Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 25 tháng 4, 2024

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN V PHỤC SINH

Lm. Nguyệt Giang

CHÚA NHẬT V PHỤC SINH-B

Cv 9,26-31; 1Ga 3,18-24; Ga 15,1-8

Suy niệm 1: 

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hình ảnh quen thuộc cây nho và cành nho, để nói lên sự gắn kết sâu xa giữa Ngài với mỗi người chúng ta. Chỉ vì tình yêu Chúa Giêsu ở lại với chúng ta và mong muốn chúng ta ở lại trong Ngài để tiếp nhận sự sống dồi dào do Ngài thông ban. Nhờ thế, chúng ta mới có thể trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành, dâng hiến cho Chúa và ban tặng cho nhau.

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu sánh ví Ngài như là cây nho được Chúa Cha trồng xuống thế gian. Chúng ta được ví như là những cành nho kết hiệp mật thiết với thân nho là Chúa Giêsu.

Mục đích của người trồng nho là nhằm thu hoạch thật nhiều hoa trái  thì mới làm hoan hỉ cõi lòng của chủ vườn. Chúa Giêsu cũng mong muốn chúng ta trổ sinh nhiều hoa trái tốt tươi qua các việc lành phúc đức, qua những hy sinh phục vụ mang lại ích lợi cho nhiều người để làm vinh danh Chúa.

Muốn được như vậy, thì cành nho cần thỏa mãn hai điều kiện:

1. Gắn liền với thân nho.

Cành nào càng gắn kết với với thân nho thì mới được tươi tốt và sinh nhiều hoa trái. Cũng vậy để có đời sống sung mãn và sinh nhiều hoa trái thiêng liêng tốt lành, chúng ta phải liên kết chặt chẻ với Chúa Giêsu bằng đời sống cầu nguyện và năng lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể.

2. Phải được chăm sóc và chịu cắt tỉa.

Niềm vui của người trồng nho là làm sao cho vườn nho sinh thật nhiều hoa trái tốt lành. Vì thế, chủ vườn nho phải không ngừng chăm sóc và cắt tỉa những cành nho chu đáo. Cũng vậy, để sinh thật nhiều hoa trái tốt lành, Thiên Chúa không ngừng chăm sóc chúng ta bằng Lời của Chúa, bằng những ân sủng qua các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể; song song đó, Chúa còn hằng cắt tỉa chúng ta bằng những gian nan thử thách, ngay cả việc cho những điều trái ý, thất bại và đau khổ xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Nhờ những biến cố đó mà ta được thanh luyện mỗi ngày, trở nên dạn dày, mạnh mẽ, kiên cường và thanh sạch hơn.

Xin cho chúng ta biết sống gắn bó mật thiết với Chúa và với nhau, luôn tin tưởng phó thác vào ơn ban và sức mạnh của Chúa; nhất là can đảm để cho Chúa cắt tỉa những thói hư tật xấu và tội lỗi của mình. Nhờ thế, cuộc sống của ta mới có thể trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành dâng hiến cho Chúa và mư cầu ích lợi cho tha nhân. Amen.


Suy niệm 2: (Dựa theo tư tưởng Lm.vCarolo Hồ Bặc Xái)

Với dụ ngôn “mục tử nhân lành”, tuần rồi Chúa dạy chúng ta phải sống hiệp thông và yêu thương. Lời Chúa tuần này khuyến cáo chúng ta rằng: tình yêu thật không phải chỉ là yêu thương bằng đầu môi chót lưỡi, nhưng phải sinh nhiều hoa trái. Những hoa trái ấy đối với Chúa là tuân giữ các điều răn của Ngài, và đối với người khác là những việc làm bác ái cụ thể.

Xin Chúa giúp cho tình yêu của chúng ta trỗ sinh được hoa trái tốt lành dâng hiến cho Chúa và cho đời.

Cùng với GH hoàn vũ, chúng ta hướng tới một hội thánh hiệp hành: hiệp thông-tham gia-sứ vụ. Như thế để thực hiện lối sống hiệp hành, trước hết ta phải củng cố sự hiệp thông. Hiệp thông trong Chúa và hiệp thông với nhau. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến sự hiệp thông. Chính nhờ củng cố sự hiệp trong Chúa mà ta mới múc lấy ân sủng và sức sống của Chúa để tham gia tích cực vào sứ vụ loan báo niềm vui tin mừng của Chúa đến cho mọi người.

- Bài đọc I, trích sách CVTĐ trình thuật cho ta biết: Đức Giêsu Phục sinh đã hiện ra với ông Saolô (Phaolô), không phải chỉ để thánh hóa ông, mà còn trao cho ông một sứ mạng: “Ngươi hãy đứng dậy vào thành, và có người sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì” (x. Cv 9,6). Ý thức về sứ mạng Chúa trao, Phaolô đã tìm mọi cách để nhập đoàn với các môn đệ. Nhưng bước đầu thật khó khăn vì mọi người vừa không tin, vừa còn sợ ông, bởi lẽ trước đây ông đã hăng say ra đi tiêu diệt các kitô hữu. Nhưng nhờ tông đồ Banaba đứng ra bảo lãnh nên Saolô mới được đón nhận. Thế là Saolô bắt đầu thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng.

Bài tường thuật kết thúc bằng bảng tóm lược những kết quả khả quan của việc rao giảng Tin Mừng.

- Bài đọc II, trích thư thứ nhất của thánh Gioan tông đồ, ngài nhấn mạnh đến những hành động cụ thể để biểu tỏ tình yêu. Tình yêu không chỉ cất giữ ở trong tim hay chỉ đặt nó ở trên đầu môi chót lưỡi, mà quan trọng là thể hiện bằng những việc làm cụ thể để tuân giữ các điều răn do Chúa truyền dạy.

- Tin Mừng theo Thánh Gioan chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu dùng hình ảnh quen thuộc là cây nho và cành nho, để nói đến sự hiệp thông sâu xa giữa Ngài với mỗi người trong chúng ta. 

Sự hiệp thông này không phải hời hợt bên ngoài nhưng sâu xa và chặt chẽ bên trong đến nỗi tuy hai nhưng thành một. Cây nho và cành nho tuy một bên là “cây” một bên kia là “cành”, nhưng cả hai đều là “nho”.

Sự hiệp thông này cũng rất cần thiết cho nhau. Tuy cây nho không cần đến cành nho lắm, nhưng cành nho thì nhất thiết phải cần “ở lại” trong cây nho.

Sự hiệp thông này cũng phải thật vững bền, nghĩa là phải kéo dài mãi mãi, không thể chia cắt được. Một khi cành nho không liên kết với cây nho thì nó không còn là cành nho nữa, nó sẽ trở nên khô héo, chỉ còn dùng làm củi đốt đi mà thôi.

Vì sự hiệp thông rất quan trọng nên bài tin mừng hôm nay chỉ có 8 câu, nhưng trong đó Chúa Giêsu đã nói đến 8 lần động từ “ở lại” và 6 lần cụm từ “sinh hoa trái”. Tôi xin trích đọc một vài câu sau đây:

- Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em.

- Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế nếu không ở lại trong Thầy.

- Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều trái.

- Ai không ở lại trong Thầy thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo.

- Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý.

Vậy là đã rõ mục đích của sự hiệp thông hay ở lại trong Chúa và với nhau. Đó là để ta sinh được nhiều hoa trái tốt lành.

Ở lại trong Đức Giêsu là điều kiện sống còn đối với người Kitô hữu chúng ta. Vì thế mà Chúa Giêsu tha thiết mời gọi chúng ta hãy “ở lại” trong Ngài để Ngài được ở lại trong ta: “Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em”. Nhờ ở lại trong Chúa, ta mới múc lấy ân sủng và sự sống của Chúa trao ban. Từ đó đời ta mới có thể sinh nhiều hoa trái tốt lành dâng kính Chúa và phục vụ mọi người. Chúa còn hứa cho những ai ở lại trong Lời của Ngài thì xin gì thì Chúa cũng nhậm lời. Nên sẽ rất tai hại nếu ta “không ở lại trong Chúa”, khi ấy ta sẽ bị quăng ra ngoài, sẽ khô héo, và không thể sinh hoa kết trái được. 

- Như thế, người Kitô hữu nếu muốn sống phong phú thì phải sống trong Đức Giêsu và sống bằng sức sống của Ngài “Thầy là cây nho, các con là nhành... Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều trái”

- Người Kitô hữu muốn trỗ sinh nhiều hoa trái tốt lành, thì cũng phải chấp nhận để cho mình “được Thiên Chúa cắt tỉa”.

- Người Kitô hữu muốn được Chúa đón nhận những lời cầu xin, thì phải để cho lời Chúa ở lại và hướng dẫn đời mình: “Nếu các con ở trong Thầy và Lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin, và sẽ được”.

Nhưng làm thế nào để ta được “ở lại” trong Chúa?

Thưa đối ta phải ghi nhớ và tuân giữ những lời Ngài dạy bảo, ngang qua việc siêng năng cầu nguyện và năng lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích thánh thể. Có hiệp thông sâu xa với Chúa như thế thì ta mới nhiệt tâm thi hành những điều luật do Chúa truyền dạy. Cụ thể là thực hành 14 mối yêu người, thương xác 7 mối và thương linh hồn 7 mối. Làm được như thế là chúng ta đang thể hiện một lối sống hiệp hành: hiệp thông, tham gia, sứ vụ mà giáo hội mời gọi chúng ta hướng tới trong ngàn năm thứ ba này.

Để tóm kết bài chia sẻ hôm nay, tôi xin gửi đến cộng đoàn bài thơ có tựa đề: “Hoa Trái Tình Yêu” sau đây của tác giả Hai Lúa: 

Tuyên xưng: “Thiên Chúa Tình Yêu”.

Ta phải kết trái, sinh nhiếu hoa thơm.

Điều răn Chúa dạy chớ quên.

Yêu người, yêu Chúa hơn chính thân mình.

 

"Tình yêu hoa trái" phát sinh:

Tin thờ “Chúa Cả”, hết tình “anh em”.

Giê su, “nho thật” hãy xem;

Là Ki tô hữu anh em nhớ rằng:

 

Muốn nên phong phú ta cần.

“Trong Thầy ta sống, sinh phần trái sai";

"Cắt tỉa trong Chúa mỗi ngày".

Xin gì, “được nấy", ngày ngày Bình an.

 

Giê su nho thật “Cha ban”,

Là cành ta phải đeo mang bên Ngài.

Sinh hoa, kết trái quằn sai,

Để Chúa cắt tỉa mỗi ngày đời ta.

 

Hiệp thông, sứ vụ, tham gia.

Tin thờ Thiên Chúa, sống đời yêu thương.


Thứ hai: Cv 14,5-18; Ga 14,21-26.      

Nhớ Thánh Ca-ta-ri-na Si-ê-na, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh

Suy niệm 1:

Tuần này, phụng vụ lời Chúa bài đọc 1 tiếp tục mời gọi chúng ta đồng hành với Phaolô và Barnaba trên những nẻo đường truyền giáo cho dân ngoại lần thứ nhất. Đoạn sách Cvtđ hôm nay nói đến những vui buồn, sướng khổ khi thi hành sứ mạng truyền giáo.

-  Vui vì được nhiều người dân ngoại đón nhận Tin mừng của Chúa.

- Sướng vì khả năng được làm phép lạ do Chúa ban đã củng cố được niềm tin cho các tín hữu và góp phần thuận lợi cho sứ vụ loan báo Tin mừng.

Nhưng bên cạnh đó cũng gặp rất nhiều đau buồn.

- Buồn vì bị hiểu lầm bởi dân ngoại, bị ghi kỵ, làm nhục và chống đối liên tục bởi những người gốc Do Thái giáo.

- Đau vì ném đá, bị bắt bớ, bị đánh đập đến nữa sống nữa chết và bị trục xuất ra khỏi các thành của họ.

Nhưng cho dù sướng hay khổ, vui hay buồn, thành công hay thất bại vẫn không thể nào làm sờn lòng nản chí tông đồ Phaolô và Barnaba. Bởi hai ông luôn ý thức được truyền giáo chính là lệnh truyền tâm quyết do Chúa Giêsu phục sinh trao ban cho các ngài trước khi về trời: "Các con hãy đi giảng dạy muôn dânlàm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần." (Mt 28,19). 

Loan báo Tin mừng còn mang một giá trị cao quý khác, sứ mạng này không chỉ là bổn phận mà còn là ơn gọi cao quý gắn liền với cuộc đời của Phaolô đến nỗi sứ mạng này trở nên máu thịt của ngài. Nếu không thi hành sẽ cảm thấy xót xa và khốn khổ: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.”(1Cr 9,16).

Làm chứng nhân cho Chúa là một vinh dự cao quý do Chúa Phục Sinh trao ban, nhưng đây lại là nhiệm vụ đầy dẩy cam go thử thách. Tuy nhiên để thi hành nhiệm vụ này, Phaolô và Barnaba đã phải hy sinh bằng mồ hôi, nước mắt và sức lực, ngay cả phải hy mạng sống mình. Nhiệm vụ này không chỉ khó khăn đối với các tông đồ vào thời GH ban đầu mà ngay cả ngày nay nhiệm vụ này càng trở nên khó khăn hơn đối với GH, bởi cuộc sống hôm nay có quá nhiều hố sâu và rào cản ngăn cách con người... Vì thế, đòi hỏi con cái GH phải nỗ lực và hy sinh rất nhiều.

Xin cho chúng ta biết noi gương hai thánh tông đồ Phaolô và Barnaba góp phần tích cực vào công cuộc LBTM của GH, cho dù gặp phải những chống đối, ghi kỵ, loại trừ của con cái thế gian. Tin rằng một khi có Chúa ở bên nâng đỡ, bảo vệ, dự liệu và ban ân sủng thì sứ vụ cao cả này sẽ đạt kết quả tốt đẹp. Như Lời Chúa phán với Phaolô: “Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối.” (2Cr 12,9).


* Đọc thêm:

Để dễ nắm bắt đoạn sách Cvtđ này, ta có thể chia làm 3 phần:

1.  Sự việc xảy ra tại Icôniô.

Sau khi giũ bụi chân nhằm phản đối cách hành xử của những người gốc Do Thái tại Antiokhia miền Pixiđia. Phaolô và Barnaba đến Icôniô. Dù  đoạn tuyệt với người Do Thái, nhưng hai ông vẫn gắn bó với hội đường. Tại đây hai ông tiếp tục giảng dạy. Tương tự như những lần trước, tại đây bên cạnh thành công vì có rất đông người Do Thái và Hy Lạp tin theo nhưng cũng có người không đón nhận, nên họ mưu toan làm nhục và ném đá hai ông. Biết thế hai ông lánh sang các thành miền Lycaonia: Lytra, Đécbê, và vùng phụ cận.

2. Phép lạ tại Lýtra.

Tại đây hai ông tiếp tục rao giảng và làm phép lạ chữa cho một người bại hai chân từ lọt lòng mẹ được khỏi. Anh ta đứng dậy và đi được.

Lời tung hô dân chúng sau phép lạ: sau khi chứng kiến phép lạ đã tung hô hai ông như thần linh mặc lốt người phàm. Họ gọi ông Barnaba là thần Dớt (Zeus), ông Phaolô là thần Hécme (Hermes), vì ông là người phát ngôn. Họ đã đem bò và vòng hoa đến trước cổng thành, và cùng với đám đông, muốn dâng lễ tế.

(Zeus và Hermes là hai thần của người Hy-lạp. Zeus được xem như vua của các thần Hy-lạp, và quan thầy của những người làm nghề trồng cấy. Có lẽ vì lý do này mà Phaolô muốn nói với dân thành: không phải Zeus ban mưa từ trời và mùa màng; nhưng là chính Thiên Chúa ban. Hermes là con của Zeus với Maia; được xem là quan thầy của những người lữ hành, tội nhân, và gái điếm. Hermes là sứ giả và đem những sứ điệp của các thần cho con người.)

3. Phản ứng của Phaolô và Barnaba.

- Barnaba và Phaolô xé áo mình ra: Tỏ thái độ tức giận vì họ đã đặt mình ngang hàng với TC và buồn phiền vì cảm thấy bản thân xúc phạm đến Thiên Chúa.

- Sau đó hai ông giải thích cho họ hiểu rằng: “Chúng tôi đây cũng chỉ là người phàm, cùng thân phận với các bạn”. Rồi kêu gọi họ: “hãy bỏ những cái hão huyền này đi, mà trở lại cùng Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó”.

 

Suy niệm 2:

Có yêu nhau thì mới sẵn sàng lắng nghe và làm theo điều người yêu mình mong muốn. Đứa con có yêu cha mẹ thì mới trân trọng lắng nghe lời cha mẹ khuyên dạy và vui mừng thực hiện những điều cha mẹ chỉ bảo. Cũng vậy nếu chúng ta yêu mến Chúa thì chúng ta mới nghe lời và sẵn lòng làm theo lời Chúa dạy.

Không phải bất cứ ai lãnh nhận bí tích rửa tội thì hẳn nhiên trở nên con cái đích thực của Thiên Chúa. Nhưng để nên con cái đích thực của Chúa: 

Trước hết chúng ta phải có lòng yêu mến Chúa, bằng cách đặt Chúa vào vị trí cao nhất trong cuộc đời của ta. Ưu tiên chọn Chúa làm giá trị hàng đầu trong cuộc sống mình.

Thứ đến phải gắn bó với Chúa mật thiết. Định luật tình yêu dạy ta hiểu rằng: Yêu ai thì “ở gần” người đó, yêu ai thì muốn “ở bên” người đó và yêu ai thì muốn “ở với” và “ở trong” người mình yêu để trở nên một với người ấy.

Cuối cùng dấu hiệu người có lòng yêu mến Chúa đích thực đó là luôn tuân giữ lời Chúa. Thước đo của lòng yêu mến nơi chúng ta nhiều hay ít hệ tại ở việc chúng ta có tuân giữ lời Chúa nhiều hay ít. Nếu chúng ta nói chúng ta yêu mến Thiên Chúa mà chúng ta không thực hành lời Chúa dạy, thì có khác gì đứa con “gọi dạ bảo vâng”, nhưng chỉ vâng vâng, dạ dạ mà không làm theo lời cha mẹ chỉ dạy, thì tình yêu đó chỉ là thứ tình yêu giả hình, thứ tình yêu đầu môi trót lưỡi. Tình yêu đó chỉ là nhãn hiệu, là cái mác mà thôi. Vì thế, Chúa Giêsu luôn nhấn mạnh đến lợi ích và giá trị của việc nghe và làm theo lời Chúa: “Nghe và thực hành lời Chúa giống như người khôn xây nhà trên nền đá”; “hãy làm theo lời Chúa chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình”. Lý thuyết và thực hành phải đi đôi mới giá trị và có ích lợi, bởi vì nếu “đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 17).

Xin Chúa cho chúng ta luôn hết lòng tuân giữ và thực hành lời Chúa bằng tình yêu mến. Biết đặt Chúa vào vị trí quan trọng trong cuộc sống và sẵn sàng chọn Chúa làm gia nghiệp đời ta. Làm được như thế chứng tỏ là chúng ta yêu mến Chúa và xứng danh là con cái đích thực của Chúa.

 

Thứ ba: Cv 14,19-28; Ga 14,27-31a.

Suy niệm 1.

Nhìn lại trong suốt cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất của Phaolô và Barnaba, chúng ta nhận thấy những điểm đáng chú ý sau:

- Lòng nhiệt tâm truyền giáo của Phaolô và Barnaba: Hai ông miệt mài rao giảng Tin mừng cho dân ngoại dù gặp phải biết bao nhiêu là khó khăn: Phải vượt qua đường sá xa xôi, cách trở; kiên trì chịu đựng bao là nguy hiểm: chống đối, bắt bớ, ghen tị, tù đày, ném đá …; luôn thao thức ra đi tìm đến những vùng đất mới để gieo vãi hạt giống đức tin,.

- Đến đâu rao giảng các ông cũng đều bị những người Do Thái kéo đến để chống phá. Đoạn sách Cvtđ hôm nay là một ví dụ: "Bấy giờ có những người Do-thái từ Antioch và Iconium đến Lystra, thuyết phục được đám đông. Họ ném đá ông Phaolô rồi lôi ông ra ngoài thành, vì tưởng ông đã chết. Nhưng khi các môn đệ xúm lại quanh ông, ông đứng dậy và vào thành. Hôm sau, ông trẩy đi Đécbê cùng với ông Barnaba". Tại đây các ông tiếp tục rao giảng và giúp nhiều người tin vào Chúa Giêsu.

- Điều đáng nói là cứ sau một chuyến truyền giáo khi trở về Giêrusalem, Phaolô và Barnaba đều ghé lại thăm viếng một số nơi mà các ông đã đi qua. Với mục đích là khích lệ và củng cố đức tin cho họ; tổ chức lại cộng đoàn và chỉ định các kỳ mục thay mặt các ông coi sóc và chăn dắt cộng đoàn; sau đó các ông cầu nguyện và phó dâng các cộng đoàn cho Thiên Chúa.

- Khi điểm lại hành trình truyền giáo lần thứ nhất này ta nhận thấy hai ông đã đi qua tất cả 8 thành. (Bắt đầu từ Antiôkhia của Syria đến Xalamin và Paphô của đảo Sýp, đến Pécghê, Antiôkhia của Pixiđia, đến Icôniô, Lýtra, Đécbê, và theo đường cũ trở lại Pécghê, rồi từ Pécghê đến Áttalia, trở về Pécghê và dùng thuyền trở về Antiôkhia của Xyria). Đây là cuộc hành trình ngắn nhất trong 3 cuộc hành trình của Phaolô rao giảng Tin mừng cho dân Ngoại. Khi trở về Antiôkhia, hai ông tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông, và việc Người đã mở cửa cho các dân ngoại đón nhận đức tin. Rồi hai ông ở lại một thời gian khá lâu với các môn đệ trước khi bắt đầu cuộc hành trình thứ hai.

Tạ ơn Chúa đã ban cho GH những nhà truyền giáo nhiệt tình, đã sẵn sàng chịu mọi gian lao thử thách, ngay cả tính mạng, để gieo vãi hạt giống đức tin khắp mọi nơi. Nhờ ơn Chúa mà hạt giống quý giá ấy được gieo vào lòng đất Việt Nam. Cha ông chúng ta đã tiếp nhận, củng cố và nuôi dưỡng bằng máu nhờ thế mà hạt giống đức tin được sinh hoa trái dồi dào. Xin cho chúng ta biết trân trọng bảo vệ, nuôi dưỡng và gieo vãi hạt giống đức tin ấy khắp nơi và vào mọi tâm hồn, ngỏ hầu mọi người đón nhận được niềm vui Tin mừng cứu độ của Chúa.

 

Suy niệm 2.

Thiên tai, dịch bệnh, nghèo đói, đam mê tội lỗi, hận thù ghen ghét… tất cả những mối hiểm họa ấy như dâng tràn trong thế giới ngày nay, khiến cho lòng người đầy sóng gió và bất an. Xin Chúa thương ban bình an của Chúa cho chúng con, sự bình an đích thực trong tâm hồn như lời Chúa đã hứa.

Chưa bao giờ con người lại phải đối diện trước những lo âu, bối rối, sợ hãi và bất an như ngày hôm nay. Chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh… xảy ra hàng ngày trên khắp cùng trái đất. Thất nghiệp, vật giá leo thang, trộm cắp… gia tăng đến mức báo động.  Ly dị, phá thai, bất trung, tệ nạn xã hội …không ngừng gia tăng. Vì thế hơn lúc nào hết, con người ngày hôm nay luôn khao khát có được cuộc sống bình an đích thực.

Để chốn chạy nỗi lo sợ, buồn phiền, bất an, con người thường chỉ biết dựa vào của cải vật chất để trấn an tâm hồn đấy bất an. Chẳng hạn như:  Mua bảo hiểm xe cộ, nhà cửa, nhân mạng, y tế…Hằng đêm mơ mộng để đánh con số đề, mua tấm vé kiến thiết hy vọng bớt đi những lo âu về tiến bạc. Kẻ thì lao mình vào rượu chè và những thú vui khác để tìm những phút giây thoải mái quên đi chuyện đời. Người thì uống thuốc an thần để đi tìm giấc ngủ hy vọng quên đi những muộn phiền. Kẻ dễ tin thì đi tìm thầy bói, thầy tướng, thầy số… để kiếm tìm hậu vận cho tương lai. Người giàu có thì gởi tiền và vàng vào ngân hàng để được an tâm… Nhưng tất cả những việc làm ấy chỉ là giải pháp tạm thời, thiếu căn cơ và không bền vững nên không thể đem lại nguồn bình an đích thực cho tâm hồn. Vì thế, Chúa Giêsu nói với các tông đồ: “sự bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng” (Ga 14, 27).

Bình an của Ngài không phải là thứ bình an bên ngoài, giả tạo. Nhưng là bình an bên trong, nghĩa là không giống như sự yên ổn hay hòa bình, vì yên ổn hay hòa bình là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong.

Bình an là tình trạng tâm hồn đang tương quan tốt với Thiên Chúa và tha nhân. Bình an của Chúa là bình an khi có Chúa làm chủ đời sống mình, luôn tin tưởng, phó thác và vâng theo ý Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời. Bình an của Chúa là có một tâm hồn trong sạch, được giao hòa với Chúa và anh em. Bình an của Chúa ban tặng còn được hiểu là bình an với anh em mình. Sống hoà thuận với nhau, không thấy mình có điều gì làm phiền lòng anh em và thấy anh em không có điều gì làm phiền lòng mình.

Chỉ có bình an của Chúa mới làm cho chúng ta được hạnh phúc. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhờ thông hiệp mật thiết với Thiên Chúa Cha nên Ngài luôn thấy bình an ngay khi kẻ thù đang đến gần và sắp giết chết Ngài.

Thế giới ngày hôm nay như đang sống trên một lò lửa. chíến tranh, khủng bố, thiên tai, động đất, khủng hoảng kinh tế, ô nhiễm môi trường…, thế gian chưa có bình an nên Bình An của Chúa Giêsu ban tặng vẫn còn nguyên giá trị cho nhân loại, cho những tâm hồn đang khắc khoải tìm kiếm bình an trong cuộc sống. Mỗi người phải có bình an của Chúa mới có thể sống an bình với mọi người. Muốn có bình an ở bình diện lớn thì phải bắt đầu từ những bình diện nhỏ, là nơi mỗi người chúng ta. Không ai cho cái mình không có. Sự bình an bắt đầu từ lòng mình rồi mới lan tỏa ra xã tắc nhân quần, như cổ nhân nói: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.


Thứ tư: Cv 15,1-6; Ga 15,1-8

KÍNH THÁNH GIUSE THỢ-THÁNG HOA KÍNH ĐỨC MẸ MARIA

Suy niệm 1: 

Công cuộc truyền giáo cho dân ngoại của Phaolô và Barnaba luôn vấp phải những khó khăn và chống đối.

- Khó khăn trong chọn lựa: cần phải giữ những gì và nên bỏ những gì khi người dân gốc Do Thái và dân ngoại gia nhập Kitô giáo? Cụ thể là 2 vấn đề chính: Dân ngoại có phải cắt bì và giữ Lề Luật như người gốc Do Thái khi tin theo Kitô Giáo không? Nếu buộc dân ngoại tuân giữ thì lại ảnh hưởng đến truyền thống văn hóa của họ. Còn nếu chuẩn miễn thì gặp phải sự chống đối của người gốc Do Thái.

- Chống đối bởi người Do Thái: Đọan sách Cvtđ hôm nay nói đến sự chống đối quyết liệt của người Do Thái nhằm bảo vệ quan điểm mình. Họ từ Giuđa đã đến tận Antiôkhia để tỏ thái độ chống đối Phaolô và Barnaba bằng cách buộc những tín hữu gốc dân ngoại phải cắt bì: "Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ". Chính vì  lý do này đã khiến cho Phaolô và Barnaba phản ứng lại mạnh mẽ với họ. Cuối cùng, Phaolô và Barnaba cùng với một vài người khác phải về Giêrusalem gặp các Tông đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận này.

Điều này làm cho chúng ta nghĩ đến việc truyển giáo tại quê hương Việt Nam lúc đầu cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là trong việc thờ cúng tổ tiên. Nhưng tạ ơn Chúa vì Giáo Hội chúng ta đã nhận ra và đã hội nhập dễ dàng nên công cuộc truyền giáo tại Việt Nam đã lan tỏa nhanh chóng.

Là người Việt Nam, xin cho chúng ta biết trân quý những giá trị truyền thống, văn hóa tốt đẹp của cha ông để lại. Tuy nhiên, nếu có sự khác biệt không thể dung hòa giữa truyền thống dân tộc và đức tin, chúng ta cần tìm đến ánh sáng Lời Chúa soi dẫn, nhất là đến những nhà hữu trách để được hướng dẫn để chúng ta có cách ứng xử theo đúng ý muốn của Chúa và GH.


Suy niệm 2: 

Khi rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu thích dùng những hình ảnh cụ thể, những câu chuyện gần gũi để trình bày những chân lý cao sâu và những bí nhiệm về nước trời. Nhờ đó, dân chúng dễ dàng nắm bắt những sứ điệp do Chúa truyền tải.

Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu nói đến mối tương quan mật thiết giữa chúng ta với Chúa qua hình ảnh thân nho và cành nho: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn” (Ga 15,1-2).

Giáo Hội là vườn nho, người trồng nho là Chúa Cha, cây nho chính là Chúa Giê-su, những người làm vườn nho là các vị mục tử, cha mẹ, thầy cô... và các cành nho là những người Ki-tô hữu.

Với hình ảnh cây nho và cành nho cho thấy việc gắn kết sâu xa không thể tách rời giữa Chúa Giêsu với chúng ta. Với sự gắn kết này nhắc chúng ta hiểu rằng: theo Đạo không chỉ là tuân giữ những điều răn như ăn ngay ở lành, mà cốt lõi của Đạo chúng ta là gắn kết đời mình với Chúa cách mật thiết đến độ: “Các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con.” Trở nên máu thịt trong nhau đến nỗi trở thành một với nhau “mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai”.

Nhờ sự gắn kết với Chúa nguồn sự sống đích thực, chúng ta mới được sự sống dồi dào của Chúa nuôi dưỡng mà trổ “sinh nhiều hoa trái” tốt tươi.

Hoa trái tốt tươi chính là những việc lành phúc đức. Mà những việc lành phúc đức trổ sinh không nhằm vì lợi ích cho mình mà là vì ích lợi cho tha nhân. Việc sinh nhiều hoa trái tốt lành ấy cũng không vì thế mà ta hãnh diện và tự mãn, nhưng trên hết là nhằm để tôn vinh danh thánh Thiên Chúa, Đấng trồng nho.

Ý thức điều này nên mỗi người chúng ta cần phải sống khiêm nhường khi thành công và không chán nản thất vọng khi gặp khó khăn, gian khổ.

Xin Chúa cho chúng ta biết luôn gắn kết mật thiết với Chúa trong mọi nơi mọi lúc để đời ta trổ sinh thật nhiều hoa trái tốt lành là những việc làm bác ái yêu thương, những nghĩa cử hy sinh phục vụ với hy vọng mang đến niềm vui và hạnh phúc cho đời, cho người và tôn vinh danh thánh TC.

* KÍNH THÁNH GIUSE THỢ

St 1,26-2,3; Cl 3,14-15,17,23-24; Mt 13,54-58

Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội chúng ta Mừng kính lễ thánh Giuse thợ, là Bổn mạng của anh em gia trưởng. Trong tình hiệp thông, chúng ta hãy chia sẻ niềm vui và chúc mừng anh em bằng 1 tràng pháo tay thật to.

Có thể nói Thánh cả Giuse có một vị thế rất quan trọng trước mặt Thiên Chúa. Vì thế mà nữ Têrêsa Avila đã quả quyết một cách mạnh mẽ rằng: “Chưa bao giờ tôi xin Thánh Giuse điều gì mà Ngài không nhận lời”

Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa, qua lời cầu bầu của Thánh cả Giuse, ban cho chúng ta, đặc biệt quý anh em gia trưởng, có thật nhiều sức khỏe, niềm vui và hăng say làm việc, nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất để nuôi sống bản thân gia đình, và góp phần thăng tiến xã hội .

Hôm nay cũng là ngày đầu tiên của tháng 5, chúng ta vui mừng đón chào Tháng Hoa dâng kính Mẹ Maria. Với muôn sắc hoa tươi thắm tỏa ngát hương thơm, hoà trong những lời kinh nguyện mân Côi thắm nồng tình yêu dâng kính Mẹ. Xin Mẹ Maria và thánh cả Giuse cầu bầu cùng Chúa ban cho mỗi người chúng ta luôn biết tin tưởng, phó thác vào tình yêu và sức mạnh của Chúa dẫu cuộc sống còn nhiều vất vả, khó khọc để ta chu toàn tốt bồn phận và trách nhiệm Chúa trao phó.

Ngày 1-5, Giáo hội mừng kính lễ Thánh Giuse thợ, bổn mạng của tất cả những người lao động và cũng được thế giới chọn làm ngày Quốc tế lao động. Điều này giúp cho chúng ta càng thấy rõ hơn nhu cần cần thiết và quan trọng của lao động trong đời sống con người.

1. Lao động là nhu cầu của con người.

Lao động là để mưu cầu vật chất cho nhu cầu sinh hoạt đời sống của con người, vì vậy mà người Việt có câu "tay làm hàm nhai" hay "có làm thì mới có ăn". Lao động cũng còn có thể giúp cho con người tránh xa những dịp tội không đáng có thường xảy ra trong cuộc sống, như người ta thường nói: “nhàn cư vi bất thiện”. Lao động cũng có nhiều hình thức khác nhau : lao động bằng khối óc, lao động bằng chân tay, lao động bằng máy móc. Cho dù bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng mục tiêu cuối cùng cũng là tìm kiếm hạnh phúc cho cuộc sống.

Trong thế giới hôm nay, khi mà đồng tiền trở thành sức mạnh thống trị, thì nó có thể biến con người lao động thành nô lệ tìm kiếm, nhiều người đã lao mình vào vòng xoáy của nó để tìm kiếm, càng tìm kiếm con người càng trở nên nô lệ cho nó. Thế là những mục đích tốt lành của lao động như kiếm tìm hạnh phúc, thăng tiến bản thân, tránh xa dịp tội, tăng thêm bạn hữu và tinh thần hiệp nhất cũng dần dần biến mất.

2. Ý nghĩa cao quý của lao động.

Trong sách Sáng thế ký chương thứ nhất cho chúng ta biết: Thiên Chúa, Đấng đã tạo dựng con người và vạn vật, tất cả đều tốt lành và Thiên Chúa đã trao ban cho nhân loại để con người sử dụng. Điều cốt yếu trong công cuộc sáng tạo, là phát xuất từ tình yêu trao ban nhưng không của Thiên Chúa. Như thế, để sống hạnh phúc bên Thiên Chúa và hưởng dùng những tạo vật Chúa ban cho, con người phải luôn luôn cố gắng, để mỗi ngày mình được trở nên giống Thiên Chúa, và đồng thời phải lao động, cộng tác với ơn Chúa làm cho mọi tạo vật ngày càng trở nên hoàn hảo hơn. (x. St 1,1-31)

Chính Chúa Giêsu là nhân danh Chúa Cha, làm theo ý muốn Chúa Cha khi Người nói : “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17) ; “Tôi nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi” (Ga 10,25). Ý muốn của Thiên Chúa Cha không gì khác hơn là muốn cho con người được sống và sống hạnh phúc. Như thế lao động không còn dừng lại ở chỗ tìm kiếm vật chất cho mình được sung túc hơn người, lao động cũng không dừng lại ở chỗ mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình, cũng không chỉ là để thăng tiến bản thân hay là tạo cho mình có một chỗ đứng vững chắc nào đó trong xã hội như quan niệm thông thường của con người, nhưng lao động đó là làm theo Thánh ý Thiên Chúa.

3. Noi gương thánh Giuse.

Khi nhìn vào đời sống thầm lặng của Thánh cả Giuse, người mà Kinh Thánh rất ít nhắc đến, nhưng mỗi lần nhắc đến là mỗi lần chúng ta nhìn thấy được thái độ tuyệt vời của Ngài khi biết đặt thánh ý Thiên Chúa trên hết mọi suy nghĩ và hành động của mình, và nhờ đó mà ngài xứng đáng người quản gia Chúa đã đặt để trông coi gia đình Chúa, xứng với danh hiệu là người công chính, được chọn làm người dưỡng nuôi Chúa Giêsu và chăm sóc cho Đức Maria.

Mừng kính lễ Thánh Giuse thợ hôm nay, chúng ta cùng cảm tạ Chúa đã thương ban cho chúng ta được làm con cái Chúa, cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta Thánh cả Giuse làm mẫu gương lao động cần cù, khiêm tốn và tín thác.

Xin Chúa cho chúng ta noi gương Thánh Giuse biết tin tưởng, tín thác và làm theo ý Thiên Chúa trong đời sống lao động cần cù, chính đáng để mưu cầu hạnh phúc cho mình và cho tha nhân. Noi gương Thánh Giuse biết tin tưởng tín thác và sống đúng trách nhiệm của một người chồng, người cha trong đời sống gia đình, chu toàn bổn phận trong đời sống đức tin và nhất là hăng say trong đời sống nhân chứng. (St)


* THÁNG NĂM HOA LÒNG DÂNG KÍNH MẸ MARIA

Trong Giáo Hội, truyền thống dâng hoa kính Đức Maria luôn được giáo dân yêu thích. Việc tặng hoa, hay dâng hoa cho một ai đó nói lên tình yêu, lòng tôn kính và sự trân trọng của người trao dâng.

Hoa luôn là biểu tượng, ngôn ngữ sống động trong mối tương giao giữa người với người. Trong phụng vụ tôn giáo, hoa cũng có chức năng sống động nhằm biểu tỏ tấm lòng tôn kính và yêu mến của con người.

Tháng năm về, để biểu lộ lòng yêu mến và sùng kính Đức Mẹ Maria, GH muốn dâng lên Đức Mẹ những bó hoa xinh, nhiều sắc màu, ngạt ngào hương thơm thay cho tấm lòng thơm thảo của đoàn con Mẹ.

Có thể sánh ví mỗi sắc hoa tượng trưng cho một nhân đức của Mẹ Maria. Hoa thì muôn sắc, nhân đức của Mẹ Maria thì muôn vàn. Trong tháng năm này, chúng ta những người con bé nhỏ của Mẹ, muốn tôn vinh muôn vàn nhân đức của Mẹ, nhưng có lẽ trong muôn vàn nhân đức ấy, Mẹ chỉ mong muốn chúng ta chiêm ngắm và bắt chước Mẹ qua 5 nhân đức sáng ngời sau đây:

• Hoa Trắng: tượng trưng cho lòng tinh khiết vẹn tuyền, vô nhiễm nguyên tội của Mẹ. Cuộc đời chúng ta ngày nay gặp rất nhiều thử thách về nhân đức cao quý này.

Dâng lên Mẹ hoa trắng, chúng ta muốn tôn vinh sự trong trắng vẹn sạch của Mẹ và xin Mẹ giúp chúng ta vượt thắng những mời mọc quyến rũ xấu xa của thế trần.

• Hoa Vàng: Biểu tượng của lòng tin yêu, tín thác và cậy trông. Mẹ đã tuyệt đối xin vâng thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh, từ khi Truyền Tin cho đến cuộc Khổ Nạn của con Mẹ trên Thánh Giá.

Dâng lên Mẹ Hoa Vàng, chúng con muốn ca ngợi sự tin tưởng tuyệt đối của Mẹ vào Thiên Chúa và xin Mẹ cho chúng ta biết nhận ra tiếng Chúa mà thực thi ý Người trong đời sống.

• Hoa Tím: Sắc hoa của hy vọng, của niềm mơ ước. Mẹ Maria đã sống niềm hy vọng vào Lời Hứa Cứu Độ của Chúa. Nhờ sự hy sinh, hãm mình, Mẹ Maria đã biến niềm mơ ước thành sự thật và niềm hy vọng thành sự cứu rỗi.

Chúng ta dâng lên Mẹ Maria hoa tím để cảm tạ Mẹ vì những hoa trái của hy sinh mà Mẹ đã mang đến cho nhân loại và xin Mẹ giúp chúng ta vượt thắng những khuynh hướng xấu với niềm hy vọng tốt đẹp vào ngày mai.

• Hoa Đỏ: Tượng trưng cho nỗi nhọc nhằn hy sinh trong suốt 30 năm tần tảo nuôi Chúa Giêsu, và 3 năm ngược xuôi theo con mình trên mọi nẻo đường đầy cát bụi, sỏi đá cho sứ vụ rao truyền ơn Cứu Độ. Những làn roi, và từng mũi đinh mà Con Mẹ gánh chịu cũng chính là những dao sắc thâu qua trái tim Mẹ vậy.

Chúng ta dâng lên Mẹ hoa đỏ để cảm mến về những hy sinh mà Mẹ đã chịu và xin Mẹ giúp chúng ta biết can đảm cộng tác với ơn Chúa cho phần rỗi của mình và cho thế giới.

• Hoa Xanh: Tượng trưng cho sự thanh cao của tâm hồn. Như mây mưa không thể che khuất vừng trăng. Mẹ được ví như ngôi sao mai luôn toả sáng trên trời. Những đau khổ gian chuân không thể che khuất sự thanh cao rạng ngời của Mẹ.

Chúng ta dâng lên Mẹ Hoa Xanh để chúc tụng và tuyên dương nhân đức thanh cao của Mẹ. Xin Mẹ giúp chúng ta bảo toàn, gìn giữ và sống ơn gọi cao quý được làm con Thiên Chúa mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày chịu phép rửa tội sao cho xứng hợp. St

 

Thứ năm: Cv 15,7-21; Ga 15,9-11.

Nhớ Thánh A-tha-na-si-ô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh

Suy niệm 1:

Bài đọc 1, sách công vụ tông đồ hôm nay đề cập đến cuộc xung đột xảy ra giữa Phaolô và Barnaba với những tín hữu gốc Do Thái, và hướng giải quyết của Hội Thánh.

1. Xung đột xảy xa.

Như chúng ta biết hành trình truyền giáo lần thứ nhất của Phaolô và Barnaba gặp phải một khó khăn lớn, phát xuất từ hai phía:

- Từ phía dân ngoại: Họ cũng có những văn hóa truyền thống tốt đẹp của cha ông họ cần phải tôn trọng.

- Từ phía tín hữu gốc Do Thái giáo: Họ cũng muốn gìn giữ bảo vệ những tập tục và luật lệ truyền thống của cha ông họ như: cắt bì, không ăn thịt cúng, và giữ luật Môsê.

Để hội nhập vào nền văn hóa của dân ngoại, Phaolô và Barnaba đã chuẩn miễn cho những người tin theo Chúa gốc ngoại giáo không phải cắt bì và giữ truyền thống một số luật Môsê. Nhưng việc này đã gây ra sự chống đối mạnh mẽ đối với tín hữu gốc Do Thái. Họ đã đến giáo đoàn Antiôkhia tuyên truyền rằng: (1) Phaolô và Barnaba không phải là người hợp pháp do các tông đồ từ cộng đoàn mẹ Giêrusalem gửi đến và kêu gọi mọi người đừng nghe theo. (2) Để được cứu độ không chỉ tin vào Chúa Giêsu mà còn phải cắt bì và giữ luật Môsê nữa. Chính vì thế mà đã xảy ra xung đột nảy lửa giữa Phaolô, Barnaba với những người tín hữu gốc Do Thái.

2. Cách giải quyết xung đột.

Các tông đồ triệu tập họp công đồng chung tại Giêrusalem, để lắng nghe tiếng nói mọi người, nhằm đưa ra những quyết định thực hành.

- Lắng nghe:

 Lời phát biểu của Phêrô là tông đồ trưởng: ông nhắc lại kinh nghiệm mà ông có được khi là người đầu tiên được TC mời gọi đem Tin Mừng cho dân ngoại, cụ thể là gia đình ông Cornêliô. Rồi khuyên mọi người đừng “quàng vào cổ các môn đệ một cái ách”. Với lời khẳng định nhờ tin vào Chúa Giêsu mà được cứu độ chứ không phải chỉ giữ một số luật lệ truyền thống: “chính nhờ ân sủng Chúa Giêsu mà chúng ta tin mình được cứu độ”.

Lời phát biểu của Phaolô và Barnaba: Hai ông chỉ kể lại những biến cố mà hai ông trãi qua trong quá trình truyền giáo. Cho thấy chính Thiên Chúa đã dùng hai ông để rao giảng, làm dấu lạ cho dân ngoại và họ đón nhận ra sao. Tất cả như để xác tín và củng cố cho lập trường của Phêrô.

- Hướng giải quyết.

Tông đồ Giacôbê, Giám mục Giêrusalem đã dung hòa bằng phán quyết: "Không được gây phiền hà cho các tín hữu gốc dân ngoại, nghĩa là không đòi buộc họ cắt bì và giữ luật Môsê. Khuyên họ giữ một ít tập tục: kiêng thức ăn ô uế, tránh gian dâm, kiêng ăn tiết hay loài vật không cắt tiết (vật chết ngạt)."

Lời đề nghị này đã làm hài lòng các tín hữu gốc dân ngoại cũng như tín hữu gốc Do Thái giáo.

Đời sống đạo của chúng ta có lúc cũng gặp phải những khó khăn,  ước gì chúng ta cũng biết tìm đến các vị hữu trách để xin sự hướng dẫn của các ngài. Cũng vậy nếu trong đời sống gia đình hay cộng đoàn chẳng may xảy ra xung đột, ước gì chúng ta cũng biết bình tỉnh ngồi lại để lắng nghe và thông cảm cho nhau. Nhất là biết dựa trên giới luật tình yêu của Chúa và giáo huấn của GH mà tìm đến lợi ích chung trong đời sống.


Suy niệm 2

Người đời thường nói: “Yêu là khổ, không yêu thì lỗ, thà chịu khổ chứ không chịu lỗ”. Nhưng cái khổ lớn nhất không phải là yêu, mà là bị người mình yêu từ chối tình yêu. Đúng vậy, yêu mà bị phản bội thì đau tê tái lòng! Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã thí mạng mình vì chúng ta và mong muốn chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài. Nhưng nhân loại hình như đã hững hừ trước tình yêu của Chúa. Vì thế, Ngài tha thiết kêu mời chúng ta: “Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”, bằng cách tuân giữ giới răn của Ngài. Khi ấy ta cảm nhận được niềm vui trọn vẹn.

Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy.” Chúa Giêsu là tình yêu hữu hình của Chúa Cha dành cho chúng ta những người con yêu dấu của Chúa.

Vì tình yêu, Chúa Giêsu chấp nhận sinh ra mang thân phận con người để ở giữa loài người chúng ta.

Vì tình yêu, Chúa Giêsu đã chấp nhận chịu đói, chịu khát… và bôn ba đi khắp các nẻo đường đất nước Do Thái để rao giảng Tin mừng, làm phép lạ cứu chữa những ai đau khổ.

Cũng chính vì yêu, Chúa Giêsu đã chấp nhận đi vào con đường thập giá chịu đau khổ và sẵn sàng đón nhận cái chết đau thương trên thập giá vì tội lỗi chúng ta. Rồi Chúa đã phục sinh vinh hiển mang lại niềm vui và hy vọng lớn lao cho tất cả chúng ta. Nhưng vì muốn ở lại mãi với nhân loại, Chúa Giêsu đã ban lời giáo huấn và giới luật yêu thương. Đặc biệt với sáng kiến tuyệt diệu, Người đã thiết lập các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể, để qua đó ở lại mãi mà ban ân sủng dồi dào cho chúng ta.

Tình yêu Chúa thật quá cao vời. Sẵn sàng chấp nhận mọi gian lao đau khổ, ngay cả hy sinh tính mạng mình để được “ở lại” với chúng ta. Vì thế, Chúa cũng mong mỏi chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài, nên tha thiết mời gọi tất cả chúng ta: “Hãy ở lại trong tình thương của Ngài”.

Ở lại trong tình thương của Chúa, được thể hiện qua việc tuân giữ giới răn của Ngài. Bởi lẽ  thánh Phaolô trong gửi tín hữu Rôma đã nói: “Không sống theo luật, luật mới do Thánh Linh là sống phản với Thánh Linh, mà Thánh Linh chính là tình yêu Thiên Chúa”. Thánh Gioan cũng nói: “Ai giữ luật Chúa thì ở lại trong Ngài và Ngài ở lại trong kẻ ấy”. Không ai có thể nói tôi yêu mến Chúa mà không thực hiện lời Ngài.

Kinh nghiệm cho thấy, khi tôi yêu mến ai thì bất cứ việc to, việc nhỏ, việc nặng, việc nhẹ người ấy nhờ tôi, tôi sẵn sàng làm, có khi người ấy không nhờ tôi cũng làm miễn sao đẹp lòng người mình yêu. Như thế muốn ở lại trong tình yêu Chúa, chúng ta phải thực hành lời Chúa. Nghĩa là thực hiện điều Chúa truyền dạy, mà lời dạy của Chúa chính là giới răn yêu thương khuyên dạy.

Trung thành sống trọn tình mến Chúa, yêu người là ta đã ở lại trong Chúa và khi đó chúng ta sẽ được Chúa ban cho niềm vui trọn vẹn là được sống mật thiết với Chúa ngay ở đời này và cho đến đời sau.


Suy niệm 3:

Thứ năm GH có thói quen tưởng niệm việc Chúa Giêsu lập BTTT, Truyền chức LM và trao ban giới luật yêu thương. Xin cho chúng ta cảm nhận được tình yêu Chúa dành cho ta và cho ta biết “ở lại trong tình yêu Chúa”, qua việc để tâm lắng nghe và tuân giữ lời Chúa truyền dạy, nhờ đó mà ta mới có được niềm vui trọn vẹn.

Cuộc sống cần niềm vui. Nhưng chưa bao giờ niềm vui ở đời này nên trọn vẹn cả. Bởi lẽ tiền bạc, của cải, danh vọng, lạc thú… ở trần gian đều là phù hoa mau tàn. Như lời của tác giả Nguyên Kha trong một bài thánh ca: “Hoa nào không phai tàn? Trăng nào không khuyết? Ngày nào mà không có đêm? Yến tiệc nào không có lúc tàn???” (Phù hoa nối tiếp phù hoa).

Tuy nhiên tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho các môn đệ cũng như chúng ta biết có một thứ niềm vui nên thành toàn và trọn vẹn. Niềm vui ấy chỉ có được khi chúng ta biết “ở lại trong tình yêu của Chúa”. Nhưng làm thế nào ta được ở lại trong tình yêu Chúa? Thưa đó là tuân giữ lệnh truyền của Chúa Giêsu. Đó là tuân giữ và sống giới luật yêu thương mới do Ngài Truyền dạy: “Yêu như Chúa yêu”.

Xin cho chúng ta biết ở lại trong tình yêu của Chúa qua việc chuyên chăm cầu nguyện, siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ, và tích cực lắng nghe và thực hiện lệnh truyền yêu thương của Chúa, được vậy thì niềm vui mới nên trọn vẹn trong tâm hồn ta.


Thứ sáu: 1Cr 15,1-8; Ga 14,6-14

KÍNH THÁNH PHI-LIP-PHÊ VÀ THÁNH GIA-CÔ-BÊ, TÔNG ĐỒ

Suy niệm 1:

Thánh Philipphê thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế chúng con mãn nguyện.” (Ga 14,8). Ước muốn của Thánh Philipphê cũng chính là niềm khát khao của con người mọi thời vì: “chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.” (Tv 62,1). Thế nên, dọc dài thời gian, xuất hiện rất nhiều bậc hiền nhân đưa ra những phương cách, lời hay ý đẹp để giúp con người thấu đạt Thượng Đế. Nhưng không một ai đưa con người đến được với Thiên Chúa; ngoại trừ Chúa Giêsu, Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúa Giêsu xuất phát từ Thiên Chúa, là dung nhan lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Chúa biết cách nói về Thiên Chúa, dạy cho con người chân lý yêu thương đích thực. Hơn hết, Chúa Giêsu chính là Con Đường để con người bước vào sự sống của Thiên Chúa.

Con Đường Giêsu đã được khẳng định rõ nét qua lời nói và hành động của Chúa trong những tháng năm trên trần thế.

Người đời cho rằng của cải đời này là sự đảm bảo cho cuộc sống thì Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn sẽ về tay ai?” (Lc 12, 20).

Con người cứ lo kiếm tìm danh lợi thú trần gian, Chúa Giêsu lại đến trần không một nơi gối đầu để phục vụ và hy sinh mạng sống vì đàn chiên.

Con người đối xử với nhau bội bạc, vô tình, tàn nhẫn; Chúa Giêsu đến với mọi người bằng tình yêu và chân thành: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10,10).

Con người những tưởng đã tha thứ đủ khi tha đến bảy lần thì Chúa Giêsu dạy phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy.

Con người vô ơn quên tình yêu Thiên Chúa, bất tuân lệnh Thiên Chúa; Chúa Giêsu vâng lời Chúa Cha và thực thi mọi phán quyết của Thiên Chúa: “Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 9).

Chúa Giêsu là Đường Hoàn Hảo mà Chúa Cha gửi đến cho con người với tất cả lòng thương xót. Chúa đã chết trên thập giá để cứu độ con người: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,12). Và Chúa Giêsu đã Phục Sinh để minh chứng lời Chúa nói là chân thật: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân” (Lc 24, 46-47).

Lạy Chúa Phục Sinh, đường đời trăm phương ngàn lối, tất cả đều dẫn chúng con đi vào sự diệt vong. Chỉ duy Chúa là Đường đích thực đưa chúng con đến sự sống nơi cung lòng Chúa Cha vì Chúa là Thiên Chúa, là Đấng giàu lòng thương xót đã chết và phục sinh sự sống cho chúng con. Amen. St


Suy niệm 2:

Khao khát được biết Thiên Chúa Cha là khát vọng chính đáng của con người, và cùng đích của con người chính là được đời đời chiêm ngưỡng thánh nhan Cha. Chính vì thế mà sau khi Chúa Giêsu nói về Thiên Chúa Cha, thánh Philípphê đã không ngần ngại thưa với Chúa Giêsu rằng: “Xin Thầy tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con đã mãn nguyện”.

Thấy Thiên Chúa Cha ư? Con mắt phàm tục không thể nhìn thấy Thiên Chúa. Đó là điều được nói đến trong Cựu Ước, rằng không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa mà còn sống: Môsê phải che mặt khi đối diện, Êlia chỉ được nhìn thấy phía sau, các tổ phụ, thẩm phán và ngôn sứ chỉ được thấy Chúa qua các thiên sứ hoặc các biến cố như mây, lửa… Và chính Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng phải nhờ Chúa Con mặc khải cho”.

Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. Như thế, chỉ có Chúa Giêsu là mặc khải tròn đầy về Thiên Chúa Cha. Câu trả lời cho Philípphê hôm nay chứng minh điều đó, đồng thời mạc khải chắc chắn về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi: Ba Ngôi vừa hiện hữu tại thân vừa hiện hữu hướng về đến duy nhất, như Chúa Giêsu nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha, Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”.

Vì thế Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta hiểu rằng:

- Không phàm nhân nào nhìn thấy Thiên Chúa mà còn sống.

- Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ, trừ khi Chúa Con mặc khải cho.

- Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.

- Chúa Giêsu là mặc khải tròn đầy về Chúa Cha, nên tất cả mọi mặc khải khác đều phải quy về Chúa Giêsu và vâng phục Giáo Hội.

- Chúa Giêsu làm tất cả những gì mọi người cầu xin với Chúa Cha nhân danh Chúa Giêsu.

Đó là tất cả những gì được nói tới trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Đó là đức tin tông truyền của Giáo Hội, vì thế không có con đường chui nào khác mà không qua Chúa Kitô là Đấng Trung Gian duy nhất.

Những linh đạo qua Đức Mẹ và các thánh đều quy hướng về Chúa Kitô. Mọi điều lớn lao mà các Kitô hữu làm được không phải do công chính mình, mà là do niềm tin vào Đức Kitô. Vì Chúa Giêsu ngự bên hữu Chúa Cha để ban ơn và chuyển cầu, nên những ai tin vào Người còn làm được những việc lớn lao hơn. Cụ thể là như các tông đồ, chỉ trong một bài giảng của Phêrô mà có tới 5000 người trở lại, thậm chí có những lần khi thánh Phêrô đi qua cái bóng của ngài cũng làm cho bệnh nhân khỏi bệnh…

Lạy Chúa Giêsu, với niềm khao khát như thánh Philípphê chúng con mừng kính hôm nay, xin cho chúng con được nhìn thấy Thiên Chúa Cha hiện hữu trong mọi nơi mọi lúc, đặc biệt trong mọi biến cố cuộc đời, để chúng con sống trọn niềm thảo hiếu với Người. Amen. St


Suy niệm 3:

Khi xây một ngôi nhà, trước hết trong đầu chúng ta phải có mô hình, rồi mới thể hiện mô hình đó ra bản vẽ, sau đó chúng ta mới dựa vào bản vẽ đó mà thực hiện. Tương tự như thế, để xây dựng người con Chúa, ta phải theo mô hình. Mô hình đó là Đức Giêsu Kitô “Con Chúa ” và “ là đường, là sự thật và là sự sống”. Thánh Philipphê và Giacôbê đã nghe lời Chúa và đã xây dựng con người mình theo mô hình Đức Giêsu Kitô nên được thừa hưởng gia tài hạnh phúc nước trời.

Xin cho chúng ta biết xây dựng đời mình theo mô hình Đức Giêsu Kitô theo gương hai thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ.

Ước nguyện được nhìn thấy Thiên Chúa không chỉ là ước nguyện của Philipphê và các tông đồ nhưng còn là ước mong của mỗi chúng ta.

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đáp ứng mong ước đó của chúng ta bằng cách cho biết chính Người là hiện thân và là Thiên Chúa : “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”, “ Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy”. Do đó lời Người nói là nói lời Chúa Cha. Những việc làm của Người chính là Chúa Cha làm trong Người. Nếu ai tin vào Người thì sẽ làm được những việc Người làm và còn lớn lao hơn nữa, vì Người về cùng Chúa Cha và sẽ ban ơn cho những ai tin vào Người.

Theo Đức Dalai-Lama có một điều cần quan tâm trong giáo dục. Ngài nói: “trong Phật giáo, khi nói đến giáo huấn hay giáo thuyết, chúng tôi nhìn ở hai mức độ:

-  Mức độ thứ nhất liên quan đến các bản văn.

-  Mức độ thứ hai liên quan đến sự thể nghiệm.

Liên quan đến sự thể nghiệm, điều rất quan trọng là một người muốn dạy người khác, thì chính mình phải có kinh nghiệm tối thiểu về điều mình giảng dạy, phải hoàn tất đoạn đường nào đó trong sự thể nghiệm thiêng liêng. Như thế nó hoàn toàn khác với loại hình truyền thông khác, khi người ta kể lại câu chuyện lịch sử hoặc một sử gia tuờng thuật lại những biến cố đã qua. Trong trường hợp đó, người ta kể lại sự kiện mà không hề sống. Còn việc giảng dạy về đời sống tâm linh, điều thiết yếu là người giảng dạy phải có một chút thể nghiệm và kinh nghiệm bản thân”.

Chúa Giêsu không chỉ thể nghiệm mà Người còn chính là mô hình là khuôn mẫu để mọi người noi theo “ Thầy là đường là sự thật và là sự sống”. Chỉ những ai tin nhận và xây dựng cuộc sống mình trên mô hình Đức Giêsu Kitô thì mới có được sự sống đời đời.

Xin cho chúng ta biết xây dựng đời kitô hữu mình trên khuôn mẫu là Đức Giêsu Kitô. Nghĩa là khi nói phải nói lời của Chúa. Khi làm thì làm việc trong Chúa và vì Chúa. Trong mọi sự luôn tin nhận và đi theo con đường Chúa Giêsu hướng dẫn.


Suy niệm 4:

 Cùng GH, hôm nay chúng ta mừng kính hai thánh tông đồ Philipphê và Giacôbê. Để tiếp nối sứ mạng loan báo tin mừng cứu độ, Chúa Giêsu đã chọn gọi hai ông vào danh sách 12 tông đồ thân tín của Người. Sau khi xác tín được Chúa Giêsu chính “là đường, là sự thật và là sự sống”, hai ông đã bỏ lại mọi sự mà dấn thân cho Chúa đến cùng để làm chứng cho Tin mừng cứu độ cho dẫu phải hy sinh mạng sống mình. Xin cho chúng ta cũng biết noi gương hai ngài luôn kiên vững trong niềm tin và can đảm hy sinh làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. 

Dựa vào Phúc âm, chúng ta biết rất ít về lý lịch của hai vị tông đồ này. 

1. Trước hết là thánh Philipphê: Thánh kinh cho biết ngài là người cùng quê với thánh Phêrô và Anrê sinh tại Betsaiđê, một làng trên bờ biển Tibêriát (Ga 1,43-44). Trước đây ngài theo thánh Gioan Tẩy Gỉa. Sau này có lẽ được thánh Gioan Tẩy Gỉa giới thiệu với Chúa Giêsu. Sau đó, ông đã đến với Chúa Giêsu để tìm hiểu và đã bị Chúa Giêsu hấp dẫn nên ông đã trở thành một trong những tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu. Dựa vào những lần Phúc âm đề cập đến ngài, ta có thể nhận ra nơi thánh Phillipphê hai tính cách nổi bật:

- Vai trò trung gian: Thánh Philipphê có tài làm trung gian giới thiệu Chúa cho mọi người: (1) vừa khi được Chúa kêu gọi và sau khi đã tin vào Chúa Giêsu, ông đã tìm đến Nathanael để giới thiệu về Chúa Giêsu cho Nathanaen cũng được diễm phúc làm môn đệ Chúa sau đó (x.Ga 1,45). (2) Khi những người Hy lạp hành hương về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, họ muốn gặp Chúa Giêsu, cũng chính Philipphê cùng Andrê dẫn họ đến gặp Chúa Giêsu (Ga 12, 20-33). (3) Tin mừng hôm nay cũng cho thấy chính ngài giữ vai trò trung gian để xin Chúa Giêsu tỏ cho ngài và các Tông đồ được thấy Đức Chúa Cha và Chúa Giêsu đã trả lời: "Ai thấy Ta là thấy Chúa Cha." (Ga 14,7-9).

- Là người rất trung thực và cụ thể: Khi giới thiệu với Nathanaen về Chúa Giêsu mà ông đã tin nhận là Đấng Kitô. Ông không dài dòng để thuyết phục Nathanaen nhưng rất thực tế là kêu gọi Nathanaen: "Cứ đến mà xem!" (Ga 1,46).

Trước khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi năm ngàn người đàn ông ăn no nê dư 12 thúng đầy, Chúa Giêsu đã hỏi riêng Philipphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” (Ga 6, 5). Rất thực tế Philipphê trả lời: "Thưa có mua đến 200 đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút." (Ga 6,7).  

Người ta cho rằng Philípphê là con người sống hiện thực, giống như thánh Tôma tông đồ, bởi ông cũng đòi phải được xem tận mắt, sờ tận tay về Chúa Cha mới mãn nguyện. Hơn nữa ông còn là con người có đầu óc tính toán rất thực tế. Nhưng sau ngày nhận lãnh Thánh Thần, ngài đã đem đức tin lại cho toàn thể dân thành Sitti. Sau đó, ngài đến giảng dạy ở Hiêrapoli, xứ Rigie và chịu đóng đinh vì danh Chúa. Xác ngài được các tín hữu ở đó mai táng, sau được đem về Rôma đặt bên mồ thánh Giacôbê.

2. Thứ hai về thánh Giacôbê: Trong danh sách 12 tông đồ có đến 2 tông đồ tên Giacôbê. Giacôbê được mừng kính hôm nay là Giacôêe hậu (gọi ngài như thế là để phân biệt với thánh Giacôbê con ông Alphê). Ngài là anh em họ với Chúa Giêsu. Ngài làm Giám Mục đầu tiên cai quản thành Giêrusalem.

Trong công đồng chung thứ nhất họp tại Giêrusalem, Sách Cvtđ cho biết ngài đã viết bức thư kêu gọi người Do Thái đừng đặt lên vai dân ngoại một gánh nặng nào nữa với quyết định bãi bỏ luật cắt bì đối với dân ngoại, và kêu gọi họ giữ một số điều như: tránh gian dâm, không được ăn tiết và đồ đã cúng. Quyết này cho thấy ngài là một con người hài hòa biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến mọi người, biết dug hòa và rất nhạy bén thích ứng Tin mừng cho phù hợp với thời đại.

Vì trung thành với đức tin, ngài bị bọn Biệt Phái và một số người cứng lòng tố cáo và kết án. Ngài bị chúng xô từ trên nóc đền thờ xuống và ném đá cho đến chết. Trước khi chết, ngài còn quỳ gối cầu nguyện xin Chúa tha thứ cho kẻ thù của mình.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có được những đức tính đáng quý của hai thánh tông đồ: Biết sống chân thành, hòa đồng, quan tâm và cởi mở với mọi người nhằm trở nên chiếc cầu vững vàng đưa dẫn nhiều người đến với Chúa.

Xin cho chúng ta cảm nếm được tình yêu ngọt ngào của Chúa dành cho chúng ta. Để từ đó chúng ta tích cực hơn cho việc dấn thân loan báo tin mừng tình thương của Chúa cho hết mọi người theo tinh thần của hai thánh tông đồ chúng ta mừng kính hôm nay.

 

* MÙA PHỤC SINH.

Suy niệm 1:

Để dễ nhớ đoạn sách Cvtđ hôm nay, ta có thể chia đoạn này làm hai phần:

- Phần đầu: liệt kê danh sách phái đoàn được các tông đồ và kỳ mục của Hội Thánh Giêrusalem cử đến Antiôkhia gồm có: Ngoài Phaolô và Barnaba,  còn có ông Giuđa và Xila là những người có uy tín trong Hội Thánh. Khi đến nơi, các ông triệu tập cộng đoàn lại để công bố bức thư.

- Phần thứ hai: nội dung của bức thư, gồm ba điểm:

1. Lời chào thăm của các tông đồ và kỳ mục gửi đến anh em gốc dân ngoại tại Antiokhia, tại Xyria và Kilikia. Ngay sau đó là 3 lời xác nhận chính thức: (1) Những người Do Thái đến gây rối trước đây làm xáo trộn và gây hoang mang cho các tín hữu là những người bất hợp pháp. (2) Phaolô và Barnaba chính là người anh em thân mến với chúng tôi và đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. (3) Xác nhận ông Giuđa và Xila chính là người được Hội Thánh cử đến để trình bày trực tiếp về những quyết định của công đồng.

2. Quyết định chính thức của Công đồng dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần như sau: Không bắt tín hữu gốc dân ngoại cắt bì và giữ luật Môsê, nhưng khuyên giữ vài điều cần thiết như: tránh gian dâm, không uống tiết, không ăn thịt không cắt tiết và đồ cúng cho ngẫu tượng.

3. Cuối cùng là lời khuyên nhủ họ cẩn thận giữ những điều mà Hội Thánh hướng dẫn và chúc họ được an mạnh.

* Sau khi nghe xong bức thư, họ vui mừng vì lời khích lệ đó.

Những xung đột xảy ra trong cuộc sống là không tránh khỏi. Ngay trong cộng đoàn Họ đạo hay gia đình cũng thường xuyên xảy ra. Vậy ta làm thế nào để giải quyết êm đẹp những xung đột ấy? Sách Cvtđ hôm nay gợi mở cho chúng ta đường hướng tốt nhất:

- Trước tiên, cùng nhau ngồi lại để tìm cách giải quyết vấn đề.

- Thứ đến, theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để tìm ra đâu là sự thật nền tảng mọi người phải giữ, những gì có thể dung hòa, và những gì có thể chuẩn chước được.

- Sau đó, phải khiêm nhường bỏ thói quen của mình, hy sinh chấp nhận ý kiến chung, và giải quyết vấn đề trong tình yêu thương anh em; chứ không ra lệnh theo thói cha ông. 

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết khiêm tốn nghe theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để tìm ra sự thật. Nếu mình có sai trái, lỗi lầm thì can đảm nhận lỗi mà sửa đổi. Nếu người khác có sai trái thì hãy dùng tình thương mà sửa lỗi cho nhau theo lời dạy của Chúa và tinh thần của Công đồng Giêrusalem.


 Suy niệm 2:

Trước khi về cùng Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã để lại cho các môn đệ cũng như cho tất cả chúng ta lời nhắn nhủ yêu thương: “Đây là điều răn của Thầy, anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Yêu như Chúa yêu là yêu thương tất cả mọi người không phân biệt bạn hay thù bằng một tình yêu vô vị lợi. Yêu như Chúa là sẵn sàng hy sinh ngay cả mạng sống mình cho người mình yêu. Xin cho chúng ta có được tình yêu như Chúa, ngỏ hầu xứng danh với tên gọi là bạn hữu của Chúa.

“Anh  em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Ga 15, 12).  

Yêu thương nhau không thôi thì chưa đủ, Chúa Giêsu còn muốn các môn đệ của Ngài, trong đó có tôi và bạn, phải yêu “như Chúa yêu” nữa. Nghĩa là biết chấp nhận tất cả những cái hay cái dở, những tính hư nết xấu và tất cả những sự bất toàn và yếu đuối … của tha nhân.

Yêu thương như Thầy là phải biết kiên nhẫn trước những yếu đuối lỗi lầm, trước những giới hạn về niềm tin cũng như về mặt nhân bản của người khác.

Yêu như Chúa Giêsu là biết quan tâm tới những nhu cầu cần thiết của tha nhân. Sự quan tâm ấy không phải chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng những hành động rất cụ thể và thiết thực.

Chính Chúa Giêsu đã yêu chúng ta nên đã chấp nhận, kiên nhẫn trước tất cả mọi ưu khuyết điểm của ta. Ngài cũng đã đón nhận cả cái hay cũng như cái dở, cái đẹp cũng như cái xấu, cái giỏi cũng như cái dở của chúng ta… Ngài đã không ngừng quan tâm và đáp ứng lại những nhu cầu chính đáng của con người và không ngừng mời gọi chúng ta hãy noi gương bắt chước Ngài thực thi giới luật tình yêu giống như Ngài đã nêu gương.


Thứ bảy: Cv 16,1-10; Ga 15,18-21

Suy niệm 1:

Làm thế nào để việc loan báo Tin mừng đạt được kết quả tốt đẹp? Đoạn sách Cvtđ hôm nay sẽ soi sáng chúng ta một vài gợi ý quý giá:

1. Biết quan tâm gắn kết giáo đoàn địa phương với hội thánh.

Sau khi chia tay với Barnaba tại Antiôkhia, Phaolô chọn Xila để trở lại thăm viếng các giáo đoàn cũ như Đécbê và Lýtra. Tại đây ông công bố về những quyết định của công đồng Giêrusalem liên quan đến các tín hữu gốc dân ngoại như: không đòi buộc họ phải cắt bì và giữ luật Môsê nữa, nhưng  phải giữ một số tập tục như kiêng thức ăn ô uế, tránh gian dâm và kiêng ăn tiết hay loài vật không cắt tiết. Tại mỗi nơi đến thăm, các ông đều truyền lại cho họ những chỉ thị của công đồng Giêrusalem ban bố và khuyên nhủ họ tuân giữ. Nhờ đó mà “các Hội Thánh được vững mạnh trong đức tin và mỗi ngày thêm đông số".

2. Tìm kiếm nhân sự để đào tạo cho cộng tác truyền giáo.

Trở lại Lytra Phaolô đã tìm thấy Timôthê, mẹ ông là người Do-thái đã tin Chúa, còn cha là người Hy-lạp. Ông được các anh em ở Lytra và Icônia chứng nhận là tốt. Nên Phaolô muốn Timôthê cộng tác truyền giáo với mình. Phaolô đã đem ông đi làm phép cắt bì vì là người gốc Do Thái.

Tại sao phải cắt bì vì công đồng Giêrsalem đã bãi bỏ? Có nhiều lý do: (1) đã được nói ở đây là vì nể các người Do-thái ở những nơi ấy. (2) Vì mẹ của anh ta là người Do Thái nên con sinh ra phải giữ luật Do Thái. (3) Nhằm giúp cho Timôthê dễ dàng hơn khi rao giảng trong các hội đường người Do Thái, như Phaolô đã nói trong thư gửi tín hữu Corintô: “Trở nên người Do Thái để chinh phục người Do Thái…” (1Cr 9, 19-23).

3. Phải lắng nghe sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Dự tính ban đầu các ông là đi sang miền Phygia va Galát để rao giảng tại Asia, nhưng Thánh Thần ngăn cản nên các ông lại tiếp tục tới sát ranh giới Myxia và thử vào miền Bithynia, nhưng Thần Khí Đức Giêsu cũng không cho phép. Các ông bèn đi qua miền Mysia mà xuống Troa. Tại đây “ban đêm, ông Phaolô thấy một thị kiến: một người miền Makêđônia đứng đó, mời ông rằng: “Xin ông sang Makêđônia giúp chúng tôi!”.“Sau khi thấy thị kiến đó, lập tức các ông tìm cách đi Makêđônia, vì hiểu ra rằng TC kêu gọi các ông loan báo Tin Mừng cho họ”.

Qua hai lần ngăn cản của Thánh Thần, nhất là nhìn thấy thị kiến, Phaolô đã nhận ra ý Thiên Chúa nên ông đã lập tức tìm cách đi Makêđônia, vì hiểu ra rằng Thiên Chúa muốn ông đem Tin Mừng của Chúa đến Âu Châu, bắt đầu với các thành phố Hy-lạp.

Xin cho chúng ta biết mở rộng tâm hồn để nghe theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Nhất là luôn biết gắn kết với GH để hiệp nhất với nhau trong những đường hướng truyền giáo; cũng như tích cực quan tâm đến việc đào tạo nhân sự kế thừa theo tinh thần của Thánh Phaolô.


Suy niệm 2:

Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết cuộc sống theo Chúa sẽ gặp nhiều gian lao thử thách, bởi lẽ “Nếu thế gian ghét anh em, anh em biết rằng nó đã ghét Thầy trước”.

Xin cho chúng ta luôn vững tin và trung thành bước theo Chúa đến cùng cho dẫu bị người đời ghen ghét và bách hại, vì như thế ta mới xứng đáng thuộc về Chúa.

Không phải ngày hôm nay, thế gian mới ghét bỏ và bách hại những Kitô hữu, nhưng từ xưa, Chúa Giêsu cũng đã bị bao người khinh bỉ, hiểu lầm và giết hại. Các nhà cầm quyền xã hội thì nghi ngờ, giới lãnh đạo tôn giáo thì thù ghét chống đối; những người đồng hương thì xem thường, chối bỏ… cuối cùng khi lên đến đỉnh điểm thì họ ra tay bắt bớ, hành hạ, kết án và giết chết Chúa đi.

Đến thời các tông đồ, các môn đệ thi hành sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa cũng gặp phải nhiều khó khăn và đau khổ, đúng như những gì mà Chúa Giêsu đã nói trước đó. Khi thi hành sứ vụ rao giảng, các tông đồ và các môn đệ luôn bị người Do Thái, chính quyền và giới chức lãnh đạo Do Thái giáo cấm đoán, đe dọa, bắt bớ, hành hạ đủ mọi thứ cực hình… Cuối cùng, các ngài cũng kết thúc cuộc đời bằng cái chết bi thương vì danh Chúa Giêsu.

Nối tiếp các tông đồ là Giáo hội trong mọi thời ở khắp mọi nơi đều bị các nhà cầm quyền ghét bỏ, loại trừ, bách hại... Cụ thể ở Việt Nam trong khoảng gần 300 năm đầu (1638-1886) đã có hàng trăm ngàn tín hữu chịu đổ máu và hiến mạng sống mình để làm chứng cho niềm tin vào Chúa.

Ngày nay dù đã trãi qua hơn 2000 năm, ấy vậy mà Giáo hội nói chung và các Kitô hữu nói riêng vẫn không ngừng bị xiết chặt, ghét bỏ, trù dập, bắt bớ và giết hại khắp nơi trên thế giới. Khiến chúng ta là những người theo Chúa không ngừng phải lo lắng, sợ hãi và bất an…Nhưng với niền tin tưởng vào sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa. Chúng ta hãy an tâm phó thác vào bàn tay uy quyền của Chúa là Cha giàu lòng thương xót chúng ta.  "Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo bệ, con vững dạ an tâm." (Tv 23,4).


SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN V PHỤC SINH

Lm. Minh Anh, Tgp Huế

CHÚA NHẬT V PHỤC SINH-B

Cv 9,26-31; 1Ga 3,18-24; Ga 15,1-8

Suy niệm 1: CÂY SINH HOA TRÁI

Đi Đạo để ăn ngay ở lành hay còn điều gì cao sâu hơn thế? Đi Đạo để xin thần thánh ban phúc lộc cho mình hay còn làm điều gì khác? Phúc Âm tuần này soi sáng cho câu trả lời.

1. Gắn bó với Chúa. Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây và cành để diễn tả sự gắn bó mật thiết: “Thầy là cây nho, các con là cành.” Thời hiện đại ngày nay có thể sánh ví: Chúa là Internet, con là smart phone! Hihii Hình ảnh cây cành cho thấy đi Đạo không chỉ là cầu kinh, thực hành lễ nghi tôn giáo để sống ăn ngay ở lành, mà cốt lõi của Đạo là gắn bó đời mình với Chúa một cách chặt chẽ đến độ như cây với cành để sống nhờ Chúa và trong Chúa, con ở trong Chúa, Chúa ở trong con như thể “Ta với mình tuy hai mà một”. Vậy làm gì để gắn bó? Các nhân đức Tin Cậy Mến giúp gắn chặt đời ta với Chúa.

2. Sinh nhiều hoa trái. Chúa Giêsu cứ lặp đi lặp lại việc các môn đệ phải “sinh nhiều hoa trái”. Như thế, đi Đạo không chỉ để cầu thần thánh ban phúc lộc cho bản thân mình sung sướng, nhưng còn phải vượt ra khỏi bản thân mình, sinh nhiều hoa thơm trái ngọt cống hiến cho người, cho đời.

Sinh nhiều hoa trái không phải để hãnh diện về bản thân, mà là để tôn vinh Chúa, bởi vì sinh được hoa trái không phải do riêng cành, mà là do gắn bó với thân cây.

Lời Chúa tuần này khiến mỗi kitô hữu phải tự hỏi lòng mình: Tin Chúa, vậy mối liên hệ tình nghĩa của tôi với Chúa có thân mật không? Gắn bó với Chúa, vậy đời tôi có sinh nhiều hoa trái tốt đẹp không? Trong mỗi gia đình hoa trái tình yêu vợ chồng là những đứa con. Vậy trong đời sống đạo, tôi có sinh được những hoa trái đức tin làm cho gia đình Giáo Hội thêm đông số không? Amen.

 

Suy niệm 2: Ở LẠI

“Thầy là cây nho, các con là cành!”.

“Tôi cảm thấy rất tiếc cho những người không muốn già đi. Tôi say sưa với những năm tháng cuối đời của mình. Đây là những năm tháng đẹp nhất đời tôi, một đời gắn bó với Chúa. “Con người bên ngoài” của tôi đang hư mất, nhưng “con người bên trong” của tôi đang được đổi mới và tôi hân hoan mỗi ngày. Bởi lẽ, tôi không chỉ ‘ở lại’, nhưng sẽ ‘ở đời đời’ với Ngài, ‘Cội Nguồn tồn tại’ của tôi!” - Henry Durbanville.

Kính thưa Anh Chị em,

“Cội Nguồn tồn tại của tôi!”. Với Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu tự giới thiệu Ngài là cây nho đích thực và chúng ta, những cành nho, không thể sống nếu không kết hợp với Ngài. Không cây nho nào mà không có cành và ngược lại. Cành không tự cung cấp nhưng phải gắn chặt - ‘ở lại’ - với thân nho, ‘cội nguồn tồn tại’ của nó.

Chúa Giêsu dùng động từ “ở lại” đến bảy lần! Trước khi rời bỏ thế gian, Ngài đã trấn an các môn đệ rằng, họ có thể tiếp tục hiệp nhất với Ngài bằng cách “Ở lại trong Thầy!”. Việc “ở lại” này không thực hiện cách thụ động, “ngủ quên” trong Chúa, mặc cho cuộc sống ru ngủ. Không! Việc “ở lại” Chúa Giêsu đề nghị là ‘ở lại’ cách tích cực và hỗ tương. Tại sao? Vì như cành lìa cây, không thể làm được gì, chúng cần nhựa để lớn lên và sinh trái, vì đó là ‘cội nguồn tồn tại’. Nhưng thật thú vị, cây nho cũng cần cành nho vì quả không mọc trên thân! Đây là một nhu cầu hỗ tương để sinh hoa trái. Chúng ta ở trong Chúa Giêsu và Chúa Giêsu ở trong chúng ta. Chúng ta cần Ngài, Ngài cần chúng ta!

Nói rằng, Chúa Giêsu cần chúng ta như thân cần cành. Điều này xem ra có vẻ táo bạo! Vậy Ngài cần chúng ta theo nghĩa nào? Ngài cần chứng tá của chúng ta! Như những cành nho, hoa trái chúng ta sinh ra là chứng tá cho đời sống Kitô hữu. Sau khi Chúa Giêsu lên trời, nhiệm vụ của các môn đệ - của bạn và tôi - là tiếp tục loan báo Tin Mừng. Và chúng ta làm điều đó bằng cách làm chứng cho tình yêu Chúa. Hoa trái phải sinh ra là tình yêu. Bên cạnh đó, gắn bó với Ngài, chúng ta nhận được các ân huệ Thánh Thần, nhờ đó, có thể làm điều tốt cho người lân cận, cho xã hội và cho Giáo Hội. Xem quả thì biết cây! Qua 2.000 năm, các Kitô hữu thực sự đã làm chứng cho Chúa Kitô.

Anh Chị em,

“Thầy là cây nho, các con là cành!”. Để có thể thực sự là một cành sống động trên thân nho Giêsu, chúng ta hãy yêu mến việc cầu nguyện. Cầu nguyện là ‘ở lại!’. Sống bác ái yêu thương là ‘ở lại!’. Hãy sống cuộc sống của mình cách sáng tạo để người khác được hưởng lợi! Vì lẽ, những người khác chỉ đến được với Chúa Giêsu khi họ có thể nhìn thấy ảnh hưởng của Ngài trên cuộc đời chúng ta - qua lời nói, hành động và hành vi - của một lối sống Kitô trong một nền văn minh tình thương. Vậy “Đã có bao nhiêu người biết và tin Chúa Giêsu nhờ tôi? Có bao nhiêu người xin được rửa tội nhờ gương sáng của tôi?”. Chỉ qua cách sống của chúng ta mà mọi người mới được truyền cảm hứng để khám phá những gì chúng ta khám phá. Điều chúng ta khám phá là niềm vui được biết tình yêu của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu và Hội Thánh của Ngài.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con lo lắng và không muốn già đi. Cho con luôn ‘ở lại’ với Chúa hôm nay, và cả khi con đã ‘ở đời đời’ với Ngài, con cũng tiếp tục đơm hoa kết trái!”, Amen.

 

Suy niệm 3: HOA SINH TRÁI

Sr. Teresa Đoàn Thụy Thúy Phượng, OP

Đức Giêsu là con người tinh tế, Ngài nói lời Thiên Chúa không chỉ qua việc giải thích Kinh Thánh nhưng còn qua những sự vật thường hằng, thân quen với cuộc sống con người. Tuần trước chúng ta được chiêm ngắm chân dung vị mục tử nhân lành hết lòng chăn dắt đoàn chiên. Tuần này, chúng ta được mời gọi nhìn về hình ảnh cây nho giản dị, bình thường, vốn không xa lạ gì với văn hóa và con người thời Đức Giêsu. Với hình ảnh này, chúng ta nhận được sứ điệp gì cho tuần sống của chúng ta?

1. Cây liền cành

Theo kinh nghiệm riêng của mỗi người khi nhìn xem sự phát triển của cây: Hạt giống trổ sinh thành cây, đâm cành, ra lá, sinh nụ, đơm bông, kết trái. Tất cả đều được nuôi dưỡng bởi nguồn nhựa bên trong cây. Một bộ phận nào lìa khỏi thân cây sẽ trở nên khô héo, lụi tàn. Hôm nay, Đức Giêsu nhận Ngài là cây nho thật và chúng ta là cành. Cành nào không sinh trái thì bị chặt đi. Điều này không được hiểu là viễn cảnh ngày tận thế hay sự luận phạt nhưng là hệ quả của việc không sinh trái: Nó đã trở nên vô dụng thì việc giữ lại nào có ích chi. Vì thế, nếu muốn được giữ lại thì cành phải sinh hoa trái, và để sinh trái thì điều kiện tất yếu là cành phải liền cây.

Đức Giêsu đã chỉ cho ta cách thức “cành liền cây” đó là như “cây liền cành” khi nói: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em” (Ga 15, 4a). Thật vậy, có nhiều cành gắn liền với cây mà nào có sinh trái. Đức Giêsu dạy dỗ chúng ta sự thật này là: Chúng ta không thể tự mình sinh hoa trái vì “không có Thầy anh em không làm gì được” (Ga 15,5); chúng ta có thể sinh hoa trái là nhờ chính Ngài “Thầy ở lại trong anh em”. Đức Giêsu đã gắn liền với chúng ta trước và trở thành mẫu thức cho chúng ta gắn liền với Ngài “cành liền cây như cây liền cành”. Chúng ta muốn trổ sinh hoa trái thì cũng phải ở lại trong Chúa như Chúa đã ở lại trong chúng ta.

2. Cành sinh trái

Người trồng nho mong đợi mùa thu hoạch sẽ mang về những chùm nho chín mọng, căng tròn. Dù không là người trồng nho nhưng qua sách vở, chúng ta biết rằng để cành nho sinh trái thì nó phải chịu cắt tỉa: cắt tỉa lá, cắt tỉa cành phụ, cành nhỏ, cành èo ọt để tập trung nguồn dưỡng chất vào trái. Nếu không được cắt tỉa, nó chỉ là một cành mang đầy lá um tùm, rậm rạm và như vậy không đạt được mục đích của người trồng. Không chỉ chịu cắt lá, tỉa cành mà thôi vì khi đã cành đã sinh trái, người ta còn phải can đảm loại bỏ bớt một số trái để những trái còn lại phát triển mạnh và cho chất lượng cao.

Chúng ta cũng vậy, việc sinh trái đòi buộc chúng ta phải để cho Thiên Chúa và mọi người cắt tỉa khỏi những rườm rà, bận vướng, khỏi những phù phiếm thế gian và mặc lấy cho mình sự thanh thoát của Tin Mừng, vì “Căn cứ vào điều này chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta” (1Ga 3, 24b).

3. Trái hưởng dùng

Vụ mùa thu về trái ngon ngọt luôn là sự mong đợi của bao người, chẳng ai muốn gặt hái trái chua, trái đắng. Và chúng ta biết rằng, hoa trái thu về là để hưởng dùng chứ không chỉ để nhìn ngắm.

Cành đời chúng ta một khi đã gắn liền với thân cây Giêsu cùng trổ sinh hoa trái và hoa trái ngon ngọt được khởi đi từ Thần Khí Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, đó là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ (Gl 5, 22). Những hoa trái này sẽ được hưởng dùng ở bất cứ môi trường nào chúng ta hiện diện vì nó làm phấn khởi lòng người. Chúng ta cũng canh phòng cho chính mình và người khác khỏi những trái chua trái chát vì tính xác thịt gây ra, là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén (Gl 5, 19-21).

“Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy”, ước gì điều này trở nên động lực thôi thúc chúng ta gắn liền với Đức Giêsu để có thể sinh nhiều hoa trái và để hoa trái của chúng ta tồn tại mãi. Amen.

 

Thứ hai: Cv 14,5-18; Ga 14,21-26.     

Nhớ Thánh Ca-ta-ri-na Si-ê-na, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh

 NGẪU TƯỢNG

“Thần linh mặc lốt người phàm đã xuống với chúng ta!”.

“Tội thờ ngẫu tượng là tội tôn thờ bất cứ thứ gì chỉ nên được sử dụng, hoặc sử dụng Bất Cứ Thứ Gì chỉ nên được tôn thờ!”. Những lời của thánh Augustinô đưa J. McMath đến kết luận, “Điều mà tôi sẽ cho đi bất cứ thứ gì để có, và không nhận bất cứ thứ gì để mất; đó là Thiên Chúa của tôi. Tôi không bao giờ tôn thờ một thứ gì đó ít hơn Ngài!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay tiết lộ một sự thật thú vị, rất hiển nhiên và khá bất ngờ. Rằng, con người luôn có xu hướng thờ ‘một thứ gì đó ít hơn Chúa!’, thờ ‘ngẫu tượng!’.

Tại Lystra, sau khi Phaolô chữa lành một người bại, một số người Lycaonia kết luận, “Thần linh mặc lốt người phàm đã xuống với chúng ta!”. Họ gọi Phaolô và Barnaba là thần; đồng thời, định đem bò và hoa để tế hai ngài. Phaolô xé áo mình ra và nói, “Chúng tôi đây cũng chỉ là người phàm!” - bài đọc một. Thấy được xu hướng ‘ngẫu tượng’ nơi họ, Phaolô chỉ cho họ biết phải tôn thờ ai! Phải tôn thờ Chúa là Thiên Chúa và chỉ một mình Ngài, đừng thờ ‘một thứ gì đó ít hơn Chúa!’. Nói thay Phaolô, Thánh Vịnh đáp ca reo lên, “Xin đừng làm rạng rỡ chúng con, lạy Chúa, nhưng xin cho Danh Ngài rạng rỡ!”.

Phải, con người luôn bị cám dỗ tôn thờ một thứ gì đó ít hơn Chúa! Một chủ nghĩa, một hệ tư tưởng, một thần tượng… có thể có một địa vị ‘gần như thần thánh’; và đôi khi, nó nhận được một lòng sùng bái lệch lạc vốn chỉ Thiên Chúa mới đáng có. Thờ ‘ngẫu tượng’ là tội căn bản, cội rễ mọi tội lỗi. Chính sức hấp dẫn của một thực thể nào đó, một con người nào đó, có thể là chất xúc tác để con người mọi thời coi nó như thần thánh. Theo lẽ thường, người Lycaonia sùng bái Phaolô và Barnaba. Họ chưa được soi sáng để điều chỉnh về các quan niệm đang có và các hành vi đang làm.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu thừa nhận một nhu cầu cấp thiết mà các môn đệ của Ngài phải có. Đó là sự trợ giúp của Thánh Thần! Ngài nói, “Đấng Bảo Trợ sẽ dạy các con mọi điều và sẽ làm cho các con nhớ lại tất cả những gì Thầy đã nói với các con”. Chính Thánh Thần sẽ dẫn dắt để ngăn ngừa chúng ta khỏi rơi vào ‘ngẫu tượng’; giúp chúng ta đánh giá sâu sắc hơn về tương quan mỗi người phải có đối với Chúa Giêsu, đối với Thiên Chúa, trên hành trình mỗi người cùng Ngài tiến về ‘Nhà của Cha’.

Anh Chị em,

“Thần linh mặc lốt người phàm đã xuống với chúng ta!”. Dẫu không la lên như người Lycaonia; nhưng khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là thần thánh hoá những gì làm vui thoả, dễ chịu. Nó dẫn chúng ta đến một lối sống buông thả khi thoả hiệp với các giá trị thế tục; đó là những ‘ngẫu tượng’ khiến chúng ta tròn xoe đôi mắt, thán phục, mê mải; mụ mẫm và ngơ khờ chạy theo. Thuyết tương đối và chủ nghĩa tiêu thụ đang âm thầm hoặc công khai quyến rũ. Nó đầy hấp lực và tinh tế khiến chúng ta buông mình dõi theo mà không hay biết; từ đó, vô tình phá đổ các giá trị cao đẹp và linh thánh. Thấy trước điều đó, Chúa Giêsu đã ban Thánh Thần, Thầy Dạy tâm linh. Ước gì bạn và tôi biết đón nhận và yêu quý Quà Tặng vô giá này; đồng thời, ngoan nguỳ với Ngài, hầu không dễ buông mình cho việc tôn thờ một thứ gì đó ít hơn Chúa!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, ‘ngẫu tượng’ thường làm con hao tổn, mệt mỏi và lầm lạc. Cho con ‘dễ dạy’ với Thánh Thần hầu chỉ tôn thờ một “Giêsu”, ‘Một Ai đó’ nhiều Chúa nhất!”, Amen.

 

Thứ ba: Cv 14,19-28; Ga 14,27-31a.

ĐỂ CÓ NIỀM VUI

“Các con đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi!”.

“Để có thể trải nghiệm niềm vui, chớ gì không một giây phút nào trong đời tôi nằm ngoài ánh sáng, tình yêu và sự hiện diện của Chúa! Như chiếc bình rỗng, tôi trao phó toàn thân cho Ngài, Ngài sẽ đổ đầy nó bằng tình yêu và Thánh Thần!” - Andrew Murray.

Kính thưa Anh Chị em,

Không được ‘rỗng’ như Murray, bạn và tôi thường ‘đầy’; vì thế, chúng ta luôn thiếu bình an, mất tự do và ít niềm vui. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiết lộ một bí quyết ‘để có niềm vui’ trong tâm hồn: “Các con đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi!”.

Một trái tim sợ hãi và xao xuyến không phải là điều Chúa Giêsu muốn; nó không phải là của Ngài! Sợ hãi và xao xuyến là những gánh nặng tì đè, đóng chặt cánh cửa tâm hồn con người. Chúa Giêsu muốn chúng ta tự do, thoát khỏi những gánh nặng không đáng có đó. Vậy đâu là gánh nặng ‘nặng nhất’ của bạn? Hoặc gánh nặng đó dẫu có thể không khiến bạn ngắc ngoải, nhưng nó thường xuyên đeo bám, dai dẳng, và có thể là một gánh nặng - khá khó khăn - khi nó cứ kéo dài từ năm này qua năm khác!

Để được tự do, bước đầu tiên không thể thiếu là bạn cần nhận ra gánh nặng đó là gì; xác định nó, gọi tên nó, và tìm cách truy nguyên nó! Vậy nếu nguyên nhân của nó là một tội lỗi, bạn hãy ăn năn và đi xưng tội; đây là cách tốt nhất để tìm lại và trải nghiệm tự do nhanh nhất. Tuy nhiên, nếu gánh nặng của bạn là do người khác, hoặc do một số tình huống nằm ngoài tầm kiểm soát của mình, bạn cứ yên tâm! Chỉ cần quy phục, tín thác vào Chúa, trao phó toàn thân cho Ngài; và rồi, tự do sẽ đến khi bạn hoàn toàn phó mặc mọi sự cho Chúa dù hoàn cảnh đó có là gì!

Cho sự tín thác đó, câu chuyện Công Vụ Tông Đồ hôm nay là một minh hoạ. Phaolô gặp phải một tình huống hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát. Bị ném đá, người ta tưởng Phaolô đã chết; nhưng biết mình còn sống, Phaolô không xao xuyến, chẳng sợ hãi. Và thay vì trốn chạy, ông lập tức vào thành, đi đến các địa danh khác nhau để rao truyền Phúc Âm; nhờ đó, dân các thành nhận biết vinh quang Nước Chúa. Thánh Vịnh đáp ca báo trước, “Kẻ hiếu trung phải nói lên rằng: Triều đại Ngài vinh hiển!”.

Anh Chị em,

“Các con đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi!”. Đấng thuyết phục chúng ta là Đấng đã từng sợ hãi, xao xuyến và buồn phiền đến chết. Ngài đã từng bị nhục mạ, bị giết chết và vùi sâu trong đất đến ba ngày. Nhưng Ngài đã phục sinh và nay đang ngự bên hữu Chúa Cha để chuyển cầu cho chúng ta. Vậy, bao lâu “nằm ngoài ánh sáng, tình yêu và sự hiện diện của Ngài”, chúng ta vẫn tiếp tục bất an! Hãy “như chiếc bình rỗng”, phó toàn thân cho Ngài, Ngài sẽ đổ vào đó “Thánh Thần và tình yêu!”. ‘Để có niềm vui’, hãy đặt mình trước Lời Chúa; hãy đến với Thánh Thể, đến với các Bí tích, đặc biệt, Bí tích Hoà Giải, suối nguồn thứ tha và chữa lành. Chúa Giêsu sẵn sàng đổ đầy chúng ta; ân sủng của Ngài sẽ trả lại cho chúng ta tất cả những gì đã mất, băng bó những gì thương tổn và chữa lành mọi lở loét của linh hồn!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, linh hồn con còn đầy ‘các thứ tục luỵ’ ngoài Chúa. Giúp con làm rỗng nó, hầu Thánh Thần Chúa có thể đổ đầy tình yêu, ân sủng và bình an!”, Amen.

 

Thứ tư: Cv 15,1-6; Ga 15,1-8

KHÍ CỤ CỦA ÂN SỦNG

“Cành nào sinh hoa trái, Người cắt tỉa cho nó sinh hoa trái nhiều hơn!”.

“Một khu vườn không chăm sóc, cỏ dại sẽ sớm mọc; một trái tim không trau dồi chân lý sẽ sớm ‘hoang vu thần học’; một linh hồn không được cắt tỉa sẽ không bao giờ là khí cụ của ân sủng!” - Anon.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay nói đến cắt tỉa! Hội Thánh sơ khai cần được cắt tỉa; các môn đệ cần được cắt tỉa. Chúa Giêsu muốn sử dụng chúng ta như những ‘khí cụ của ân sủng’; nhưng bạn và tôi chỉ có thể trở thành lợi khí của Ngài trừ phi sẵn sàng để mình được cắt tỉa!

Thật thú vị, bài đọc Công Vụ Tông Đồ ghi lại những thước phim của ‘Công Đồng đầu tiên’. Các sứ đồ nhóm họp để giải quyết một vấn đề gai gốc, “Cắt bì hay không cắt bì?”. Để việc loan báo Tin Mừng có thể thích ứng với hoàn cảnh, Giáo Hội cần được cắt tỉa bởi Thánh Thần - cả với những gì ‘được coi là truyền thống’ nhất. Đó có thể là những ‘nghi tiết’ lâu đời, nhưng về mặt ý nghĩa - cách nào đó - đã mai một theo thời gian. Sẽ luôn có căng thẳng giữa tư duy bảo thủ và tư duy tiến bộ; cả hai đều cần thiết và đây là dấu hiệu của một Giáo Hội trưởng thành. Tuy nhiên, một khi được xem xét, điều chỉnh, kết quả sẽ là những hoa trái của hiệp nhất; vì lẽ, đa dạng nhưng không phân chia! Được như thế, Giáo Hội mới là ‘khí cụ của ân sủng’ vốn sẽ hữu hiệu để thích ứng với con người mọi thời dưới sự dẫn dắt của Thánh Thần.

Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu nói đến những cành nho được cắt tỉa như là điều kiện để có một mùa nho tốt. Cũng thế, Chúa Thánh Thần sẽ cắt tỉa, loại bỏ những ‘cỏ dại và lỗi lầm’ ra khỏi cuộc sống chúng ta; nhờ đó, các nhân đức được nuôi dưỡng để trái tim của chúng ta không ‘hoang vu thần học’. Cắt tỉa có thể gây thương tổn, nhưng những ‘vết cắt’ tâm linh sẽ góp phần làm nên chìa khoá mở ra cánh cửa trưởng thành trong đời sống thiêng liêng. Trỗi dậy trong khiêm tốn, chúng ta ngày càng tựa nương vào Chúa hơn là tự tin vào bản thân, ý riêng và kế hoạch của mình. Thiên Chúa khôn ngoan hơn chúng ta vô vàn; và nếu có thể liên lỉ hướng về Ngài như nguồn cội, chúng ta sẽ mạnh mẽ và chuẩn bị tốt hơn để Ngài có thể làm những điều vĩ đại ngang qua bạn và tôi như những ‘khí cụ của ân sủng!’.

Anh Chị em,

“Cành nào sinh hoa trái, Người cắt tỉa cho nó sinh hoa trái nhiều hơn!”. Bản thân Chúa Giêsu, Ngài cũng chịu cắt tỉa; cái chết trên thập giá là cắt tỉa nghiệt ngã nhất. Nhưng cũng từ đó, Ngài trở nên nguồn ơn cứu rỗi cho nhân loại! Với Ngài, thập giá và khổ đau như là điều kiện không thể thiếu cho việc xây dựng Vương Quốc. Thiên Chúa - Chủ Vườn đại tài - biết cần cắt tỉa cành nào và cắt tỉa lúc nào, vì “một linh hồn không được cắt tỉa sẽ không bao giờ là một ‘khí cụ của ân sủng!’”. Thánh Thần cắt tỉa chúng ta qua Lời Chúa, qua các Bí tích, qua những con người, qua từng biến cố. Chớ gì bạn và tôi không kháng cự, nhưng tỉnh thức đủ, để đừng vì đau nhức mà bỏ cuộc. Hãy mềm mỏng với Thánh Thần, hầu có thể trở nên một công cụ tốt, sinh ích cho tha nhân và cho thế giới!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, không cuộc giải phẫu nào mà không chảy máu, xin cứ cắt tỉa con! Nhờ đó, con không là một khí cụ tồi, mà là một công cụ sắc bén của ân sủng!”, Amen.

 

Thứ năm: Cv 15,7-21; Ga 15,9-11.

Nhớ Thánh A-tha-na-si-ô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh

 NHƯNG CÒN LÀ GIÁO HỘI

“Nếu các con giữ các điều răn của Thầy, các con sẽ ở lại trong tình thương của Thầy!”.

“Chúa Kitô là đầu, Giáo Hội là thân mình Ngài. Đầu phải có một thân! Để làm công việc của Chúa Kitô - đúng theo nghĩa đen - Giáo Hội là đôi tay; để lên đường rao truyền Chúa Kitô, Giáo Hội là đôi chân; để công bố Lời Chúa Kitô, Giáo Hội là tiếng nói. Yêu mến Chúa Kitô là yêu mến Giáo Hội; chống đối Chúa Kitô, thì không chỉ chống đối Ngài, ‘nhưng còn là Giáo Hội’ của Ngài!” - William Barclay.

Kính thưa Anh Chị em,

Khi nói “Ở lại trong tình thương của Thầy”, Chúa Giêsu không chỉ nói đến tình yêu của chúng ta đối với Ngài; ‘nhưng còn là Giáo Hội’ Ngài đã thiết lập và hết sức yêu thương!

Như Evà hình thành từ cạnh sườn Ađam, Giáo Hội hình thành từ cạnh sườn Chúa Kitô. Giáo Hội và Chúa Kitô là một! Bạn không thể nói, “Lạy Chúa, vâng! Và Giáo Hội, không!”. Chính nhờ Giáo Hội, bạn và tôi chào đời trong đức tin, lãnh nhận bao ân tứ đức tin và lớn lên trong đức tin.

Thật thú vị, bài đọc Công Vụ Tông Đồ hôm nay đúc kết ‘sắc dụ’ của ‘Công Đồng đầu tiên’ về việc “Cắt bì hay không cắt bì!”. Các tông đồ - bản quyền đại diện Chúa Kitô - vốn không phải là một tổ chức thuần tuý nhân loại, ‘nhưng còn là Giáo Hội’ của Thánh Thần - với sự trợ giúp của Ngài - đã tìm ra giải pháp tối ưu cho nan đề này! Giáo Hội đã tránh được những thực hành không là trọng tâm của đức tin; cùng lúc loại bỏ những gì không thiết yếu. Nguyên tắc vàng ‘khoan dung’ được tuân thủ từ cả hai phía ‘bảo thủ’ và ‘tiến bộ’; nhờ đó, Giáo Hội hiệp nhất và Tin Mừng tiếp tục toả lan, “Hãy kể cho muôn dân được biết những kỳ công Chúa làm!” - Thánh Vịnh đáp ca.

Với những con người đầu tiên đó, Chúa Kitô xây nên Toà Nhà Hội Thánh; và hơn 2.000 năm qua, luôn có các đấng kế vị bảo tồn, canh tân và lưu truyền. Vì thế, Chúa Kitô muốn chúng ta yêu thương các Giám mục, Linh mục; đặc biệt, Đức Thánh Cha, đại diện Ngài. Chúng ta cần biết những giáo huấn ngài dạy, khó khăn ngài gặp… để hiệp thông, cầu nguyện cho ngài. Chỉ cần một chút quan tâm, một chút thời gian, bạn có thể tiếp cận ngài; có thể biết các khó khăn của các mục tử, cả sự kiên trì của họ. Chính nhờ các ngài, Thánh Thể, các Bí tích hiện diện khắp nơi. Hãy cám ơn Đức Thánh Cha, các Giám mục, Linh mục; cám ơn Giáo Phận, Giáo Xứ và cộng tác theo sức mình.

Anh Chị em,

“Yêu mến Chúa Kitô là yêu mến Giáo Hội!”. Đức Phanxicô nói, “Bạn không trở thành Kitô hữu từ phòng thí nghiệm; Giáo Hội sinh chúng ta như bà mẹ sinh con! Tại giếng Rửa Tội Latêranô, có một bản khắc Latin: “Nơi đây, sinh ra một dân tộc, dòng dõi Thiên Chúa, bởi Thánh Thần, Đấng làm nước này nên phong phú. Mẹ Giáo Hội sinh con cái trong sóng nước này!”. Đẹp không? Chúng ta không thuộc về Giáo Hội như thuộc về một hiệp hội; nhưng như ‘cuống rốn’ nối kết sinh tử với mẹ mình!”. Mọi bà mẹ đều thiếu sót. Khi ai nói tới các thiếu sót của mẹ mình, chúng ta che lại, chúng ta yêu chúng, thế thôi! Tôi có yêu Giáo Hội như yêu Mẹ tôi không? Tôi có giúp Mẹ tôi đẹp hơn không?”. Đừng quên, tôi càng thánh thiện, khuôn mặt Mẹ tôi càng xinh; tôi càng bất xứng, khuôn mặt Mẹ tôi càng khó nhìn! Mẹ tôi sáng láng hay lấm lem, tuỳ ở tôi!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con không chỉ là con, ‘nhưng còn là Giáo Hội’. Con là Giáo Hội, Giáo Hội là Mẹ con. Đừng để con quên, khuôn mặt Mẹ con xinh đẹp hay lem luốc, tuỳ con!”, Amen.

 

Thứ sáu: 1Cr 15,1-8; Ga 14,6-14

KÍNH THÁNH PHI-LIP-PHÊ VÀ THÁNH GIA-CÔ-BÊ, TÔNG ĐỒ

 KHÔNG THỂ SAI LẦM

“Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống!”.

“Người chọn nơi bắt đầu của một con đường, sẽ chọn nơi nó dẫn đến!” - H. E. Fosdick.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa lễ kính hai thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ chứng thực câu nói của Fosdick, “Người chọn nơi bắt đầu của một con đường, sẽ chọn nơi nó dẫn đến!”. Ai chọn Chúa Kitô, người ấy ‘không thể sai lầm’ vì đã chọn đúng tuyệt đối. Ngài nói, “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống!”.

Chúa Kitô là Thiên Chúa, nhưng cũng là con người! Vì thế, bước theo Chúa Kitô, bạn tìm thấy đường đi; tin Chúa Kitô, bạn nhận ra lẽ thật; chấp nhận Chúa Kitô, bạn có sự sống đời đời! Là Kitô hữu, bạn không chỉ tuân theo một số quy tắc, tin một số tín điều; nhưng là đi theo một Con Người! Những lời gãy gọn của Giám mục Fulton Sheen thật ý nghĩa, “Tất cả giáo lý là Chúa Kitô!”. Chúa Kitô là câu trả lời cho mọi vấn đề; vấn đề sự sống, vấn đề sự chết; và vấn đề bên kia cái chết, sự sống đời đời. Ai chọn Chúa Kitô thì ‘không thể sai lầm’ vì đã chọn chính Thiên Chúa!

Philipphê nói, “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha!”; Chúa Giêsu đáp, “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha!”. Một câu trả lời khá mơ hồ cho một người thực dụng như Philipphê; ấy thế, đó là câu trả lời không thể thật hơn! Bởi lẽ, không ai thấy Thiên Chúa mà không chết, nên Con Thiên Chúa làm người để ai ‘nhìn thấy’ Ngài thì luôn ‘sống!’. Cốt lõi giáo lý về sự Nhập Thể là - giờ đây - “khuôn mặt” Thiên Chúa hiển hiện nơi Chúa Kitô. Thấy Chúa Kitô là thấy Chúa Cha, thấy sự sống, thấy thiên đàng. Rất nhiều điều kỳ diệu đang chờ đợi bên kia cuộc sống, nhưng chúng ta có thể hưởng nếm chúng trước trong Chúa Kitô. Ngài ‘mang trời xuống đất’ khi nhập thể; ‘mang đất lên trời’, khi đem chúng ta về ‘Nhà của Cha’. Với tư cách con đường, Ngài đưa chúng ta đến với Chúa Cha; tư cách sự thật, Ngài mặc khải Chúa Cha; và tư cách sự sống, Ngài chia sẻ sự sống thần linh.

Một sự trùng hợp thú vị khi trong thư Côrintô hôm nay, đến mấy lần, Phaolô đề cập đến việc nhìn thấy Chúa Phục Sinh. Ngài đã hiện ra “với ông Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt”; Ngài cũng hiện ra “với Giacôbê, với tất cả các tông đồ”; và sau cùng, với Phaolô như “một đứa trẻ sinh non”. Nhờ việc thấy Ngài, họ mạnh dạn đi đến tận cùng trái đất, rao giảng Tin Mừng Phục Sinh. Thánh Vịnh đáp ca xác nhận, “Tiếng các ngài vang dội khắp hoàn cầu!”.

Anh Chị em,

“Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống!”. Mỗi ngày, đi trên con đường Giêsu, mỗi bước chân của chúng ta đã “chọn nơi nó dẫn đến”, nó dẫn đến Chúa Cha! Có Chúa Cha, bạn và tôi có tất cả; có thiên đàng, có sự sống hôm nay, có sự sống vĩnh cửu! Vậy Kitô hữu sẽ không còn gặp bất cứ vấn đề nào nữa sao? Có chứ! Vấn đề cuộc sống vẫn còn đó, nhưng vì Con Thiên Chúa đã đi qua mọi nẻo gian khó của nó, và trên đường, Ngài đã toàn thắng khi đánh bại thần chết; vì thế, Ngài có thể dẫn chúng ta đi, cứu thoát chúng ta ở bất cứ hoàn cảnh nào. Và chắc chắn, Ngài sẽ dẫn chúng ta đến cùng đích!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đường đời muôn hướng nhưng ‘không dẫn đến đâu’. Giúp con chọn con đường Giêsu mỗi ngày; vì chọn Ngài, con ‘không thể sai lầm!’”, Amen.

 

Thứ bảy: Cv 16,1-10; Ga 15,18-21

PHẦN CÒN LẠI, NGÀI LO

“Nếu thế gian ghét các con, hãy biết, nó đã ghét Thầy trước!”.

E. Stanley Jones nói, “Một khi bị dồn vào đường cùng, rắn đuôi chuông sẽ tức giận tới mức tự cắn vào mình! Đó cũng là những gì xảy ra nơi một người tích chứa sự căm ghét. Ôm chặt hận thù, người ấy nghĩ, họ đang ‘làm đau’ kẻ khác; nhưng tai hại lớn hơn là họ đang huỷ hoại bản thân. Tốt nhất, bạn hãy đón nhận sự thù ghét, tìm dịp để yêu thương, và phó thác cho Chúa. Phần còn lại, Ngài lo!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Tìm dịp để yêu thương, phó thác cho Chúa. ‘Phần còn lại, Ngài lo!’”. Trước một nền văn hoá chống lại Thiên Chúa, Chúa Giêsu vẫn “tìm dịp để yêu thương và phó mình cho Chúa Cha”. Trong Tin Mừng hôm nay, Ngài nói, “Nếu thế gian ghét các con, hãy biết, nó đã ghét Thầy trước!”.

Sứ vụ của Chúa Giêsu càng mở ra, các thế lực chống đối Ngài càng trở nên tồi tệ. Nhưng Ngài sẵn lòng ôm lấy thực tế nghiệt ngã đó. Rõ ràng, Ngài vẫn yêu thương giới biệt phái, yêu Giuđa, yêu Phêrô, yêu cả những kẻ sẽ đóng đinh Ngài; Ngài yêu đến cùng. Từ việc phó mình cho Cha - với tất cả sức mạnh - Ngài đã vượt qua tất cả. Ai trong chúng ta, vào một giai đoạn nào đó, cũng cảm thấy gánh nặng này khi phải trải qua những sự từ chối tương tự, cả khi chúng ta chỉ muốn làm điều tốt cho người khác. Đây là thời điểm chúng ta nên giống Chúa Giêsu nhất. Dĩ nhiên, điều đó không dễ, nhưng nếu được vậy, bình an và niềm vui sẽ lấp đầy trái tim bạn; với một điều kiện, như Chúa Giêsu, bạn và tôi phó thác tất cả cho Chúa. ‘Phần còn lại, Ngài lo!’.

Và tình yêu luôn tìm kiếm giải pháp! Bài đọc Công Vụ Tông Đồ cho biết, như Chúa Giêsu, các tông đồ đã làm điều tương tự. Chỗ nào đón tiếp, các ngài lưu lại; chỗ nào tẩy chay, các ngài ra đi. Tại Đerbê, Lystra, được đón tiếp, Phaolô tiếp nhận Timôthê; các ngài đi qua Phygia, Galat, Trôa và xuống Macêđônia. Nhờ đó, Tin Mừng được rao giảng; tín hữu vui, dân ngoại mừng, “Hãy tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu!” - Thánh Vịnh đáp ca.

Đức Phanxicô nói, “Con đường của Kitô hữu là con đường của Chúa Kitô, không có con đường nào khác ngoài con đường Ngài đã chỉ ra với những hệ luỵ là bị thế gian căm ghét. Đó là lý do của những hận thù và khủng bố liên tục từ những ngày đầu tiên của Giáo Hội - và cho đến ngày nay - nhiều cộng đoàn Kitô trên thế giới đang bị bách hại!”.

Anh Chị em,

“Nếu thế gian ghét các con, hãy biết, nó đã ghét Thầy trước!”. Họ ghét Chúa Giêsu hơn ghét một tên gian phi. Tại sao? Vì Ngài nói cho họ sự thật về Thiên Chúa, về chính Ngài và về chính họ. Ngài chấp nhận tất cả và cứ tìm dịp để yêu thương, yêu cho đến cùng. Để rồi, tình yêu mạnh hơn sự thù ghét, mạnh hơn sự chết của Ngài chiến thắng, trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho nhân loại, một nhân loại thù hiềm Thiên Chúa. Với chúng ta, giữa một thế giới căm ghét Ngài; bạn cứ “tìm kiếm các giải pháp” để tiếp tục thứ tha, tiếp tục yêu thương. Và với sự trợ lực của Chúa Giêsu, sẽ không trở ngại nào là quá lớn; chính Ngài sẽ giúp chúng ta vượt qua tất cả. Điều quan trọng là cứ tập trung vào việc mở mang Nước Chúa, bạn và tôi tìm dịp để yêu thương. ‘Phần còn lại, Ngài lo!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để thế gian ghét con vì con dễ ghét; cứ để họ ghét con vì con dễ thương! Cho con, cứ thương, dù bị họ ghét. Được như thế, con nào khác Chúa mấy!”, Amen.

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XIII THƯỜNG NIÊN CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN-NĂM B Kn 1,13-15; 2,23-24; 2Cr 8,7.9.13-15; Mc 5,21-43 Suy niệm 1: ...