SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN II
MÙA CHAY
Lm Vĩnh Hòa
CHÚA NHẬT II MÙA
CHAY C
St 15, 5-12.17-18; Pl 3,17-4,1; Lc 9, 28b-36
Suy niệm 1:
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cùng lên núi với Chúa Giêsu, để biến đổi
đời sống nhờ biết lắng nghe lời dạy của Chúa Giêsu, Con chí ái của Chúa Cha mà
trở nên hoàn thiện hơn như lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Các con hãy nên hoàn
thiện, như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5, 48).
Nếu Chúa nhật thứ I MC, Tin mừng mời gọi chúng ta hiệp
hành cùng theo
Chúa Giêsu đi vào sa mạc
dưới sự tác động của CTT để chay tịnh và cầu nguyện, nhằm múc lấy sức mạnh ơn
thiêng của Chúa mà chiến đấu và chiến thắng những mưu chước cám dỗ của ma quỷ; thì Chúa nhật II MC hôm
nay, lời Chúa mời gọi chúng ta tiếp tục dấn bước theo Chúa Giêsu tiến lên núi
cao để biến đổi đời sống, hầu trở nên người con yêu dấu của Chúa Cha.
Ơn gọi của người Kitô hữu chính là trở nên người con trong Người Con yêu
dấu của Chúa Cha trong Đức Giêsu. Nhưng làm thế nào để ta trở nên người con yêu
dấu của Chúa Cha trong Đức Giêsu? Tin mừng hôm nay chỉ ra cho chúng ta một vài
gợi ý sau đây:
- Chấp nhận đi vào con đường thập giá.
Nếu trước đó, khi loan báo về cuộc thương khó mà Chúa Giêsu sắp trãi qua,
các môn đệ, nhất là Phêrô đã không chấp nhận và quyết liệt can ngăn đi vào con
đường hẹp ấy; thì với cuộc biến hình này, Chúa Giêsu như muốn giúp các ông hiểu
rằng: vinh quang chỉ đến sau khi chấp nhận đi vào con đường thập giá.
- Tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Tin mừng cho biết trong khi cầu nguyện trên núi cao, thì hình dạng Đức
Giêsu bổng biến đổi lạ thường: “Dung nhan Người chói lọi như mặt
trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”. Và rồi
ngay lúc ấy, Chúa Cha cũng đã xác nhận Đức Giêsu chính là Con yêu dấu của
Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt
3,16-17).
- Vâng nghe lời Chúa Giêsu chỉ dạy.
Với sự hiện diện của Môsê (đại diện cho luật cựu ước) và Êlia (đại diện cho
ngôn sứ cựu ước) trong biến cố biến hình trên núi cao muốn xác định cho ta
biết: Đức Giêsu là Môsê mới và Êlia mới. Nơi Ngài gom tóm toàn thể lề luật và
lời các ngôn sứ được nói trong cựu ước. Từ nay nay lề luật và lời ngôn sứ được
kiện toàn nơi Chúa Giêsu. Bởi thế khi rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu đã xác
quyết: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các
ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.” (Mt
5,17). Vì thế mà Chúa Cha kêu gọi tất cả chúng ta từ nay hãy “vâng nghe
lời Người”.
* Tóm lại, để trở nên người con yêu dấu của Chúa Cha trong Đức Giêsu, đòi
buộc chúng ta phải thực hiện hai việc sau đây:
1. Chấp nhận từ bỏ tất cả để tiến bước trên hành trình đức tin theo Đức Giêsu,
với niềm tín thác tuyệt đối vào thánh ý Thiên Chúa như tổ phụ Abraham khi xưa.
(x. bài đọc 1).
2. Phải luôn chú tâm lắng nghe và thực hành lời Chúa Giêsu chỉ dạy. Hãy để cho lời Chúa thấm nhập vào mọi suy nghĩ, lời nói và việc làm của chúng ta trong mọi sinh hoạt đời thường theo gương thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Được như thế thì Thiên Chúa sẽ dùng quyền năng của Ngài mà chế ngự tất cả những yếu hèn trong ta và sẽ biến đổi chúng ta trở nên vinh sáng như Ngài (x. bài đọc 2). Nhờ thế, chúng ta mới xứng danh là “con yêu dấu của Chúa Cha”. Amen.
Suy niệm 2:
Tin mừng hôm nay thuật lại cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi cao nhằm
củng cố niềm tin cho các môn đệ và mạc khải Thiên Tính của Người. Xin cho chúng
ta luôn tin tưởng vào Chúa Giêsu mà sẵn sàng đón nhận những thập giá xảy đến
trong đời sống.
Biến cố
biến hình trên núi Tabor xảy ra sau khi Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ biết
về con đường thập giá mà Ngài phải trãi qua. Nhưng trước đó, Phêrô đã không
chấp nhận con đường ấy, nên đã can ngăn cản quyết liệt khi Chúa Giêsu loan báo
về cuộc khổ nạn và cái chết của Người. Vì vậy mà ông đã bị Chúa Giêsu khiển
trách rất nặng lời: “Satan, hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc
loài người.” (Mc 8,
33). Đặt sự kiện biến hình trong bố cảnh
ấy, ta mới hiểu được biến cố hiển dung của Chúa Giêsu hôm nay là nhắm đến 2 mục
đích:
- Củng cố đức tin cho các môn
đệ:
Qua lời
tuyên bố của Chúa Cha từ trên cao: “Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Chúa Cha như muốn các môn đệ xác tín niềm tin vững vàng hơn vào Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa.
- Giúp các môn đệ can đảm chấp nhận con đường thập giá:
Con
đường thập giá là đường đau khổ, chẳng ai muốn đi. Sự kiện biến hình rực rỡ
trên đỉnh đồi Tabor chính là liều thuốc đắng bọc đường, gíúp các môn đệ dễ dàng
nuốt lấy vị đắng của hy sinh thập giá mà Chúa Giêsu sắp bước vào; cũng như đủ
sức vượt qua những khó khăn, gian khổ ngay cả hy sinh mạng sống khi thi hành sứ
vụ loan báo Tin mừng nước trời sau này.
Chỉ có
đức tin mới đem lại cho ta niềm hy vọng để dấn bước theo Chúa trên con đường thập
giá. Đức tin chính là sức mạnh giúp ta can đảm đón nhận những nghịch cảnh trong
cuộc đời. Nhờ đức tin mà chúng ta dễ dàng vâng theo thánh ý Chúa, ngay khi mạng
sống của ta bị đe dọa. Bởi ta tin rằng phía sau thập giá sẽ vinh quang phục
sinh.
Xin Chúa thương củng cố đức tin cho chúng ta, để chúng ta luôn trung kiên bước đi theo Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống theo gương các thánh tử đạo Việt Nam. Nhất là trong mùa chay thánh này biết hy sinh thời giờ, sức khỏe, đam mê xấu, tiền của... để tích cực phụng thờ Chúa và hy sinh phục vụ mọi người trong tinh thần bác ái yêu thương.
Suy niệm 3: LỄ THIẾU NHI
Các con Thiếu nhi thân mến, tin mừng hôm nay trình thuật lại biến cố Chúa
Giêsu biến hình trên núi cao. Với biến cố trọng đại này, lời Chúa muốn nói với
chúng ta nhiều điều. Nhưng để dễ nhớ cha chỉ đề cập đến hai điều căn bản sau
đây:
- Thứ nhất: Chúa muốn nhắc nhở mỗi người chúng ta cần phải biến đổi đời sống mỗi
ngày.
Từ khi nhập thể làm người cho đến nay, các môn đệ thấy Đức Giêsu chỉ là một
người như bao người. Ngài cũng ăn uống, ngủ nghỉ và có những sinh hoạt bình
thường như bao người khác. Nhưng qua cuộc biến hình, các Tông đồ lại thấy dung
nhan của một vị Thiên Chúa nơi Đức Giêsu được tỏ hiện. Như vậy Ngài không chỉ
là con người bình thường nhưng Ngài còn là Thiên Chúa.
Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên người kitô hữu, và được gọi
là con Thiên Chúa.
Kitô hữu tức là có Chúa trong mình. Chúng ta có Chúa trong mình, chúng ta
trở nên con cái Thiên Chúa nên phải sống như Chúa đã sống. Để qua cuộc sống của
chúng ta, mọi người sẽ nhìn thấy Chúa trong ta. Chúng ta phải nói được như
Thánh Phaolô rằng: “Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là Đức Kitô
sống trong tôi.” (Gl 2, 20). Nếu như có lúc nào đó mà tính kitô hữu
trong chúng ta bị biến dạng, thi hãy mạnh dạn biến đổi đời sống mình bằng sự
sám hối và lãnh nhận bí tích Giao hòa để với ơn Chúa chúng ta tiếp tục trở
thành người kitô hữu đích thực.
- Thứ hai: Qua biến cố biến hình, Chúa còn dạy chúng ta
phải biết vâng lời.
Vâng lời được xem là một trong những đức tính nhân bản cao quý của con
người. Đến nỗi nếu thiếu đức tính này, chúng ta không xứng danh là một con
người
Là phận con cháu, em út chúng ta được dạy phải vâng lời ông bà, cha mẹ, anh
chị.
Là người học trò chúng ta được giáo dục nghe lời thầy cô.
Trong đời sống đức tin, chúng ta được dạy phải vâng lời Thiên Chúa và những
người thay mặt Ngài.
Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Cha đã dạy chúng ta phải vâng nghe lời Đức
Giêsu rằng: “Này là con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe Lời Người.” (Mc
14,9). Lời của Đức Giêsu được thể trong toàn bộ cuốn Tin mừng. Vì thế, thực
hành theo Tin mừng là chúng ta vâng nghe lời Đức Giêsu. Và đó cũng là cách
chúng ta thể hiện lòng yên mến Đức Giêsu. Vì, chính Đức Giêsu đã dạy: “Ai
yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy…” (x. Ga 14,21).
Lời của Đức Giêsu được thể hiện qua Giáo huấn chính thức của Hội Thánh, qua
Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục.
Lời của Đức Giêsu được thể hiện qua những lời dạy bảo chính thức của các vị
bề trên, qua ông bà, cha mẹ, anh chị, thầy cô…Vậy chúng ta hãy biết vâng nghe
Lời Chúa qua những lời khuyên dạy của quý bề trên. Được như vậy chúng ta mới
trở nên con người dễ thương dễ mến.
Bài đọc I cho chúng ta tấm gương vâng lời của tổ phụ Abraham. Cho
dẫu đang sống giàu sang và sung túc ở thành Ur của dân Calđê nhưng Thiên Chúa lại
gọi ông bỏ lại tất cả để đi đến một vùng đất vô định, vậy mà ông lại sẵn sàng
vâng phục thánh ý Chúa. Cho dù phía trước còn mịt mù và tương lai không có gì bảo
đảm. Nhưng ông luôn tin tưởng tuyệt
đối vào Thiên Chúa và sẵn
sàng vâng theo
lời Người.
Kết quả cho thấy: tất cả những gì TC hứa với ông Người đã thực hiện và
Abraham xứng đáng trở thành cha của những kẻ tin. Ước mong rằng, mỗi chúng ta cũng cần có tinh thần vâng phục TC như tổ phụ
Abraham theo như sứ điệp lời Chúa hôm nay nhắc bảo.
Xin cho chúng ta biết ngoan ngoãn vâng nghe lời dạy của Chúa Giêsu, của GH, của ông bà cha mẹ và thầy cô…nhờ đó mà đời sống của ta được biến đổi mỗi ngày nên tốt đẹp hơn xứng danh là con của Chúa. Amen.
Thứ hai: Lc 6, 36-38
Trong cuộc sống, có lẽ không ai trong chúng ta muốn bị người khác dòm ngó,
bới móc mình. Vậy chúng ta cũng đừng làm cho người khác điều gì mà chính chúng
ta cũng không ưa thích.
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy trở nên con cái đích thực
của Chúa bằng cách thể hiện lòng nhân từ với tha nhân theo mẫu gương của Chúa:
“Biết tha thứ và cho đi” hay ít nhất đừng tước lấy quyền của Chúa mà xét đóan
và kết án anh em mình.
Truyện kể:
Ông bà già nọ rất yêu quý cháu nội đích tôn của mình. Một hôm hai ông bà
ngồi bên nhau xem cháu nội ngủ. Vì lẽ thương cháu quá, bà nội lên tiếng bảo:
- Ông thấy không, hai con mắt nó khi ngủ giống tôi như đúc vậy!
- Ông nội gật gù nói: À… thì giống, nhưng chỉ khi nó ngủ thôi, còn khi nó
thức cặp mắt nó có khác gì tôi đâu.
- Ngắm xem cháu được một lúc, ông lại lên tiếng: Bà xem, khi nó ngủ cái
miệng nó giống in hệt tôi vậy đó!
- À thì lúc ngủ, còn khi nó thức, ông trông cái miệng nó và miệng tôi có
khác gì nào! Bà trả lời.
- Ông nội gật đầu bảo: Vậy tôi biết lý do tại sao nó lại nói chuyện và ăn
hàng nhiều rồi…(vì cái miệng giống bà).
Mong ước lớn lao của ông bà cha mẹ là làm sao con cái trở nên giống mình,
ít nhất là ở hình thể bên ngoài. Nó sẽ còn tốt hơn nếu con cái giống mình về cả
tâm tính. “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”.
Thiên Chúa là người Cha giàu lòng yêu thương, cũng muốn chúng ta là những
người con trở nên giống Người.
Niềm vui và hãnh diện của cha mẹ là con cái giống mình. Cũng thế Thiên Chúa
Người Cha của mọi người Cha sẽ vui mừng và hãnh diện biết mấy nếu chúng ta nên
giống Chúa.
Thiên Chúa là Đấng Nhân Từ, vì thế Người cũng mong chúng ta phải có lòng
nhân từ như Người.
Để thể hiện lòng nhân từ, một mặt Chúa dạy chúng ta “đừng xét đoán” và
“đừng kết án” ai cả. Mặt khác cách tích cực “hãy tha thứ” và “hãy cho đi”.
Nhưng hình như do hậu quả của tội nguyên tổ và ảnh hưởng của bầu khí hận
thù chống đối của Satan xưa, nên chúng ta thường làm ngược lại điều Thiên Chúa
mong muốn.
Chính chất độc tội nguyên tổ đã tiêm vào người ta và bầu khí ô nhiễm chống
đối của Satan thấm nhập hồn ta nên hình dáng chúng ta đã bị biến dạng, tâm tính
chúng ta bị biến chất, không còn là hình ảnh tốt đẹp của Chúa nữa; cung cách
đối xử với nhau không còn dựa trên tình yêu, lòng nhân từ của Chúa nữa.
Chúng ta thường thích xét đoán người khác hơn xét đoán chính mình. Chúng ta
thường thích lên án người khác hơn lên án chính mình. Trong khi Thiên Chúa là
Đấng toàn thiện, chí thánh, uy quyền nhưng Chúa không hề xét đoán hay lên án mà
một mực tìm cách cứu vớt và luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ có tội ăn năn sám hối để
Người tha thứ.
Thiên Chúa là Tình Yêu và là Đấng nhân từ giàu lòng thương xót. Chúa muốn
chúng ta hãy trở nên giống Người bởi chính Người là Cha chúng ta.
Niềm vui và hảnh diện của Cha là nhìn thấy con cái cố gắng để trở nên giống
mình. Và bình an và hạnh phúc của con cái chỉ có được khi biết vâng lời Cha và
noi theo nếp sống tốt đẹp của Cha mẹ mình.
Xin Chúa cho chúng con, những người con Chúa ngày càng giống Chúa nhân từ
quảng đại. Không bao giờ xét đoán, phê bình chỉ trích, nói hành nói xấu, cáo
gian ai. Trái lại luôn có cái nhìn ngay thẳng và trong sáng. Luôn biết
nghĩ tốt, nói tốt, làm tốt cho mọi người. Biết cho đi không cần toan tính. Nhất
là biết sẵn sàng thứ tha cho nhau như Chúa hằng tha thứ cho chúng con. Amen.
Suy niệm 2:
Nhân gian thương nói: “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Cha mẹ rất vui khi con cái giống mình và con cái cũng cảm thấy hạnh phúc khi biết mình giống cha mẹ. Giống về hình thể và tâm tính sẽ là vinh dự biết mấy! Cũng vậy TC là Cha của chúng ta. Người cũng sẽ rất vui khi thấy ta giống Người về lòng nhân từ hay tha thứ.
Điểm nhấn của đoạn tin mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về mối tương quan giữa con người với nhau. Mối tương quan này chính là tiêu chí và là nền tảng để Chúa đánh giá về mối tương quan giữa chúng ta với Chúa. Nếu chúng ta sống nhân từ hay tha thứ cho anh em mình thì Chúa sẽ bao dung tha thứ cho ta. Nếu chúng ta dám quảng đại cho đi thì Chúa sẽ bù đắp lại cho ta dư đầy. Còn ngược lại, nếu ta xét đoán người khác thì chính Chúa cũng sẽ xét đoán chúng ta; chúng ta không tha thứ cho người khác Chúa cũng không tha cho ta và nếu ích kỉ không dám hy sinh cho đi thì Chúa cũng bù đắp cho chúng ta.
Xét đoán chủ quan, sống ích kỉ, thiếu lòng bao dung dấu chứng cho thấy con tim bị lỗi nhịp và cái nhìn bị lệch chuẩn. Vì thế rất cần thanh luyện lại con tim và chỉnh sửa lại đôi mắt qua việc cảm nhận tình yêu của Chúa dành cho ta và dùng ánh sáng lời Chúa mà soi rọi lại đời sống của ta. Nhờ đó ta mới nhận ra lòng nhân từ của TC dành cho ta mà thay đổi đời sống sao cho nên giống Chúa.
Thứ ba: Mt 23, 1-12
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu lên án mạnh mẽ lối sống giả hình của các kinh
sư và những người Pharisêu. Đồng thời Chúa cũng kêu mời chúng ta hãy sống theo
những gì họ dạy. Nhưng tránh làm theo những gì họ làm. Bởi họ dạy một đàng, lại
làm một ngã. Nói thì đúng, làm thì sai. Dạy sống đạo đức, nhưng lại sống bất
nhân.
Xin cho chúng ta biết can đảm sống và làm chứng cho sự thật với lòng thành
giữa một xã hội còn nhiều gian dối và lọc lừa.
Chuyện vui:
Để phân biệt được đâu là người Việt, đâu là người Trung Quốc, đâu là người
Nhật và đâu là người Mỹ, người ta dựa vào hai yếu tố: “Nói” và “Làm”
Người Mỹ: nói gì thì làm đấy.
Người Nhật: nói rồi mới làm.
Người Trung Quốc: làm trước nói sau.
Còn người Việt Nam: nói một đàng làm một nẻo.
Tin mừng hôm nay cho thấy một mặt Chúa Giêsu lên án lối sống giả hình của
các Kinh sư và Pharisêu, mặt khác Chúa cũng muốn chỉ cho các môn đệ và chúng ta
hiểu được đâu mới là giá trị đích thật của lòng đạo đức.
- Người có lòng đạo đức trước hết cần phải thống nhất đời sống.
Thống nhất đời sống nghĩa là làm sao hiệp nhất giữa cái “là” và cái “làm”;
giữ "tâm tình", “lời nói” và "việc làm” phải xuyên suốt với
nhau.
Những Kinh sư và Pharisêu giảng dạy rất hay, nhưng họ không hề làm và sống
theo những gì họ nói. “Nói một đàng làm một nẻo”; “ngôn hành bất
nhất”. Nên Chúa Giêsu đã không ngần ngại lên tiếng cảnh báo dân
chúng: “Những gì họ nói với các ngươi, hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng
noi theo hành vi của họ.” Hình như họ thích “buộc những bó
nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay
thử.”
ĐGH Phaolô VI cũng đã có lần cảnh tỉnh GH cũng như tất cả chúng ta:
"Con người ngày nay họ cần chứng nhân hơn thầy dạy, và nếu họ tin vào
lời thầy dạy thì chính thầy dạy đó là chứng nhân.” (Tông huấn Evangelii
Nuntiandi, s 41).
- Người có lòng đạo đức thật sự thì luôn biết sống khiêm tốn.
Những Kinh sư và Pharisêu lúc nào cũng tự hào cho mình là người đạo đức hơn
người. Nên không lấy gì làm ngạc nhiên khi thấy họ thích “nới rộng thẻ
kinh, may dài tua áo”; cũng như ham “muốn được chỗ nhất trong
đám tiệc và ghế đầu trong hội đường” và “được bái chào nơi đường
phố và được người ta xưng hô là “thầy”.
Tất cả những biểu hiện đó đã bộc lộ rất rõ nét thái độ kiêu căng, tự mãn,
hám danh nơi giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái thời bấy giờ. Nên họ không xứng hợp
với những giá trị và tiêu chuẩn đúng đắn nơi một con người đạo đức chân chính.
Xin Chúa giúp chúng ta biết can đảm loại trừ lối sống phô trương, kiêu căng, giả hình ra khỏi đời sống, mà yêu thích lối sống đơn sơ, chân thành và hiền hòa với mọi người. Nhất là biết noi gương Chúa Giêsu yêu thương phục vụ mọi người, đặc biệt là những người nghèo, bằng một tấm lòng trân quý, khiêm hạ với mong muốn làm đẹp lòng Chúa và trở nên bạn nghĩa thiết với hết mọi người. Amen.
Suy niệm 2:
Tin
mừng hôm nay, Chúa Giêsu lên án mạnh mẽ lối sống giả hình của những kinh sư và
biệt phái. Bởi lẽ đời sống họ bất nhất, nói mà không làm; hay nói một đàng làm
một nẻo.
Trong
suốt 3 năm rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu chỉ nói lời yêu thương, khuyến khích
nâng đỡ những ai lầm đường lạc lối và sẵn sàng nói lời tha thứ cho những tội
nhân biết ăn năn sám hối và đặt niềm tin vào Chúa. Ít khi nào thấy Người lên án, khiển
trách nặng lời với ai, ngoại trừ những người cứng lòng tin, trong đó đặc biệt là giới lãnh
đạo tôn giáo Do Thái thời bấy giờ là nhóm kinh sư và biệt phái.
Qua những lời khiển trách nặng lời của Chúa Giêsu dành cho họ, cho thấy tính chất nguy hiểm của lối sống giả hình ảnh hưởng tiêu cực đến cá nhân và cộng đồng xã hội to lớn như thế nào!
Kinh
sư và pharisêu là những người am hiểu luật lệ và là những nhà lãnh đạo tinh thần. Là thành phần dành riêng để phụng thờ và tôn vinh Thiên Chúa và hướng dẫn đời sống đạo cho dân. Nhưng
vì muốn người khác tôn vinh và nể phục mình, nên họ sẵn sàng chọn lối sống giả hình. Họ thích nói và biểu hiện việc đạo đức ra bên ngoài chỉ vì lòng họ đầy kiêu căng tự mãn. Tất cả những việc làm của họ chỉ nhằm đến là được người đời ca tụng. Nên họ: “thích được người khác chào hỏi
dọc đàng, thích ngồi những hàng ghế đầu trong đám tiệc cũng như nơi đền thờ;
may dài thêm tua áo…và thích người khác gọi là thầy!” Tất cả những biểu hiện đó thể biểu hiện của lối sống tự mãn và muốn mọi thứ về phải được quy về mình, thay
vì Chúa. Muốn mình được tôn vinh thay cho Chúa. Nhận thấy lối sống giả tạo
quá tinh vi của những kinh sư và biệt phái nên Chúa Giêsu đã không
ngần ngại khiển trách nặng lời nhất để lên án lối sống bip bợm của
họ.
Nói người nghĩ ta! không khéo đời sống của ta cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Lắm khi chúng ta chỉ thích nói những lời hay ý đẹp, nhưng ta lại không sống theo. Có khi chúng ta chỉ thích giữ đạo hình thức với những tổ chức hoành tráng bên ngoài, nhưng lòng thì trống rỗng. Có khi chúng ta chỉ muốn ghi danh vào sổ công giáo, nhưng ta lại không sống niềm tin của mình. Lắm khi ta cũng siêng năng đến nhà thờ tham dự thánh lễ, nhưng là để cho an lòng, chứ ta không thích vào nhà thờ, không muốn thánh lễ kéo dài, không thích lắng nghe lời Chúa và dọn mình để đón nhận Chúa Giêsu nơi bí tích thánh thể. Ta chỉ muốn đặt Chúa trong nhà thờ, chứ không muốn Chúa hiệp hành cùng ta trong đời sống.
Xin cho mùa chay này, mỗi người trong chúng ta biết hồi tâm chuyển hướng nhằm chấn chỉnh lại đời sống sao cho giữa tư tưởng, lời nói và hành động luôn được thống nhất với nhau như lòng Chúa hằng mong muốn.
Thứ tư: Mt 20, 17-28
Tham vọng thế gian: làm lớn, đứng đầu là để được ăn trên ngồi trước, để hà
hiếp, bốc lột người khác.
Tham vọng nước trời: làm lớn là động lực trao dồi khả năng nhằm để phục vụ
mọi người. Làm lớn không phải để ngồi trên cao chỉ tay năm ngón, nhưng là cơ
hội phục vụ nhiều người tốt hơn.
Khi còn ở đại chủng viện, cha tu đức hay hỏi các thầy: tiêu chí đi tu để
làm gì?
Dĩ nhiên các thầy thánh thiện thì trả lời: để có điều kiện tốt hơn để phục
vụ Chúa, phục vụ mọi người. Ít thầy nào dám trả lời: đi tu để “làm cha”. Dẫu
rằng lòng luôn ước muốn đi tu là để “làm cha”. Bởi lẽ không làm linh mục, thì
vào đại chủng viện làm gì?
Ước muốn làm linh mục của các thầy chủng viện là ước muốn chính đáng. Nhưng
cần xem lại quan niệm làm “cha đời” và “cha đạo” như thế nào?
Theo Pastores Dabo Vobis, thì linh mục phải là hiện thân của Đức Kitô trong
tư cách: là Đầu và Tôi Tớ, là Mục tử và hôn phu của Hội Thánh. Làm linh mục không
vì mục tiêu danh vọng, thống trị, nhưng để phục vụ với con tim hiền hậu và
khiêm tốn.
Các tông đồ khi theo Chúa có lẽ cũng luôn muốn mình được chỗ tốt nhất, được
vinh dự, được làm lớn, làm thủ lãnh để sai bảo người khác nên đã nhiều lần thố
lộ ước muốn ấy bằng những cách thế khác nhau:
Bằng cách trực tiếp đến xin Chúa cho một anh ngồi bên hữu, một anh ngồi bên
tả, như hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an con ông Dê-bê-đê.
Khi đi ngày không được thì đi đêm, thấy đi đường thẳng không an toàn thì đi
đường vòng. Khi ngại miệng xin xỏ thì nhờ người thân như trường hợp mà tin mừng
hôm nay thuật lại. Bà mẹ của hai ông Gia-cô-bê và Gio-an đến thỉnh cầu Chúa
Giêsu cho hai đứa con yêu của bà được một cậu bên tả và một cậu bên hữu khi
Chúa được vinh quang.
Các tông đồ khác tuy ngại không dám bộc bạch ước muốn đứng đầu nhưng cũng
đã tỏ ra khó chịu và bực mình với Gia-cô-bê và Gio-an vì lòng ghen tỵ, không
muốn cho hai anh em kia phần hơn.
Tập thể nào, tổ chức nào cũng cần có người đứng đầu để điều khiển các sinh
hoạt; không thể có cảnh “cá đối bằng đầu” được.
Giáo hội cũng thế, cần có người đứng đầu, lãnh đạo. Nhưng điều quan trọng
Chúa muốn là đừng dùng địa vị của mình để cai trị áp bức người khác, hay tự cao
tự đại nhưng để phục vụ. Không phải dùng quyền để bảo vệ cá nhân mình nhưng xử
dụng quyền để bảo vệ quyền lợi cho tất cả mọi người.
Lòng kiêu ngạo tranh đấu để làm đầu mọi người vốn là điều không tốt, nhưng
lòng ganh tỵ thì cũng chẳng hay ho gì. Hai tật xấu này thường làm cản trở sự
phát triển đời sống cá nhân và tập thể về mọi phương diện, cần loại bỏ.
Tinh thần cạnh tranh cũng không phải là xấu. Nhưng cạnh tranh để làm gì mới
là điều đáng nói. Cạnh tranh mà ghanh tỵ mà ghen ghét mà triệt hạ, đấu đá lẫn
nhau thì đáng lên án.
Xin Chúa cho chúng ta luôn có tham vọng tốt để phát triển tối đa khả năng
Chúa ban và biết xử dụng những khả năng đó để phục vụ cho mọi người mỗi ngày
tốt hơn. Xin cũng cho chúng ta biết từ bỏ thái độ ghen tỵ khi thấy người khác
thành đạt và tốt đẹp hơn chúng ta.
Suy niệm 2:
Ước mong được làm lớn, đứng đầu là điều chính đáng, không có gì xấu, nó chỉ
xấu khi ước muốn ấy trở nên tham vọng thống trị và hưởng thụ ích kỷ mà thôi. Đó
chính là sứ điệp mà tin mừng hôm nay Chúa muốn dạy cho các môn đệ cũng như cho
chúng ta.
Đọc Phúc âm chúng ta gặp thấy ít là 3 lần Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ
nạn của Ngài. Nhưng đáng tiếc là cả 3 lần ấy đã không được các môn đệ lưu tâm
và chia sẻ. Tệ hơn nữa, các môn đệ còn tranh giành địa vị xem ai làm người làm
lớn, đứng đầu trong anh em.
Lần thứ nhất (Mt 16, 21), sau khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của
Ngài, thì Phêrô đã đứng ra can ngăn và phản đối quyết liệt đến nỗi Chúa Giêsu
phải quở trách nặng lời với Phêrô là “Satan”.
Lần thứ hai (Mt 17, 22-23), đang khi đi dọc đàng, Chúa Giêsu loan báo về
cuộc khổ nạn của Ngài, thì các môn đệ chẳng những làm lơ như không nghe mà còn
lại bàn tán với nhau xem ai là người lớn nhất.
Lần thứ ba là hôm nay, sau khi Chúa Giêsu nói về cuộc thương khó mà Ngài
phải chịu, thì ngay lúc ấy bà mẹ của hai ông Giacôbê và Gioan con của ông
Dêbêđê lại đến van xin Chúa Giêsu cho hai đứa con của bà được ngồi bên hữu và
bên tả Chúa Giêsu sau này khi đất nước được thành lập.
Đây không chỉ là ước mong của bà mẹ mà còn là mong ước của hai người con
bà. Bởi có lần hai ông này cũng đã từng ngỏ lời xin với Chúa Giêsu hai chức
quan to nhất.
Các môn đệ khác cũng không nằm ngoài tham vọng ấy. Nên ngay khi bà mẹ hai
ông này xin chỗ nhất trong thiên hạ thì họ tỏ ra bực mình và đã tỏ ra thái độ
khó chịu với hai anh em nhà Dêbêđê.
Chắc hẳn khi các môn đệ bỏ tất cả để dấn bước theo Chúa Giêsu không chỉ vì
ngưỡng mộ tài đức vẹn toàn của Thầy Giêsu mà trên hết các ông còn mong muốn
được một chỗ đứng quyền lực trong xã hội, sau khi mà Chúa Giêsu giải phóng đất
nước khỏi ác đô hộ của đế quốc Rôma và thâu giang sơn về một mối.
Ước mong đó không xấu nên không thấy Chúa Giêsu phản đối, cấm đoán, nhưng
điều Ngài hướng đến làm lớn để làm gì mới là điều quan trọng. Chính vì thế Ngài
hỏi mới hỏi lại có “uống nỗi chén đắng không?”. Nghĩa là có chấp nhận hy sinh
phục vụ và sẵn sàng chịu đau khổ để chu toàn sứ vụ lãnh đạo không?
Rồi Ngài giải thích cho các ông biết được sự khác biệt giữa quan niệm làm
lớn theo kiểu thế gian và theo kiểu nước trời như thế nào.
Làm lớn theo tinh thần của Chúa không phải là để thống trị, không phải là
để được ăn trên ngồi trước hay tìm tư lợi cho riêng mình hay phe nhóm mình
nhưng là để có cơ hội thuận lợi nhằm hy sinh phục vụ ích lợi cho nhiều người
hơn.
Ước mong làm lớn, đứng đầu không chỉ là mong ước của bản thân mỗi người
trong chúng ta mà còn là ước mong của những người làm cha làm mẹ. Đó là ước
mong chính đáng với mong muốn để ta thêm động lực phấn đấu thăng tiến bản thân,
thay đổi cuộc sống mỗi ngày nên tốt hơn.
Xin cho chúng ta hiểu được ý nghĩa của hai chữ “chức trách” trong nhiệm vụ lãnh đạo. Đối với người môn đệ Chúa, chức vụ càng lớn thì trách nhiệm càng nặng nề; làm lớn theo tinh thần của Chúa là phải khiêm tốn cúi xuống phục vụ mọi người với tinh thần hy sinh quên mình vì lòng yêu mến chân thành.
Thứ năm: Lc 16,19-31
Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta phải có thái độ khôn ngoan khi xử dụng tiền
của.
Ông phú hộ trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể, xem ra cũng đáng khen. Ông chẳng
làm gì nên tội. Không ăn trộm ăn cắp ai. Không cho vay ăn lời dù lãi chỉ bằng
ngân hàng nhà nước. Không lấn ranh hay chiếm đoạt đất đai ai cả cho dù là ý
muốn. Cũng chẳng lê lết sang nhà hàng xóm để nhiều chuyện, cũng không thấy
phiền trách hay nói hành nói xấu ai. Đời ông không hề cờ bạc, không số đầu số
đuôi. Dù nhiều tiền lắm của nhưng chẳng thấy đi bia om hay vào hàng quán ăn
uống phung phí… sống được như ông thời nay xem ra đã là tốt quá còn gì.
Phải chi trái đất này chỉ một mình ông thì quá tốt. Phải chi xã hội này mọi
người đều giàu có như ông thì số phận ông ta đâu có hẵm hiêu và đau đớn đến
thế. Cũng tại cái anh Lazarô nghèo nàn và bệnh tật hiện diện trên thế gian này
nên cuộc sống giàu sang, sung sướng của ông phú hộ đã trở nên nguy hiểm, bất
an. Bất an không vì sợ trộm cắp nhưng sợ vì phải chia sẻ. không ngại vì lẽ sống
công bằng nhưng cảm thấy bất an vì phải thực thi tình bác ái.
Nhưng cuộc đời luôn biến đổi không dò. Hôm qua là chủ nay lại là tớ. hôm
qua giàu có nay lại nghèo khổ. Hôm qua là sung sướng thoải mái nhưng nay lại
gian lao, khổ nhọc… cuộc đời của ông phú hộ và Lazarô cũng đổi thay sau cái chết.
Giàu có, sung sướng, tiện nghị, yến tiệc linh đình nhưng thiếu bác ái đã trở
thành vực sâu u tối giam hãm nhà phú hộ muôn đời.
Chấp nhận đau khổ, bệnh tật trong thân phận nghèo nàn, khiêm tốn không hề
than trách, nhưng một mực tin tưởng phó thác vào tình thương Chúa như Lazarô,
đã trở thành những bậc thang đưa Lazarô lên cao vút đến nỗi khoảng cách từ
Lazarô đến nhà phú hộ xa vời không thể qua lại được.
Chúa sẽ xét xử chúng ta về những việc làm bác ái ta đã làm hay không làm
cho tha nhân. “ Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc hãy vào hưởng vinh
quang cùng Ta. Vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn…..”.
Như thế ông phú hộ bị phạt không vì ông ta lắm tiền nhiều của, cũng không
vì ăn sang mặc đẹp, nhưng ông ta bị phạt bởi vì ông không biết dùng của cải
tiền bạc mà giúp đỡ người nghèo.
Xin chúa cho chúng ta biết vâng lời Chúa và Giáo Hội, hằng ngày biết dùng của cải Chúa ban mà làm lợi ích cho mình và tha nhân về phần hồn cũng như phần xác; và cho chúng con dù giàu hay nghèo cũng luôn sống đẹp lòng Chúa, vâng theo thánh ý Chúa để mai sau được hưởng hạnh phúc bên Chúa muôn đời.
Thứ sáu: Mt 21, 33-43. 45-46
Suy niệm 1:
Dụ ngôn ám chỉ ông chủ vườn nho là Thiên Chúa.
Đầy tớ ông chủ là các ngôn sứ.
Tá điền là những người khước từ, không chấp nhận lời Thiên Chúa phán
dạy. Cụ thể là giới tư tế Do Thái giáo.
Người con trai của chủ vườn nho là Giêsu.
Dụ ngôn
vẽ lên hình ảnh đối lập giữa tình thương, lòng bao dung, sự nhẫn nại của Thiên
Chúa trước sự phản phúc vì tham vọng ích kỉ và lòng độc ác của con người.
Bằng
tình thương ông chủ đã tạo lập vườn nho và chuẩn bị đầy đủ những phương tiện
cần thiết để phát triển; rồi tin tưởng giao phó cho tá điền chăm sóc, làm lợi.
Với tấm
lòng bao dung, ông chủ đã lần lượt gửi những đầy tớ tin cậy của mình đến để
nhắc nhở, khích lệ các tá điền làm việc có trách nhiệm, nhằm sinh lại nhiều hoa
lợi cho chủ.
Cuối
cùng với lòng nhẫn nại, ông chủ đã gửi đến chính người con yêu của mình, với hy
vọng các tá điền cảm nếm được tình thương sự quan tâm của ông chủ mà thức tỉnh,
lo chu toàn bổn phận.
Đổi lại tình thương của chủ là sự bất cần của những tá điền. Họ không màn
đến tình thương và sự tin tưởng của ông chủ dành cho họ, nên họ đã chễnh mãn trong bổn phận canh tác và chăm sóc vườn nho.
Đổi lấy tấm lòng bao dung của chủ là sự ích kỉ tham lam bất chính của các
tá điền nên đã dã tâm chiếm đoạt luôn hoa lợi của chủ.
Đổi lấy sự nhẫn nại của chủ là sự nhẫn tâm của các tá điền. Họ sẵn sàng ra
tay manh động, độc ác giết chết luôn người con thừa tự của ông chủ và không
ngại vứt xác ra ngoài vườn.
Hình ảnh của các tá điền trên không những ám chỉ các tư tế Do Thái xưa, mà
ám chỉ đến mỗi chúng ta.
Ngày
lãnh nhận bí tích rửa tội, Chúa đã thương chọn tôi vào làm
vườn nho của Ngài. Ngài đã xây dựng luật lệ, lập nên các bí tích và
dùng chính Lời Ngài mà chỉ dạy, bảo vệ và nuôi dưỡng đời sống đức tin của chúng
ta. Những thứ ấy ví như hàng rào, bồn đạp nho, vọng gác trong vườn.
Thế nhưng vì sự chễnh mãn, chúng ta đã không nghĩ đến tình thương và sự ưu ái
của Chúa, không lo vun trồng đức tin Chúa ban nên đã gạt bỏ ngoài tai những lời
Chúa dạy, không buồn thực thi lề luật Chúa, không thiết tha với những ơn ích
của các bí tích mang lại.
Với mưu
cầu lợi ích cá nhân, chúng ta đã thực hiện những việc làm xấu xa trái lại với
những lời nhắc nhở chỉ bảo của các đấng bề trên, Giáo hội là sứ giả của Chúa,
gây ra gương mù, gương xấu cho những người trong gia đình, trong
khu xóm…. Đó là cách chúng ta giết chết những đầy tớ Chúa gửi đến.
Biết bao lần trong đời sống, chúng ta cũng
đã bỏ ngoài tai lời dạy của chính con một Người là Đức Giêsu Kitô,
Con yêu dấu của Chúa Cha. Ấy là chúng ta đã nhẫn tâm giết chết chính Đức Giêsu
con yêu dấu của Thiên Chúa!
Rõ ràng Chúa muốn cứu độ mọi người, nhưng vẫn có những
hạng người biết lề luật nhưng không biết tuân giữ lề luật. Họ chỉ nói mà không
thực hành. Chúa Giêsu đã nhiều lần lên án họ và cảnh tỉnh cho họ biết Nước Trời
cũng sẽ vuột mất khỏi tay họ.
Lạy Chúa xin ban cho chúng con một tấm lòng thành để chúng con luôn sẵn sàng lắng nghe và thực thi lời Chúa và Giáo huấn của Giáo Hội.
Suy niệm 2:
Trong cuộc sống này, điều quan trọng nhất là mỗi người
cần phải nhận thức được bản thân mình là ai, giá trị mình là gì, chỗ đứng của
mình ở đâu và mình cần phải làm gì? Đúng như người xưa có câu: “biết người,
biết ta, trăm trận trăm thắng”.
Đừng quá ảo tưởng về bản thân mình để rồi phải nhận
lấy kết cục bi đát đầy thảm thương như những tên tá điền sát nhân trong dụ ngôn
mà Chúa Giêsu đề cập đến trong đoạn tin mừng hôm nay: “Ông chủ sẽ tru diệt bọn hung ác đó và cho người khác thuê vườn nho để
cứ mùa nộp hoa lợi”.
- Vì không nhận thức được mình là
ai. Nên những tá điền có ảo tưởng mình là ông chủ. Từ đó tự mãn cho mình cái quyền
định đoạt mọi thứ, nên đã ra tay giết chết tất cả các đầy
tớ, ngay cả người con yêu dấu của ông chủ sai đến nhắc nhở họ.
- Do không hiểu được giá trị của
mình nằm ở đâu, nên những tá điền đã chểnh mảng không chu toàn tốt bổn phận canh tác vườn do ông chủ tin tưởng trao phó. Họ không biết rằng
cuộc đời họ chỉ có giá trị một khi biết vâng lời làm theo ý chủ
mình. Bởi lẽ số phận sống chết của họ hoàn toàn tuỳ thuộc vào quyết
định của ông chủ.
- Cuối cùng vì không biết mình đang
đứng ở vị thế nào, cứ ngỡ mình là chủ, trong khi mình chỉ là người quản
lý. Vì thế họ mới có tham vọng chiếm hữu tất cả vườn nho của chủ. Và sẵn sàng
ra tay giết chết ngay cả người con thừa tự của chủ mình.
Vườn nho ấy là cuộc đời ta, gia đình ta, GH và là xã hội… chúng ta đang sống. Tá điền ấy là mỗi chúng ta được Chúa yêu thương tin tưởng đặt vào nơi các môi trường ấy. Chính vì thế đừng quên mình là ai, giá trị mình ơ chỗ nào, và vị thế và trách nhiệm mình ra sao trước mặt Chúa là chủ của ta. Xin cho chúng ta hiểu được mình là ai? Cảm nhận được tình thương Chúa yêu ta như thế nào? Để ta cố gắng hơn trong việc chu toàn tốt bổn phận được Chúa trao phó, với tất cả lòng tôn kính và yêu mến ngài.
Thứ bảy: 2Sm 7,4-5a.12-14a.16; Rm 4,13-16-18.22;
Mt 1,16.18-21.24a ( Lc 2, 41-51a)
19/03: KÍNH THÁNH GIUSE, BẠN TRĂM NĂM ĐỨC TRINH NỮ MARIA
Suy niệm 1: Thánh Giuse Dạy Ta Sám Hối Mùa Chay
Nếu mùa chay là mùa sám
hối, trở về, thì có lẽ việc trở về sâu xa nhất là trở về cõi lòng mình trong
thinh lặng để nhận ra Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương, nhận ra tha nhân là anh
em mình, nhất là nhận ra con người thật của mình. Nhờ đó mà ta có những điều
chỉnh cho đúng đắn phù hợp với ý Chúa hơn. Nếu Giáo Hội đặt tháng kính Thánh Giuse vào
Mùa Chay, thì mục đích đã rõ, bởi vì ngài là khuôn mẫu của con người nội tâm,
thinh lặng. Xin Chúa cho chúng ta biết trân trọng và yêu quý đời
sống thinh lặng, nhất là biết học nơi thánh Giuse bài học về “đức thinh lặng”.
Không biết vô tình hay hữu ý, năm nào cũng vậy, GH lại mừng kính thánh
Giuse vào đúng lịch PV mùa chay. Chắn hẳn GH rất có lý. Bời lẽ nếu
mùa chay là mùa sám hối, trở về. Mà sự trở về sâu xa nhất lại chính là trở về
chính mình và trở về với Thiên Chúa. Nói như vậy thì hơn ai hết Thánh
Giuse chính là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta về sự trở về ấy.
1. Trước hết thánh Giuse dạy ta bài học trở về với chính mình trong
thinh lặng.
Khi đọc các sách Tin Mừng, ta không thấy thuật lại bất cứ lời nào của
thánh Giuse, dù chỉ một lời nói với Mẹ Maria hay với Chúa Giêsu. Ngay cả khi
gặp trẻ Giêsu ở trong Đền Thờ sau những ngày lo âu tìm kiếm cũng không có lời
nào của ngài hé lộ. Có lẽ qua đó, Thánh Kinh nhằm đề cao giá trị của sự thinh
lặng nơi thánh Giuse.
Đúng vậy thinh lặng là thái độ hết sức quý giá: Người đời thường nói:
"Lời nói là bạc, im lặng là vàng". Thinh lặng quý hơn lời nói, vì nói
chỉ là bạc mà im lặng mới là vàng; là vàng thì bao giờ cũng quí hơn bạc! Nhờ
thinh lặng mà thánh Giuse có thời giờ gắn bó với Chúa cách sâu xa để nhờ đó
ngài dễ dàng nhận ra ý Chúa và cũng dễ dàng chấp nhận thực thi thánh ý Chúa dẫu
cho đó là điều không dễ dàng vì đụng chạm đến giá trị và quyền lợi cá nhân của
ngài (cha chay và chồng chay).
Thinh lặng là biểu hiện của sự hiểu biết. Ông bà ta vẫn nói: “Ngôn giả bất
tri, tri giả bất ngôn”; nghĩa là người không biết thì lại lắm mồm vì tưởng
người khác không biết như mình, ngườì biết thì lại không nói, vì nghĩ rằng mọi
người đều biết. Heidegger khuyên chúng ta thực tập thinh lặng, bớt nói, bớt
phát biểu, bớt bàn tán….không phải để ta nên ngu muội, vô tri, nhưng để cho tâm
khảm suy nghĩ của chúng ta hoà quỵện với sinh linh vạn vật, và chỉ khi đó chúng
ta mới có thể thấu đạt hết mọi ngóc ngách, thông tường mọi thế thái, biến
chuyển trong sự biểu đạt khôn cùng của nhân sinh, của nhiên giới. Đó cũng là ý
nghĩa mà nhà thơ tài danh của Ấn Độ Rabindranath Tagore muốn chuyển tải khi ông
viết: “Nước trong chậu thì sóng sánh; nước trong biển cả thì thẫm đen.....”
Chính nhờ sự thinh lặng trong đêm vắng, Thánh Giuse đã nhận ra được ý muốn
của Chúa, lắng nghe được Lời Chúa nói. Phân biệt được điều gì đúng, điều gì sai
và chọn lựa cách thế thực hiện như thế nào đẹp ý Chúa nhất. Chính vì thế
ngài đã hết lòng bảo vệ, chăm sóc Đức Maria và Hài Nhi Giêsu vượt qua
những sóng gió của cuộc đời. Và trở nên “người công chính”.
Thinh lặng chính là thầy dạy sự khôn ngoan.
Nhìn vào đời sống, chúng ta thầy rằng mình đã sai lỗi quá nhiều trong lời
nói. Bởi vì “đa ngôn thì đa quá”. Nói nhiều thì trở nên nói dai và kéo theo nói
dở, nói ẩu và dại. Bởi đó hãy thận trọng trong lời nói. Ném một lông vịt vào
trong gió, thì làm sao nhặt lại được. Một lời nói ra bốn ngựa đuổi theo cũng
không kịp “tứ mã nan truy”. Vì vậy mà lời nói sẽ trở nên mối nguy cơ
đánh mất tình thương, chia cắt tình thân và gây nên đau khổ cho nhau.
Hãy học cùng thánh Giuse bài học thinh lặng nhất là trong nhữn giây phút
căng thẳng và sóng gió. Bởi nếu biết thinh lặng đúng lúc ta sẽ chặng được 90%
đổ vỡ đáng tiếc, vì thinh lặng là thái độ khôn ngoan nhất của con người và là
phương thuốc chữa lành những tội lỗi xấu xa.
Truyện kể rằng: Xưa một nhà vua Ấn Độ, muốn thử nhân tài của một
nước Chư hầu liền gửi tới nước này ba pho tượng vàng, giống hệt nhau.
Nhà vua Ấn Độ yêu cầu nhà vua Chư hầu cho biết trong ba pho tượng
vàng này, đâu là pho tượng quí giá nhất.
Nhà vua nước Chư hầu cho triệu tập các nhà thông thái tới để đánh
giá ba pho tượng vàng này, tìm ra xem pho tượng nào quí giá nhất. Các nhà thông
thái nghĩ ngay tới giá trị của mỗi pho tượng sẽ căn cứ vào cân nặng nhẹ, hoặc
vào tuổi vàng tốt xấu, hoặc căn cứ vào nghệ thuật tìm thấy trên ba pho tượng
vàng! Nhưng rồi các nhà thông thái đành phải bó tay, vì ba pho tượng này giống
hệt nhau về nghệ thuật, khối lượng và tuổi vàng.
Nhà vua nước Chư hầu rất buồn, vì không biết được giá trị hơn kém
của ba pho tượng. Vua liền cho loan báo khắp nước: Ai tìm được bí mật giá trị
của mỗi pho tượng sẽ được trọng thưởng.
Có một người tù, biết chuyện xin được xem ba pho tượng và nếu anh ta tìm ra
giá trị hơn kém của ba pho tượng này thì anh chỉ xin một điều kiện là cho anh
được tự do.
Lập tức nhà vua cho anh xem ba pho tượng. Vừa ngó xong ba pho tượng, anh ta
xin một cọng rơm. Chỉ trong ít phút, anh đã khám phá ra giá trị hơn kém của
ba pho tượng vàng.
Anh lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ nhất, thì thấy cọng rơm xuyên
từ lỗ tai này sang lỗ tai kia, anh bảo: “ đây là pho tượng ít giá trị nhất, vì
nó tượng trưng cho hạng người nghe điều gì, vừa vào tai nọ, đã ra tai kia,
không biết ghi nhớ, không để tâm gì suy nghĩ điều đã nghe”.
Anh ta lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ hai, thì thấy cọng
rơm đi từ lỗ tai chạy xuống miệng pho tượng. Anh bảo: “pho tượng này hơn pho
tượng trước là vì nó tượng trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ nhưng mắc
khuyết điểm là: vừa nghe được gì đã vội nói ngay, không suy nghĩ xem điều mình
nghe đúng hay sai, nói ra có lợi hay có hại”.
Anh lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ ba, thì thấy cọng rơm đi
từ lỗ tai chạy xuống bụng. Anh nói: “pho tượng này quý giá nhất, vì nó tượng
trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ, biết để lòng suy nghĩ, biết ghi vào
tâm dạ mình.
Vua nước lớn nghe được lời giải đáp của thần dân nước nhỏ thì vô cùng kính
nể. Ông về nói với các quan trong triều: “Nước họ có người thông minh tài giỏi
như vậy, hẳn nước họ là nước mạnh mẽ, hưng thịnh, ta nên giao hoà với họ chứ
không nên giao chiến”.
2. Thứ hai thánh Giuse dạy ta bài học về sự tín thác và sự vâng
phục Chúa.
Nếu ông Giacaria nghi ngờ về ý định của Thiên Chúa qua biến cố truyền tin
của thiên thần Chúa nơi đền thờ và Mẹ Maria ngỡ ngàng trước lời mời gọi của
Thiên Chúa nơi biến cố truyền tìn, thì Giuse lại hoàn toàn vâng phục không một
lời chấp vấn hay bối rối gì cả.
Thánh Kinh thuật lại: Khi biết được Đức Maria mang thai là do quyền năng
Chúa Thánh Thần, Thánh Giuse đã không ngần ngại nhận Đức Maria về nhà mình để
chở che và nuôi dưỡng. Nhận lãnh hay bảo lãnh Đức Maria về nhà cũng đồng nghĩa
Thánh Giuse giải cứu Đức Maria khỏi búa rìu dư luận và thoát khỏi án
tử. Việc bảo trợ Đức Maria cũng có nghĩa là đồng bảo trợ Hài Nhi đang được
cưu mang trong cung lòng Đức Maria. Việc nhận Đức Giêsu làm con cũng đồng nghĩa
với việc bảo trợ cho Đức Giêsu sinh ra cách hợp pháp và đưa Đức Giêsu vào trong
dòng tộc vua Đavít.
Vâng phục ý Chúa, không chỉ bảo trợ cho Hài nhi Giêsu sinh ra hợp pháp mà
thánh Giuse còn bảo toàn mạng sống của Đức Giêsu khỏi nanh vuốt của vua Hêrôđê
qua việc vâng theo lời báo mộng của Chúa trong đêm mà nhanh chóng đem mẹ Người
và Hài Nhi Giêsu vượt đường xa hiểm trở gần 500 cây số xuyên qua sa mạc dài hơn
200 km không một bóng cây, không một ngọn cỏ, không một giọt nước, rất gian khổ
để đến Ai-cập tị nạn. Và khi tình hình yên ổn, một lần nữa Giuse lại nghe
theo lời báo mộng bỏ Ai-cập đem gia đình trở về Palestine, định cư tại Nagiarét
để chăm sóc nuôi dưỡng bằng chính công sức lao động chân chính của mình với
nghề thợ mộc.
Còn chúng ta thì khác, chúng ta thường tìm ý mình hơn là ý Chúa. Và mỗi khi
gặp phải những tai ương hoạn nạn, chúng ta thường kêu trách và xúc phạm đến
Chúa, vì chúng ta cho rằng Chúa bất công và vâng lời chỉ là một hành động hèn
nhát, mất tự do và chôn vùi nhân phẩm.
Chúng ta không phải lúc nào cũng biết được kế hoạch của Thiên Chúa dành cho
chúng ta. Chúng ta chỉ biết rằng cách của Người thì khác với cách của
chúng ta, nhưng cách của Người thì luôn luôn tuyệt vời nhất. Vì thế, hãy
tín thác và vâng phục thánh ý Thiên Chúa, để chúng ta sẽ trở nên những tôi tớ
trung thành và khôn ngoan như thánh cả Giuse ngày xưa.
Truyện kể rằng: Có 3 cái cây trên một ngọn đồi trong rừng, cùng tranh luận với
nhau về những hi vọng và giấc mơ của chúng...
Cái cây đầu tiên nói: “Tôi hi vọng một ngày nào đó tôi sẽ trở thành tủ đựng
vàng bạc châu báu. Tôi sẽ được nhét đầy vàng, bạc và ngọc quý, được trang hoàng
với nghệ thuật chạm khắc cầu kỳ và mọi người sẽ thấy rằng tôi rất đẹp”.
Đến lượt mình cây thứ hai nói: "Tôi ao ước sẽ được là một con thuyền
mạnh mẽ. Tôi sẽ chuyên chở các vị vua và hoàng hậu đến mọi nơi trên thế giới.
Mọi người sẽ cảm thấy an toàn khi ngồi trên thuyền tôi vì thân tàu mạnh mẽ và
vững chắc".
Cuối cùng cây thứ ba mơ ước: "Tôi muốn được là một cây cao lớn và mạnh
mẽ nhất trong rừng. Mọi người sẽ nhìn thấy tôi trên ngọn đồi, nhìn lên các cành
của tôi và biết rằng tôi đang vươn cao và gần bầu trời đến mức nào. Tôi sẽ mãi
là cái cây vĩ đại nhất và mọi người sẽ luôn nhớ đến tôi".
Sau nhiều năm cẩu nguyện, ngày mong đợi của chúng cũng đến - một nhóm người
lấy gỗ đến khu rừng đó.
Một người trong bọn họ tiến đến bên cây thứ nhất và nói: "Cây này
trông có vẻ chắc lắm đấy. Tôi nghĩ là tôi sẽ bán nó cho anh thợ mộc" và
anh bắt đầu đốn cây. Cái cây cảm thấy rất hạnh phúc vì nó nghĩ rằng anh thợ mộc
sẽ dùng nó để đóng thành một hộp đựng đồ quý giá...
Nhìn thấy cây thứ hai, người thợ rừng bảo: "Cây này cũng chắc lắm đấy,
ta sẽ bán nó cho một hãng đóng thuyền". Cây thứ hai vô cùng sung sướng vì
nghĩ rằng mình sắp được đóng thành một con thuyền lớn.
Khi người thợ rừng tiến đến gần cây thứ ba, nó cảm thấy thật sợ hãi bởi vì
nó biết rằng nếu ông ấy hạ nó giấc mơ của nó sẽ không thể nào thành hiện thực
được. Một người thợ bảo "Tôi chưa có dự định gì đặc biệt cho số cây của
tôi nhưng tôi sẽ chặt cái cây này". Và ông ta cưa
nó.
Khi cây thứ nhất đến tay người thợ mộc, ông đóng nó thành máng ăn cho ngựa.
Sau đó ông ấy đặt nó trong chuồng ngựa và chất đầy cỏ khô lên. Đây không phải
là điều cái cây mơ ước.
Còn cây thứ hai, nó được xẻ ra và đóng thành một cái thuyền câu cá nhỏ. Mơ
ước được trở thành một con thuyền mạnh mẽ và được chở các vị vua đã kết thúc.
Cây thứ ba thì bị cưa thành những thanh gổ lớn và bị xếp vào một góc tối
tăm, hôi hám.
Rồi năm tháng trôi qua, những cái cây đã quên hết ước mơ của mình. Thế rồi
một ngày nọ một người đàn ông và một phụ nữ đến bên chuồng ngựa. Cô ấy sinh nở
tại đây và họ đặt đứa bé nằm trong lớp cỏ khô trong máng ăn được đóng từ cây
thứ nhất. Người đàn ông ao ước có được một cái giường cũi cho đứa bé và ông ấy
sẽ sử dụng cái máng với mục đích này. Cái cây cảm nhận được tầm quan trọng của
việc này và nó biết rằng nó đang giữ trong tay một tài sản quý báu nhất.
Vài năm sau, có một nhóm người bước lên chiếc thuyền câu được làm từ cây
thứ hai. Một người đàn ông mệt và ngủ thiếp đi. Trong khi họ đang lênh đênh
trên biển, một cơn bão lớn nổi lên và cái cây không nghĩ rằng mình đủ mạnh để
đưa họ qua cơn sóng to gió lớn này. Họ đánh thức người đàn ông đang nằm ngủ,
ông ấy đứng dậy và nói: "Biển lặng". Ngay tức thì cơn bão tan biến.
Trong lúc này cây thứ hai biết rằng nó đang được chở vị vua của tất cả các vị
vua trên thuyền.
Cuối cùng cũng có người đến và mang cái cây thứ ba đi. Nó được khiêng qua
các con đường. Suốt dọc đường người ta nhạo báng người đàn ông đang khiêng nó.
Khi họ lên đến đỉnh đồi, người đàn ông kia bị đóng đinh trên cây và bị treo ở
đó cho đến chết. Ngày Chúa nhật đến, cái cây cảm thấy mình đủ mạnh để đứng trên
đỉnh đồi và thật gần với Thượng Đế bởi vì Chúa đã bị đóng trên thân của nó.
Do vậy, khi mọi việc diễn tiến không đúng với những gì ta mơ ước, hãy luôn
tin tưởng và phó thác vào Chúa bởi vì Người luôn luôn có sẵn kế hoạch cho chúng
ta. Hãy vững tin rồi chúng ta sẽ nhận được quà tặng từ Người. Giống như những
cây kia, cuối cùng cũng đạt được giấc mơ của mình tuy không hoàn toàn giống như
những gì chúng nguyện cầu.
Lạy Chúa, giữa bao triết lý và lắm luồng tư tưởng trong xã hội này, con phải chọn lựa như thế nào?. Giữa những nền văn hóa đa dạng và những nền văn minh phức tạp, con biết đâu là đúng, đâu là sai? Xin cho con biết học nơi thánh Giuse bài học của thinh lặng để trở về với chính mình và với Chúa. Xin cho con biết chọn tiếng Chúa mời gọi hơn là tiếng đời thúc đẩy và nỗ lực thi hành tiếng Chúa với hy vọng được trở nên công chính theo gương thánh cả Giuse kính yêu. Amen.
Suy niệm 2: Thánh Giuse Dạy Ta Sống Tinh Thần Mùa Chay
Không biết vô tình hay hữu ý, năm nào cũng vậy, GH lại mừng kính thánh
Giuse vào đúng lịch PV mùa chay.
Chắn hẳn GH rất có lý. Bời lẽ nếu mùa chay là mùa sám hối, trở về, thì
sự trở về sâu xa nhất lại chính là trở về chính mình và trở về với Thiên
Chúa. Nói như vậy thì hơn ai hết Thánh Giuse chính là mẫu gương tuyệt vời
cho chúng ta về sự trở về ấy.
1. Trước hết thánh Giuse dạy ta bài học trở về với chính mình trong
thinh lặng.
Khi đọc các sách Tin Mừng, ta không thấy thuật lại bất cứ lời nào của
thánh Giuse, dù chỉ một lời nói với Mẹ Maria hay với Chúa Giêsu. Ngay cả khi
gặp trẻ Giêsu ở trong Đền Thờ sau những ngày lo âu tìm kiếm cũng không
thấy lời nào của ngài hé lộ. Có lẽ hơn ai hết thánh Giuse thấu hiểu về sự quý
giá của thinh lặng.
Đúng thế cha ông chúng ta đã từng nói: "lời nói là bạc, im lặng
là vàng": nên chi thinh lặng giá trị hơn nói, vì nói chỉ là bạc mà im lặng
mới là vàng; là vàng thì bao giờ cũng quí hơn bạc!
Hơn nữa thinh lặng còn là biểu hiện cho sự hiểu biết của một con người. Ông
bà ta thường nói “Ngôn giả bất tri, tri giả bất ngôn” : Người không biết thì
lại nhiều lời vì tưởng người khác không biết như mình, ngườì biết thì lại không
nói, vì nghĩ rằng mọi người đều biết. Ông Heidegger khuyên chúng ta thực tập
thinh lặng, bớt nói, bớt phát biểu, bớt bàn tán….không phải là ta ngu muội, vô
tri, nhưng để cho tâm hồn của chúng ta hoà quỵện với sinh linh vạn vật, và chỉ
khi đó chúng ta mới có thể thấu đạt hết mọi ngóc ngách, thông tường mọi thế
thái, biến chuyển trong sự biểu đạt khôn cùng của nhân sinh, và của nhiên giới.
Nhưng thực tế đời sống cho thấy chúng ta lại thích nói và nói nhiều hơn là
yêu mến sự thinh lặng. Chính vì thế mà chúng ta đã sai lỗi quá nhiều trong lời
nói vì “đa ngôn thì đa quá”. Nói nhiều thì trở nên nói dai và kéo theo nói dở,
nói ẩu và dại nữa. Do đó hãy thận trọng trong lời nói. Bởi lời nói sẽ trở nên
mối nguy cơ đánh mất tình thương, chia cắt tình thân và gây nên đau khổ cho
nhau.
Ném một lông vịt vào trong gió, thì làm sao nhặt lại được. Một lời nói ra
bốn ngựa đuổi theo cũng không kịp “tứ mã nan truy”. Nên trong những lúc
gặp phải những căng thẳng và sóng gió trong đời, ta hãy học cùng thánh
Giuse bài học thinh lặng để lắng nghe được tiếng Chúa khẻ nói với ta mà làm
theo, nhờ đó chúng ta sẽ ngăn chặng được những đổ vỡ đáng tiếc xảy ra trong
cuộc sống.
2. Thứ hai thánh Giuse dạy ta bài học sự tín thác và sự vâng
phục Thiên Chúa.
Nếu ông Giacaria nghi ngờ về ý định của Thiên Chúa qua biến cố truyền tin
trong đền thờ lúc dâng hương. Mẹ Maria thì ngỡ ngàng với biến cố truyền tin,
thì Giuse lại hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa mà không một lời
chấp vấn hay bối rối gì cả.
Thánh Kinh thuật lại: khi biết được Đức Maria mang thai là do quyền năng
Chúa Thánh Thần, Thánh Giuse đã không ngần ngại nhận Đức Maria về nhà mình để
chở che và nuôi dưỡng. Nhận lãnh hay bảo lãnh Đức Maria về nhà cũng đồng nghĩa
Thánh Giuse giải cứu Đức Maria khỏi búa rìu dư luận và thoát khỏi án
tử. Việc bảo trợ Đức Maria cũng có nghĩa là đồng bảo trợ Hài Nhi đang được
cưu mang trong cung lòng Đức Maria. Việc nhận Đức Giêsu làm con cũng đồng nghĩa
với việc bảo trợ cho Đức Giêsu sinh ra cách hợp pháp và đưa Đức Giêsu vào trong
dòng tộc vua Đavít.
Vâng phục ý Chúa, không chỉ bảo trợ cho Hài nhi Giêsu sinh ra hợp pháp mà
thánh Giuse còn bảo toàn mạng sống của Đức Giêsu khỏi nanh vuốt của vua Hêrôđê
qua việc vâng theo lời báo mộng của Chúa trong đêm mà nhanh chóng đem mẹ Người
và Hài Nhi Giêsu vượt đường xa hiểm trở gần 500 cây số xuyên qua sa mạc dài hơn
200 km không một bóng cây, không một ngọn cỏ, không một giọt nước, rất gian khổ
để đến Ai-cập tị nạn. Và khi tình hình yên ổn, một lần nữa Giuse lại nghe
theo lời báo mộng bỏ Ai-cập đem gia đình trở về Palestine, định cư tại Nagiarét
để chăm sóc nuôi dưỡng bằng chính công sức lao động chân chính của mình với
nghề thợ mộc.
Còn chúng ta thì khác, chúng ta thường tìm ý mình hơn là ý Chúa. Mỗi khi
gặp phải những nghịch cảnh xảy ra trong đời sống, ta thường kêu trách Chúa và
lắm khi còn xúc phạm đến Chúa nữa. Vì chúng ta cho rằng vâng phục thánh ý Chúa
là hành động hèn nhát, mất tự do và đánh mất nhân phẩm của mình. Thánh Giuse
giúp chúng ta hiểu rằng: không phải lúc nào chúng ta cũng biết được kế
hoạch của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta chỉ biết rằng cách của
Người thì khác với cách của chúng ta, nhưng cách của Người thì luôn luôn tuyệt
vời nhất. Vì thế, hãy tín thác và vâng phục thánh ý Thiên Chúa, để chúng
ta sẽ trở nên những tôi tớ trung thành và khôn ngoan theo gương thánh cả Giuse.
Lạy Chúa, giữa bao triết lý và lắm luồng tư tưởng trong xã hội này, con phải chọn lựa như thế nào?. Giữa những nền văn hóa đa dạng và những nền văn minh phức tạp, con biết đâu là đúng, đâu là sai? Xin cho con chúng con mùa chay thánh này biết đến với thánh cả Giuse để học nơi thánh nhân bài học của sự trở về trong thinh lặng mà nhận ra thánh ý Chúa và trở về với Chúa để vâng phục thánh ý Ngài theo gương thánh cả Giuse kính yêu. Amen.
Suy niệm 3: Người Gia Trưởng Trung Thành
Hòa nhịp cùng Giáo hội, hôm nay chúng ta long trọng mừng kính Thánh Giuse,
bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Maria. Ngài là bổn mạng Giáo Hội Việt Nam, là bổn
mạng của quý anh em giới Gia trưởng, cách riêng một số anh em có thánh bổn mạng
là Giuse. Nhân dịp này chúng ta cùng nhau hướng về thánh Giuse để chiêm
ngưỡng đời sống tuyệt đẹp của Ngài mà học đòi bắt chước.
Khi nhìn vào đời sống của thánh nhân, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đều
đồng ý với nhau rằng: thánh Giuse là một con người trung thành. Đây là nhân đức
tuyệt đẹp, đáng để cho chúng ta noi theo trong sứ mạng xây dựng và bảo vệ hạnh
phúc gia đình.
1. Thánh Giuse trung thành bảo vệ gia đình.
Sau khi nhận được thánh ý Thiên Chúa, Thánh Giuse đã sẵn sàng đứng ra để
bảo trợ Thánh gia.
Thánh Kinh thuật lại: khi biết được Đức Maria mang thai là do quyền năng
Chúa Thánh Thần, Thánh Giuse đã không ngần ngại nhận Đức Maria về nhà mình để
chở che và nuôi dưỡng. Nhận lãnh hay bảo lãnh Đức Maria về nhà cũng đồng nghĩa Thánh
Giuse giải cứu Đức Maria khỏi búa rìu dư luận và thoát khỏi án tử.
Việc bảo trợ Đức Maria cũng có nghĩa là đồng bảo trợ Hài Nhi đang được cưu
mang trong cung lòng Đức Maria. Việc nhận Đức Giêsu làm con cũng đồng nghĩa với
việc bảo trợ cho Đức Giêsu sinh ra cách hợp pháp và đưa Đức Giêsu vào trong
dòng tộc vua Đavít.
Không chỉ bảo trợ cho Hài nhi Giêsu sinh ra hợp pháp mà thánh Giuse còn bảo
toàn mạng sống của Đức Giêsu khỏi nanh vuốt của vua Hêrôđê. Để bảo toàn mạng
sống của Đức Giêsu, thánh Giuse phải vượt đường xa hiểm trở gần 500 cây số
xuyên qua sa mạc dài hơn 200 km không một bóng cây, không một ngọn cỏ, không
một giọt nước, rất gian khổ để đến Ai-cập tị nạn.
Ngoài việc bảo vệ sự sống, bảo vệ mạng sống, Thánh Giuse còn phải bảo vệ
cho Đức Maria và Hài Nhi Giêsu được sống nữa. Ngài đã phải lao động vất vả tại
xưởng mộc bé nhỏ tại làng Nazarét để mưu tìm miếng cơm, manh áo, tiền nong để
nuôi sống gia đình.
Cuộc đời thánh Giuse quả không phải sung sướng, an nhàn, trái lại ngài phải
trãi qua trăm chiều thử thách và đau khổ. Ý Chúa quan phòng để ngài nêu gương
cho ta khi gặp gian lao, thử thách cũng biết vui lòng hy sinh như ngài để bảo
vệ sự sống, mạng sống và tạo điều kiện cho gia đình mình được sống an bình.
Là người cha phải hết lòng bảo vệ con cái mình khỏi tay kẻ dữ, khỏi bầu khí
hận thù và bất công. Đó là nhiệm vụ vô cùng to lớn của người gia trưởng.
Hằng ngày có biết bao hài nhi bị hủy diệt trong bào thai. Chúng ta cũng đã
từng chứng kiến không ít những hài nhi vừa cất tiếng khóc chào đời lại bị chính
cha mẹ chúng bỏ rơi, thật đau lòng!
Cách bảo vệ hài nhi an toàn nhất là chúng ta phải biết tỉnh thức để nghe
tiếng Chúa nói trong lương tri như Thánh Giuse, dù khi ngủ, ngài vẫn thức tỉnh
nhận ra tiếng Chúa nói trong giấc mộng.
2. Thánh Giuse trung thành giáo dục con cái.
Tin mừng thánh Luca đề cao nền giáo dục tuyệt vời của Thánh gia qua câu:
“Hài nhi lớn lên càng mạnh khỏe, khôn ngoan và đầy ân sủng trước mặt Chúa và
người ta” (Lc 2,40-52). Chỉ một lời ngắn ngủi của thánh sử Luca nhưng đã diễn
tả hầu như trọn vẹn cách thế giáo dục của thánh Giuse và Đức Maria đối với con
mình. Các ngài đã để ý và giáo dục con mình về mọi phương diện: Thể dục, trí
dục, đức dục …
- Thể dục: Trẻ Giêsu càng lớn lên càng mạnh mẻ, đầy sức lực nhờ vào lao động nơi
xưởng mộc Nazarét mà thánh Giuse đã dày công tạo dựng. Lên 12 tuổi trẻ Giêsu đã
đi bộ suốt bốn năm ngày đàng lên Giêrusalem dự lễ, vậy mà không thấy Thánh kinh
nói trẻ Giêsu mệt mỏi. Sau này giảng đạo, Đức Giêsu đã đi khắp cùng làng mạc,
thành phố và cả những vùng lân cận nữa.
- Trí dục: Càng tuyệt vời hơn khi mới 12 tuổi, cậu bé Giêsu của làng Nazarét quê mùa,
vô danh, ở tít vùng sâu, vùng xa đã đàng hoàng vào đền thờ ở thủ đô Giêrusalem,
ngồi giữa các thầy tiến sĩ vừa nghe vừa hỏi. Ai cũng ngạc nhiên về trí thông minh
và những lời đối đáp khôn ngoan của cậu. Nếu gia đình Thánh Giuse không quan
tâm đến việc hướng dẫn con mình học hỏi và trao dồi Thánh kinh thì làm gì có sự
hiểu biết như thế?
Mỗi ngày Sabát là dịp tốt để tìm hiểu Thánh kinh và nghiên cứu Luật Chúa.
Như trở thành thói quen mà cha mẹ để lại. Sau này khi rao giảng Chúa Giêsu
thường xuyên vào Hội Đường đọc Lời Chúa, giảng dạy và chữa bệnh. Có lẽ nhờ việc
quan tâm đến giáo dục tri thức cho con mình nên Đức Giêsu đã thuộc lòng các
khoản Luật và Lời Chúa.
- Đức dục: Ngoài đức công chính gắn liền với tên tuổi Thánh Giuse, chúng ta còn
nhận thấy một nhân đức khác nổi bậc nơi ngài nữa đó là đức vâng lời. Vâng lời
thánh ý Thiên Chúa, ngài đã bỏ ý riêng mình để đón nhận Đức Maria về nhà mình.
Vâng lời Thiên Chúa, ngài đã mau mắn đem Đức Maria và Hài Nhi trốn sang Aicập.
Chính nhờ ảnh hưởng của một nền đạo đức như vậy mà Đức Giêsu trở nên người
con hằng “đẹp lòng Chúa Cha”. Cuộc đời Chúa Giêsu cũng tiếp nối bằng hai chữ
“xin vâng” theo thánh ý Chúa Cha như thánh Giuse và Đức Maria:
Vâng lời Chúa Cha từ trời cao Người xuống thế, từ Vị Thiên Chúa trở nên
người phàm, từ Đấng Thánh Thiện lại gánh lấy tội nhân. Người vốn là giàu sang
lại trở nên nghèo khó…; và Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Vì thế nên Người hằng xác quyết: “lương thực của Ta là làm theo Đấng đã sai Ta”
(Ga 4,34). Ngoài việc vâng lời Chúa Cha, Đức Giêsu còn luôn vâng lời thánh
Giuse và Đức Maria: “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazarét và hằng
vâng phục các ngài” (Lc 2,51).
Vậy những bậc cha mẹ cũng hãy noi gương thánh Giuse, quan tâm giáo dục con
mình phát triển toàn diện. Trung thành giáo dục như thế mới hy vọng con chúng
ta trở nên tốt.
Cùng với Giáo Hội, chúng ta cũng đang sống trong tâm tình của mùa chay
thánh. Nếu mùa chay Giáo Hội mời gọi chúng ta trở về, thì trước hết, chúng ta
hãy bắt đầu trở về với chính mình, với những bổn phận của người chồng-vợ, người
cha-mẹ, người gia trưởng-hiền mẫu trong gia đình mình, bằng việc noi gương
thánh Giuse trung thành trong vai trò bảo trợ gia đình, trung thành trong trách
nhiệm làm cha-mẹ và nhất là trung thành trong việc giáo dục con mình trở thành
người và thành người con Chúa.
Vì sự sống và hạnh phúc gia đình, xin cho các gia trưởng-hiền mẫu quyết sống với hai chữ Trung Thành theo gương thánh Giuse. Amen.
Suy niệm 4:
Thánh Giuse được gọi là đấng công chính. Bởi nơi ngài có những nhân đức cao
quý, đáng được GH gọi tên là vị thánh cả.
Trong kinh cầu thánh Giuse, GH đã nêu lên cụ thể những tước hiệu cao trọng
nơi thánh cả Giuse; và qua đó GH mời gọi mọi tín hữu tìm đến với ngài để chiêm
ngắm, cầu nguyện và nêu gương bắt chước.
Vừa qua vào ngày 8/12/2020 nhân kỉ niệm 150 (8/12/1970-8/12/2020), thánh
Giuse đã được chân phước Đức Giáo Hoàng Pio IX chọn làm thánh quan thầy cho
toàn thể GH công giáo, đức thánh cha Phanxicô đương nhiệm đã mở ra “năm kính
thánh Giuse đặc biệt” và ban hành tông thư “Patris Corde” (Trái tim của người
cha). Trong tông thư này, đức thánh cha Phanxicô đã nêu lên 7 chiều kích linh
đạo căn bản của thánh Giuse đó là: người cha yêu thương, dịu dàng từ ái, vâng
phục, chấp nhận, can đảm sáng tạo, làm việc chăm chỉ và bóng tối thầm lặng. Qua
đó Đức Thánh Cha muốn mời gọi mọi tín hữu hãy can đảm đi vào con đường linh đạo
của thánh Giuse.
Tuy thánh Giuse thầm lặng không nói gì, nhưng khi chiêm ngắm đời sống và
hành trình cuộc đời của thánh nhân trong suốt những năm trần thế ta lại nhận ra
thánh nhân nói với ta rất nhiều về những nhân đức quý giá trong cuộc sống.
Chiêm ngắm thánh Giuse trong bài tin mừng hôm nay, ta nhận ra ít là hai
nhân đức cao quý mà thánh Giuse muốn dạy chúng ta:
1. Luôn vâng nghe và khiêm tốn thực hành ý Chúa: Nhờ cầu nguyện trong
chiêm niệm mà thánh Giuse đã nhậy bén nhận ra thánh ý Chúa trong mọi phút giây
của đời sống. Biến cố Đức Maria mang thai bất ngờ, thánh nhân là người công
chính nên đã định tâm lìa bỏ cách kín đáo, nhưng sau khi nghe biết đó là thánh
ý của TC qua lời truyền tin của thiên thần Gabriel, thánh Giuse đã mau mắn bỏ ý
riêng để thi hành thánh ý Chúa trong tin yêu và vâng phục là đón nhận Đức Maria
và Con TC tượng thai trong lòng trinh nữ Maria về nhà mình để bao bọc, dưỡng
nuôi.
2. Yêu quý giá trị của thinh lặng: Đọc lại 4 phúc âm chúng ta không thấy lời nào của
thánh Giuse. Thánh Giuse quả thật có đời sống thinh lặng sâu xa, không phải vì
thánh nhân sợ nói ra thì mất lòng người khác; cũng không phải vì thanh quản của
thánh nhân có vấn đề, nhưng có lẽ vì thánh kinh muốn đề cao giá trị của thinh
lặng của thánh nhân. Bởi thinh lặng là vàng. Chính trong thinh lặng mà tâm hồn
của thánh Giuse mới được lắng đọng và trong suốt, nhờ đó ngài dễ dàng nhận ra
đâu lá ý mình và đâu là ý Chúa trong những biến cố xảy ra hàng ngày.
Hơn nữa có lẽ thánh Giuse cũng không thích đề cao bản thân và hô hào cho
mọi người biết về sứ mạng cao quý mà TC trao phó cho ngài trong việc bảo trợ và
dưỡng nuôi Con TC làm người; cũng như ngài được vinh dự cộng tác với TC trong
chương trình vĩ đại là cứu độ nhân loại.
Trong thinh lặng và tích cực chu toàn bổn phận, thánh Giuse đã hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ mà Thiên Chúa trao phó.
Hôm nay mừng kính trọng thể thánh Giuse là bổn mạng của GH hoàn vũ, của GH
Việt Nam, bổn mạng của nhiều họ đạo, của hội dòng Mến Thánh Gía, của khá đông
quý cha, quý tu sĩ và quý anh em gia trưởng, ta hãy nguyện xin cho mọi người
trong GH luôn biết noi gương thánh cả Giuse yêu quý đời sống thinh lặng, biết
khiêm tốn lắng nghe lời Chúa và luôn can đảm từ bỏ ý riêng để thi hành thánh ý
Chúa như thánh Giuse.
Nguyện xin Chúa qua lời chuyển cầu của thánh Giuse thương ban nhiều ân sủng, niềm vui, bình an cho GH và mọi người nhờ sự bảo trợ hộ giúp của thánh Giuse, bạn trăm năm của Đức Maria.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét