Tìm kiếm Blog này

Thứ Sáu, 5 tháng 4, 2024

 SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN II PHỤC SINH

Lm. Nguyệt Giang

CHÚA NHẬT II PHỤC SINH-B: KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

Cv 4,32-35; 1Ga 5,1-6; Ga 20,19-31 

Phục Sinh: sống mới ai ơi!,

Yêu thương chia xẻ giữa đời “anh em”.

Tin, Yêu: Luật Chúa xét xem,

Tin không vì thấy, mà đem tim mình .

 

TIN VÀ YÊU

Là con Chúa, trẻ sơ sinh.

Ta cần nuôi dưỡng trong tình yêu thương,

Bằng Lời Chúa dạy tỏ tường

Bằng Thánh Thể Chúa, tình thương cộng đoàn.

 

Lu-ca mô tả lòng son,

Đó là “cách sống” chỉ còn cho nhau.

Thánh Gioan “ngộ đạo” lạc vào.

Thì ta đi lệch: khác nào một chân.

 

Cần biết (“ngộ”) cứu độ đến gần,

Mà không tuân giữ, thật phần thiệt thân.

“Tin, Yêu” mới trọn “ngãi nhân”.

Thực hành Lời Chúa, dự phần người con.

 

Giê su chứng tỏ lòng son.

Ta tin vì thấy, thì còn chưa cao.

Thánh Thần, Ngài lại hiến trao.

Cho thêm: “tin vững” đi vào thế gian.

 

Tô ma dấu chứng rõ ràng:

“Tin, Yêu” là một, đây đàng cao hơn.

Giê-su, Chúa dạy lòng nhơn:

“Tin mà không thấy, thì hơn bội phần”.

 

Xin cho con thắm lòng nhân,

Vững vàng tin Chúa ở gần bên con.

(Hai Lúa)

Suy niệm 1:

Hàng năm Giáo Hội dành một ngày Chúa nhật II Phục sinh để suy tôn Lòng Thương Xót Chúa. Tin Mừng hôm nay trình thuật lại sự kiện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các tông đồ, nhất là đối với Tôma để bày tỏ lòng thương xót của Người ngang qua các vết thương mà Người đã mang lấy vì tội lỗi chúng ta. Xin Chúa phục sinh củng cố lại niềm tin, trao ban bình an và sức mạnh của CTT, để chúng ta can đảm thực thi sứ mạng lòng thương xót của Chúa cho mọi người, với mong muốn ai nấy đều được đón nhận lời chúc phúc của Chúa phục sinh: “phúc cho những ai không thấy mà tin”.

 Theo như lịch phụng vụ, thì cứ vào Chúa nhật II Phục sinh hàng năm, GH suy tôn Lòng Thương Xót Chúa. Vậy lý do nào mà GH lại chọn Chúa nhật hôm nay mà không phải những ngày khác trong năm để tôn kính lòng thương xót Chúa? Thưa có 3 lý do chính:

1.  Thứ nhất là do chính Chúa Giêsu mạc khải cho nữ tu Faustina.

Ngày 22/02/1931, Chúa Giêsu đã hiện ra và mặc khải cho nữ tu Faustina, thuộc dòng Đức Mẹ Từ Bi ở Balan về lòng thương xót của Chúa và dạy chị phải rao truyền lòng thương xót đó qua bức ảnh thánh cũng như chọn lấy ngày Chúa nhật II Phục sinh làm ngày lễ kính lòng thương xót của Chúa. Chúa Giêsu nói với chị Faustina rằng: “Hãy vẽ bức ảnh như con nhìn thấy đây với hàng chữ: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa. Ta hứa, nếu ai tôn kính ảnh này sẽ không bị hư mất. Ta cũng hứa sẽ giúp cho linh hồn đó toàn thắng các kẻ thù trong cuộc sống, nhất là trong giờ lâm tử. Ta sẽ bảo vệ, gìn giữ linh hồn nó. Ta mong muốn tấm ảnh này được tôn kính trên toàn thế giới.”

Theo lời đề nghị của cha linh hướng, chị Faustina có hỏi Chúa về ý nghĩa màu sắc của hai luồng sáng của bức ảnh, thì Chúa trả lời: “Hai luồng sáng đó biểu thị cho máu và nước, luồng trắng chỉ nước, nó làm cho linh hồn nên công chính. Luồng đỏ chỉ máu, đó là sự sống của linh hồn. Hai luồng sáng này được ban ra do lòng thương xót vô bờ của trái tim Ta, mà người lính đã lấy đòng đâm thâu khi Ta bị treo trên Thập giá. Phúc thay những linh hồn nào luôn biết nương náu trong nơi trú ẩn này, vì cánh tay công thẳng của Thiên Chúa sẽ không đánh phạt họ.”.

2.  Thứ hai là do chính thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thiết lập. 

Ngày 30/04/2000, Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phong hiển thánh cho chị nữ tu Faustina, vị tông đồ của lòng thương xót và đã thiết lập lễ kính lòng thương xót của Chúa trên toàn Giáo hội vào chúa Nhật II Phục sinh, đúng như ước muốn của Chúa đã nói với chị Faustina: “Ta ao ước là lễ kính lòng thương xót của Ta phải được cử hành vào Chúa nhật 2 Phục sinh”. Như vậy đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chính thức công nhận việc tôn sùng lòng thương xót của Chúa, để từ nay mọi người, đặc biệt là các tội nhân biết tin tưởng mau mắn chạy đến với tình yêu đầy nhân ái của Người, như Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ Faustina rằng: “không một linh hồn nào phải sợ sệt khi đến gần Ta, dù tội lỗi của nó có đỏ như máu đi nữa...”. Đúng như lời Chúa đã phán qua miệng tiên tri Isaia: "Tội các ngươi dầu có đỏ như son, cũng hóa nên trắng như tuyết. Có thẳm tựa vải điều, cũng nên trắng như bông." (Is 1,18)

3.  Thứ ba do phụng vụ lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến lòng thương xót Chúa.

1.  Tin mừng hôm nay cho biết cả hai lần hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu phục sinh đều trao chúc bình an cho các ông. Bình an phải là món quà quý giá nhất mà các tông đồ đang cần trong lúc hoang mang, sợ hãi vì những người Do Thái đang tìm cách giết hại. Với lòng thương xót, Chúa Giêsu thấu hiểu điều ấy nên Người đã hiện ra chấn an các ông, trao ban CTT và lời chúc bình an, để củng cố niềm tin cho các ông.

2. Cũng vì lòng thương xót, Chúa đã không hề chấp nhất trước thái độ thách thức của tông đồ Tôma. Trái lại, Người cảm thông tha thứ cho Tôma và còn chiều ý Tôma mà hiện ra lần hai để củng cố thêm đức tin cho ông.

3. Mỗi lần hiện ra Chúa đều mời gọi tông đồ nhìn vào những vết đinh nơi tay và vết giáo nơi cạnh sườn Người. Chính những vết thương ấy là dấu chứng hùng hồn của một vị TC giàu lòng thương xót, đã sẵn sàng ôm lấy hết những vết thương do tội lỗi con người gây ra vào thân thể Người, để đóng đinh nó vào thập giá. Và sẵn sàng đổ đến giọt máu cuối cùng từ trái tim nhằm tẩy xóa mọi vết nhơ tội lỗi của con người. Và từ cạnh sườn, Người đã để cho nước và máu tuôn trào đến giọt cuối cùng hầu khơi nguồn ân sủng và tuôn tràn sự sống mới qua các bí tích do Người lập.

4. Lòng thương xót Chúa không chỉ dừng lại nơi các tông đồ mà Người còn muốn trao ban cho hết mọi người nên sau khi trao ban bình an và củng cố đức tin cho các tông đồ, Chúa phục sinh tiếp tục trao ban Thánh Thần và năng quyền tha tội cho các tông đồ, để qua các tông đồ, nhờ sự tác động của Thánh Thần, Chúa yêu thương ban ơn tha thứ cho kẻ có tội thật lòng ăn năn. Chính vì thế mà GH đã xác quyết: “Tha thứ chính là đỉnh cao của lòng thương xót”.

Xin Chúa cho chúng ta cũng biết luôn tin tưởng vào Chúa trong mọi hoàn cảnh, biết sống yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho nhau; nhất là biết luôn nghĩ đến mưu cầu lợi ích cho tha nhân mà tận tình hy sinh phục vụ với niềm tín thác vào lòng thương xót Chúa.

  

Suy niệm 2: BÀN TAY CỦA YÊU THƯƠNG

Truyện kể: Trong một tiết dạy vẽ, cô giáo bảo các em học sinh lớp một vẽ điều gì đã làm các em thích nhất trong đời. Cô thầm nghĩ: “chắc rồi các em cũng lại vẽ những gói quà, những ly kem hoặc những món đồ chơi, hay quyển chuyện tranh nào đó…”.  Thế nhưng cô hoàn toàn ngạc nhiên trước một bức tranh lạ của em học sinh tên là Douglas: Bức tranh vẽ một bàn tay!

Nhưng đây là bàn tay của ai? Cả lớp bị cuốn hút bởi hình ảnh đầy biểu tượng này. Một em đoán: “Đó là bàn tay bác nông dân”. Một em khác cho rằng: “Bàn tay thon thả thế này phải là bàn tay của một bác sĩ giải phẩu”. Cô giáo đợi cả lớp bớt xôn xao dần rồi mới hỏi tác giả. Douglas cười ngượng ngịu: “Thưa cô, đó là bàn tay của cô ạ!”.

Cô giáo ngẫn ngơ. Cô nhớ lại những giờ ra chơi, cô thường dùng bàn tay để dìu dắt Douglas bước ra sân, bởi em là một cô bé khuyết tật, khuôn mặt không được xinh xắn như các bạn nhỏ khác, gia cảnh em từ lâu rất nghèo. Cô chợt hiểu ra, tuy cô vẫn làm điều tương tự ấy với các em khác, nhưng hóa ra đối với Douglas, bàn tay cô lại mang một ý nghĩa sâu xa, một biểu tượng của tình yêu thương lớn lao như vậy.

Nếu bàn tay của cô giáo là hình ảnh đẹp nhất trong tâm hồn của em bé khuyết tật Douglas, thì Bàn Tay Chúa Giêsu phải là hình ảnh tuyệt vời nhất đối với nhân loại. Bởi lẽ bàn tay ấy mang đầy những vết tích của lòng thương xót. Cho nên mỗi lần hiện ra với các tông đồ, đặc biệt với Tôma, Chúa Giêsu đều mời gọi các tông đồ xem kỉ đôi bàn tay và cạnh sườn Người.

1. Đó là bàn tay mang vết tích vì lòng yêu mến Chúa Cha.

Chúa Giêsu luôn hướng về Chúa Cha bằng một tình yêu mật thiết, được thể hiện qua đôi bàn tay của cầu nguyện:

- Đôi bàn tay hướng về Cha trong tư thế cầu nguyện mỗi khi bắt đầu ngày sống, xin Cha hướng dẫn và ban ơn giúp sức để những việc làm trong ngày sống được hoàn thành tốt đẹp theo ý Cha. 

- Đôi bàn tay hướng về Cha suốt đêm dài, mỗi khi quyết định những việc làm quan trọng, để xin Cha ban ơn soi sáng suốt mà chọn lựa điều tốt nhất, theo ý muốn của Cha. 

- Đôi bàn tay từng cầm bánh và rượu đưa lên cao hướng về Chúa Cha để chúc tụng, tạ ơn, hầu xin Cha chúc lành cho những lương thực hưởng dùng cho nhân loại. 

- Đôi bàn tay hướng lên trời, để kêu xin sự sống cho La-da-rô đã chết 4 ngày được sống lại. 

- Đôi bàn tay đã từng chấp lại trong nỗi hoang mang lo sợ, để thiết tha khẩn cầu Chúa Cha cất khỏi chén đắng trong vườn dầu với tinh thần phó thác.

- Bàn tay dang rộng trên thập giá đau đớn, gánh lấy tội nhân mà vang xin Chúa Cha tha thứ cho những ai xúc phạm và giết hại mình.

2. Đó là bàn tay mang vết tích vì yêu thương nhân loại.

- Đôi bàn tay Chúa Giêsu luôn hướng đến mọi người để cảm thông chia sẻ và giúp đỡ bằng tình yêu hy sinh.

- Bắt đầu bằng đời sống lao động vất vả nơi gia đình Nazarét. Bàn tay từng cầm cưa, búa, đục để làm mộc cùng với thánh Giuse lo của ăn cho gia đình.

- Bàn tay sẵn sàng mở ra ban ơn tha thứ biết bao tội nhân biết ăn năn sám hối như Maria Macdala, cho ngưuời phụ nữ ngoại tình, hay cho Giakêu…

- Bàn tay đã chữa lành biết bao người đau ốm, đặt tay trên mắt người mù bẩm sinh, trên tai và lưỡi của người câm điếc, trên thịt da lỡ lóet của người mắc bệnh hủi, trên trán giá lạnh của con gái Giai-rô, trên tay nóng sốt của bà nhạc mẫu Phêrô….

- Bàn tay quyền thế đã truyền khiến giông tố và sóng gió yên lặng, đã cầm roi xua đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đến thờ, đã xua trừ ma quỷ, đã chúc dữ cho những người biệt phái.

- Bàn tay bị đâm thủng, nơi ấy vẫn còn lỗ đinh được ghi lại tình yêu Chúa dành muôn thế hệ. 

- Bàn tay bị nộp cho lý hình, bị đóng đinh vào thập giá và phải mang lấy thân xác nặng nề đau xé suốt ba giờ liền trên thập giá. Tất cả chỉ vì tình yêu con người.

Khi mời gọi các tông đồ nhìn xem tay Chúa vừa để chứng thực chính Người là Thiên Chúa giàu lòng thương xót; vừa để mời gọi các ông học lấy bài học yêu thương “như Người đã yêu”.

Khi mời gọi các tông đồ nhìn vào đôi bàn tay của Chúa là để nhắc nhở các ông không chỉ thi hành mệnh lệnh loan báo tin mừng trên môi miệng mà còn phải thực hiện lời rao giảng trên đôi tay mở ra để giúp đỡ những người bé nhỏ, nghèo nàn, yếu đau. An ủi những ai đau khổ, bất hạnh và vỗ về những ai cô đơn, tội lỗi. Hàn gắn những gia đình bị rạng nứt và đổ vỡ.

Nhìn bàn tay Chúa để các tông đồ hiểu rằng việc truyền giáo sẽ không bao giờ đạt kết quả, nếu thiếu đời sống cầu nguyện nên “hãy xin với chủ ruộng” .

Đôi bàn tay giơ cao hướng về Chúa để xin ơn. Xin Chúa ban ơn soi sáng, lòng nhiệt thành và sức mạnh cho những nhà truyền giáo. Xin Chúa đánh đọng lòng người tiếp nhận tin mừng. Xin Chúa chúc lành cho công cuộc truyền giáo.

Đôi bàn tay dang rộng hướng về tha nhân, bằng cách chấp nhận chịu đâm thủng của những dấu đinh vất vả, hy sinh, đau khổ vì tình yêu.

Bàn tay yêu thương đó được minh chứng nơi cộng đoàn tín hữu đầu tiên. Họ đồng tâm hướng đôi bàn tay lên Chúa bằng đời sống cầu nguyện, bằng lắng nghe Lời Chúa và lời giảng dạy của các tông đồ, cùng hiệp thông trong nghi lễ bẻ bánh.

Họ cũng dùng bàn tay hướng về anh em để chia sẻ trong tình bác ái. Tự nguyện dâng cúng tài sản riêng làm của chung. Chấp nhận bán hết tài sản để trợ giúp cho người túng thiếu. Họ cư xử với nhau như anh em một nhà. Chính đời sống ấy lôi cuốn biết bao người xin gia nhập Kitô giáo.

Sứ mạng loan báo Tin mừng tình thuơng được Chúa phục sinh trao ban cho các tông đồ, qua các tông đồ cho các kitô hữu đầu tiên và hôm nay sứ mạng ấy Chúa trao lại cho mỗi người chúng ta.

Xin Chúa cho đôi bàn tay của chúng con luôn biết nắm chặt lấy bàn tay Chúa bằng đời sống cầu nguyện để chúng con không cảm thấy mệt mỏi khi thực thi sứ mạng của lòng thương xót Chúa qua những bổn phận hàng ngày.

 

Suy niệm 3: LÝ TRÍ VÀ ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH

1. Giả như bây giờ tôi mời một người lên cung thánh và bịt mắt người đó lại, rồi tôi đặt một cái xô trước mắt người đó và đố xem trong xô có chứa nước hay không? Vậy bằng cách nào để người ấy biết trong xô có nước hay không? Thưa có ba cách để nhận biết mà không cần phải cởi khăn bịt mắt ra.

- Cách thứ nhất là đến thẳng xô nước và đưa tay vào xô xem có nước trong đó không. Cách này được gọi là nhận biết bằng kinh nghiệm giác quan. Đây là tri thức có được nhờ Kinh nghiệm.

- Cách thứ hai để biết cái xô ấy có chứa nước hay không ta thả vào đó một vật, chẳng hạn một đồng xu. Nếu vật ấy chạm vào đáy xô tạo nên một âm thanh vang lên, ta sẽ biết ngay cái xô ấy rỗng. Nhưng nếu đồng xu ấy va chạm tạo nên âm thanh không rõ hoặc có những hạt nước bắn toé ra, ta biết ngay trong cái xô ấy có nước. Tri thức hay cách biết này có được là nhờ lý luận.

- Cách thứ ba để biết xem cái xô ấy có nước hay không là hỏi thăm một ai đó tin cậy. Người ấy nhìn vào cái xô và nói cho ta biết trong xô ấy có nước hay không. Cách biết này gọi là tin vào người khác. Đó chính được gọi là tri thức do niềm tin.

Kinh nghiệm, lý luận, và niềm tin đó chính là ba cách thức để ta biết được những điều hiện hữu ở đời này.

2. Vậy trong ba cách: kinh nghiệm bằng giác quan, đầu óc suy luận hay niềm tin vào ngưòi khác, cách nào giúp ta biết nhiều nhất?

Nếu anh chị em trả lời nhờ vào sự tin tưởng người khác, thì anh chị em hoàn toàn đúng. Bởi lẽ xét cho cùng thì hầu hết những gì chúng ta biết ở đời này đều do người khác nói lại với chúng ta. Những nhà chuyên môn ước lượng có đến 80%  kiến thức chúng ta biết được là do tin tưởng vào người khác. Ví dụ, trong chúng ta ít ai được may mắn được du hành quanh thế giới. Cách duy nhất để chúng ta biết về các quốc gia trên thế giới đều do người khác nói cho chúng ta biết, bởi những người ấy đã từng đi đến những nơi đó. Cũng vậy, các tri thức tôn giáo phần lớn chúng ta biết được cũng phải nhờ vào việc tin tưởng những gì do Kinh Thánh thuật lại.

Thánh kinh cho biết sau khi Đức Giêsu chết thì các môn đệ bị khủng hoảng tinh thần tột độ. Họ chỉ còn là một nhóm người đại bại, một nhóm người thất chí, một nhóm người nhát sợ. Thế rồi, vào Chúa nhật Phục sinh, có một biến cố nào đó đã biến đổi họ một cách không tưởng. Lòng họ bổng chốc bừng lên niềm vui, niềm hạnh phúc thực sự. Họ không thể cầm lòng được nên đã vội chạy đi loan báo cho mọi người về biết về sự kiện Đức Giêsu sống lại và đã hiện ra với họ. Họ tin điều ấy một cách chắc chắn đến độ họ sẵn sàng chịu bách hại cho dù phải chết cũng không thể nào chối bỏ niềm tin vào Đức Giêsu đã phục sinh.

Đời sống và lời giảng của những người này đã thay đổi cục diện lịch sử của nhân loại. Không một giả thuyết nào có thể giải thích được tại sao đời sống của họ lại biến đổi lạ lùng như thế, ngoại trừ cách giải thích duy nhất là chính “họ đã thấy Đức Giêsu hiện đang sống”.

Giả như nhóm người thất học này đã phịa chuyện về Đức Giêsu và sự phục sinh của Ngài thì chắc chắn rằng sớm hay muộn cũng sẽ bại lộ, bởi ít nhất cũng có người trong nhóm họ phải nói ra sự thật, vì không chịu nổi sự bách hại và giết chóc. Nhưng không một ai trong nhóm ấy đã làm thế.

Lời chứng của họ về Đức Giêsu sống lại không bị lay chuyển chút nào, không bị giảm cường độ chút nào. Ngược lại, lời chứng ấy càng ngày càng mạnh mẽ và ảnh hưởng tới mọi người và mọi nơi. Họ đã cảm nghiệm được một năng lực mới lạ và dịu kỳ đã khiến họ thực hiện được nhiều phép lạ. Chính sự biến đổi không thể nào giải thích được nơi các môn đệ của Đức Giêsu khiến cho nhiều người nói rằng chính lý trí cũng minh chứng rằng Chúa Giêsu đã thực sự phục sinh. Nói cách khác, lý trí thuần lý cũng có thể xác quyết rằng có một biến cố nào đó rất ngoạn mục đã xảy ra làm biến đổi lạ lùng nơi các môn đệ của Đức Giêsu. Chính lý trí thuần lý xác nhận rằng sự phục sinh của Đức Giêsu thực sự xẩy ra.

Không ai trong chúng ta được diễm phúc đặt bàn tay vào cạnh sườn của Chúa Giêsu phục sinh, cũng không trực tiếp cảm nghiệm được Đức Giêsu phục sinh từ cõi chết như tông đồ Tôma và các môn đệ khác. Tuy nhiên, chúng ta có thể tin tưởng vào những chứng cứ của Thánh Kinh. Hơn thế nữa. Chúng ta có thể sử dụng tặng phẩm Chúa ban là lý trí để xác quyết thêm điều Kinh Thánh đã truyền dạy chúng ta. Để rồi, chúng ta cũng có thể quì gối xuống như thánh Tôma mà thân thưa với Chúa Giêsu rằng: "Lạy Chúa Con, lạy Thiên Chúa của con". Đáp lại, Chúa Giêsu sẽ nói với chúng ta: "Hạnh phúc biết bao cho kẻ không thấy mà tin".

Để kết thúc, chúng ta hãy dâng lên Chúa lời cầu nguyện sau đây: Lạy Chúa, bất cứ khi nào đức tin của chúng con bị chao đảo, giống như trường hợp của thánh Tôma, thì xin chúa hãy nhắc chúng con nhớ lại những lời Kinh Thánh đã nói về biến cố đã xảy ra vào ngày Chúa Nhật Phục Sinh; cũng như nhớ lại biến cố tác động mạnh mẽ đến các môn đệ của Chúa và trên toàn thể nhân loại để niềm tin của chúng con được kiên vững hơn. Xin cho chúng con biết tích cực tham gia vào sứ vụ loan báo Tin Mừng Phục sinh cho những người chung quanh, theo gương các môn đệ xưa đã can đảm chia sẻ niềm vui Phục sinh cho mọi người. Amen.

Cha Mark Link, S.J.

Thứ hai: Is 7,10-14,10; Dt 10,4-10; Lc 1,26-38

08/ 04: LỄ TRUYỀN TIN-LỄ TRỌNG

Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta long trọng mừng Lễ Truyền Tin. Kỷ niệm biến cố Thiên Thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria, khởi đầu cho chương trình cứu độ đầy yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người.

Để thực hiện chương trình cứu chuộc nhân loại, Thiên Chúa đã chọn gọi Đức Maria cộng tác trong việc cưu mang, sinh hạ và dưỡng nuôi Đấng Cứu Thế. Với lòng khiêm tốn, tin tưởng và phó hoàn toàn vào quyền năng của Thiên Chúa, Đức Maria đã sẵn sàng đáp lời bằng hai tiếng “xin vâng”. 

Xin cho chúng ta cũng biết noi gương Đức Maria khiêm tốn, ngoan ngoãn vâng phục thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh, để chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa cũng được hoàn thành tốt đẹp nơi chúng ta.

Mỗi khi đọc kinh Kính mừng là chúng ta nhắc lại lời truyền tin của sứ thần Gabriel cho Đức Maria khi xưa: “Mừng vui lên, Đấng đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng bà…”. Lời chào này đồng nghĩa với lời mở đầu của Kinh Kính Mừng: “kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phước lạ hơn mọi người nữ…”.

Nếu suy nghĩ kỹ về lời truyền tin này, chúng ta nhận ra đây là một lời chào chúc hết sức cao quý. Bởi lẽ có ơn phúc nào cao trọng cho bằng ơn phúc được Thiên Chúa ở cùng (chính Chúa là nguồn mọi ơn phúc và Đấng ban ơn phúc. Được Thiên Chúa ở cùng thì có mọi ơn phúc nơi mình rồi). Và có hạnh phúc nào lớn bằng hạnh phúc được Thiên Chúa ưu ái chọn làm Mẹ Thiên Chúa (được chọn làm mẹ vua đã là vinh dự và ơn phúc quá lớn rồi huống chi là Mẹ Vua Trời).

Ý thức sứ mạng cao quý ấy trong niềm vui mừng khôn tả, vượt cả trên trí hiểu tự nhiên của con người, Đức Maria cảm thấy bối rối nên đã tự hỏi lời chào ấy có ý nghĩa như thế nào? Sau khi được nghe Thiên Thần giải thích, Đức Maria biết được đó là ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, cho dù không hiểu hết, nhưng Đức Maria vẫn khiêm tốn ngoan ngoãn vâng phục.

Có nhiều điều xảy ra trong đời sống vượt ngoài trí hiểu và khả năng suy luận tự nhiên của con người, khiến chúng ta cảm thấy thấy mình không thể nào thực hiện được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi chuyện đều có thể. Từ không Chúa đã tạo thành vũ trụ vạn vật chỉ bằng lời phán truyền. Chỉ từ bùn đất Chúa đã tác tạo nên con người giống hình ảnh TC. Và với quyền năng của Thiên Chúa ngay cả bà chị họ Isave son sẻ già nua cũng đã mang thai và sinh hạ con trai. Như thế thì việc Đức Maria cưu mang Đấng Cứu Thế mà vẫn đồng trinh là chuyện rất đổi bình thường với quyền năng của TC. Điều quan trọng là chúng ta có sẵn sàng để cho Thiên Chúa hành động nơi chúng ta như Đức Maria không?.

Cho dẫu Thiên Chúa quyền năng làm được mọi sự. Nhưng Thiên Chúa lại yêu thích mời gọi con người cộng tác với Ngài. 

Để chọn gọi dân riêng, Chúa đã mời gọi tổ phụ Abraham cộng tác, và Abraham đã vâng lời bỏ xứ sở ra đi theo ý định Thiên Chúa. Thế là một dân riêng của Chúa đã hình thành. 

Để cứu dân tộc Israel ra khỏi kiếp nô lệ bên Ai cập, Thiên Chúa đã mời gọi Mô-sê cộng tác, dù sợ hãi vì mình kém cỏi về khả năng ăn nói, Môsê vẫn vâng phục ý muốn của Thiên Chúa. Thế là cuộc giải phóng đã hoàn tất. 

Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa chọn Đức Maria, một thiếu nữ thôn quê bình thường, nghèo khó làm mẹ Đấng Cứu Thế và Mẹ đã ngoan ngoãn tin tưởng "xin vâng". Thế là chương trình cứu chuộc từ ngàn đời của Thiên Chúa nay được thực hiện. 

Để cứu chuộc mỗi chúng ta, Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta hợp tác với ơn ban của Chúa. Như thánh Augustinô đã nói: “Chúa dựng nên con Chúa không cần con, nhưng để cứu độ con Chúa cần con cộng tác”. 

Xin cho chúng ta biết tích cực và chủ động tham gia vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa để ơn cứu độ của Chúa Kitô phục sinh cũng được thành toàn nơi mỗi người chúng ta.


Suy niệm 2: KHIÊM NHƯỜNG ĐÓN NHẬN

TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Ðọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: “Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta”. Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: “Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta”. Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: “Thằng bé này dạy được đây”. Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.

Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Ðọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Ðức Mẹ. Thời Ðức Mẹ, ai cũng mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Ðức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Ðức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Ðức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.

Ðức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh. Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa. Ðức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gáp-ri-en, Ðức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Ðức Mẹ đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét. Vừa nghe Ðức Mẹ chào, bà Ê-li-sa-bét đã ngợi khen Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Ðáp lại, Ðức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.

Vì khiêm nhường nên Ðức Mẹ hoàn toàn vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa. Ðức Mẹ đã có chương trình riêng. Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết. Ðó là một chương trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Ðức Mẹ theo chương trình của Chúa, Ðức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Ðức Mẹ nhận biết rằng, chương trình của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh Ý Thiên Chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.

Vì khiêm nhường nên Ðức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa “Xin vâng”, Ðức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do-thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Ðức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên Chúa mãnh liệt đến thế nào.

Vì đã thưa “xin vâng”, nên Ðức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh Ý Thiên Chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn? Tại sao Ðấng Cứu Thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân? Hoàn toàn không hiểu, nhưng Ðức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. Vì thế Ðức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giê-su trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân Thập Giá.

Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Ðức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên Chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Ðức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Ðức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên Chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.

Mùa chay là Mùa đặc biệt nhắc nhở và giúp chúng ta “trở lại”đúng địa vị của con người được tạo dựng theo hoạ hình của Thiên Chúa, đúng địa vị trong mọi tương hệ với Thiên Chúa là Cha, với mọi người là anh chị em, với vũ trụ tạo thành là người quản lý. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Ðức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vận mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.

Lạy Ðức Mẹ Ma-ri-a, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên Chúa.

 

Gợi ý thêm:

Trước ơn phúc lớn lao, Đức Maria đã bối rối và muốn tìm hiểu xem sự việc sẽ xảy đến như thế nào? Một khi nhận biết là ý định của Thiên Chúa, Đức Maria sẵn sàng vâng theo chứ không hề nghi ngờ, hay kém tin.

Trước những thử thách, thất bại, đau buồn trong cuộc sống, nhiều lúc đức tin chúng ta cũng bị lung lay nên sinh ra nghi ngờ và than trách Chúa, ít khi chúng ta bắt chước Đức Maria tìm hiểu xem Chúa muốn gì qua những biến cố vui buồn, thành công thất bại, hạnh phúc hay bất hạnh ấy trong cuộc sống.

Ta hãy tin rằng mỗi biến cố đều có sứ điệp rất quan trọng Chúa muốn gởi đến ta và mong ta đọc ra thánh ý của Chúa mà chấn chỉnh lại đời sống mình. Chúa luôn đi ngang qua cuộc đời chúng ta, nhưng chúng ta lại không gặp Ngài. Chúa luôn đồng hành với ta, nhưng ta lại không nhận ra Ngài. Chúa hằng gõ cửa nhà chúng ta, nhưng ta lại không nhận ra tiếng Ngài.

Xin cho chúng ta biết để tâm suy niệm các biến cố trong đời mà nhạy bén nhận ra lòng thuơng xót của Chúa như Đức Maria. Amen 

(Viết theo Hạt Giống Nẩy Mầm, của cha Carôlô Hồ Bặc Xái)

 

* SUY NIỆM MÙA PHỤC SINH: Ga 3,1-8.

Tin mừng hôm nay thuật lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Nicôđêmô. Qua cuộc đối thoại này, Chúa giải thích cho ông Nicôđêmô hiểu được ý nghĩa của việc “tái sinh”; đồng thời Chúa Giêsu cũng cho ông ta biết giá trị và mục đích của việc “tái sinh”  là để được làm con Chúa và được vào nước trời.

Xin cho chúng ta biết quý trọng những ơn ích Chúa ban trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội mà sống xứng danh làm con Chúa.

Nếu phụng vụ lời Chúa trong tuần bát nhật phục sinh nhằm củng cố cho các tín hữu mới tòng đạo xác tín niềm vững vàng vào sự phục sinh Chúa Giêsu; thì phụng vụ lời Chúa tuần II phục sinh nhằm giúp các kitô hữu hiểu rõ hơn về giá trị, ý nghĩa và mục đích của bí tích rửa tội mà sống niềm tin sao cho phù hợp với ơn gọi của người kitô hữu.

Nicôđêmô, thủ lãnh người Do Thái, có địa vị, có học thức cao và là thành phần trong công nghị, được mọi người kính nể. Nghe những lời giảng dạy và chứng kiến những phép lạ Chúa Giêsu làm, ông cảm phục, tin nhận Chúa Giêsu là tôn sư đến từ Thiên Chúa. Tuy nhiên vì có nhiều điều không hiểu nên trong đêm khuya ông không ngần ngại tìm đến để gặp Chúa Giêsu để xin Người giải đáp.

Nghe những lời giảng hay, chứng kiến nhiều phép lạ nếu để vui tai, thích mắt thì chẳng ích lợi gì nếu bản thân chúng ta không thay đổi trở nên tốt hơn. Giảng dạy và phép lạ chỉ là phương tiện, nước trời mới là đích điểm.

Nhưng làm thế nào để đạt được nước trời?

Trong cuộc đàm đạo với Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã chỉ cho ông cách thức rất cụ thể để vào nước trời đó là phải “tái sinh”. Nicôđimô, chỉ hiểu tái sinh theo nghĩa xác thịt, theo cách thức tự nhiên nên ngây ngô thốt lên: “Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh ra được? chẳng lẽ người đó có thể trở vào lòng mẹ lần thứ hai để sinh ra sao?”. Chứng tỏ ông không hiểu việc tái sinh theo nghĩa siêu nhiên mà Chúa Giêsu đề cập đến : “Tái sinh bởi nước và Thần Khí”.

Để là người, chúng ta phải được sinh ra bởi cha mẹ. Các ngài đã truyền cho chúng ta sự sống tự nhiên. Để trở nên người, chúng ta phải được hướng dẫn giáo dục nhờ gia đình và xã hội. Nhưng để trở thành người con Chúa, chúng ta phải được sinh lại trong Chúa Thánh Thần nhờ bí tích rửa tội. Qua bí tích rửa tội Chúng ta được Chúa ban cho sự sống siêu nhiên.

Như thế, để làm người và nên người, chúng ta phải được sinh ra theo lối tự nhiên bởi cha mẹ. Nhưng để là người con Chúa, chúng ta phải được sinh ra theo lối siêu nhiên bởi nước và Thánh Thần qua bí tích rửa tội. Nhờ tái sinh qua bí tích rửa tội, chúng ta được Chúa tha thứ tội lỗi, được làm Con Chúa, được gia nhập vào Hội Thánh, được trở nên tạo vật mới mặc lấy Đức Kitô và được kêu mời trở nên ánh sáng giữa trần đời.

Chúa Giêsu đã chết để tiêu diệt sự chết và sống lại để phục hồi sự sống cho chúng ta. Vì thế chúng ta được Chúa kêu mời chết đi cho con người cũ bất tòan, tội lỗi để sống con người mới hoàn hảo nhờ được tái sinh trong Chúa.

Xin cho chúng ta biết ý thức gìn giữ và phát huy ơn trọng đại làm con Chúa trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội.  Biết chừa bỏ tội lỗi, tính hư nết xấu mà sống con người mới thánh thiện tốt lành, trở nên ánh sáng tin mừng phục sinh soi chiếu vào trần đời còn nhiều bóng tối, hầu xứng đáng được vào Nước Chúa.

 

Thứ ba: Ga 3,7b-15.

Suy niệm 1:

Xây dựng Họ đạo trở thành một cộng đoàn hiệp thông là một trong những tiêu chí mà GH luôn hướng đến. Điều này đã được HĐGM VN nhấn mạnh đến trong thư mục vụ năm 2015,  “Tân phúc âm đời sống Giáo xứ”.

Nhưng làm thế nào để xây dựng Họ Đạo trở thành một cộng đoàn hiệp thông?

Thư mục vụ 2015 mời gọi chúng ta hãy chiêm ngắm và noi gương đời sống cộng đoàn tín hữu thời GH ban đầu được sách CVTĐ hôm nói đến. Đó là một cộng đoàn tín hữu không những hiệp thông bên ngoài: “…đối với họ, mọi sự đều là của chung”, nhưng trên hết là bên trong “một lòng một ý”. Qủa là cộng đoàn tín hữu tuyệt đẹp, đáng mơ ước!

Vậy nhờ vào đâu mà cộng đoàn GH non trẻ làm được điều kỳ diệu ấy?

Có phải nhờ tài năng lãnh đạo của các tông đồ không? Chắc chắn là không. Vì các tông đồ đa phần là những người bình dân học vụ, kiến thức và kinh nghiệm lãnh đạo non nớt.

Có phải nhờ vào tình trạng dân trí cao và hiểu biết giáo lý sâu rộng không? Chắn chắn là trình độ hiểu biết về giáo lý, kinh thánh cũng như kiến thức khoa học của các kitô hữu bấy không sánh được như ngày nay…

Có phải nhờ vào nền kinh tế phát triển phồn vinh và đời sống vật chất dân chúng bấy giờ dư đầy không? Chắn chắn là không!

Vậy nhờ đâu?

Thưa nhờ sức mạnh của đức tin.

Tin vào quyền năng của Thiên Chúa nên họ không ngại từ bỏ ý riêng để cùng tùng phục ý Chúa.

Tin vào cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô do các tông đồ làm chứng nên họ đã vượt lên những ích lợi vật chất đời này mà mưu tìm giá trị vĩnh cửu mai sau.

Tin vào uy tín và thế giá của các tông đồ nên họ sẵn sàng gom góp của cải mình có đem đến đặt dưới chân các tông đồ làm của chung.

Trên hết là vì họ tin vào tình yêu chân thành của nhau và xem nhau như là anh em một nhà nên mong muốn “không ai phải thiếu thốn điều gì”.

Đã có thời nhiều quốc gia, nhiều triết thuyết muốn xây dựng xã hội thành một cộng đoàn hiệp thông như cộng đoàn của các Kitô hữu đầu tiên, nhưng đều thất bại. Bởi lẽ sự hiệp thông ấy không đến từ sức mạnh con người, nhưng đến từ sức mạnh bởi ơn trên. Chính vì thế mà trong bài Tin mừng hôm qua Chúa Giêsu xác quyết mạnh mẽ với Nicôđêmô: “…không ai có thể thấy nước Thiên Chúa , nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên”.(Ga 3, 3). Chính nhờ ơn ban của Thiên Chúa và sức mạnh biến đổi của Chúa Thánh Thần, con người mới có thể tin nhận vào Chúa Giêsu, Đấng từ trời xuống, nhờ đó mà được sống muôn đời như lời Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô trong bài Tin mừng hôm nay .

Như thế để xây dựng Họ đạo thành một cộng đoàn hiệp thông theo mô hình của các kitô hữu ban đầu, cần phải có đức tin: Tin vào Thiên Chúa quyền năng, tin vào uy tín và thế giá của GH cũng như tin vào sự chân thành của nhau. Mà đức tin là một ân ban từ trên cao và từ bên trong. Vì thế chúng ta tha thiết xin Chúa củng cố niềm tin nơi mỗi người chúng ta.  Nhờ đó chúng ta mới có thể xây dựng Họ đạo trở thành một cộng đoàn hiệp thông như cộng đoàn các tín hữu ban đầu.

 

Suy niệm 2:

Qua cuộc đàm đạo với Nicôđêmô trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác nhận cho biết về nguồn gốc và vai trò của Người trong việc cứu độ con người.

- Trước hết Chúa Giêsu minh chứng về nguồn gốc của Người.

Nguồn gốc của Người đến từ trời cao, nên Người biết và thấy hết những điều kiện cần thiết để được sự sống đời đời. Điều kiện cần thiết ấy chính là “phải được sinh lại bởi ơn trên”. Bởi vậy trước khi lên trời, Chúa Giêsu đã truyền dạy các tông đồ đi loan báoTin Mừng và rửa tội cho muôn dân: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép Rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án…” (Mc 16, 15-16).

- Tiếp đến Chúa Giêsu cho biết vai trò của Người trong việc cứu độ.

Với hình ảnh con rắn đồng được treo trong sa mạc thời Mô-sê đã cứu chữa những người bị rắn lữa cắn khỏi chết, nhờ tin nhận và nhìn lên rắn đồng, Chúa Giêsu mời gọi Nicôđêmô hãytin vào Ngài để được cứu độ.

Nếu xưa kia nguyên tổ đã nghe lời cám dỗ của ma quỷ, đưa tay hái trái cấm trên cây mà ăn để rồi nhận lấy án tử, thì nay với cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, Thánh Giá trở thành cây quả phúc, Chúa Giêsu trở nên trái chín thơm lành, mang lại sự sống trường sinh cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài và can đảm ăn lấy Ngài.  

Tin tưởng nhìn lên Ngài và ăn lấy Ngài, đồng nghĩa với việc chấp nhận đồng thân, đồng phận, và đồng tử với Chúa Giêsu trên con đường khổ giá.

Như thế để được sự sống đời đời ngoài điều kiện được sinh lại bởi ơn trên nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta còn phải can đảm dấn bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá, qua việc chấp nhận những thử thách, gian nan, khốn khó ở đời này với lòng tin tưởng vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta trong mùa phục sinh này, biết ý thức sống trọn vẹn ơn tái sinh làm con Chúa, dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần; nhất là luôn can đảm chấp nhận vác thập giá mình, bước theo Chúa Giêsu trong niềm xác tín: “Nếu chúng ta cùng chết với Ðức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người…” (Rm 6,8).

 

Thứ tư: Ga 3, 16-21

Suy niệm 1:

Cùng với GH chúng ta đang sống trong tuần của lòng thương xót Chúa.

Lòng thương xót của Thiên Chúa thể hiện qua suốt chiều dài lịch sử và rộng khắp mọi nơi, mọi thời. Lòng thương xót của Chúa cũng thể hiện qua muôn vàn cách thế với nhiều hình thức khác nhau. Cụ thể phụng vụ lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhận ra một vài cách thế của lòng thương xót Chúa:

- Bài đọc I cho biết: lòng thương xót Chúa được thể hiện qua sự quan phòng kỳ diệu bằng việc giải thoát các tông đồ ra khỏi ngục tù trong đêm tối, nhờ vào sự hướng dẫn của vị Thiên Sứ Chúa sai đến; cũng như qua sức mạnh hỗ trợ của dân chúng, khiến cho các thượng tế phải dè chừng trước những hành động sai trái của họ.

- Còn bài Tin mừng, Chúa Giêsu cho Nicôđêmô biết về lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa qua việc trao ban chính Người Con yêu dấu của Ngài “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi dã ban chính người con của Ngài là đức kitô. Để ai tin vào người con ấy thì không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời”.

Lòng thương xót của Chúa thật vô biên. Đáng lẽ vì phạm tội con người phải nhận lấy đau khổ và án chết đời đời, nhưng vì lòng thương xót,  Thiên Chúa đã hy sinh chính con mình là Đức Giêsu. Để nhờ và qua Người Con ấy, con người được cứu độ.

Thánh Gioan xác quyết: Đức Kitô chính là Ánh Sáng. Chúa đã đến thế gian nhằm xua tan bóng tối của tội lỗi và sự chết. Vì thế từ nay ai tin nhận và bước theo Ánh Sáng ấy soi dẫn thì sẽ không chết trong bóng đêm tội lỗi, nhưng sẽ đón nhận được sự sống đời đời nhờ Ánh Sáng vinh quang của Thiên Chúa soi chiếu.

Nhưng khốn thay, thế gian lại sợ ánh sáng và thích bóng tối, bởi vì ánh sáng phơi bày tội ác xấu xa của họ. Vì thế mỗi chúng ta hãy can đảm bước vào vùng ánh sáng chân lý, hãy mạnh dạn khướt từ bóng tối của đam mê dục vọng và sự dữ, nhờ đó ánh sáng của lòng thương xót Chúa mới được lan tỏa đến mọi người và mọi nơi.

Xin ánh sáng Chúa Kitô phục sinh được thắp lên trong lòng của mỗi chúng ta để ta lan tỏa ánh sáng lòng thương xót Chúa đến những nơi còn sống trong bóng tối tử thần với hy vọng mọi người tin nhận ánh sáng của lòng thương xót Chúa mà được cứu độ..

 

Suy niệm 2:

Ánh sáng và bóng tối, thánh thiện và tôi lỗi, sống và chết... luôn tồn tại song song nơi trần gian và ngay trong mỗi con người chúng ta. Muốn bước đi trong ánh sáng chân lý để được sự sống đời đời, chúng ta cần phải đến cùng Đức Giêsu, nguồn ánh sáng và là Đấng ban sự sống.

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh Ánh Sáng để chỉ về Người.

- Ánh sáng là thứ quan trọng và gần gũi với con người. Ánh sáng rất cần thiết cho sự sống. Không có ánh sáng thì không có sự sống. Thảo mộc , súc vật và con người nếu không có ánh sáng thì sẽ chết.

- Ánh sáng giúp cho con người thấy nhau, thấy được vẽ đẹp vũ trụ vạn vật, phân biệt được màu sắc và cảnh vật.

- Trong lãnh vực siêu nhiên, Chúa Giêsu muốn nói đến sự cần thiết của Ngài như ánh sáng không thể thiếu. Không có Người thì tạo vật không được tạo thành. Không có Người không có ơn cứu rỗi. Không có Người không có sự sống đích thực nơi con người.

Nhưng con người chúng ta lại sợ ánh sáng và ngại đến cùng ánh sáng bởi lẽ ánh sáng phơi bày tội lỗi chúng ta trước mặt Chúa và mọi người, nên chúng ta thích ở trong bóng tối hơn là bước đi trong ánh sáng.

Xin Chúa giúp chúng ta biết can đảm đẩy lui những bóng tối của gian dối, bất công, chia rẽ hận thù và sự chết ra khỏi tâm hồn và môi trường sống của ta.

Xin cho chúng ta luôn yêu thích tắm dội ánh sáng chân lý, tình thương và sự sống của Chúa Giêsu vào cuộc đời ta.

 

Suy niệm 3:

Sống trong xã hội vàng thau lẫn lộn, con người không còn khả năng phân biệt đúng sai, tốt xấu, thật giả…vì thế, hơn bao giờ hết con người ngày hôm nay cần có ánh sáng thật soi đường, chỉ lối.

Chúa Kitô, ánh sáng thật, đến trần gian để soi đường chỉ lối. Xin cho chúng ta tin nhận và sống theo sự hướng dẫn của Ngài.

Ánh sáng là chủ đề tài nổi bậc trong tin mừng:

Ngay những trang đầu của tin mừng, thánh Gioan đã cho biết Chúa Giêsu chính là “ánh sáng, ánh sáng thật, ánh sáng đến trần gian và chiếu soi mọi người”.

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự xưng là ánh sáng thế gian và Ngài mời gọi con người đi trong ánh sáng của Ngài.

Từ hai ngàn năm qua, Ngôi Lời Thiên Chúa đã chiếu ánh sáng Thiên Chúa vào trần gian. Người mang lửa xuống trần gian. Người mong ước cho ngọn lửa ấy cháy bừng lên, lan rộng ra. Nhưng nhìn vào tình hình thế giới hôm nay, ta thấy bóng tối vẫn còn vây phủ con người.

 Bóng tối chết chóc của chiến tranh, hận thù, của ô nhiễm môi trường, của đói nghèo, áp bức, phân biệt chủng tộc, của nền văn hóa sự chết giết hại cả những mầm mống sự sống.

Bóng tối tội lỗi. Tội lỗi vẫn tiếp tục lan tràn. Sự dữ nổi lên dưới nhiều hình thức khác nhau. Nguy hiểm nhất là người ta đánh mất cảm thức về tội lỗi, thản nhiên sống trong tội, sống chung với tội lỗi.

Bóng tối của hận thù ghen ghét. Trong thế giới văn minh mà con người hô hào hôm nay, vẫn còn có những người say máu giết hại đồng bào của mình, gây nên tội ác diệt chủng. Vẫn có những thế lực đen tối ngấm ngầm gây chia rẽ giữa các quốc gia, dân tộc, giữa các cộng đoàn, hội thánh...

Sống trong xã hội tràn ngập bóng tối của sự chết, của tội lỗi và hận thù…như thế, Chúa Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta phải chiếu giãi trước mặt mọi người.

“Các con là ánh sáng thế gian”. Ngày nhận lãnh bí tích rửa tội, Giáo Hội trao cho ta cây nến sáng để nhắc nhớ chúng ta hãy gìn giữ ngọn nến ấy luôn cháy sáng mãi trong suốt cuộc đời.

Cây nến phục sinh mà người kitô hữu chúng ta thắp lên trong đêm lễ phục sinh nhắc nhở chúng ta nhiệm vụ mang ánh sáng Chúa Kitô chia sẻ cho mọi người chung quanh.

Xin Chúa giúp chúng ta tẩy sạch mọi bóng tối tội lỗi, để thực sự được sinh lại cùng với Đức Giê-su. Trở nên con cái sự sáng bằng đời sống tươi vui, an hoà, khiêm nhường, nhịn nhục, yêu thương, đoàn kết đến cho anh em.

 

Thứ năm: Ga 3, 31-36

Nhớ Thánh Sta-nis-la-ô, giám mục, tử đạo

Suy niệm 1:

Cuộc sống là một chuỗi những lựa chọn. Chọn đúng làm cho cuộc sống trở hạnh phúc. Chọn lựa sai sẽ làm cho đời ta bất hạnh. Chọn lựa là quyền tự do căn bản của con người. Chính quyền tự do ấy đã được Thiên Chúa ban tặng và Ngài luôn tôn trọng quyền quyết định tự do của con người. Vì thế, con người phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Phụng vụ lời chúa hôm nay đặt ra cho các tông đồ và Nicôđêmô những lựa chọn.

- Bài đọc I đặt ra cho các tông đồ đứng trước giữa hai chọn lựa:

Chọn nghe theo lời các Thượng Tế im lặng trước sự thật về sự kiện phục sinh của Chúa Giêsu thì sẽ được an phận. Còn nếu lên tiếng rao giảng và làm chứng cho sự thật ấy thì sẽ nguy hại đến bản thân. Nhưng nhờ vào sức mạnh của ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, các ngài đã mạnh mẽ chọn lựa đứng về sự thật: “Vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”.

Còn bài tin mừng hôm nay thì Chúa Giêsu lại đặt ra cho Nicôđêmô về hai chọn lựa: tin hay không tin vào Ngài. Chúa Giêsu nói: “Ngài chính là  Đấng được Thiên Chúa sai đến, Ngài nói những lời của Thiên Chúa… ai tin vào Ngài thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào Ngài, thì sẽ không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy”. Ta không biết sau đó ông đã chọn lựa thế nào, bởi Tin mừng bỏ ngỏ. Điều này khiến chúng ta lại phải nghĩ đến quyết định lựa chọn của mỗi người chúng ta.

- Đúng vậy, chọn lựa luôn gắn liền với đời sống chúng ta. Nhìn lại cuộc sống thường ngày, chúng ta thấy mình thích chọn lựa những gì xem ra nhẹ nhàng, dễ dãi, không thích chọn gian khổ hy sinh; chúng ta thích chọn nghe những lời ngon ngọt a dua; ngợi khen và chúc tụng hơn là những lời góp ý chân thành, bởi lời thật thì đắng lòng. 

Cũng thế, chúng ta thường thích nói những lời của con người hơn là nói những lời của Chúa, thích chọn lựa đứng về lợi ích nhóm hơn là đứng về những ai cô thế cô thân. Chúng ta thường hay chọn im lặng trước dối trá hơn là bênh vực cho sự thật và công lý, bởi lẽ theo khuynh hướng tự nhiên ai trong chúng ta cũng thích chọn an phận hơn là tạo ra phiền phức cho bản thân khi phải sống và làm chứng nhân cho Chúa.

Xin Chúa Giêsu Phục sinh ban dồi dào ơn khôn ngoan và sức mạnh của Chúa Thánh Thần trên chúng ta, để chúng ta sáng suốt chọn lựa đúng ý Chúa muốn và can đảm thực hiện cho những sự lựa chọn ấy vì biết rằng mình đã làm đẹp lòng Chúa như các tông đồ xưa. Có như vậy ta mới xứng đáng đón nhận ơn cứu độ do Chúa Giêsu phục sinh đem đến.

 

Suy niệm 2:

Bằng những hình ảnh đối lập: Cao và thấp, trời và đất, Chúa Giêsu muốn xác định về thiên tính của Ngài và mời gọi chúng ta dấn bước theo Ngài với mong muốn chúng ta có được sự sống đời đời. Vì Ngài đến từ trên cao nên Ngài cao trọng hơn hết mọi người. Ngài được Thiên Chúa sai đi nên Ngài là Người của Thiên Chúa. Ngài được Thiên Chúa yêu thương trao ban thần khí vô ngần vô hạn và được Chúa Cha trao ban mọi sự trong tay Ngài nên Ngài là Đấng khôn ngoan và là đầy uy quyền. Tất cả những lời Ngài đã mạc khải cho Nicôđêmô biết xác nhận Ngài chính là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật.

Vì ngài đến từ trời cao, là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa làm người, nên Ngài thấy hết, biết hết mọi sự. Do đó, lời chứng của Ngài là chân thật, để ai tin vào Ngài thì có được sự sống đời đời, còn kẻ nào không tin thì sẽ bị luận phạt.

Là Thiên Chúa làm người và đã trải qua kiếp người bằng cái chết đau thương, để rồi phục sinh vinh hiển trở về cùng Thiên Chúa, nên ai tin theo con đường Ngài đã đi thì sẽ không sợ lạc đường về quê trời.  

Chúa Giêsu không chỉ vạch ra cho ta con đường đạt đến sự sống đời đời, mà Ngài còn dấn thân tiến bước trên con đường ấy. Vì thế, chúng ta hãy vững tin tiến bước theo Ngài. Đường dẫn về quê trời đã có, người dẫn đường đã sẵn sàng, điều quan trọng còn lại là tùy thuộc vào mỗi chúng ta có dám dấn thân bước theo hay không? Chúa không thể bắt ép ta bước đi trên con đường ấy, nếu như ta không muốn.

Xin cho chúng ta biết ngước vọng lòng trí về quê trời vĩnh cửu mà ái mộ những sự trên trời và sẵn sàng bước theo Chúa Giê-su đến cùng. Nhờ đó, ta mới thoát khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa mà đón nhận ơn ban sự sống đời đời.


Suy niệm 3: GIỮ LẤY BẢN SẮC CỦA MÌNH

Ngày nay, trên thế giới, người Việt Nam của chúng ta gần như có mặt hầu hết nơi các quốc gia! Để gợi nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đã có nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo về nguồn gốc, văn hóa Việt!

Trong các buổi hội họp đó, gần như không thể quên, người ta luôn nhắc nhớ nhau hãy giữ gìn bản sắc, văn hóa, truyền thống của dân tộc Việt, cho dù hiện diện ở bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì!

Tại sao vậy? Thưa, con người chỉ có thể lớn lên cách quân bình khi người ta còn giữ được bản chất, văn hóa, truyền thống của dân tộc mình. Nếu không, họ là một người thiếu trưởng thành!

Là người Công Giáo, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được trở thành Kitô hữu, tức là chúng ta mang trong mình hình ảnh Đức Kitô. Nói cách khác, chúng ta thuộc về Đức Kitô. Vì thế, bổn phận của chúng ta phải làm sao cho Đức Kitô được hiện tại hóa trong lời nói, hành động và cử chỉ của chúng ta. Đồng thời, chúng ta cũng cần phải khước từ những gì không phù hợp với bản chất của mình.

Hôm nay, vẫn trong trình thuật giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô, nhưng câu chuyện ngày càng đi sâu vào cốt lõi của vấn đề, đó là, Đức Giêsu cho Nicôđêmô biết được bản chất của Ngài và những công việc Ngài làm do được lãnh nhận từ Chúa Cha, Ngài nói: “Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn. Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người” (Ga 3, 34-35).

Với câu chuyện trên, qua Nicôđêmô, Đức Giêsu mở rộng ra cho mọi người thấy được tầm quan trọng và giá trị cho những ai được hạnh phúc thuộc về Đức Giêsu, đồng thời cũng mạc khải cho biết hậu quả của những kẻ không tin: “Ai tin vào người Con, thì được sự sống đời dời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con, thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy” (Ga 3, 36).

Xin Chúa ban cho chúng ta biết luôn luôn ý thức mình thuộc về Đức Kitô và phải có trách nhiệm làm cho Đức Kitô lớn lên và rạng ngời ngang qua cuộc sống của chúng ta. Amen.

Ngọc Biển SSP

Ngày 11.4:

THÁNH STANISLAO

Giám mục tử đạo

Thánh Phaolô đã viết cho Timôtêô như thế này: “Nếu ta cùng chết với Đức Kitô, Ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người” ( 2Tm 2,11-12 ). Thánh Stanislao đã kiên quyết cảnh cáo và khuyến dụ những con người phản nghịch, tội lỗi. Ngài đã xứng lãnh nhận triều thiên công chính.

 THÁNH STANISLAO, NGƯỜI LÀ AI ?

 Thánh Stanislao sinh tại miền Cracovie nước Balan ngày 26 tháng 7 năm 1030 trong một gia đình giầu sang, phú quí. Thánh nhân là con trai duy nhất trong gia đình quyền quí, giầu sang, nhưng Ngài không ham mê của cải, không màng danh vọng, chức quyền, ngay từ nhỏ, từ lúc thiếu thời, Ngài đã tỏ ra là người đầy là nhân ái và giầu lòng thương xót.

Ngay từ lúc còn nhỏ, Ngài đã nhận ra tiếng Chúa gọi mời, Ngài bỏ mọi sự và đi theo tiếng mời gọi của Chúa, thánh nhân học triết và thần học, rồi lãnh nhận sứ vụ linh mục.

Thánh nhân được cất nhắc lên bậc kinh sĩ, vị linh mục mới đã nổi tiếng về đời sống thánh thiện, tài đức, được nhiều người khen ngợi và biết tiếng. Thánh nhân dù rất nổi tiếng, nhưng lúc nào Ngài cũng khiêm nhượng, âm thầm và sống nhiệt thành với sứ vụ, với công việc được trao phó và sống hết sức bác ái với mọi người. Thánh nhân luôn nghiên cứu Thánh Kinh, tham khảo các giáo phụ và thần học. Vì sự khiêm nhượng và tài lãnh đạo, lòng nhân ái của Ngài, khi Đức giám mục giáo phận qua đời, Ngài đã được đề cử lên lãnh trách nhiệm giám mục cai quản địa phận vào năm 1072.

Thánh nhân sống đời sống thánh thiện, đạo đức, Ngài ăn chay, đánh tội, bố thí hàng ngày và đi thăm những người đau ốm. Thánh nhân rất hiền lành, nhưng lại rất cương quyết chống lại, khuyến cáo và răn đe những người tội lỗi. Thánh nhân can đảm, mạnh dạn lên tiếng phản đối và tố cáo bạo vương Boleslas. Bị động tới lòng tự ái và nhỏ nhen, ích kỷ, bạo vương Boleslas đã xông tới bàn thờ chém đầu thánh nhân lúc thánh nhân đang cử hành thánh lễ. Bạo vương ra lệnh phân thây xác Ngài và truyền ném xác cho muông thú ăn thịt, nhưng không một con thú nào dám động đến xác thánh của Ngài. Trước việc kỳ diệu, lạ lùng ấy, bạo vương đã thống hối ăn năn, trở về và ngày tang lễ của thánh nhân trở thành ngày vui mừng, hân hoan.

 GIÁO HỘI TUYÊN DƯƠNG THÁNH NHÂN

 Vì lòng bác ái, những nhân đức siêu vời và những gương sáng thánh nhân để lại, nhất là việc lạ lùng Chúa làm nơi thân xác thánh nhân. Đức Thánh Cha Innocentê IV đã phong hiển thánh cho Ngài vào ngày 17 tháng 9 năm 1253.

Lạy Chúa, để làm vinh danh Chúa, thánh giám mục Stanislao đã ngã gục dưới lưỡi gươm những kẻ bách hại mình. Xin cho chúng con cũng được một niềm tin vững mạnh, giúp chúng con trung thành với Chúa suốt cuộc đời chúng con( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Stanislao ).

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi  DCCT

Nguồn: simonhoadalat.com

Thứ sáu: Ga 6, 1-15.

Suy niệm 1:

“Hãy tín thác vào lòng thương xót Chúa”, đó là sứ điệp mà Chúa Giêsu gửi đến nhân loại qua thánh nữ Faustina. Sứ điệp ấy càng được xác tín qua phụng vụ lời Chúa hôm nay.

Bài đọc I hôm nay cho biết: trong lúc mà các giới chức lãnh đạo tôn giáo triệu tập họp hội đồng Do Thái để tìm cách tiêu diệt các tông đồ nhằm dập tắt đạo Giêsu. Thì Chúa lại quan phòng cho một người Pharisêu tên là Gamaliên đứng ra giữa hội đồng để phân tích thiệt hơn nếu ra tay giết hại các tông đồ.

Sau khi ông nhắc lại các phong trào mang tính nhân loại thuần túy nổi lên trước đây nhưng đến nay tất cả đều bị tan rã. Thì ngay sau đó ông xác tín rằng:“Còn quả thật là do Thiên Chúa thì không thể nào phá hủy được, không khéo lại quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa”. Nghe những lời đó nên họ chùng bước, chỉ quyết định đem các tông đồ ra đánh đòn và cấm không cho nói đến danh Đức Giêsu nữa, rồi thả đi. Dẫu bị đánh đập nhưng các tông đồ cảm thấy “lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu và tiếp tục rao giảng và loan báo tin mừng tại tư gia và trong đền thờ”.

Còn bài tin mừng thì tường thuật lại những hoạt động của Chúa Giêsu bên kia biển hồ Ga-li-lê. Chiêm ngắm về tất cả những lời nói, cử chỉ, việc làm của Chúa Giêsu được thể hiện trong bài tin mừng hôm nay, ta nhận thấy Chúa Giêsu không chỉ quan tâm đến nhu cầu tâm linh mà còn cả nhu cầu vật chất của dân chúng nữa. Với lòng thương xót trước sự bơ vơ và đói khát của đám đông dân chúng theo Ngài nên Ngài đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống họ.

Như thế lời Chúa hôm nay giúp chúng ta hiểu rằng một khi can đảm tín thác vào lòng thương xót Chúa qua việc dấn bước theo và nghe Lời giảng dạy của Ngài (bài tin mừng), cũng như hy sinh làm chứng cho tin mừng phục sinh của Ngài (bài đọc I) thì Chúa không bỏ rơi bao giờ.

Xin cho chúng ta luôn biết tín thác mạnh mẽ vào lòng thương xót của Chúa để can đảm loan truyền tình thương của Ngài cho mọi nơi dẫu phải gặp nhiều thử thách với niềm tin rằng: “có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại chúng ta?”.  

 

Suy niệm 2:

Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám đông. Cho thấy Ngài quan tâm đến nhu cầu của thân xác của con người. Nhưng Ngài không dừng lại ở việc thỏa mãn nhu cầu cơ bản là “đói cho ăn, khát cho uống”. Cơm bánh chỉ là thứ lương thực mau qua dành cho thân xác, chứ không phải là thứ lương thực đem lại sự sống đời đời. Do đó Ngài muốn ban cho con người thứ lương thực trường tồn đem lại sự sống vĩnh cửu.

Để có được của ăn mau qua, nuôi dưỡng thân xác, con người phải ra công làm việc vất vã “đổ mồ hôi sót con mắt ”, cũng như biết nhường cơm xẻ áo cho nhau.

 Để có của ăn vĩnh cửu, nuôi dưỡng tinh thần và tâm linh, con người chỉ cần làm hai việc: Đến với Chúa Giêsu và Tin vào Ngài.

Cái đói của thân xác không cồn cào bằng cái đói tinh thần.

Con người đói công bằng và hạnh phúc, đói yêu thương và kính trọng.

Con người khát niềm vui và bình an, cảm thông và sự thật.

Trong nơi sâu thẳm, con người đói khát Ai đó để mình yêu mến tôn thờ.

Đức Giêsu mời ta hãy tin vào Ngài là Đấng được Thiên Chúa sai đến.

Hãy đến với Giêsu để bắt đầu được nếm thử tấm bánh của Ngài, vì chính Ngài là Tình yêu, Sự thật và Bình an.

Xin cho chúng ta biết siêng năng đến với Chúa Giêsu với niềm tin yêu, để chúng ta được chính Chúa nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Bánh Thánh, là thứ lương thực không hư nát và đem lại sự sống đời đời cho chúng ta.


Suy niệm 3: PHÉP LẠ DO TÌNH THƯƠNG

Trong bài hát “để gió cuốn đi” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ngay ở đầu bản nhạc có viết: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”.

Thật vậy, trong cuộc sống, nếu ai ai cũng có tấm lòng, dù chỉ một chút thôi, thì chắc con người sẽ sống với nhau trong cảnh hòa bình, ấm no và hạnh phúc! Nhưng tiếc thay, xã hội ngày càng phát triển, nhiều người giàu có, nhưng cùng lúc, phát sinh nạn phân biệt giàu nghèo rõ rệt hơn bao giờ hết! Vì vậy, vẫn còn đó chuyện “nơi ăn không hết, chỗ lần không ra”.

Hôm nay, Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Khởi đi từ lòng thương xót của Ngài: “Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê: ‘Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?’” (Ga 6, 5).

Tiếp theo là tấm lòng quảng đại của một em bé: “Có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”, và, Đức Giêsu đã tiếp nhận tấm lòng nhỏ bé nhưng tinh thần lớn lao của em để kết hợp với lòng thương xót của Ngài, Ngài làm nên chuyện phi thường là làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân chúng (x. Ga 6, 11).

Ai nấy đều được no nê nhờ vào tấm lòng của vị Mục Tử Giêsu và sự quảng đại của em nhỏ.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chia cơm sẻ bánh cho nhau, tức là sống với nhau trong tinh thần liên đới, trách nhiệm. Đạo Công Giáo không bao giờ chấp nhận chuyện mạnh ai nấy sống. Sống như thế là ích kỷ, là chỉ biết đến cái bụng mà không hề làm cho trái tim lớn lên trong tình yêu.

Bên cạnh đó, chúng ta còn học được bài học tin tưởng, phó thác nơi Chúa, vì có Chúa là có tất cả, không chỉ vậy, mà còn dồi dào. Hình ảnh các môn đệ “thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng” có ý muốn nói và củng cố cho chúng ta về lòng tín thác nơi Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết sống quảng đại, biết nghĩ đến người khác hơn là nghĩ đến bản thân mình. Biết sống tình bác ái huynh đệ để trở thành môn đệ của Chúa đích thực. Xin cũng ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con luôn vững tin vào quyền năng Chúa. Amen.

Ngọc Biển SSP


Thứ bảy: Ga 6, 16-21

Suy niệm 1:

Các nhà xã hội học định nghĩa: “con người là con vật có xã hội tính”. Do đó không ai là một hòn đảo. Chúng ta sống là sống với, sống cùng, sống cho, sống vì, sống nhờ nhau… Nhờ đời sống cộng đồng mà con người được lớn lên, phát triển và thành toàn hơn nhờ sự tương trợ lẫn nhau. Tuy nhiên cũng vì sống chung mà cuộc sống chúng ta gặp phải không ít khó khăn và thử thách.

- Bài đọc I hôm nay cho thấy có một vấn đề khó khăn được đặt ra trong đời sống của cộng đoàn sơ khai. Đó là sự ghen tỵ, phân bì xảy ra, bởi lẽ có những bà góa Do Thái gốc Hy Lạp chịu thiệt thòi bởi không được các tông đồ quan tâm nhiều. Điều này có nguy cơ đưa đến sự chia rẽ, hận thù và trở thành gương mù. Sáng suốt nhận ra nguy hại ấy nên các tông đồ đã tìm cách giải quyết. Thay vì dùng quyền bính của mình để chống chế hoặc tìm cách loại trừ họ ra khỏi cộng đoàn, thì trái lại các tông đồ lại biết khiêm tốn nhận ra sự thiếu sót của mình vì đã không quan tâm chăm lo cho họ đủ. Để giải quyết cho nhu cầu chính đáng ấy của mọi thành phần, các tông đồ đã đề nghị chọn thêm 7 phó tế nữa để phụ giúp các ngài phục vụ cho các bà góa, cho dẫu đây thành phần không được xã hội đề cao lúc bấy giờ. Nhờ đó mà cuộc sống của cộng đoàn bấy giờ trở nên hài hòa và êm đẹp.

- Bài Tin mừng hôm nay thì nêu lên những sóng gió mà các tông đồ gặp phải khi xuống thuyền sang bờ bên kia biển hồ trong đêm tối. Trong bóng đêm ngoài việc phải vất vả chống chọi với sóng to gió lớn, các ông còn phải đối mặt với sự sợ hãi kinh hồn khi thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với họ, vì tưởng là ma. Nhưng nhờ lời trấn an của Chúa Giêsu: “Thầy đây mà, đừng sợ!”, bấy giờ các ông mới tìm lại được sự bình an và con thuyền cũng được cập bến an toàn.

- Cuộc đời ta của chúng ta cũng tựa như một cuộc hải trình vượt biển trần, có lúc thuyền đời của ta cảm thấy bình yên, nhưng cũng có lúc bất an sợ hãi vì sóng to gió lớn nổi lên. Tuy nhiên nếu chúng ta nhạy bén nhận ra Chúa cùng đồng hành với chúng ta trong mọi cảnh huống, thì ta sẽ cảm thấy bình an cho dẫu phải dối mặt với nhiều sóng gió cuộc đời.

Xin Chúa phục sinh luôn hiệp hành với chúng ta để bảo vệ, che chở và hướng dẫn chúng ta đi đúng theo lối đường của Chúa, nhờ đó thuyền đời của ta mới dễ dàng vượt thắng mọi sóng gió hiễm nguy mà đạt đến bến bờ của bình an và hạnh phúc, nhờ vào sức mạnh của quyền năng Chúa.

 

Suy niệm 2:

Suy niệm về bài tin mừng hôm nay, ta nhận ra rằng:

- Các môn đệ chính là mỗi người chúng ta.

- Con thuyền là hình ảnh của Giáo Hội.

- Biển Hồ là hình ảnh trần gian.

- Đêm tối, bảo tố, gió mạnh là những thử thách do ma quỷ gây nên.

- Bờ bên kia là hạnh phúc nước trời mà con người cần vươn tới.

Cũng như các môn đệ xưa, chúng ta đã bước vào con thuyền của Giáo Hội khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy. Cùng với con thuyền Giáo hội, chúng ta đang tiến bước trên biển đời trần gian.

Giống như con thuyền của các môn đệ bị những cơn sóng to, gió lớn đánh dữ dội, thì ở mọi thời, mọi nơi Giáo Hội cách chung, cách riêng mỗi chúng ta cũng đương đầu với những chống đối, những vu khống, bôi nhọ và loại trừ do thế lực ma quỷ gây ra.

Có khi những bóng tối, những vết đen đáng tiếc xảy ra trong Giáo Hội cách chung hay những đau khổ, những thất bại và những bất hạnh xảy đến cho bản thân, làm cho ta dao động, mất hướng sống. Khi đó là lúc thuyền đời của ta đang đi trong đêm tối đức tin, đến nỗi ta muốn buông xuôi tất cả. Quan trọng là Chúa Giêsu phục sinh không bỏ rơi chúng ta khi gặp gian nan thử thách. Chính lúc đó, Chúa sẽ ra tay cứu giúp chúng ta, không để cho sóng gió nhận chìm chúng ta vì “Ơn Ta đủ cho con”. Ngài vẫn ở bên Giáo Hội. Ngài luôn đồng hành và hiện diện bên mỗi người chúng ta. Ngài ban Chúa Thánh Thần hướng dẫn Giáo Hội và ban ơn trợ giúp chúng ta đủ sức lướt thắng mọi sóng to gió lớn và dìu bước chúng ta cập bến bình an, nếu chúng ta biết tin tưởng cậy trông và phó thác vào Ngài.

Xin Chúa phục sinh ban thêm lòng tin kiên vững nơi chúng con, để dù trong bất cứ hoàn cảnh thử thách nào, ngay cả những lúc bước đi trong đêm tối của đức tin, chúng con vẫn an tâm tiến bước trên biển đời.

Xin Chúa luôn hiện diện và đồng hành với chúng con, để đưa dẫn chúng con đạt tới bến bờ bình an.


Suy niệm 3: ĐỪNG SỢ, THẦY ĐÂY.

Chiều đến các môn đệ xuống Biển Hồ, rồi xuống thuyền đi về phía Ca-phác-na-um bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Đức Giêsu còn chưa đến với các ông. Biển động vì gió thổi mạnh. Khi đã chèo được chừng hai mươi lăm hoặc ba mươi chặng đường, các ông thấy Đức Giêsu đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ. (Ga. 6, 16-19)

Sau ngày làm phép lạ bánh hóa nhiều đáng ghi nhớ, các môn đệ lại xuống thuyền vượt biển trở về Ca-phác-na-um. Còn Đức Giêsu ở lại cầu nguyện tới khuya như thói quen mọi ngày. Các tông đồ vất vả chèo thuyền vượt bão biển.

Đó cũng là những kinh nghiệm thường xảy ra trong cuộc đời chúng ta. Sau khi chúng ta được nuôi dưỡng bằng bánh hằng sống, sau những cảm nghiệm sống đức tin mạnh mẽ, chúng ta lại cảm thấy cô đơn bắt tay vào công việc chẳng thấy tiến bộ gì.

Bao nhiêu thắc mắc vùng dậy: tại sao Đức Giêsu không đến với chúng ta, đồng hành với ta, nâng đỡ ta?

Cần phải nhận biết rằng Đức Giêsu muốn để chúng ta đi một mình, vì chúng ta là tạo vật có trách nhiệm. Đức tin vào Người không san bằng những khó khăn, không dẹp tan giông tố. Đức tin không nhổ sạch các chông gai, trở ngại. Kitô hữu đừng lầm tưởng đạo Chúa Kitô là một đạo dễ dãi, một đạo xây nhà trú ẩn khỏi mọi nỗi lo sợ chiến đấu.

Hơn nữa, nếu Đức Giêsu để các môn đệ đi một mình, chính là chỉ cho ta biết phải lo hành động, phải tập bước, phải cố gắng tự làm một mình, không lười biếng, ỷ nại vào Thiên Chúa. Đó là những thái độ quyết định và giải đáp của con người có nhân bản.

Có thể chúng ta sợ thiếu vắng Đức Giêsu vì chúng ta đã quá quen với những sự bao che của gia đình, của trường học và xã hội. Nay đã đến thời tất cả các thể chế đó không còn nói gì đến Đức Giêsu nữa, nên chúng ta bơ vơ lạc lõng không dám tự đi, không dám tiến lên, không dám tự động hành đạo. Chúng ta sợ không thấy Đức Giêsu đứng chờ bên kia chướng ngại vật, sau cơn bão tố nữa.

Tin mừng cho chúng ta thấy lý do cần phải chúc tụng Thiên Chúa vì biết rằng Thiên Chúa đã ban cho chúng ta có tự do và trách nhiệm để chúng ta biết quyết định và thăng tiến.

Nhưng chúng ta phải biết luôn luôn cầu nguyện xin Chúa nối kết, đồng hành và tiếp sức cho chúng ta tới bến bờ bên kia, cầu nguyện để tăng thêm lòng trông cậy tin tưởng Ngài ở đó để ban sức mạnh cho chúng ta đạt tới đích muôn đời.

C.G

 

Suy niệm 4: “THẦY ĐÂY ĐỪNG SỢ”

Ai đã từng chứng kiến cảnh biển động hay nhất là khi nó dậy sóng mà vẫn ở ngoài khơi, thì mới thấy sự sợ hãi là dường nào!

Thật vậy, nếu chẳng may đi biển mà gặp phải bão tố, cảnh biển gầm sóng thét, con người mới thấy giữa sự sống và cái chết chỉ cách nhau bằng gang tấc!

Những lúc như thế, ta thấy mình quá nhỏ bé và mong manh trước sự hùng vĩ của thiên nhiên… mạng sống của con người lúc này được ví như:  “Ngàn cân treo sợi tóc”; hay “chỉ mành treo chuông”.

Tin Mừng hôm nay cũng trình thuật việc các Tông đồ gặp phải hiểm nguy khi đang lênh đênh trên biển.

Cuộc đi biển của các ông lần này không có Đức Giêsu hiện diện, bởi lẽ Ngài đã đi trước một mình vì dân chúng đang muốn tôn Ngài lên làm vua theo ý của họ.

Đang đi theo lộ trình và khi trời đã tối, họ bị trận cuồng phong bất ngờ ập tới. Tuy các ông là những người có nhiều kinh nghiệm về biển cả, họ là những tay nghề lão luyện trong giới thủy trình. Ấy vậy, khi sóng gió nổi lên, họ cũng trở thành bé nhỏ và yếu ớt trước sức mạnh của cuồng phong. Sự sợ hãi đó được cộng thêm với hình bóng của Đức Giêsu đi trước mặt thuyền mà họ không biết… Vì thế, trong đầu các ông đang hốt hoảng, hoang mang, và ai nấy đều run sợ, thì Đức Giêsu lên tiếng trấn an các ông: “Thầy đây đừng sợ”.

Đọc lại bài Tin Mừng này trong thánh lễ hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta ý thức rằng: cuộc đời lữ thứ trần gian của mỗi người như một hành trình của các thuyền nhân đi biển. Sống lênh đênh trên biển, mới thấy mình nhỏ nhoi. Đối diện với bão táp phong ba mới thấy mình bất lực, và được Chúa yêu thương, hiện diện thì ngay lập tức được bình an.

Xét về góc độ luân lý, cho phép chúng ta liên đới với đời sống đức tin của mình để nhận ra rằng: có những lúc trong cuộc đời, chúng ta gặp không ít khó khăn, thử thách đến từ nhiều phía, nhất là do tội lỗi, ích kỷ, kiêu ngạo gây nên. Những khó khăn đó được khởi đi từ lòng mến lạnh nhạt của chúng ta với Chúa, làm cho đức tin bị hao mòn, lòng trông cậy bị lung lay. Những lúc như thế, chúng ta hãy xin Chúa ban cho mình được bình an nhờ nhận ra có Chúa hiện diện trong cuộc đời mình.

“Thầy đây, đừng sợ” chính là điều mà chúng ta phải xác tín trong cuộc sống hiện tại của mình.

Lạy Chúa Giêsu, con thuyền của Giáo Hội luôn gặp phải những sóng gió do ma quỷ gây nên. Con thuyền cuộc đời của chúng con cũng vậy. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết khiêm tốn, tín thác vào Chúa để lời Chúa nói với các Tông đồ khi xưa: “Thầy đây đừng sợ” cũng là niềm an ủi cho chúng con hôm nay. Amen.

Ngọc Biển SSP

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XIV THƯỜNG NIÊN Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN B Ed 2,2-5; 2Cr 12,7-10; Mc 6,1-6 Suy niệm 1: ...