SUY NIỆM LỜI
CHÚA TUẦN XX TN, 2018
CHÚA NHẬT XX TN B
Thiên Chúa dựng
nên con người có hồn và xác. Phần xác muốn sống phải ăn cơm bánh hằng ngày;
phần hồn muốn sống phải rước lấy Mình Máu Thánh Chúa, của ăn thiêng liêng nuôi
sống linh hồn ta. Xin cho chúng ta biết quý trọng của ăn thiêng liêng do chính
Chúa tặng ban mà siêng năng kính viếng và dọn mình xứng đáng rước Chúa mỗi khi
tham dự thánh lễ.
Nhân gian thường
nói: “Ăn gì thì bổ cái đó”; đó là một thực tế của sự sống luân chuyển trong
thân xác con người và các tạo vật. Nếu ăn thịt nhiều thì áp xuất máu sẽ tăng
lên và tính tình cũng thường hay nóng nảy. Ngược lại nếu ăn rau, củ, quả nhiều,
thì cơ thể cảm thấy nhẹ nhàng, tính tình cũng điềm đạm hơn. Đó là kinh nghiệm
bình thường ở những cơ thể bình thường, ngoại trừ những cơ thể bất thường thì
có thể khác.
Căn cứ vào kinh
nghiệm đó, chúng ta có thể hiểu được lời Chúa Giêsu hôm nay phán dạy: "Ta
là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta
sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống... Ai ăn Thịt Ta và uống
máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy".
Đúng vậy, Chúa
Giêsu Kitô không phải chỉ có bản tính nhân loại, mà còn mang bản tính Thiên
Chúa trong Ngài. Nên thịt và máu Ngài ở trong trạng thái của sự sống đời đời.
Khi ăn thịt và uống máu Ngài, một kiểu nói khiến những người Do Thái đương thời
với Chúa Giêsu phải rùng mình sợ hãi và bỏ đi; còn những người không tin Chúa
Giêsu thời nay thì cho đầu óc của những người Công Giáo là điên rồ. Nhưng ngược
lại, Mình Máu Chúa Giêsu rất gần gũi và trở nên vô cùng quan trọng cho sự sống
tinh thần và thiêng liêng của mọi Kitô hữu. Người Công giáo chẳng những tin vào
Lời Chúa Giêsu phán về việc ăn thịt và uống máu Ngài, mà còn có kinh
nghiệm ăn thịt và uống máu ấy hằng ngày trong mỗi thánh lễ và đã cảm nghiệm
được sự trưởng thành trong đời sống tinh thần và đức tin của mình như thế nào.
Vì thế trên cả thế
giới, cứ vài giây đồng hồ lại có một Thánh lễ để cung cấp cho trên cả tỷ người
Công giáo một sự sống trường sinh là thịt và máu Chúa Giêsu. Bất cứ ai đến ăn
thịt và uống máu Ngài, đều cảm nhận sự bình an khôn tả, nhiều khi nhận được cả
sự chữa lành thể xác nữa.
Bí tích Thánh
Thể, lương thực thần lương mang sự sống đời đời. Xin cho chúng ta biết tin
tưởng và khao khát tìm đến đón nhận chính nguồn lương thực này, hầu đem lại cho
chúng ta nguồn bình an và sự sống đời đời.
Thứ hai: Mt 19, 16-22.
Có lẽ khát vọng
lớn nhất của con người là sự sống đời đời. Nhưng làm thế nào để có được sự sống
ấy? Lời Chúa hôm nay sẽ khai mở cho chúng ta biết cách để đạt đến khát vọng cao
quý ấy.
Sách Giáo
Lý Công Giáo thường được chia thành 4 phần: Tín lý, luân lý, bí tích và cầu
nguyện. Nhưng hình như đa phần người Công giáo chúng ta chỉ chú trọng đến phần
luân lý mà ít quan tâm đến phần tín lý nên có những sai lệch trong cái nhìn và
cách sống đạo.
Nền luân lý Công
giáo ngày nay nhấn mạnh đến Mục đích và Phương tiện trong cái nhìn đạo đức sinh
học. Theo cái nhìn này, thì một hành vi luân lý được chấp nhận khi thỏa mãn hai
diều kiện: phương tiện và mục đích đều đúng. Nếu một trong hai yếu tố ấy không
đúng thì hành vi đó bị xem là sai trái.
Ví dụ: Vì nhân
danh mục đích giúp đỡ người nghèo mà ta đi cướp bóc của cải người giàu để chia
cho người nghèo; hoặc
vì muốn giúp cho bệnh nhân thoát khỏi tình trạng đau đớn cùng cực về thể xác mà
ta tiêm cho họ một mũi thuốc an tử thì không đúng, vì ta đã xử dụng phương tiện
sai trái cho dù hướng đến mục đích là tốt đẹp. Lý do là vì sự sống bắt
nguồn từ Thiên Chúa nên quyền quyết định sinh tử đều nằm trong kế hoạch của
Thiên Chúa. Con người không có quyền can thiệp vào sự sống-chết trên mình hay
người khác.
Anh thanh niên
trong bài Tin mừng hôm nay mặc dù giàu có và giữ luật rất tốt. Nhưng xem ra anh
ta vẫn không an lòng, bởi vì luật lệ và của cải hình như không phải là phương
thế thật sự để đưa anh đạt đến vinh quang nước trời. Vì thế anh ta đã tìm đến
với Chúa Giêsu để hỏi xem: “phải làm việc lành gì để được sống đời đời?”. Thật
bất ngờ với lời đề nghị của Chúa Giêsu: "hãy bán hết của cải ngươi
có và bố thí cho người nghèo khó...rồi đến theo Ta". Như vậy yêu
thương và chia sẻ cho người nghèo mới chính là phương thế để được sự sống đời
đời. Do không muốn hy sinh chia sẻ cho người nghèo theo lời đề nghị của Chúa
Giêsu nên anh ta buồn và quay mặt bỏ đi trong thất vọng.
Tóm lại, phương
tiện để đạt đến mục đích sự sống đời đời không phải là tiền bạc, cũng không chỉ
là tuân giữ một số luật lệ chay cứng, vô hồn nhưng phải tích cực thi hành những
việc làm bác ái, chia sẻ cho tha nhân với niềm tin yêu và phó thác vào Chúa.
Yêu Chúa, thì phải
sống cậy trông phó thác vào Chúa chứ không phải là tiền bạc của cải. Nên Chúa
bảo: “ hãy bán tất cả …mà theo Ta”.
Yêu người, là phải
biết rộng lượng chia sẻ với anh chị em, đặc biệt những người nghèo khó “hãy
bán hết của cải mà bố thí cho người nghèo…”.
Lạy Chúa, cả
đời sống đạo là để được hạnh phúc nước trời, xin cho chúng con biết phụng sự
Chúa với tấm lòng yêu mến; và biết yêu thương tha nhân bằng những hành vi bác
ái, chia sẻ chân tình. Nhờ đó, chúng con mới có được hạnh phúc ở đời này và cả
đời sau . Amen
Thứ ba: Mt 19, 23-30
Tiếp nối bài tin
mừng hôm qua, sau khi người thanh niên giàu có từ chối bán tài sản của mình để
có được sự hoàn thiện, Chúa Giêsu kết luận rằng:“người giàu có khó vào được
Nước Trời”. Bên cạnh đó, Chúa Giêsu cho biết phần thưởng của việc từ bỏ mọi
sự vì danh Ngài, là được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
Khi nói tới hai
chữ “từ bỏ” tức là không còn hoặc mất đi một cái gì đó mà trước đây mình đã có
hay đã sở hữu. Tâm lý con người thường không chịu thua thiệt, luôn luôn đòi hỏi
sự cân xứng, hoặc là có qua có lại mới toại lòng nhau. Tông đồ Phêrô đã hỏi thay
cho chúng ta:“chúng con đã từ bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được
gì?”. Chắn chắn Chúa Giêsu không để cho những kẻ theo Ngài phải chịu thiệt
thòi. Trái lại, Ngài còn trả lại cho họ hơn thế “được gấp bội và được
sống đời đời”. Đây là một phần thưởng cao quý.
Ngày hôm nay, nếu
bỏ cha mẹ, anh chị em, hay con cái, hoặc nhà cửa, ruộng đất… mà theo Chúa, thì
xem ra không bình thường, thậm chí còn mất tính nhân bản, hay đi ngược lại với
nền giáo dục gia đình nữa. Nếu hiểu như thế là hiểu theo nghĩa đen. Thực ra,
theo Chúa không phải như thế, nhưng biết chọn Chúa làm ưu tiên số một, còn
những điều khác là thứ yếu, bởi lẽ những gì ở đời này chỉ là tạm bợ, chóng qua,
chỉ có Chúa mới là vĩnh cửu. Chúa Giêsu không muốn chúng ta quá bám víu vào vật
chất, tiền bạc như người thanh niên để rồi khước từ Chúa và nước trời làm ưu
tiên cho đời sống.
Lạy Chúa, xã
hội càng ngày càng văn minh, đầy đủ tiện nghi vật chất, vì thế mà cuộc sống con
người cũng được cải thiện và sung túc hơn. Nhưng chính vì thế mà con người ngày
nay dễ dàng quên và xa Chúa do không cưỡng lại sức hút của đồng tiền. Xin Chúa
đừng để chúng con sa vào ma lực của đồng tiền mà xa rời bước đường theo Chúa và
lý tưởng hạnh phúc nước trời.
Thứ tư: Lc 1, 26-38.
Lễ nhớ ĐỨC MARIA NỮ VƯƠNG
Mừng lễ Đức Maria
Nữ Vương hôm nay, GH mời gọi chúng ta hướng tâm hồn về Mẹ, vì Mẹ là một phần tử
ưu việt của GH, đã sống với Thiên Chúa cách trọn hảo, và đã luôn xin vâng theo
thánh ý Thiên Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời.
Thánh Bênađô đã
khẳng định rằng "nói về Mẹ thì không bao giờ đủ"; bởi vì các nhân đức
của Mẹ thật tuyệt vời. Một trong những nhân đức ấy, là sự khiêm nhường của Mẹ.
Thánh sử Luca cho biết, khi kết thúc biến cố truyền tin, Mẹ đã đáp lại "Tôi
đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Trong
bài ca Magnificat, Mẹ cũng nhìn nhận mình là ‘phận nữ tỳ hèn mọn’.
Nơi mái ấm gia đình Na-da-rét, Mẹ đã sống âm thầm lặng lẽ phục vụ thánh Giuse
và Hài Nhi Giêsu. Vâng, Nữ tỳ của Chúa là người thuộc nữ giới, hoàn toàn
lệ thuộc vào Chúa, chỉ biết thực hiện mọi ý của Chúa, chứ không làm theo ý
riêng. Vì thế, Mẹ đã để cho Chúa hướng dẫn cuộc đời của Mẹ, trong mọi hoàn cảnh
sống, Mẹ sẵn sàng phó thác tất cả cho sự quan phòng của Chúa.
Sống khiêm nhường
là một nhân đức, nhưng thật là khó để tập nhân đức này. Bởi vì, mỗi người trong
chúng ta vốn ‘mang gen’ kiêu ngạo, luôn tự cho mình là tài giỏi và trên hết.
Càng có chức có quyền thì cái tôi càng lớn, theo đó tính kiêu ngạo cũng càng
cao. Được làm ông này bà nọ thì coi mọi người chỉ là hạng thứ dân. Người có
chút tài năng thì sinh tính kiêu ngạo, mang cái ‘bệnh của sao’ và coi người
khác chẳng ra gì… thật vậy, ai cũng muốn sống khiêm nhường trước mặt mọi người
và Thiên Chúa, vì nó là một khát vọng chính đáng, nhưng nhiều khi ta không biết
cách thực hành như thế nào, vậy phải làm sao đây?
Thiết nghĩ, muốn
sống khiêm nhường thì cần phải diệt cái tôi của bản thân. Cha Vincente Lebbe
cho rằng, chúng ta cần phải chiến đấu với cái tôi hằng ngày, hằng giờ, hằng
phút, nên phải luôn đánh tôi, đánh ngã tôi, và đánh chết tôi. Nói như thế, cái
tôi trong mỗi người chúng ta thật là lớn, và rất khó để diệt nó. Chỉ khi nào
chúng ta làm chủ được cái tôi thì ta mới có thể sống khiêm nhường được. Một tâm
hồn khiêm nhường thì dễ lắng nghe tiếng Chúa và sẵn sàng đáp lại thánh ý Ngài,
và rồi ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Mừng lễ Đức Maria
Nữ Vương hôm nay, chúng ta cùng nhau xin Mẹ luôn chở che nâng đỡ mỗi người
chúng ta trên hành trình dương thế này. Xin cho mỗi người chúng ta cũng
biết thưa tiếng xin vâng như Mẹ trước thánh ý của Thiên Chúa, và để cho thánh ý
của Chúa được hoàn thiện nơi bản thân chúng ta.
Mẹ đã sống khiêm
nhường trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Noi gương Mẹ chúng ta hãy
sống khiêm tốn trở nên người tôi tớ trung tín của Chúa, và phục vụ tha nhân
cách chân thành. Cùng với Mẹ, ta hãy trở nên thành phần thánh thiện trong
Hội thánh.
Thứ tư: Mt 20,1-16.
Thiên Chúa là Đấng
công bằng, nhưng cũng đầy lòng yêu thương vô cùng. Đó là chân lý mà lời Chúa
hôm nay khẳng định với chúng ta qua dụ ngôn những người làm vườn nho.
1. Thiên Chúa
rất ư là công bằng.
Những người thợ
vườn nho đi làm từ sáng sớm, tỏ ra bất bình và khó chịu trước cách thức trả
lương của ông chủ. Họ cho rằng đã làm nhiều giờ, vất vã đổ mồ hôi nhiều thì chủ
phải trả tiền nhiều. Kẻ làm ít giờ, chịu nắng mưa và đổ mồ hôi ít thì tiền công
phải ít. Vậy mà tất cả đều được ông chủ trả như nhau, là một đồng. Làm như vậy
ông chủ có công bằng không?.
Tưởng như không
công bằng trước cách thức trả tiền công của chủ. Nhưng qua lời giải thích của
ông chủ, ta thấy việc trả công của ông quá ư là công bằng. Bởi lẽ ngay từ đầu
họ đã thoả thuận và chấp nhận với chủ ngày công là một đồng. Như thế ông chủ đã
trả cho họ đúng với những gì họ đã thỏa thuận và xứng với những gì họ đã làm.
Còn ông chủ có trả cho thợ làm vào giờ chót bằng số tiền của họ là
vì tình thương của ông chủ. Chẳng lẽ ông chủ không được làm điều ấy sao?
Thiên Chúa là Đấng
công bằng vô cùng. Do đó, Ngài sẽ ban thưởng hay luận phạt chúng ta theo công
việc tội phúc mà chúng ta đã làm. Dĩ nhiên chúng ta không nên đòi hỏi nơi Ngài
sự công thẳng "vì nếu chấp tội nào ai đứng vững".
2. Thiên Chúa
còn là Đấng giàu lòng thương xót.
Thiên Chúa của
chúng ta không chỉ công bằng mà Người còn giàu lòng yêu thương. Những người thợ
được ông chủ kêu gọi vào làm vườn nho ngay từ sáng sớm đã là một vinh dự và là
niềm an vui lớn lao rồi. Bởi lẽ họ không phải lo lắng và chờ đợi việc
làm. Kẻ được mời gọi vào những giờ chót trong ngày, họ phải sống trong tâm
trạng phập phòng lo lắng và phải lang thang suốt cả ngày đi tìm việc
làm. Cuối cùng tất cả đều được kêu gọi vào làm cùng một việc và trong cùng
vườn nho của chủ. Đó không chỉ là niềm vui lớn lao của người những thợ làm vườn
sau chót mà còn là vinh hạnh cao quý của người được gọi làm từ ban mai. Sở
dĩ ông chủ mời gọi tất cả vào làm vườn nho của ông, đó là vì Ngài giàu lòng yêu
thương, muốn tạo công ăn việc làm và cuộc sống cho mọi người. Hình ảnh ông
chủ ấy là Thiên Chúa và vườn nho là Giáo Hội của Người.
Chúng ta là những
người thợ vinh dự được Thiên Chúa mời gọi vào vườn nho Giáo hội. Có thể trong
chúng ta, có những người được mai mắn gia nhập vào vườn nho Chúa rất sớm, ngay
từ khi ban mai của cuộc đời; cũng có những người vì hoàn cảnh hay lý do nào đó,
họ chỉ được mời gọi vào vườn nho Giáo Hội trong thời điểm của ngày tàn. Nhưng
điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là chúng ta đã được Chúa yêu thương
mời gọi vào vườn nho Giáo Hội của Chúa, nên hãy ý thức cố gắng làm việc hết
mình và hết sức trước tình yêu mời gọi của Người.
Lạy chúa, xin
cho chúng con đừng tự hào về những công việc chúng ta đã làm, nhưng cho chúng
con biết tự hào vì chúng con có một người Cha giàu lòng xót thương. Người sẽ ban
thưởng cho chúng con hơn những gì chúng con đã làm.
Thứ năm: Mt 22,1-14.
Dụ ngôn tiệc cưới
cho hoàng tử mà Chúa Giêsu nói đến trong đoạn tin mừng hôm nay hơi lạ.
Lạ vì những người
được nhà vua ưu ái mời đến đều từ chối vì nhiều lý do: “Người thì đi thăm
trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và
giết đi”.
Lạ là sau khi
những người được mời khướt từ thì vua lại sai đầy tớ ra các ngả đường để mời
gọi tất cả mọi người không phân biệt tốt xấu vào tham dự tiệc cưới.
Lạ vì bất ngờ nhà
vua lại trừng phạt nặng nề đối với người không mặc y phục lễ cưới “Trói
tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến
răng!”. Chính vì những điều lạ như thế nên ta hiểu rằng đây không phải
là tiệc cưới bình thường mà là tiệc cưới nước trời.
Bàn tiệc nước trời
được mở ra và lời mời gọi của Chúa được gửi đến tất cả mọi người. Được tham dự
bữa tiệc nước trời là khao khát lớn nhất của con người. Tuy nhiên để xứng
đáng tham dự vào bữa tiệc ấy, cần phải hội đủ hai điều kiện:
- Biết trân quý
lời mời gọi của Chúa mà tích cực đáp lại.
- Phải “mặc y phục
lễ cưới”. Nghĩa là mặc lấy con người mới trong Chúa Kitô là sống công
chính và thánh thiện: “Anh em hãy mặc lấy con người mới, là con người
đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh
thiện” (Eph 4,24).
Xin cho chúng
ta biết tích cực đáp lại lời mời gọi của Chúa qua việc siêng năng đến tham dự
bàn tiệc Thánh Thể do Chính Chúa Giêsu thết đãi hằng ngày trên bàn thờ và luôn
sống công chính, thánh thiện trước thiên nhan Chúa hầu chuẩn bị tâm hồn xứng
hợp cho việc tham dự vào bữa tiệc viên mãn trong nước trời mai ngày.
Thứ sáu: Ga 1, 45-51.
Lễ kính THÁNH BARTHÔLÔMÊÔ TÔNG ĐỒ
Tin mừng hôm nay
tường thuật lại sự kiện ông Philipphê giới thiệu Đấng Messia cho ông Nathanaen,
cũng gọi là Barthôlômêô. Khi nghe nói về Đức Giêsu, ông Nathanaen không
tin và cho rằng Ngài chẳng có gì nổi bật, vì xuất thân từ làng quê Nadarét,
nhưng sau khi gặp Đức Giêsu ông đã thay đổi cách nghĩ. Tại sao niềm tin của ông
lại thay đổi như thế?
Thời Đức Giêsu,
dân Do Thái hiểu cách nói “vua Ít-ra-en” theo nghĩa: nhà vua sẽ thực hiện cuộc
cách mạng dân tộc, giải phóng Ít-ra-en khỏi ách nước ngoài, mà cụ thể là đế
quốc Rôma. Ở Ga 1, 49, ông Nathanaen cũng không hiểu xa. Ông Nathanaen nghĩ vua
Ít-ra-en phải trổi vượt, phải là một nhân vật nổi bật hay ít ra cũng phải sinh
ra trong một gia đình giàu có, quí phái trong một thành đô rộng lớn. Nên khi
Philipphê báo cho ông biết Đấng muôn dân mong chờ đã xuất hiện là người làng
Nadarét. Nathanaen đã không tin. Ông đã phản bác “Từ Nadarét có thể có
cái gì hay được”. Nhưng sau đó, ông lại nói “Thưa Thầy, chính
Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là vua Ít-ra-en”. Tuy ông tuyên
xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng ông lại hiểu tước hiệu này cách mập mờ,
hay nói đúng hơn, tước hiệu ấy ám chỉ đấng được Thiên Chúa xức dầu, nói lên sự
liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa, người được Thiên Chúa chọn. Có lẽ sau ngày
Phục Sinh, ông mới hiểu cách rõ ràng về tước hiệu này.
Như thánh
philipphê đã không ngần ngại giới thiệu Đức Giêsu cho người bạn của mình, thì
ngày nay, giữa một thế giới, xã hội đa tôn giáo, chúng ta có sẵn sàng giới
thiệu Chúa Giêsu cho những người xung quanh không? Chúng ta đã giới thiệu như
thế nào về Đức Giêsu: làm cho Ngài được nổi bật hay là đánh bóng bản thân
mình? Sau khi gặp Chúa Giêsu, thánh Barthôlômêô đã thay đổi cách suy nghĩ
và biến đổi cuộc đời: trở nên môn đệ và sẵn sàng làm chứng cho Chúa đến giây
phút cuối cùng. Còn chúng ta thì sao? Hằng ngày nghe Lời Chúa, chúng ta đã để
cho Lời Chúa tác động, và thực hành như ý Ngài muốn không? và ta đã thay đổi
đời sống như thế nào? Khi rước lấy Thánh Thể chúng ta đã biến đổi cuộc đời chưa
?
Lạy Chúa Giêsu,
niềm tin của con còn non yếu và chính bản thân con cũng chưa xác tín niềm tin
vào Chúa nên thường dễ xa ngã trước những cám dỗ. Xin thêm niềm tin cho con để
mỗi ngày con một hiểu biết Chúa hơn và yêu mến Chúa hơn. Xin Chúa biến đổi con
mỗi khi con gặp được Chúa; xin canh tân đời sống của con khi con lắng nghe Lời
Chúa.
Thứ sáu: Mt 22, 34-40.
Xã hội Do Thái
thời Chúa Giêsu ngổn ngang những luật lệ, khiến dân chúng không còn phân
biệt đâu là chính, đâu là phụ. Ngay cả những người Biệt phái còn cảm thấy rối
não huống chi là giới bình dân. Tận dụng cơ hội ấy để làm bẻ mặt Chúa Giêsu,
nhóm Biệt phái đã cử một người thông luật đến với Chúa Giêsu để hỏi thử xem
điều luật nào là quan trọng nhất? Với câu hỏi ấy, họ không nhằm tìm hiểu chân
lý cho bằng nhắm đến hai mục tiêu:
1. Thử xem trình
độ am hiểu về thánh kinh luật lệ của Chúa Giêsu ra sao? Để bắt bẻ và hạ nhục
nếu Người không giải thích thỏa đáng.
2. Nhân dịp này,
họ cũng biết được Chúa Giêsu đang đứng về phe nhóm nào? Bởi lẽ, thời bấy giờ có
khá nhiều phe nhóm, mỗi phe nhóm đề cao một số luật lệ.
Chúa Giêsu dư biết
dã tâm của họ. Nhưng vì muốn xác định lại tính chất tinh tuyền của lề luật nên
Chúa Giêsu đã trích dẫn lại hai câu Thánh kinh, một trong sách Đệ-nhị-luật và
một trong sách Lê-vi để trả lời cho họ: “Ngươi phải yêu mến Chúa là
Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”.(Đnl 6,
5). Đó là điều quan trọng thứ nhất. Điều luật thứ hai cũng quan trọng không
kém, đó là: “Ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình” (Lv
19, 18). Rồi Người kết luận: “Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều
tóm lại trong hai giới răn đó”. Như vậy là đã rõ, điều luật quan trọng
nhất mà TC ban cho nhân loại chính là tình yêu…
- Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn
và hết trí khôn nghĩa là tình yêu ta dành cho Chúa phải chân thành và luôn
trung thành, trước sau như một, không bao giờ thay lòng đổi dạ, không một cản
trở nào làm giảm bớt hay sức mẻ, dù có phải hy sinh vẫn chấp nhận. Tình
yêu ấy phải được hướng dẫn bởi những tài năng của linh hồn như: lý trí, ý chí
và nhất là tự do; chứ không phải là tình yêu mù quáng.
- Yêu
thương người khác như chính mình nghĩa là phải đối xử với người khác cùng một
“tình yêu” như ta đã xử với bản thân mình. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn mời gọi
chúng ta quy hướng đến tình yêu “như Chúa yêu”. Đó là một tình yêu phổ
quát dành cho hết mọi người. Đó là một tình yêu trao ban nhằm phục vụ nhu cầu
chính đáng cho tha nhân: “người mù được sáng, kẻ què đi được, người
điếc nghe được, người câm nói được...”. Và trên hết đó là một tình yêu
hy hiến, sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì tha nhân với mong muốn tha nhân
được hạnh phúc, vui sướng và "được sống dồi dào".
Lạy Chúa, yêu
Chúa thì còn dễ nhưng yêu người khác như chính mình quả là khó; mà yêu người
khác như Chúa yêu thật khó biết bao nếu không có ơn Chúa giúp. Xin Chúa ban ơn
giúp sức và đong đầy sức mạnh tình yêu của Chúa vào trong tâm hồn chúng
con, để mỗi người chúng con can đảm sống và ứng xử với nhau bằng chính tình yêu
như Chúa yêu chúng con. Amen.
Thứ bảy: Mt 23,1-12.
Tin mừng hôm
nay Chúa Giêsu lên án lối sống giả hình của các Kinh sư và Biệt phái. Qua đó
Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm sống thành thật trước Chúa, mọi người và
lương tâm của mình.
Tin mừng luôn cho
biết: Chúa Giêsu rất yêu thương, cảm thông và sẵn sàng tha thứ cho những tội
nhân biết khiêm tốn ăn năn sám hối. Nhưng Chúa Giêsu cũng rất cứng rắn lên án
mạnh mẽ lối sống giả hình và kiêu căng của những kinh sư và biệt phái.
- Giả hình vì họ
không dám sống thật với lòng mình. Họ nói mà không làm, hay nói một đàng làm
một nẻo. Cuộc sống họ không thống nhất giữa cái “là” và cái “làm”, nên Chúa
Giêsu cảnh tỉnh mọi người“những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm
và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ; vì họ nói mà không làm”.
- Kiêu căng của họ
được bộc lộ ra bởi nhiều hình thức khác nhau:
. Để chứng tỏ cho
mọi người thấy họ là những người có học thức và am tường lề luật nên họ đã tùy
tiện giải thích và đặt ra nhiều luật lệ theo ý riêng của mình, vô tình luật trở
thành gánh nặng cho dân chúng.
. Để chứng tỏ cho
mọi người thấy họ là những người đạo đức nên họ không ngần ngại bao bọc chung
quanh cuộc sống của họ bằng nhiều hình thức đạo đức bên ngoài: “nới
rộng thẻ kinh, may dài tua áo”.
. Với mong muốn
được mọi người trọng vọng, họ tự đặt mình vào vị trí cao nhất trong đám tiệc,
cũng như ngồi vào ghế đầu trong hội đường. Nhất là rất thích thú khi được người
ta bái chào ngoài đường phố và hãnh diện khi được thiên hạ gọi là
thầy. Chính vì thế mà Chúa Giêsu không ngần ngại nhắc nhở họ hãy trở về
đúng vị trí của mình và hãy ý thức sống khiêm tốn trước mặt Chúa. Bởi vì chỉ
mình TC mới xứng danh là Thầy và là Cha mọi người.
Chúa Giêsu đã
phán: “ ai nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nhấc
lên”. Xin Chúa cho chúng ta biết tự hạ, sống khiêm như Giêsu từ ái.
Lòng đơn sơ, chân thành cởi mở, đời hồn nhiên theo gương mẹ Maria sáng trong,
nhờ đó ta mới xứng đáng được Chúa yêu thương chúc lành; cũng như được mọi người
yêu mến.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét