SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN IV THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG
NIÊN-C
DÂNG CHÚA GIÊSU VÀO ĐỀN THÁNH
Ml 3, 1-4; Dt 2, 14-18; Lc 2, 22-32
Suy niệm 1:
Cùng với GH hôm nay chúng ta mừng kính lễ Chúa Giêsu dâng mình trong đền thánh. Còn gọi là lễ nến. Sự kiện Chúa Giêsu dâng mình trong đền thánh vừa tiên báo về của lễ tinh tuyền mà Người sẽ hiến dâng lên Chúa Cha trên thập giá sau này, để đền tội thay cho muôn dân; vừa cho biết Người chính là ánh sáng soi chiếu trần gian và cho cuộc đời của mỗi chúng ta.
Dâng thánh lễ hôm nay, chúng ta cảm tạ tình thương cứu độ cao quý mà Thiên Chúa dành cho chúng ta; đồng thời chúng ta cũng được mời gọi hiến dâng đời mình làm của lễ sống động dâng lên Thiên Chúa, và trở nên ánh sáng của niềm vui Tin Mừng cho mọi người ngang qua đời sống dấn thân phục vụ mỗi ngày của chúng ta.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay
nhấn mạnh đến cách thế hiện diện của Thiên Chúa và những điều kiện căn bản để
ta nhận ra
Người.
- Như chúng ta
biết sau thời kì lưu đày ở Babylon, khoảng 515 trước công nguyên. Khi ấy
đền thờ Giêrusalem đã được tái thiết xong, nhưng không đẹp và tráng
lệ bằng đền thờ Giêrusalem trước đây nên nhiều người tỏ ra hối tiếc. Nhiều vị tiên
tri thời bấy giờ cho rằng đó không phải là điều quan trọng, mà điều
quan trọng là đền thờ ấy có được Thiên Chúa ngự trị và hiện diện vào đó hay
không. Thế nên tiên tri Malakhi đã tiên báo về một viễn tượng tràn
đầy hy vọng trong ngày Đức Chúa sẽ thân hành đi vào đền thờ để
viếng thăm dân Người: “và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi
vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông
đang đến”. Tiên tri Malakhi cũng cho biết ngày Chúa đến sẽ là một ngày gây kinh
hoàng với những lời sau đây: “Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng
được khi Người xuất hiện?”. Vì thế con người cần phải được thanh luyện
và tẩy sạch thì mới có thể đứng vững trong ngày đó.
- Trong bài đọc 2, tác giả
thư gửi tín hữu Hipri hay Do Thái, Thánh Phaolô cũng mô tả cách thức hiện
diện của Thiên Chúa: “Người sẽ mặc lấy xác phàm (thân phận con người)
mà đến ở với con người. Người đã trở nên đồng thân, đồng phận và đồng tử với
con người, ngõ hầu cảm thông, trợ giúp và xóa sạch tất cả mọi tội lỗi của con
người.”
Một câu
hỏi đặt ra là tại sao Thiên Chúa đến trần gian và hiện diện với thân phận con
người như thế?
Thưa, bởi vì nếu Thiên
Chúa không phải là người thì Ngài không
chết thật và do đó loài người không được cứu độ; còn nếu Thiên Chúa là người
thật mà không phải là Thiên Chúa thì cái chết của Ngài cũng như bao người khác,
không có giá trị và ý nghĩa gì cả. Cái chết ấy không có giá trị cứu chuộc được
bất cứ ai. Vì thế sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu phải là Thiên Chúa
thật và là người thật, ngoại trừ tội lỗi.
- Theo dòng tư tưởng tấy,
bài Tin mừng hôm nay cho ta biết được hai cách thế để ta nhận
ra Thiên Chúa làm người nơi Đức Giêsu:
1. Ta phải
sống công chính và có lòng khát khao gặp gỡ Chúa như cụ già Simêon: Để nhận ra Thiên Chúa đi vào Đền thờ với thân phận là một Hài
Nhi Giêsu bé nhỏ, cụ già Simêon đã phải luôn trung tín chờ đợi Đấng Cứu
Thế suốt cả đời. Và khi bồng bế Hài Nhi Giêsu trên tay, cụ đã thốt lên niềm vui
mừng khôn tả, cùng với lời chúc tụng tuyệt đẹp:
“Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ Ngài được an bình ra đi.
Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ,
Chúa đã dành sẵn cho muôn dân.” (Lc 2,29-31).
Lời ca của cụ Simêon là
một bài ca tạ ơn, thể hiện niềm vui viên mãn vì đã được nhìn thấy ánh sáng cứu
độ. Cụ đại diện cho những người sống đời công chính, luôn khát khao
mong đợi Chúa, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Nhờ đó mà Chúa đã
cho cụ được thỏa chí toại lòng.
2. Phải có
lòng đạo đức, ăn chay và cầu nguyện như cụ bà tiên Anna: Một góa phụ nhưng rất đạo đức, bà “không rời khỏi đền
thờ, đêm ngày chay tịnh và cầu nguyện. Vào giờ ấy, bà đã đến và nhận ra Chúa
nơi Hài nhi Giêsu. Trong niềm vui lớn lao bà đã cất lời tán tạ Thiên Chúa và nói
về Ngài cho mọi kẻ ngóng đợi phúc cứu chuộc của Giêrusalem” (Lc
37-38).
Thiên Chúa luôn hiện diện
và đồng hành với chúng ta qua mọi nẻo đường và trong mọi biến cố của cuộc sống
để nâng đỡ, chở che, ban ơn. Nhưng điều quan trọng là làm thế nào để nhận ra
Chúa?
Xin cho chúng ta có được
đời sống công chính và khao khát gặp gỡ Chúa như cụ ông Simêon; cũng như kiên
trì ăn chay, cầu nguyện và gắn bó mật thiết với Chúa như cụ bà Anna,
nhờ đó ta mới có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi mọi người. Xin Chúa
Thánh Thần thương thanh tẩy tâm hồn và đôi mắt của ta nên
trinh trong, để cái nhìn của ta được trong sáng, và thánh thiện nhờ đó ta mới dễ
dàng nhận ra Chúa qua mọi biến cố trong cuộc đời cũng như nơi những người anh
em bé nhỏ, nghèo nàn.
Suy niệm 2:
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, còn gọi là Lễ Nến? Vì nến sáng tượng trưng cho Chúa Kitô là ánh sáng
soi chiếu trần gian và cuộc đời mỗi người chúng ta. Đây là một
biến cố quan trọng có ý nghĩa trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Chiêm
ngắm và suy niệm về hình ảnh Thánh Gia đem Hài Nhi Giêsu lên Đền Thánh để dâng
cho Thiên Chúa theo luật Môsê qua Tin Mừng hôm nay, dạy chúng ta nhiều điều:
1. Khiêm tốn vâng phục thánh ý Thiên Chúa theo gương Đức Mẹ và
Thánh Giuse.
Theo luật Môsê được ghi trong sách Lêvi,
Dân Số, Đệ Nhị Luật thì sau khi sinh con 8 ngày phải làm nghi thức cắt bì và đặt
tên cho con trẻ. Sau một tháng thì phải dâng con cho Chúa, vì “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh dành cho Chúa”. Cũng
theo luật định, sau khi sinh con, người mẹ bị xem là mắc uế 40 ngày nếu sinh
con trai, và 80 ngày nếu sinh con gái. Người mẹ phải lên đền thờ Giêrusalem để
làm nghi thức thanh tẩy.
Luật
cũng quy định, việc dâng con cho Thiên Chúa có thể thực hiện tại nhà; và việc
thanh tẩy người mẹ cũng không buộc người cha phải đi theo lên Đền thờ. Nhưng Tin
mừng cho biết cả gia đình Thánh Gia cùng
nhau lên Đền thờ để thi hành theo như luật buộc, cho dẫu Đức Maria sinh con là bởi quyền năng
Thánh Thần và là Mẹ Đấng
Cứu Thế. Thánh
Giuse là người công chính và Hài Nhi Giêsu là Con Thiên Chúa. Dẫu vậy “cha mẹ hài nhi đem con lên Đền thờ để chu
toàn Lề luật…”. Điều này cho biết mọi
thành phần trong gia đình Thánh Gia đều thể hiện tinh thần vâng phục Thiên Chúa.
Hành động này
nhắc nhở chúng ta về tinh thần khiêm tốn vâng phục thánh ý Chúa qua việc chu
toàn tốt lề luật và sẵn sàng dâng hiến đời sống mình cho Thiên Chúa. Đời sống
Kitô hữu chúng ta không chỉ là giữ luật, mà trên hết là tin tưởng phó thác trọn
vẹn vào Chúa, sẵn sàng để Ngài hướng dẫn và sử dụng theo ý Ngài.
2. Trung tín và khao khát mong chờ Đấng Cứu Thế theo gương cụ Simêon
và bà ngôn sứ Anna
Trong biến cố
này, có hai nhân vật quan trọng là cụ Simêon và bà ngôn sứ Anna.
- Cụ Simêon,
một người công chính và mộ đạo, đã chờ đợi Đấng Cứu Thế suốt đời. Khi bồng Hài
Nhi Giêsu trên tay, cụ đã thốt lên lời chúc tụng:
“Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ Ngài được an bình ra đi.
Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ,
Chúa đã dành sẵn cho muôn dân.” (Lc 2,29-31).
Lời ca của cụ
Simêon là một bài ca tạ ơn, thể hiện niềm vui viên mãn khi được nhìn thấy ánh
sáng cứu độ. Cụ đại diện cho những người sống trong hy vọng, trung thành với lời
hứa của Thiên Chúa.
- Bà Anna, một
góa phụ đạo đức, ngày đêm ăn chay cầu nguyện trong Đền Thánh. Khi thấy Hài Nhi
Giêsu, bà liền nhận ra Ngài là Đấng Thiên Sai và nói về Ngài cho những ai đang
mong chờ sự cứu chuộc.
+ Cả cụ
Simêon và bà Anna đều là mẫu gương của một đời sống cầu nguyện, trung tín và
kiên nhẫn chờ đợi được nhìn thấy Chúa. Họ nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của
việc gắn bó với Chúa, sống đức hạnh với niềm hy vọng được gặp gỡ của Chúa trong
cuộc sống.
3. Nên ánh sáng niềm vui và hy vọng cho mọi người
Cụ Simêon gọi
Hài Nhi Giêsu là “Ánh sáng soi đường cho
dân ngoại” (Lc 2, 32). Điều này
khẳng định rằng Chúa Giêsu đến không chỉ để cứu dân Israel mà là để mang ơn cứu
độ đến cho tất cả mọi người. Ngài là ánh sáng xua tan bóng tối tội lỗi, là Đấng
đem đến hy vọng và bình an cho nhân loại.
Hôm nay, Giáo
Hội cũng cử hành nghi thức rước nến, tượng trưng cho Chúa Giêsu là ánh sáng thế
gian. Chúng ta được mời gọi trở nên những ánh sáng nhỏ, đem Chúa đến cho những
người xung quanh bằng đời sống yêu thương, bác ái và chứng tá đức tin.
4. Áp dụng Lời Chúa vào đời sống:
- Học nơi Thánh
Gia: Noi gương Đức Maria và Thánh
Giuse, chúng ta hãy phó thác và dâng hiến đời sống mình cho Thiên Chúa.
- Sống trung tín và hy vọng: Như cụ Simêon và bà Anna, chúng ta hãy kiên trì trong cầu nguyện,
sống công chính và khao khát gặp gỡ Chúa trong đời sống hàng ngày.
- Trở nên ánh sáng: Chúa Giêsu là ánh sáng cho trần gian, và Ngài cũng mời gọi chúng ta trở thành những ánh sáng nhỏ, mang yêu thương, niềm tin và hy vọng đến cho những người xung quanh.
Xin Chúa cho chúng ta biết dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa, luôn trung tín trong đời sống cầu nguyện và trở nên ánh sáng của Chúa trong thế gian. Xin giúp chúng ta biết nhận ra Chúa trong mọi biến cố cuộc sống thường ngày và sống xứng danh là con cái Chúa. Amen.
Thứ hai: Mc 5,1-20
Giáo
lý công giáo dạy ta biết rằng: Ma quỷ là loài Thiên Thần. Nhưng vì không
vâng phục Thiên Chúa nên đã bị phạt thành Satan hay Ma quỷ. Vì thế Satan
hay ma quỷ được mệnh danh là “kẻ chống đối”. Do không tài nào chống đối
lại Thiên Chúa quyền năng nên ma quỷ quay sang hãm hại con người. Bởi lẽ con
người là tạo vật được Chúa yêu thương bật nhất.
Tin
mừng hôm nay cho biết, tại vùng đất dân ngoại Ghê-ra-sa, đạo binh ma quỷ đang
thống trị và dùng mọi thủ đoạn để hãm hại con người.
- Thủ
đoạn thứ nhất: Hành hạ thân xác con người.
Quỷ
đã nhập vào một người làm cho anh ta phải điêu đứng khổ sở, mất hết nhân tính,
phải sống cô độc trong mồ mả và trên núi đồi, tự làm hại bản thân bằng cách tru
tréo và lấy đá đập vào mình…
- Thủ
đoạn thứ hai: Xúi dục con người chống lại Thiên Chúa.
Ngay
sau khi bị Chúa Giêsu trục xuất ra khỏi người bị nó ám hại, thì tứ khắc ma
quỷ quay sang cám dỗ về lòng tham mê của cải nơi con người. Chính lòng
say mê của cải mà dân trong vùng ấy chống lại Chúa Giêsu, bằng cách xin Ngài
rời khỏi vùng đất của họ. Bởi lẽ họ sợ rằng hôm nay thiệt hại đàn heo, tiếp
theo ngày mai sẽ mất đi tài sản quý giá gì nữa? Vì vậy, họ quyết tâm xua đuổi
Chúa Giêsu ra xa họ.
Ngày
nay có lẽ ma quỷ ít khi trực tiếp nhập vào con người, làm
cho họ phải điêu đứng khổ sở như ngày
xưa. Nhưng chúng thường bày ra muôn ngàn cách để lôi
kéo con người chống lại Thiên Chúa. Thúc đẩy con người hành động đến mất
cả nhân tính như: giết người cướp của; tự do đồng tình luyến ái; nghiện
ngập rượu chè, xì ke ma túy, hoang dâm…
Hoặc
có khi nó cám dỗ con người bằng những hình thức nhẹ nhàng, tưởng chừng như vô
hại, nhưng nếu không tỉnh thức con người sẽ dễ dàng sập vào bẫy nó giăng.
Chuyện dân gian kể rằng: có một người đàn ông nọ bị quỷ hiện lên
chận đường. Quỷ bắt anh ta phải làm một trong ba điều sau đây: một là uống rượu
thật say, hai là đốt nhà của mình, ba là giết chết vợ mình. Quá hoảng sợ, người
đàn ông đành chọn uống rượu thật say, vì anh ta cho đó là việc làm ít nguy hại
nhất. Nào ngờ, khi say rượu, anh ta mất hết lý trí nên nổi lửa đốt nhà mình. Bà
vợ can ngăn, anh ta điên tiết giết luôn vợ mình. Rốt cuộc là anh ta đã làm cả
ba việc mà tên quỷ đề ra.
Thủ đoạn của ma qủy là vô biên nếu không đề cao cảnh giác chúng ta sẽ dễ buông mình theo những lý
lẽ xem ra rất hợp lý của chúng, tựa như câu chuyện sau:
Một
tu sĩ kia rất có lòng đạo đức, ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc
kinh thờ phượng Chúa. Xảy ra là có một hôm ông ngủ quên, thấy vậy, tướng quỷ
Sa-tan đến đánh thức ông. Khi biết kẻ đánh thức mình là Sa-tan, tu sĩ tỏ dấu
thắc mắc, ma quỷ liền nói với ông: “Tôi là ai, điều đó không quan trọng, việc
tôi đánh thức ông là một điều tốt. Ông thấy không, ai làm việc lành đều là
người tốt cả. Vậy tôi cũng là một người tốt”. Tu sĩ đáp: “Không bao giờ ma quỷ
lại làm điều lành, vậy nhân danh Thiên Chúa, mi phải nói rõ vì lý do nào mi
đánh thức ta?“ Bấy giờ ma quỷ buộc lòng phải nói thật: “Nếu ngày nào ông ngủ
quên không đọc kinh sáng, thì khi thức dậy ông sẽ cảm thấy hối hận, khiêm tốn
và quyết tâm sống đạo đức hơn. Còn ngày nào ông thức dậy sớm đọc kinh sáng, thì
ông sẽ nghĩ mình đạo đức và không quyết tâm làm các việc lành khác”. Nói xong
nó biến mất.
Để
chống lại mưu mô của quỷ dữ, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta không ngừng chay tịnh,
cầu nguyện nhất là sống theo Lời Chúa chỉ dạy.
Xin
cho chúng ta biết chay tịnh cỏi lòng, chuyên chăm cầu nguyện. Nhất là biết dùng
Lời Chúa như là kim chỉ nam định hướng cuộc sống chúng ta.
Thứ ba: Mc 5, 21-43
Tình
thương cứu độ của Chúa là phổ quát dành cho hết mọi người, không phân biệt màu
da, chủng tộc hay tôn giáo. Tuy nhiên để đón nhận được tình thương và ơn cứu độ
của Chúa đòi hỏi con người phải có đức tin.
Tin
mừng hôm nay thuật lại hai phép lạ của Chúa Giêsu: cứu sống con gái của vị thủ
lãnh và chữa lành người đàn bà bị băng huyết 12 năm, nhờ lòng
tin mạnh mẻ của họ.
Đức
tin chính là thần dược chữa lành mọi bệnh tật con người.
Nhờ
tin mà cô con gái vị thủ lãnh và người đàn bà bị băng huyết 12 năm được cứu
chữa.
Đức
Tin đem đến cho con người niềm hy vọng.
Hy
vọng vào Chúa, nên vị thủ lãnh và người đàn bà bị băng huyết 12 năm đã không
ngần ngại ra đi tìm đến và đụng chạm vào gấu áo của Chúa Giêsu.
Hy
vọng nơi Chúa, ông thủ lãnh đã không ngần ngại sấp mình nài nỉ xin Chúa đến cứu
sống con gái ông.
Nhờ
lòng tin công khai và mạnh mẽ của viên thủ lãnh mà cô con gái ông được Chúa cứu
sống.
Nhờ
lòng tin chân thành, đơn sơ và kín đáo mà người đàn bà bị băng huyết 12 năm dài
được Chúa chữa lành.
Tin
chính là đặt hết niềm hy vọng" vào", "nơi" và "ở
"Chúa. Trao cho Chúa mọi lắng lo, khốn khổ.
Con
cái là món quà quý giá và là kho báu vô tận. Trong mắt cha mẹ.Con cái là tất
cả. Mất con cái là mất tất cả. Nhưng chính lúc xem ra mất tất cả đó,
viên thủ lãnh đã có được niềm tin.
Bệnh
tật luôn là nổi ám ảnh của con người. Bởi lẽ bệnh tật làm cho con người trở nên
đau khổ, chan nản và tuyệt vọng. Nhưng chính lúc đau khổ và tuyệt vọng ấy,
người đàn bà đã có được niềm tin âm thầm nhưng mạnh mẻ.
Chúng
ta cũng vậy, niềm tin của chúng ta cần được trui rèn, để sau những thử thách
đau thương, đức tin chúng ta được vững mạnh hơn. Không nhất thiết là được ơn,
được phép lạ như người cha; hay như người đàn bà bị bệnh băng huyết trong bài
tin mừng hôm nay. Điều quan trọng là trong mọi biến cố, chúng ta cần nhìn về
phía bên kia điều Chúa muốn, để vững tin vào Chúa. Nhờ thế mà chính ta và những
người chung quanh ta có thêm lòng tin cũng như gia tăng lòng cậy trông nơi
Chúa.
Trên
hành trình bước theo Chúa, niềm tin của chúng ta cũng phải đối diện với bao là
thử thách. Xin cho chúng ta luôn kiên vững niềm tin vào Chúa và mạnh mẻ thể
hiện niềm tin của mình như viên thủ lãnh và người đàn bà bị băng huyết.
Trong
cuộc sống, chúng ta xin ơn Chúa rất nhiều, nhưng lại quên xin ơn rất quan trọng
là ơn "Đức Tin". Chắc chắn đức tin chúng ta vẫn còn yếu kém. Chúng ta
hãy tha thiết xin Chúa gia tăng Đức Tin cho chúng ta.
Thứ tư: Mc 6,1-6
Nhớ Thánh A-ga-ta, trinh nữ, tử đạo
Suy niệm 1:
Sau
một thời gian thi hành sứ mạng loan báo Tin mừng, Chúa Giêsu gây được nhiều
tiếng vang và được đông đảo dân chúng đó đây ngưỡng mộ về giáo lý và
những phép lạ Ngài làm.
Hôm
nay khi trở về quê hương xứ sở để thi hành sứ vụ, thì Chúa Giêsu lại bị những
người đồng hương Nazareth khướt từ và đối xử tệ bạt. Đâu là nguyên nhân dẫn đến
thái độ loại trừ và cách hành xử tệ bạt như thế của dân làng
Nazareth?
Xét
cho cùng cũng bởi hai chữ “tại vì”.
-
Tại vì Chúa Giêsu không có
bằng cấp cử nhân, tiến sĩ trong tay nên khi hành nghề giảng dạy
thánh kinh, Giáo lý, hay giáo luật…nên đã bị làng Nazareth xem thường và phản
đối. Phải chi Chúa Giêsu giảng dạy về kỷ thuật đóng bàn ghế, cất nhà… thì còn
dễ chấp nhận.
- Tại
vì Chúa Giêsu sinh ra và lớn lên
trong một gia đình quá nghèo. Con của bác thợ mộc Giuse và cô Maria quê
mùa, không nghề nghiệp trong tay, không của hồi môn nên làm sao có của dư
của để. Gía như Chúa Giêsu là con của một đại gia, thì đâu nổi bị dân làng xúc
phạm.
- Tại
vì Chúa Giêsu không có bà con thân thuộc làm chức cao
quyền trọng nên làm sao được ngưỡng mộ. Bà con họ hàng của Ngài chỉ là
những người chân lấm tay bùn. Chẳng có ai giàu sang quyền quý. Gía như Chúa
Giêsu là con ông cháu cha (CÔCC), thì tiếng vỗ tay, tét đùi tán thưởng của dân
làng Nazareth sẽ vang dậy không ngừng trước những lời hay ý đẹp được thốt ra từ
miệng Ngài hôm ấy rồi!
Tắt
một lời, “tại vì” họ biết rất rõ về lý lịch trích ngang của Chúa
Giêsu, một lý lịch được xếp vào “hạng tồi”. Nên không lạ gì họ
chối từ, không tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế.
Ngày
nay Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị coi thường, hất hủi, loại trừ nơi những người
nghèo khổ, bệnh hoạn tật nguyền; nơi những người thấp cổ bé miệng, không có địa
vị gì trong xã hội. Đặc biệt là trong thời đại toàn cầu hóa hôm nay, khi mà mọi
thứ đều được đánh giá dựa trên đồng tiền, trên tiện nghi vật chất, thì Chúa
Giêsu nơi những người nghèo hèn vẫn còn bị coi rẻ.
Khi
mà người ta quá coi trọng địa vị bằng cấp, thì Chúa Giêsu nơi những người kém
cõi ít học vẫn bị khinh thường.
Khi
mà xã hội quá đề cao thân thế chức quyền, thì Chúa Giêsu nơi những người cô
thân cô thế vẫn còn bị hất hủi chà đạp.
Đâu
là những tiêu chuẩn tôi thường dựa vào để đánh giá người khác? Tôi có thường bị
óc thành kiến, ác cảm chi phối mà đánh giá người khác một cách bất công không?
Thái độ của tôi thế nào đối với những người nghèo khổ bệnh tật bất hạnh?
Ước
gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta gạt bỏ cái nhìn hẹp hòi và trần tục, để mặc
lấy cái nhìn đức tin, cái nhìn siêu nhiên: cái nhìn giúp ta nhận ra Chúa Kitô
nơi những nghèo khổ, thấp hèn, bệnh tật, khổ đau… để biết tôn trọng và đón nhận
họ như đón nhận chính Chúa. Amen.
Suy niệm 2:
Tin Mừng hôm nay thuật lại
câu chuyện Chúa Giê-su trở về quê hương Na-da-rét và giảng dạy trong hội đường.
Nhưng Ngài lại gặp phải sự nghi ngờ và phản đối từ chính những người đồng hương
của mình.
Họ nghi ngờ về nguồn gốc
và thẩm quyền của Ngài, cho rằng Ngài chỉ là con của một người thợ mộc bình
thường. Trước sự thiếu tin tưởng của những người đồng hương, Chúa Giê-su tỏ ra
thất vọng. Ngài nói rằng tiên tri không được tôn trọng ở quê hương mình. Vì thế
mà Ngài không thể làm nhiều phép lạ ở Na-da-rét. Ngài chỉ chữa lành một vài
người bệnh.
Điều này cho thấy một thực
tế đau lòng là đôi khi, những người thân cận nhất lại là những người khó tin
tưởng chúng ta nhất. Sự nghi ngờ và thành kiến có thể khiến người ta mù quáng
trước sự thật và không thể nhận ra được những điều tốt đẹp.
Chúa Giê-su đã phải đối
mặt với sự phản đối ngay tại quê hương mình. Qua đó cho thấy rằng, ngay cả Con
Thiên Chúa cũng không tránh khỏi những khó khăn và thử thách trong cuộc sống.
Tuy nhiên, Chúa Giê-su
không vì thế mà nản lòng. Ngài vẫn tiếp tục sứ mạng của mình, rao giảng Tin
Mừng và làm phép lạ ở những nơi khác.
Xin Chúa ban cho chúng ta đức tin mạnh mẽ để chúng ta luôn tin tưởng vào Ngài, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Xin giúp chúng ta vượt qua mọi sự nghi ngờ và thành kiến để chúng ta có thể nhận ra được tình yêu và sự thật của Ngài. Amen.
THÁNH AGATA, TRINH NỮ, TỬ ĐẠO
Cuộc
đời và tử đạo
Thánh
Agata sinh ra trong một gia đình giàu có và quý tộc vào thế kỷ thứ 3 tại
Sicily, Ý. Ngay từ nhỏ, bà đã có lòng sùng đạo và khấn giữ mình đồng trinh để
hiến dâng cho Chúa. Tuy nhiên, lòng mộ đạo của bà đã gặp phải thử thách lớn khi
quan tổng trấn Quintianus đem lòng yêu mến bà và muốn lấy bà làm vợ. Vì lòng
trung thành với lời khấn, Thánh Agata đã từ chối lời cầu hôn của ông, và vì
thế, bà đã phải trải qua nhiều đau khổ.
Quintianus
đã giam cầm và tra tấn Thánh Agata dã man. Ông ta đã dùng nhiều hình thức tàn
bạo để ép bà từ bỏ đức tin Kitô giáo và khước từ lời khấn đồng trinh, nhưng
Thánh Agata vẫn kiên trung và giữ vững niềm tin của mình. Cuối cùng, Quintianus
đã ra lệnh thiêu sống bà trên giàn lửa. Thánh Agata qua đời vào khoảng năm 251
sau Công nguyên.
Lòng sùng kính
Thánh
Agata được tôn kính là vị thánh bảo trợ cho những người phụ nữ, đặc biệt là các
bà mẹ và trẻ em. Bà cũng là vị thánh cầu bầu cho những người bị bệnh ung thư
vú. Lễ kính nhớ Thánh Agata được cử hành vào ngày 5 tháng 2 hằng năm.
Biểu tượng
Thánh
Agata thường được biểu tượng bằng hình ảnh một cô gái trẻ xinh đẹp, mặc trang
phục quý tộc và cầm một cành cọ tử đạo. Đôi khi bà cũng được vẽ với hình ảnh bộ
ngực bị cắt lìa, để nhắc nhớ đến những đau khổ mà ngài đã phải chịu đựng trong
cuộc tử đạo.
Những câu chuyện và truyền
thuyết
Có
rất nhiều câu chuyện và truyền thuyết được kể về Thánh Agata. Một trong những
câu chuyện phổ biến nhất là việc Thánh Peter đã hiện đến an ủi và chữa lành vết
thương cho bà trong ngục giam. Một truyền thuyết khác kể rằng, sau khi Thánh
Agata qua đời, núi lửa Etna ở Sicily đã phun trào, và người dân đã cầu nguyện
với thánh nữ để xin được bảo vệ. Lời cầu nguyện của họ đã được nhậm lời, và
ngọn núi lửa ngừng phun trào.
Ảnh hưởng
Thánh
Agata là một trong những vị thánh được sùng kính nhất trong Giáo hội Công giáo.
Lòng tin và sự kiên trung của Thánh nữ đã trở thành nguồn cảm hứng cho rất
nhiều người trên khắp thế giới. Tên của ngài được đặt cho nhiều nhà thờ, bệnh
viện và trường học. (St).
Thứ năm: Mc 6, 7-13
Nhớ Thánh Phao-lo Mi-ki và các bạn tử đạo
Suy niệm 1:
Để
thực hiện sứ mạng giải thoát con người khỏi những đau khổ về thể xác và tinh
thần do trói buộc bởi ma quỷ, một mình Đức Giêsu là đủ, vì Ngài là Thiên
Chúa quyền năng. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại không dùng cách thế đó. Trái lại
Chúa mời gọi chúng ta cộng tác.
Cụ
thể bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu chọn gọi 12 tông đồ, ban quyền trừ quỷ cho
các ông và sai các ông từng hai người một đi rao giảng tin mừng, kêu
gọi người ta ăn năn sám hối.
Khi
lãnh nhận bí tích rửa tội và thêm sức là chúng ta đã lãnh nhận quyền năng của
Chúa và được mời gọi để chia sẻ sứ mạng loan báo tin mừng.
Sứ
mạng thì to lớn nhưng phận người lại bé nhỏ. Thế nên, Chúa Giêsu ý thức chúng
ta hãy cậy trông vào Chúa.
Cậy
trông vào Chúa, ta dễ sống tinh thần khó nghèo, sẵn sàng ra đi bất cứ nơi nào
Chúa muốn. Cho dù bản thân không gạo, không tiền, không bao
bị, không có đến hai áo.
Cậy
trông vào Chúa, ta dễ dàng sống siêu thoát, bằng lòng với cuộc sống hiện tại.
Sẵn sàng đến và sẵn sàng ra đi mà không hề vương vấn, tiếc nối vì “tiền” và
“tình”.
Cậy
trông vào Chúa, ta sẽ không kiêu căng tự mãn nhưng biết khiêm tốn đón nhận và
hợp tác làm việc với anh em trong nhiệm cao quý là loan báo tin mừng.
Lạy
Chúa Giêsu, xin cho chúng con có được tinh thần khó nghèo đểcảm nhận được
những thiếu thốn của tha nhân và đồng cảm với những cảnh đời bất
hạnh.
Xin
gìn giữ chúng con khỏi những ma lực của đồng tiền, những
quyến rũ của vật chất, để trung thành và can đảm rao giảng sứ điệp ăn năn
sám hối mà Chúa truyền dạy.
Xin
cho chúng con biết khiêm tốn đón nhận và hợp tác tích cực với anh em trong
việc truyền giáo, nhằm làm lành mạnh hóa đời sống các tâm hồn,
ngõ hầu đẩy lùi sự dữ và khử trừ sự ô uế ra khỏi môi trường
chúng con đang sống.
Suy niệm 2:
Sau một khoảng thời gian các môn đệ đi theo, ở với
và được Chúa Giêsu huấn luyện, hôm nay Ngài sai các ông ra đi để thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Trước khi thi hành sứ mạng quan trọng này, Ngài trao
ban cho các ông những khả năng cần thiết và căn dặn các ông nhiều điều:
1. Những khả năng Ngài trao ban:
Chữa
lành bệnh tật và trừ trừ ma quỷ. Sứ mạng này không chỉ dành cho các tông đồ
thời xưa mà còn được trao lại cho mỗi người chúng ta hôm nay. Mỗi người chúng
ta đều có một vai trò trong việc loan báo Tin Mừng của Chúa Kitô.
2. Những lời căn dặn cần thiết:
- Hành trang đơn sơ: Khi
sai các môn đệ đi, Chúa Giê-su truyền cho các ông không mang theo gì nhiều: "chỉ có cây gậy, không mang bao bị,
không bánh, không tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo."
Hành trang đơn sơ này nhắc nhở chúng ta về sự khó nghèo và tinh thần phó thác
mà người môn đệ cần có. Người môn đệ đích thực không cậy dựa vào của cải vật
chất mà đặt niềm tin vào Chúa.
- Thái độ đón nhận: Chúa Giê-su cũng dạy các môn đệ về thái độ khi
gặp những người không đón nhận Tin Mừng:
"Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi
đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ." Lời dạy này cho thấy sự
kiên nhẫn và lòng bao dung của người môn đệ. Dù gặp phải sự chống đối, người
môn đệ vẫn phải giữ vững niềm tin và tiếp tục sứ mạng của mình.
Thánh Phao-lô Mi-ki và các
bạn tử đạo mà GH mừng nhớ hôm nay là những người con ưu tú của Giáo hội tại
Nhật Bản vào thế kỷ 16. Trong bối cảnh đạo Công giáo bị cấm đoán và đàn áp, các
ngài đã hiên ngang ra trước tòa, dũng cảm làm chứng cho đức tin và chấp nhận
cái chết để bảo vệ chân lý.
Các Thánh tử đạo Nhật Bản
đã sống và thực hiện trọn vẹn những điều Chúa Giê-su dạy. Các ngài đã can đảm
rao giảng Tin Mừng giữa muôn vàn khó khăn, thử thách. Các ngài đã từ bỏ mọi của
cải thế gian để trung thành với Chúa Kitô. Các ngài đã tha thứ cho những người
bách hại mình và cầu nguyện cho họ.
Ước gì mỗi người chúng ta biết noi gương các Thánh tử đạo kiên trung thực
thi lời dạy của Chúa Giêsu trở thành những môn đệ đích thực của Ngài, sẵn sàng ra
đi rao giảng Tin Mừng và can đảm làm chứng cho Chúa giữa lòng thế giới hôm nay.
Thứ sáu: Mc 6, 14-29
Suy niệm 1:
Cái chết
anh dũng của Gioan Tẩy Gỉa được tin mừng trình thuật hôm nay, cho thấy lòng
người còn nhiều góc tối.
- Góc
tối của đam mê dục vọng: Đắm chìm trong dục vọng, vua Hêrôđê đã xem thường đạo lý luân thường nên đã cướp đi
người vợ của anh mình. Đắm chìm trong đam mê, nhà vua chỉ còn biết
buông mình theo những thú vui thấp hèn trong những tiệc tùng náo nhiệt, đầy
rượu và thịt.
- Góc
tối của hận thù ghen ghét: Không chịu nổi lời nhắc
nhở của Gioan Tẩy Gỉa trước hành động vô luân của mình, bà
Hêrôdia đã căm thù Gioan Tẩy Gỉa đến tận xương tủy. Nên khi cơ
hội đến, bà lập tức mách bảo con gái xin vua cha cái đầu Gioan Tẩy Giả
thay cho nửa giang sơn.
- Góc
tối của nhác đảm sợ hãi: “Vẫn biết Gioan Tẩy Gỉa là người công chính thánh
thiện; vua che chở ông. Khi nghe Gioan nói, nhà vua rất phân vân nhưng lại cứ
thích nghe. Nhưng rồi lại không can đảm làm theo tiếng lương tâm của
mình”. Vì sợ tiếng nói lương tâm, sợ nghe những lời chân lý, sợ mất
uy tín với lời hứa bồng bột trước bá quan văn võ trong lúc ngà ngà… nên nhà vua
đã đi đến quyết định ngông cuồng là ra lệnh chém đầu Gioan Tẩy Gỉa.
- Góc
tối của ngây ngô dại khờ: Salômê một cô
con gái có tài mà không có đức. Cô đã dùng tài múa nhảy của mình thay
vì phục vụ niềm vui và hạnh phúc cho đời cho người. Trái lại với sự ngây ngô
dại khờ của mình, tài năng của cô đã bị lợi dụng để phục vụ cho văn hóa sự
chết.
Xin
cho ánh sáng chân lý của Chúa chiếu giãi vào mọi ngõ ngách của lòng người, hầu
xua tan những góc tối nguy hại đang còn ẩn nấp đâu đó nơi cỏi lòng con người
hôm nay.
Xin
cho chúng ta dám can đảm sống và làm chứng cho ánh chân lý như Gioan Tẩy Gỉa
dầu phải hy sinh mạng sống, để bảo vệ cho đạo lý luân thường và làm chứng cho
nền văn hóa tình thương.
Suy niệm
2:
Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật về cái chết đau thương của
thánh Gioan Tẩy Giả. Ngài bị vua Hêrôđê bắt giam vì đã dám lên tiếng phản đối
cuộc hôn nhân sai trái của nhà vua với bà chị dâu Hêrôđia. Dù biết Gioan là người
công chính, nhưng vua Hêrôđê vẫn ra lệnh chém đầu chỉ vì một lời thề thiếu suy
xét trong lúc say mê trước điệu múa của con gái bà Hêrôđia. Cái chết anh dũng của Gioan Tẩy Gỉa nói với ta nhiều điều:
- Chứng nhân cho sự thật: Gioan Tẩy Giả dám nói lên sự thật,
dù biết rằng điều đó có thể khiến ông mất mạng. Ngày nay, người Kitô hữu cũng
được mời gọi can đảm sống theo sự thật, không vì sợ hãi mà thỏa hiệp với cái xấu.
Hãy can đảm bảo vệ chân lý, sống ngay thẳng và công chính dù có gặp khó khăn.
- Hêrôđê và sự yếu đuối: Vua Hêrôđê biết Gioan là người
công chính nhưng lại không đủ can đảm bảo vệ ông. Điều này nhắc nhở chúng ta về
sự nguy hiểm của lối sống nửa vời, thiếu quyết đoán trước những chọn lựa quan
trọng. Đừng để mình bị chi phối bởi những dục vọng thấp hèn, vì chúng có thể dẫn
đến những quyết định sai lầm.
- Hậu quả của dục vọng và kiêu ngạo: Hêrôđê rơi vào cạm bẫy của
chính mình vì ham mê thú vui và sợ mất danh dự. Đây cũng là lời cảnh tỉnh cho
chúng ta trước những cám dỗ của thế gian. Luôn tỉnh thức và cầu nguyện để giữ vững
đức tin trong mọi hoàn cảnh.
Xin Chúa ban cho chúng ta lòng
can đảm như thánh Gioan Tẩy Giả, dám sống và làm chứng cho sự thật. Và cho chúng
ta biết luôn tỉnh thức trước những cám dỗ để trong mọi hoàn cảnh ta sáng suốt chọn
lựa sống theo thánh ý Chúa. Amen.
Thứ bảy: Mc 6, 30-34
Ðức
thánh giáo hoàng Gioan Phao-lô II khẳng định: “Lòng Thương Xót là tên gọi thứ hai của tình thương".
(Thông điệp Thiên Chúa giàu lòng thương xót, số 7).
Đức
Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa làm người. Vì thế Ngài chính là hiện
thân của Lòng Thương Xót Thiên Chúa. Lòng Thương Xót đó của Chúa Giêsu
được thể hiện cách cụ qua bài tin mừng hôm nay, bằng cách:
- Quan tâm đến các tông đồ: Sau
cuộc hành trình truyền giáo vất vả, các Tông đồ trở về lòng đầy
hứng khởi, thuật lại cho Chúa Giêsu nghe những thành quả vàng
son mà các ông đã gặt hái được.
Ngoài
việc lắng nghe và đồng cảm với những thành quả ấy của các môn đệ, Chúa
Giêsu còn nhìn thấy điều cần thiết và quan trọng hơn đối với các tông đồ ở
đây lúc này, đó là nghỉ ngơi.
Nghỉ
ngơi để lấy lại sức, để nhìn lại những việc đã làm, để sống thân tình với Chúa
và với nhau… Đây là nhu cầu chính đáng và rất bổ ích nhằm quân
bình lại cuộc sống. Nên Ngài khuyên các ông: “Các con hãy lui
vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút.” (Mc 6,31). Với sự quan tâm này cho biết: Chúa Giêsu
coi trọng con người hơn công việc.
- Quan tâm đến dân chúng: Mặc
dù Đức Giêsu muốn cùng các Tông đồ đã tách biệt khỏi đám đông ồn
ào, tìm nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi đôi chút. Nhưng khi thấy dân chúng tấp
nập tuôn đến, “Ngài chạnh lòng thương vì họ đang bơ vơ như
đàn chiên không có người chăn”. Ngài quên cả mệt nhọc, sẵn sàng hy
sinh thời giờ nghỉ ngơi để ban phát lời hằng sống cũng như đáp ứng
những nhu cầu chính đáng của họ. Hành động này cho biết: Đức Giêsu không nghĩ đến mình, Ngài chỉ
quan tâm đến người khác.
Mỗi
người chúng ta có đời sống riêng tư, được sắp xếp theo ngăn nắp, hợp lý, chúng
ta có quyền bảo vệ sự quân bình ấy, nhưng nếu đôi lúc cần phải hy
sinh cái lợi ích riêng tư ấy vì lợi ích và hạnh phúc của người khác,
chúng ta hãy coi đó là một cơ hội và là ân ban của Chúa để sẵn sàng đáp
ứng với tấm lòng thương xót như Chúa đã thương xót ta.
Xin Chúa cho chúng ta có được cái nhìn của Chúa, để chúng ta nhận ra những nhu cầu cần thiết nơi tha nhân. Và xin cho chúng ta có được tấm lòng thương xót như Chúa để chúng ta không cảm thấy mệt nhọc khi hy sinh phục vụ hạnh phúc cho con người.
SUY NIỆM
LỜI CHÚA TUẦN IV THƯỜNG NIÊN
Lm. Minh Anh, Tgp Huế
CHÚA NHẬT IV THƯỜNG
NIÊN-C
DÂNG CHÚA GIÊSU VÀO ĐỀN THÁNH
Ml 3, 1-4; Dt 2, 14-18; Lc 2, 22-32
Suy niệm 1: ÁNH
SÁNG ĐẾN TRẦN GIAN
Lm Nguyễn Xuân Trường
Tại sao lễ dâng Chúa trong Đền
Thánh lại gọi là Lễ Nến? Vì nến sáng tượng trưng cho Chúa Kitô là ánh sáng soi
chiếu trần gian và cuộc đời mỗi người chúng ta.
1. Chúa là ánh sáng. Trong thiên nhiên, ánh sáng xua tan bóng tối để soi
đường dẫn lối ta đi, ánh sáng chiếu soi làm cho mọi sự đẹp đẽ hơn, và ánh
sáng đem sự sống cho các sinh vật. Thế nên, bài Phúc Âm nói Chúa Giêsu là ánh
sáng để diễn tả Chúa đến xua tan những bóng đêm tội lỗi, soi sáng cho nhân loại
biết ý nghĩa và mục đích thật sự của đời người, để làm cho cuộc đời này
trở nên tốt đẹp hơn, yêu thương hơn, đáng sống hơn. Chúa là ánh sáng và lời
Ngài cũng là ánh sáng: “Lời Chúa là ngọn
đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.”
2. Đi trong ánh sáng. Như hoa hướng dương hướng về mặt trời, như mọi sinh vật
đón nhận ánh sáng để phát triển sự sống và sinh hoa kết trái, thì chúng ta cũng
phải hướng về Chúa, đón nhận ánh sáng của Chúa để sống, để tiến bước trong đời
như lời Chúa Giêsu công bố: “Ta là sự
sáng thế gian. Ai theo ta thì sẽ không đi trong tối tăm nhưng sẽ có ánh
sáng ban sự sống.” Hình ảnh ngọn
nến cháy sáng cũng mời gọi mỗi người hãy đón nhận và phản chiếu ánh sáng Chúa
Kitô bằng một lối sống quảng đại cống hiến như nến chịu tan chảy tiêu hao, ta
cũng phải luôn sẵn lòng yêu thương hy sinh quên mình như Chúa Giêsu đã sống.
Từ khi chịu phép rửa tội, mỗi người đã lãnh nhận cây nến cháy
sáng tượng trưng cho việc đón nhận và bước đi trong ánh sáng Chúa Kitô. Ước
gì, hàng ngày chúng ta tiếp tục siêng năng tới gặp Chúa qua những giờ cầu nguyện
và thánh lễ. Cứ đến gần Chúa là ánh sáng thì chắc chắn đời mình sẽ đẹp đẽ, sẽ
sáng láng như câu tục ngữ “gần đèn thì sáng.” Amen.
Suy niệm 2:
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Dâng
Chúa Giêsu vào Đền Thánh, còn gọi là Lễ Nến?
Vì nến sáng tượng trưng cho Chúa Kitô là ánh sáng soi chiếu trần gian và cuộc đời
mỗi người chúng ta. Đây là một biến cố quan trọng có
ý nghĩa trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Chiêm ngắm và suy niệm về
hình ảnh Thánh Gia đem Hài Nhi Giêsu lên Đền Thánh để dâng cho Thiên Chúa theo
luật Môsê qua Tin Mừng hôm nay, dạy chúng ta nhiều điều:
1. Khiêm tốn vâng phục thánh ý
Thiên Chúa theo gương Đức Mẹ và Thánh Giuse.
Theo luật Môsê được ghi trong sách Lêvi,
Dân Số, Đệ Nhị Luật thì sau khi sinh con 8 ngày phải làm nghi thức cắt bì và đặt
tên cho con trẻ. Sau một tháng thì phải dâng con cho Chúa, vì “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh
dành cho Chúa”. Cũng theo luật định, sau khi sinh con, người mẹ bị xem là mắc uế
40 ngày nếu sinh con trai, và 80 ngày nếu sinh con gái. Người mẹ phải lên đền
thờ Giêrusalem để làm nghi thức thanh tẩy.
Luật cũng quy định, việc dâng con cho Thiên
Chúa có thể thực hiện tại nhà; và việc thanh tẩy người mẹ cũng không buộc người
cha phải đi theo lên Đền thờ. Nhưng Tin mừng cho biết cả gia đình Thánh Gia cùng nhau lên Đền thờ để thi hành theo như luật
buộc, cho dẫu Đức Maria sinh con là bởi
quyền năng Thánh Thần và là Mẹ Đấng Cứu Thế. Thánh Giuse là người công chính và Hài Nhi Giêsu là Con Thiên
Chúa. Dẫu vậy “cha mẹ hài nhi đem con lên
Đền thờ để chu toàn Lề luật…”. Điều
này cho biết mọi thành phần trong gia đình Thánh Gia đều thể hiện tinh thần vâng phục
Thiên Chúa.
Hành động này nhắc nhở chúng ta về tinh thần khiêm tốn
vâng phục thánh ý Chúa qua việc chu toàn tốt lề luật và sẵn sàng dâng hiến đời
sống mình cho Thiên Chúa. Đời sống Kitô hữu chúng ta không chỉ là giữ luật, mà
trên hết là tin tưởng phó thác trọn vẹn vào Chúa, sẵn sàng để Ngài hướng dẫn và
sử dụng theo ý Ngài.
2. Trung tín và khao khát mong chờ
Đấng Cứu Thế theo gương cụ Simêon và bà ngôn sứ Anna
Trong biến cố này, có hai nhân vật quan trọng là cụ
Simêon và bà ngôn sứ Anna.
- Cụ Simêon, một người công chính và mộ đạo, đã chờ đợi Đấng
Cứu Thế suốt đời. Khi bồng Hài Nhi Giêsu trên tay, cụ đã thốt lên lời chúc tụng:
“Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời
Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ Ngài được an bình
ra đi.
Vì chính mắt con được thấy ơn cứu
độ,
Chúa đã dành sẵn cho muôn dân.” (Lc 2,29-31).
Lời ca của cụ Simêon là một bài ca tạ ơn, thể hiện niềm
vui viên mãn khi được nhìn thấy ánh sáng cứu độ. Cụ đại diện cho những người sống
trong hy vọng, trung thành với lời hứa của Thiên Chúa.
- Bà Anna, một góa phụ đạo đức, ngày đêm ăn chay cầu nguyện
trong Đền Thánh. Khi thấy Hài Nhi Giêsu, bà liền nhận ra Ngài là Đấng Thiên Sai
và nói về Ngài cho những ai đang mong chờ sự cứu chuộc.
+ Cả cụ Simêon và bà Anna đều là mẫu gương của một đời sống
cầu nguyện, trung tín và kiên nhẫn chờ đợi được nhìn thấy Chúa. Họ nhắc nhở
chúng ta về tầm quan trọng của việc gắn bó với Chúa, sống đức hạnh với niềm hy
vọng được gặp gỡ của Chúa trong cuộc sống.
3. Nên ánh sáng niềm vui và hy vọng
cho mọi người
Cụ Simêon gọi Hài Nhi Giêsu là “Ánh sáng soi đường cho dân ngoại”
(Lc 2, 32). Điều này khẳng định rằng Chúa
Giêsu đến không chỉ để cứu dân Israel mà là để mang ơn cứu độ đến cho tất cả mọi
người. Ngài là ánh sáng xua tan bóng tối tội lỗi, là Đấng đem đến hy vọng và
bình an cho nhân loại.
Hôm nay, Giáo Hội cũng cử hành nghi thức rước nến, tượng
trưng cho Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian. Chúng ta được mời gọi trở nên những
ánh sáng nhỏ, đem Chúa đến cho những người xung quanh bằng đời sống yêu thương,
bác ái và chứng tá đức tin.
4. Áp dụng Lời Chúa vào đời sống:
- Học nơi Thánh Gia: Noi gương Đức Maria và Thánh
Giuse, chúng ta hãy phó thác và dâng hiến đời sống mình cho Thiên Chúa.
- Sống trung tín và hy vọng: Như cụ Simêon và bà Anna, chúng
ta hãy kiên trì trong cầu nguyện, sống công chính và khao khát gặp gỡ Chúa
trong đời sống hàng ngày.
- Trở nên ánh sáng: Chúa Giêsu là ánh sáng cho trần
gian, và Ngài cũng mời gọi chúng ta trở thành những ánh sáng nhỏ, mang yêu
thương, niềm tin và hy vọng đến cho những người xung quanh.
Xin Chúa cho chúng ta biết dâng
hiến cuộc đời mình cho Chúa, luôn trung tín trong đời sống cầu nguyện và trở
nên ánh sáng của Chúa trong thế gian. Xin giúp chúng ta biết nhận ra Chúa trong
mọi biến cố cuộc sống thường ngày và sống xứng danh là con cái Chúa. Amen.
Thứ hai: Mc 5, 1-20
TỘI LỖI VÀ ÂN SỦNG
“Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này!”.
Một thanh niên
ngạo nghễ đi qua một đám đông đang nghe giảng. Những muốn dèm pha nhà giảng
thuyết và khinh dể sự cả tin của người nghe, anh lên tiếng, “Này thầy ơi, về
nhà đi, đừng giảng nữa, ma quỷ chết hết rồi!”. Nhà giảng thuyết mỉm cười, hiền
lành nhìn anh và nói, “Vậy là từ nay anh mồ côi!”.
Kính thưa Anh Chị
em,
“Ma quỷ chết hết
rồi?”. Không đâu! Xưa cũng như nay, nó luôn còn đó! Trái lại, ngày nay, hoạt động
của chúng còn mạnh mẽ, tinh vi hơn. Hình ảnh người bị quỷ ám sống giữa mồ mả
trong Tin Mừng hôm nay là một biểu tượng cho tất cả những ai đang bị trói buộc
cách này cách khác bởi ma quỷ. Nhưng với Chúa Giêsu, chỉ một lời của Ngài, “Hỡi
thần ô uế, hãy ra khỏi người này!”, những gì xấu xa vô hình đó - ‘tội lỗi’ - được
thay bằng một loại vô hình khác - ‘ân sủng!’.
Mồ mả, thế giới
của sự chết. Người bị quỷ ám tự giam mình trong thế giới của người chết, một
môi trường chết chóc. Không ai có thể kiềm chế anh; trước sự dữ, con người bất
lực! Anh tru tréo như con vật; lấy đá rạch mình, nghĩa là đánh mất nhân tính. Tự
hành hạ mình vốn là đặc điểm của sự dữ! Với Luca, anh “không mặc áo xống”,
nghĩa là không còn thuộc về thế giới của con người vốn có nhân phẩm, văn hoá.
Cũng thế, nếu để sự dữ, thần ô uế chế ngự… cách nào đó, chúng ta không còn là
người. Lời Chúa cho thấy cách hữu hình những gì vô hình có thật nơi mỗi người,
đó là ‘tội lỗi’.
Thời xưa, xem ra
ma quỷ không có nhiều phương tiện và chỗ ẩn núp hay hoá thân, nên chúng thường
nhập vào con người như các Tin Mừng kể lại. Ngày nay, xã hội hiện đại cung cấp
cho nó vô vàn phương tiện, nên chúng ẩn núp và hoá thân tài tình dưới nhiều
dáng vẻ. Vì thế, mỗi người chúng ta, bất luận tuổi tác, đấng bậc; nhất là người
trẻ, phải luôn đề phòng! Đó là sống những lối sống vô thần của chủ thuyết tương
đối; nói rõ hơn, đó là sống một cuộc sống không định hướng, vật vờ, bất hiếu,
vô trách nhiệm, vô ơn; một lối sống đam mê các phương tiện và thú vui, tự do
luyến ái, không có khả năng sống cao thượng, nuông chiều những cảm xúc thấp hèn
và vô kỷ luật.
Anh Chị em,
“Hỡi thần ô uế,
hãy ra khỏi người này!”. Để được chữa lành bởi Chúa Giêsu, Marcô tiết lộ một
chi tiết hết sức quan trọng, “Từ mồ mả, một kẻ bị thần ô uế ám liền ra đón Người”.
Chỉ Chúa Giêsu mới có quyền giải thoát chúng ta khỏi mọi ác thần áp bức, mọi xiềng
xích trói buộc. Vậy, hãy rời xa ‘những mồ mả’ chết chóc của mình, chạy đến với
Ngài! Thánh Vịnh đáp ca là một lời khích lệ mạnh mẽ, “Hỡi mọi người cậy trông
vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!”. Bấy giờ, lòng thương xót của Thiên
Chúa sẽ chữa lành tất cả. Thú vị thay! Điều vô hình - ‘tội lỗi’ - nay được thay
thế bằng một điều không hữu hình khác - ‘ân sủng!’. Bạn và tôi sẽ cảm nhận lòng
thương xót và thứ tha vô bờ của Thiên Chúa. Thư Do Thái hôm nay viết, “Thiên
Chúa đã trù liệu cho chúng ta một phần phúc tốt hơn!”.
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, giúp
con can đảm rời xa ‘mồ mả’ chết chóc qua Bí tích Hoà Giải, hầu con được tắm gội
trong suối ân sủng của Chúa!”, Amen.
Thứ ba: Mc 5, 21-43
VÙNG BÌNH AN
“Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh!”;
“Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!”.
“Điều gì đang chờ
đợi bạn bên ngoài vùng an toàn?”. Theo Darius Foroux, khi thoát khỏi ‘Vùng An
Toàn, Comfort zone’, bạn bước vào ‘Vùng Sợ Hãi, Fear zone’ và ‘Vùng Học Hỏi,
Learning zone’ trước khi đến được ‘Vùng Tăng Trưởng, Growth zone’. Nghiên cứu
cho biết, 80% người trên thế giới ở mãi trong ‘Vùng An Toàn’; 20% số còn lại nằm
trong 3 vùng sau. Càng ra phía ngoài, số người càng giảm; nói cách khác, chỉ có
một số rất ít có thể tiến vào ‘Vùng Tăng Trưởng, Vùng Bình An!’.
Kính thưa Anh Chị
em,
Tin Mừng hôm nay
mô tả chi tiết hai con người đã ra khỏi vùng an toàn của mình để tiếp cận ‘Vùng
Tăng Trưởng’ - ‘Vùng Bình An’ - một vùng có tên “Giêsu!”. Thánh Vịnh đáp ca bày
tỏ niềm hân hoan của họ, “Lạy Chúa, người tìm Chúa sẽ dâng lời ca tụng!”.
Thật trùng hợp,
thư Do Thái đề nghị bạn và tôi can đảm từ giã một vùng tưởng là an toàn vốn
không hề an toàn chút nào, “Hãy hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói
buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức
Giêsu!” - bài đọc một. Chính bản thân Ngài cũng đã ra khỏi vùng an toàn, “Người
đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi
ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa”. Nhờ vậy, Ngài trở nên ‘Vùng
Bình An’ tuyệt đối cho tất cả những ai tin vào Ngài.
Trong Tin Mừng
hôm nay, hai con người đã ra khỏi vùng an toàn của mình để tiếp cận Chúa Giêsu
theo những cách rất khác nhau: một công khai, một chùng lén. Ấy thế, họ đã gặp
được ‘Vùng Bình An’ - chính Ngài. Đó là Giaia, trưởng hội đường; và một phụ nữ
băng huyết. Ra khỏi ‘vùng an toàn’ uy tín, thế giá và các thầy thuốc giỏi nhất,
Giaia đã đến ‘ném mình’ trước Chúa Giêsu; nhờ đó, con ông sống. Cũng thế, với
người phụ nữ vốn đã tiêu tốn với những lương y tài giỏi; nhưng xem ra, cô bất lực
với những gì mà 12 năm qua cô nghĩ là an toàn. Giờ đây, cô đến với Chúa Giêsu
khi thầm nghĩ, “Tôi mà sờ được vào áo choàng của Người thôi, là sẽ được cứu chữa”.
Và cô toại nguyện!
Anh Chị em,
“Người tìm Chúa
sẽ dâng lời ca tụng!”. “Trước những đau khổ về thể xác và tinh thần, trước những
vết thương trong tâm hồn, trước những hoàn cảnh đè bẹp chúng ta, và thậm chí
trước tội lỗi, Thiên Chúa không giữ chúng ta ở khoảng cách. Ngài không xấu hổ;
Ngài không phán xét chúng ta. Ngược lại, Ngài đến gần để chạm vào chúng ta và
nâng chúng ta dậy. Ngài nắm tay chúng ta để nói: “Con trai, con gái, chỗi dậy!
Hãy tiến về phía trước; hãy sải bước về phía trước!”. “Lạy Chúa, con là kẻ có tội”
- “Hãy sải bước về phía trước; Ta đã nên tội vì con, để cứu con!” - “Nhưng lạy
Chúa, Chúa không phải là tội nhân” - “Không, nhưng Ta chịu mọi hậu quả của tội
để cứu con!”. Điều này thật đẹp! Hãy khắc ghi hình ảnh mà Chúa Giêsu ban cho
chúng ta: Thiên Chúa luôn nắm tay bạn và nâng bạn dậy một lần nữa. Ngài để mình
được chạm vào bởi nỗi đau của bạn và chạm vào bạn để chữa bạn và ban cho bạn sự
sống một lần nữa!” - Phanxicô.
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đôi
khi con cảm thấy bất lực với những ‘vùng an toàn giả hiệu’ của mình, xin lôi
con đến thẳng với Chúa - ‘Vùng Bình An’ - nơi con được cứu sống!”, Amen.
Thứ tư: Mc 6, 1-6
Nhớ Thánh A-ga-ta, trinh nữ, tử đạo
ĐỂ ẨN DẬT
“Ông ta không phải là bác thợ con bà
Maria sao?”.
Kính thưa Anh Chị
em,
Trình thuật Tin
Mừng hôm nay bất ngờ tiết lộ một sự thật thú vị về ơn gọi của Chúa Giêsu. Ngài
được gọi - trước hết - ‘để ẩn dật!’.
Những người đồng
hương của Chúa Giêsu không hề hay biết Ngài là một ‘Messia tiềm ẩn’. Điều này
thể hiện khi họ nghe lời quyền năng Ngài nói, thấy việc lạ lùng Ngài làm và họ
đã rất bối rối, kinh ngạc. Không bao giờ họ ‘mong’ những điều này lại có thể đến
từ một Giêsu cùng quê. Và như thế, suốt ba mươi năm, rõ ràng, Chúa Giêsu đã sống
một cuộc sống ‘bình dị’, rất đỗi ‘bình thường’; có thể nói, Ngài đến - trước hết
- ‘để ẩn dật!’.
Sự thật sâu sắc
này cho biết, đôi khi, ý muốn của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta là sống
một cuộc sống ‘dung dị’ như Chúa Giêsu. Thật dễ dàng khi nghĩ rằng, tôi nên làm
một điều gì đó ‘vĩ đại’ cho Chúa. Vâng, đó là sự thật! Nhưng điều vĩ đại Chúa
muốn đôi khi xem ra là để nên giống Chúa Giêsu và lắm lúc chỉ đơn giản chỉ là sống
tốt. Chúa Giêsu đã sống một cuộc sống tốt lành, thánh thiện, nhân đức nhưng những
người đồng hương đã không nhận ra những đức tính này, những đức tính mà Ngài
chưa cần thể hiện khi chưa đến thời đến buổi. Hãy biết ơn Thiên Chúa về bất cứ
điều gì Ngài muốn cho tôi và dành cho tôi ngay lúc này; và tôi sẽ ôm nó thật chặt
bằng cả trái tim!
Thứ đến, tuỳ
theo ngày giờ của Chúa Cha! Đến một lúc nào đó, Chúa Giêsu sẽ bước ra ánh sáng
để tỏ mình cho công chúng; và khi điều này xảy ra, mọi người đã chú ý. Thực tế
này cũng đúng với chúng ta. Hầu hết bạn và tôi xem ra cũng được gọi ‘để ẩn dật’
năm này qua năm khác theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa; đây là thời gian mà mỗi
người tận dụng để trưởng thành trong nhân đức, cho đi những điều nhỏ bé ẩn tàng
và tận hưởng nhịp sống yên tĩnh của một cuộc sống tốt lành. Nhưng nên biết rằng,
đến một lúc nào đó, Thiên Chúa có thể kêu gọi chúng ta bước ra khỏi vùng an
toàn để thi hành sứ mệnh Ngài trao một cách công khai hơn. Điều quan trọng là
chúng ta sẵn sàng, lưu tâm đến ý muốn và kế hoạch của Ngài; sẵn sàng phó mình để
Thiên Chúa sử dụng theo một cách thức mới mẻ nếu đó là ý muốn thánh thiện của
Ngài.
“Time-lapse” là
kỹ thuật chụp nhanh nhiều bức ảnh liên tiếp; mỗi bức cách nhau một khoảng thời
gian để tạo nên một đoạn phim quay nhanh hoàn chỉnh. Tạp chí National
Geographic đã giới thiệu một khúc phim như vậy. Trong một video trên TedTalk,
Anand Varma đã nói đến quá trình chào đời của một con ong, “Tôi sẽ cho các bạn
thấy 21 ngày đầu tiên trong đời của một con ong cô đọng trong 60 giây; từ những
cái trứng, đến ấu trùng… cho đến khi một con ong và một bầy ong có thể bay lên.
Thật huyền nhiệm!”.
Anh Chị em,
Nếu phần lớn cuộc
đời của chúng ta được chụp lại với kỹ thuật “Time-lapse” thì chắc hẳn đoạn phim
này sẽ huyền nhiệm hơn đoạn phim chụp loài ong gấp bội. Chính tay Thiên Chúa đã
can dự vào cuộc sống chúng ta từng ngày, dù đó là những ngày mà chúng ta được gọi
‘để ẩn dật’. Hãy nên như Chúa Giêsu, luôn sống thánh thiện tốt lành cho thánh ý
Chúa Cha, một chỉ muốn làm đẹp lòng Ngài trong giây phút hiện tại!
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, nhiều
lúc con nôn nả, muốn làm một điều gì đó vĩ đại cho Chúa. Cho con biết rằng,
Chúa chỉ muốn con sống thật tốt lành thánh thiện ngay hôm nay!”, Amen.
Thứ năm: Mc 6, 7-13
Nhớ Thánh Phao-lô Mi-ki và các bạn tử đạo
HỘI TỤ VÀ XUẤT PHÁT
“Chúa Giêsu gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt
đầu sai đi từng hai người một”.
Kính thưa Anh Chị
em,
Tin Mừng hôm nay
cho thấy sức mạnh đích thực của công cuộc truyền giáo xuất phát từ đâu? Từ Chúa
Giêsu! Ngài là trung tâm quy chiếu - ‘hội tụ’ - hàng đầu và cũng là điểm ‘xuất
phát’ cho sứ vụ loan báo Tin Mừng!
Marcô ý tứ kể ra
một loạt động từ có chung một chủ ngữ, “Chúa Giêsu gọi Nhóm Mười Hai lại”, “Sai
đi từng hai người một”, “Ban cho các ông quyền trên các thần ô uế”, “Chỉ thị
cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy”. Công việc của nhóm
toả ra từ một trung tâm; đúng hơn, một con người - chính Ngài. Và điều này tái
khẳng định sự hiện diện và hành động của Chúa Giêsu trên mọi hoạt động truyền
giáo lớn nhỏ của các tông đồ ‘thuộc mọi thời’. Sự thật này chứng tỏ các tông đồ
không có gì riêng để tuyên bố, không có một khả năng nào biểu lộ từ tài trí của
mình; họ chỉ nói và hành động như ‘những đặc phái viên’ được sai đi nói Lời của
Ngài, Đấng vừa là điểm ‘hội tụ’ vừa là điểm ‘xuất phát’.
Chúa Giêsu đã “gọi”
các ông đến với Ngài; đó là một cuộc gặp riêng tư giữa Ngài với từng người.
Chính Ngài lôi kéo họ đến “cùng vị Trung Gian giao ước mới” - bài đọc một.
Trong hành động này, các tông đồ đã đích thân gặp gỡ một Thiên Chúa làm người,
nhận được ân sủng và quyền năng Ngài; để từ đó, biết mình được xót thương.
Chính họ sẽ thốt lên, “Lạy Thiên Chúa, chúng con đón nhận tình Chúa yêu
thương!” - Thánh Vịnh đáp ca.
“Sai đi từng hai
người một”, điều này cũng đáng kể! Chúa Giêsu biết yếu đuối của mỗi người, một
người chiến đấu sẽ dễ thất bại; với sự hỗ trợ của một đồng đội, môn đệ sẽ được
củng cố rất nhiều. Sứ vụ rao giảng không là việc của cá nhân ai, nhưng là một sứ
vụ ‘cộng đồng’; mỗi người là một mảnh trong toàn cảnh. Để hoàn thành sứ vụ đó,
chúng ta cần được yêu thương và sự hỗ trợ của người khác. Xông vào chiến trận
thì ‘hai’ luôn tốt hơn ‘một’; cũng thế, hai cái đầu - sự thường - sẽ tốt hơn.
Trong nội chiến
Hoa Kỳ, ngày kia, một tiểu đội buộc phải vượt sông trên lưng ngựa. Cạnh bờ nước
chảy xiết, một thương binh không thuộc nhóm đứng một bên quan sát. Nhiều người
lao xuống, sang bờ bên kia. Người lính kia tự hỏi liệu ai có thể giúp anh? Sau
đó, một người đồng ý, không do dự. Người lính lên ngựa và cả hai vượt sông. Một
kỵ sĩ đến hỏi, “Tại sao anh chọn Thomas Jefferson?”. Người ấy sốc, thừa nhận
không biết tổng thống đã giúp anh. Anh nói, “Tất cả những gì tôi biết là trên
khuôn mặt của phần lớn các bạn viết ‘Không’; và trên khuôn mặt một số khác viết
‘Có’. Khuôn mặt của ông ấy viết ‘Có!”.
Anh Chị em,
Hơn cả
Jefferson, khuôn mặt Chúa Giêsu luôn tỏ ra ‘Có’. Ngài không chỉ giúp chúng ta
vượt sông nhưng còn xuống ngựa, chăm sóc vết thương và ẳm chúng ta lên cùng
Ngài. Trên hành trình chiến đấu ‘vượt sông’ chốn dương gian của mỗi người, cũng
như lúc mỗi người lìa xa cõi tạm này, Chúa Giêsu luôn tỏ ra ‘Có’; Ngài luôn đồng
hành với mỗi người. “Trong Ngài, chúng ta sống, cử động và hiện hữu!”. Chỉ ngần
ấy cũng đủ cho bạn và tôi sống trong niềm vui. Hãy đến với Ngài, múc lấy sức mạnh;
và từ Ngài ra đi!
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, trong
mọi đấng bậc, cho con biết, con được chính Chúa gọi - điểm ‘hội tụ’ cũng là điểm
‘xuất phát’ - nơi con ‘ra đi’ và nhất là nơi con ‘trở về’ mỗi ngày!”, Amen.
Thứ sáu: Mc 6, 14-29
GIẾT CHẾT LƯƠNG TÂM
“Nghe ông nói, nhà vua rất phân vân,
nhưng lại cứ thích nghe”.
Kính thưa Anh Chị
em,
Tin Mừng hôm nay
mời chúng ta xét xem phản ứng của hai con người vốn đã dẫn đến cái chết tức tưởi
của Gioan Tẩy Giả. Đó là vua Hêrôđê và bà Hêrôđia, những con người ‘giết chết
lương tâm!’.
“Nghe Gioan nói,
nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ thích nghe”. Điều đó cho thấy lương tâm của
Hêrôđê vẫn còn, đang lên tiếng và hoạt động. Tiếc thay! Nơi ông, tiếng nói kia
quá yếu ớt, quá nhỏ so với những âm thanh sôi động cuốn hút hơn của sắc dục, của
vũ trường, tiệc rượu và của thách thức danh dự. Thiên Chúa luôn tìm cách khơi gợi
trong chúng ta tiếng nói của Ngài qua những con người, các biến cố - đôi khi rất
trầm lắng đôi khi rất hãi hùng. Đó có thể là một cuốn sách hay, một bài suy niệm,
một kỷ niệm, một cảm giác phân vân, một gương sáng hay thậm chí, một tai nạn… Điều
quan trọng là chúng ta có đủ nhạy bén, cởi mở, lắng đọng để tiếp tục đón nhận,
đào sâu và nghiệm ra cho mình một thông điệp? Hoặc khác nào Hêrôđê, chúng ta vẫn
phớt lờ và ‘giết chết lương tâm’, để rồi, tất cả lạc trôi ơ hờ.
Khác với Hêrôđê,
trước những lời cảnh tỉnh ‘trần trụi’ của Gioan, bà Hêrôđia không hề hời hợt
nhưng phản ứng của bà là cảm thấy tức tối, căm thù. Không chỉ phớt lờ lương
tâm, bà đã giết chết nó từ trứng nước. Từ đó, mối bận tâm của bà là xoá sổ
Gioan. Mối bận tâm ấy đã trở nên nỗi ám ảnh cừu hận; và lòng dạ ám muội của bà
được tìm thấy trong câu trả lời lạnh lùng, quyết đoán và gọn lỏn cho con gái
mình, “Đầu của Gioan!”.
“Sự thật và sự
thiện” chỉ có đất sống trong lòng chúng ta nếu chúng ta biết yêu quý cũng như
biết nuôi dưỡng nó. Để chúng có thể lớn lên, hãy xét xem điều gì đang vướng bận
trong tâm hồn bạn và tôi! Điều vướng bận đã nằm ở đó bao lâu và liệu chúng ta
có đủ nghị lực để cầu nguyện, van xin, hầu ân sủng Chúa có thể giải gỡ nó cho
con tim mình được thanh thản? Trước một vướng bận, chúng ta đừng bao giờ dập tắt
lương tâm!
Nói về sự hư đốn
của con tim, Đức Phanxicô đã có một so sánh tuyệt vời giữa Đavít và Salomon.
“Đavít từng là một tội nhân được Chúa thứ tha và đã trở thành thánh nhân;
Salomon tuy khôn ngoan, vĩ đại nhưng Chúa lại chối từ. Điều khá lạ lùng và thú
vị ở đây là chúng ta không biết Salomon đã phạm những tội nào, vì xem ra
Salomon có một đời sống quân bình, chuẩn mực hơn; đang khi phụ vương Đavít lại
có một đời sống không tốt vì đã phạm tội rỡ ràng. Ấy thế, Đavít đã làm thánh,
được gọi là thánh vương; Salomon bị coi là người có tâm hồn xa lìa Thiên
Chúa!”.
Anh Chị em,
Lương tâm là mẹ
của linh hồn! Mỗi khi chiều xuống, đêm về, bạn và tôi hãy dừng lại ít phút cho
tâm hồn mình trầm lắng hầu có thể nghe được tiếng thì thầm tự cõi lòng. Và ngạc
nhiên thay, tiếng lương tâm cũng là tiếng nói của chính Chúa Thánh Thần, Đấng
hoạt động không ngưng nghỉ để biến đổi tâm hồn mỗi người, cũng là Đấng sẵn sàng
đổ đầy ân sủng cho những ai có lòng sám hối, đứng lên và đi tới!
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, ma quỷ
luôn đi những bước rất tiệm tiến, dẫn con vào mê hồn trận. Giúp con đủ thanh tịnh
hầu nghe được tiếng thì thầm của Thánh Thần; nhờ đó, con có thể nhảy xộc vào
lòng thương xót Chúa!”, Amen.
Thứ bảy: Mc 6, 30-34
CHỊU THIỆT
“Ngài chạnh lòng thương” và “bắt đầu dạy
dỗ họ nhiều điều”.
Đang đi nghỉ ở
Ireland, Henry Ford - nhà sản xuất xe hơi - được yêu cầu góp quỹ cho một trại mồ
côi. Ford ký một tấm check trị giá 2.000 bảng và thông tin đó đã xuất hiện trên
các mặt báo. Oái oăm thay, biên tập viên đã bất cẩn đăng nhầm 20.000 bảng! Giám
đốc trại mồ côi lo lắng điện thoại xin lỗi Ford, “Tôi sẽ gọi và yêu cầu sửa lại”.
“Không cần phải như vậy!” - Ford trả lời; và ông nhanh chóng viết thêm tấm
check 18.000 bảng.
Kính thưa Anh Chị
em,
Henry Ford đã
đón nhận sự bất tiện cách vui lòng. Cũng thế, trong Tin Mừng hôm nay, Chúa
Giêsu và các môn đệ ‘chịu thiệt’ - chọn lấy sự bất tiện - khi bị quấy rầy cả
khi Thầy trò đã lánh riêng ra một nơi sau những ngày phục vụ vất vả.
Thấy các môn đệ
mệt nhọc sau những ngày truyền giáo, Chúa Giêsu bảo, “Hãy lánh riêng ra, đến một
nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút!”. Ấy thế, khi thuyền của họ vừa cập bờ,
đã có một đám rất đông đợi ở đó. Không thể tin được! Chúa Giêsu chẳng bực nhọc;
thay vào đó, “Ngài chạnh lòng thương” và “bắt đầu dạy dỗ họ”. Ngài chấp nhận thay
đổi kế hoạch vì người khác - ‘chịu thiệt’ - và chọn lấy sự bất tiện vì người
khác!
Như Chúa Giêsu
và các môn đệ, ai trong chúng ta cũng cần nghỉ ngơi sau những ngày phục vụ.
Nhưng với Chúa Giêsu, Ngài sẵn sàng gác lại mọi dự tính để thoả mãn mong ước của
những con người đang tìm kiếm Ngài. Nơi Ngài, xem ra không có ‘vacation’ - kỳ
nghỉ; chỉ có ‘salvation’ - cứu độ! Cũng thế, với bất cứ bậc sống nào, bạn có
quyền và có thể nghĩ đến một kỳ nghỉ; nhưng đôi khi, bác ái buộc chúng ta chọn
lựa một cách khác. Hãy làm như Chúa Giêsu, chúng ta ‘chịu thiệt’ - chọn lấy sự
bất tiện - ‘chọn lựa gián đoạn’ ngay cả giữa kỳ nghỉ và giờ nghỉ.
Chìa khoá để có
một con tim như Chúa Giêsu chính là sự sẵn sàng cho đi thời gian, của cải và sức
lực. Khi điều này xảy ra, hãy biết, Chúa không bao giờ thua lòng quảng đại của
ai; Ngài sẽ ban những ơn mà bạn không bao giờ ngờ tới. Và tuyệt vời hơn, chính ở
những thời điểm ngặt nghèo ‘bất tiện’ này, Chúa lại thường cho bạn gặt hái những
hoa trái mà đôi lúc suốt nhiều tháng, nhiều năm, bạn vất vả mà luống công. “Anh
em chớ quên làm việc thiện, vì Chúa ưa thích những hy lễ như thế!” - bài đọc một.
Chúa bảo đảm phần phúc này, “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi!” -
Thánh Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Ngài bắt đầu dạy
dỗ họ nhiều điều”. Với chúng ta, được nghỉ ngơi - ‘vacation’ - bên Chúa Giêsu,
nên giống Ngài, con tim chúng ta đầy sự cứu rỗi - ‘salvation!’. Ngài nhắc nhở
chúng ta rằng, với Kitô hữu, việc nghỉ ngơi không mâu thuẫn với việc nghĩ đến
và phục vụ người khác. Chúng ta thường không thể giải thoát mình khỏi những
nghĩa vụ - con cái, vợ chồng, công việc - vì điều đó xem ra phản bội chính
mình! Thế nhưng, cần phải tìm thấy Chúa trong những thực tại này. Nếu có sự gắn
kết với Chúa, nếu lòng chúng ta nghỉ ngơi trong Ngài, chúng ta sẽ ‘tương đối
hoá’ những căng thẳng vô ích và điều này sẽ thể hiện tốt hơn ‘dấu ấn’ của Thiên
Chúa. Trong Ngài, chúng ta được nghỉ ngơi!
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cho
con luôn vui tươi, sẵn sàng ‘chịu thiệt’, ‘chọn lựa gián đoạn’ khi bác ái đòi hỏi.
Có như thế, con tim của con mới có thể xót thương như con tim của Chúa!”, Amen.