Tìm kiếm Blog này

Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2024

 GỢI Ý SÁM HỐI CUỐI NĂM DÀNH CHO QUÝ LINH MỤC

Dựa vào chủ đề mục vụ trong năm qua về việc thúc đẩy sự tham gia vào đời sống của Giáo hội với ba chức năng Tư tế, Ngôn sứ và Vương đế của Đức Kitô, Con xin mạo muội gợi lên một số ý xét mình sau:

1. Chức năng Tư tế:

* Thánh lễ:

- Có thường xuyên mời gọi giáo dân tham gia vào các phần phụng vụ như đọc kinh, hát lễ, đọc lời nguyện tín hữu, dâng lễ vật…không?

- Có tích cực thực hành những quy định của Giáo phận về việc cử hành phụng vụ thánh lễ như: đặt vị trí ảnh tượng và giá sách, bụt giảng phù hợp với tinh thần phụng vụ không? Có dành thời gian soạn giảng, giữ thinh lặng và tạo bầu khi cho giáo dân cầu nguyện trong thánh lễ không?

- Có tổ chức các khóa học về phụng vụ để giúp giáo dân hiểu rõ hơn ý nghĩa của các nghi thức không?

* Bí tích Hòa giải:

- Có hy sinh dành thời gian để giải tội và chịu khó lắng nghe và khuyên nhủ cho các hối nhân không?

- Có khuyến khích giáo dân thường xuyên rước lễ và xưng tội không?

- Có tổ chức các buổi tĩnh tâm để giúp giáo dân sống đức tin sốt sắng và vững mạnh hơn không?

* Các hoạt động bác ái:

- Có khuyến khích giáo dân tham gia vào các hoạt động bác ái xã hội của giáo xứ không?

- Có những sáng kiến và tạo điều kiện cho giáo dân thể hiện tình yêu thương đối với những người nghèo khó, bệnh tật không?

2. Chức năng Ngôn sứ:

* Giảng dạy Lời Chúa:

- Có thường xuyên giảng giải Lời Chúa trong các Thánh lễ và các buổi chia sẻ đức tin không?

- Có khai triển những chủ đề hàng tháng do ban mục vụ giáo phận soạn thảo cho bà con giáo dân học hỏi và chia sẻ không? Và có giúp giáo dân áp dụng Lời Chúa vào cuộc sống hàng ngày không?

- Có khuyến khích giáo dân đọc Kinh Thánh và chia sẻ về những điều đã học được không?

* Làm chứng cho Đức Kitô:

- Có sống chứng tá Tin Mừng bằng lời nói và việc làm không?

- Có dám lên tiếng bảo vệ công lý và chân lý không?

- Có gương mẫu trong việc sống đức tin và đạo đức không?

* Loan báo Tin Mừng:

- Có mời gọi giáo dân tham gia tích cực vào các hoạt động LBTM  không?

- Có tổ chức các lớp học giáo lý chu đáo và hy sinh dạy giáo lý cho những người dự tòng không?

3. Chức năng Vương đế:

* Cộng đoàn giáo xứ:

- Có xây dựng cộng đoàn giáo xứ trở thành một gia đình yêu thương và đoàn kết không?

- Có khuyến khích giáo dân tham gia vào các hoạt động mục vụ của giáo xứ không?

- Có quan tâm giải quyết các mâu thuẫn và bất hòa trong cộng đoàn không?

- Có dành thời gian họp HĐMVGX cũng như các giới, ban, ngành đoàn thể hàng tháng không?

* Xã hội:

- Có khuyến khích giáo dân tham gia vào các hoạt động xã hội để đóng góp cho cộng đồng không?

- Có làm việc với các tổ chức xã hội khác để cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn không?

* Giáo hội:

- Có nhiệt tình tham gia vào các hoạt động của hạt, giáo phận và Giáo hội không?

- Có tuân thủ các chỉ thị của Giáo phận và Giáo hội không?

* Tóm lại:

- Trong năm qua, điều gì đã thúc đẩy quý Cha sự tham gia vào đời sống Giáo hội hiệu quả?

- Điều gì đã cản trở quý Cha trong việc thi hành sứ vụ này?

- Qúy Cha cần phải làm gì để cải thiện hơn trong ơn gọi và sứ mạng của mình?

* Kết luận:

Một số gợi ý trên, hy vọng giúp quý Cha nhận ra những điểm mạnh, điểm yếu của mình và từ đó có những điều chỉnh phù hợp để phục vụ cộng đoàn giáo dân tốt hơn trong tương lai. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn quý Cha cảm nhận sâu xa lòng thương xót của Chúa mà sám hối chân thành và hiệu quả.

 SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXX THƯỜNG NIÊN

Lm. nguyệt Giang

CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN-B

Gr 31,7-9; Dt 5,1-6; Mc 10,46-52

Suy niệm 1: XIN CHÚA CHO ĐƯỢC SÁNG MẮT SÁNG LÒNG

Tin mừng hôm nay trình thuật lại phép lạ Chúa Giêsu chữa đôi mắt mù lòa của anh chàng Bar-ti-mê được sáng, nhờ vào lòng tin kiên vững và lời kêu xin tha thiết của anh ta. Với niềm tin tưởng cậy trông vào quyền năng Chúa, trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cũng hãy thiết tha cầu xin Chúa thương cứu chữa con mắt tâm hồn còn mù lòa của chúng ta, để ta nhận ra Chúa là Cha giàu lòng thương xót và nhận ra tha nhân là anh em. Nhất là nhận ra những tính hư tật xấu, tội lỗi của mình mà thành tâm ăn năn sám hối để xứng đáng tham dự vào mầu nhiệm thánh.

Anh mù được tin mừng hôm nay nhắc đến rất đổi quen thuộc:

- Địa chỉ thường trú của anh là ở thành Giêricô.

- Tên đích danh của anh ta là Bar-ti-mê, ai cũng biết.

- Cha của anh là ông Ti-mê, chẳng xa lạ gì.

Hằng ngày anh mù Bar-t-imê này phải mò mẫm đi lại nơi đây để xin lòng thương xót của mọi người. Vì thân phận mù lòa, trót mang kiếp sống "cầm ca" nên anh ta đã bị xã hội loại trừ và mọi người xa lánh. Tiếng kêu xin của anh ta đã trở thành âm thanh chói tai đối với mọi người đi qua chốn ấy, nên ít ai quan tâm lắng nghe cũng như muốn đến gần anh ta.

Tuy bị thiệt thòi, nhưng Chúa lại bù đáp cho anh ta những khả năng khác. Vì thế mà người đời thường nói “có tật, có tài” là vậy. Dẫu cho mọi nguời xa tránh làm ngơ trước lời kêu xin của anh, nhưng với khả năng nhạy bén anh cảm nhận Đức Giêsu yêu thương và quan tâm đến anh. Vì thế, cho dẫu mọi người hôm đó không nhận ra sứ mạng Thiên Sai của Chúa Giêsu, nhưng anh mù với giác quan  nhạy bén và sự cảm nhận sâu xa của tâm hồn, anh lại sáng suốt nhận ra sứ mạng bí mật Thiên Sai của Đức Giêsu. Vì vậy nên anh ta đã không ngần ngại lớn tiếng kêu vang xin Người cứu chữa: “Lạy ông Giêsu, con vua Đa-vit. Xin dủ lòng thương tôi”. Bằng cảm nhận trực giác tinh tế, anh ta cảm nhận một quyền năng chữa lành phát xuất  từ nơi Đức Giê-su. Vì thế, cho dù bị dân chúng cản ngăn, cấm đoán anh càng kêu xin thiết tha hơn.

Thật tinh tường, anh đã nhìn thấy nơi Đức Giê-su có một kho báu rất quý giá mà ở trần gian này chẳng ai có được, đó là quyền cứu chữa. Vì thế, anh ta đã không hề xin Người tiền bạc, cơm gạo, bánh trái… như mọi ngày.  Trái lại, anh ta chỉ tha thiết xin Người cứu chữa cho anh được sáng mắt: “xin cho tôi được sáng”.

Nhờ nỗ lực cảm nhận thế giới và con người bằng đôi mắt của tâm hồn, của đức tin và rồi cố gắng hết sức mình để thể hiện điều cảm nhận đó bằng hết khả năng của mình ngang qua lời kêu xin tha thiết. Nên lời kêu xin tha thiết của anh đã được Chúa lắng nghe và nhận lời. Người đã ra tay cứu chữa đôi mắt mù lòa của anh được sáng.

Hằng ngày các môn đệ vẫn thấy, vẫn nghe Chúa Giê-su nói. Các ông đã chứng kiến bao là phép lạ Người làm, nhưng vì mơ tưởng địa vị cao sang, chức cao quyền trọng nên đôi mắt của các ông đã bị che mờ, không còn khả nhận ra sứ mạng Messia nơi Chúa Giêsu.

Xin Chúa cho chúng ta có được đôi mắt của đức tin để ta nhạy bén nhận ra những kỳ công lạ lùng của Chúa trong vũ trụ này, cũng như nhìn thấy được những ân huệ lớn lao mà Chúa thương ban trên cuộc đời ta.

Xin Chúa loại trừ khỏi những áng mây đen của vô tình, hững hờ và khinh khi… đang che phủ nơi con mắt tâm hồn ta, để ta nhìn thấy đời, nhận ra người bằng ánh mắt của cảm thông, bao dung và trân quý.

Xin Chúa đừng bao giờ để ta hành xử vô duyên, vô tình, vô tâm với nhau bởi những lời soi mói, chê bai, cười đùa trước nổi đau khiếm khuyết của tha nhân; cũng đừng để chúng ta trở thành rào cản ngăn chặn những ước muốn chính đáng của người khác. Trái lại, xin Chúa cho chúng ta có những hành vi hào hiệp,  những lời nói cảm thông, những việc làm bác ái, những hy sinh phục vụ quên mình cho tha nhân. Trong năm sống chủ đề : “thúc đẩy sự tham gia vào đời sống giáo hội”, xin cho ta đừng bao giờ có thái độ ngăn cản những người khác tham gia vào những sinh hoạt mục vụ của Họ đạo, nhất là đừng gây khó dễ cho những ai yếu đuối, sa ngã trở về với Giáo hội và tìm đến với Chúa.

 

Suy niệm 2: MÙ THỂ XÁC, SÁNG TÂM HỒN

Đọc đoạn tin mừng hôm nay, tôi nhớ đến câu chuyện cổ tích khá lý thú sau đây:

Truyện kể: Ngày xưa có một anh mù, mù cả 2 mắt, chẳng làm được gì. Sáng vợ dắt ra đầu làng ăn xin, chiều vợ dắt về nhà ăn tối. Hai vợ chồng sống rất lương thiện và an vui bên nhau. Một hôm, vợ bận việc không ra đón chồng về được. Chồng chờ mãi không thấy, dò dẫm tìm đường về. Lần mò thế nào mà lạc ngay vào rừng.

Tối đến tiếng thú rừng kêu rống khiến người chồng sợ quá. Anh mò leo lên được một cây cao để tránh cọp. Đúng lúc đó, bầy quỉ ma lại đến hội họp dưới gốc cây. Chúng chỉ cho nhau biết chỗ giấu kho tàng và nói cho nhau hay cây thuốc quí có khả năng chữa bách bệnh, kể cả mù loà.

Anh chàng mù nghe được. Sáng hôm sau, lần tìm kiếm đến cây thuốc quí, hái xoa vào mắt, mắt anh liền sáng. Rồi tìm đến kho tàng, lấy được rất nhiều của cải. Từ đó anh chàng mù giàu có và rộng tay giúp đỡ những ai nghèo khó.

Người anh keo kiệt thấy vậy nên mới hỏi chàng mù hỏi lý do tại sao em sáng mắt, và tại sao giàu có. Người em (tức người mù) thành thật chỉ cho anh biết.

Bấy giờ người anh giả vờ mù, đi đến gốc cây trong khu rừng đó, đang đêm leo lên cây ấy chờ đợi. Bọn quỉ cũng đến họp. Nhưng phát hiện kho tàng đã mất, bèn bủa nhau đi tìm. Gặp được người anh đang trốn trên cây, chúng cho là kẻ trộm, nên đem xuống giết chết.

Câu chuyện cổ tích trên đây chắc chắn là không có thật. Nhưng người xưa kể ra nhằm răn dạy con cháu nhiều bài học, như: “ở hiền gặp lành”, “tham thì thâm”.

Tin Mừng Chúa nhật hôm nay cũng lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa  cho người mù Batimê được sáng mắt nhờ vào đức tin kiên vững và lời cầu xin tha thiết của anh ta.

Từ hai câu chuyện trên, ta nhận thấy rằng:

- Có những người người mắt thật sáng, nhưng chỉ vì một chút lợi lộc cỏn con mà trở nên mù lòa như người anh trong câu chuyện trên.

- Có những người con mắt lý trí rất sáng suốt nhưng con mắt đức tin lại mù lòa khiến họ không thể nhạy bén nhận ra tình thương sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô như những người Biệt Phái.

Có những người mắt thật sáng, nhưng vì cái tôi quá lớn khiến họ không còn khả năng nhận ra cái hay, cái tốt nơi người khác.

- Có những người con mắt kiến thức rất sáng nhưng  tâm hồn lại mù lòa, bởi họ không có khả năng thấy những cảnh đời nghèo khổ, bất hạnh chung quanh mình mà yêu thương, giúp đỡ họ.

- Lần nọ, sau khi phát hiện ra mẹ mình đã trả lộn cho khách một số tiền lớn, cô con gái đã quay lại nạt mẹ rằng: “Bộ mắt mẹ đui sao mà lại tính lộn như vậy”.

Nghe lời ấy của đứa con, người mẹ rất đau lòng, xót xa cay đắng vì sự đui mù nhẫn tâm của người con gái mình, khi nó coi thường và có những lời lẽ hết sức xúc phạm nặng nề với người mẹ mình.

Người vợ quên pha cà phê, người chồng khó chịu. Chàng chỉ thấy cái mầu đen của cà phê mà mù trước biết bao chăm sóc khác của vợ dành cho mình, để rồi giận dỗi bỏ đi.

Người chồng quên sửa chiếc ghế, người vợ đay nghiến. Nàng chỉ thấy chân ghế gãy chưa sửa mà mù trước biết bao công sức chàng đã làm cho nhà cửa gia đình.

Xin Chúa cho chúng ta có được đôi mắt của đức tin để ta nhạy bén nhận ra những kỳ công lạ lùng của Chúa trong vũ trụ này, cũng như nhìn thấy được những ân huệ lớn lao mà Chúa thương ban trên cuộc đời ta.

Xin Chúa loại trừ khỏi những áng mây đen của vô tình, hững hờ và khinh khi… đang che phủ nơi con mắt tâm hồn ta, để ta nhìn thấy đời, nhận ra người bằng ánh mắt của cảm thông, bao dung và trân quý.

Xin Chúa đừng bao giờ để ta hành xử vô duyên, vô tình, vô tâm với nhau bởi những lời soi mói, chê bai, cười đùa trước nổi đau khiếm khuyết của tha nhân; cũng đừng để chúng ta trở thành rào cản ngăn chặn những ước muốn chính đáng của người khác. Trái lại, xin Chúa cho chúng ta có những hành vi hào hiệp,  những lời nói cảm thông, những việc làm bác ái, những hy sinh phục vụ quên mình cho tha nhân. Trong năm sống chủ đề : “thúc đẩy sự tham gia vào đời sống giáo hội”, xin cho ta đừng bao giờ có thái độ ngăn cản những người khác tham gia vào những sinh hoạt mục vụ của Họ đạo, nhất là đừng gây khó dễ cho những ai yếu đuối, sa ngã trở về với Giáo hội và tìm đến với Chúa.

 

Suy niệm 3: CÓ NHỮNG KẺ MÙ MÀ SÁNG MẮT. CÓ NHỮNG KẺ SÁNG MẮT MÀ MÙ.

Truyện kể: Ngày xưa có một anh mù, mù cả 2 mắt, chẳng làm được gì. Sáng vợ dắt ra đầu làng ăn xin, chiều vợ dắt về nhà ăn tối. Hai vợ chồng sống rất lương thiện và an vui bên nhau. Một hôm, vợ bận việc không ra đón chồng về được. Chồng chờ mãi không thấy, dò dẫm tìm đường về. Lần mò thế nào mà lạc ngay vào rừng.

Tối đến tiếng thú rừng kêu rống khiến người chồng sợ quá. Anh mò leo lên được một cây cao để tránh cọp. Đúng lúc đó, bầy quỉ ma lại đến hội họp dưới gốc cây. Chúng chỉ cho nhau biết chỗ giấu kho tàng và nói cho nhau hay cây thuốc quí có khả năng chữa bách bệnh, kể cả mù loà.

Anh chàng mù nghe được. Sáng hôm sau, lần tìm kiếm đến cây thuốc quí, hái xoa vào mắt, mắt anh liền sáng. Rồi tìm đến kho tàng, lấy được rất nhiều của cải. Từ đó anh chàng mù giàu có và rộng tay giúp đỡ những ai nghèo khó.

Người anh keo kiệt thấy vậy nên mới hỏi chàng mù hỏi lý do tại sao em sáng mắt, và tại sao giàu có. Người em (tức người mù) thành thật chỉ cho anh biết.

Bấy giờ người anh giả vờ mù, đi đến gốc cây trong khu rừng đó, đang đêm leo lên cây ấy chờ đợi. Bọn quỉ cũng đến họp. Nhưng phát hiện kho tàng đã mất, bèn bủa nhau đi tìm. Gặp được người anh đang trốn trên cây, chúng cho là kẻ trộm, nên đem xuống giết chết.

Câu chuyện cổ tích trên đây chắc chắn là không có thật. Nhưng người xưa kể ra nhằm răn dạy con cháu nhiều bài học, như ở hiền gặp lành, như “tham thì thâm cổ nhân dạy thế, lấy chuyện gà ra để răn đời…”

Tin Mừng Chúa nhật hôm nay cũng lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa người mù thành Giêricô được sáng mắt nhờ vào đức tin kiên vững và lời cầu xin tha thiết của anh ta. Từ hai câu chuyện trên, ta có thể rút ra bài học, đó là : 'Có những người mù mà sáng mắt – có người sáng mắt mà lại mù'.

1. Có Những Người Mù Mà Sáng.

Người mù trong truyện cổ tích nhờ biết leo lên cây để tránh thú dữ.

Biết lắng tai nghe lời quỉ họp bàn.

Biết lúc nào mới xuống khỏi cây cao.

Biết tìm đến cây thuốc quí.

Biết dùng kho tàng chia sẻ cho người nghèo.

Người mù tại Giêricô cũng là một người 'mù mà sáng'.

- Cái sáng 1: là anh biết mình đang mù, nên rất cần được sáng. Có những người sáng mà như mù vì nghĩ rằng mình chẳng cần ánh sáng nào cả.

- Cái sáng 2: là anh biết ai mới là người có thể làm cho mình được sáng mắt: anh đã nghe nói về Đức Giêsu nhiều rồi. Và hôm nay anh còn sáng hơn vì đã nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế : 'Nghe tin có Đức Giêsu Nazaret, anh kêu to' : 'Lạy Giêsu, con Vua Đavit'. “Con Đavit”  là tước hiệu Đấng Cứu Thế.

- Cái sáng 3: là anh biết mình phải làm gì. Anh tìm đến Người sắp đi qua và chờ cho gặp được Người có thể chữa mình.

Khi không chạy đến với Người bằng đôi chân (vì mắt mù) thì chạy đến bằng tiếng kêu. Người ta bảo chàng im đi, muốn át tiếng kêu của chàng, thì chàng lại la to hơn: “Lạy Con vua Đavit xin thương xót thân con !”

- Cái sáng 4: là khi tiếp xúc được với Người có thể chữa mình, anh biết từ bỏ. Anh ta liền vất cả áo choàng nhảy chồm lên mà đến với Đức Giêsu. Rồi khi Đức Giêsu đã chữa anh khỏi, anh liền đi theo Người.

Đó là một mẫu người 'mù mà vẫn sáng', vì người đó biết mình cần gì. Mình phải làm gì để đạt được điều mình cần. Và khi đạt được rồi phải làm gì để giữ mãi được điều mình cần đó. Đó là đi theo Đức Giêsu, vì Ngài chính Ánh sáng.

Qua Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được trao nến sáng, tượng trưng cho Đức Kitô là Ánh Sáng. Chúng ta có cố gắng để giữ mãi ánh sáng ấy không, hay là chúng ta như hạng người thứ hai: 'sáng mắt mà mù'.

2. Có Những Người Sáng Mắt Mà Mù

Như người anh trong câu truỵên cổ tích: nghe nói đến kho tàng của cải là mù tối ngay. Sẵn sàng giả vờ mù, đi trong đêm tối để rồi bị chết vào tay bầy quỉ. Thì cũng vậy:

- Có người người mắt thật sáng, mà vì một chút lợi lộc cỏn con, không thèm nhìn thấy người kia là bạn mình nữa.

- Có những người mắt thật sáng mà chỉ vì một câu nói chạm tự ái, một hành vi nhỏ động khẽ đến danh dự là muốn làm cho to chuyện, làm cho ra nhẽ, lại hoá ra đánh mất luôn cái danh cỏn con ấy.

- Có những người mắt thật sáng, mà hoá mù trước cái tốt của kẻ khác.

Xin mẹ 1000, mẹ không cho, em bé phụng phịu khó chịu. Em nhìn thấy thật sáng tờ 1000 mà mù, không thấy bao nhiêu là tiền của công sức nuôi dạy em, từ bé cho tới giờ, để rồi tức tối với cha mẹ. (chuyện một em bé đòi tiền công rửa chén, quét nhà bằng một tờ giấy viết tay, là 10 ngàn. Mẹ đưa bé tờ một chục. Tối đến mẹ chìa cho bé xem một hóa đơn dài, ghi sẵn tiền công sinh, công dưỡng, công chăm sóc bé…cho đến nay. Cộng chung con số tiền cực to).

- Người vợ quên pha cà phê, người chồng khó chịu. Chàng chỉ thấy cái mầu đen của cà phê mà mù trước biết bao chăm sóc khác của vợ dành cho mình, để rồi giận dỗi bỏ đi.

- Người chồng quên sửa chiếc ghế, người vợ đay nghiến. Nàng chỉ thấy chân ghế gãy chưa sửa mà mù trước biết bao công sức chàng đã làm cho nhà cửa gia đình.

Để nhìn cho được cái tốt của kẻ khác, nói cách khác để mắt ta không mù trước cái tốt của tha nhân, cần có Đức Kitô Con vua Đavit mở cho chúng ta.

Không phải dễ. Và khi đã mở rồi, ta phải gắn bó với Ngài, tức là phải tìm ánh sáng nơi Ngài trong các cư xử hằng ngày của ta. Chớ gì trước khi nóng giận chỉ trích, ta thử hỏi Đức Giêsu trong hoàn cảnh này sẽ làm gì. Ta hãy cầu xin Đức Giêsu, Con vua Đavit mở mắt cho chúng ta nhìn thấy người khác là hình ảnh và là chính thân thể Đức Kitô vậy.

Anphong Nguyễn Công Minh, ofm

Suy niệm 4: LỄ THIẾU NHI

“Hỡi ông Giêsu con vua Đavít xin thương xót con”. xin thương xót tôi”. Đó là lời kêu xin tha thiết của anh mù Bar-ti-mé.

Đến với Chúa hôm nay, chúng ta cũng hãy bắt chước anh mù, khiêm tốn nhìn ra sự mù lòa tăm tối của tâm hồn mình, mà tha thiết khẩn xin Chúa cứu chữa, hầu chúng ta có thể nhìn ra Chúa là ai, đâu là con đường phải đi, lý tưởng nào ta phải theo để đạt đến hạnh phúc thật, là cuộc sống Nước Trời.

Lần nọ, sau khi phát hiện ra mẹ mình đã trả lộn cho khách một số tiền lớn, cô con gái đã quay lại nạt mẹ rằng: “Bộ mắt mẹ đui sao mà lại tính lộn như vậy”.

Trong nỗi xót xa vì cái đui mù vô tình do lầm lẫn của mình, người mẹ có lẽ còn cảm thấy xót xa cay đắng hơn nhiều, vì sự đui mù nhẫn tâm của người con gái, khi coi thường và có những lời lẽ hết sức xúc phạm với mẹ mình.

1. Có mấy loại mù loà?

 Có ba loại:

+ Mù loà thể lý: Anh mù Bartimê.

+ Mù loà tâm lý: Như bà mẹ trong câu chuyện trên.

+ Mù loà đức tin: Các biệt phái.     

2. Hậu quả của sự mù loà là gì?

– Mù loà thể lý: Mặc cảm ở đậu ăn nhờ vào người khác.

– Mù loà tâm lý: Bị khinh dể hất hủi, bỏ rơi.

– Mù loà về đức tin: Mất đi hạnh phúc đời đời.

3. Hôm nay có chuyện gì xảy ra tại Giêricô?

– Có anh mù tên Bartimê đang ngồi bên vệ đường ăn xin.

4. Anh mù đã xin gì khi nghe Chúa Giêsu đi ngang qua?

– Lạy Con vua Đavít xin thương xót tôi.

5. Thái độ của anh ta thế nào?

– Đặt trọn niềm tin tưởng và chạy đến cùng Chúa.

6. Chúa Giêsu hôm nay làm gì cho anh mù?

– Nghe thấy tiếng van xin của anh mù.

– Quan tâm và hỏi anh muốn Chúa làm gì cho anh.

– Yêu thương chữa lành cho anh: Đức tin của con đã chữa con.

7. Anh mù đã làm gì sau khi được chữa lành?

– Nhìn ra Chúa Giêsu chính là Đấng cứu thế.

– Sẵn sàng bước đi trên con đường cứu độ của Chúa.

8. Ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, Chúa trao gì cho chúng ta?

– Trao cho chúng ta ngọn đèn đức tin.

9. Bắt chước anh mù Bartimê, chúng ta phải làm gì?

– Giã từ bóng tối tội lỗi:

+ Dối trá trộm cắp

+ chửi tục nói bậy

+ Cãi cọ nói xấu

+ Lười biếng khô khan

+ xem phim ảnh bậy bạ…

– Đi theo ánh sáng của Chúa:

+ Siêng năng học hỏi giáo lý

+ Đến với Chúa qua việc tham dự thánh lễ và lãnh nhận bí tích

+ Đưa dẫn người khác đang bị mù loà tội lỗi đến cùng Chúa.

Lm. Giuse Vũ Đức Hiệp



Thứ hai: Ep 2,19-22; Lc 6,12-19

KÍNH THÁNH SIMON VÀ GIUĐA TÔNG ĐỒ

Suy niệm 1: 

Để thực thi sứ mạng rao giảng Tin mừng, đem ơn cứu độ đến cho con người, một mình Chúa Giêsu là đủ, vì Ngài là Thiên Chúa. Nhưng Chúa lại không dùng cách thế đó. Trái lại, Chúa muốn mời gọi con người cộng tác.

Cụ thể bài Tin mừng hôm nay liệt kê bảng danh sách 12 tông đồ, những người được Chúa Giêsu tuyển chọn để cộng tác với Ngài trong sứ mạng hết sức cao cả là loan báo Tin mừng. Để tuyển chọn và trao phó cho con người sứ mạng hết sức cao quý này, Chúa Giêsu đã không làm theo cảm tính cá nhân, hay theo cái nhìn chủ quan. Trái lại Ngài đã thận trọng tìm hiểu và bàn hỏi với Chúa Cha bằng cách suốt đêm cầu nguyện.

Nhìn vào danh sách 12 tông đồ mà Chúa Giêsu tuyển chọn sau một đêm dài cầu nguyện, chúng ta nhận thấy đa số các ngài là những người quê mùa, ít học, nghèo khổ, tính tình lại rất người, chẳng tài ba lỗi lạc gì. Trong đó có hai vị tông đồ mà chúng ta mừng kính hôm nay: Giuđa và Simon.

Thánh kinh ít khi nhắc đến hai vị tông đồ này, ngoại trừ bảng liệt kê danh sách các tông đồ hôm nay. Được biết trong số 12 tông đồ có tới hai vị mang tên là Simon. Để phân biệt, Thánh kinh gọi thánh Simon mừng kính hôm nay là Simon Nhiệt Thành, khác với Simon Phêrô. Cũng vậy, có hai vị mang tên là Giuđa trong danh sách 12 tông đồ. Nên để phân biệt, Thánh kinh gọi Giuđa mừng kính hôm nay là Giuđa Tađêô khác với Giuđa Iscariôt (phản bội). Cả hai vị không có tài năng nào nổi trội ngoại trừ lòng Nhiệt Thành và sự Tín Trung, theo ý nghĩa biệt danh của hai ngài.

Như vậy, để tuyển chọn những người tiếp nối sứ mạng loan báo Tin mừng mang ơn cứu độ đến với nhân loại, Chúa Giêsu không chọn những người giàu có, tài ba lỗi lạc hay đạo đức thánh thiện trổi vượt. Điều Chúa cần đó là những con người khiêm tốn âm thầm cộng tác với Ngài và tiêu chuẩn mà Chúa đến là lòng Nhiệt Tâm trong sứ vụ và sự Trung Thành cho lý tưởng tới cùng. Thế là đủ!

Xin cho chúng ta ý thức rằng: ý Chúa luôn tốt hơn ý của ta, sự chỉ dạy của Ngài luôn mang lại lợi ích tốt nhất cho phần phúc chúng ta. Vì thế mội khi làm bất cứ việc gì, nhất là khi quyết định những việc quan trọng trong đời, chúng ta cần dành thời giờ để cầu nguyện, xin ơn soi sáng của Chúa; đồng thời cũng nên bàn hỏi với bề trên là những người có kinh nghiệm và có trách nhiệm hướng dẫn đời sống đức tin của chúng ta. Xin cho chúng ta hằng biết noi gương hai vị thánh tông đồ Simon và Giuđa luôn nhiệt thành trong bổn phận và hằng trung tín với niềm tin.

 

Suy niệm 2: SIMON VÀ GIUĐA: HAI TÔNG ĐỒ, MỘT SỨ ĐIỆP

Hai vị thánh này, tuy ít được nhắc đến trong các sách Tin Mừng, nhưng lại mang trong mình một sứ điệp sâu sắc về đức tin và lòng nhiệt thành. Họ là những người đã đáp trả lời mời gọi của Chúa Giêsu tích cực, sẵn sàng bỏ lại tất cả để dấn bước lên đường, trở thành những chứng nhân trung thành cho Tin Mừng cứu độ của Chúa.

Cả hai ngài đều được Chúa Giêsu chọn làm tông đồ. Điều này cho chúng ta thấy rằng, mỗi người chúng ta đều được Chúa yêu thương và mời gọi. Dù chúng ta là ai, ở đâu, làm gì, thì lời mời gọi của Chúa vẫn luôn vang vọng trong tâm hồn.

Thánh Simon được gọi là "Nhiệt Thành", điều này cho thấy ngài có một lòng yêu mến Chúa tha thiết và một khát khao được rao giảng Tin Mừng. Còn thánh Giuđa Tadeo, tuy ít được biết đến, nhưng ngài cũng là một tông đồ trung tín, luôn sẵn sàng từ bỏ tất cả để đi theo phục vụ Chúa.

Cả hai ngài đều là những tấm gương sáng về đức tin. Các ngài đã sống một cuộc đời khiêm tốn, hy sinh phục vụ và luôn đặt niềm tín thác vào tình thương của Chúa. Trong một thế giới đầy những cám dỗ, thì mẫu gương của các ngài mời gọi chúng ta sống trung thành với đức tin và nhiệt tâm thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình là điều hết sức cần thiết.

Chúng ta cảm tạ Chúa vì đã ban cho GH chúng ta hai vị thánh tông đồ Simon và Giuđa luôn nhiệt  thành cho sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa. Xin cho chúng ta biết noi gương các ngài luôn kiên vững trong đức tin và hăng say làm chứng nhân cho Tin Mừng tình thương của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Amen.

 

* Mùa thường niên: Lc 13, 10-17

Khi suy ngắm về lời nói cũng như hành vi của các nhân vật được đề cập trong đoạn Tin mừng hôm nay, gợi lên cho chúng ta nhiều bài học quý:

1. Nơi Đức Giêsu: Vẫn biết rằng việc chữa bệnh cho người đàn bà bị còng lưng trong ngày Sabat là gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của nhiều phe nhóm, cụ thể là thái độ phản đối của ông trưởng hội đường hôm nay. Thế mà Chúa Giêsu lại không chùn bước và sợ hãi. Trái lại với sức mạnh của tình yêu thúc đẩy và luật bác ái đòi buộc, Chúa Giêsu đã ra tay cứu chữa cho bà. Hành động này của Chúa Giêsu gợi lên trong ta nhiều suy nghĩ:

- Khi thực thi tình bác ái đối với tha nhân, nhiều lúc tôi cũng bị người đời gièm pha chỉ trích hoặc giả bị ngăn cản chống đối. Vậy tôi có chùn bước không?

- Để được an phận, tôi có a-dua theo cái nhìn sai lạc của thói đời mà dửng dưng trước những đau khổ của tha nhân không?

- Đã bao lần tôi có đủ can đảm để thực thi luật tình yêu, bằng việc tận tâm giúp đỡ những người đang gặp khốn khổ chung quanh tôi?

2. Nơi ông trưởng hội đường: Với chức vị là người đứng đầu của một hội đường, đáng lẽ ông phải là người đầu tiên cảm thương cho số phận khốn khổ của người chị em mình, vì suốt 18 năm dài lưng chị bị còng không ngẩng đầu lên nổi.

Hơn ai hết ông phải là người vui nhất khi nhìn thấy người chị em mình được cứu chữa; ấy vậy mà khi chứng kiến người chị em này được Chúa Giêsu chữa lành, ông ta lại tỏ ra khó chịu. Như "Giận cá chém thớt", ông quay về phía dân chúng và trút xuống một cơn mưa giận dữ khi tuyên bố: "có sáu ngày người ta phải làm việc: vậy thì các người hãy đến xin chữa bệnh trong những ngày đó, chứ đừng đến trong ngày Sabat.".

Để cởi trói cái nhìn thiên kiến và quan niệm sai lạc về việc giữ luật ngày Sabat, Chúa Giêsu đã không ngần ngại lên án mạnh mẽ lối sống giả hình của ông, rồi xác định cho mọi người nhận ra được giá trị cao quý của phẩm giá con người khi tuyên bố: "Chớ thì trong ngày Sabat, mỗi người trong các ông không thả bò hay lừa của mình ra khỏi chuồng mà dẫn nó đi uống nước nước sao? Phương chi người con gái của Abraham này, Satan đã cột trói nó đã 18 năm nay, chớ thì không nên tháo xiếng xích buộc nó trong ngày Sabat sao?". Súc vật mà còn được tháo cởi trong ngày Sabat để chúng tự do đi lại ăn uống, thì tại sao người đàn bà này là con gái của tổ phụ Abraham và là con cái Thiên Chúa lại không được thừa hưởng quyền tự do cơ bản đó!.

Qua đây Chúa Giêsu minh chứng rằng: chỉ có một lề luật duy nhất để tuân giữ, đó là luật yêu thương; và chỉ có một giá trị cao cả nhất để sống và chết cho đó là tự do làm người và làm con Chúa.

Xin Chúa loại trừ những đố kỵ, ghen ghét tầm thường nơi mỗi chúng ta để chúng ta có được cái nhìn trong sáng đúng đắn. Và xin Chúa cũng giúp chúng ta luôn biết sống nhân ái bao dung với hết mọi người như Chúa đã hằng nhân ái với chúng ta. Amen.

3. Nơi người đàn bà bị còng lưng 18 năm: Với hình ảnh người đàn bà bị còng lưng 18 năm trời, cho thấy nổi đau khổ mà bà phải cam chịu trong suốt thời gian dài.

Khổ vì không ngước mặt lên được để nhìn người, nhìn đời.

Khổ vì không thể nhìn xa, ngước cao dù chỉ một lần.

Khổ vì mang gánh nặng mặc cảm tội lỗi mà người đời gán ghép cho. (người Do Thái cho rằng bệnh tật là do tội lỗi gây nên).

Khổ vì hằng ngày phải đối diện với bao lời xì xầm nhạo cười của bao người chung quanh, do tướng mạo khác người.

Việc bà được Chúa Giêsu chữa khỏi quả là một niềm vui lớn lao. Vui vì từ nay gánh nặng trên lưng bà được cất khỏi sau 18 năm trời mang lấy. Vui vì khối u tội lỗi đè nặng tâm hồn bà nay được gỡ bỏ. Từ nay bà có thể ngước nhìn đời và nhìn người cách dễ dàng. Hạnh phúc nào bằng khi hôm nay bà có thể hòa nhập với mọi người trong các sinh hoạt xã hội và tôn giáo. Từ nay bà tự do hướng nhìn về trời cao và có quyền mơ ước những điều cao quý như bao người!

Tội lỗi, tính hư tật xấu là gánh nặng vô hình nhiều lúc cũng đè nặng tâm hồn và cuộc sống chúng ta. Mong được giải thoát, trút khỏi gánh nặng nề ấy để lòng được thanh thản, an vui là niềm khát khao lớn lao của mỗi người. Nhưng tự sức ta nhiều lúc không đủ sức vượt thoát khỏi những trói buộc vô hình ấy. Chỉ có quyền lực của Chúa mới đủ sức mạnh cởi trói và giải thoát ta khỏi ràng buộc của ma quỷ, xác thịt và thế gian mà thôi.

Xin Chúa thương đụng chạm đến con người đầy yếu đuối tội lỗi của ta để những gánh nặng do bệnh tật thể xác và tâm hồn do ma quỷ gây ra được tháo cởi. Nhờ đó đem lại cho ta niềm vui và sự tự do đích thực của đời làm con Chúa.

 

Thứ ba: Lc 13,18-21

Suy niệm 1:

Khi muốn nói những điều khó nói, người ta hay dùng cách nói ví von. Khi muốn bộc bạch những tâm tình sâu kín, khó nói thành lời, người ta hay nhờ đến những câu chuyện. Còn khi mạc khải về mầu nhiệm nước trời cho dễ hiểu, Chúa Giêsu lại hay dùng đến những dụ ngôn. Có thể nói, dụ ngôn là con đường ngắn nhất, thực tế nhất, gần gũi nhất và cũng hữu hiệu nhất đưa dẫn chúng ta tiếp nhận được những giá trị thiêng liêng và thực tại vô hình.

Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu dùng đến hai dụ ngôn: Dụ hạt cải và tấm men để mạc khải về mầu nhiệm nước trời. Với hai dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta biết: nước trời khởi đầu bé tí ti như hạt cải, âm thầm như tấm men. Nhưng với thời gian nó dần dần lớn lên, vững mạnh và có sức lan tỏa đến bất ngờ!

- Với hạt cải nhỏ bé, nhưng khi được gieo vào lòng đất, nó lại âm thầm lớn lên vững mạnh, to lớn đến nổi làm chổ nương tựa cho chim trời ẩn trú an toàn.

- Với tấm men ít ỏi, nhưng khi trộn lẫn vào ba đấu bột thì nó lại kích thích ba đấu bột dậy men, trở thành một khối bột to lớn.

+ Giống như hạt cải ban đầu nhỏ tí ti, nhưng khi gieo vào lòng đất nó mọc lên và trở thành cây cao bóng cả, trở nên nơi trú ẩn an toàn cho chim trời những khi mõi mệt và gặp hiểm nguy; GH khởi đầu rất khiêm tốn, nhỏ bé chỉ với nhóm tông đồ 12 nhỏ nhoi. Nhưng trãi qua hơn 2000 năm qua, GH đã không ngừng phát triển và lớn mạnh. Đến nay đã có trên 1 tỷ người công giáo, chiếm 17,7 phần trăm dân số thế giới. GH đã trở thành nơi tựa nương cho bao nhiêu người yếu đuối, nghèo khổ tựa nương; trở nên bóng mát cho những ai mệt nhòai trên đường đời ẩn náo. Bởi lúc nào GH cũng đứng về phía người nghèo, cô thế cô thân để bênh vực chở che, nhằm đem lại cho họ nguồn bình an đích thực. Như lời mời gọi của Chúa Giêsu: "Những ai vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng" (Mt 11, 28).

+ Tựa như tấm men rất ít ỏi, nhưng khi được trộn vào ba đấu bột nó lại âm thầm kích thích cho ba đấu bột dậy men thành một khối to; làm thành những tấm bánh thơm ngon mang lại niềm vui và nguồn sức sống cho con người. Số tín hữu trong GH ban đầu cũng rất ít ỏi, lại phải sống hòa nhập với mọi người trong một thế giới rộng lớn. Vậy mà chỉ với thời gian ngắn, Tin mừng của Chúa đã thấm nhập và lan tỏa đến mọi người trên khắp cùng thế giới, nhờ vào đời sống hiệp nhất yêu thương và gương chứng nhân đức tin anh hùng của các kitô hữu.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết tích cực cộng tác với GH trong sứ mạng mở mang nước trời bằng đời sống chứng nhân của tình yêu Chúa; trở thành men Tin mừng thấm nhập vào mọi tâm hồn và lan tỏa đến mọi nơi. Nhờ đó mà GH của Chúa mỗi ngày được lan rộng và vững vàng hơn.


Suy niệm 2:

Dụ ngôn hạt cải và nắm men là một trong những dụ ngôn rất đẹp và giàu ý nghĩa do Chúa Giêsu giảng dạy. Với hai dụ ngôn này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về Nước Trời.

- Hạt cải: Từ một hạt giống nhỏ bé, cây cải lớn lên đến mức chim trời có thể làm tổ. Điều này cho thấy sức mạnh của sự phát triển, của sự lớn lên từ những điều nhỏ bé. Nước Trời cũng vậy, bắt đầu từ một nhóm nhỏ các môn đệ, nhưng rồi dần dần lớn mạnh và lan tỏa ra khắp thế giới. Điều này khích lệ chúng ta hãy luôn giữ vững niềm tin vào sự phát triển của Nước Trời trong chính tâm hồn mình và trong cộng đoàn, cho dẫu khởi đầu có vẻ nhỏ bé và chậm chạp.

- Nắm men: Một lượng men nhỏ có thể làm dậy cả một khối bột. Dụ ngôn này nhấn mạnh sức mạnh của sự biến đổi, của ảnh hưởng sâu rộng. Giống như nắm men, mỗi người chúng ta cũng có khả năng ảnh hưởng đến những người xung quanh, góp phần làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn. Vậy mỗi người chúng ta hãy là những "hạt men" trong xã hội, để mang Tin Mừng đến cho những người xung quanh bằng những hành động yêu thương và chia sẻ.

Xin Chúa giúp chúng ta hiểu rõ hơn về dụ ngôn hạt cải và nắm men. Xin cho chúng ta luôn giữ vững niềm tin vào Nước Trời và trở thành một chứng nhân trung thành của Chúa cho dẫu gặp phải nhiều khó khăn thách đố trong thời đại ngày nay. Amen.

 

Thứ tư: Lc 13, 22-30

Được cứu độ hay vào được nước trời nhiều hay ít? có lẽ là nỗi trăn trở của không ít người thời Chúa Giêsu. Với nỗi ưu tư đó nên tin mừng hôm nay cho biết có một người đến đặt vấn đề với Chúa Giêsu: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ? ".

Để trả lời cho vấn nạn này, Chúa Giêsu không cho anh ta biết số lượng vào nước trời nhiều hay ít. Nhưng Chúa Giêsu lại đưa ra phương cách cần thiết để được cứu độ.

1. Mặt tích cực, Chúa Giêsu kêu gọi:

"Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp" (Lc 13,24), vì "cửa hẹp dẫn đến sự sống" (Mt 7,14). Thật ra cửa vào sự sống không hẹp, nhưng hẹp vì cái tôi của tôi to quá. Cần nỗ lực liên tục để giữ cho cái tôi nhỏ lại, khiêm hạ trước Thiên Chúa, cởi mở trước anh em. Cần có một cái tôi như trẻ thơ mới được vào Nước Trời (x.Mt 18,3).

Cái tôi của chúng ta luôn có khuynh hướng bành trướng nhờ thu tích nơi mình tri thức, tiền bạc, khả năng. Cả kinh nghiệm, tuổi tác, đạo đức, chức vụ, cũng có thể làm cái tôi xơ cứng và phình to. Ðể "người lớn" trở nên bé nhỏ như trẻ thơ, cần phải biến đổi và tự hạ (x. Mt 18, 3-4). Ðây thật là một cố gắng không ngừng. Khi hủy mình ra không, ta sẽ dễ dàng đi qua cửa hẹp.

- Phải thể hiện đời sống như các tổ phụ: Nghĩa là phải noi gương Abraham, Isaac và Giacóp, vững vàng trong đức tin và trung kiên trong đức mến.

2. Mặt tiêu cực, Chúa Giêsu cảnh báo những điều nên tránh:

- Tránh ảo tưởng mình là người Kitô hữu đương nhiên được cứu. Gioan Tẩy Gỉa đã chẳng cảnh báo với những người Biệt phái và nhóm Sađucêô: "Đừng ỷ mình là con cháu tổ phụ Abraham…” (Mt 3,7t); cũng như Chúa đã khuyến cáo: đừng tưởng rằng đã từng ăn uống trước mặt Ngài, và từng nghe Ngài giảng dạy là được cứu. Nhưng để được cứu độ, ta còn phải biết lắng nghe và thực hành Lời của Chúa: "Mẹ và anh em của Ta là những người nghe Lời Chúa và đem ra thực hành." (Lc 8, 21).

- Tránh quan niệm “sống lâu năm lên lão làng”. Nghĩa là ỷ vào công trạng giữ đạo lâu năm mà chễnh mãng trong đời sống đức tin, xem thường đạo lý và Lời Chúa. Điều này có nguy cơ sẽ bị loại khỏi nước trời. Ơn cứu độ chỉ dành riêng cho những ai kiên trung sống đức tin đến cùng. Vì thế, Chúa Giêsu đã không ngại tuyên bố: " kẻ sau hết sẽ trở nên trước hết...".

Xin cho chúng ta biết loại bỏ đi những suy nghĩ theo kiểu người đời. Nhưng biết kiên trì không ngừng nổ lực thực thi Lời Chúa dạy bảo, với tinh thần khiêm tốn, để xứng đáng được vào số người được cứu độ.


Suy niệm 2:

"Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?"

Cuộc sống con người có nhiều nỗi bận tâm nhưng nỗi bận tâm sâu xa nhất vẫn là sô phận đời của mình. Câu hỏi của một người đặt ra với Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay thật sâu sắc : phải chăng con đường dẫn đến sự cứu rỗi chỉ dành cho một số ít người?

Về vấn đề này, Chúa Giêsu không đưa ra một con số cụ thể, nhưng Ngài khẳng định rằng việc tìm kiếm Nước Trời là một cuộc chạy đua cần sự nỗ lực không ngừng. Ngài ví von việc vào Nước Trời tựa như việc một người cố gắng chen lọt qua một cánh cửa hẹp. Điều này cho thấy rằng sự cứu rỗi không phải là một đặc ân dành cho một số ít người, mà là một mục tiêu mà mọi người đều có thể đạt được nếu họ kiên trì và cố gắng.

- Cửa hẹp: tượng trưng cho sự khó khăn, đòi hỏi mỗi người phải cố gắng. Để vào được Nước Trời, con người phải từ bỏ những ham muốn ích kỷ, sống theo lề luật của Thiên Chúa và luôn hướng đến sự hoàn thiện bản thân.

- Cuộc chạy đua: Cuộc chạy đua để vào Nước Trời cho thấy sự cấp bách và tính khẩn trương của việc tìm kiếm ơn cứu độ. Con người không có nhiều thời gian để trì hoãn, mà phải hành động ngay từ bây giờ.

- Nỗ lực không ngừng: Để đạt được mục tiêu cứu rỗi, con người cần phải nỗ lực không ngừng, kiên trì vượt qua những khó khăn và thử thách.

* Như vậy Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:

- Phải thay đổi cuộc sống: Chúng ta cần phải thay đổi cuộc sống của mình để phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Điều này đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ những thói quen xấu, sống yêu thương và bác ái với tha nhân.

- Phải sống niềm tin vững vàng: Chúng ta cần phải sống với niềm tin vững chắc vào Thiên Chúa và vào lời hứa cứu rỗi của Ngài. Niềm tin sẽ giúp chúng ta vượt qua những khó khăn và luôn hướng tới mục tiêu cuối cùng.

- Phải siêng năng cầu nguyện: Cầu nguyện là một phương tiện quan trọng giúp chúng ta duy trì mối liên hệ với Thiên Chúa và xin Ngài ban cho sức mạnh để vượt qua mọi thử thách.

Con đường dẫn đến sự cứu rỗi tuy là một con đường hẹp, đòi hỏi chúng ta phải cố gắng thật nhiều. Tuy nhiên, cánh cửa của ơn cứu độ luôn mở rộng cho hết mọi người. Nếu chúng ta kiên trì và cố gắng, chúng ta sẽ đạt được mục tiêu cuối cùng là sống đời đời trong Nước Thiên Chúa.

Xin Chúa giúp chúng ta có đủ nghị lực và sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn thử thách mà kiên trì bước đi trên con đường theo Chúa. Amen.

 

Thứ năm: Lc 13, 31-35

Suy niệm 1:

Để thi hành sứ mạng cứu độ con người, Chúa Giêsu đã phải đối mặt với biết bao là thử thách. Có những thử thách xem ra nhỏ nhoi, dễ dàng vượt qua, cũng có những thử thách khắt nghiệt, có nguy hại đến mạng sống và lý tưởng,  xem chừng khó vượt thắng. Tin mừng hôm nay cho biết Chúa Giêsu phải đối mặt với hai thử thách hết sức cam go đến từ hai phía.

1. Đến từ bên ngoài:  Vua Hêrôđê đang tìm cách hãm hại và tiêu diệt Ngài. Vì thế khi đến địa hạt thuộc vua này quản lý, Chúa Giêsu đã phải chịu áp lực bởi lời cảnh báo của một vài người...

Nhưng trung thành với với sứ mạng, Chúa Giêsu đã không hề chùng bước và sợ hãi. Trái lại Ngài tỉnh táo phân tích vấn đề và khẳng định nhiệm vụ ưu tiên của Ngài là loan báo tin mừng cứu độ nên phải chu toàn. Mặt khác Ngài cũng rất hiểu về hoàn cảnh và con người của vua Hêrôđê. Vì thế Ngài rất bìn tâm vì biết mình phải đối phó với hoàn cảnh nguy hiểm ấy như thế nào.

2. Đến từ bên trong: Người đời thường nói: giặc ngoài không sợ, nhưng ngại nhất là thù trong. Giêrusalem được xem là trung tâm chính trị, kinh tế , văn hóa và là cái nôi của tôn giáo. Ấy vậy mà nơi đây đã trở nên kinh hoàng nhất vì bao ngôn sứ đã bị giết tại đây và sứ điệp Tin mừng cũng bị khướt từ chính từ nơi này. Chúa Giêsu đã mạc khải cho biết về đau khổ mà Ngài phải chịu, và cái chết đau thương mà Ngài đối mặt cũng sẽ xảy ra chính tại nơi này, nơi mà được xem là người nhà và là cái nôi của tôn giáo.

Đời sống đức tin của mỗi chúng ta cũng luôn phải đối đầu với bao là thử thách. Có những thử thách đến từ bên ngoài, tuy nhiên cũng có những thử thách đến từ bên trong, ngay trong chính bản thân ta cũng có sự xung khắc.

Xin cho chúng ta luôn can đảm sống trọn bổn phận với Chúa với nhau; đồng thời xin Chúa giúp chúng ta kiên vững niềm tin dù có gặp nguy khó trên đường đời. 


Suy niệm 2:

Đoạn Tin Mừng hôm nay cho biết Chúa Giêsu phải đối mặt với nhiều thử thách. Nhất là trong thời điểm mà vua Hêrôđê đang toan tính, tìm cách để giết hại Ngài. Biết tin ấy, thay vì sợ hãi và trốn chạy, Chúa Giêsu lại càng xác quyết mạnh mẽ hơn về sứ mạng loan báo Tin Mừng, chữa lành bệnh nhân và trừ quỷ của Ngài cho đến khi hoàn tất.

* Với lời xác quyết ấy cho thấy:

- Lòng trung thành với sứ mệnh: Dù đối mặt với nhiều khó khăn và nguy hiểm, Chúa Giêsu vẫn kiên trì thực hiện sứ mệnh mà Chúa Cha giao phó. Điều này cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc kiên trì theo đuổi mục tiêu của mình, dù gặp phải những trở ngại nào.

- Tình yêu thương con người: Chúa Giêsu yêu thương con người đến nỗi Ngài sẵn sàng hy sinh bản thân mình để cứu rỗi họ. Tình yêu của Ngài là một tấm gương sáng cho chúng ta noi theo.

- Niềm tin trọn vẹn nơi Chúa Cha: Mặc dù bị đe dọa, Chúa Giêsu vẫn bình tĩnh và tin tưởng vào sự bảo vệ của Chúa Cha. Điều này nhắc nhở chúng ta hãy đặt trọn vẹn niềm tin vào tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài luôn đồng hành và bảo vệ chúng ta trong mọi hoàn cảnh.

* Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta hãy :

- Kiên trì với sứ mệnh của mình: Mỗi người chúng ta đều có một sứ mệnh riêng. Chúng ta hãy cố gắng khám phá và sống trọn vẹn sứ mệnh đó, bất chấp những khó khăn.

- Luôn yêu thương mọi người: Hãy học nơi Chúa Giêsu để yêu thương hết mọi người, kể cả những người không yêu thương mình.

- Vững tin vào Thiên Chúa: Dù gặp phải khó khăn nào, ta cũng hãy vững tin vào tình thương và sức mạnh của Thiên Chúa.

Xin Chúa cho chúng ta có được lòng can đảm và sự kiên trì để thực hiện sứ mệnh mà Chúa giao phó. Xin cũng cho chúng ta biết yêu thương hết mọi người và nhiệt thành ra đi thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người. Amen.

 


Thứ sáu: Kh 7,2-4.9-14; 1Ga 3,1-3; Mt 5,1-12a

LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ

Suy niệm 1: CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN HẠNH PHÚC THẬT

Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta hướng vọng lên cao để chiêm ngắm vinh quang rạng ngời nơi các thánh Nam Nữ. Các ngài đã trung thành bước theo Chúa đến cùng trên con đường “Tám mối phúc thật”, dẫu phải chịu nhiều đau thương thử thách. Nên các ngài xứng đáng được Chúa ân thưởng hạnh phúc nước trời.

Dâng thánh lễ hôm nay, một mặt chúng ta chúc tụng ngợi mừng các thánh; mặt khác chúng ta cũng không quên xin ơn Chúa ban cho chúng ta niềm tin yêu và lòng trung tín để dấn bước trên con đường 8 mối phúc thật theo gương các thánh, với niềm hy vọng sẽ được chung niềm vinh phúc cùng với các ngài trong nhà Cha trên trời.

Ở đời luôn có hai mặt thật và giả. Hạnh phúc cũng vậy. Có những thứ đem đến cho con người hạnh phúc thật. Tuy nhiên cũng có những thứ chỉ đem đến cho con người hạnh phúc giả tạo, không bền lâu. Điều nghịch lý là ai cũng mong muốn có được hạnh phúc thật, nhưng rồi lại thích đi tìm những thứ chỉ mang đến hạnh phúc giả tạo, chóng qua.

Xã hội ngày nay, nhiều người cho rằng hạnh phúc là có 1,2,3,4,5 (một là vợ đẹp, hai là con ngoan (chứ không phải như bảng hiệu đề: Mỗi gia đình 2 con vợ, chồng hạnh phúc), ba là nhà 3 tấm, bốn là xe 4 bánh và năm là du lịch 5 châu). Thế nhưng thực tế cho thấy, khi đạt được những điều mong ước ấy, con người vẫn không tìm thấy hạnh phúc thật.

Như thế thì tiền bạc của cải, vật chất tiện nghi, đam mê lạc thú nơi trần gian không lấp đầy được khát vọng sâu xa nơi cỏi lòng con người và không là phương thế đưa đến hạnh phúc thật. Vậy ta phải làm gì để có hạnh phúc thật?

Bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta biết những phương cách để đạt đến hạnh phúc đích thật. Đó chính là thực thi 8 mối phúc thật.

Điều đáng nói là con đường 8 mối phúc thật mà Chúa Giêsu đề ra hình như đi ngược lại với suy nghĩ thực tế của con người thời nay và lắm khi trở thành xa lạ ngay cả đối với người Kitô hữu chúng ta. Vì con người thời nay vẫn còn bám víu quá nhiều vào tiền bạc, của cải, danh vọng... nên không dám chấp nhận những phương cách mà Chúa Giêsu đề ra là sống tinh thần khó nghèo, từ bỏ, đau khổ hay hy sinh mạng sống mình vì chính đạo, để phục vụ tha nhân và làm chứng cho những giá trị của tin mừng của Chúa.

Con đường 8 mối phúc không phải là viễn vong, mơ hồ hay bất khả thi nhưng là con đường chính đạo. Bởi vì chính Đức Giêsu đã kinh qua và đã đạt đến hạnh phúc vinh quang. Do đó muốn có hạnh phúc thật chúng ta không thể đi theo con đường nào khác ngoài con đường Đức Giêsu đã đi và đã chỉ dạy. Con đường khiêm hạ, khó nghèo, hi sinh từ bỏ và hiến thân cho tha nhân bằng tình yêu.

Các thánh nam nữ mà chúng ta mừng kính hôm nay, tất cả đã hân hoan bước vào con đường 8 mối phúc mà Chúa Giêsu đã vạch ra và đã hâm hở tiến bước với lòng đầy tin tưởng, nên tất cả đã đi đến đích điểm và đã lãnh nhận triều thiêng vinh quang nước trời do Chúa tặng ban.

Mừng lễ các Thánh Nam Nữ, ngoài việc chúng ta tôn vinh chúc tụng các ngài là cha ông, bạn bè, người thân… của chúng ta đã đi trọn con đường 8 mối phúc và nay đã khải hoàn vinh hiển trong vinh quang; chúng ta còn phải nỗ lực nên thánh giữa đời theo gương các ngài, với niềm xác tín như Thánh Augustinô: “Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không được?”.

Xin các thánh nam nữ ngự bên tòa Chúa hằng nguyện giúp cầu thay cho chúng ta được luôn can đảm bước theo con đường các ngài đã đi, bằng cách trung thành thực thi 8 mối phúc mà Chúa Giêsu vạch ra, nhờ đó chúng ta mới có thể đạt được điều mà chúng ta hằng khao khát là hạnh phúc đích thật. Amen.

 

Suy niệm 2: NÊN THÁNH LÀ ƠN GỌI VÀ ĐÍCH ĐẾN

Trong 1 lần viếng thăm nước Anh, Đức Thánh Cha Benedicto 16 đã thách thức giới trẻ: “Hãy là một vị thánh hơn là một người nổi tiếng”.  

“Hãy là một vị Thánh” cũng là lời mời gọi tha thiết của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta, khi phán bảo: “Các ngươi hãy là Thánh vì Ta là Thánh” (Lv 11,44). Lời mời gọi và thách thức ấy hôm nay được vang lên mạnh mẽ nhân ngày tôn vinh và mừng kính trọng thể lễ các Thánh Nam Nữ.

Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta hơn những gì chúng ta tưởng tượng, Ngài muốn ban tặng cho chúng ta những điều tốt nhất hơn những gì chúng ta khát mong.

Vậy chúng ta đừng để mình chìm sâu vào tinh thần thế tục thời đại nhưng biết vươn đến những giá trị cao đẹp, bằng cách noi gương các Thánh trung thành bước theo Chúa trên con đường 8 mối phúc thật, với mong muốn trở nên thánh hơn là người nổi tiếng.

Xin Chúa qua lời chuyển cầu của các Thánh Nam Nữ ban cho chúng ta ơn khôn ngoan để nhận ra được giá trị tốt nhất ở đời này không phải là giàu sang, danh vọng, chức quyền… mà là nên Thánh. Vì đó chính là ơn gọi và cùng đích của đời ta.

Có thể nói tháng 11 là tháng mà GH nhắc nhở chúng ta hãy liên hệ với tổng đài để kết nối mạng:

- Nối mạng với trời qua việc chiêm ngưỡng vinh quang của các thánh nam nữ để noi gương, bắt chước và xin trợ giúp.

- Nối mạng với đất qua việc nhìn xuống các đẳng linh hồn trong nơi luyện tội mà tương trợ, giúp đỡ các ngài, bằng cách cầu nguyện và làm thật nhiều việc lành phúc đức nhằm giúp đỡ các ngài sớm được thanh luyện nên trinh trong, xứng đáng được bước vào nước trời tận hưởng niềm hạnh phúc vĩnh cửu cùng các thánh.

Hôm nay, GH mời gọi chúng ta ngước vọng lên trời cao để chiêm ngắm vinh quang rạng ngời của các thánh mà chúc mừng, ngợi khen…,  bởi vì sau cuộc hành trình bước theo Chúa các ngài đã trung thành thực thi tích cực 8 mối phúc thật do Chúa chỉ dạy với lòng tin tưởng và phó thác nên giờ đây các ngài đã được Chúa ân thưởng hạnh phúc viên mãn trong nhà Cha trên trời.

- Bài I: Trích sách Khải huyền mà chúng ta vừa nghe, có ý an ủi những tín hữu trong thời kỳ bị bách hại. Những con số được nêu ra trên đây chỉ là tượng trưng cho một đoàn lũ đông đảo những người đã được cứu rỗi nhờ máu của Con Chiên, tức là giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu.

- Bài II: Thánh Gioan nhắc nhở chúng ta phải tin tưởng vào Thiên Chúa; cũng như ý thức rằng chúng ta được nhận biết Thiên Chúa đó là nhờ và qua Giáo Hội.

- Bài Tin mừng hôm nay chỉ dẫn cho chúng ta biết cách làm thế nào để nên thánh. Bí quyết nên thánh được Chúa Giêsu vạch ra qua con đường 8 mối Phúc Thật, đây được xem là bảng hiến chương nước trời do chính Chúa Giêsu long trọng công bố trên núi khi khởi đầu sứ mạng loan báo tin mừng cứu độ của Người. Con đường đó đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận hy sinh từ bỏ, can đảm đón nhận những gian lao thứ thách với tình yêu, niềm tin và hy vọng vào ơn cứu chuộc của Chúa,

Hân hoan mừng kính trọng thể lễ các thánh nam nữ trên thiên đàng, chúng ta càng thấu hiểu hơn về mầu nhiệm các thánh cùng thông công trong Giáo Hội. Mỗi khi suy niệm về mầu nhiệm các thánh cùng thông công, chúng ta lại càng vững tin hơn vào ơn cứu độ của Thiên Chúa, nhờ tình liên đới giữa các kitô hữu hiệp thông trong cùng Hội Thánh Người.

- Các thánh là những con người như chúng ta. Trước khi là thánh, các ngài cũng đã trải qua nhiều gian lao đau khổ để bước theo Chúa Giêsu.

- Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, khi còn sống ở thế gian, các ngài cũng có những tham sân si, cũng kiêu căng tự mãn, cũng giận hờn ghen ghét, cũng tham lam và có những ham muốn bất chính không khác gì chúng ta. Nhưng các ngài đã biết tin tưởng, cậy trông vào tình thương và ân sủng của Chúa nên các ngài đã quyết tâm đứng lên, đã sám hối và làm lại cuộc đời. Các ngài đã can đảm chiến đấu và vượt thắng được những cám dỗ, để rồi hôm nay các ngài được Chúa ân thưởng niềm hạnh phúc thiêng đàng, cùng với Mẹ Maria và các thiên thần trên thiên quốc.

- Các thánh nam nữ thuộc đủ mọi thành phần như chúng ta, có những vị làm vua, có vị làm quan, làm bác sĩ, kỹ sư, thấy giáo, nô lệ; có vị làm giáo hoàng, giám mục, linh mục, phó tế, và sĩ nam nữ v.v... nghĩa là các ngài có đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội, với những hoàn cảnh sống khác nhau, nhưng các ngài đã có một mục đích chung là nỗ lực nên thánh, phải trở thành bạn hữu với Thiên Chúa trong chính bổn phận sống hằng ngày của mình.

- Các thánh nam nữ là những người như chúng ta, nhưng các ngài đã biết kiên nhẫn bước đi theo con đường “Tám Mối Phúc Thật”, sống triệt để hiến chương nước trời do Chúa Giêsu ban hành ngay tại trần thế này.

1. Các ngài giàu có nhưng đã sống tinh thần siêu thoát khó nghèo vì Nước Trời.

2. Các ngài bị người khác vu oan giá họa nhưng vẫn hiền lành bao dung với họ.

3. Các ngài đã chia vui với người vui và buồn với người buồn, nên được Thiên Chúa an ủi ngay khi còn ở đời này.

4. Các ngài mong muốn được trở nên người công chính giữa một xã hội đầy mưu mô xảo trá, nên được Thiên Chúa cho thỏa lòng.

5. Các ngài biết thương xót người, tức là biết chạnh lòng trước cảnh thương tâm của người khác, nên được Thiên Chúa xót thương.

6. Trong các ngài cũng có người sống trong danh vọng, lây nhiễm bụi trần với những đam mê của kiếp người, nhưng các ngài đã giữ được tâm hồn trong sạch, vì thế các ngài được nhìn thấy Thiên Chúa.

7. Các ngài đi đến đâu là đem bình an của Thiên Chúa đến nơi đó; các ngài được gọi là những người biết kiến tạo hoà bình, nên các ngài xứng đáng được gọi là con Thiên Chúa.

8. Các ngài bị bắt bớ, bị đánh đập, bị tra tấn, bị tù đày... vì các ngài sống và tin vào Đức Chúa Giê-su, Đấng đã và sẽ ban phần phúc Nước Trời cho những ai tin cậy vào Người, nên các ngài đã được Chúa ban thưởng Nước Trời làm gia nghiệp sau khi từ giã cõi đời này...

Cộng đoàn thân mến,

Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta nên thánh. Trong Cựu Ước, Người đã phán: "Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh" (Lv 19,2).  Đức Giê-su khi rao giảng về Tin Mừng Nước Thiên Chúa, cũng kêu gọi: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5, 48). Như vậy, việc nên thánh của chúng ta theo ý Thiên Chúa là một đòi hỏi cấp bách, khẩn thiết. Đó cũng trở thành bổn phận và nhiệm vụ quan trọng mà mỗi tín hữu phải triệt để quan tâm thi hành.

Các thánh nam nữ đều là những con người như chúng ta, nhưn các ngài đã đáp lại lời mời gọi của Chúa và trở thành những vị thánh, thì chúng ta cũng có thể trở nên thánh như các ngài, bởi vì nên thánh là đòi hỏi của Phúc âm và là mục đích tối hậu của người Kitô hữu chúng ta. Nói như thánh Augustinô thì: "Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi, tại sao không?".

Xin Đức Mẹ Maria, các thánh nam nữ trên thiên quốc cầu bàu cùng Chúa cho chúng ta, là những người đang tiến bước trên con đường đi về quê trời, được noi gương của các ngài, biết quyết tâm đổi mới đời sống, biết đứng dậy khi ngã quỵ trong tội, biết hy sinh phục vụ và tha thứ cho nhau vì lòng yêu mến Chúa và yêu thương nhau, với niềm tin và hy vọng vào sự sống đời đời theo gương các thánh nam nữ mà chúng ta mừng kính hôm nay. Amen. (St)

 

Suy niệm 3: PHÚC THẬT

Hàng năm cứ vào ngày đầu tiên của tháng 11, GH dành riêng một ngày để mừng kính trọng thể toàn thể các thánh Nam Nữ được Chúa trọng thưởng trên trời.

Điều này gợi lên trong chúng ta những thắc mắc: 

1. Trong năm phụng vụ GH đã dành nhiều lễ trọng, lễ kính và lễ nhớ các Thánh rồi, sao hôm nay lại mừng kính chung các Thánh nữa?

2. Các Thánh là ai?

3. Tại sao ta phải nên Thánh?

Đó là 3 suy tư tôi muốn chia sẻ cùng với ông bà và anh chị em:

* Thứ nhất, tại sao GH dành ngày hôm nay để mừng kính trọng thể toàn thể các Thánh? Thưa có 4 lý do:

1. Vì các thánh quá nhiều, không thể mừng mỗi vị vào một ngày riêng biệt được. Chỉ tính 25 năm đầu triều đại của đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, ngài đã tuyên thánh đến 476 vị, 1.315 chân phước. Mà lịch phụng vụ chỉ có 365 ngày trong năm. Nếu mừng mỗi ngày một vị thánh thì không đủ ngày. Huống hồ trải qua biết bao triều đại giáo hoàng, trong suốt hơn hai ngàn năm qua, con số những vị thánh trong GH là nhiều vô kể, đúng như hình ảnh trong bài đọc 1, trích sách khải huyền hôm nay diễn tả: “tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: “Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Ðấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên”. Đoàn người đông đảo mặc áo trắng ấy là những người đã được cứu rỗi nhờ máu của con Chiên, tức là nhờ giá máu cứu chuộc của Chúa Kitô

2. Vì không phải vị thánh nào cũng đều được GH tuyên phong. Còn rất nhiều vị có đời sống tốt lành, thánh thiện. Trước mặt Chúa họ đã là thánh, nhưng GH chỉ biểu dương những vị thánh có đời sống nhân đức nổi bậc nhằm nêu gương sáng cho chúng ta mà thôi.

3. Vì còn rất nhiều vị thánh vô danh, không ai biết đến. Các vị ấy có thể là người thân, là ông bà tổ tiên, là những người cùng lối xóm và bạn bè của chúng ta. Các ngài đã từng hiệp hành với chúng ta trong cuộc đời trần thế này, nhưng nay họ đã được hưởng hạnh phúc thiên đàng.

4. Lễ các thánh Nam Nữ nhắc nhớ chúng ta về quê hương đích thật mà chúng ta cần hướng đến, đó là quê trời. Ý thức như vậy, sẽ giúp chúng ta thêm niềm hy vọng và cố gắng bước đi cùng các thánh trên con đường 8 mối Phúc mà Chúa Giêsu mời gọi.

* Thứ hai, các Thánh Nam Nữ là ai? 

Thánh theo nghĩa Hán Việt: là sự thiêng liêng, cao cả, tôn kính, thường dùng để miêu tả phẩm chất của các vị thần thánhthiên sứtiên nhân hoặc các thánh nhân.

Theo nghĩa Thánh kinh: Thánh có nghĩa chung là “kitô hữu”, hợp thành cộng đoàn qui tụ chung quanh Đức Giêsu làm thành Dân thánh. Sự thánh tách khỏi sự phàm tục. Các Thánh là những người đã được Thiên Chúa làm gia nghiệp.

Như thế các Thánh là những người giống chúng ta: khi còn sống, các ngài cũng đầy những bất toàn, yếu đuối, cả tội lỗi nữa… Nói cách khác, các thánh Nam Nữ là những con người bình thường như mọi người. Nhưng các ngài nên thánh là nhờ vào những cố gắng hy sinh từ bỏ để nên giống Chúa Kitô mỗi ngày trong đời sống nghèo khó, hiền hòa, bác ái, khiêm tốn, hy sinh, phục vụ….

Có những vị nên thánh bằng lối đường khó nghèo, không màn đến của cải, danh lợi, chức quyền. Các ngài sống tinh thần siêu thoát, an nhiên nên được Chúa chúc phúc: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó”.

Có những vị đã dành trọn cuộc đời để đấu tranh cho công lý, hoà bình và kiến tạo tình yêu thương hiệp nhất cho đồng loại. Các ngài đã nêu cao tinh thần bất khuất như lời dạy của Chúa: “Phúc cho ai xây dựng hòa bình”.

Có những vị đã anh dũng hy sinh cả mạng sống mình để trung thành với đức tin và bảo vệ Đạo Thánh Chúa.

Có vị luôn nở nụ cười khả ái với mọi người, không hận thù, tranh chấp, đố kị, hiềm khích nên xứng đáng đón nhận được phúc lành của Chúa: “Phúc cho ai hiền lành”.

Có những vị sẵn lòng đón nhận những đau khổ thể xác và tinh thần vì lòng yêu mến và phó thác vào đường lối của Chúa nên được Chúa chúc phúc: “Phúc cho ai đau buồn”.

Có những vị trọn đời sống công chính, không để mình lây nhiễm bởi những cám dỗ của ba thù, trở nên mẫu gương trong sạch cho chúng ta noi theo, nên xứng đáng được Chúa chúc phúc: “Phúc cho ai đói khát công chính, phúc cho ai thanh sạch”.

Như vậy, các thánh đã đi theo những nẻo đường Phúc Thật mà Chúa Kitô đã giới thiệu. Mặc dù khi bước đi theo Chúa trên con đường đó đầy những gian lao thử thách nhưng với sức mạnh của niềm tin và tình yêu Chúa nên tất cả các ngài đã thành công và đã đến đích.

* Thứ ba, tại sao ta phải nên thánh? Nếu các thánh đã thành công khi chọn lựa bước theo con đường Tám Mối Phúc Thật, thì chúng ta cũng sẽ thành công một khi chúng ta biết bước đi trên con đường ấy, cho nên:

- Hãy sống tinh thần nghèo khó bằng sự xa tránh mọi thứ tham lam bất chính để chỉ trung tín và phó thác vào một mình Thiên Chúa quyền năng mà thôi.

- Hãy sống hiền lành và khiêm nhượng trong lòng bằng cách rộng lượng bao dung tha thứ cho những ai xúc phạm mình, luôn kiến tạo sự hòa nhã, vui tươi với mọi người.

- Hãy chấp nhận mọi gian lao thử thách như là thập giá cần phải vác lấy để biến nó thành thánh giá nở hoa phần rỗi cho mình và cho tha nhân.

- Hãy luôn hướng đến giá trị nước trời, tìm kiếm sự thánh thiện, để mỗi ngày nên hoàn thiện chính mình hơn qua các nhân đức.

- Hãy tỏ lòng thương xót, mến yêu, đón nhận mọi người trong tình anh em. Sẵn sàng tha thứ, làm ơn và cầu nguyện cho những ai làm hại chúng ta.

- Hãy quyết tâm giữ tâm hồn mình luôn thanh sạch, xa tránh những cám dỗ làm cản trở con đường nên thánh của ta.

- Hãy theo đuổi con đường hiếu hòa. Sống ở đâu, hiện diện nơi nào, thì biến nơi đó thành niềm hy vọng và bình an nhờ lối sống tích cực, lạc quan và yêu thương phục vụ chân thành của ta.

- Hãy mạnh dạn tuyên xưng đức tin, và sẵn sàng làm chứng cho niềm vui  tin mừng của Chúa bằng mọi cách thế mà không hề sợ hãi.

Làm người, ai cũng khát khao được hạnh phúc, nhưng con người lại bị nhận chìm trong nỗi bất hạnh bởi không biết cội nguồn hạnh phúc nằm ở đâu.  Xin Chúa ban cho chúng ta ơn khôn ngoan, để chúng ta  biết đâu là  hạnh phúc thật và vĩnh cửu và đâu là hạnh phúc giả tạo, không vững bền mà chọn lựa đúng đắn. Con đường Tám Mối Phúc Thật dẫu là con đường hẹp, đường thập giá ít ai chọn lấy, nhưng đó lại là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực.

Xin Chúa ban cho chúng ta đủ can đảm để bước đi trên con đường ấy với niềm hy vọng sẽ được gia nhập vào đoàn người đông đảo “mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế, miệng lớn tiếng tung hô chúc tụng danh thánh Chúa cùng các thánh nam nữ trên thiêng quốc. Cùng với lời tâm niệm như thánh Augustino: “ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi, tại sao không?” (St)

 

Suy niệm 4: CÁC THÁNH ĐƯỢC CHÚA THƯƠNG VÀ THƯỞNG

Lm. Nguyễn Xuân Trường

Suốt năm phụng vụ đã có nhiều ngày mừng kính riêng các thánh khác nhau. Tại sao lại có thêm ngày lễ Các Thánh Nam Nữ?

Bởi vì có đông đảo các thánh. Có nhiều thánh bởi vì không chỉ do công trạng cá nhân mỗi người, mà chính là nhờ công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu ban cho các thánh.

1. ĐÔNG ĐẢO. Bài đọc 1 cho thấy các thánh trên trời như một “đoàn người đông đảo, không tài nào đếm nổi”. Cần loại bỏ ý nghĩ làm thánh chỉ dành riêng cho một số ít thành phần ưu tuyển, ngược lại, làm thánh dành cho đông đảo mọi người. Nói vậy là vì Kinh Thánh khẳng định con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu đã mời gọi: “Các con hãy nên thánh như Cha các con trên trời là Đấng Thánh”. Phải nói rằng: Chúa tạo dựng con người để họ trở nên thánh vì Chúa đã đặt sẵn “gien thánh”, dòng máu thánh trong mọi người rồi. Thế nên, bất cứ ai cũng có thể nên thánh.

2. PHÚC PHẬN. Lễ Các Thánh, Giáo Hội cho đọc bài Phúc Âm về các mối phúc thật. Như vậy làm thánh là để hưởng những phần phúc Chúa ban cho mỗi người. Lời Chúa cho thấy nên thánh không phải do con người lập được những công lao hiển hách, mà là do công ơn Chúa cứu độ nhờ máu Con Chiên.

Các mối phúc cũng cho thấy các thánh được hưởng phúc Nước Trời không phải vì đã làm nên những thành tựu lớn lao, mà là vì được Chúa xót thương ban thưởng phúc trường sinh: “Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”

Thánh là kiến tạo hạnh phúc thật. Hạnh phúc thật là gắn bó với Chúa là tình yêu. Trong tình yêu Chúa vợ chồng có thể ôm chầm lấy nhau và reo lên: “Ôi, ông thánh của em! Ôi, bà thánh của anh!” Chính tình mến Chúa yêu người đã đưa Các Thánh Nam Nữ vào hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên Nước Trời. Amen.


* Mùa thường niên: Lc 14, 1-6

Thiếu bác ái, việc thực thi lề luật chỉ còn là cái xác không hồn và là những hành động mù quáng. Tin mừng hôm nay, kêu gọi chúng ta ý thức trách nhiệm đối với nhau trong cuộc sống, bằng việc thực thi tình bác ái, qua việc giúp đỡ những người nghèo khổ và bất hạnh. Đó là cách thức ta thể hiện tâm tình tôn vinh Chúa.

Anh chàng trong bài Tin mừng hôm nay bị bệnh phù thủng chắc hẳn gặp rất nhiều khó khăn và đau khổ.

- Khó khăn trong việc đi lại. Nên việc gặp gỡ tiếp xúc với người khác không dễ.

- Đau khổ vì bệnh tật hành hạ, cảm thấy mình là gánh nặng cho tha nhân. Đau khổ vì bị người đời khinh ghét, bị xã hội xem thường. Trên hết có lẽ là nỗi đau mặc cảm vì bị mọi người xem là kẻ tội lỗi.

Nỗi khát khao lớn nhất của anh là được làm người bình thường như bao người. Được xã hội tôn trọng; được mọi người quan tâm, yêu mến; được tự do đi lại; nhất là được khẳng định giá trị và phẩm giá làm người của mình.

Hôm nay Chúa Giêsu đã trao ban cho anh món quà vô giá mà anh hằng khao khát đêm ngày, đó là chữa anh khỏi căn bệnh phù thủng. Quả là niềm vui lớn lao, niềm vui chính đáng. Ấy vậy mà niềm vui đó lại bị chống đối. “Hôm nay là ngày Sabát không được phép”. Không những họ chống đối quyền làm người của anh, mà họ còn chống đối cả Chúa Giêsu vì cho rằng Ngài đã vi phạm ngày Sabát.

Lòng ích kỷ và luật lệ vô hồn, quả là một gánh nặng, một rào cản đáng sợ đẩy con người đến chổ vô cảm và cư xử bất nhân với nhau, khiến người khác không thể vươn lên sống xứng đáng nhận vị của con người. Họ không hiểu rằng: “Vinh quang Thiên Chúa là con người được sống.” Bất cứ nơi nào phẩm giá con người được nhìn nhận, bất cứ một con người nào được tôn trọng và được hưởng hạnh phúc, thì nơi đó Thiên Chúa được tôn vinh.

Xin cho chúng ta ý thức rằng: khi chối bỏ và khước từ thực hiện lòng nhân ái đối với người khác, là chúng ta đã xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Yêu thương và thực thi bác ái đối với người khác cũng là cách để chúng ta đền bù tội lỗi trong mùa báo hiếu tháng 11 này.

 

Thứ bảy: LỄ CÁC ĐẲNG

LỄ I: G 19,1.23-27a; Rm 5,5-11; Ga 6,37-40

Kính thưa quý ông bà và anh chị em,

Những ngày này chúng ta được mời gọi sống đỉnh cao của mầu nhiệm hiệp thông trong GH. Hiệp thông trong ân phúc và hiệp thông trong cả tội lỗi. 

Nếu hôm qua chúng ta được hiệp thông với các thánh trên trời và cậy nhờ công đức của các ngài, thì hôm nay chúng ta được kêu gọi để hiệp thông với các đẳng linh hồn trong nơi luyện tội để trao quà ơn thánh bằng tình bác ái yêu thương. 

Xác tín vào mầu nhiệm các thánh cùng thông công, với niềm tin vững vàng vào ơn cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta hãy dâng những hy sinh, những việc làm phúc đức cùng những lời nguyện cầu nguyện chân thành lên trước tòa Chúa. 

Xin Chúa thương đón nhận những của lễ hy sinh chúng con mà tha thứ mọi hình phạt tạm cho các đẳng linh hồn trong nơi luyện tội, nhất là linh hồn tổ tiên, ông bà, cha mẹ và bạn hữu của chúng con, để các ngài sớm được dự phần vào vinh quang trong nước trời.

Gói trọn những tâm tình đó, giờ đây chúng ta hãy thành tâm sám hối. Xin Chúa tha thứ những thiếu sót và tội lỗi của chúng ta, để chúng ta xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh.

Một triết gia đã khẳng định: “đã là người đều phải chết. Vậy, tôi là người, tôi cũng phải chết”. 

Chết là cái đích cuối cùng của một đời người mà ai cũng phải trải qua. Nhưng, khi nói về cái chết thì nó muôn màu, muôn vẻ, không ai giống ai :

Có người sau một đêm dài yên giấc, đã từ giã cõi đời và người thân yêu mình mà ra đi mãi mãi, không bao giờ trở lại.

Có người chết vì già nua đau yếu, nhưng cũng có người chết trong lúc tuổi đời còn xuân xanh;

Có người chết bởi tai ương họan nạn, nhưng cũng có kẻ chết trong lúc vui vẻ với người thân, bạn bè;

Có người chết vì bệnh tật hiểm nghèo, nhưng cũng có kẻ chết vì muốn tự kết liệu đời mình bởi không tìm được lối thoát trong cuộc đời này...vv.

Quả là cái chết của con ngươi xảy ra "muôn hình, vạn trạng".

Với niềm tin Kitô giáo thì cái chết sẽ dẫn đưa con người đến sự sống đời đời. Hay, nói khác đi, chết là một cơ hội tốt đẹp nhất dẫn con người ta đến sự sống muôn đời trong Thiên Chúa Ba Ngôi.

Cả ba bài đọc lời Chúa trong thánh lễ thứ nhất, cầu cho các tín hữu qua đời hôm nay đều đề cập đến niềm tin căn bản của người kitô hữu chúng ta, đó là: chết, sống lại và thưởng phạt.

- Bài đọc 1 trích sách Gióp, tác giả tin rằng cho dẫu phải trải qua cuộc đời này gian nan thử thách vì phải đối mặt với bao đau khổ, ngay cả cái chết do ma quỷ gây ra, ông vẫn tin tưởng vào tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa, đấng có quyền trên sự sống chết con người sẽ cứu ông thoát khỏi mọi hiểm nguy và đưa ông vào cõi phúc một khi ông nhắm mắt lìa đời: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu hủy, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn người, Đấng mắt tôi nhìn thấy, không phải người xa lạ. Lòng tôi những tha thiết mong chờ.” (G 19, 25- 27).

- Bài đọc 2, trích thư thánh Phaolo tông đồ gửi tín hữu Roma, thánh Phaolô khuyên nhủ mọi tín hữu hãy luôn trông cậy vào TC, bởi chính TC mới là Đấng làm cho con người có niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu: “Thưa anh em, trông cậy, không làm chúng ta phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà người đã ban cho chúng ta... phương chi bây giờ chúng ta đã được hòa giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của người con ấy.” (Rm 5, 5.10b)

- Bài tin mừng của thánh Gioan, Chúa Giêsu đã khẳng định rằng: “Tất cả những kẻ được Chúa Cha ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6, 39- 40).

Như thế phụng vụ lời Chúa hôm nay xác quyết cho chúng ta biết rằng: sự sống đời đời của người tín hữu hệ tại ở việc nhận biết, tin tưởng và kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu. Nhờ đó mà ta sẽ được Ngài cho sống lại trong ngày sau hết.

Trong thánh lễ cầu cho các tín hữu đã ly trần hôm nay, chúng ta tin chắc rằng, khi sống kiếp phàm nhân con người không tránh khỏi những lỗi lầm do cuộc sống đưa đẩy, hay do những khiếm khuyết của bản thân, nhưng với niềm tin vào Thiên Chúa mạnh mẽ, không phai nhòa con người có cơ hội được Thiên Chúa chấm công và ban phần thưởng.

Dẫu cho đời sống nơi dương thế dài lê thê và nhiều khổ ải nhưng nếu chúng ta biết cố gắng kiên trì đi theo Chúa với niềm tin vững vàng vào tình thương và ơn cứu độ của Người thì dù có chết về phần xác thì Chúa cũng sẽ cho chúng ta được phục sinh, để bước vào cõi sống muôn đời với Người trong niềm hạnh phúc vĩnh chửu, vì chính Ngài đã phán: “Ai tin vào tôi, sẽ sống muôn đời”.

Khi suy niệm về cái chết của những người đã ra đi trước chúng ta, chúng ta cũng nhớ về thân phận tro bụi mỏng giòn và chóng tàn phai của mình mà chuẩn sẵn sàng mọi tư thế, để khi Chúa có đến gõ cửa, ta vui mừng đáp lại “này tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe, Ngài muốn con đi đâu vậy? Con đã sẵn sàng hành lý để đi theo Ngài đây”.

Có lẽ khi nghe lời đáp trả mạnh mẽ như thế, Chúa sẽ mỉm cười và nói với chúng ta rằng: “Ta muốn con đi theo Ta vào chung hưởng phần gia nghiệp với Ta trong Nước Trời”.

Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời và cho ánh sáng ngàn thu, chiếu soi trên các linh hồn ấy. Amen. (St)

 

LỄ II: Is 25,6a.7-9; Rm 8,14-23; Mt 25,31-46

GIÚP ĐỠ CÁC ĐẲNG LINH HỒN

Tín điều các thánh thông công do GH chỉ dạy, giúp chúng ta xác tín vào sự hiệp thông trong cùng một Hội Thánh, đem đến niềm tin và hi vọng cho mỗi người Kitô hữu chúng ta.

Hôm nay Hội Thánh mời gọi chúng ta hướng về những người đã an giấc ngàn thu, đợi chờ ngày Đức Kitô trở lại trong vinh quang để kết hợp hồn xác lại để được Chúa ban hưởng phúc trường sinh vĩnh cửu.

Bổn phận chúng ta là thành phần GH chiến đấu, những người còn đang lữ hành trên trần thế, phải tích cực cộng tác vào chương trình cứu rỗi của Đức Kitô, nhờ công nghiệp  hi sinh trên Thập Giá của Chúa, được tái diễn trên bàn thờ, qua Thánh lễ Misa, chúng ta cùng được kết hợp vào cuộc khổ nạn và phúc sinhcủa Đức Kitô, để chuyển cầu và cứu giúp các Đẳng linh hồn được hưởng ơn cứu độ Phục Sinh, mà họ đang chờ đợi từng giây phút.

Để lời cầu nguyện và cửa lễ hy sinh của chúng ta được Chúa chấp nhận, giờ đây chúng ta hãy thành tâm thống hối.

Tín điều các thánh thông công do GH chỉ dạy, giúp chúng ta xác tín vào sự hiệp thông trong cùng một Hội Thánh, đem đến niềm tin và hi vọng cho mỗi người Kitô hữu chúng ta.

Hôm nay Hội Thánh mời gọi chúng ta hướng về những người đã an giấc ngàn thu, đợi chờ ngày Đức Kitô trở lại trong vinh quang để kết hợp hồn xác lại để được Chúa ban hưởng phúc trường sinh vĩnh cửu.

Bổn phận chúng ta là thành phần GH chiến đấu, những người còn đang lữ hành trên trần thế, phải tích cực cộng tác vào chương trình cứu rỗi của Đức Kitô, nhờ công nghiệp  hi sinh trên Thập Giá của Chúa, được tái diễn trên bàn thờ, qua Thánh lễ Misa, chúng ta cùng được kết hợp vào cuộc khổ nạn và phúc sinhcủa Đức Kitô, để chuyển cầu và cứu giúp các Đẳng linh hồn được hưởng ơn cứu độ Phục Sinh, mà họ đang chờ đợi từng giây phút.

Để lời cầu nguyện và cửa lễ hy sinh của chúng ta được Chúa chấp nhận, giờ đây chúng ta hãy thành tâm thống hối.

Để nhắc nhở chúng ta siêng năng “đi viếng nhà thờ” mà cầu nguyện cho các đẳng linh hồn vào tháng 11, người ta thường kể cho nhau nghe câu chuyện sau đây:

Ở một Họ đạo nọ, có một người đàn ông sống đạo rất khô khan nguội lạnh. Ít khi thấy anh ta đi đến nhà thờ để tham dự thánh lễ một mình. Anh chỉ đi nhà thờ, khi nào đứa con trai cưng bảy tuổi của anh đòi đi mà thôi.

Số là vào một buổi chiều trong tháng các đẳng linh hồn, đứa con của anh thấy bạn bè mình đều được cha mẹ dẫn đi “viếng nhà thờ” để đọc kinh cầu nguyện cho ông bà tổ tiên đã qua đời, nó cũng đòi đi cho bằng được, để cầu nguyện cho ông bà nội đã qua đời.

Sau khi đưa ra hết mọi lý lẽ để cản ngăn con đừng đi nhà thờ không thành công, anh ta đành phải chiều lòng con mà đưa nó đến nhà thờ.

Nhưng khi đến nhà thờ, anh không vào tham dự thánh lễ mà ngồi chờ con bên ngoài hành lang nhà thờ. Anh dặn đứa con: “Khi nào con đọc kinh xong thì ra, ba sẽ đưa con về!”.

Nhưng vì ngồi chờ quá lâu ở ngoài nhà thờ, nên anh ta đã ngủ quên và không biết giờ kinh đã xong lúc nào. Trong khi đang say ngủ như vậy thì anh mơ thấy một đoàn các Thiên Thần đông vô kể, từ trên trời bay xuống, vị nào cũng ì ạch mang theo những bao chứa đầy những thứ có màu trắng tựa như bông, lại bốc mùi rất thơm không thể nào diễn tả được. Quá tò mò, anh chạy theo một vị Thiên Thần và hỏi nhỏ: đó là thứ gì vậy? Vị Thiên Thần trả lời: đây là “các ơn thánh” mà những người trên trần gian đã tích góp được nhờ vào việc đọc kinh, lần hạt và đi viếng nhà thờ, nay gửi xuống cho người thân của họ đang bị giam cầm trong Luyện ngục. Được lệnh của Thiên Chúa nay chúng tôi đi giao quà. Nghe vậy, anh liền rón rén đi theo các Thiên Thần.

Khi các Thiên Thần đi đến đâu thì các linh hồn đều rất vui mừng bởi họ đều nhận được thật nhiều quà “ơn thánh” mà bà con thân thuộc của họ gửi đến cho họ nên ai cũng đều cám ơn rối rít.

Sau cùng, còn lại một món quà nho nhỏ, các Thiên Thần tìm đến một phòng giam trông rất hoang vắng rồi gõ cửa và nói: “Này, ông bà cụ ơi, có quà của cháu nội gửi cho ông bà đây, ra mà nhận!”. Bổng từ bên trong có tiếng vọng ra vừa vui mừng vừa xúc động nói: “Trời ơi, chúng tôi mà cũng có người tưởng nhớ tới sao! Bởi vì từ khi chết cho tới nay đã lâu quá rồi, đâu có ai nhớ đến chúng tôi nữa mà gửi quà! Nhưng thật cảm động vì hôm nay chúng tôi nhận được món quà hết sức quý giá của đứa cháu nội, ôi hạnh phúc biết bao!”.

Thật bất ngờ không thể tin vào mắt mình nữa, bởi vì vừa khi mở cửa ra để lãnh quà “ơn thánh” của đứa cháu nội, thì anh ta nhận ra đó chính là cha mẹ ruột của anh. Nhưng giờ đây hình dáng của hai ông bà đã gầy óm và hốc hác đi quá nhiều, trông rất là đau khổ.

Lúc ấy anh thấy hai ông bà hướng mắt nhìn về anh rồi từ từ tiến lại gần anh với một vẽ mặt rất tức giận. Với cái gậy đang cầm sẵn trong tay, ông bà đã phang thẳng vào đầu anh một cái thật mạnh và quát lớn: “Thằng con bất hiếu kia, mi còn mò tới đây làm gì nữa! Mi quả là đứa con bất hiếu! Mi coi gương đứa con của mi mà từ nay ăn ở sao cho phải đạo đó!”. Bị đánh một cú quá bất ngờ và đau điếng, anh chàng bèn tỉnh giấc. Khi ngước mặt lên, anh ta bất ngờ nhìn thấy ông từ trông coi nhà thờ đang đứng trước mặt anh và la lớn tiếng: “Mi là ai mà giờ này còn nằm trước cửa nhà thờ ngủ như thế này!”.

Bấy giờ anh ta mới biết là mình đang mơ. Và cú gậy vừa rồi là do ông từ đánh, chứ không phải ba mẹ anh đánh!

Trên đường lủi thủi về nhà, người đàn ông ấy đã suy nghĩ thật nhiều về giấc mơ ấy. Cuối cùng anh ta cũng quyết tâm đổi đời. Từ đó anh ta cương quyết sống đạo tốt hơn, siêng năng tham dự thánh lễ thường xuyên và lúc nào cũng nhớ cầu nguyện cho cha mẹ anh ta thật nhiều.

Câu chuyện trên là lời nhắc nhớ mỗi người chúng ta hãy siêng năng cầu nguyện cho các linh hồn, nhất là trong tháng 11 này, vì các ngài đang chờ đợi nơi chúng ta những người còn sống tặng “quà ơn thánh” cho họ.

Qùa ơn thánh mà những người đã chết mong chờ chính là những việc làm bác ái yêu thương, là những kinh nguyện sáng chiều, là những hy sinh phục vụ chân thành và nỗ lực chu toàn tốt bổn phận của mình trong gia đình, nơi họ đạo và ngoài xã hội. Nhất là những thánh lễ mà chúng ta cùng hiệp dâng lên Chúa mỗi ngày với niềm xác tín vào mầu nhiệm các thánh cùng thông công, nhờ vào tình thương cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô.

Tin tưởng vào tín điều các thánh thông công, chúng ta hãy tích lũy thật nhiều quà công đức mà gửi tặng các linh hồn nơi luyện tội, trong đó rất có thể là ông bà, cha mẹ, người thân của chúng ta, với niềm xác tín vào lòng thương xót Chúa sẽ thanh luyện các đẳng nên trinh trong, hầu xứng đáng bước vào nước trời chung hưởng niềm vinh phúc cùng các thánh trong nhà Cha muôn đời. Amen.

 

LỄ III: Kn 3,1-9; Kh 21,1-5a.6b-7; Mt 5,1-12a

Hôm nay GH dành một ngày đặc biệt để cầu nguyện cho các tín hữu qua đời.

Niềm tin công giáo dạy chúng ta biết rằng: có thiên đàng để thưởng người lành, có hoả ngục để phạt kẻ dữ, và có luyện ngục để thanh tẩy các linh hồn còn vướng mắc các tội nhẹ chưa đền hết.

Các linh hồn nơi luyện ngục không thể làm gì được cho mình, họ chỉ còn trông đợi vào những lời cầu nguyện, những việc lành phúc đức và những hy sinh của chúng ta, những người đang còn sống ở thế gian. Những việc làm ấy chính là món quà ơn thánh rất quý giá, giúp đỡ các đẳng linh hồn sớm vượt qua những hình phạt tạm, được vào hưởng nhan thánh Chúa, trong niềm vui bất diệt trên nước trời.

Tin tưởng và cậy trông vào lòng thương xót Chúa, chúng ta hãy hiệp dâng thánh lễ này thật sốt sắng và cố gắng lập nhiều công đức, để gửi tặng cho các linh hồn trong nơi luyện tội, với niềm hy vọng các ngài sớm được Chúa ban thưởng niềm vui muôn đời trong nước trời.


Một triết gia đã khẳng định: “đã là người thì đều phải chết. Vậy, tôi là người, tôi cũng phải chết”. Chết là cái đích cuối cùng của một đời người mà ai cũng phải trải qua. Nhưng, khi nói về cái chết thì nó muôn màu, muôn vẻ, không ai giống ai :

Có người sau một đêm yên giấc, đã từ giã cõi đời này mà ra đi mãi mãi, không bao giờ trở lại.

Có người chết vì già nua đau yếu, nhưng cũng có người chết trong lúc tuổi đời còn xuân xanh;

Có người chết bởi tai ương họan nạn, nhưng cũng có kẻ chết trong lúc vui vẻ với người thân, bạn bè;

Có người chết vì bệnh tật hiểm nghèo, nhưng cũng có kẻ chết vì muốn tự kết liệu đời mình bởi không tìm được lối thoát trong cuộc đời này...vv. Quả là cái chết của con ngươi xảy ra "muôn hình, vạn trạng".

Với niềm tin Kitô giáo thì cái chết sẽ dẫn đưa con người đến sự sống đời đời.

Cả ba bài đọc lời Chúa trong thánh lễ sáng nay đều đề cập đến 3 điều căn bản của niềm tin người kitô hữu chúng ta, đó là: chết, sống lại và thưởng phạt.

- Bài đọc 1, trích sách Gióp, tác giả tin rằng cho dẫu phải trải qua cuộc đời này đầy gian nan thử thách, hay phải chết đi do ma quỷ gây ra, ông vẫn tin tưởng vào tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa là Đấng cầm quyền trên sự sống chết của con người, sẽ cứu ông thoát khỏi mọi hiểm nguy và đưa ông vào cõi phúc trường sinh một khi ông nhắm mắt lìa đời. (x.G 19, 25-27).

- Bài đọc 2, trích thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô khuyên nhủ mọi tín hữu hãy luôn trông cậy vào TC. Dẫu biết rằng chúng ta là tội nhân nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Ngài đổ tình yêu vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần. Cũng chính vì yêu thương, Thiên Chúa đã để cho người con duy nhất là Đức Giê su kitô đổ máu mình ra Cứu độ và giao hòa chúng ta lại với Thiên Chúa. (x. Rm, 5-11)

- Còn bài Tin mừng của thánh Gioan, Chúa Giêsu đã khẳng định với chúng ta rằng: sau cái chết là một sự sống mới trong Đức Kitô. Nên ai tin vào Người thì được sự sống đời đời, Người sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết và được cùng Người chung hưởng sự sống đời đời. (x.Ga 6, 39-40).

Như thế phụng vụ lời Chúa hôm nay giúp cho ta hiểu rằng: số phận của chúng ta hệ tại ở việc nhận biết, tin tưởng và kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu. Nhờ đó mà ta mới có được sống lại trong Chúa vào ngày sau hết.

Giáo lý công giáo cũng đã dạy cho chúng ta biết rằng: có thiên đàng để thưởng người lành, có hoả ngục để phạt kẻ dữ, và có luyện ngục để thanh tẩy các linh hồn còn vướng mắc các tội nhẹ chưa đền hết.

Các linh hồn trong luyện ngục tự mình không thể làm gì được để được Chúa tha các hình phạt trong luyện ngục, ở đó họ chỉ trông mong có một điều là hình phạt mau qua để chóng được hưởng nhan thánh Chúa, do đó họ rất cần đến lời cầu nguyện của chúng ta, cần đến những việc lành phúc đức và những hy sinh của chúng ta là những người đang còn sống ở thế gian.

Tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, Giáo Hội đã dành trọn tháng Mười Một trong năm để cầu nguyện cho các linh hồn trong luyện ngục, một tháng với biết bao nhiêu là việc lành mà chúng ta làm, với biết bao nhiêu là thánh lễ mà chúng ta tham dự cách sốt sắng, với biết bao hy sinh mà chúng ta đã thực hiện, thì chắc chắn có rất nhiều linh hồn trong luyện ngục được thoát khỏi hình phạt luyện ngục mà về thiên đàng hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa.

Tín điều các thánh thông công của Giáo Hội cũng nhắc nhắc nhở chúng củng cố tình hiệp thông rõ nhất trong tháng này: hiệp thông với các thánh khải hoàn trên trời để xin ơn trợ giúp nâng đỡ chúng ta đang lữ hành trên trần gian, hiệp thôn với các đẳng đang đau khổ trong luyện ngục bằng các lời kinh nguyện và việc lành của chúng ta để góp phần giải thoát các linh hồn trong nơi luyện tội.

Ai trong chúng ta cũng đều có người thân qua đời, nếu họ đã được hưởng hạnh phúc thiên đàng, thì họ sẽ cầu bàu cho chúng ta trước toà Thiên Chúa, nếu họ đang bị giam cầm trong luyện ngục thì họ đang rất cần đến lời cầu nguyện và những hy sinh của chúng ta, mỗi thánh lễ, mỗi lời nguyện, mỗi việc lành của chúng ta làm, tựa như những giọt nước mát mẻ làm dịu bớt những cơn khát cháy trong đau khổ cũng như thâu ngắn thời gian đền tội lại của họ trong luyện ngục.

Tháng Mười Một cũng là tháng báo hiếu của con cái đối với ông bà cha mẹ đã qua đời. Xin lễ cầu nguyện, lần chuổi Mân Côi, làm việc lành phúc đức.v.v...là những cách báo hiếu đúng đắn và hữu hiệu nhất mà chúng ta dành cho các ngài.

Tin tưởng và cậy trông lòng lòng thương xót, chúng con cậy vì danh Chúa nhân từ cho các linh hồn được lên chốn nghỉ ngôi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen. (St)

 

Suy niệm 4: RA ĐI CŨNG LÀ TRỞ VỀ

Ngày chết mà người ta gọi là ngày đại hoạ, ngày kinh hoàng, thì đối với người tin Chúa, đó lại là ngày đoàn tụ sum vầy

Đối với những ai không tin có sự sống đời sau thì cái chết là thảm hoạ khủng khiếp nhất trên đời, vì khi chết đến, nó sẽ cướp đi tất cả, không những là tất cả tài sản, của cải tiền bạc, công danh sự nghiệp của một đời người, mà còn cướp luôn mạng sống của họ.
Tuy nhiên, đối với các Ki-tô hữu, cái chết không còn bi đát hãi hùng, không phải là một mất mát, nhưng là một sự trở về: chết là về nhà Cha.

Xin mượn câu chuyện sau đây để minh họa cho chân lý nầy :

Năm người con đưa tiễn người mẹ yêu quý xuống tàu vượt biển đến một bến bờ xa cách vạn dặm nằm bên kia bờ đại dương bát ngát.

Tàu rời bến, họ vẫy tay tiễn biệt mẹ mà lòng tê tái buồn đau. Họ đứng lặng trên bờ, đăm đăm nhìn con tàu rẽ sóng đưa mẹ ra khơi cho đến khi con tàu chỉ còn là một đốm trắng li ti và mất hút ở cuối chân trời. Mắt mỗi người đều ngấn lệ vì mẹ đã đi xa, tưởng như không bao giờ trở lại.

Mấy ngày sau đó, ở bờ bên kia của đại dương, ông bà ngoại, cậu, dì và nhiều người thân yêu đang tụ tập trên bến chờ đón mẹ về. Và khi thấy thấp thoáng từ xa con tàu buồm trắng mà họ tin là có mẹ trên đó, thì họ cảm thấy tâm hồn nao nức mừng vui. Đến khi mẹ vừa ra khỏi tàu, thì ông bà ngoại, cậu dì chạy ra ôm choàng lấy mẹ, mọi người rất vui mừng hân hoan vì đã chờ đợi mẹ rất lâu mà mãi tới hôm nay mới có ngày sum họp.

Thế là việc ra đi của mẹ ở bờ bên nầy lại là sự trở về của mẹ ở bờ bên kia. Sự vĩnh biệt đau thương bên nầy được tiếp nối với cuộc đoàn tụ hân hoan hạnh phúc ở bờ bến khác.

Chúa Giê-su dạy ta biết sự chết như là con tàu buồm trắng trong câu chuyện trên đây, đưa người ta rời khỏi bến nầy để đưa họ sang bờ bến khác, giúp con người từ giã thế giới tạm bợ đời nầy để bước vào thế giới vĩnh cửu, để được đoàn tụ với Thiên Chúa, với ông bà tổ tiên và thân nhân đã lìa đời trên thiên quốc.

Chính vì thế, qua trích đoạn Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su an ủi những ai còn ở bờ bên nầy, nghĩa là những người còn sống trên dương gian rằng: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,1-3).

Như thế, ngày chết mà người ta gọi là ngày đại hoạ, ngày kinh hoàng, thì đối với người tin Chúa, đó lại là ngày đoàn tụ sum vầy. Ngày đó, chúng ta sẽ được “đồng hưởng sự sống đời cùng với Đức Trinh nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa; Thánh Giu-se bạn trăm năm Đức Trinh nữ; các Thánh Tông đồ và toàn thể các Thánh đã sống đẹp lòng Chúa qua mọi thời đại[1]”, nếu hôm nay ta sống theo Lời Chúa dạy.

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa đi trước để dọn chỗ cho đoàn con và mai đây Chúa sẽ trở lại để đưa đoàn con về với Chúa.

Xin cho anh chị em tín hữu đã ly trần nhưng còn đang được thanh luyện, sớm thoát khỏi chốn luyện hình để đến nơi Chúa đã dọn sẵn cho họ trên thiên quốc và được đồng hưởng hạnh phúc cùng với ba ngôi Thiên Chúa và triều thần thánh đến muôn đời. Amen.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Suy niệm 5: TÂM HỒN SIÊU THOÁT

Người có tâm hồn nghèo khó không bám víu vào đời này nhưng bám chặt vào Chú, tựa nương vào Chúa, như con thơ nép vào lòng mẹ và nhờ đó họ được Thiên Chúa ấp ủ, yêu thương và ban cho họ hạnh phúc đời đời.

Trên cõi đời này hiếm có ai nghèo như Chúa Giê-su. Mặc dù Ngài là Thiên Chúa Ngôi Hai đầy quyền năng phép tắc, là bá chủ muôn loài muôn vật, nhưng Ngài đã hạ mình xuống thế, trở nên người phàm, chấp nhận sinh ra trong chuồng súc vật khốn hèn, sống kiếp nghèo không chỗ tựa đầu và cuối cùng, Ngài đã chọn chết nghèo, chết thảm vào bậc nhất trong thiên hạ.

Chúa Giê-su không chỉ sống nghèo mà Ngài còn là Đấng có tâm hồn nghèo khó và mong muốn chúng ta cũng có tâm hồn nghèo khó như Ngài.

Khởi đầu bài giảng trên núi, một bài giảng quan trọng của mình, Ngài đã nêu lên 8 mối phúc, mà mối phúc đầu tiên là có tâm hồn nghèo khó. Ngài nói: “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.” Qua lời này, Chúa Giê-su không nhằm nói ai nghèo khổ là có phúc, nhưng Ngài nói: “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó.”

Thế nào là có tâm hồn nghèo khó?

Người có tâm hồn nghèo khó là người ý thức rằng chẳng có gì là của riêng ta. Mọi sự ta có đều là ân huệ Chúa trao ban cho ta. Ta quản lý một thời gian, rồi mai đây Ngài sẽ lấy lại.

Thân xác ta thuộc về Chúa. Mai đây Chúa lấy đi, ta trở về cát bụi.

Sự sống của ta thuộc về Chúa, khi Chúa lấy đi, ta không giành lại được.

Sức khoẻ của ta cũng do Chúa ban, nếu Chúa cất đi, ta trở thành người bại liệt tàn phế, nằm liệt giường không chỗi dậy nổi đâu.

Tiền bạc ta có cũng do Chúa ban. Chúa lấy đi, ta chỉ còn 2 bàn tay trắng.

Nên phải luôn tâm niệm lời dạy của Chúa Giê-su: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì!”

Biết như thế, nên người có tâm hồn nghèo khó không bám víu vào đời này nhưng bám chặt vào Chúa, không dựa vào tài năng sức lực của mình, mà hoàn toàn tựa nương vào Chúa, như con thơ nép vào lòng mẹ và nhờ đó ta được Thiên Chúa ấp ủ, yêu thương và ban cho ta hạnh phúc đời đời.

Thế là đúng như lời Chúa Giê-su dạy: “Phúc thay ai có tâm  hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.”

- Còn đối với những ai không có tâm hồn nghèo, họ xem tiền là Tiên là Phật, là chìa khóa vạn năng, là quyền lực vô song có thể giải quyết mọi vấn đề. Thế là họ cam phận làm nô lệ cho đồng tiền, tôn thờ đồng tiền, quay cuồng trong cơn lốc kiếm tìm tiền bạc. Họ lao vào tiền bạc như những con thiêu thân lao vào lửa. Và cũng như thiêu thân lao vào lửa, họ đốt cháy đời mình cách đau thương như lời thánh Phao-lô nói: “Chung cục là họ sẽ phải hư vong” (Pl 3, 19). Thánh Phao-lô mô tả về tình trạng của hạng người này như sau: “Chúa họ thờ là cái bụng và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian…” (Pl 3, 19).

Hôm nay, lời dạy sống tinh thần nghèo khó của Chúa Giê-su thúc đẩy chúng ta chọn lựa một trong hai điều này: Hoặc là tham lam, mê đắm tiền bạc và tôn nó lên ngôi để rồi phải hư mất đời đời; hay là siêu thoát khỏi mọi chi phối trói buộc của vật chất để chỉ bám víu vào Thiên Chúa mà thôi để được Nước Trời làm gia nghiệp.

Lạy Chúa Thánh Thần,

Nếu không được Chúa soi sáng và ban ơn, không ai trong chúng con có thể siêu thoát khỏi mọi quyến rủ của vật chất để hướng tâm hồn về phúc lộc quê trời.

Xin ban cho chúng con đức khôn ngoan của Chúa, để chúng con nhận biết rằng chỉ những ai có tâm hồn nghèo khó, siêu thoát khỏi mọi trói buộc của tiền tài và hướng lòng về thượng giới, thì mới là người thật sự có phúc vì sẽ đạt được hạnh phúc thiên đàng mà thôi.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Suy niệm 6: ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC HƯỞNG PHÚC THIÊN ĐÀNG

Trong lớp giáo lý nọ, giáo lý viên hỏi các học sinh:

- Ta phạm tội nào thì phải sa hỏa ngục?

Đây là một câu hỏi dễ nên có nhiều học sinh giơ tay xin đáp. Các câu đáp quy về những thứ tội sau đây:

- Tội cố ý giết người, cố tình gây thiệt hại cho người khác như trộm cắp, chiếm đoạt; cố tình phạm tội tà dâm, ngoại tình; cố ý lăng mạ làm mất danh dự người khác, vân vân…

Giáo lý viên nói:

- Tất cả các câu đáp của các em đều đúng. Bây giờ thầy hỏi tiếp:

- Có khi nào ta không phạm những thứ tội như thế, cũng không cố tình làm hại ai, không đụng chạm gì đến tài sản hay thân thể người khác… mà phải sa hỏa ngục không?

Sau một hồi cau mày suy nghĩ, các học sinh đều trả lời là không. Thế nhưng thầy lại bảo là có, khiến cả lớp ngạc nhiên pha lẫn nghi ngờ.

Thầy nói tiếp: Có những khi ta không làm tổn thương ai, không chiếm đoạt tài sản người khác, không xúc phạm đến ai… thế mà vẫn có thể bị sa hỏa ngục vì không ra tay cứu giúp những người lâm cảnh gian nan khốn khó.

Nghe thế, học sinh lại thêm nghi ngờ. Để thuyết phục học sinh tin chắc điều này, thầy trích dẫn lời dạy của Chúa Giê-su qua hai dụ ngôn sau đây:

Thứ nhất là dụ ngôn người giàu có với La-da-rô khốn khổ trong Tin mừng Luca.

Người giàu “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy mà ăn cho đỡ đói, nhưng cũng chẳng ai cho.”
Thế rồi, cả hai người đều chết. La-da-rô thì được vào thiên đàng vinh hiển; còn lão phú hộ thì phải sa hỏa ngục” 
(Lc 16, 19-21).

Người giàu đã làm gì đến nỗi phải sa hỏa ngục? Ông ta không mắng chửi, không đánh đập, không xua đuổi La-da-rô… Thế thì tại sao lão lại phải sa hỏa ngục?
Lão phải sa hỏa ngục vì lão không ra tay cứu giúp La-da-rô đang đói khát trong khi lão thừa mứa thức ăn.

Thứ hai là qua dụ ngôn cuộc “Phán xét cuối cùng” được trích đọc hôm nay, Chúa Giê-su lên án những người không ra tay cứu giúp người cùng khổ bằng những lời lẽ hết sức nặng nề: “Hỡi phường bị chúc dữ kia! Hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng…”

Thế là những người này hết sức bàng hoảng, sửng sốt, khiếp sợ và tự hỏi: “Mình đã làm gì nên tội mà Chúa bắt mình phải chịu hình phạt khủng khiếp đến thế? Mình không giết người, không đốt nhà, không chiếm đoạt tài sản của ai, không gian dâm, không ngoại tình, không mắng chửi hay làm mất thanh danh phẩm giá bất cứ ai… Thế thì tại sao lại phải chịu hình phạt nặng nề kinh khủng như thế?

Chúa Giê-su đáp: Các ngươi phải sa hỏa ngục “vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!”

“Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: 'Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?' Khi ấy Chúa đáp lại: “Ta bảo thật cho các ngươi biết: Những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta” (Mt 25, 46).

Lạy Chúa Giê-su,

Lâu nay chúng con không ngờ có một thứ tội rất nặng nề mà ai vi phạm thì phải sa hỏa ngục đau khổ muôn đời, đó là tội không biết ra tay cứu giúp những người lâm cảnh gian nan khốn khổ.

Xin cho chúng con luôn quan tâm giúp đỡ người khốn khó, biết giảm bớt những chi tiêu không cần thiết để chia sẻ cho những anh chị em nghèo thiếu chung quanh; nhờ đó, mai đây Chúa sẽ tuyên bố với chúng con rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ” vì các ngươi đã ra tay cứu giúp những anh chị em đang lâm cảnh gian nan.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

 

Suy niệm 7: LÒNG THẢO HIẾU THEO TINH THẦN KITO GIÁO

Hàng năm dân tộc Khmer có ngày lễ Sen Dolta. “Sen” có nghĩa là cúng, còn “Dol” có nghĩa là bà, “Ta” nghĩa là ông. Trong ngày lễ này bà con Khmer thể hiện tấm lòng thành kính, hiếu thảo đối với ông bà tổ tiên. Vì thế trong dịp lễ này bà con đồng bào dân tộc Khmer chuẩn bị hết sức chu đáo.

Còn các phật tử thì lại rộn ràng với ngày lễ hội “Vu Lan- báo hiếu." vào ngày rằm tháng 7 (â.l). Tâm tình hiếu thảo của bà con Phật tử không chỉ dành cho hương hồn ông bà cha mẹ mà còn hướng đến vong linh những người thác oan, cô quả, vùi thân nơi đất khách quê người…

Cách riêng, Giáo Hội chúng ta không chỉ dành ngày lễ các Đẳng Linh Hồn hôm nay nhưng còn là mỗi ngày, nhất là cả tháng 11 dương lịch để tưởng nhớ và cầu nguyện cách đặc biệt cho những người đã qua đời, trong đó có tổ tiên, ông bà chúng ta, được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng.

Thực hành này dựa trên nền tảng của niềm tin vào Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã thực hiện ý Chúa Cha là cho “những ai thấy và tin vào Chúa Con” thì dù có chết cũng sẽ được sống lại và sống mãi muôn đời.

Nhiều anh chị em lương dân vẫn chưa hiểu rõ về đạo hiếu chúng ta nên hay nói: “Theo đạo Công Giáo là bỏ ông bỏ bà.” Nhưng thực tế chúng ta luôn sống hiếu thảo với các ngài qua việc cầu nguyện hàng ngày trong thánh lễ, vẫn xin lễ thường xuyên, vẫn dâng những việc lành phúc đức và âm thầm hy sinh chu toàn bổn phận trong yêu thương phục vụ để cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ và các đẳng linh hồn đã qua đời. Vậy mà, bà con lương dân vẫn chưa thấy được tấm lòng hiếu thảo của người công giáo chúng ta.

Phải chăng lòng thảo kính đối với tổ tiên ông bà cha mẹ nơi chúng ta chưa tích cực, chưa đi vào cuộc sống nên chưa có sức lan toả?

Ý thức điều này, nên trong tháng này, chúng ta hãy dành nhiều thời gian, công sức để năng đến tham dự thánh lễ, viếng nghĩa trang, làm thật nhiều việc bác ái lập nhiều công đức, để cầu nguyện cho các linh hồn của ông bà cha mẹ chúng ta đã qua đời.

Ngoài ra chúng ta cũng hãy quét dọn mồ mả người thân chúng ta soa cho sạch đẹp. Sắp xếp lại bàn thờ gia tiên dưới bàn thờ Chúa trong gia đình mình sao cho gọn gàng, trang trọng nhằmthể hiện lòng hiếu kính tổ tiên trong niềm tin vào Thiên Chúa.

Xin thứ tha những lầm lỗi, thiếu sót của những người thân chúng con và xin cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên tất cả những ai đã được nghỉ yên trong Chúa. (St)

 

Suy niệm 8 : CUỘC THANH TẨY CUỐI CÙNG

“Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa”.

Trên một bia mộ, người ta đọc thấy dòng chữ: “Chỗ bạn đang đứng, chỗ tôi đã đứng. Nơi tôi đang nằm, nơi bạn sẽ nằm!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Nơi tôi đang nằm, nơi bạn sẽ nằm!”. Lời Chúa ngày lễ Các Đẳng Linh Hồn đưa chúng ta về “Luyện ngục”, một khái niệm thường bị hiểu lầm.

Luyện ngục là gì? Là nơi chúng ta phải chịu trừng phạt vì tội lỗi? Cách Thiên Chúa hỏi tội về các sai phạm của mỗi người? hay đó là kết quả cơn giận của Ngài?

Không! Luyện ngục không gì khác hơn là tình yêu cháy bỏng và là ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ Thiên Chúa dành cho những người Chúa chọn.

Sách Khôn Ngoan nói, “Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa”.

Khi ai đó chết, rất có thể họ không được hoán cải 100% để hoàn hảo về mọi mặt. Ngay cả các thánh vĩ đại nhất mà cũng có khiếm khuyết trong cuộc sống.

 Luyện ngục không gì khác hơn là ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ tất cả vấn vương còn lại với tội lỗi. Hãy tưởng tượng, bạn có một cốc nước tinh khiết 100%. Cốc này tượng trưng cho thiên đàng. Bạn muốn thêm vào cốc đó một ít nước chỉ tinh khiết 99%. Nước không tinh khiết 1% này đại diện cho những người lành thánh đã chết với một số chấp trước nhẹ đối với tội lỗi. Nếu thêm nước đó vào cốc, cốc sẽ có một số tạp chất, ít nữa 1%.

Vấn đề là thiên đàng không chứa bất kỳ tạp chất nào, dù là nhỏ nhất. Vì thế, 1% đó vẫn cần được lọc sạch.

Làm thế nào điều này xảy ra? Chúng ta không biết. Chúng ta chỉ biết nó có. Nhưng cần hiểu rằng, đó là kết quả của tình yêu vô hạn nơi Thiên Chúa những muốn thanh tẩy chúng ta khỏi mọi ràng buộc, vướng bận.

Có đau không? Rất có thể! Nhưng đau theo nghĩa buông bỏ. Và kết quả cuối cùng là tự do thực sự, đáng giá cho bất kỳ nỗi đau nào có thể trải qua. Vì thế, luyện ngục là đau đớn, nhưng là ‘nỗi đau ngọt ngào’ cần có từ ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ để kết hiệp với Chúa trọn vẹn hơn. Chúa Giêsu nói, “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi”; đó là những con người với những chiếc áo trắng tinh tuyền, và những trái tim cũng tuyệt đối tinh tuyền!

Tưởng nhớ các linh hồn, chúng ta sống mầu nhiệm Các Thánh Thông Công. Các linh hồn trải qua cuộc thanh luyện này vẫn hiệp thông với Chúa, với Giáo Hội dưới thế và Giáo Hội thiên quốc. Chúa sử dụng lời cầu của chúng ta dành cho các linh hồn, cũng như việc các linh hồn cầu bầu cho chúng ta như những công cụ thanh tẩy của Ngài; Ngài cho phép và mời chúng ta tham gia vào ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ của họ. Điều này tạo nên một mối liên đới chặt chẽ của chúng ta với các linh hồn.

Anh Chị em,

“Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa”. Như vàng trong lửa, một ngày kia, tất cả chúng ta rồi cũng được thanh luyện như các linh hồn. Và không nghi ngờ gì nữa, các thánh trên trời, đặc biệt dâng lời cầu nguyện cho họ trong thời gian thanh luyện này. Đó là một sự thật đáng hoan hỷ và là một niềm vui lớn lao khi chúng ta thấy cách thức Thiên Chúa sắp xếp toàn bộ quá trình này cho mục đích cuối cùng của sự hiệp thông thánh thiện mà chúng ta được kêu gọi! Như vậy, ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ rõ ràng là cần thiết, nó là sáng kiến từ tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, giúp con ‘tập chết’ trước khi chết thật, may ra ‘nỗi đau ngọt ngào’ sau cùng sẽ chóng vánh hơn! Đó là những hy sinh con dành cho các linh hồn!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế 

* Mùa thường niên: Lc 14, 1.7-11

Tin mừng hôm nay ghi lại những lời khuyến cáo của Chúa Giêsu dành cho những kẻ sống kiêu ngạo và khích lệ cho những ai biết sống khiêm nhường. Nhưng làm thế nào để ta phân biệt được đâu là kẻ kiêu ngạo và đâu là người sống khiêm nhường?

Dựa vào câu nói cuối cùng của Chúa Giêsu trong đoạn tin mừng hôm nay: “Ai nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên.” Như thế dấu hiệu của kẻ kiêu ngạo là “tự nhắc mình lên”; và dấu hiệu của người khiêm nhường là “tự hạ mình xuống”.

1. Người kiêu ngạo “tự nhắc mình lên” bằng cách nào? Thưa lhọ:

- Luôn cho mình là kẻ lớn nhất, biểu hiện ưa thích “chọn chỗ nhất” trong đám tiệc.

- Luôn khoe khoang thành tích của bản thân khi tiếp xúc với người khác.

- Hay phàn nàn và luôn chê bai người khác là ngu dốt, ngầm ý mình là người khôn ngoan và tài giỏi.

- Luôn khăng khăng giữ ý kiến của mình xem thường ý kiến của người khác, không còn khả năng lắng nghe và hợp tác với ai cả.

- Mặt thì vênh váo, sẵn sàng nhẫn tâm chà đạp những người yếu thế, cô thân và thích lên giọng dạy đời người khác.

- Luôn tìm kiếm hư danh nên rất ưa nịnh nọt, sẵn sàng luồn cúi và tâng bốc bề trên. Nhưng sau lưng thì lại chê bai, nói xấu…

Hậu quả của kẻ kiêu ngạo là bị mọi người khinh ghét; bị bạn bè xa lánh… Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho biết: họ sẽ bị chủ tiệc làm bẻ mặt khi mời họ nhường chỗ cho người khác: “Xin ông nường chỗ cho người này”; nhất là họ còn bị Thiên Chúa hạ bệ: “Vì hễ ai nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống”.

2. Người khiêm nhường “tự hạ mình xuống” ra sao? Thưa đó là người:

- Biết tôn trọng sự thật, dám nói và sống cho sự thật.

- Biết nhận ra giới hạn bản thân, dám chấp nhận thiếu sót và lầm lỗi của mình trước Chúa và tha nhân.

- Luôn sống chân thành cởi mở với mọi người. Sẵn sàng lắng nghe những lời giáo huấn của Chúa và GH. Luôn mở lòng đón nhận những lời góp ý chân thành và chỉ bảo tốt đẹp của mọi người.

- Biết ý thức những gì mình “là” và “có” đều do ân ban của Chúa nên luôn biết cảm tạ và tôn vinh Chúa, sẵn sàng hy sinh chia sẻ với mọi người về vật chất lẫn tinh thần…

+ Tóm lại: Người sống khiêm nhường là người biết mình là ai? Vị trí của mình đang ở đâu? Và công việc của mình là gì?...

Vì thế mà người sống khiêm nhường luôn được mọi người yêu mến, tôn trọng và thích kết giao. Tin mừng hôm nay còn cho biết họ thật vinh dự khi được chủ tiệc mời lên trên: “Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên”. Nhưng niềm vinh dự lớn nhất của người sống khiêm nhường là được chính Thiên Chúa yêu thương và nâng đỡ như lời Chúa Giêsu phán: “Ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên.”

Ta hãy mượn lại tâm tình bài hát sinh hoạt rất hay của nhạc sĩ linh mục Thái Nguyên mà dâng lên Chúa tâm tình cầu nguyện: “Xin cho con biết luôn tự hạ, sống khiêm như Giêsu từ ái. Lòng đơn sơ, chân thành cởi mở. Đời hồn nhiên như hoa nở thắm tươi.” Nhờ đó ta mới xứng đáng được Chúa yêu thương nâng đỡ và chúc lành; cũng như được mọi người trân trọng và yêu mến.

 

SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXX THƯỜNG NIÊN

Lm Minh Anh, Tgp. Huế

SUY NIỆM 1: ĐỨNG THẲNG LÊN

“Người đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa!”.

“Bán chó con”. Một cậu bé gõ cửa, “Cháu muốn một con!”. Chủ đáp, “25 đô la!”. Cậu bé bị nghiền nát, “Cháu chỉ có hai đô la rưỡi. Cháu có thể xem?”. “Tất nhiên!”. Mắt cậu bé rực sáng khi nhìn năm ‘quả bóng’ tuyệt vời. “Cháu nghe, có một con bị tật”; “Đúng, ‘cô ấy’ chắc tàn tật suốt đời!”; “Ôi, cháu muốn nó. Cháu trả góp!”. Im lặng. “Nhưng ‘cô ấy’ sẽ luôn đi khập khiễng”. Dũng cảm, cậu bé kéo ống chân lên, một cái nẹp, “Cháu cũng vậy!”. Trìu mến nhìn con vật, cậu nói, “Cô ấy cần nhiều tình yêu. Không dễ tàn tật như thế, ‘cô ấy’ sẽ đứng thẳng!”. “Đây, đưa đi! Tôi biết ‘cô ấy’ sẽ có một người bạn tốt. Quên tiền đi!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Cô ấy sẽ đứng thẳng!”, nhưng không phải ‘cô cún’ tật nguyền của cậu bé tật nguyền, mà là một phụ nữ được Chúa Giêsu chữa lành qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Ngài chạm vào cô, khác nào chạm vào sự sống của cô; và cô đã có thể ‘đứng thẳng lên’.

Hẳn chắc, mỗi phép lạ Chúa Giêsu làm đều là một hành động của lòng thương xót; thế nhưng, câu chuyện “người con gái Abraham” còng lưng 18 năm này sẽ còn nhiều điều thú vị hơn thế. Nó mang nhiều ý nghĩa biểu tượng sâu sắc hơn chúng ta tưởng!

Với phép lạ này, dường như người phụ nữ đã không tìm kiếm một sự chữa lành nào. Thấy cô, trái tim Chúa Giêsu xem ra ngừng đập và Ngài nhất định ra tay dẫu đó là ngày Sabbat! Gần như tất cả các cuộc chữa lành của Ngài đều mang một ý nghĩa biểu tượng cho những đau khổ sâu sắc hơn mà cùng lúc con người phải chịu! Điếc, không thể nghe Lời và tiếng Thánh Thần; mù, không thể thấy sự hiện diện của Chúa; câm, không thể nói về Ngài và sứ điệp của Ngài; liệt, không thể làm những gì ân sủng thúc giục; hủi, bị cắt đứt hoặc tự cắt đứt các mối quan hệ; và quỷ ám, bị kìm kẹp bởi tội lỗi, nghiện ngập… Tất cả những thiểu năng thương tật ấy không cho chúng ta có khả năng ‘đứng thẳng lên!’.

Thông điệp thứ hai, sau khi được chạm đến, phụ nữ này đã ‘đứng thẳng lên’. Đây cũng là hình ảnh biểu tượng cho những gì được ân sủng chạm tới! Khi Thiên Chúa chạm ai, người ấy có thể đứng thẳng; họ tự tin bước đi như con trai, con gái của Ngài. Qua thư Rôma hôm nay, Phaolô xác tín, “Chúng ta có thể kêu lên, ‘Abba, Cha ơi’. Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng, chúng ta là con cái Thiên Chúa”; và mỗi người có thể nói, “Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa cứu độ!”, như Thánh Vịnh đáp ca chúc khen.

Anh Chị em,

“Cô ấy sẽ đứng thẳng!”. Có một biểu tượng nhất định trong việc cô ấy phải còng lưng và không thể đứng thẳng. Về mặt tâm linh, đó không phải là vấn đề của bạn và tôi sao? Rất nhiều người trong chúng ta có thể đang co quắp với những gánh nặng triền miên trong cuộc sống. Một vết thương lòng, một tiếc xót, một tội lỗi của quá khứ… tất cả những điều đó có thể khiến chúng ta dị tật và không ‘đứng thẳng’. Chúa Giêsu không chỉ chạm đến, Ngài còn hôn lấy nó; không chỉ hôn lấy nó, Ngài còn ôm ấp; không chỉ ôm ấp, Ngài còn rước lấy thương tật của chúng ta đến nỗi chết trên thập giá. Hãy sấn tới Ngài, cố chạm vào Ngài; Ngài sẽ nhìn thấy chúng ta và biết chúng ta cần gì. Và hẳn Ngài cũng sẽ chữa lành để bạn và tôi có thể ‘đứng thẳng lên!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, chỉ mình Chúa biết ‘tật nguyền’ của con; xin thương chạm đến nó, để con hết ‘còng!’”, Amen.

 

SUY NIỆM 2: CỐT LÕI CỦA ÐẠO

Một đêm mùa Ðông lạnh như cắt, một vị ẩn sĩ không chịu nổi cái lạnh của sa mạc, đã tìm đến xin trú ẩn tại một ngôi chùa. Nhìn thấy gương mặt tiều tụy của vị ẩn sĩ, tu sĩ canh giữ ngôi chùa không nỡ để ông ta đứng mãi giữa trời. Vị tu sĩ cho ông vào, nhưng lại nói một cách cương quyết: “Ông có thể ngủ đêm trong chùa, nhưng chỉ một đêm thôi, ngày mai ông phải rời khỏi nơi này tức khắc, vì đây là nơi tu hành, chứ không phải là trại tế bần”.

Giữa đêm, vị tu sĩ nghe thấy tiếng động kỳ lạ. Ông thức dậy và chứng kiến cảnh tượng khác thường: giữa ngôi chùa vị ẩn sĩ đang ngồi sưởi ấm bên một đống lửa cháy phừng. Nhìn lên bàn thờ, vị tu sĩ không còn thấy tượng Phật bằng gỗ nữa. Ông hỏi vị ẩn sĩ, vị này chỉ vào đống lửa điềm nhiên đáp: “Tôi không chịu nổi cái lạnh, nên đã dùng tượng Phật để nhóm lên đống lửa này”. Nghe thế, vị tu sĩ quát lớn: “Ông khùng rồi sao? Ông có biết ông đã làm gì không? Ðây là tượng Phật, ông đã đốt cháy Ðức Thích Ca của chúng tôi”.

Sáng hôm sau, vị tu sĩ trở lại để đuổi vị ẩn sĩ ra khỏi chùa; ông thấy vị ẩn sĩ đang bới đống tro như để tìm kiếm vật gì đó. Thấy vị tu sĩ thắc mắc, ông ta trả lời: “Tôi đang tìm kiếm những cái xương của Ðức Phật mà ngài bảo là tôi đã thiêu đốt tối hôm qua”.

Về sau, vị tu sĩ canh giữ ngôi chùa kể lại câu truyện cho một Thiền sư, và Thiền sư đã trách ông như sau: “Ông là một tu sĩ xấu, bởi vì ông xem một tượng Phật chết trọng hơn một mạng người sống”.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến cái chết của Chúa Giêsu, chính là cuộc xung đột giữa Ngài và những người Biệt phái. Những người Biệt phái bám vào việc tuân giữ nghi thức và luật lệ đến độ dẫm lên trên cả mạng sống con người. Trong khi đó, đối với Chúa Giêsu, cốt lõi của đạo chính là tình yêu. Phân định về việc giữ ngày Hưu lễ, Chúa Giêsu tuyên bố dứt khoát: “Ngày Hưu lễ được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Hưu lễ”. Ngài đã giải thoát một người đàn bà khỏi bị còng lưng trong ngày Hưu lễ, để chứng tỏ sự sống của con người, giá trị của con người, hay đúng hơn, tình yêu thương cao cả hơn tất cả những nghi thức và việc tuân giữ bên ngoài.

Xin cho chúng ta hiểu rằng cái cốt lõi của đạo chính là tình thương. Xin cho những lời cầu kinh, những việc tuân giữ luật lệ không là những cái vỏ hình thức bên ngoài, mà phải dẫn chúng ta đến những hành động cụ thể của tình yêu. Xin cho chúng ta luôn xác tín rằng sống cho tình yêu là được sống trong Chúa.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

THỨ BA:

SUY NIỆM 1: NƯỚC THIÊN CHÚA GIỐNG NHƯ CHUYỆN MỘT HẠT CẢI…

Nguồn: The Word Among Us, September 2023
Lm. Phaolô Vũ Đức Thành, SDD. chuyển ngữ

“Hãy dành mười lăm phút mỗi ngày cho sự phát triển vương quốc Thiên Chúa!”

Mặc dù tiêu đề đó nghe có vẻ giống như trong một tạp chí lá cải ở cửa hàng tạp hóa, nhưng nó lại nắm bắt được điểm đằng sau những câu chuyện dụ ngôn trong Tin mừng hôm nay.

Chúa Giêsu dùng hai dụ ngôn này để minh họa tiềm năng kỳ diệu cho sự phát triển trong vương quốc của Thiên Chúa. Chúng nói về quyền năng và ân sủng của Thiên Chúa, đặc biệt là khả năng của Ngài để làm điều gì đó vượt xa những gì chúng ta mong đợi, dù đó chỉ là một hạt giống bé nhỏ hoặc một chút men nhỏ nhất.

Điều này cũng đúng đối với chúng ta. Ngay cả với nỗ lực nhỏ nhất của chúng ta, Thiên Chúa cũng có thể làm được những điều đáng kinh ngạc. Hãy nghĩ xem chỉ mười lăm phút cầu nguyện mỗi ngày có thể mạnh mẽ như thế nào. Đó chỉ là 1% của 24 giờ mỗi ngày, nhưng thật đáng kinh ngạc là những gì có thể xảy ra trong vài phút ngắn ngủi đó. Bạn có thể chạm vào chính sự hiện diện của Thiên Chúa. Cảm giác về tội lỗi trong quá khứ có thể được xóa sạch khi bạn gặp được lòng thương xót của Ngài. Trái tim bạn có thể dịu lại với tình yêu thương dành cho những người xung quanh bạn. Bạn thậm chí có thể nghe thấy Thánh Thần nói với bạn và mở ra những điều bí ẩn của Kinh thánh cho tâm hồn bạn! Bây giờ hãy xem xét tác động của tất cả những điều này có thể có đối với cả ngày của bạn: sự bình an, sự hướng dẫn, niềm hy vọng, sự tự tin.

Hoặc ở một góc độ khác, hãy nghĩ về tác động mà một bữa trưa có thể kéo dài một tiếng đồng hồ với bạn bè. Trong thời gian đó, bạn chia sẻ một câu chuyện ngắn về điều gì đó bạn đã học được trong buổi cầu nguyện của mình ngày hôm trước. Hoặc có lẽ bạn đề cập đến một số phúc lành mà Thiên Chúa đã ban cho bạn. Nhưng câu chuyện nhỏ đó nằm trong trí nhớ của bạn như một hạt giống. Nó bén rễ và phát triển. Và có lẽ, theo thời gian, bạn của bạn bắt đầu cầu nguyện, trở lại tham dự Thánh lễ, hoặc hỏi bạn nhiều câu hỏi hơn. Tất cả từ một giờ ăn trưa đơn giản!

Thiên Chúa có thể tận dụng bất kỳ nỗ lực nào có kích thước bằng hạt cải mà bạn bỏ ra để nuôi dưỡng đức tin của mình và biến nó thành một thứ gì đó to lớn và đẹp đẽ đến bất ngờ. Thậm chí chỉ mười lăm phút mỗi ngày cũng có thể tạo ra sự khác biệt rất lớn!

Lạy Chúa, con cảm ơn Chúa đã hứa sẽ mang lại rất nhiều sự phát triển trong cuộc sống của con và cuộc sống của những người xung quanh con!

 

SUY NIỆM 2: SỨC MẠNH NỘI TẠI CỦA NƯỚC CHÚA

Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hai dụ ngôn: hạt cải và nắm men để nói về Nước Trời.

Cả hai dụ ngôn làm nổi bật khởi điểm khiêm tốn nhỏ bé của Nước Chúa so với sự thành toàn cuối cùng.

Dụ ngôn hạt cải nhấn mạnh sự phát triển theo chiều rộng: từ hạt cải nhỏ bé trở thành cây to, đến độ chim trời có thể đến làm tổ được.

Dụ ngôn nắm men được đem trộn vào bột nhấn mạnh đến chiều sâu, tức phẩm chất của Nước Chúa: từ một chút men có thể làm dậy cả khối bột.

Cả hai dụ ngôn đều nhấn mạnh đến sức mạnh nội tại của Nước Chúa, một sức mạnh chỉ được nhìn thấy bằng đức tin mà thôi.

Thật thế, khi kể hai dụ ngôn này, Chúa Giêsu không nhằm đến diễn tiến Nước Chúa đang xảy ra như thế nào trong lịch sử, mà chỉ nhằm nhấn mạnh đến tình trạng hoàn tất chung cuộc vào lúc cuối cùng của lịch sử: mặc cho những thử thách, những ngăn trở, Nước Chúa dù được bắt đầu một cách khiêm tốn nhỏ bé, nhưng chắc chắn sẽ đạt đến mức phát triển trọn vẹn.

Hai dụ ngôn: Hạt Cải và Nắm Men trong bột, gởi đến chúng ta một sứ điệp hy vọng, nhất là khi phải đương đầu với trở ngại, thử thách trong đời sống đức tin. Nhìn thấy những điều tiêu cực luôn xảy ra trong Giáo Hội và trên thế giới, chúng ta có thể tự hỏi:

Những hạt cải giá trị Kitô liệu còn có thể mọc lên và phát triển trong một thế giới ngày càng bị tục hóa và bị nhiễm tinh thần đối nghịch với Thiên Chúa không?

Một chút men Lời Chúa có đủ sức thu hút và biến đổi con người nên tốt hơn không?

Ðã hơn 2.000 năm kể từ khi Con Thiên Chúa nhập thể làm người và thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân loại qua cái chết trên Thập giá, nhưng thử hỏi nhân loại ngày nay có tốt đẹp hơn ngày xưa không?

Nếu suy nghĩ theo lý luận tự nhiên, chúng ta có thể dễ dàng rơi vào thất vọng. Tuy nhiên, những lời của Chúa Giêsu qua hai dụ ngôn trên đây không cho phép chúng ta bi quan ngã lòng. Chúng ta không nhìn thấy tương lai Nước Chúa sẽ như thế nào nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác vào đó, bằng sự cầu nguyện và dấn thân làm những gì có thể, với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.

Xin Chúa mở rộng con mắt đức tin chúng ta, để chúng ta nhìn thấy tác động âm thầm của tình yêu Chúa trong những biến cố hằng ngày. Xin cho chúng ta luôn kiên trì trong thử thách và luôn hy vọng vào Chúa trong mọi sự.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 3: SẼ HOÀN THÀNH

“Chúng ta đã được cứu độ, nhưng vẫn còn phải trông mong!”.

Một du khách thăm một đại giáo đường Ý vừa xây xong phần ngoài; bên trong, một nghệ sĩ đang quỳ trước một bức tường rộng lớn; trên đó, anh sẽ tạo một bức khảm mosaic với hàng ngàn mảnh gốm màu. “Làm sao anh có thể hoàn tất một công trình lớn đến thế?”. Nghệ nhân trả lời, “Tôi chỉ biết, tôi có thể hoàn thành bao nhiêu trong một ngày. Mỗi sáng, tôi đánh dấu phần sẽ hoàn tất hôm đó, và tôi không lo lắng về không gian kia. Đó là điều tốt nhất tôi có thể; và nếu tôi tận tuỵ hết mình, một ngày kia, bức khảm sẽ hoàn thành!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Không chỉ bức khảm của ngôi thánh đường ngày kia ‘sẽ hoàn thành’, Lời Chúa hôm nay cho thấy ơn cứu độ của chúng ta cũng thế! Nước Trời là một thực tại dở dang, nó chỉ hoàn thành và ‘sẽ hoàn thành’ ngày chúng ta hợp hoan với Thiên Chúa trong Nước Ngài.

Bài đọc Rô-ma tiết lộ, “Chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa”. Mỗi chúng ta chưa phải là tất cả những gì Thiên Chúa định hình cho mỗi người phải trở thành. Theo Phaolô, với Thánh Thần, Thiên Chúa đã bắt đầu công việc tốt lành của Ngài trong cuộc sống mỗi người, nhưng công việc đó chưa hoàn tất, nó ‘sẽ hoàn thành’ ở cõi đời đời. Vì thế, chúng ta đang luôn ở trên đường; bạn và tôi chưa đến đích!

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu ví Nước Trời như hạt cải người kia gieo vào vườn, hoặc như chút men phụ nữ nọ trộn vào ba đấu bột. ‘Cải chưa mọc thành cây’, ‘men chưa làm dậy bột’; tuy nhiên, công trình của Thiên Chúa đã vận hành trong thế giới và trong mỗi người. Ngài mời chúng ta cộng tác; và nếu mỗi người tiếp tục quảng đại âm thầm dấn thân cho Vương Quốc nơi chính mình và trong thế giới, nhân loại sẽ sớm cảm nghiệm được sự cứu rỗi viên mãn của Thiên Chúa và sự ngự trị của Vương Quốc Ngài vốn một ngày kia ‘sẽ hoàn thành’. Bấy giờ, nhân loại sẽ cảm nhận công trình cứu độ vĩ đại của Ngài. Thánh Vịnh đáp ca thật sâu lắng, “Việc Chúa làm cho ta ôi vĩ đại!”.

Anh Chị em

“Vẫn còn phải trông mong!”. Lời Chúa khích lệ sự kiên nhẫn, can đảm và hy vọng. Những nhân đức này đặc biệt cần thiết cho những ai cống hiến hết mình để mở rộng Vương Quốc. Với ân sủng Chúa, chúng ta chờ đợi ‘hạt giống’ mọc lên đang khi cắm rễ sâu vào đất tốt để dần dần trở thành một cây. Hạt giống ở đây trước hết, chính là Chúa Giêsu; tiếp đến, là bạn và tôi! Cần có niềm tin vào điều không trông thấy - khả năng sinh sản - chứa đựng trong nó. Hạt giống còn là Lời; là Thánh Thể chúng ta rước lấy mỗi ngày. Như Chúa Giêsu, chúng ta còn là men, nồng nàn trong thế giới. Thời gian cũng là điều cốt yếu để hạt nẩy mầm và men có thể thực hiện chức năng tối thượng của mình. Têrêxa Avila nói, “Hãy để sự tự tin và đức tin sống động nâng đỡ linh hồn; ai tin tưởng và hy vọng sẽ đạt được mọi thứ!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con thường vội, Chúa thì không. Giúp con tận tuỵ hết mình, làm tốt nhất những gì có thể của ngày hôm nay; dù bên ngoài, xem ra chúng thật nhỏ bé, tầm thường!”, Amen.

Lm Minh Anh, Tgp. Huế

THỨ TƯ:

 

THỨ NĂM:

 

THỨ SÁU: MỪNG KÍNH CÁC THÁNH NAM NỮ

SUY NIỆM 1: HÃY LÀ MỘT VỊ THÁNH!

“Đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh nhan Ngài”.

Trong chuyến thăm nước Anh, Đức Bênêđictô 16 đã nói với các bạn trẻ, “Cha hy vọng, trong số các bạn đang nghe cha đây, sẽ có một số vị thánh tương lai của thế kỷ 21. Điều Chúa muốn trên hết đối với chúng ta là phải nên thánh! Ngài yêu chúng con hơn những gì chúng con có thể tưởng tượng, Ngài muốn điều tốt nhất cho chúng con. Và điều tốt nhất là chúng con lớn lên trong sự thánh thiện!”. Bênêđictô không ngần ngại thách đố các bạn trẻ Anh và các bạn trẻ trên thế giới rằng, “Hãy là một vị thánh hơn là một người nổi tiếng!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Hãy là một vị thánh!”. Đó cũng là những gì chúng ta được thách thức nhân ngày Giáo Hội mừng kính và tôn vinh “Tất cả Các Thánh”. Các ngài đã thực hiện điều Chúa muốn; họ chọn trở nên những vị thánh hơn là trở nên những người nổi tiếng! “Đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh nhan Ngài”, Thánh Vịnh đáp ca xác quyết.

Tưởng nhớ tất cả những tâm hồn thánh thiện gồm đàn ông, phụ nữ, trẻ em, các vị tử đạo, những ai tuyên xưng đức tin và những con người vô danh khác đã được rửa tội hoặc chưa được rửa tội; trong đó, có cả ông bà, cha mẹ của bạn và tôi, những con người lành thánh. Bài đọc Khải Huyền tiên báo, “Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân… mọi ngôn ngữ”. Điều phân biệt là họ đã mở lòng ra với ân sủng Chúa một cách sâu sắc, trở nên mạnh mẽ trong Ngài. Theo những cách thức khác nhau, họ có một điểm chung, “giặt áo mình trong Máu Con Chiên”; tức là phản ánh một nhân đức nào đó về chân dung người môn đệ mà Chúa Giêsu đã phác hoạ qua từng mối phúc trong bài Tin Mừng.

Và nếu các mối phúc Chúa Giêsu nói đến, về căn bản, là một chân dung hoàn hảo của chính Ngài, thì từng mối phúc sẽ là chân dung của từng vị thánh; mỗi vị mỗi vẻ đã góp phần làm nên cộng đồng thiên triều. Đó là cộng đồng các thánh, những con người đã không để mình ‘rơi vào tinh thần thế tục của thời đại’ nhưng ‘vượt lên thời đại’; một số, thậm chí đã ‘thay đổi thời đại!’. Họ không bị văng ra ngoài bởi vòng xoáy của những sai trái; ngược lại, giữa sai trái, họ cuốn hút bao người tiếp cận, tin yêu Đấng họ phụng thờ.

Các thánh còn là những con người đang cầu thay nguyện giúp cho bạn và tôi. Họ nói với chúng ta rằng, sự thánh thiện có thể có ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào; họ cầu cho chúng ta được nên giống Chúa, nên con cái Ngài ngày một hơn. Bài đọc thứ hai cho biết, trong cuộc sống mai ngày, chúng ta sẽ nên giống Chúa; cùng lúc tuyên bố rằng, ‘lúc này và ở đây’, chúng ta đã là con cái Ngài, chia sẻ sự sống thần linh của Ngài nhờ phép Thánh Tẩy đã nhận lãnh. Phải, phép Rửa là nền tảng của sự thánh thiện cho mỗi chúng ta!

Anh Chị em,

“Đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh nhan Ngài”. Cảm tạ Chúa vì đã ban cho Giáo Hội vô vàn tâm hồn thánh khiết. Thiên đàng đang chờ đợi bạn và tôi! Đó cũng là giấc mơ của Thiên Chúa. Điều tốt nhất chúng ta cố đạt cho được ở đời này không phải là giàu có, nổi tiếng, nhưng là nên thánh. Phép Rửa mời gọi bạn và tôi nên thánh, ân sủng giúp chúng ta sống thánh bằng các lối hẹp Tin Mừng. Công việc của chúng ta là cộng tác với ân sủng để nên thánh, không chỉ mai ngày, nhưng ngay hôm nay, trong bậc sống mình.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, với ơn Chúa, con sẽ không để mình ‘rơi vào tinh thần thế tục của thời đại’, nhưng ‘vượt lên thời đại’; và con sẽ ‘thay đổi thời đại’. Tại sao không?”, Amen.

Lm Minh Anh, Tgp. Huế

SUY NIỆM 2: NGÀY HỘI VUI

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay, ngày hội lớn, ngày vui mừng hân hoan của tất cả mọi thành phần con cái trong đại gia đình Giáo hội mừng kính trọng thể Các Thánh Nam Nữ ở trên Trời, những người đang sống sự sống của Thiên Chúa, những vị đang hưởng phúc vinh quang tràn đầy trước tòa cao sang của Chúa Ba Ngôi trên thiên đàng.

Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa từ lời kinh, tiếng hát, đến các bài đọc, thánh ca vang lên thánh thót, lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh.

Lời Ca Nhập Lễ đã khơi lên một niềm vui hân hoan bằng những lời hiệu triệu : “Tất cả chúng ta hãy vui mừng trong Chúa khi cử hành ngày lễ các Thánh Nam Nữ”.

Quả thật, gia đình Hội Thánh hôm nay tràn ngập hân hoan vui mừng : Hội thánh lữ hành tại thế hân hoan ngưỡng vọng về trời cao để dõi mắt chiêm ngưỡng những anh chị em kitô hữu đã hoàn thành cuộc chiến đấu và chiến thắng vinh quang.

Các linh hồn trong luyện ngục hân hoan trong niềm hy vọng mãnh liệt sẽ được đoàn tụ cùng các Thánh trên quê trời.

Các Thánh Nam Nữ trên thiên đàng hân hoan vui sướng vì đang được chiêm ngưỡng vinh quang rạng người của Ba Ngôi Thiên Chúa như Kinh Tiền Tụng trong Thánh lễ hôm nay xác quyết : “Hôm nay, nơi thành trì của Thiên Chúa, nơi Giêrusalem trên trời, có đông đảo anh em chúng ta ca tụng Chúa muôn đời”.

Có người cho rằng sự thánh thiện chỉ ưu tiên một số người có chuyên chăm cầu nguyện, là giáo hoàng, Hồng Y, giám mục, linh mục hay tu sĩ nam nữ, hay những người đã sống và thực thi trọn vẹn Điều răn mến Chúa yêu người, những người đã đạt tới đỉnh cao các nhân đức, hoặc là đã trung thành đến chết vì niềm tin, vì tình yêu dâng hiến; hay là những con người xuất chúng và có thể làm những việc lạ lùng.

Thánh Gioan nhìn thấy: “Số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel” (Kh 7, 4). Tuy nhiên, nếu con số chỉ có thế thôi thì quả là một điều đáng lo sợ, vì người tín hữu như ta, phàm phu tục tử, suốt ngày chật vật với miếng cơm manh áo, thường xuyên đối diện với những nhỏ nhen đời thường…chắc đành “bó tay” trước lời Thiên Chúa mời gọi : “Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh” (Lv 11,44), đâu có hy vọng được vào số những người đó.

Điều làm cho chúng ta vui mừng và phấn khởi trong ngày lễ hôm nay, là Các Thánh là những người trong nhân loại chúng ta, có thể có những người thân của chúng ta, khi còn sống, họ đã trải qua biết bao nhiêu đau khổ và thăng trầm, nhưng cuối cùng đã được thanh tẩy mình trong máu Con Chiên là Chúa Giêsu, họ đã trở nên tinh tuyền, sạch đẹp và đang hưởng hạnh phúc với Chúa.

Các Thánh không phải các các tiên nữ, hay thiên tử từ Trời mà đến. Không, họ là những con người hoàn toàn như chúng ta là người, thuộc đủ mọi thành phần và mọi tầng lớp trong xã hội kể từ Đức Mẹ, Thánh Giuse, Các Thánh Tổ Tông, Các Thánh Tiên Tri, Các Thánh Tông Đồ, Các Thánh Từ Đạo, Các Thánh Mục Tử, Các Thánh Hiển Tu, Ẩn Tu, Các Thánh Đồng Trinh Thủ Tiết, Các Thánh Nam Nữ, Các Thánh Anh Hài. v.v…

Có những vị rõ ràng là thánh, những vị được tôn phong hiển thánh, những vị có tên trong kinh cầu các thánh với đỉnh cao sáng rực. Nhưng cũng nhớ và kính mừng những vị thánh chìm sâu trong lòng đất, trong xác thịt mồ hôi nước mắt của kiếp người, giờ đây trên thiên quốc vui mừng hân hoan tận hưởng phần thưởng trọng đại Chúa dành cho. Há chẳng phải là niềm vui lớn lao và hy vọng của tất cả chúng ta đang sống phận lữ hành tiến về quê trời vinh phúc hay sao?

Vui, vì ai trong chúng ta, dù yếu đuối hay tội lỗi, đều có thể nên trọn lành như lời Chúa Giêsu mời gọi: “Các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Ðấng trọn lành” (Mt 5, 48).

Hôm nay Các Thánh Nam Nữ thúc giục chúng ta: hãy cố làm thánh! Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo không ngừng mời gọi chúng ta nên Thánh: “Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh” (Lv 11,44). Thánh Phêrô lặp lại ý muốn của Chúa với chúng ta: “Bởi chưng đã viết rằng: Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh” (1Pr 1, 16).

Chúa Giêsu đã vạch ra cho chúng ta con đường nên Thánh bằng Tám Mối Phúc: Phúc cho những ai nghèo khó trong tinh thần, phúc cho những ai đau khổ, phúc cho những ai hiền lành, phúc cho những ai đói khát sự công chính, phúc cho những kẻ có lòng nhân từ, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai xây dựng hoà bình, phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính (x. Mt 5, 3-10).

Một mối phúc đặc biệt linh hứng sự chọn lựa đoạn này: “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng” (Mt 5,10).

Đức Giáo Hoàng Phanxicô khuyên chúng ta: Đừng sợ nên thánh. Để nên thánh không cần phải là một giám mục, linh mục hay tu sĩ. Chúng ta thường bị cám dỗ để nghĩ rằng sự thánh thiện chỉ dành cho một số người. Không phải thế. Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh bằng cách sống đời mình với tình yêu và bằng cách làm chứng trong mọi việc mình làm, ở bất cứ nơi nào mình sống.

Bạn được mời gọi sống đời thánh hiến ư? Hãy nên thánh bằng cách sống sự dấn thấn ấy cách thật vui tươi.

Bạn đã kết hôn ư? Hãy nên thánh bằng cách yêu thương và chăm sóc cho chồng hay vợ mình, như Đức Kitô chăm sóc cho Hội thánh.

Bạn phải làm việc để kiếm sống ư? Hãy nên thánh bằng cách làm việc thật tận tụy và chu đáo để phục vụ anh chị em mình.

Bạn là cha mẹ hoặc ông bà ư? Hãy nên thánh bằng cách kiên nhẫn dạy dỗ con cháu biết theo Chúa Giêsu.

Bạn đang ở một địa vị có quyền lực ư? Hãy nên thánh bằng cách quên lợi riêng để phục vụ ích chung. (x. Bài Giáo Lý, Triều Yết Chung ngày 19 tháng 11, 2014).

Các Thánh Nam Nữ của Chúa, cầu cho chúng con. Amen.

 

* THỨ SÁU THƯỜNG NIÊN: NỖI ĐAU THÁNH

“Lòng tôi rất đỗi ưu phiền, và đau khổ mãi không ngơi!”.

Về hưu, cựu Tổng thống Thomas Jefferson lập Đại học Virginia; ông tin rằng, sinh viên sẽ học hành nghiêm túc. Nào ngờ, một cuộc bạo động dẫn đến đổ máu xảy ra; các giáo sư bị tấn công! Hôm sau, một cuộc họp được tổ chức, Jefferson có mặt; có cả các sinh viên nổi loạn. Jefferson nói, “Đây là một sự kiện đau đớn nhất trong đời tôi!”, và ông bật khóc! Giám thị yêu cầu những kẻ bạo động tiến lên; tất cả nhận lỗi. Sau đó, một trong các sinh viên ấy nói, “Không phải do lời của Jefferson, nhưng là nước mắt của ông ta!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Jefferson đau đớn! Lời Chúa hôm nay cho thấy một nỗi đau còn lớn hơn. Đó là nỗi đau của Phaolô, một ‘nỗi đau thánh!’. Trước sự cứng lòng của những người anh em Do Thái giáo đương thời, những người nhất mực từ chối sứ điệp Phaolô mang đến, Phaolô thở than, “Lòng tôi rất đỗi ưu phiền, và đau khổ mãi không ngơi!”.

Một lý do khiến Phaolô vô cùng đau đớn, là việc những người anh em này từ chối Chúa Giêsu; ở một số nơi, họ mạnh mẽ chống lại các Kitô hữu, những người mà họ gọi là ‘phản bội’ hoặc ‘dị giáo’. Phaolô nhấn mạnh, đây không phải là một lời than phiền bình thường, nhưng là một nỗi đau thực sự đến nỗi ngài sẵn sàng tách khỏi Chúa Kitô theo nghĩa đen, nếu điều này có lợi cho đồng bào mình. Phaolô tự nguyện là tù nhân, bị nguyền rủa, loại trừ để anh em ngài nhận biết Chúa Kitô. Đây quả là một ‘nỗi đau thánh!’.

Tin Mừng hôm nay cho thấy một trải nghiệm tương tự nơi Chúa Giêsu. Một thủ lãnh biệt phái mời Ngài dùng bữa, họ dò xét Ngài. Một người phù thũng xuất hiện; đây có thể là một sắp đặt! Và dẫu đó là sự thật, Chúa Giêsu vẫn quyết đoán làm những gì phải làm để tỏ bày lòng thương xót của Ngài, không chỉ với người bệnh nhưng với cả những ai đang rắp tâm hại Ngài. Ngài hỏi, “Có được phép chữa bệnh ngày Sabbat không?”. “Họ làm thinh!”. Chính sự làm thinh tố cáo ác tâm của họ. Và Ngài “đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về”. Họ tiếp tục làm thinh, để lại cho Ngài một ‘nỗi đau thánh!’.

Trong một thế giới từ chối Thiên Chúa, tâm hồn các môn đệ Chúa Giêsu phải là nơi chịu giày vò bởi những nỗi đau. Thế giới với lý do này, lý do khác, từ chối Ngài và sứ điệp của Ngài; Giáo Hội cũng đang đối mặt với bao thách đố. Vấn đề chuyển giới, trợ tử, phá thai, đồng tính, di dân và nạn buôn người… tất cả đang thực sự nhức nhối. Thế nhưng, lập trường của Giáo Hội thật dứt khoát, phẩm giá và sự sống con người có giá trị vô song; và việc nâng con người lên, chữa lành nó, phải là ưu tiên hàng đầu!

Anh Chị em

“Lòng tôi rất đỗi ưu phiền, và đau khổ mãi không ngơi!”. Trước những sự kiện đau lòng của thế giới và của Giáo Hội, liệu bạn và tôi có một cảm thức xót xa nào không? Cụ thể, trước sự cứng cỏi của những con người chúng ta yêu thương, khi họ từ chối niềm tin hay đang đắm chìm trong một nghiện ngập, một tội lỗi nào đó; thiết thực hơn, những người bỏ nhà thờ, bỏ đạo, chúng ta có nhức nhối không? Và quan trọng hơn, bạn và tôi đã làm gì? Chúng ta có cầu nguyện, hy sinh, thăm viếng, khuyên nhủ và cụ thể, có ra sức nêu gương sáng để làm những gì có thể hầu đưa những anh chị em đó trở về?

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, trước những ‘thương tật’ của anh chị em con, giúp con cảm nhận một sự giày vò bên trong, hầu một ngày kia, con không phát hiện mình bị ‘thiểu năng!’”, Amen.

 

THỨ BẢY: LỄ CÁC ĐẲNG

SUY NIỆM 1: THIÊN ĐÀNG-LUYỆN NGỤC-HỎA NGỤC

Giáo Hội gồm ba thành phần, một số còn lữ hành trên trần gian; một số khác, đã rời bỏ đời này, hiện đang được thanh luyện, và một số khác nữa, đã được hưởng vinh quang Thiên Chúa. Tất cả cùng nhau làm thành một gia đình duy nhất trong Đức Kitô, là Hội thánh, để ca ngợi và tôn vinh Chúa Ba Ngôi.

Đối với niềm tin vào Thiên Đàng-Luyện Ngục và Hỏa Ngục, người ta thường có ba thái độ:

Cứng lòng tin: Chẳng có Thiên Đàng, cũng chẳng có Luyện Ngục hay Hỏa Ngục như Giáo Hội Công Giáo dạy! Có chăng là có Thiên Đàng nơi trần thế này mà thôi! Chết là hết, là kết thúc, xuôi tay nhắm mắt xong là hết đau khổ, hết lo lắng và hết… nợ đời!

Chính vì không tin vào thực tại của Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục ở đời sau, cho nên họ như những con thiêu thân chỉ biết lao đầu vào ăn chơi, hưởng thụ, trác táng, hút sách, phạm pháp, làm những việc vô luân thường đạo lý… Và cuối cùng khi chán ngán cuộc đời này, khi họ chán sống rồi thì… tự tử. Chấm hết!

Tin vào Chúa nhưng tin một cách lệch lạc: Tin vào Thiên Chúa và chỉ tin có Thiên Đàng mà thôi! Luyện Ngục và Hỏa Ngục không thể có được bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4:16), Ngài không bao giờ dựng nên những thứ khủng khiếp ấy để trừng phạt hay hành hạ con cái của Ngài. Luyện Ngục và Hoả Ngục là những thứ mà Giáo Hội dựng nên để hù dọa người ta mà thôi! Vì không tin có Luyện Ngục và Hoả Ngục cho nên họ chẳng quan tâm gì đến việc đọc kinh xin lễ, và làm việc hy sinh, hãm mình… để cầu nguyện cho những người đã qua đời. “Tất cả những ai tin vào danh Đức Giê-su và chịu phép Rửa Tội thì chắc chắn được cứu rỗi, vậy cầu nguyện, đọc kinh, tham dự Thánh Lễ, hy sinh cho người quá cố để làm gì? Vô ích! Tốn thời giờ” Họ dùng Thánh Kinh để lý luận như vậy!

Tin nhưng lờ mờ: Những người thuộc nhóm này thì tin vào những lời giáo huấn của Giáo Hội về sự sống đời sau, tin chắc chắn có Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục, nhưng chẳng bao giờ họ hiểu rõ và hiểu đúng về thực trạng của Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục cả. Họ cũng chẳng hiểu Giáo Hội Công Giáo gồm có BA THÀNH PHẦN và sự liên đới chặt chẽ, và mối liên quan mật thiết giữa ba thành phần này trong Giáo Hội. Còn bạn? Bạn thuộc nhóm nào vậy? Tôi hy vọng là bạn không thuộc vào nhóm thứ nhất và thứ hai! Nếu bạn thuộc vào một trong hai nhóm này thì… Amen! Chỉ có Chúa Thánh Thần mới giúp bạn được thôi!

Còn nếu bạn thuộc vào nhóm thứ ba thì trong ngày lễ Các Thánh và lễ Các Linh Hồn hôm nay, mời bạn hãy cùng với tôi học hỏi và tìm hiểu sâu hơn về thực trạng của Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục, về BA THÀNH PHẦN của Giáo Hội và sự liên đới chặt chẽ, và mối liên quan mật thiết giữa ba thành phần này.

Rất nhiều người, trong đó có tôi, và không chừng có cả bạn nữa, đã từng nghĩ hay vẫn còn đang nghĩ Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục là những nơi chốn (places):

Thiên Đàng là một nơi trên trời cao, ở đó không có đau khổ, không có nước mắt mà chỉ có vui vẻ, hạnh phúc, hoan lạc, bình an và yêu thương. Ở trên Thiên Đàng các Thánh và các Thiên Thần suốt ngày suốt đêm chỉ ca hát, tán tụng và ngợi khen Thiên Chúa…

Luyện Ngục là một trại chuyển tiếp, một nơi tạm giam, nơi đây người ta phải chịu nóng nảy, chịu đau khổ, có cả cực hình nữa để chờ hễ mãn hạn thì được chuyển lên Thiên Đàng.

Hỏa Ngục là một nơi sâu thẳm trong lòng đất, ở đó là nơi giam giữ đời đời những kẻ ác, những người không có passport vào Thiên Đàng hay Luyện Ngục. Nơi đây xăng dầu vừa nhiều, vừa rẻ, cho nên Sa-Tan và ma quỷ tha hồ dùng để thiêu đốt và trừng phạt những thường trú nhân ở trong vương quốc của chúng.

Nếu bạn đã từng nghĩ như tôi hoặc vẫn còn đang nghĩ Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục là những nơi chốn thì sai rồi! Bạn cứ mở cuốn Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo do Đức Giáo Hoàng Benedictô soạn thảo thì sẽ thấy quan niệm về NƠI CHỐN của Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục như là những NƠI CHỐN là sai!

Thiên đàng là tình trạng hạnh phúc tối thượng và vĩnh viễn. Ai chết trong ân sủng của Thiên Chúa và ai không cần bất cứ sự thanh luyện cuối cùng nào, sẽ được qui tụ quanh Chúa Giêsu và Đức Maria, các thiên thần và các thánh… được chiêm ngắm Thiên Chúa “mặt giáp mặt” ( 1 Cr 13,12)… sống trong sự hiệp thông tình yêu với Chúa Ba Ngôi và chuyển cầu cho chúng ta (Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo # 209).

Luyện ngục là tình trạng của những người chết trong tình thân với Thiên Chúa, nhưng, dù đã được đảm bảo ơn cứu độ vĩnh cửu, họ còn cần thanh luyện trước khi được hưởng hạnh phúc thiên đàng (Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo # 210).

Hoả ngục là [tình trạng] xa cách đời đời khỏi Thiên Chúa.… Đức Kitô diễn tả thực tại hoả ngục bằng những lời này: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời” (Mt 25:41) (Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo # 212).

Hy vọng bạn sẽ không bao giờ nghĩ rằng Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục như là những NƠI CHỐN nữa!

Bây giờ chúng mình tiếp tục tìm hiểu về mối liên hệ chặt chẽ giữa các thành phần trong Giáo Hội nhé! Nói về BA THÀNH PHẦN trong Giáo Hội: Giáo Hội Chiến Thắng, Giáo Hội Ðền Bù và Giáo Hội Lữ Hành, sách Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo # 195 dạy rằng: Một số còn lữ hành trên trần gian; một số khác, đã rời bỏ đời này, hiện đang được thanh luyện, và cũng được trợ giúp bằng lời cầu nguyện của chúng ta; sau hết, một số khác nữa, đã được hưởng vinh quang Thiên Chúa và đang chuyển cầu cho chúng ta. Tất cả cùng nhau làm thành một gia đình duy nhất trong Đức Kitô, là Hội thánh, để ca ngợi và tôn vinh Chúa Ba Ngôi.

Bạn thấy mối quan hệ rất chặt chẽ và tình liên đới mật thiết giữa chúng mình với các linh hồn nơi Luyện Ngục và với các Thánh ở trên Thiên Đàng chưa? Các linh hồn thuộc Giáo Hội Đền Bù hoàn tất giai đoạn thanh luyện chậm hay mau là nhờ vào sự cầu nguyện, hy sinh, hãm mình, thánh lễ, Kinh Mân Côi… của những người thuộc về Giáo Hội Lữ Hành, tức là chúng mình, những người còn sống ở trần gian. Sau khi hoàn thành quá trình thanh luyện, các linh hồn được vào Thiên Đàng, lúc này các Ngài thuộc Giáo Hội Chiến Thắng sẽ cầu bầu, giúp đỡ cũng như chuyển cầu cùng Chúa cho chúng ta.

Nếu hôm nay bạn đã hiểu đúng về Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục và nhận ra mối liên hệ chặt chẽ và mật thiết giữa ba thành phần trong Giáo Hội thì tôi đề nghị với bạn hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục, bằng cách dâng lời cầu khẩn, đặc biệt là Thánh lễ, và cả những việc bố thí, ân xá và những việc hãm mình để cầu cho họ (Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo # 211).

Bạn có muốn con cháu, bạn bè, thân thuộc và tha nhân làm những việc như hy sinh, xin lễ, đọc kinh, lần hạt Mân Côi, Viếng Thánh Thể, cầu nguyện… cho bạn sau khi bạn nhắm mắt từ giã cõi đời này và nhất là khi bạn bị kẹt ở trong trại chuyển tiếp PURGATORY không? Nếu muốn thì tôi mạn phép đề nghị với bạn những công việc nhỏ bé sau:

Xin lễ, tham dự Thánh Lễ, xưng tội, rước Lễ, lần hạt Mân Côi, Chầu Thánh Thể… để cầu nguyện cho các linh hồn đã ra đi trước chúng ta… Hy sinh, hãm mình, không mua những đồ xa xỉ phẩm, một gói thuốc lá, một chai rượu, một két bia, một bữa ăn ở nhà hàng… để dành tiền giúp cho các cơ quan từ thiện, trại cùi, các trẻ em khuyết tật... Hy sinh không cãi lại cha mẹ, không nóng giận và kiên nhẫn với những người chung quanh. Chăm sóc, quan tâm đến ông bà, cha mẹ hoặc đi thăm viếng người già, những người đau yếu, tật nguyền, kém may mắn...

“Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6, 31). Hy sinh, xin lễ, đọc kinh, lần hạt Mân Côi, Viếng Thánh Thể, cầu nguyện… cho các linh hồn là chúng mình đang làm cho chính chúng ta đấy!

Truyện: Bám Cọng Hành Mà Lên Trời

Một người phụ nữ người ta đặt tên là Bà Chằng, vì rất hợp với bản tính khó nết, ích kỷ của bà. Lúc bà vừa tắt thở, quỷ lôi bà đi ngay, vì nó biết bà này không ai ưa, thì chắc chắn phải xuống Hỏa Ngục không cần đợi Chúa xét xử!

Thiên thần bản mạnh của bà giằng co với quỷ và kêu nài với Chúa:

- Xin Chúa xét xử cho bà này theo lòng thương xót của Ngài. Không thể để quỷ lôi bà đi ngay được!

- Con hãy mở sổ Nhật Ký xem bà có làm một điều gì tốt cho ai không? Thiên Chúa nói với thiên thần.

Thiên thần mau mắn lật từng trang Nhật Ký về đời sống Bà Chằng, lật cả mấy ngàn trang rồi mà chẳng thấy có việc tốt nào cả… À, may quá, thiên thần reo lên và thưa với Chúa:

- Lạy Chúa, có một lần bà này đã cho người lối xóm một cọng hành ạ!

- Thế thì con hãy dùng cọng hành đó mà kéo bà lên! Chúa bảo thiên thần.

Thiên thần mau mắn làm ngay. Bà Chằng bám vào cọng hành và được thiên thần nín thở kéo lên. Thấy vậy nhiều người dưới Hỏa Ngục vội bám lấy bà mong được “ăn theo”, Bà Chằng nổi sùng giãy đạp, chửi thề …! Làm cọng hành đứt phựt, thế là cả chùm người rơi xuống Hỏa Ngục!!

Hãy nhớ lời Thánh Kinh dạy:

“Đức ái phủ lấp muôn vàn tội lỗi!” (1 Pr 4, 8). Vì “ai có lòng nhân ái thì được thắng án, án xử chỉ tàn nhẫn cho kẻ bất nhân!” (Gc 2,13).


SUY NIỆM 2: CHẾT LÀ TẾT CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ HẾT !

Lm. Nguyễn Xuân Trường

Người ta thường nói chết là hết ! Nhưng Lễ Cầu Hồn của người Công Giáo lại cho thấy điều ngược lại: chết là TẾT chứ không phải là hết.

Tết để người ta về nhà thì chết cũng đưa người ta về Nhà Cha trên trời.

Tết đem mùa xuân cây cối đâm chồi nảy lộc mới thì chết cũng đem người ta vào sự sống mới đời đời với Chúa.

Tết đem niềm vui đoàn viên thì chết cũng đưa người ta về đoàn viên với tổ tiên ông bà cha mẹ.

Tết đem niềm vui hạnh phúc đón xuân thì chết cũng đưa người ta vào hưởng hạnh phúc thiên đàng đời đời.

Chúa Giêsu đã khẳng định: “Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù có chết cũng sẽ được sống”. Đồng thời, người Công Giáo cũng luôn tuyên xưng lời kinh: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy.” Amen.

 

SUY NIỆM 3: CUỘC THANH TẨY CUỐI CÙNG

Lm Minh Anh, Tgp. Huế

“Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa”.

Trên một bia mộ, người ta đọc, “Chỗ bạn đang đứng, chỗ tôi đã đứng. Nơi tôi đang nằm, nơi bạn sẽ nằm!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Nơi tôi đang nằm, nơi bạn sẽ nằm!”. Lời Chúa ngày lễ Các Đẳng Linh Hồn đưa chúng ta về “Luyện ngục”, một khái niệm thường bị hiểu lầm. Luyện ngục là gì? Nơi chúng ta chịu trừng phạt vì tội lỗi? Cách Thiên Chúa hỏi tội các sai phạm của mỗi người? Đó là kết quả cơn giận của Ngài? Không! Luyện ngục không gì khác hơn là tình yêu cháy bỏng và là ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ Thiên Chúa dành cho những người Chúa chọn. Sách Khôn Ngoan nói, “Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa”.

Khi ai đó chết, rất có thể họ không được hoán cải 100% để hoàn hảo về mọi mặt. Các thánh vĩ đại nhất cũng có khiếm khuyết trong cuộc sống. Luyện ngục không gì khác hơn là ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ tất cả vấn vương còn lại với tội lỗi. Hãy tưởng tượng, bạn có một cốc nước tinh khiết 100%. Cốc này tượng trưng cho thiên đàng. Bạn muốn thêm vào cốc đó một ít nước chỉ tinh khiết 99%. Nước không tinh khiết 1% này đại diện cho những người lành thánh đã chết với một số chấp trước nhẹ đối với tội lỗi. Nếu thêm nước đó vào cốc, cốc sẽ có một số tạp chất, ít nữa 1%. Vấn đề là thiên đàng không chứa bất kỳ tạp chất nào, dù là nhỏ nhất. Vì thế, 1% đó vẫn cần được lọc sạch.

Làm thế nào điều này xảy ra? Chúng ta không biết. Chúng ta chỉ biết nó có. Nhưng cần hiểu rằng, đó là kết quả của tình yêu vô hạn nơi Thiên Chúa những muốn thanh tẩy chúng ta khỏi mọi ràng buộc, vướng bận. Có đau không? Rất có thể! Nhưng đau theo nghĩa buông bỏ. Và kết quả cuối cùng là tự do thực sự, đáng giá cho bất kỳ nỗi đau nào có thể trải qua. Vì thế, luyện ngục là đau đớn, nhưng là ‘nỗi đau ngọt ngào’ cần có từ ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ để kết hiệp với Chúa trọn vẹn hơn. Chúa Giêsu nói, “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi”; đó là những con người với những chiếc áo trắng tinh tuyền, và những trái tim cũng tuyệt đối tinh tuyền!

Tưởng nhớ các linh hồn, chúng ta sống mầu nhiệm Các Thánh Thông Công. Các linh hồn trải qua cuộc thanh luyện này vẫn hiệp thông với Chúa, với Giáo Hội dưới thế và Giáo Hội thiên quốc. Chúa sử dụng lời cầu của chúng ta dành cho các linh hồn, cũng như việc các linh hồn cầu bầu cho chúng ta như những công cụ thanh tẩy của Ngài; Ngài cho phép và mời chúng ta tham gia vào ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ của họ. Điều này tạo nên một mối liên đới chặt chẽ của chúng ta với các linh hồn.

Anh Chị em,

“Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa”. Như vàng trong lửa, một ngày kia, tất cả chúng ta rồi cũng được thanh luyện như các linh hồn. Và không nghi ngờ gì nữa, các thánh trên trời, đặc biệt dâng lời cầu nguyện cho họ trong thời gian thanh luyện này. Đó là một sự thật đáng hoan hỷ và là một niềm vui lớn lao khi chúng ta thấy cách thức Thiên Chúa sắp xếp toàn bộ quá trình này cho mục đích cuối cùng của sự hiệp thông thánh thiện mà chúng ta được kêu gọi! Như vậy, ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ rõ ràng là cần thiết, nó là sáng kiến từ tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, giúp con ‘tập chết’ trước khi chết thật, may ra ‘nỗi đau ngọt ngào’ sau cùng sẽ chóng vánh hơn! Đó là những hy sinh con dành cho các linh hồn!”, Amen. 

 

* THỨ BẢY THƯỜNG NIÊN: CHỖ THẤP NHẤT

“Xin ông nhường chỗ cho người này!”

“Khiêm nhường không có nghĩa là nghĩ về bản thân kém hơn người khác; là đánh giá thấp về những quà tặng riêng của mình. Khiêm nhường có nghĩa là tự do không nghĩ về bản thân cách này, cách khác. Ai khiêm nhường, người ấy tự do!” - William Temple.

Kính thưa Anh Chị em,

“Ai khiêm nhường, người ấy tự do!”, một cách tài tình, Chúa Giêsu và Phaolô sẽ khai triển câu nói của William Temple trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Từ đó, chúng ta có thể rút ra những bài học bổ ích khi biết chọn cho mình.

Được mời dùng bữa, Chúa Giêsu thấy nhiều người chọn những cỗ nhất, Ngài nói cho họ rằng, chúng ‘rất chông chênh’; bởi lẽ, chủ nhà có thể mời họ xuống cỗ dưới! Tuy nhiên, một người khiêm nhượng thực sự sẽ không cảm thấy xấu hổ khi nghe những lời này, thay vào đó, người ấy sẽ vui vẻ hồn nhiên nhường chỗ cho người khác; vinh dự thế gian chẳng nghĩa lý gì đối với họ. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu không nói với người khiêm nhượng, Ngài nói với những con người đang giành giật bằng được vinh dự phù hoa. Điều này, cách nào đó, cho thấy bên trong họ, đang rất bất an và thiếu tự trọng.

Thú vị ở đây là các biệt phái, những người đang cố chiếm những cỗ bàn ‘tròng trành’ đó. Chúa Giêsu tiết lộ cho họ một sự thật rằng, niềm vui và hạnh phúc thực sự chỉ được tìm thấy nơi những ai biết hạ mình và biết đề cao người khác. Xu hướng phổ biến của các biệt phái phát xuất từ việc cá nhân họ bất an và nặng sĩ diện. Trẻ em luôn cảm thấy tự do và an toàn vì không cần giữ sĩ diện! Yêu bản thân theo cách Thiên Chúa yêu chúng ta, bạn và tôi có thể hoàn toàn bình an; chúng ta trân trọng phẩm giá tha nhân, thậm chí vui mừng vì sự thành công của họ.

Cũng một chủ đề, qua thư Rôma hôm nay, Phaolô xác định “Chúa không ruồng rẫy dân Người!” như Thánh Vịnh đáp ca xác tín, dẫu xem ra thoạt đầu, Ngài quay sang ủng hộ dân ngoại. Bằng chứng là chính Phaolô, một người Do Thái thuần huyết đã nghe và khiêm tốn đáp lại ơn cứu độ. Sự không tin của người Do Thái chỉ là bước đầu Thiên Chúa cho xảy ra với mục đích khiến họ “ghen tị” với người ngoại mà ăn năn; vì làm sao Ngài có thể bỏ họ! Từ đó, những người Do Thái biết thống hối trở về, khiêm tốn đón nhận Chúa Kitô, họ sẽ được lại tự do của con cái Chúa!

Anh Chị em,

“Xin ông nhường chỗ cho người này!” Chúa Giêsu không muốn ai trong chúng ta phải nghe những lời bất tiện này; Ngài muốn ngay từ đầu, chúng ta nhường ‘chỗ tốt’ cho người khác. Noi gương Ngài, chúng ta chiếm ‘chỗ thấp nhất’, tự do, an toàn; chỗ phục vụ, hạ mình, yêu thương! Trong thư Philipphê, Phaolô viết, “Phận là phận của một vì Thiên Chúa, Ngài đã trút bỏ hết mọi vinh quang”, chọn ‘chỗ thấp nhất’ trên thập giá; và “Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài!” Cũng thế, với bạn và tôi, khiêm tốn, đơn giản là chúng ta nhìn thấy chính mình dưới ánh sáng theo cách Thiên Chúa nhìn mình; không cần sự khen ngợi quý trọng của thế gian; chỉ cần tình yêu Ngài dành cho chúng ta là đủ.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con chạy đôn chạy đáo vì những bã vinh hoa trần thế; để được tự do, bình an và sự tự trọng, cho con biết chọn ‘chỗ thấp nhất!” Amen.


SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXIX THƯỜNG NIÊN

Lm. Minh Anh, Tgp Huế

CHÚA NHẬT XXX TN-B

“KÌA, NGÀI GỌI ANH!”

“Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”.

“Hãy tự giúp mình, rồi trời sẽ giúp!”, “Aide-toi, le ciel t’aidera!” - Ngạn ngữ Pháp.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay kể chuyện một thanh niên, tuy mù loà, nhưng đức tin của anh thật ngời sáng. Anh đã tự giúp mình; và sau đó, không chỉ trời giúp anh, mà người cũng sẽ giúp anh. Họ nói với anh, “Kìa, Ngài gọi anh!”.

Bartimê, một người ăn xin, đủ sắc sảo để biết rằng, anh không nên gây ồn ào cho những ‘khách hàng’ của mình; tuy nhiên, khi Chúa Giêsu đi qua, anh không thể im lặng. Cả khi bị ‘khách hàng’ quở mắng, anh vẫn la lên, “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. Với niềm tin mạnh mẽ, Bartimê tin rằng, ông Giêsu ấy có thể thay đổi số phận của anh. Vì vậy, không ai và không gì có thể cản ngăn việc anh gặp Ngài. Người ta càng ngăn cản anh, anh càng kêu lớn. “Đó là tiếng nói của một trái tim nhân loại đang kêu lên; và tất cả chúng ta đều có tiếng nói này tự bên trong. Một tiếng nói phát ra tự nhiên mà không cần ai tác động, một tiếng nói tự hỏi về ý nghĩa hành trình của mỗi người trên trái đất này, nhất là khi chúng ta thấy mình đang ở trong bóng tối, “Lạy Chúa, xin thương xót con!”. Đây quả là một lời cầu nguyện đẹp nhất!” - Phanxicô.

Nhiều lần, chúng ta phàn nàn - tôi không biết cầu nguyện thế nào? Hãy học anh mù! Anh liên tục kêu van Chúa Giêsu và bày tỏ tất cả những gì anh ta cần chỉ trong một vài từ. Nếu bạn thiếu đức tin, hãy nói, “Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho con!”. Nếu những thành viên trong gia đình hay các thân hữu của bạn đã ngừng thực hành đức tin Công Giáo, hãy cầu nguyện cho họ, “Lạy Chúa, xin giúp họ nhìn thấy!”. Đức tin có thực sự quan trọng đến thế không? So với thị giác thể chất, thị giác thiêng liêng - đức tin - quan trọng hơn bội phần! Trong khi tình trạng của người mù thật đáng thương, thì hoàn cảnh của một người không tin còn đáng thương hơn! Hãy nói với họ, “Kìa, Ngài gọi anh! Bạn hãy trình bày nhu cầu của bạn, và Chúa Giêsu sẽ đáp ứng bạn một cách hào phóng!”.

Israel - dân Chúa - cũng đã nói cho các dân ngoại xưa, “Kìa, Ngài gọi các anh!”; và họ đã hân hoan khi cảm nhận được lòng thương xót của Ngài, “Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui!” - Thánh Vịnh đáp ca. Giêrêmia đã thấy trước ngày hân hoan đó, “Kẻ đui, người què, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa về!” - bài đọc một.

Anh Chị em,

“Kìa, Ngài gọi anh!”. Như Bartimê bên lề đường, bao người giờ đây đang ở bên lề xã hội hay ‘bên lề cuộc đời’ của chính họ cần lắng nghe những lời động viên phấn khích và hy vọng này! Đó là những con người bệnh tật phần hồn, đau đớn phần xác; những người thất nghiệp, tuyệt vọng; những người lung lạc đức tin hay những người đang đắm chìm trong tội lỗi… Và thật bất ngờ, con người khốn khổ đó có thể là mỗi người chúng ta. “Hãy tự giúp mình, rồi trời sẽ giúp!”. Như anh mù, hãy đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, chạy đến với Ngài và la lên, “Lạy Chúa, xin thương xót con!”. Hãy vứt lại ‘những chiếc áo vướng bận’ để đến với Ngài; và chắc chắn, chúng ta cũng sẽ hưởng nhận những gì cần thiết để tạo nên một sự khác biệt!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin chữa mắt tâm hồn của con, hầu con có thể ‘rọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu’ khi con nói với anh chị em con, “Kìa, Ngài gọi anh!”, Amen.

 

NIỀM VUI CÓ CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Đặt mình vào hoàn cảnh của nhà Giacóp, cụ thể là dân Israel và Ephraim, hay của chính anh Bartimê con ông Timê trong Tin Mừng Marcô hôm nay, chúng ta sẽ cảm nghiệm được niềm vui có Chúa. Có Chúa là Cha, chúng ta là con, Cha lo cho con cái. Có Chúa mọi sự sẽ trở nên tốt lành.

Chúa là niềm vui của Israel

Khi dân Israel bị bắt đi lưu đày ở Babylon trở về, người trung thành với Chúa chỉ còn là số ít, họ quá yếu đuối, nghèo nàn và dễ bị tổn thương, đến nỗi không có phương tiện trở về, từ phương Bắc không thể tự giải thoát. Họ là những kẻ trở về để xây dựng đất nước : "trong chúng có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ". Bàn tay xây dựng lại Israel là những kẻ đui mù, chứ không phải các thanh niên cường tráng! Làm thế nào họ có được khả năng xây dựng lại quốc gia? Thanh niên, người khoẻ mạnh đã bị đế quốc tiêu diệt trong các lao động khổ sai. Họ phải cáng đáng công việc xây dựng lại quê hương.

Trong lúc cùng đường bế tắc như thế Giêrêmia tuyên sấm : Đây Chúa phán: Hỡi Giacóp, hãy hân hoan vui mừng! " (Gr 31, 7). Không thể vui mừng sao được khi mình đang đui mù, què quặt, mang thai nay có được Thiên Chúa toàn năng trợ giúp dẫn dắt trở về : "Đây, Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất bắc trở về, sẽ tụ họp chúng lại từ bờ cõi trái đất: trong bọn chúng sẽ có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con đi chung với nhau, hợp thành một cộng đoàn thật đông quy tụ về đây" (Gr 31, 8). Theo Dianne Bergant: "Phụ nữ mang thai và các bà mẹ tuy yếu ớt, dễ bị tổn thương nhưng cũng là biểu tượng của phong phú và hy vọng. Họ nắm giữ tương lai trong bản thân mình. Khi họ rời bỏ chốn lưu đày về đất hứa, họ mang theo khả năng sinh sản và khởi sự một tương lai mới".

Đúng là người công chính, đạo đức thực thi công bình, bác ái, sống thánh thiện siêu nhiên, mặc cho thế giới này sa đoạ đến đâu, mặc cho gièm pha độc ác của kẻ giả hình, những vẫn khao khát tìm gặp và cậy dựa vào Chúa, người ấy sẽ có được niềm vui lớn lao. Anh mù thành Giêricô, tên là Bartimê trong Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng.

Chúa Giêsu là niềm vui của anh Bartimê

Anh Bartimeê mù loà, nghèo khổ, gặp được hạnh phúc thật nhờ Chúa Giêsu. Anh thiếu hai điều : cái nhìn thể lý và khả năng tìm kiếm công ăn việc làm để kiếm sống, nên buộc anh phải đi ăn xin. Anh cần sự giúp đỡ và anh ngồi bên vệ đường lối vào thành Giêricô, nơi có nhiều người qua lại.

May mắn cho anh, một hôm chính Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một số người khác đã đi ngang qua đó. Chắc chắn anh mù đã từng nghe nói về Chúa Giêsu, là Đấng đã làm nhiều phép lạ, Đấng ấy đang đến gần anh ta, chớp thời cơ, anh kêu lên : "Hỡi Con vua Davít, xin thương xót tôi!" (Mc 10, 47). Đối với những người đang đi theo Chúa thì tiếng kêu của anh mù thật khó chịu. Nhưng lời kêu xin lớn tiếng của anh chứng tỏ anh khao khát gặp Chúa lắm. Lời ấy vang tới tai và động đến tâm hồn Chúa Giêsu. Người muốn đáp ứng lời van xin của anh mù ăn mày này, nên truyền gọi anh đến đến và chữa lành anh ta.

Lập tức anh mù được đối diện với Con vua Đavít. Giây phút quyết định là sự khát khao gặp gỡ cá nhân, trực tiếp, giữa Chúa với người đang đau khổ. Hai người đối diện nhau : Thiên Chúa với ý muốn chữa lành và con người với ước ao được chữa lành. Hai sự tự do và hai ý chí đều huớng về một điểm. Cuộc đối thoại bắt đầu kẻ hỏi người thưa, "Chúa Giêsu nói với anh: " Anh muốn Ta làm gì cho anh? "Người mù đáp : "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy" Chúa ra lệnh: "Con hãy đi! Ðức Tin con đã cứu chữa con!" (Mc 10,51) Lập tức Chúa Giêsu cho anh thấy, anh hết sức vui mừng và đi theo Chúa.

Anh đã đổi đời khi quyết định chọn cho mình một lối đi mới là đi theo Chúa Giêsu trên chính con đường của Chúa chứ không còn theo con đường của anh từ nhà đến vệ đường mà anh đã gắn chặt nhiều năm để làm kế sinh nhai. Anh buông bỏ vệ đường, áo choàng, bỏ lại sự bám víu vào lòng hảo tâm của người qua kẻ lại… để bám chặt lấy Chúa Giêsu. Động lực đời anh không còn ngồi ăn nữa nhưng là vui bước bên Giêsu.

Gặp gỡ Đức Ki-tô biến đổi cuộc đời mình

Anh Batimê đã gặp gỡ Giêsu, một cuộc gặp gỡ tuyệt đẹp và đáng giá vì làm thay đổi tận căn cuộc đời anh. Anh có nhiều khát vọng, nhưng một khát vọng trung tâm và chủ đạo chi phối đời anh là gặp Chúa Giêsu. Đời sống của chúng ta cũng vậy, khát vọng Thiên Chúa của ta phải là khát vọng hướng dẫn mọi khát vọng khác. Nếu không, thân xác, tâm trí, tâm hồn và linh hồn ta sẽ trở thành kẻ thù của nhau và đời sống nội tâm của ta trở nên hồn độn, đưa ta tới chỗ thất vọng.

Nếu ta chúng ta nuôi dưỡng khát vọng gặp Chúa Giêsu, thì khao khát đó sẽ được chạm đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Chỉ có lòng khao khát gặp gỡ và sự chờ đợi lâu ngày mới cảm nhận niềm vui có Chúa và để Chúa biến đổi đời ta.

 

Thứ hai: Ep 2,19-22; Lc 6,12-19

Kính Thánh Simon Và Thánh Giuđa Tông Đồ

KHÔNG GIAN CẦU NGUYỆN

“Anh em được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Kitô Giêsu!”.

Viết về các giáo xứ, một tác giả ví von: “Mục chi của ‘nhà thờ sống’ luôn nhiều hơn mục thu; ‘nhà thờ chết’ không cần nhiều tiền! ‘Nhà thờ sống’ luôn có vấn đề về chỗ đậu xe; ‘nhà thờ chết’ có thừa mặt bằng! ‘Nhà thờ sống’ có thể ồn ào vì trẻ em chạy nhảy; ‘nhà thờ chết’ đìu hiu như nghĩa trang! ‘Nhà thờ sống’ liên tục thay đổi cách thức hoạt động, luôn cần những không gian thánh; ‘nhà thờ chết’ không cần đổi thay, nhện tha hồ dăng!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Một Hội Thánh sống động không chỉ cần những không gian sinh hoạt; nhưng quan trọng hơn - các tâm hồn - những ‘không gian thánh’, ‘không gian cầu nguyện’ “được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Kitô Giêsu”. Đó là những gì Mẹ Hội Thánh cho chúng ta nghe trong ngày kính hai thánh tông đồ Simon và Giuđa - bài đọc một.

Tin Mừng hôm nay nói, “Chúa Giêsu thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, kêu các môn đệ lại, Ngài chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ”. Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện và sau đó mới là những điều còn lại: dân chúng, việc tuyển chọn, chữa lành, trừ quỷ. Đá tảng góc tường là Chúa Giêsu, vâng; nhưng, đó là một Chúa Giêsu cầu nguyện! Chúa Giêsu cầu nguyện và tiếp tục cầu nguyện cho Giáo Hội trước mặt Chúa Cha. Ngài cầu bầu cho chúng ta. Chúng ta cầu nguyện với Ngài, nhưng nền tảng là Ngài cầu nguyện cho chúng ta!

“Thật đáng yêu khi xem xét những lời của Chúa Giêsu đã nói với Phêrô, với mọi người và nói với chúng ta, “Thầy đã cầu nguyện cho anh, Thầy đang cầu nguyện cho anh”. Điều này mang lại cho chúng ta một sự tự tin lớn lao! Tôi thuộc về cộng đồng này, một cộng đồng kiên định vì có Chúa Giêsu đá tảng, một Chúa Giêsu cầu nguyện cho tôi, cho chúng ta. Tất cả chúng ta như một toà nhà, nhưng nền tảng là Chúa Giêsu, một Chúa Giêsu cầu nguyện cho chúng ta. Chính Ngài cầu nguyện cho tôi!” - Phanxicô.

Như thế, cùng với các tông đồ, bạn và tôi là những ‘không gian thánh’, những ‘không gian cầu nguyện’ trong toà nhà Hội Thánh. Hãy là một không gian đầy Chúa cuốn hút mọi người đến với Ngài. Đồng thời, như các ngài, chúng ta đi đến mút cùng thế giới tặng trao Tin Mừng, tạo nên một sự khác biệt vĩnh viễn trong cuộc sống của bao người khác, “Tiếng các ngài đã vang dội khắp hoàn cầu!” - Thánh Vịnh đáp ca. Trong mọi đấng bậc, dẫu hình thức có khác nhau, nhưng chúng ta có chung một sứ mệnh đem tình yêu và lòng thương xót Chúa đến cho vô vàn anh chị em gần xa. Muốn được như vậy, trước tiên, chúng ta phải là những con người cầu nguyện, những ‘không gian cầu nguyện!’.

Anh Chị em,

“Anh em được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ”. Mỗi ngày rước Chúa, chúng ta được mạnh mẽ để trở nên tông đồ. Sống động hơn, trở nên những “nhà tạm di động” của Chúa Giêsu, Đấng ước mong tâm hồn mỗi người luôn trở nên chốn rất thánh cho Ngài. Hãy là những ‘không gian cầu nguyện’ như Ngài. Nhờ đó, qua chúng ta, Ngài có thể đến được với bao anh chị em khác. Chớ gì không chỉ tâm hồn chúng ta thánh, gia đình chúng ta thánh, mà môi trường, xã hội và cả thế giới của chúng ta nên thánh!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để ‘nhện dăng’ không gian ‘chưa thánh’ linh hồn con; cho con thật thánh hầu đem Chúa đến cho những ai chưa một lần nghe nói đến Chúa Chí Thánh!”, Amen.

 

Thứ ba: TỪNG CHÚT MỘT

“Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men!”.

“Việc chấp nhận một con tàu là điều rất khó khi trời chỉ mới đổ mưa. Cái chết là một cơn bão tức thì ập xuống, đến nỗi khi bạn với tay cầm lấy chiếc ô, thì biết rằng, mình cần một đôi cánh để có thể bay trong nước! Vì thế, từng bước một, ‘từng chút một’, bạn hãy biến đổi tâm hồn để có thể đến gần con tàu và yêu lấy nó!” - Calvin Miller.

Kính thưa Anh Chị em,

‘Từng chút một’, ý tưởng của Miller được gặp lại trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu không nói đến một điều gì to tát, nhưng nói đến cái nhỏ bé đến nỗi gần như không trông thấy - một chút men. Ấy thế, như men trong bột, ân sủng Thánh Thần cũng biến đổi linh hồn ‘từng chút một!’.

Men - một thứ luôn hấp dẫn - nhỏ bé nhưng lại tác dụng mạnh mẽ đối với bột. Men hoạt động chậm nhưng hiệu quả; với men, bột sẽ lặng lẽ biến đổi và dậy lên. Đây luôn là điều hấp dẫn đối với trẻ em; bạn sẽ chứng kiến những đôi mắt thiên thần tròn xoe khi các trẻ có mặt tại lò bánh mì. Đây cũng là cách thức Tin Mừng hoạt động. Việc biến đổi một trái tim hiếm khi diễn ra trong một ngày hay trong một khoảnh khắc; đành rằng, mỗi ngày, mỗi khoảnh khắc đều quan trọng, nhưng hẳn có những khoảnh khắc chuyển đổi mạnh mẽ mà mỗi người có thể chỉ ra. Như chút men âm thầm làm cho thúng bột dậy lên, việc biến đổi một trái tim cũng thường diễn ra ‘từng chút một!’.

Đôi khi, sự ồn ào của thế giới với những ê chề của nó cùng bao biến động trong cuộc sống ngăn cản chúng ta dừng lại để xem cách Thiên Chúa đang vận hành lịch sử. Tuy nhiên, Tin Mừng bảo đảm, Thiên Chúa đang hoạt động như men âm ỉ và ‘từng chút một’, ‘thúng bột thế giới’ đang dậy lên. Chút men của những việc lành nơi chúng ta tuy nhỏ - phát xuất từ Chúa - vẫn đem lại những hiệu quả tuyệt vời trong tất cả mọi hành vi cử chỉ, dẫu tất cả luôn xảy ra trong khiêm nhu, tiềm ẩn, và thường là vô hình.

Suy gẫm về đời sống hôn nhân Kitô giáo, Phaolô nói, “Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” - bài đọc một. Khi nói điều đó, hẳn Phaolô đã nghĩ đến Chúa Thánh Thần - men tác động và kết hợp hai người nam nữ nên vợ chồng. Cũng trong Thánh Thần, Chúa Kitô và Hội Thánh làm nên gia đình Thiên Chúa giữa lòng thế giới. Đó là một gia đình kính sợ Chúa, “Hạnh phúc thay những người kính sợ Chúa!” - Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

“Cho đến khi tất cả bột dậy men”. Viên men đầu tiên Thiên Chúa vùi vào ‘thúng bột nhân loại’ là Giêsu; không chỉ vùi vào lòng nhân loại, nó còn vùi vào đất. Và ‘từng chút một’, ‘từng con người một’, ‘từng mảnh đất một’ đã thấm nhuần men yêu thương của Ngài. Vì thế, bạn và tôi không còn là “bột men” thường, nhưng là “bột men Giêsu”. Và Ngài đang vùi chúng ta vào công sở, trường học, đồng áng… mọi ngõ ngách của thế giới. Ngài ước men Tin Mừng trong chúng ta ‘từng chút một’ với khả năng và hoàn cảnh rất riêng của mình, đem những con người chúng ta gặp gỡ trên đời ‘đến gần con tàu và yêu lấy nó’; “Con Tàu Giêsu”, “Con Tàu Giáo Hội’, để cả họ, cũng được biến đổi!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa Thánh Thần, xin biến đổi con ‘từng chút’ để con có thể ‘yêu lấy con tàu Giêsu’ từng ngày; đừng để con mất chất, nhưng luôn là men nhiệt tâm, men nồng nàn!”, Amen.

 

Thứ tư: LUÂN LÝ TÙY CHỈNH

“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào!”.

“Tôi nhìn lên ngọn núi, ‘Quá khó, Chúa ơi, con không thể leo được!’; ‘Hãy nắm lấy tay Ta! Ta sẽ là sức mạnh của con!’. Tôi nhìn xuống con đường, ‘Quá dài, Chúa ơi’; ‘Hãy nắm lấy tình yêu của Ta, Ta sẽ bảo vệ đôi chân con!’. Tôi nhìn lên bầu trời, ‘Mặt trời đã lặn, trời đã tối!’; ‘Hãy nắm lấy ngọn đèn Lời Ta, sẽ đủ sáng!’. Tôi nhìn vào cánh cửa, ‘Quá hẹp, Chúa ơi!’; ‘Cứ cố bước vào, con sẽ được sống!” - Anon.

Kính thưa Anh Chị em,

Tâm tình của thi sĩ vô danh trên được gặp lại trong Tin Mừng hôm nay. Một người đặt câu hỏi với Chúa Giêsu, “Những người được cứu thoát thì ít, có phải không?”. Câu hỏi của anh phản ánh một sự lo lắng về khả năng được cứu khi anh - đại diện cho rất nhiều người - nói về việc sống Phúc Âm - với một ‘luân lý tùy chỉnh’ - theo ý riêng mình.

Lắng nghe lời Chúa Giêsu, người này xem ra vô cùng trăn trở. Rõ ràng, giáo lý của Ngài thật hấp dẫn và kỳ diệu; nhưng bao hàm một số đòi hỏi khiến nó không còn hấp dẫn. Vậy sống những gì Chúa Giêsu đòi hỏi theo ý thích của anh với một ‘luân lý tùy chỉnh’ thì khả năng được cứu của anh sẽ là bao nhiêu? Chúa Giêsu không chấp nhận cách tiếp cận này! Sự cứu rỗi của chúng ta là một vấn đề hệ trọng và không thể vượt qua nó bằng cách tính toán xác suất. “Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải!” - Phêrô.

Chúa Giêsu trả lời, “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào!”. “Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói, ‘Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!’, thì ông sẽ bảo, ‘Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!”. Làm sao những con chiên này có thể thuộc về đàn chiên Chúa Kitô nếu chúng thậm chí không theo Đấng Chăn Chiên Lành, cũng không tuân theo huấn quyền của Giáo Hội? “Cút đi cho khuất mắt ta!”.

Hãy ngừng kiểu sống “quá thông minh một nửa” và tính toán quá nhiều khi sống Tin Mừng với một ‘luân lý tùy chỉnh!’. Hãy nhanh chóng bước vào cánh cổng hẹp, khởi động lại nhiều lần khi cần thiết và tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa! “Tất cả những gì làm bạn lo lắng trong lúc này đều có tầm quan trọng ‘tương đối’. Điều có tầm quan trọng ‘tuyệt đối’ là bạn được hạnh phúc, được cứu rỗi!” - Josemaria.

Anh Chị em,

“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào!”. “Con đường dẫn đến sự sống vĩnh cửu mở ra cho mọi người, nhưng nó ‘hẹp’ vì nó đòi hỏi sự cam kết, tự chối bỏ và chế ngự tính ích kỷ của mình!” - Bênêđictô XVI. “Không có ‘số lượng giới hạn’ trong thiên đàng! Đúng hơn, đó là đi theo con đường đúng ngay từ bây giờ, con đường đúng này dành cho mọi người, nhưng nó hẹp. Đây là vấn đề! Chúa không muốn chúng ta ảo tưởng, ‘Vâng, đừng lo lắng, có một con đường tuyệt đẹp với một cánh cổng lớn ở cuối đường!’. Ngài không nói như vậy. Ngài nói mọi thứ như chúng ‘thực sự’ là: cánh cửa hẹp. Theo nghĩa nào? Theo nghĩa là, để cứu mình, người ta phải yêu Chúa và tha nhân, và điều này thật khó chịu! Đó là một ‘cánh cửa hẹp’ vì nó đòi hỏi. Tình yêu luôn đòi hỏi!” - Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con ‘quá thông minh một nửa’; dạy con biết ‘yêu mến toàn phần!’”, Amen.

 

Thứ năm: BẤT CHẤP ĐE DOẠ

“Xin ông đi ra khỏi đây, vì vua Hêrôđê đang muốn giết ông!”.

“Cụm từ “tước vũ khí” hay “giải giới” phát xuất từ tiếng Hy Lạp, “Apekoyo”, có nghĩa “cởi bỏ, làm cho bất lực hoàn toàn”. Trên thập giá, Chúa Kitô tước vũ khí Satan, khiến nó bất lực hoàn toàn. Nay, vì danh Chúa, trước những kẻ chống đối, quấy nhiễu và đe doạ, bạn không cần phải sợ hãi, nhưng có thể vượt qua tất cả, bất chấp đe doạ!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Bạn không cần phải sợ hãi, nhưng có thể vượt qua tất cả, bất chấp đe doạ!”. Ý tưởng này được gặp lại trong Tin Mừng hôm nay khi những người biệt phái xem ra lo lắng cho Chúa Giêsu, “Xin ông đi ra khỏi đây, vì vua Hêrôđê đang muốn giết ông!”.

Họ lo lắng cho Chúa Giêsu? Không đâu! Họ lấy uy Hêrôđê để đe doạ Ngài hầu buộc Ngài rời khỏi địa hạt. Chúa Giêsu không nao núng! Trong cuộc sống, chúng ta cũng trải qua điều tương tự. Ai đó đến, kể một số chuyện dưới chiêu bài giúp đỡ, trấn an; đang khi thực tế, đó chỉ là những lời đe doạ tinh vi khiến chúng ta lo lắng, sợ hãi. Hãy xem phản ứng của Chúa Giêsu! Ngài không sợ hãi Hêrôđê, không bận tâm trước ác ý của những kẻ gieo tin; không nhượng bộ, Ngài ‘bất chấp đe doạ’; và như muốn nói với kẻ ác rằng, “Đừng lãng phí thời gian của các bạn nhằm làm cho tôi sợ hãi hay lo lắng. Tôi đang làm công việc của Cha tôi và đó là tất cả những gì tôi phải bận tâm!”.

Vậy điều gì làm bạn phiền lòng trong cuộc sống; điều gì đe dọa bạn? Bạn có cho phép những ý kiến, manh tâm hay những lời đàm tiếu của người khác làm cho mình thất vọng? Như Chúa Giêsu - tựa nương tuyệt đối vào Chúa Cha - điều chúng ta quan tâm là làm theo ý muốn của Chúa Cha. Vì một khi tìm làm theo ý muốn của Chúa Cha và với sức mạnh của Ngài, chúng ta vượt qua tất cả. Chúa Cha sẽ ban cho chúng ta mọi khôn ngoan và lòng can đảm để chúng ta tiếp tục yêu thương, cùng lúc, quở trách mọi lừa dối và những đe doạ ngớ ngẩn của kẻ ác trong cuộc sống mình.

Hãy tựa nương vào Chúa để được mạnh mẽ, “Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ!” - bài đọc một; vì “Chúa là núi đá cho tôi nương ẩn” - Thánh Vịnh đáp ca - chúng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, để có thể không ngừng yêu thương và tiếp tục yêu thương!

Anh Chị em,

“Xin ông đi ra khỏi đây, vì vua Hêrôđê đang muốn giết ông!”. Chúa Giêsu đã đón nhận thông tin đầy ác ý cách thanh thản và bình an. Tại sao? Bởi lẽ, khi xuống thế làm người, Ngài đã tự “cởi bỏ hoàn toàn” và làm cho mình “trở nên bất lực”. Ngài để cho quyền lực thế gian “tước mọi vũ khí”, hầu có thể đến gần, ôm lấy và chữa lành tất cả những ai bị quyền lực thế gian thống trị. Ngài thương xót và tha thứ! Cũng thế, là con cái của Cha trên trời - Đấng bảo bọc chúng ta “như gà mẹ ủ ấp gà con dưới cánh” - bạn và tôi không để cho bất cứ thế lực nào đe doạ mình. Tin vào tình thương của Chúa, nương tựa tuyệt đối vào Ngài, chúng ta đón nhận mọi bất ưng cách thanh thản, bình an. Như Chúa Giêsu, chúng ta tiếp tục yêu thương và không ngừng yêu thương!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Ngài! Cho con không ngừng yêu thương và tiếp tục yêu thương những kẻ làm điều ác cho con!”, Amen.

 

Thứ sáu: HÃY ĐỂ CHÚA PHONG THÁNH!

LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ

“Đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh nhan Ngài!”.

“Cha hy vọng - trong số các bạn đang nghe đây - sẽ có một số vị thánh tương lai của thế kỷ 21. Điều Chúa muốn trên hết đối với chúng ta là nên thánh! Ngài yêu chúng con hơn những gì chúng con có thể tưởng tượng, Ngài muốn điều tốt nhất cho chúng con - lớn lên trong sự thánh thiện - Hãy là một vị thánh hơn là một người nổi tiếng!” - Bênêđictô XVI.

Kính thưa Anh Chị em,

Nói rằng “Hãy là một vị thánh hơn là một người nổi tiếng!” khác nào nói, “Hãy để Chúa phong thánh hơn là để người đời phong thánh!”. Đó cũng là những gì chúng ta được thách thức nhân ngày Giáo Hội tôn vinh “Tất cả Các Thánh”. Các ngài đã thực hiện điều Chúa muốn, chọn trở nên những vị thánh hơn là những người nổi tiếng! “Đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh nhan Ngài!” - Thánh Vịnh đáp ca.

Hôm nay Giáo Hội tưởng nhớ tất cả những tâm hồn thánh thiện gồm đàn ông, phụ nữ, trẻ em, các vị tử đạo, mục tử… những ai tuyên xưng đức tin và những con người vô danh khác đã được rửa tội hoặc chưa được rửa tội; trong đó, có cả ông bà, cha mẹ, anh chị em chúng ta. Bài đọc Khải Huyền tiên báo, “Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước”. Điều phân biệt là họ đã mở lòng ra với ân sủng Chúa một cách sâu sắc, trở nên mạnh mẽ trong Ngài. Họ có một điểm chung: “Giặt áo mình trong Máu Con Chiên” theo những cách thức khác nhau để phản ánh một nhân đức về chân dung người môn đệ mà Chúa Giêsu phác hoạ qua từng mối phúc Tin Mừng.

Và nếu các mối phúc, về căn bản, là chân dung hoàn hảo của chính Chúa Giêsu, thì từng mối phúc sẽ là chân dung của từng vị thánh; mỗi vị mỗi vẻ góp phần làm nên triều thần thiên quốc, những con người đã không để mình “rơi vào tinh thần thế tục của thời đại” nhưng “vượt lên thời đại”; một số, thậm chí đã “thay đổi thời đại!”. Họ không bị văng ra ngoài bởi vòng xoáy của những sai trái; ngược lại, giữa sai trái, họ cuốn hút bao người tiếp cận, tin yêu Đấng họ phụng thờ. Không cần người đời biết đến, họ chờ đợi điều này từ Chúa.

Các thánh còn là những con người đang cầu nguyện cho bạn và tôi. Họ nói với chúng ta, sự thánh thiện có thể có ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào; họ cầu cho chúng ta nên giống Chúa, nên con cái Ngài ngày một hơn. Mai ngày, chúng ta sẽ nên giống Chúa; nhưng ‘lúc này và ở đây’, chúng ta đã là con cái Ngài, chia sẻ sự sống thần linh của Ngài nhờ phép Thánh Tẩy. Phải, phép Rửa là nền tảng sự thánh thiện của mỗi người!

Anh Chị em,

“Đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh nhan Ngài!”. Cảm tạ Chúa vì đã ban cho Giáo Hội vô vàn tâm hồn thánh khiết một chỉ tìm kiếm thánh nhan. Thiên đàng đang chờ đợi bạn và tôi! Đó cũng là giấc mơ của Thiên Chúa. Điều tốt nhất chúng ta cố đạt cho được ở đời này không phải là giàu có, nổi tiếng, được thế gian phong thánh; công việc của chúng ta là cộng tác với ân sủng để nên thánh, không chỉ mai ngày, nhưng ngay hôm nay, trong bậc sống mình và ‘hãy để Chúa phong thánh!’. Phép Rửa mời gọi bạn và tôi sống thánh, còn ân sủng sẽ giúp bạn và tôi nên thánh bằng các lối hẹp Tin Mừng.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, với ơn Chúa, con sẽ không để mình ‘rơi vào tinh thần thế tục của thời đại’, nhưng ‘vượt lên thời đại’; và con sẽ ‘thay đổi thời đại’. Tại sao không?”, Amen.

 

Suy niệm 2:

“Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”.

Bạn thân mến,

Hôm nay Giáo Hội hân hoan mừng lễ kính các thánh nam nữ trên thiên đàng, qua thánh lễ này chúng ta càng thấu hiểu hơn nữa về mầu nhiệm các thánh thông công của Giáo Hội, và khi suy niệm đến mầu nhiệm thông công này, chúng ta càng đặt niềm tin tưởng của mình vào Thiên Chúa và Hội Thánh hơn.

Các thánh là những con người như chúng ta, không ai có thể nên thánh nếu không đi qua cuộc sống làm người với những khổ đau hy sinh; không đi qua đau khổ hy sinh thì không thể trở thành một thánh nhân, bởi vì chính Đấng cứu chuộc nhân loại là Đức Đức Chúa Giê-su Ki-tô đã bị đánh đòn, bị đóng đinh vào thập giá, và cuối cùng chết trên thập giá, hy sinh để chuộc tội cho nhân loại, tức là Ngài đã đi qua đau khổ và dùng đau khổ để cứu chuộc nhân loại tội lỗi.

Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, khi còn sống ở thế gian các ngài cũng có những tham sân si, cũng có kiêu căng, có giận hờn, có ghét ghen, có tham lam, có những tội lỗi mà chúng ta đã phạm hôm nay. Nhưng các ngài đã biết cậy vào ơn của Chúa và biết quyết tâm đứng lên cố gắng làm lại cuộc đời mình, biết chiến đấu với những cám dỗ, để rồi hôm nay các ngài được hưởng phúc với Thiên Chúa, với Đức Mẹ Ma-ri-a và các thiên thần trên thiên đàng.

Các thánh nam nữ là những người như chúng ta, có vị đã từng làm vua, có vị đã từng làm quan, làm bác sĩ, làm kỹ sư, làm thấy giáo, làm nô lệ, có vị làm giáo hoàng, có vị làm giám mục, làm linh mục, phó tế, có các vị là nam nữ tu sĩ.v.v... nghĩa là các ngài có đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội, có những đời sống và hoàn cảnh khác nhau, nhưng các ngài đã có một mục đích để sống, đó chính là phải trở nên thánh, phải trở thành những bạn hữu của Thiên Chúa trong chính bổn phận hằng ngày của mình.

Các thánh nam nữ là những người như chúng ta, nhưng các ngài đã biết thực hiện “hiến chương Nước Trời” tức là “Tám Mối Phúc thật” ngay tại trần gian này:

Các ngài giàu có nhưng đã sống tinh thần khó nghèo vì Nước Trời.

Các ngài bị người khác vu oan giá họa nhưng vẫn hiền lành với họ.

Các ngài đã chia vui với người vui và buồn với người buồn, nên được Thiên Chúa an ủi ngay khi còn ở đời này.

Các ngài mong muốn được trở nên người công chính giữa một xã hội đầy mưu mô xảo trá, nên được Thiên Chúa cho thỏa lòng.

Các ngài biết thương xót người, tức là biết động lòng trước cảnh thương tâm của người khác, nên được Thiên Chúa xót thương.

Các ngài sống trong danh vọng, sống giữa bụi trần với những đam mê của nó, nhưng vẫn giữ được tâm hồn trong sạch, nên các ngài được nhìn thấy Thiên Chúa.

Các ngài đi đến đâu là đem bình an của Thiên Chúa đến nơi đó, các ngài được gọi là những người biết kiến tạo hoà bình, nên các ngài được gọi là con Thiên Chúa.

Các ngài bị bắt bớ, bị đánh đập, bị tra tấn, bị tù đày vì các ngài sống và tin vào Đức Đức Chúa Giê-su, Đấng sẽ ban Nước Trời cho những kẻ tin vào Ngài, nên các ngài đã được Nước Trời làm của mình sau khi từ giã cõi đời tạm này...

Bạn thân mến,

Các thánh nam nữ đều là những con người như chúng ta, các ngài đã trở nên những vị thánh thì chúng ta cũng có thể trở nên thánh như các ngài, bởi vì nên thánh là đòi hỏi của Phúc Âm và là mục đích sống ở đời của chúng ta –những người Ki-tô hữu.

Xin Đức Mẹ Ma-ri-a và các thánh nam nữ trên thiên đàng cầu bàu cho chúng ta, là những người đang trên đường đi về quê trời, được noi gương của các ngài biết quyết tâm đổi mới cuộc sống của mình, biết đứng dậy khi ngã xuống trong tội, biết phục vụ và tha thứ cho nhau trong tình yêu của Thiên Chúa.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

Thứ bảy: CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI

LỄ CÁC ĐẲNG

Ngày lễ cầu cho các tín hữu qua đời là một ngày đặc biệt trong đời sống đức tin của nhiều tôn giáo, đặc biệt là Kitô giáo. Trong ngày này, các tín hữu tập trung để cầu nguyện cho những người đã khuất, nhằm bày tỏ lòng tôn kính và nhớ ơn những người thân yêu đã ra đi.

1. Ý nghĩa của ngày lễ:

- Niềm tin vào sự sống đời đời: Ngày lễ này khẳng định niềm tin vào sự sống vĩnh cửu sau khi chết. Các tín đồ tin rằng linh hồn của người đã khuất vẫn tồn tại và có thể được nâng đỡ bởi những lời cầu nguyện của người còn sống.

- Hiệp thông giữa các thế hệ: Dù người thân đã ra đi, tình yêu thương và mối liên kết gia đình vẫn luôn hiện hữu. Ngày lễ này là dịp để các thế hệ cùng nhau cầu nguyện, chia sẻ kỷ niệm và giữ gìn truyền thống gia đình.

- Cầu nguyện cho sự thanh luyện: Nhiều tôn giáo tin rằng sau khi chết, linh hồn cần trải qua một quá trình thanh luyện để được vào thiên đàng. Những lời cầu nguyện trong ngày lễ này được xem như một sự trợ giúp tinh thần cho quá trình này.

- Tôn vinh những giá trị đạo đức: Ngày lễ cũng là dịp để tôn vinh những giá trị đạo đức, những đức tính tốt đẹp mà người đã khuất đã sống. Qua đó, người còn sống được nhắc nhở về ý nghĩa của cuộc sống và hướng đến những điều tốt đẹp.

2. Mục đích của ngày lễ:

- An ủi người còn sống: Những lời cầu nguyện và nghi thức tôn giáo giúp người còn sống vượt qua nỗi đau mất mát, tìm thấy sự bình an trong tâm hồn.

- Cầu nguyện cho người đã khuất: Các tín đồ cầu nguyện để những người đã khuất được an nghỉ và đạt đến sự viên mãn.

- Tăng cường đức tin: Ngày lễ này giúp củng cố đức tin của các tín đồ vào cuộc sống đời đời và vào sức mạnh của lời cầu nguyện.

- Xây dựng cộng đồng: Ngày lễ tạo cơ hội để cộng đồng giáo dân cùng nhau cầu nguyện, chia sẻ và hỗ trợ lẫn nhau.

Trong nhiều tôn giáo, ngày lễ này được tổ chức với những nghi thức và hoạt động khác nhau, nhưng đều mang chung một thông điệp: sự sống không bao giờ kết thúc, tình yêu thương vượt qua cả cái chết.


Thứ bảy: LẦN CHÓT XÓT THƯƠNG

“Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời!”.

Người ta thường thích những danh ngôn giúp họ ‘sống tốt’; mấy ai màng đến những danh ngôn giúp họ ‘chết tốt!’. Chẳng hạn, trước giờ lâm chung, thi sĩ Heinrich Heine nói, “Chúa sẽ tha thứ cho tôi. Đó là công việc của Ngài!”; hoặc khi Thomas Hooker sắp qua đời, một người bạn nói với ông, “Anh sẽ nhận được phần thưởng cho công sức mình!”, Hooker khiêm tốn đáp, “Không! Tôi sẽ nhận được ‘lần chót xót thương’ của Ngài!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Thật chí lý khi Thomas Hooker nói đến ‘lần chót xót thương’ Chúa dành cho mình. Sự thật này có một ý nghĩa sâu sắc trong ngày Giáo Hội nhớ đến Các Linh Hồn, những người đã chết trong ân sủng Chúa nhưng chưa sẵn sàng để ra trước nhan thánh Ngài.

Giáo lý nói đến Luyện Ngục, như là ‘lần chót xót thương’ Thiên Chúa dành cho các linh hồn; qua đó, “Linh hồn được thanh luyện - sau khi chết - đạt được sự thánh thiện cần thiết hầu tiến vào an hưởng niềm vui thiên đàng”. Thanh tẩy mọi ràng buộc đối với tội lỗi nơi một linh hồn đã qua đời là sự thể hiện tình yêu của Thiên Chúa vượt quá những gì con người có thể tưởng tượng. Thiên Chúa không muốn bất kỳ một linh hồn nào sẽ sống đời đời với Ngài vướng víu - dù chỉ là một ràng buộc nhỏ nhất - đối với tội lỗi. Sự thật là, mọi tội lỗi trên linh hồn - dẫu nhỏ nhất - cũng là lý do đủ để chúng ta bị loại khỏi thiên nhan. Vì thế, Luyện Ngục được xem như ‘lần chót xót thương’ của Thiên Chúa - một cơ hội - nhờ đó, linh hồn hoàn toàn tự do hiệp nhất với Ngài, tuyệt đối và trọn vẹn.

Luyện Ngục là quà tặng ân sủng - dù biết rằng - cuộc vượt qua cuối cùng cho tội lỗi chắc chắn sẽ rất đau đớn, một sự đau đớn cần thiết và đáng giá; bởi lẽ sau đó, chúng ta trở thành một vị thánh. “Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa” - bài đọc một. Luyện Ngục là sự khôn ngoan của Thiên Chúa! Trong cuộc vượt qua này, các linh hồn đang rất cần chúng ta cầu thay nguyện giúp; họ không thể cầu cho mình, nhưng có thể cầu cho chúng ta. Và ngày kia, trên thiên đàng, chúng ta sẽ rất ngạc nhiên khi biết được hiệu quả của ‘những gì tốt lành’ chúng ta đã sống cho “mầu nhiệm Các Thánh Thông Công”. Chúng ta sẽ nhận được lòng biết ơn từ rất nhiều anh chị em không quen biết; và niềm vui sẽ phớn phở khi hội ngộ với những người thân yêu, quen biết.

Anh Chị em,

“Ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời!”. Ý muốn của Chúa Cha thật tốt lành. Như vậy cuộc sống trần gian chỉ là tạm thời, cuộc sống vĩnh cửu với Thiên Chúa mới đáng kể. “Sinh ký, tử quy” là vậy! Nhưng “ký” vào đâu mới là vấn đề! “Ký” vào lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta chuẩn bị từng ngày, chọn lựa mỗi ngày, hầu có thể “quy” về Ngài từng giây phút đời mình; cùng lúc, chúng ta hướng về các linh hồn - những người đang đợi chờ ‘lần chót xót thương’ của Thiên Chúa - bằng những Thánh Lễ, những hy sinh, lời cầu nguyện của chúng ta “nhờ công nghiệp tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô”. Như vậy, với tất cả những gì bạn và tôi dành cho các linh hồn, những ‘đau đớn ngọt ngào cuối cùng’ cần thiết của họ sẽ dễ chịu hơn nhường nào!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con biết rằng, tha thứ là việc của Chúa, và luyện hình là ‘lần chót xót thương’ để các linh hồn và chúng con được Chúa xót thương đời đời!”, Amen.


  SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXXIV THƯỜNG NIÊN Lm. Nguyệt Giang CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN-B KÍNH TRỌNG THỂ CHÚA KITÔ, VUA VŨ TRỤ Đn 7,...