ta đang ở đâu trên hành
trình cuộc đời. Là con cái Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi tiếp tục phát triển
bản thân theo hình ảnh Ngài, và như thế, chúng ta đang nên thánh!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con như đứa
chăn thuê chăm chút vun quén cho bản thân, cho con dám sống, dám chết cho linh
hồn của những ai Chúa trao cho con!”, Amen.
Thứ hai: TIẾNG NGƯỜI LẠ
“Chúng sẽ không theo nhưng sẽ
chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ”.
Một người Mỹ du lịch Syria,
thấy ba người chăn chiên dẫn đoàn vật của mình đi chung trên một con đường.
Một lúc sau, người thứ nhất
hô to, “Men ah! Men ah!”, tiếng Ả Rập là “Hãy theo tôi!”. Chiên của anh tách
đàn, túc tắc theo anh lên một ngọn đồi.
Người thứ hai cũng làm thế,
chiên lững thững theo anh. Người Mỹ nói với người thứ ba, “Cho tôi mượn mũ, gậy
của anh; tôi sẽ gọi, xem làm sao?”. Người ấy vui lòng.
Người Mỹ gọi, “Men ah! Men
ah!”. Chẳng con nào ngẩng lên! “Chiên không nghe ai khác, chỉ trừ một mình
anh?”. Người ấy trả lời, “Có chứ! Vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ
ai!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Vài con chiên bị bệnh, nó sẽ
đi theo bất cứ ai!”. Lời Chúa hôm nay bất ngờ hỏi chúng ta, “Con có khoẻ
không?”. Và hy vọng, bạn khoẻ, để từ chối ‘tiếng người lạ’ và chỉ nghe tiếng
Giêsu - Chủ Chiên - như lời Ngài nói, “Chúng
sẽ không theo người lạ!”.
Có lẽ chúng ta thường tự trấn
an, ‘tiếng người lạ’ không ảnh hưởng mấy đến tôi! Thế nhưng, tiếng của ‘tin lạ’,
‘người lạ’, ‘tiền lạ’, dục vọng và các thứ khác… lại ảnh hưởng lên bạn và tôi
nhiều hơn chúng ta tưởng. Và dù tin hay không tin, chúng vẫn tác động và áp lực
mạnh mẽ! Chúa Giêsu nói đến sự khác biệt giữa tiếng mục tử và ‘tiếng người lạ’.
Chiên dễ thuần thục khi được dạy để phản ứng có điều kiện, vì chủ chiên thường
nói chuyện với chiên. Nghe anh, chiên ngẩng lên và đi theo anh; với người lạ
thì không!
Điều này cũng đúng với chúng
ta. Bạn sẽ đi theo tiếng mà bạn quen thuộc! Vậy thì bạn quen với điều gì nhất?
Lý tưởng là chúng ta dành đủ thời gian cho việc đọc Lời Chúa, học ngôn ngữ, giọng
điệu và tiếng của Ngài; lý tưởng là chúng ta dành một phần thời gian trong
ngày, mỗi ngày, để im lặng đủ mà chiêm ngắm, cầu nguyện. Khi làm điều này, bạn
xây dựng cho mình một ‘thói quen nghe’ và trở nên dễ chịu với tiếng Chúa. Một
khi thói quen này được hình thành, chúng ta sẽ dễ dàng hơn rất nhiều trong việc
nhận ra tiếng Chúa giữa những bận rộn ‘đời đời’ của mình và làm theo ngay!
Câu chuyện Công Vụ Tông Đồ
hôm nay là một minh hoạ. Những người đồng hương trách Phêrô vì ông giao du với
người ngoại. Nhưng nhờ cầu nguyện và lắng nghe, Phêrô nhận ra tiếng Chúa qua
câu chuyện dài mà ông đã kể, “Nghe xong, họ mới chịu im”; họ nói, “Vậy ra Thiên
Chúa cũng ban cho các dân ngoại ơn sám hối để được sự sống”.
Anh Chị em,
“Chúng không nhận biết tiếng
người lạ”. Chúa Giêsu không bao giờ nghe ‘tiếng người lạ!’; cuộc chiến của Ngài
trong hoang địa 40 đêm ngày chứng tỏ điều đó. Ngài luôn hướng về Chúa Cha, quen
với tiếng của Cha, nên Ngài luôn làm điều đẹp lòng Cha. Cũng thế, với chúng ta,
đừng để ‘tiếng người lạ’ lấn át tiếng nói của Giêsu Mục Tử và Thánh Thần của
Ngài! Ngài không bao giờ xa lạ; Ngài là bạn, là anh em, miệt mài nói to nói nhỏ
với chúng ta mỗi ngày để bạn và tôi có thể ‘phản xạ có điều kiện’ mỗi khi Ngài
gọi. Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng nhạy bén để nghe được Ngài giữa bao
bận rộn. Vì thế, hãy cẩn thận! Chúng ta luôn có nguy cơ bị phân tâm bởi những
‘tiếng lạ’ vốn luôn ngọt ngào, lôi cuốn. Đừng để mình thuộc số “Vài con bị bệnh,
sẽ đi theo bất cứ ai!”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, có lẽ con ‘không
khoẻ’ lắm, nếu không nói là ‘bệnh’. Xin cứu con, để con không đi theo bất cứ
ai!”, Amen.
Thứ ba: LUÔN KHÍCH LỆ
“Tôi ban cho chúng sự sống đời
đời”.
“Hãy tâng bốc tôi, tôi có thể
không tin bạn! Hãy chỉ trích tôi, tôi có thể không thích bạn! Hãy quên bẵng
tôi, tôi có thể không tha cho bạn! Nhưng hãy khích lệ tôi, tôi sẽ không bao giờ
quên bạn!” - William Arthur Ward.
Kính thưa Anh Chị em,
“Hãy khích lệ tôi, tôi sẽ
không bao giờ quên bạn!”. Thật thú vị! Các nhân vật của Lời Chúa hôm nay là những
con người ‘luôn khích lệ’ mà Giáo Hội và thế giới sẽ không bao giờ quên lãng:
Barnaba, ‘Con của sự khích lệ’; và Giêsu, ‘Thiên Chúa của sự khích lệ!’.
Công Vụ Tông Đồ tường thuật
cuộc viếng thăm của Barnaba; “Barnaba”, tiếng Hy Lạp có nghĩa là ‘Con của sự
khích lệ!’. Từ Giêrusalem, Barnaba được cử xuống Antiôkia để xét xem hiện tình.
Vui mừng khi thấy “ơn Thiên Chúa” ban, Barnaba “khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn
bó cùng Chúa”; ông dành cho anh chị em tân tòng một sự khích lệ lớn lao. Sau
đó, đến Taxô, Barnaba tìm Phaolô, người mới tin; đưa Phaolô đi Antiôkia để hỗ
trợ cho Hội Thánh non trẻ này. Từ đó, Phaolô trở thành trụ cột của Antiôkia; và
“Chính tại Antiôkia, lần đầu tiên, các môn đệ được gọi là Kitô hữu”, Hội Thánh
ngày càng có nhiều người tin; Thánh Vịnh đáp ca bộc lộ nỗi hân hoan, “Muôn nước
hỡi, nào ca ngợi Chúa!”.
Lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng
hôm nay cũng thật khích lệ, “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời”. Với Ngài, hạnh
phúc tối thượng của mỗi con chiên là “sự sống đời đời”. Tuy nhiên, không phải
là những con chiên thụ động nhưng là những con chiên biết lắng nghe Chủ Chiên,
một điều gì đó không thể thiếu trong mối quan hệ của nó với Ngài, “Chiên của
tôi thì nghe tiếng tôi”. Ngài ra sức bảo vệ chiên, “Không ai cướp được chúng khỏi
tay tôi”; nhưng để khỏi bị cướp, mỗi con chiên cần đóng góp phần tích cực của
mình. Nghĩa là, chúng ta phải im ắng đủ để nghe tiếng Mục Tử Giêsu qua từng biến
cố, từng cử hành phụng vụ, từng trang Phúc Âm; siêng năng tìm đến suối nguồn ân
sủng, các Bí tích. Bởi lẽ, ngày nay, đang có nhiều ‘tiếng người lạ’ dành giật sự
chú ý; và thật không dễ để bạn và tôi có thể nghe được những lời ‘luôn khích lệ’
của Ngài.
Anh Chị em,
“Tôi ban cho chúng sự sống đời
đời”. Noi gương Chúa Giêsu, ‘Thiên Chúa của sự khích lệ’; bắt chước Barnaba,
‘Con của sự khích lệ’, chúng ta cũng ao ước “sự sống đời đời” cho mình và cho
tha nhân. Như các ngài, chúng ta khuyến khích nhau trong đức tin, giúp nhau lớn
lên trong sự thân tình với Chúa và sống liên đới với nhau. Cha mẹ khuyến khích
con cái, con cái khuyến khích cha mẹ; anh chị em, bạn bè khuyến khích nhau để
nên thánh mỗi ngày; vì “Chúng ta không lên thiên đàng một mình!”. Ước gì bạn và
tôi có một trái tim lặng đủ để nhanh nhạy ‘ngẩng lên’ khi nghe Giêsu Mục Tử gọi
và mau mắn thi hành điều Ngài muốn! Từ đó, dám dấn thân, trở nên những con người
sẵn sàng vực dậy những ai đang bủn rủn, đầu gối rã rời. Như vậy, trong mọi lĩnh
vực, ‘mục vụ khuyến khích’, ‘văn hoá khuyến khích’ vẫn đóng một vai trò nhất định,
không chỉ ở các Hội Thánh non trẻ, mà cả với Giáo Hội trưởng thành và ngay
trong thế giới hiện đại!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, giúp con sống và
dạy ‘văn hoá khuyến khích’. Đừng để con nhìn mọi sự dưới lăng kính tiêu cực.
Cho con luôn dấn thân trong ‘mục vụ khuyến khích!’”, Amen.
Thứ
tư: NGHE TRONG ÁNH SÁNG
“Tôi là ánh sáng!”.
“Rất nhiều người chỉ thay đổi
khi họ cảm nhận sức nóng; nhưng một số khác sẽ thay đổi khi họ biết nghe trong
ánh sáng!” - Anon.
Kính thưa Anh Chị em,
“Một số khác sẽ thay đổi khi
họ biết nghe trong ánh sáng!”. Câu nói trên trùng hợp với những gì mà Lời Chúa
hôm nay tiết lộ. Hội Thánh Antiôkia ‘nghe trong ánh sáng’; Chúa Giêsu muốn các
môn đệ của Ngài ‘nghe trong ánh sáng’, chính Ngài! “Tôi là ánh sáng!”.
Bài đọc Công Vụ Tông Đồ cho
biết, tuy Barnaba và Saolô là hai trụ cột của Hội Thánh Antiôkia; nhưng các tín
hữu ở đây - nhờ sức nóng của Thánh Thần - đã vui lòng để hai ông ra đi. Sở dĩ họ
có thể làm được một nghĩa cử hào hiệp đến thế là vì họ đã có khả năng ‘nghe
trong ánh sáng’ Chúa Phục Sinh! Từ đó, họ dám buông bỏ ‘hai tài sản’ lớn nhất của
mình hầu Tin Mừng có thể vươn tận những chân trời xa xôi, mới mẻ. Chúa Phục
Sinh và Thánh Thần của Ngài đã ‘đốt cháy’ trái tim những con người này; cho họ
‘cảm nhận’ sức nóng của Ngài; nhờ đó, họ đủ khả năng tự làm rỗng mình, trở nên
nghèo, để nhiều người thuộc các miền dân ngoại được nên giàu có thiêng liêng.
Phaolô sẽ tiếp tục quảng diễn
đề tài này trong thư Côrintô, “Đức Kitô vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở
nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên
giàu có”. Chúa Thánh Thần cũng hoạt động trong chúng ta theo một kiểu thức
tương tự! Ngài luôn dịch chuyển bạn và tôi về phía trước, dạy chúng ta hiến
thân và làm rỗng chính mình hầu những người khác nhận biết Giêsu - chân lý và
ánh sáng -hầu Thiên Chúa được ngợi khen. Thánh Vịnh đáp ca là một lời ước, một
lời cầu sâu sắc, “Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng
thanh cảm tạ Ngài!”.
“Tôi là ánh sáng!”. Chúa
Giêsu muốn người đương thời, các môn đệ và cả chúng ta nhận biết Ngài là ánh
sáng của Chúa Cha. Nhận thức này sẽ thay đổi hướng đi của một đời người; lối
nhìn này sẽ thay đổi cảm nhận bên trong của một trái tim. Đó là nhìn và ‘nghe
trong ánh sáng’ Kitô, “Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật”.
Trong Ngài, bạn có niềm vui, tự do và sự toàn vẹn thể xác, tâm trí, trái tim và
linh hồn!
Anh Chị em,
“Tôi là ánh sáng!”. Vào trần
gian trong ánh sáng của Thánh Thần và tiến về phía trước nhờ sự dun dủi của
Ngài, Chúa Giêsu rọi chiếu Ánh Sáng Chúa Cha. Ngài nói, “Tôi đến không phải để
xét xử, nhưng để cứu thế gian”. Đức Phanxicô viết, “Chúa Giêsu cứu chúng ta khỏi
bóng tối bên trong, bóng tối của đời sống hằng ngày, bóng tối của đời sống xã hội,
bóng tối của đời sống chính trị, bóng tối của đời sống quốc gia, quốc tế… Có
quá nhiều bóng tối bên trong. Ngài cứu chúng ta, nhưng Ngài yêu cầu chúng ta
nhìn thấy chúng trước tiên! Có can đảm nhìn thấy bóng tối của mình, chúng ta mới
có thể để ánh sáng Chúa Kitô rọi vào và cứu thoát”. Được như thế, Thánh Thần sẽ
dễ dàng dịch chuyển chúng ta về phía trước; và nương theo Ánh Sáng Ngài, chúng
ta sẽ có một tầm nhìn rộng lớn hơn để thấy rõ chương trình, kế hoạch xót thương
của Thiên Chúa; và - bằng một đời sống chứng tá - giúp người khác có khả năng
‘nghe trong ánh sáng’ Giêsu.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, hãy rọi vào những
vùng tối chết chóc trong con và giải thoát con! Nhờ đó, con không chỉ cảm nhận
sức nóng nhưng còn được biến đổi bởi nó!”, Amen.
Thứ năm: KÍNH THÁNH MARCO, TÁC GIẢ TIN MỪNG
AN LÒNG VỀ MỘT SỰ HIỆN DIỆN
"Các tông đồ đi rao giảng
khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông”.
“Đứng trên đỉnh đồi, tôi
nhìn thung lũng này đến thung lũng khác; từ ánh nắng đến sương mù, từ bóng tối
của đêm. Bước theo Ngài trên đường đời quanh co, bằng niềm tin nhiều hơn bằng
thị giác. Ngài hiện diện như tia chớp, tiếng Ngài như sấm ran; nhưng Ngài lại dẫn
tôi trong yên ắng thì thầm của Thánh Thần. Và tôi ruổi theo! Mạnh mẽ hay dịu
dàng, tình yêu Ngài vẫn lênh láng. Tôi an lòng về một sự hiện diện liên lỉ!” -
William Cowper.
Kính thưa Anh Chị em,
“Tôi ‘an lòng về một sự hiện
diện’ liên lỉ!”. Cùng với William Cowper, Lời Chúa lễ kính thánh Marcô cho thấy
sự hiện diện liên lỉ của Chúa Phục Sinh nơi những kẻ Ngài sai đi!
Marcô, tác giả cuốn Phúc Âm
ra đời sớm nhất, cũng là cuốn ngắn nhất, ghi lại mệnh lệnh “Các con hãy đi khắp
tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo!”. Đó là một lệnh
truyền cho một sứ mệnh có tên “Vô Biên!”. Vô biên vì không biên giới, vô thời
gian và quá sức người! Giao cho một nhóm nhỏ quá đỗi bình thường, sứ mệnh đó
xem ra không tưởng! Tuy nhiên, các môn đệ vẫn ra đi làm chứng về một Giêsu Vô
Hình, sống chết cho Đấng ấy, bởi lẽ họ ‘an lòng về một sự hiện diện’ tràn đầy của
“Đấng cùng hoạt động với họ” khắp hang cùng ngõ hẻm cho đến mút cùng thế giới.
Và đó là một sự thật!
Sứ mệnh “Vô Biên” không dành
riêng cho nhóm nhỏ đầu tiên, nhưng còn cho bạn và tôi! Trong “Memoirs of St.
Peter”, “Hồi Ký Của Thánh Phêrô”, Michael Pakaluk có một cái nhìn khá sâu sắc,
“Việc loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo ngụ ý rằng, sự khéo léo cũng như sự
chăm chỉ của chúng ta cần được Tin Mừng thắm đượm; từ đó, ngang qua các nền văn
hoá khác nhau - với một sự chủ động tốt - Kitô hữu chỉnh đốn lại những gì hỏng
hóc, tái thiết những nơi Satan từng ở, cũng là nơi nó bị trục xuất. Theo một
nghĩa nào đó, sứ mệnh vô biên này bao gồm mọi hình thức và cách cư xử ‘có thể
có’ của mọi tín hữu. Bất kể nghề nghiệp, đấng bậc, tuổi tác… họ được sai đi rao
truyền tình yêu và lẽ thật của Thiên Chúa cho thế giới. Và ở đó, họ ‘an lòng về
một sự hiện diện’ quyền năng của một Đấng Vô Hình đang đồng hành!”.
Trong thư của mình hôm nay,
Phêrô bảo đảm với các Hội Thánh rằng, mặc dù họ đang đau khổ, nhưng “Chính
Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường”.
Hãy ‘an lòng về một sự hiện diện’ của “Đấng chăm sóc”, Đấng mà tình yêu Ngài được
ngợi khen miên viễn, “Lạy Chúa, tình thương Chúa đời đời con ca tụng!” - Thánh
Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Có Chúa cùng hoạt động với
các ông”. Nhờ Đấng ‘cùng hoạt động’ đó, bao con người kế tiếp nhau đã ra đi hơn
hai thiên niên kỷ qua. Họ sống và chết cho Ngài. Bạn và tôi thì sao? Đừng quên,
đây là công việc của Đấng dẫn dắt “bằng tiếng thì thầm của Thánh Thần”. Vì vậy,
dẫu khó khăn đến đâu, bạn cứ “ruổi theo Ngài”; gian nan đến mấy, cứ ‘an lòng về
một sự hiện diện’ liên lỉ của Ngài “bằng niềm tin nhiều hơn bằng thị giác!”. Vấn
đề là bạn và tôi “phải được Tin Mừng thắm đượm”, hầu “chỉnh đốn lại những gì hỏng
hóc, tái thiết những nơi Satan từng ở”. Và như thế, chúng ta đang tạo một sự
khác biệt cho thế giới!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, chớ gì con - như
Marcô - là một dụng cụ sắc bén của Lời, một vũ khí lợi hại trong tay Chúa mà
Satan phải run khiếp!”, Amen.
Thứ sáu: NHÀ CỦA CHA
“Trong nhà Cha Thầy có nhiều
chỗ ở”.
Tháng 4/1667, John Milton đã
bán bản quyền “Thiên Đàng Đã Mất” - bộ sử thi vĩ đại nhất của nước Anh - cho
nhà xuất bản Samuel Simmons, với giá 10 bảng. Ông qua đời, bà Elizabeth Milton
bán tất cả tác quyền vĩnh viễn còn lại cho cùng nhà xuất bản với giá 8 bảng. Thật
khó để tưởng tượng “giá” một kiệt tác tầm cỡ quốc gia, tầm cỡ thế giới, lại hời
đến thế!
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng hôm nay không nói đến
một “Thiên Đàng Đã Mất”, nhưng nói đến một “Thiên Đàng Sẽ Được”. Chúa Giêsu mời
chúng ta nhìn vào thực tế vinh quang Nước Trời, đó là Vương Quốc của Cha, ‘Nhà
của Cha’; một ngôi nhà có nhiều chỗ mà chúng ta mong ước.
Ngài từng nói với anh trộm
lành, “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng!”. Trong toàn bộ Phúc Âm,
đây là lần đầu, cũng là lần cuối, chữ “thiên đàng” xuất hiện trên môi miệng
Chúa Cứu Thế; điều này có nghĩa là, thiên đàng, một sự thật 100%. Thiên đàng là
có thật! Nó không phải là cảnh trí của một câu chuyện cổ tích, hay là một khu
vườn hoang tưởng! Nếu hiểu đúng thiên đàng, chúng ta sẽ khát khao nó với một
tình yêu sâu sắc; sẽ mong chờ nó với một ước vọng mạnh mẽ; sẽ tưởng nhớ nó với
một nỗi vui ngập tràn. Tuy nhiên, thật không may, với một số người, ý nghĩ rời
khỏi trái đất để gặp Đấng tạo thành mình là một suy nghĩ không mấy vui, nếu
không nói là sợ hãi. Có lẽ đó là một nỗi sợ về những điều chưa biết; họ nghĩ, họ
sẽ bỏ lại những người thân yêu, hoặc ngay cả sợ rằng, thiên đàng không phải là
nơi an nghỉ.
Là con cái Chúa, điều cần
thiết là bạn và tôi cần nuôi dưỡng một tình yêu lớn lao đối với thiên đàng, bằng
cách hiểu đúng về nó, hiểu rõ ‘mục đích của cuộc sống hôm nay’ đang khi hướng về
nó. Thiên đàng phải định hướng và sắp xếp cuộc sống của chúng ta! Chúa Giêsu
nói về ‘đích đến’ này bằng cách đưa ra một hình ảnh rất thân thiện, gần gũi:
‘Nhà của Cha!’. Nó tiết lộ rằng, thiên đàng là ‘nhà mình’, nơi an toàn mà bạn
và tôi thư thái bên những người thân yêu và cảm thấy đó là nơi những con trai,
con gái của Cha ‘thuộc về’.
Đức Phanxicô nói, “Chúa
Giêsu đã dành một chỗ trên trời cho mỗi người chúng ta. Đừng quên, ‘nơi ở’ chờ
đợi chúng ta là thiên đàng. Bạn đang quá cảnh ở trần gian, chỉ quá cảnh thôi! Bạn
được tạo dựng cho thiên đàng, để sống mãi mãi với những người thân yêu; và cùng
họ, chia sẻ niềm vui vĩnh cửu trong ‘Nhà Cha mình!’”.
Anh Chị em,
“Trong nhà Cha Thầy có nhiều
chỗ ở”. Mỗi chúng ta có nhiều chỗ để đi, nhưng chỉ có một chỗ ‘để ở’; đúng hơn,
‘để về!’. Đó là ‘Nhà của Cha’. Vậy mà, thật bất ngờ! Thiên đàng không ở đâu xa,
không chỉ ở đời sau; nó ‘ở đây, lúc này’. Ở đâu có Giêsu, ở đó có thiên đàng;
Giêsu là thiên đàng. Vì thế, ở đâu có Thánh Thể, ở đó là ‘một góc’ của thiên
đàng. Mỗi ngày, với lòng sạch tội, rước Chúa Giêsu, bạn và tôi ‘ẵm lấy’ thiên
đàng. Tác giả “Giêsu Khoan Nhân”, một thánh ca xưa, viết, “Chúa đến thăm con,
thăm con mỗi sáng ngày, linh hồn thấy lại tuổi thơ ngây; thiên đàng chớm nở, chớm
nở ngay dưới thế, tháng năm hoan lạc trôi từ đây!”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, trần gian chỉ là
lữ điếm mà con - lữ khách - quá cảnh; đừng để con quên, con đang về ‘nhà Cha’.
Bằng không, con sẽ ‘vất vưởng’ không chỉ mai ngày nhưng ngay hôm nay!”, Amen.
Thứ bảy: VIỆC LỚN HƠN
“Ai tin vào Thầy, người đó
cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa!”.
“Những bước đi của niềm tin
dường như rơi vào khoảng không vô định, nhưng tìm thấy đá tảng bên dưới!” -
Whittiers.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng hôm nay có thể khó
hiểu, làm sao các môn đệ của Chúa Giêsu có thể làm những ‘việc lớn hơn’ Thầy
mình? Nhưng đó là sự thật! Bởi lẽ, họ đã chẳng bước vào những khoảng không vô định;
nhưng trong niềm tin, bước trên đá tảng, chính Ngài!
Chính trong bữa tiệc ly,
Chúa Giêsu muốn tiết lộ cho các môn đệ rằng, việc Ngài ra đi vào chiều hôm sau
- đi chịu chết - không phải là một thảm hoạ. Và việc Ngài “đi về cùng Cha”
không chỉ bao hàm cái chết mà còn cả sự phục sinh vinh hiển; đồng thời, nó dẫn
đến việc Ngài sẽ gửi Thánh Thần xuống. Việc Thánh Thần được ban sẽ giúp Chúa Phục
Sinh tiếp tục công việc của Ngài trong các môn đệ và qua các môn đệ. Với tư
cách Phục Sinh, Ngài sẽ thực hiện những việc vĩ đại hơn trong quyền năng Thánh
Thần.
Ba mươi ba năm thi hành sứ vụ,
Chúa Giêsu gặp phải giới hạn trong không gian và thời gian; nhưng với tư cách
Phục Sinh, Ngài sẽ tiếp tục công việc của Ngài cho mọi thế hệ trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, Ngài chỉ có thể làm những ‘việc lớn hơn’ đó qua chúng ta - những kẻ
tin - vốn luôn bước đi trên chính Ngài.
Bài đọc Công Vụ Tông Đồ hôm
nay là một bằng chứng. Dân ngoại nô nức đón nhận Tin Mừng, “Hầu hết cả thành đến
nghe lời Thiên Chúa!”. Thánh Vịnh đáp ca chung một niềm vui, “Toàn cõi đất này
đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta!”. Điều này chỉ có thể xảy ra dưới
sự dẫn dắt của Thánh Thần.
Như các tông đồ, nhiều Kitô
hữu ngày nay với các phương tiện đi lại và liên lạc sẵn có, có thể mang thông
điệp của Chúa Giêsu đến với số lượng lớn hơn và hiệu quả hơn. Đức Thánh Cha,
trong một lễ Giáng Sinh, có thể tiếp cận hàng tỷ khán giả thông qua truyền
hình, đài phát thanh và các trang webs. Chúa Giêsu không làm được những điều
này!
Giờ đây, trong Thân Mình và
sức mạnh phục sinh của của Chúa Kitô, Giáo Hội thực sự có thể làm những việc lớn
hơn Thầy mình, và điều này được thực hiện bởi chúng ta. Bạn và tôi có trách nhiệm
phải thực hiện những ‘việc lớn hơn’ đó với những phương tiện sẵn có. Vậy bạn có
muốn tạo nên một sự khác biệt như các tông đồ?
Anh Chị em,
“Người đó còn làm những việc
lớn hơn nữa!”. Đây là một ơn gọi! Trong những việc lớn Chúa Giêsu nói, trước hết
và quan trọng hơn hết, là việc chúng ta ‘sống’ và ‘loan báo’ Tin Mừng. Sự thật
này khiến chúng ta đầy lòng biết ơn vì đã được mời gọi dự phần vào công việc vĩ
đại của Chúa mà không thế lực trần gian nào có thể ngăn cản. Thế nhưng, bạn và
tôi có thể bị cám dỗ để nản lòng vào những lúc không thuận lợi vì tưởng rằng,
mình bước vào những khoảng không. Lời Chúa bảo đảm rằng, với niềm tin, các công
việc tốt lành của chúng ta vẫn tiếp tục, nếu bạn và tôi cứ bước đi trên đá tảng
Kitô.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con bước
vào những khoảng không vô định; cho con tin yêu để bước đi trên chính Chúa; và
cùng Chúa, con làm những ‘việc lớn hơn’ cho thế giới!”, Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét