SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXX THƯỜNG NIÊN
Lm. nguyệt Giang
CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN-B
Gr 31,7-9; Dt 5,1-6; Mc 10,46-52
Suy niệm 1: XIN CHÚA CHO ĐƯỢC SÁNG MẮT SÁNG LÒNG
Tin mừng hôm nay trình
thuật lại phép lạ Chúa Giêsu chữa đôi mắt mù lòa của anh chàng Bar-ti-mê được
sáng, nhờ vào lòng tin kiên vững và lời kêu xin tha thiết của anh ta. Với niềm
tin tưởng cậy trông vào quyền năng Chúa, trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cũng
hãy thiết tha cầu xin Chúa thương cứu chữa con mắt tâm hồn còn mù lòa của chúng
ta, để ta nhận ra Chúa là Cha giàu lòng thương xót và nhận ra tha nhân là anh
em. Nhất là nhận ra những tính hư tật xấu, tội lỗi của mình mà thành tâm ăn năn
sám hối để xứng đáng tham dự vào mầu nhiệm thánh.
Anh mù được tin mừng hôm nay nhắc đến rất đổi quen thuộc:
- Địa chỉ thường trú của anh là ở thành Giêricô.
- Tên đích danh của anh ta là Bar-ti-mê, ai cũng biết.
- Cha của anh là ông Ti-mê, chẳng xa lạ gì.
Hằng ngày anh mù Bar-t-imê này phải mò mẫm đi lại nơi đây để xin lòng
thương xót của mọi người. Vì thân phận mù lòa, trót mang kiếp sống "cầm
ca" nên anh ta đã bị xã hội loại trừ và mọi người xa lánh. Tiếng kêu xin
của anh ta đã trở thành âm thanh chói tai đối với mọi người đi qua chốn ấy, nên
ít ai quan tâm lắng nghe cũng như muốn đến gần anh ta.
Tuy bị thiệt thòi, nhưng Chúa lại bù đáp cho anh ta những khả năng khác. Vì
thế mà người đời thường nói “có tật, có tài” là vậy. Dẫu cho mọi nguời xa tránh
làm ngơ trước lời kêu xin của anh, nhưng với khả năng nhạy bén anh cảm nhận Đức
Giêsu yêu thương và quan tâm đến anh. Vì thế, cho dẫu mọi người hôm đó không nhận
ra sứ mạng Thiên Sai của Chúa Giêsu, nhưng anh mù với giác quan nhạy bén và sự cảm nhận sâu xa của tâm hồn,
anh lại sáng suốt nhận ra sứ mạng bí mật Thiên Sai của Đức Giêsu. Vì vậy nên anh
ta đã không ngần ngại lớn tiếng kêu vang xin Người cứu chữa: “Lạy ông Giêsu, con vua Đa-vit. Xin dủ lòng
thương tôi”. Bằng cảm nhận trực giác tinh tế, anh ta cảm nhận một quyền
năng chữa lành phát xuất từ nơi Đức Giê-su.
Vì thế, cho dù bị dân chúng cản ngăn, cấm đoán anh càng kêu xin thiết tha hơn.
Thật tinh tường, anh đã nhìn thấy nơi Đức Giê-su có một kho báu rất quý giá
mà ở trần gian này chẳng ai có được, đó là quyền cứu chữa. Vì thế, anh ta đã
không hề xin Người tiền bạc, cơm gạo, bánh trái… như mọi ngày. Trái lại, anh ta chỉ tha thiết xin Người cứu
chữa cho anh được sáng mắt: “xin cho tôi
được sáng”.
Nhờ nỗ lực cảm nhận thế giới và con người bằng đôi mắt của tâm hồn, của đức
tin và rồi cố gắng hết sức mình để thể hiện điều cảm nhận đó bằng hết khả năng
của mình ngang qua lời kêu xin tha thiết. Nên lời kêu xin tha thiết của anh đã
được Chúa lắng nghe và nhận lời. Người đã ra tay cứu chữa đôi mắt mù lòa của
anh được sáng.
Hằng ngày các môn đệ vẫn thấy, vẫn nghe Chúa Giê-su nói. Các ông đã chứng
kiến bao là phép lạ Người làm, nhưng vì mơ tưởng địa vị cao sang, chức cao
quyền trọng nên đôi mắt của các ông đã bị che mờ, không còn khả nhận ra sứ mạng
Messia nơi Chúa Giêsu.
Xin Chúa cho chúng ta
có được đôi mắt của đức tin để ta nhạy bén nhận ra những kỳ công lạ lùng của
Chúa trong vũ trụ này, cũng như nhìn thấy được những ân huệ lớn lao mà Chúa
thương ban trên cuộc đời ta.
Xin Chúa loại trừ khỏi
những áng mây đen của vô tình, hững hờ và khinh khi… đang che phủ nơi con mắt
tâm hồn ta, để ta nhìn thấy đời, nhận ra người bằng ánh mắt của cảm thông, bao
dung và trân quý.
Xin Chúa đừng bao giờ
để ta hành xử vô duyên, vô tình, vô tâm với nhau bởi những lời soi mói, chê
bai, cười đùa trước nổi đau khiếm khuyết của tha nhân; cũng đừng để chúng ta
trở thành rào cản ngăn chặn những ước muốn chính đáng của người khác. Trái lại,
xin Chúa cho chúng ta có những hành vi hào hiệp, những lời nói cảm thông, những việc làm bác
ái, những hy sinh phục vụ quên mình cho tha nhân. Trong năm sống chủ đề : “thúc
đẩy sự tham gia vào đời sống giáo hội”, xin cho ta đừng bao giờ có thái độ ngăn
cản những người khác tham gia vào những sinh hoạt mục vụ của Họ đạo, nhất là
đừng gây khó dễ cho những ai yếu đuối, sa ngã trở về với Giáo hội và tìm đến
với Chúa.
Đọc đoạn tin mừng hôm
nay, tôi nhớ đến câu chuyện cổ tích khá lý thú sau đây:
Truyện kể: Ngày xưa có một anh mù, mù cả 2
mắt, chẳng làm được gì. Sáng vợ dắt ra đầu làng ăn xin, chiều vợ dắt về nhà ăn
tối. Hai vợ chồng sống rất lương thiện và an vui bên nhau. Một hôm, vợ bận việc
không ra đón chồng về được. Chồng chờ mãi không thấy, dò dẫm tìm đường về. Lần
mò thế nào mà lạc ngay vào rừng.
Tối đến tiếng thú
rừng kêu rống khiến người chồng sợ quá. Anh mò leo lên được một cây cao để
tránh cọp. Đúng lúc đó, bầy quỉ ma lại đến hội họp dưới gốc cây. Chúng chỉ cho
nhau biết chỗ giấu kho tàng và nói cho nhau hay cây thuốc quí có khả năng chữa
bách bệnh, kể cả mù loà.
Anh chàng mù nghe
được. Sáng hôm sau, lần tìm kiếm đến cây thuốc quí, hái xoa vào mắt, mắt anh
liền sáng. Rồi tìm đến kho tàng, lấy được rất nhiều của cải. Từ đó anh chàng mù
giàu có và rộng tay giúp đỡ những ai nghèo khó.
Người anh keo kiệt
thấy vậy nên mới hỏi chàng mù hỏi lý do tại sao em sáng mắt, và tại sao giàu
có. Người em (tức người mù) thành thật chỉ cho anh biết.
Bấy giờ người anh
giả vờ mù, đi đến gốc cây trong khu rừng đó, đang đêm leo lên cây ấy chờ đợi.
Bọn quỉ cũng đến họp. Nhưng phát hiện kho tàng đã mất, bèn bủa nhau đi tìm. Gặp
được người anh đang trốn trên cây, chúng cho là kẻ trộm, nên đem xuống giết
chết.
Câu chuyện cổ tích
trên đây chắc chắn là không có thật. Nhưng người xưa kể ra nhằm răn dạy con
cháu nhiều bài học, như: “ở hiền gặp lành”, “tham thì thâm”.
Tin Mừng Chúa nhật
hôm nay cũng lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa cho người mù Batimê được sáng mắt nhờ vào đức
tin kiên vững và lời cầu xin tha thiết của anh ta.
Từ hai câu chuyện
trên, ta nhận thấy rằng:
- Có những người
người mắt thật sáng, nhưng chỉ vì một chút lợi lộc cỏn con mà trở nên mù lòa như
người anh trong câu chuyện trên.
- Có những người con
mắt lý trí rất sáng suốt nhưng con mắt đức tin lại mù lòa khiến họ không thể
nhạy bén nhận ra tình thương sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu
Kitô như những người Biệt Phái.
- Có những
người mắt thật sáng, nhưng vì cái tôi quá lớn khiến họ không còn khả năng nhận
ra cái hay, cái tốt nơi người khác.
- Có những người con
mắt kiến thức rất sáng nhưng tâm hồn lại
mù lòa, bởi họ không có khả năng thấy những cảnh đời nghèo khổ, bất hạnh chung
quanh mình mà yêu thương, giúp đỡ họ.
- Lần nọ, sau khi phát hiện ra
mẹ mình đã trả lộn cho khách một số tiền lớn, cô con gái đã quay lại nạt mẹ
rằng: “Bộ mắt mẹ đui sao mà lại tính lộn như vậy”.
Nghe lời ấy của đứa con, người mẹ rất đau
lòng, xót xa cay đắng vì sự đui mù nhẫn tâm của người con gái mình, khi nó coi
thường và có những lời lẽ hết sức xúc phạm nặng nề với người mẹ mình.
- Người vợ
quên pha cà phê, người chồng khó chịu. Chàng chỉ thấy cái mầu đen của cà phê mà
mù trước biết bao chăm sóc khác của vợ dành cho mình, để rồi giận dỗi bỏ đi.
- Người
chồng quên sửa chiếc ghế, người vợ đay nghiến. Nàng chỉ thấy chân ghế gãy chưa
sửa mà mù trước biết bao công sức chàng đã làm cho nhà cửa gia đình.
Xin Chúa cho chúng ta có được đôi mắt của đức
tin để ta nhạy bén nhận ra những kỳ công lạ lùng của Chúa trong vũ trụ này,
cũng như nhìn thấy được những ân huệ lớn lao mà Chúa thương ban trên cuộc đời
ta.
Xin Chúa loại trừ khỏi những áng mây đen của vô
tình, hững hờ và khinh khi… đang che phủ nơi con mắt tâm hồn ta, để ta nhìn
thấy đời, nhận ra người bằng ánh mắt của cảm thông, bao dung và trân quý.
Xin Chúa đừng bao giờ để ta hành xử vô duyên,
vô tình, vô tâm với nhau bởi những lời soi mói, chê bai, cười đùa trước nổi đau
khiếm khuyết của tha nhân; cũng đừng để chúng ta trở thành rào cản ngăn chặn
những ước muốn chính đáng của người khác. Trái lại, xin Chúa cho chúng ta có
những hành vi hào hiệp, những lời nói cảm thông, những việc làm bác
ái, những hy sinh phục vụ quên mình cho tha nhân. Trong năm sống chủ đề : “thúc
đẩy sự tham gia vào đời sống giáo hội”, xin cho ta đừng bao giờ có thái độ ngăn
cản những người khác tham gia vào những sinh hoạt mục vụ của Họ đạo, nhất là
đừng gây khó dễ cho những ai yếu đuối, sa ngã trở về với Giáo hội và tìm đến
với Chúa.
Suy niệm 3: CÓ NHỮNG KẺ MÙ MÀ SÁNG MẮT. CÓ NHỮNG KẺ SÁNG MẮT MÀ MÙ.
Truyện kể: Ngày xưa có một anh mù,
mù cả 2 mắt, chẳng làm được gì. Sáng vợ dắt ra đầu làng ăn xin, chiều vợ dắt về
nhà ăn tối. Hai vợ chồng sống rất lương thiện và an vui bên nhau. Một hôm, vợ bận
việc không ra đón chồng về được. Chồng chờ mãi không thấy, dò dẫm tìm đường về.
Lần mò thế nào mà lạc ngay vào rừng.
Tối đến tiếng thú rừng kêu rống khiến người chồng sợ quá. Anh mò leo lên
được một cây cao để tránh cọp. Đúng lúc đó, bầy quỉ ma lại đến hội họp dưới gốc
cây. Chúng chỉ cho nhau biết chỗ giấu kho tàng và nói cho nhau hay cây thuốc
quí có khả năng chữa bách bệnh, kể cả mù loà.
Anh chàng mù nghe được. Sáng hôm sau, lần tìm kiếm đến cây thuốc quí, hái
xoa vào mắt, mắt anh liền sáng. Rồi tìm đến kho tàng, lấy được rất nhiều của cải.
Từ đó anh chàng mù giàu có và rộng tay giúp đỡ những ai nghèo khó.
Người anh keo kiệt thấy vậy nên mới hỏi chàng mù hỏi lý do tại sao em
sáng mắt, và tại sao giàu có. Người em (tức người mù) thành thật chỉ cho anh biết.
Bấy giờ người anh giả vờ mù, đi đến gốc cây trong khu rừng đó, đang đêm leo
lên cây ấy chờ đợi. Bọn quỉ cũng đến họp. Nhưng phát hiện kho tàng đã mất, bèn
bủa nhau đi tìm. Gặp được người anh đang trốn trên cây, chúng cho là kẻ trộm,
nên đem xuống giết chết.
Câu chuyện cổ tích trên đây chắc chắn là không có thật. Nhưng người xưa kể ra nhằm răn dạy con cháu nhiều bài học, như ở hiền gặp lành, như “tham thì thâm cổ nhân dạy thế, lấy chuyện gà ra để răn đời…”
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay
cũng lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa người mù thành Giêricô được sáng mắt nhờ
vào đức tin kiên vững và lời cầu xin tha thiết của anh ta. Từ hai câu chuyện
trên, ta có thể rút ra bài học, đó là : 'Có
những người mù mà sáng mắt – có người sáng mắt mà lại mù'.
1. Có Những Người Mù Mà Sáng.
Người mù trong truyện cổ
tích nhờ biết leo lên cây để tránh thú dữ.
Biết lắng tai nghe lời quỉ họp
bàn.
Biết lúc nào mới xuống khỏi
cây cao.
Biết tìm đến cây thuốc quí.
Biết dùng kho tàng chia sẻ cho
người nghèo.
Người mù tại Giêricô cũng là
một người 'mù mà sáng'.
- Cái sáng 1: là anh biết
mình đang mù, nên rất cần được sáng. Có những người sáng mà như mù vì nghĩ rằng
mình chẳng cần ánh sáng nào cả.
- Cái sáng 2:
là anh biết ai mới là người có thể làm cho mình được sáng mắt: anh đã nghe nói
về Đức Giêsu nhiều rồi. Và hôm nay anh còn sáng hơn vì đã nhận ra Ngài là Đấng
Cứu Thế : 'Nghe tin có Đức Giêsu Nazaret,
anh kêu to' : 'Lạy Giêsu, con Vua Đavit'. “Con Đavit” là tước hiệu Đấng Cứu Thế.
- Cái sáng 3:
là anh biết mình phải làm gì. Anh tìm đến Người sắp đi qua và chờ cho gặp được Người
có thể chữa mình.
Khi không chạy đến với Người
bằng đôi chân (vì mắt mù) thì chạy đến bằng tiếng kêu. Người ta bảo chàng im đi,
muốn át tiếng kêu của chàng, thì chàng lại la to hơn: “Lạy Con vua Đavit xin thương xót thân con !”
- Cái sáng 4:
là khi tiếp xúc được với Người có thể chữa mình, anh biết từ bỏ. Anh ta liền vất
cả áo choàng nhảy chồm lên mà đến với Đức Giêsu. Rồi khi Đức Giêsu đã chữa anh
khỏi, anh liền đi theo Người.
Đó là một mẫu người 'mù mà vẫn
sáng', vì người đó biết mình cần gì.
Mình phải làm gì để đạt được điều
mình cần. Và khi đạt được rồi phải làm gì để giữ mãi được điều mình cần đó. Đó
là đi theo Đức Giêsu, vì Ngài chính
Ánh sáng.
Qua Bí tích Thánh Tẩy, chúng
ta được trao nến sáng, tượng trưng cho Đức Kitô là Ánh Sáng. Chúng ta có cố gắng
để giữ mãi ánh sáng ấy không, hay là chúng ta như hạng người thứ hai: 'sáng mắt
mà mù'.
2. Có Những Người Sáng Mắt Mà Mù
Như người anh trong câu truỵên
cổ tích: nghe nói đến kho tàng của cải là mù tối ngay. Sẵn sàng giả vờ mù, đi
trong đêm tối để rồi bị chết vào tay bầy quỉ. Thì cũng vậy:
- Có người người mắt thật
sáng, mà vì một chút lợi lộc cỏn con, không thèm nhìn thấy người kia là bạn
mình nữa.
- Có những người mắt thật
sáng mà chỉ vì một câu nói chạm tự ái, một hành vi nhỏ động khẽ đến danh dự là
muốn làm cho to chuyện, làm cho ra nhẽ, lại hoá ra đánh mất luôn cái danh cỏn
con ấy.
- Có những người
mắt thật sáng, mà hoá mù trước cái tốt của kẻ khác.
Xin mẹ 1000, mẹ không cho,
em bé phụng phịu khó chịu. Em nhìn thấy thật sáng tờ 1000 mà mù, không thấy bao
nhiêu là tiền của công sức nuôi dạy em, từ bé cho tới giờ, để rồi tức tối với
cha mẹ. (chuyện một em bé đòi tiền công rửa chén, quét nhà bằng một tờ giấy viết
tay, là 10 ngàn. Mẹ đưa bé tờ một chục. Tối đến mẹ chìa cho bé xem một hóa đơn
dài, ghi sẵn tiền công sinh, công dưỡng, công chăm sóc bé…cho đến nay. Cộng
chung con số tiền cực to).
- Người vợ
quên pha cà phê, người chồng khó chịu. Chàng chỉ thấy cái mầu đen của cà phê mà
mù trước biết bao chăm sóc khác của vợ dành cho mình, để rồi giận dỗi bỏ đi.
- Người chồng
quên sửa chiếc ghế, người vợ đay nghiến. Nàng chỉ thấy chân ghế gãy chưa sửa mà
mù trước biết bao công sức chàng đã làm cho nhà cửa gia đình.
Để nhìn cho được cái tốt của
kẻ khác, nói cách khác để mắt ta không mù trước cái tốt của tha nhân, cần có Đức
Kitô Con vua Đavit mở cho chúng ta.
Không phải dễ. Và khi đã mở
rồi, ta phải gắn bó với Ngài, tức là phải tìm ánh sáng nơi Ngài trong các cư xử
hằng ngày của ta. Chớ gì trước khi nóng giận chỉ trích, ta thử hỏi Đức Giêsu
trong hoàn cảnh này sẽ làm gì. Ta hãy cầu xin Đức Giêsu, Con vua Đavit mở mắt
cho chúng ta nhìn thấy người khác là hình ảnh và là chính thân thể Đức Kitô vậy.
Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
Suy niệm 4: LỄ THIẾU NHI
“Hỡi ông Giêsu con vua Đavít xin thương xót con”. xin thương xót tôi”. Đó là lời kêu xin tha thiết của anh mù Bar-ti-mé.
Đến với Chúa hôm nay, chúng ta cũng hãy bắt chước anh mù, khiêm tốn nhìn ra sự mù lòa tăm tối của tâm hồn mình, mà tha thiết khẩn xin Chúa cứu chữa, hầu chúng ta có thể nhìn ra Chúa là ai, đâu là con đường phải đi, lý tưởng nào ta phải theo để đạt đến hạnh phúc thật, là cuộc sống Nước Trời.
Lần nọ, sau khi phát hiện ra mẹ mình đã trả lộn cho khách một số
tiền lớn, cô con gái đã quay lại nạt mẹ rằng: “Bộ mắt mẹ đui sao mà lại tính
lộn như vậy”.
Trong nỗi xót xa vì cái đui mù vô tình do lầm lẫn của mình, người
mẹ có lẽ còn cảm thấy xót xa cay đắng hơn nhiều, vì sự đui mù nhẫn tâm của
người con gái, khi coi thường và có những lời lẽ hết sức xúc phạm với mẹ mình.
1. Có mấy loại mù loà?
Có ba loại:
+ Mù loà thể lý: Anh mù Bartimê.
+ Mù loà tâm lý: Như bà mẹ trong câu chuyện trên.
+ Mù loà đức tin: Các biệt phái.
2. Hậu quả của sự mù loà là gì?
– Mù loà thể lý: Mặc cảm ở đậu ăn nhờ vào người khác.
– Mù loà tâm lý: Bị khinh dể hất hủi, bỏ rơi.
– Mù loà về đức tin: Mất đi hạnh phúc đời đời.
3. Hôm nay có chuyện gì xảy ra tại Giêricô?
– Có anh mù tên Bartimê đang ngồi bên vệ đường ăn xin.
4. Anh mù đã xin gì khi nghe Chúa Giêsu đi ngang qua?
– Lạy Con vua Đavít xin thương xót tôi.
5. Thái độ của anh ta thế nào?
– Đặt trọn niềm tin tưởng và chạy đến cùng Chúa.
6. Chúa Giêsu hôm nay làm gì cho anh mù?
– Nghe thấy tiếng van xin của anh mù.
– Quan tâm và hỏi anh muốn Chúa làm gì cho anh.
– Yêu thương chữa lành cho anh: Đức tin của con đã chữa con.
7. Anh mù đã làm gì sau khi được chữa lành?
– Nhìn ra Chúa Giêsu chính là Đấng cứu thế.
– Sẵn sàng bước đi trên con đường cứu độ của Chúa.
8. Ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, Chúa trao gì cho chúng ta?
– Trao cho chúng ta ngọn đèn đức tin.
9. Bắt chước anh mù Bartimê, chúng ta phải làm gì?
– Giã từ bóng tối tội lỗi:
+ Dối trá trộm cắp
+ chửi tục nói bậy
+ Cãi cọ nói xấu
+ Lười biếng khô khan
+ xem phim ảnh bậy bạ…
– Đi theo ánh sáng của Chúa:
+ Siêng năng học hỏi giáo lý
+ Đến với Chúa qua việc tham dự thánh lễ và lãnh nhận bí tích
+ Đưa dẫn người khác đang bị mù loà tội lỗi đến cùng Chúa.
Lm. Giuse Vũ Đức Hiệp
Thứ hai: Ep 2,19-22; Lc 6,12-19
KÍNH THÁNH SIMON VÀ GIUĐA TÔNG ĐỒ
Suy niệm 1:
Để thực thi sứ mạng rao giảng Tin mừng, đem ơn
cứu độ đến cho con người, một mình Chúa Giêsu là đủ, vì Ngài là Thiên Chúa.
Nhưng Chúa lại không dùng cách thế đó. Trái lại, Chúa muốn mời gọi con người
cộng tác.
Cụ thể bài Tin mừng hôm nay liệt kê bảng danh
sách 12 tông đồ, những người được Chúa Giêsu tuyển chọn để cộng tác với Ngài
trong sứ mạng hết sức cao cả là loan báo Tin mừng. Để tuyển chọn và trao phó
cho con người sứ mạng hết sức cao quý này, Chúa Giêsu đã không làm theo cảm
tính cá nhân, hay theo cái nhìn chủ quan. Trái lại Ngài đã thận trọng tìm hiểu
và bàn hỏi với Chúa Cha bằng cách suốt đêm cầu nguyện.
Nhìn vào danh sách 12 tông đồ mà Chúa Giêsu
tuyển chọn sau một đêm dài cầu nguyện, chúng ta nhận thấy đa số các ngài là
những người quê mùa, ít học, nghèo khổ, tính tình lại rất người, chẳng tài ba
lỗi lạc gì. Trong đó có hai vị tông đồ mà chúng ta mừng kính hôm nay: Giuđa và
Simon.
Thánh kinh ít khi nhắc đến hai vị tông đồ này,
ngoại trừ bảng liệt kê danh sách các tông đồ hôm nay. Được biết trong số 12
tông đồ có tới hai vị mang tên là Simon. Để phân biệt, Thánh kinh gọi thánh
Simon mừng kính hôm nay là Simon Nhiệt Thành, khác với Simon Phêrô. Cũng vậy,
có hai vị mang tên là Giuđa trong danh sách 12 tông đồ. Nên để phân biệt, Thánh
kinh gọi Giuđa mừng kính hôm nay là Giuđa Tađêô khác với Giuđa Iscariôt (phản
bội). Cả hai vị không có tài năng nào nổi trội ngoại trừ lòng Nhiệt Thành và sự
Tín Trung, theo ý nghĩa biệt danh của hai ngài.
Như vậy, để tuyển chọn những người tiếp nối sứ
mạng loan báo Tin mừng mang ơn cứu độ đến với nhân loại, Chúa Giêsu không chọn
những người giàu có, tài ba lỗi lạc hay đạo đức thánh thiện trổi vượt. Điều
Chúa cần đó là những con người khiêm tốn âm thầm cộng tác với Ngài và tiêu
chuẩn mà Chúa đến là lòng Nhiệt Tâm trong sứ vụ và sự Trung Thành cho lý tưởng
tới cùng. Thế là đủ!
Xin cho chúng ta ý thức rằng: ý Chúa luôn tốt
hơn ý của ta, sự chỉ dạy của Ngài luôn mang lại lợi ích tốt nhất cho phần phúc
chúng ta. Vì thế mội khi làm bất cứ việc gì, nhất là khi quyết định những việc
quan trọng trong đời, chúng ta cần dành thời giờ để cầu nguyện, xin ơn soi sáng
của Chúa; đồng thời cũng nên bàn hỏi với bề trên là những người có kinh nghiệm
và có trách nhiệm hướng dẫn đời sống đức tin của chúng ta. Xin cho chúng ta
hằng biết noi gương hai vị thánh tông đồ Simon và Giuđa luôn nhiệt thành trong
bổn phận và hằng trung tín với niềm tin.
Hai vị thánh này, tuy ít được nhắc đến trong các sách Tin Mừng, nhưng
lại mang trong mình một sứ điệp sâu sắc về đức tin và lòng nhiệt thành. Họ là
những người đã đáp trả lời mời gọi của Chúa Giêsu tích cực, sẵn sàng bỏ lại tất
cả để dấn bước lên đường, trở thành những chứng nhân trung thành cho Tin Mừng
cứu độ của Chúa.
Cả hai ngài đều được Chúa Giêsu chọn làm tông đồ. Điều này cho chúng ta
thấy rằng, mỗi người chúng ta đều được Chúa yêu thương và mời gọi. Dù chúng ta
là ai, ở đâu, làm gì, thì lời mời gọi của Chúa vẫn luôn vang vọng trong tâm
hồn.
Thánh Simon được gọi là "Nhiệt Thành", điều này cho thấy ngài
có một lòng yêu mến Chúa tha thiết và một khát khao được rao giảng Tin Mừng. Còn
thánh Giuđa Tadeo, tuy ít được biết đến, nhưng ngài cũng là một tông đồ trung
tín, luôn sẵn sàng từ bỏ tất cả để đi theo phục vụ Chúa.
Cả hai ngài đều là những tấm gương sáng về đức tin. Các ngài đã sống
một cuộc đời khiêm tốn, hy sinh phục vụ và luôn đặt niềm tín thác vào tình
thương của Chúa. Trong một thế giới đầy những cám dỗ, thì mẫu gương của các
ngài mời gọi chúng ta sống trung thành với đức tin và nhiệt tâm thi hành sứ
mạng ngôn sứ của mình là điều hết sức cần thiết.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì đã
ban cho GH chúng ta hai vị thánh tông đồ Simon và Giuđa luôn nhiệt thành cho sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa. Xin cho chúng ta biết noi gương
các ngài luôn kiên vững trong đức tin và hăng say làm chứng nhân cho Tin Mừng
tình thương của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Amen.
* Mùa thường niên: Lc 13, 10-17
Khi suy ngắm về lời nói cũng như hành vi của
các nhân vật được đề cập trong đoạn Tin mừng hôm nay, gợi lên cho chúng ta nhiều
bài học quý:
1. Nơi Đức Giêsu: Vẫn biết rằng việc chữa bệnh cho người đàn bà bị còng lưng trong ngày
Sabat là gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của nhiều phe nhóm, cụ thể là thái độ
phản đối của ông trưởng hội đường hôm nay. Thế mà Chúa Giêsu lại không chùn
bước và sợ hãi. Trái lại với sức mạnh của tình yêu thúc đẩy và luật bác ái đòi
buộc, Chúa Giêsu đã ra tay cứu chữa cho bà. Hành động này của Chúa Giêsu gợi
lên trong ta nhiều suy nghĩ:
- Khi thực thi tình bác ái đối với tha nhân,
nhiều lúc tôi cũng bị người đời gièm pha chỉ trích hoặc giả bị ngăn cản chống
đối. Vậy tôi có chùn bước không?
- Để được an phận, tôi có a-dua theo cái nhìn
sai lạc của thói đời mà dửng dưng trước những đau khổ của tha nhân không?
- Đã bao lần tôi có đủ can đảm để thực thi luật
tình yêu, bằng việc tận tâm giúp đỡ những người đang gặp khốn khổ chung quanh
tôi?
2. Nơi ông trưởng hội
đường: Với chức vị là người đứng đầu của một hội đường, đáng lẽ ông phải là
người đầu tiên cảm thương cho số phận khốn khổ của người chị em mình, vì suốt
18 năm dài lưng chị bị còng không ngẩng đầu lên nổi.
Hơn ai hết ông phải là người vui nhất khi nhìn
thấy người chị em mình được cứu chữa; ấy vậy mà khi chứng kiến người chị em này
được Chúa Giêsu chữa lành, ông ta lại tỏ ra khó chịu. Như "Giận cá chém thớt",
ông quay về phía dân chúng và trút xuống một cơn mưa giận dữ khi tuyên
bố: "có sáu ngày người ta phải làm việc: vậy thì các người hãy đến
xin chữa bệnh trong những ngày đó, chứ đừng đến trong ngày Sabat.".
Để cởi trói cái nhìn thiên kiến và quan niệm sai
lạc về việc giữ luật ngày Sabat, Chúa Giêsu đã không ngần ngại lên án mạnh mẽ
lối sống giả hình của ông, rồi xác định cho mọi người nhận ra được giá trị cao
quý của phẩm giá con người khi tuyên bố: "Chớ thì trong ngày
Sabat, mỗi người trong các ông không thả bò hay lừa của mình ra khỏi chuồng mà
dẫn nó đi uống nước nước sao? Phương chi người con gái của Abraham này, Satan
đã cột trói nó đã 18 năm nay, chớ thì không nên tháo xiếng xích buộc nó trong
ngày Sabat sao?". Súc vật mà còn được tháo cởi trong ngày Sabat để
chúng tự do đi lại ăn uống, thì tại sao người đàn bà này là con gái của tổ phụ
Abraham và là con cái Thiên Chúa lại không được thừa hưởng quyền tự do cơ bản
đó!.
Qua đây Chúa Giêsu minh chứng rằng: chỉ có một
lề luật duy nhất để tuân giữ, đó là luật yêu thương; và chỉ có một giá trị cao
cả nhất để sống và chết cho đó là tự do làm người và làm con Chúa.
Xin Chúa loại trừ những đố kỵ, ghen ghét tầm
thường nơi mỗi chúng ta để chúng ta có được cái nhìn trong sáng đúng đắn. Và
xin Chúa cũng giúp chúng ta luôn biết sống nhân ái bao dung với hết mọi người
như Chúa đã hằng nhân ái với chúng ta. Amen.
3. Nơi người đàn bà bị
còng lưng 18 năm: Với hình ảnh người đàn bà bị còng lưng 18
năm trời, cho thấy nổi đau khổ mà bà phải cam chịu trong suốt thời gian dài.
Khổ vì không ngước mặt lên được để nhìn người,
nhìn đời.
Khổ vì không thể nhìn xa, ngước cao dù chỉ một
lần.
Khổ vì mang gánh nặng mặc cảm tội lỗi mà người
đời gán ghép cho. (người Do Thái cho rằng bệnh tật là do tội lỗi gây nên).
Khổ vì hằng ngày phải đối diện với bao lời xì
xầm nhạo cười của bao người chung quanh, do tướng mạo khác người.
Việc bà được Chúa Giêsu chữa khỏi quả là một
niềm vui lớn lao. Vui vì từ nay gánh nặng trên lưng bà được cất khỏi sau 18 năm
trời mang lấy. Vui vì khối u tội lỗi đè nặng tâm hồn bà nay được gỡ bỏ. Từ nay
bà có thể ngước nhìn đời và nhìn người cách dễ dàng. Hạnh phúc nào bằng khi hôm
nay bà có thể hòa nhập với mọi người trong các sinh hoạt xã hội và tôn giáo. Từ
nay bà tự do hướng nhìn về trời cao và có quyền mơ ước những điều cao quý như
bao người!
Tội lỗi, tính hư tật xấu là gánh nặng vô hình
nhiều lúc cũng đè nặng tâm hồn và cuộc sống chúng ta. Mong được giải thoát,
trút khỏi gánh nặng nề ấy để lòng được thanh thản, an vui là niềm khát khao lớn
lao của mỗi người. Nhưng tự sức ta nhiều lúc không đủ sức vượt thoát khỏi những
trói buộc vô hình ấy. Chỉ có quyền lực của Chúa mới đủ sức mạnh cởi trói và
giải thoát ta khỏi ràng buộc của ma quỷ, xác thịt và thế gian mà thôi.
Xin Chúa thương đụng chạm đến con người đầy yếu
đuối tội lỗi của ta để những gánh nặng do bệnh tật thể xác và tâm hồn do ma quỷ
gây ra được tháo cởi. Nhờ đó đem lại cho ta niềm vui và sự tự do đích thực của
đời làm con Chúa.
Thứ ba: Lc 13,18-21
Suy niệm 1:
Khi muốn nói những điều khó nói, người ta hay
dùng cách nói ví von. Khi muốn bộc bạch những tâm tình sâu kín, khó nói thành
lời, người ta hay nhờ đến những câu chuyện. Còn khi mạc khải về mầu nhiệm nước
trời cho dễ hiểu, Chúa Giêsu lại hay dùng đến những dụ ngôn. Có thể nói, dụ
ngôn là con đường ngắn nhất, thực tế nhất, gần gũi nhất và cũng hữu hiệu nhất
đưa dẫn chúng ta tiếp nhận được những giá trị thiêng liêng và thực tại vô hình.
Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu dùng đến hai dụ
ngôn: Dụ hạt cải và tấm men để mạc khải về mầu nhiệm nước trời. Với hai dụ ngôn
này, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta biết: nước trời khởi đầu bé tí ti như hạt
cải, âm thầm như tấm men. Nhưng với thời gian nó dần dần lớn lên, vững mạnh và
có sức lan tỏa đến bất ngờ!
- Với hạt cải nhỏ bé, nhưng khi được gieo vào
lòng đất, nó lại âm thầm lớn lên vững mạnh, to lớn đến nổi làm chổ nương tựa
cho chim trời ẩn trú an toàn.
- Với tấm men ít ỏi, nhưng khi trộn lẫn vào ba
đấu bột thì nó lại kích thích ba đấu bột dậy men, trở thành một khối bột to
lớn.
+ Giống như hạt cải ban đầu nhỏ tí ti, nhưng
khi gieo vào lòng đất nó mọc lên và trở thành cây cao bóng cả, trở nên nơi trú
ẩn an toàn cho chim trời những khi mõi mệt và gặp hiểm nguy; GH khởi đầu rất
khiêm tốn, nhỏ bé chỉ với nhóm tông đồ 12 nhỏ nhoi. Nhưng trãi qua hơn 2000 năm
qua, GH đã không ngừng phát triển và lớn mạnh. Đến nay đã có trên 1 tỷ người
công giáo, chiếm 17,7 phần trăm dân số thế giới. GH đã trở thành nơi tựa nương
cho bao nhiêu người yếu đuối, nghèo khổ tựa nương; trở nên bóng mát cho những
ai mệt nhòai trên đường đời ẩn náo. Bởi lúc nào GH cũng đứng về phía người
nghèo, cô thế cô thân để bênh vực chở che, nhằm đem lại cho họ nguồn bình an
đích thực. Như lời mời gọi của Chúa Giêsu: "Những ai vất vả mang
gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng" (Mt
11, 28).
+ Tựa như tấm men rất ít ỏi, nhưng khi được
trộn vào ba đấu bột nó lại âm thầm kích thích cho ba đấu bột dậy men thành một
khối to; làm thành những tấm bánh thơm ngon mang lại niềm vui và nguồn sức sống
cho con người. Số tín hữu trong GH ban đầu cũng rất ít ỏi, lại phải sống hòa
nhập với mọi người trong một thế giới rộng lớn. Vậy mà chỉ với thời gian ngắn,
Tin mừng của Chúa đã thấm nhập và lan tỏa đến mọi người trên khắp cùng thế
giới, nhờ vào đời sống hiệp nhất yêu thương và gương chứng nhân đức tin anh
hùng của các kitô hữu.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết tích cực
cộng tác với GH trong sứ mạng mở mang nước trời bằng đời sống chứng nhân của
tình yêu Chúa; trở thành men Tin mừng thấm nhập vào mọi tâm hồn và lan tỏa đến
mọi nơi. Nhờ đó mà GH của Chúa mỗi ngày được lan rộng và vững vàng hơn.
Suy niệm 2:
Dụ ngôn hạt cải và nắm men là một trong những dụ ngôn rất đẹp và giàu ý
nghĩa do Chúa Giêsu giảng dạy. Với hai dụ ngôn này giúp chúng ta hiểu rõ hơn
về Nước Trời.
- Hạt cải: Từ một hạt giống nhỏ bé, cây cải lớn lên đến mức chim trời có thể làm
tổ. Điều này cho thấy sức mạnh của sự phát triển, của sự lớn lên từ những điều
nhỏ bé. Nước Trời cũng vậy, bắt đầu từ một nhóm nhỏ các môn đệ, nhưng rồi dần
dần lớn mạnh và lan tỏa ra khắp thế giới. Điều này khích lệ chúng ta hãy luôn
giữ vững niềm tin vào sự phát triển của Nước Trời trong chính tâm hồn mình và
trong cộng đoàn, cho dẫu khởi đầu có vẻ nhỏ bé và chậm chạp.
- Nắm men: Một lượng men nhỏ
có thể làm dậy cả một khối bột. Dụ ngôn này nhấn mạnh sức mạnh của sự biến đổi,
của ảnh hưởng sâu rộng. Giống như nắm men, mỗi người chúng ta cũng có khả năng
ảnh hưởng đến những người xung quanh, góp phần làm cho thế giới trở nên tốt đẹp
hơn. Vậy mỗi người chúng ta hãy là những "hạt men" trong xã hội, để mang
Tin Mừng đến cho những người xung quanh bằng những hành động yêu thương và chia
sẻ.
Xin Chúa giúp chúng ta
hiểu rõ hơn về dụ ngôn hạt cải và nắm men. Xin cho chúng ta luôn giữ vững niềm
tin vào Nước Trời và trở thành một chứng nhân trung thành của Chúa cho dẫu gặp
phải nhiều khó khăn thách đố trong thời đại ngày nay. Amen.
Thứ tư: Lc 13, 22-30
Được cứu độ hay vào được nước trời nhiều hay
ít? có lẽ là nỗi trăn trở của không ít người thời Chúa Giêsu. Với nỗi ưu tư đó
nên tin mừng hôm nay cho biết có một người đến đặt vấn đề với Chúa Giêsu:
"Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ? ".
Để trả lời cho vấn nạn này, Chúa Giêsu không
cho anh ta biết số lượng vào nước trời nhiều hay ít. Nhưng Chúa Giêsu lại đưa
ra phương cách cần thiết để được cứu độ.
1. Mặt tích cực, Chúa
Giêsu kêu gọi:
- "Hãy cố gắng vào qua cửa
hẹp" (Lc 13,24), vì "cửa hẹp dẫn đến sự sống" (Mt
7,14). Thật ra cửa vào sự sống không hẹp, nhưng hẹp vì cái tôi của tôi to quá.
Cần nỗ lực liên tục để giữ cho cái tôi nhỏ lại, khiêm hạ trước Thiên Chúa, cởi
mở trước anh em. Cần có một cái tôi như trẻ thơ mới được vào Nước Trời (x.Mt
18,3).
Cái tôi của chúng ta luôn có khuynh hướng bành
trướng nhờ thu tích nơi mình tri thức, tiền bạc, khả năng. Cả kinh nghiệm, tuổi
tác, đạo đức, chức vụ, cũng có thể làm cái tôi xơ cứng và phình to. Ðể
"người lớn" trở nên bé nhỏ như trẻ thơ, cần phải biến đổi và tự hạ
(x. Mt 18, 3-4). Ðây thật là một cố gắng không ngừng. Khi hủy mình ra không, ta
sẽ dễ dàng đi qua cửa hẹp.
- Phải thể hiện đời sống như các tổ phụ: Nghĩa
là phải noi gương Abraham, Isaac và Giacóp, vững vàng trong đức tin và trung
kiên trong đức mến.
2. Mặt tiêu cực, Chúa
Giêsu cảnh báo những điều nên tránh:
- Tránh ảo tưởng mình là người Kitô hữu đương
nhiên được cứu. Gioan Tẩy Gỉa đã chẳng cảnh báo với những người Biệt phái và
nhóm Sađucêô: "Đừng ỷ mình là con cháu tổ phụ Abraham…” (Mt
3,7t); cũng như Chúa đã khuyến cáo: đừng tưởng rằng đã từng ăn uống trước mặt
Ngài, và từng nghe Ngài giảng dạy là được cứu. Nhưng để được cứu độ, ta còn
phải biết lắng nghe và thực hành Lời của Chúa: "Mẹ và anh em của
Ta là những người nghe Lời Chúa và đem ra thực hành." (Lc 8, 21).
- Tránh quan niệm “sống lâu năm lên lão làng”.
Nghĩa là ỷ vào công trạng giữ đạo lâu năm mà chễnh mãng trong đời sống đức tin,
xem thường đạo lý và Lời Chúa. Điều này có nguy cơ sẽ bị loại khỏi nước trời.
Ơn cứu độ chỉ dành riêng cho những ai kiên trung sống đức tin đến cùng. Vì thế,
Chúa Giêsu đã không ngại tuyên bố: " kẻ sau hết sẽ trở nên trước
hết...".
Xin cho chúng ta biết loại bỏ đi những suy nghĩ
theo kiểu người đời. Nhưng biết kiên trì không ngừng nổ lực thực thi Lời Chúa
dạy bảo, với tinh thần khiêm tốn, để xứng đáng được vào số người được cứu độ.
Suy niệm 2:
"Lạy Thầy, phải
chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?"
Cuộc sống
con người có nhiều nỗi bận tâm nhưng nỗi bận tâm sâu xa nhất vẫn là sô phận đời
của mình. Câu hỏi của một người đặt
ra với Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay thật sâu sắc : phải chăng con
đường dẫn đến sự cứu rỗi chỉ dành cho một số ít người?
Về vấn đề
này, Chúa Giêsu không đưa ra một con số cụ thể, nhưng Ngài khẳng định rằng
việc tìm kiếm Nước Trời là một cuộc chạy đua cần sự nỗ lực không ngừng. Ngài ví
von việc vào Nước Trời tựa như việc một người cố gắng chen lọt qua một cánh cửa
hẹp. Điều này cho thấy rằng sự cứu rỗi không phải là một đặc ân dành cho một số
ít người, mà là một mục tiêu mà mọi người đều có thể đạt được nếu họ kiên trì
và cố gắng.
- Cửa hẹp: tượng trưng cho
sự khó khăn, đòi hỏi mỗi người phải cố gắng. Để vào được Nước Trời, con người
phải từ bỏ những ham muốn ích kỷ, sống theo lề luật của Thiên Chúa và luôn
hướng đến sự hoàn thiện bản thân.
- Cuộc chạy đua: Cuộc chạy
đua để vào Nước Trời cho thấy sự cấp bách và tính khẩn trương của việc tìm kiếm
ơn cứu độ. Con người không có nhiều thời gian để trì hoãn, mà phải hành động
ngay từ bây giờ.
- Nỗ lực không ngừng: Để đạt
được mục tiêu cứu rỗi, con người cần phải nỗ lực không ngừng, kiên trì vượt qua
những khó khăn và thử thách.
* Như vậy Lời Chúa hôm
nay mời gọi chúng ta:
- Phải thay đổi cuộc sống: Chúng
ta cần phải thay đổi cuộc sống của mình để phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.
Điều này đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ những thói quen xấu, sống yêu thương và
bác ái với tha nhân.
- Phải sống niềm tin
vững vàng: Chúng ta cần phải sống với niềm tin vững chắc vào Thiên Chúa và vào
lời hứa cứu rỗi của Ngài. Niềm tin sẽ giúp chúng ta vượt qua những khó khăn và
luôn hướng tới mục tiêu cuối cùng.
- Phải siêng năng cầu nguyện: Cầu
nguyện là một phương tiện quan trọng giúp chúng ta duy trì mối liên hệ với
Thiên Chúa và xin Ngài ban cho sức mạnh để vượt qua mọi thử thách.
Con đường dẫn đến sự cứu rỗi tuy là một con đường hẹp, đòi hỏi chúng ta
phải cố gắng thật nhiều. Tuy nhiên, cánh cửa của ơn cứu độ luôn mở rộng cho hết
mọi người. Nếu chúng ta kiên trì và cố gắng, chúng ta sẽ đạt được mục tiêu cuối
cùng là sống đời đời trong Nước Thiên Chúa.
Xin Chúa giúp chúng ta có
đủ nghị lực và sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn thử thách mà kiên trì bước đi trên
con đường theo Chúa. Amen.
Thứ năm: Lc 13, 31-35
Suy niệm 1:
Để thi hành sứ mạng cứu độ con người, Chúa
Giêsu đã phải đối mặt với biết bao là thử thách. Có những thử thách xem ra nhỏ
nhoi, dễ dàng vượt qua, cũng có những thử thách khắt nghiệt, có nguy hại
đến mạng sống và lý tưởng, xem chừng khó vượt thắng. Tin mừng hôm nay cho
biết Chúa Giêsu phải đối mặt với hai thử thách hết sức cam go đến từ hai phía.
1. Đến từ bên ngoài: Vua Hêrôđê đang tìm cách hãm hại và tiêu diệt Ngài. Vì thế
khi đến địa hạt thuộc vua này quản lý, Chúa Giêsu đã phải chịu áp lực bởi lời
cảnh báo của một vài người...
Nhưng trung thành với với sứ mạng, Chúa Giêsu
đã không hề chùng bước và sợ hãi. Trái lại Ngài tỉnh táo phân tích vấn đề và
khẳng định nhiệm vụ ưu tiên của Ngài là loan báo tin mừng cứu độ nên phải chu
toàn. Mặt khác Ngài cũng rất hiểu về hoàn cảnh và con người của vua Hêrôđê. Vì
thế Ngài rất bìn tâm vì biết mình phải đối phó với hoàn cảnh nguy hiểm ấy như
thế nào.
2. Đến từ bên trong: Người đời thường nói: giặc ngoài không sợ, nhưng ngại nhất là thù
trong. Giêrusalem được xem là trung tâm chính trị, kinh tế , văn hóa và là cái
nôi của tôn giáo. Ấy vậy mà nơi đây đã trở nên kinh hoàng nhất vì bao ngôn sứ
đã bị giết tại đây và sứ điệp Tin mừng cũng bị khướt từ chính từ nơi này. Chúa
Giêsu đã mạc khải cho biết về đau khổ mà Ngài phải chịu, và cái chết đau thương
mà Ngài đối mặt cũng sẽ xảy ra chính tại nơi này, nơi mà được xem là người nhà
và là cái nôi của tôn giáo.
Đời sống đức tin của mỗi chúng ta cũng luôn
phải đối đầu với bao là thử thách. Có những thử thách đến từ bên ngoài, tuy
nhiên cũng có những thử thách đến từ bên trong, ngay trong chính bản thân ta
cũng có sự xung khắc.
Xin cho chúng ta luôn can đảm sống trọn bổn
phận với Chúa với nhau; đồng thời xin Chúa giúp chúng ta kiên vững niềm tin dù
có gặp nguy khó trên đường đời.
Suy niệm 2:
Đoạn Tin Mừng hôm nay cho biết Chúa Giêsu phải đối mặt với nhiều thử thách. Nhất là trong thời điểm mà vua Hêrôđê đang toan tính, tìm cách để giết hại Ngài. Biết tin ấy, thay vì sợ hãi và trốn chạy, Chúa Giêsu lại càng xác
quyết mạnh mẽ hơn về sứ mạng loan báo Tin Mừng, chữa lành bệnh nhân và trừ quỷ
của Ngài cho đến khi hoàn tất.
* Với lời xác quyết ấy
cho thấy:
- Lòng trung thành với
sứ mệnh: Dù đối mặt với nhiều khó khăn và nguy hiểm, Chúa Giêsu vẫn kiên trì
thực hiện sứ mệnh mà Chúa Cha giao phó. Điều này cho chúng ta thấy tầm quan trọng
của việc kiên trì theo đuổi mục tiêu của mình, dù gặp phải những trở ngại nào.
- Tình yêu thương con người: Chúa
Giêsu yêu thương con người đến nỗi Ngài sẵn sàng hy sinh bản thân mình để cứu
rỗi họ. Tình yêu của Ngài là một tấm gương sáng cho chúng ta noi theo.
- Niềm tin trọn vẹn
nơi Chúa Cha: Mặc dù bị đe dọa, Chúa Giêsu vẫn bình tĩnh và tin tưởng vào sự bảo vệ
của Chúa Cha. Điều này nhắc nhở chúng ta hãy đặt trọn vẹn niềm tin vào tình
thương và sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài luôn đồng hành và bảo vệ chúng ta
trong mọi hoàn cảnh.
* Noi gương Chúa Giêsu,
chúng ta hãy :
- Kiên trì với sứ mệnh
của mình: Mỗi người chúng ta đều có một sứ mệnh riêng. Chúng ta hãy cố gắng khám
phá và sống trọn vẹn sứ mệnh đó, bất chấp những khó khăn.
- Luôn yêu thương mọi
người: Hãy học nơi Chúa Giêsu để yêu thương hết mọi người, kể cả những người
không yêu thương mình.
- Vững tin vào Thiên Chúa: Dù gặp
phải khó khăn nào, ta cũng hãy vững tin vào tình thương và sức mạnh của Thiên
Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta có
được lòng can đảm và sự kiên trì để thực hiện sứ mệnh mà Chúa giao phó. Xin cũng
cho chúng ta biết yêu thương hết mọi người và nhiệt thành ra đi thi hành sứ
mạng loan báo Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người. Amen.
Thứ sáu: Kh 7,2-4.9-14; 1Ga 3,1-3; Mt 5,1-12a
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
Suy niệm 1: CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN HẠNH
PHÚC THẬT
Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta hướng vọng
lên cao để chiêm ngắm vinh quang rạng ngời nơi các thánh Nam Nữ. Các ngài đã
trung thành bước theo Chúa đến cùng trên con đường “Tám mối phúc thật”, dẫu
phải chịu nhiều đau thương thử thách. Nên các ngài xứng đáng được Chúa ân
thưởng hạnh phúc nước trời.
Dâng thánh lễ hôm nay, một mặt chúng ta chúc
tụng ngợi mừng các thánh; mặt khác chúng ta cũng không quên xin ơn Chúa ban cho
chúng ta niềm tin yêu và lòng trung tín để dấn bước trên con đường 8 mối phúc
thật theo gương các thánh, với niềm hy vọng sẽ được chung niềm vinh phúc cùng
với các ngài trong nhà Cha trên trời.
Ở đời luôn có hai mặt thật và giả. Hạnh phúc
cũng vậy. Có những thứ đem đến cho con người hạnh phúc thật. Tuy nhiên cũng có
những thứ chỉ đem đến cho con người hạnh phúc giả tạo, không bền lâu. Điều
nghịch lý là ai cũng mong muốn có được hạnh phúc thật, nhưng rồi lại thích đi
tìm những thứ chỉ mang đến hạnh phúc giả tạo, chóng qua.
Xã hội ngày nay, nhiều người cho rằng hạnh phúc
là có 1,2,3,4,5 (một là vợ đẹp, hai là con ngoan (chứ không phải như
bảng hiệu đề: Mỗi gia đình 2 con vợ, chồng hạnh phúc), ba là nhà 3 tấm, bốn
là xe 4 bánh và năm là du lịch 5 châu). Thế nhưng thực tế cho thấy, khi đạt
được những điều mong ước ấy, con người vẫn không tìm thấy hạnh phúc thật.
Như thế thì tiền bạc của cải, vật chất tiện
nghi, đam mê lạc thú nơi trần gian không lấp đầy được khát vọng sâu xa nơi cỏi
lòng con người và không là phương thế đưa đến hạnh phúc thật. Vậy ta phải làm
gì để có hạnh phúc thật?
Bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng
ta biết những phương cách để đạt đến hạnh phúc đích thật. Đó chính là thực thi
8 mối phúc thật.
Điều đáng nói là con đường 8 mối phúc thật mà
Chúa Giêsu đề ra hình như đi ngược lại với suy nghĩ thực tế của con người thời
nay và lắm khi trở thành xa lạ ngay cả đối với người Kitô hữu chúng ta. Vì con
người thời nay vẫn còn bám víu quá nhiều vào tiền bạc, của cải, danh vọng...
nên không dám chấp nhận những phương cách mà Chúa Giêsu đề ra là sống tinh thần
khó nghèo, từ bỏ, đau khổ hay hy sinh mạng sống mình vì chính đạo, để phục vụ
tha nhân và làm chứng cho những giá trị của tin mừng của Chúa.
Con đường 8 mối phúc không phải là viễn vong,
mơ hồ hay bất khả thi nhưng là con đường chính đạo. Bởi vì chính Đức Giêsu đã
kinh qua và đã đạt đến hạnh phúc vinh quang. Do đó muốn có hạnh phúc thật chúng
ta không thể đi theo con đường nào khác ngoài con đường Đức Giêsu đã đi và đã
chỉ dạy. Con đường khiêm hạ, khó nghèo, hi sinh từ bỏ và hiến thân cho tha nhân
bằng tình yêu.
Các thánh nam nữ mà chúng ta mừng kính hôm nay,
tất cả đã hân hoan bước vào con đường 8 mối phúc mà Chúa Giêsu đã vạch ra và đã
hâm hở tiến bước với lòng đầy tin tưởng, nên tất cả đã đi đến đích điểm và đã
lãnh nhận triều thiêng vinh quang nước trời do Chúa tặng ban.
Mừng lễ các Thánh Nam Nữ, ngoài việc chúng ta
tôn vinh chúc tụng các ngài là cha ông, bạn bè, người thân… của chúng ta đã đi
trọn con đường 8 mối phúc và nay đã khải hoàn vinh hiển trong vinh quang; chúng
ta còn phải nỗ lực nên thánh giữa đời theo gương các ngài, với niềm xác tín như
Thánh Augustinô: “Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không
được?”.
Xin các thánh nam nữ ngự bên tòa Chúa hằng
nguyện giúp cầu thay cho chúng ta được luôn can đảm bước theo con đường các
ngài đã đi, bằng cách trung thành thực thi 8 mối phúc mà Chúa Giêsu vạch ra,
nhờ đó chúng ta mới có thể đạt được điều mà chúng ta hằng khao khát là hạnh phúc
đích thật. Amen.
Suy niệm 2: NÊN
THÁNH LÀ ƠN GỌI VÀ ĐÍCH ĐẾN
Trong 1 lần viếng thăm nước Anh, Đức Thánh Cha
Benedicto 16 đã thách thức giới trẻ: “Hãy là một vị thánh hơn là một người nổi
tiếng”.
“Hãy là một vị
Thánh” cũng là lời mời gọi tha thiết của Thiên Chúa
dành cho mỗi người chúng ta, khi phán bảo: “Các ngươi hãy là Thánh vì Ta là
Thánh” (Lv 11,44). Lời mời gọi và thách
thức ấy hôm nay được vang lên mạnh mẽ nhân ngày tôn vinh và mừng kính trọng thể
lễ các Thánh Nam Nữ.
Thiên Chúa luôn yêu
thương chúng ta hơn những gì chúng ta tưởng tượng, Ngài muốn ban tặng cho chúng
ta những điều tốt nhất hơn những gì chúng ta khát mong.
Vậy chúng ta đừng để
mình chìm sâu vào tinh thần thế tục thời đại nhưng biết vươn đến những giá trị
cao đẹp, bằng cách noi gương các Thánh trung thành bước theo Chúa trên con
đường 8 mối phúc thật, với mong muốn trở nên thánh hơn là người nổi tiếng.
Xin Chúa qua lời
chuyển cầu của các Thánh Nam Nữ ban cho chúng ta ơn khôn ngoan để nhận ra được
giá trị tốt nhất ở đời này không phải là giàu sang, danh vọng, chức quyền… mà
là nên Thánh. Vì đó chính là ơn gọi và cùng đích của đời ta.
Có thể nói tháng 11 là tháng mà GH nhắc nhở
chúng ta hãy liên hệ với tổng đài để kết nối mạng:
- Nối mạng với trời qua việc chiêm ngưỡng vinh
quang của các thánh nam nữ để noi gương, bắt chước và xin trợ giúp.
- Nối mạng với đất qua việc nhìn xuống các đẳng
linh hồn trong nơi luyện tội mà tương trợ, giúp đỡ các ngài, bằng cách cầu
nguyện và làm thật nhiều việc lành phúc đức nhằm giúp đỡ các ngài sớm được thanh
luyện nên trinh trong, xứng đáng được bước vào nước trời tận hưởng niềm hạnh
phúc vĩnh cửu cùng các thánh.
Hôm nay, GH mời gọi chúng ta ngước vọng lên
trời cao để chiêm ngắm vinh quang rạng ngời của các thánh mà chúc mừng, ngợi
khen…, bởi vì sau cuộc hành trình bước theo Chúa các ngài đã trung
thành thực thi tích cực 8 mối phúc thật do Chúa chỉ dạy với lòng tin tưởng và
phó thác nên giờ đây các ngài đã được Chúa ân thưởng hạnh phúc viên mãn trong
nhà Cha trên trời.
- Bài I: Trích sách Khải huyền mà chúng
ta vừa nghe, có ý an ủi những tín hữu trong thời kỳ bị bách hại. Những con số
được nêu ra trên đây chỉ là tượng trưng cho một đoàn lũ đông đảo những người đã
được cứu rỗi nhờ máu của Con Chiên, tức là giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu.
- Bài II: Thánh Gioan nhắc nhở chúng ta phải
tin tưởng vào Thiên Chúa; cũng như ý thức rằng chúng ta được nhận
biết Thiên Chúa đó là nhờ và qua Giáo Hội.
- Bài Tin mừng hôm nay chỉ dẫn cho chúng ta
biết cách làm thế nào để nên thánh. Bí quyết nên thánh được Chúa
Giêsu vạch ra qua con đường 8 mối Phúc Thật, đây được xem là
bảng hiến chương nước trời do chính Chúa Giêsu long trọng công bố trên núi khi
khởi đầu sứ mạng loan báo tin mừng cứu độ của Người. Con đường đó đòi hỏi chúng
ta phải chấp nhận hy sinh từ bỏ, can đảm đón nhận những gian lao thứ thách với
tình yêu, niềm tin và hy vọng vào ơn cứu chuộc của Chúa,
Hân hoan mừng kính trọng thể lễ các thánh nam
nữ trên thiên đàng, chúng ta càng thấu hiểu hơn về mầu nhiệm các thánh cùng
thông công trong Giáo Hội. Mỗi khi suy niệm về mầu nhiệm các thánh
cùng thông công, chúng ta lại càng vững tin hơn vào ơn cứu độ của Thiên
Chúa, nhờ tình liên đới giữa các kitô hữu hiệp thông trong cùng Hội
Thánh Người.
- Các thánh là những con người như chúng ta.
Trước khi là thánh, các ngài cũng đã trải qua nhiều
gian lao đau khổ để bước theo Chúa Giêsu.
- Các thánh nam nữ là những con người như chúng
ta, khi còn sống ở thế gian, các ngài cũng có những tham sân si, cũng kiêu căng
tự mãn, cũng giận hờn ghen ghét, cũng tham lam và có những ham muốn bất
chính không khác gì chúng ta. Nhưng các ngài đã biết tin tưởng, cậy trông vào
tình thương và ân sủng của Chúa nên các ngài đã quyết tâm đứng lên,
đã sám hối và làm lại cuộc đời. Các ngài đã can đảm chiến đấu và vượt
thắng được những cám dỗ, để rồi hôm nay các ngài được Chúa ân thưởng niềm
hạnh phúc thiêng đàng, cùng với Mẹ Maria và các thiên thần trên thiên
quốc.
- Các thánh nam nữ thuộc đủ mọi thành
phần như chúng ta, có những vị làm vua, có vị làm quan, làm bác
sĩ, kỹ sư, thấy giáo, nô lệ; có vị làm giáo hoàng, giám mục, linh mục, phó tế,
và sĩ nam nữ v.v... nghĩa là các ngài có đủ mọi thành phần giai cấp
trong xã hội, với những hoàn cảnh sống khác nhau, nhưng các ngài đã có một
mục đích chung là nỗ lực nên thánh, phải trở thành bạn hữu với Thiên Chúa trong
chính bổn phận sống hằng ngày của mình.
- Các thánh nam nữ là những người như chúng ta,
nhưng các ngài đã biết kiên nhẫn bước đi theo con đường “Tám Mối Phúc
Thật”, sống triệt để hiến chương nước trời do Chúa Giêsu ban hành ngay tại trần
thế này.
1. Các ngài giàu có nhưng đã sống tinh
thần siêu thoát khó nghèo vì Nước Trời.
2. Các ngài bị người khác vu oan giá họa nhưng
vẫn hiền lành bao dung với họ.
3. Các ngài đã chia vui với người vui và buồn
với người buồn, nên được Thiên Chúa an ủi ngay khi còn ở đời này.
4. Các ngài mong muốn được trở nên người công
chính giữa một xã hội đầy mưu mô xảo trá, nên được Thiên Chúa cho thỏa lòng.
5. Các ngài biết thương xót người, tức là biết
chạnh lòng trước cảnh thương tâm của người khác, nên được Thiên Chúa xót thương.
6. Trong các ngài cũng có người sống trong danh
vọng, lây nhiễm bụi trần với những đam mê của kiếp người, nhưng các ngài đã giữ
được tâm hồn trong sạch, vì thế các ngài được nhìn thấy Thiên Chúa.
7. Các ngài đi đến đâu là đem bình an của Thiên
Chúa đến nơi đó; các ngài được gọi là những người biết kiến tạo hoà bình, nên
các ngài xứng đáng được gọi là con Thiên Chúa.
8. Các ngài bị bắt bớ, bị đánh đập, bị tra tấn,
bị tù đày... vì các ngài sống và tin vào Đức Chúa Giê-su, Đấng đã và sẽ ban
phần phúc Nước Trời cho những ai tin cậy vào Người, nên các ngài đã được Chúa
ban thưởng Nước Trời làm gia nghiệp sau khi từ giã cõi đời này...
Cộng đoàn thân mến,
Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta nên thánh.
Trong Cựu Ước, Người đã phán: "Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta,
Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh" (Lv
19,2). Đức Giê-su khi rao giảng về Tin Mừng Nước Thiên Chúa, cũng
kêu gọi: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng
hoàn thiện.” (Mt 5, 48). Như vậy, việc nên thánh của chúng ta theo ý
Thiên Chúa là một đòi hỏi cấp bách, khẩn thiết. Đó cũng trở thành bổn phận và
nhiệm vụ quan trọng mà mỗi tín hữu phải triệt để quan tâm thi hành.
Các thánh nam nữ đều là những con người như
chúng ta, nhưn các ngài đã đáp lại lời mời gọi của Chúa và trở thành những vị
thánh, thì chúng ta cũng có thể trở nên thánh như các ngài, bởi vì nên thánh là
đòi hỏi của Phúc âm và là mục đích tối hậu của người Kitô hữu chúng
ta. Nói như thánh Augustinô thì: "Ông nọ bà kia nên thánh được, còn
tôi, tại sao không?".
Xin Đức Mẹ Maria, các thánh nam nữ trên thiên
quốc cầu bàu cùng Chúa cho chúng ta, là những người đang tiến bước trên con
đường đi về quê trời, được noi gương của các ngài, biết quyết tâm đổi mới đời
sống, biết đứng dậy khi ngã quỵ trong tội, biết hy sinh phục vụ và tha thứ cho
nhau vì lòng yêu mến Chúa và yêu thương nhau, với niềm tin và hy vọng vào sự
sống đời đời theo gương các thánh nam nữ mà chúng ta mừng kính hôm nay. Amen.
(St)
Suy niệm 3: PHÚC THẬT
Hàng năm cứ vào ngày đầu tiên của tháng 11, GH
dành riêng một ngày để mừng kính trọng thể toàn thể các thánh Nam Nữ được Chúa
trọng thưởng trên trời.
Điều này gợi lên trong chúng ta những thắc
mắc:
1. Trong năm phụng vụ GH đã dành nhiều lễ
trọng, lễ kính và lễ nhớ các Thánh rồi, sao hôm nay lại mừng kính chung các
Thánh nữa?
2. Các Thánh là ai?
3. Tại sao ta phải nên Thánh?
Đó là 3 suy tư tôi muốn chia sẻ cùng với ông bà
và anh chị em:
* Thứ nhất, tại sao GH
dành ngày hôm nay để mừng kính trọng thể toàn thể các Thánh? Thưa có 4 lý do:
1. Vì các thánh quá nhiều, không thể mừng mỗi
vị vào một ngày riêng biệt được. Chỉ tính 25 năm đầu triều đại của đức giáo
hoàng Gioan Phaolô II, ngài đã tuyên thánh đến 476 vị, 1.315 chân phước. Mà
lịch phụng vụ chỉ có 365 ngày trong năm. Nếu mừng mỗi ngày một vị thánh thì
không đủ ngày. Huống hồ trải qua biết bao triều đại giáo hoàng, trong suốt hơn
hai ngàn năm qua, con số những vị thánh trong GH là nhiều vô kể, đúng như hình
ảnh trong bài đọc 1, trích sách khải huyền hôm nay diễn tả: “tôi đã
nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi
họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con
Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô
rằng: “Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Ðấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên”. Đoàn
người đông đảo mặc áo trắng ấy là những người đã được cứu rỗi nhờ máu của con
Chiên, tức là nhờ giá máu cứu chuộc của Chúa Kitô
2. Vì không phải vị thánh nào cũng đều được GH
tuyên phong. Còn rất nhiều vị có đời sống tốt lành, thánh thiện. Trước mặt Chúa
họ đã là thánh, nhưng GH chỉ biểu dương những vị thánh có đời sống nhân đức nổi
bậc nhằm nêu gương sáng cho chúng ta mà thôi.
3. Vì còn rất nhiều vị thánh vô danh, không ai
biết đến. Các vị ấy có thể là người thân, là ông bà tổ tiên, là những người
cùng lối xóm và bạn bè của chúng ta. Các ngài đã từng hiệp hành với chúng ta
trong cuộc đời trần thế này, nhưng nay họ đã được hưởng hạnh phúc thiên đàng.
4. Lễ các thánh Nam Nữ nhắc nhớ chúng ta về quê
hương đích thật mà chúng ta cần hướng đến, đó là quê trời. Ý thức như vậy, sẽ
giúp chúng ta thêm niềm hy vọng và cố gắng bước đi cùng các thánh trên con
đường 8 mối Phúc mà Chúa Giêsu mời gọi.
* Thứ hai, các Thánh
Nam Nữ là ai?
Thánh theo nghĩa
Hán Việt: là sự thiêng liêng, cao cả, tôn kính, thường dùng để miêu tả phẩm
chất của các vị thần thánh, thiên sứ, tiên nhân hoặc các thánh nhân.
Theo nghĩa Thánh kinh: Thánh có nghĩa chung là “kitô hữu”, hợp thành cộng đoàn qui tụ
chung quanh Đức Giêsu làm thành Dân thánh. Sự thánh tách khỏi sự phàm tục. Các
Thánh là những người đã được Thiên Chúa làm gia nghiệp.
Như thế các Thánh là những người giống chúng
ta: khi còn sống, các ngài cũng đầy những bất toàn, yếu đuối, cả tội lỗi nữa…
Nói cách khác, các thánh Nam Nữ là những con người bình thường như mọi người.
Nhưng các ngài nên thánh là nhờ vào những cố gắng hy sinh từ bỏ để nên giống
Chúa Kitô mỗi ngày trong đời sống nghèo khó, hiền hòa, bác ái, khiêm tốn, hy
sinh, phục vụ….
Có những vị nên thánh bằng lối đường khó nghèo,
không màn đến của cải, danh lợi, chức quyền. Các ngài sống tinh thần siêu
thoát, an nhiên nên được Chúa chúc phúc: “Phúc cho ai có tinh thần
nghèo khó”.
Có những vị đã dành trọn cuộc đời để đấu tranh
cho công lý, hoà bình và kiến tạo tình yêu thương hiệp nhất cho đồng loại. Các
ngài đã nêu cao tinh thần bất khuất như lời dạy của Chúa: “Phúc cho ai
xây dựng hòa bình”.
Có những vị đã anh dũng hy sinh cả mạng sống
mình để trung thành với đức tin và bảo vệ Đạo Thánh Chúa.
Có vị luôn nở nụ cười khả ái với mọi người,
không hận thù, tranh chấp, đố kị, hiềm khích nên xứng đáng đón nhận được phúc
lành của Chúa: “Phúc cho ai hiền lành”.
Có những vị sẵn lòng đón nhận những đau khổ thể
xác và tinh thần vì lòng yêu mến và phó thác vào đường lối của Chúa nên được
Chúa chúc phúc: “Phúc cho ai đau buồn”.
Có những vị trọn đời sống công chính, không để
mình lây nhiễm bởi những cám dỗ của ba thù, trở nên mẫu gương trong sạch cho
chúng ta noi theo, nên xứng đáng được Chúa chúc phúc: “Phúc cho ai đói
khát công chính, phúc cho ai thanh sạch”.
Như vậy, các thánh đã đi theo những nẻo đường
Phúc Thật mà Chúa Kitô đã giới thiệu. Mặc dù khi bước đi theo Chúa trên con
đường đó đầy những gian lao thử thách nhưng với sức mạnh của niềm tin và tình yêu
Chúa nên tất cả các ngài đã thành công và đã đến đích.
* Thứ ba, tại sao ta
phải nên thánh? Nếu các thánh đã thành công khi chọn lựa
bước theo con đường Tám Mối Phúc Thật, thì chúng ta cũng sẽ thành công một khi
chúng ta biết bước đi trên con đường ấy, cho nên:
- Hãy sống tinh thần nghèo khó bằng sự xa tránh
mọi thứ tham lam bất chính để chỉ trung tín và phó thác vào một mình
Thiên Chúa quyền năng mà thôi.
- Hãy sống hiền lành và khiêm nhượng trong lòng
bằng cách rộng lượng bao dung tha thứ cho những ai xúc phạm mình, luôn kiến tạo
sự hòa nhã, vui tươi với mọi người.
- Hãy chấp nhận mọi gian lao thử thách như là
thập giá cần phải vác lấy để biến nó thành thánh giá nở hoa phần rỗi cho mình
và cho tha nhân.
- Hãy luôn hướng đến giá trị nước trời, tìm
kiếm sự thánh thiện, để mỗi ngày nên hoàn thiện chính mình hơn qua các nhân
đức.
- Hãy tỏ lòng thương xót, mến yêu, đón nhận mọi
người trong tình anh em. Sẵn sàng tha thứ, làm ơn và cầu nguyện cho những ai
làm hại chúng ta.
- Hãy quyết tâm giữ tâm hồn mình luôn thanh
sạch, xa tránh những cám dỗ làm cản trở con đường nên thánh của ta.
- Hãy theo đuổi con đường hiếu hòa. Sống ở đâu,
hiện diện nơi nào, thì biến nơi đó thành niềm hy vọng và bình an nhờ lối sống
tích cực, lạc quan và yêu thương phục vụ chân thành của ta.
- Hãy mạnh dạn tuyên xưng đức tin, và sẵn sàng
làm chứng cho niềm vui tin mừng của Chúa bằng mọi cách thế mà không hề sợ
hãi.
Làm người, ai cũng khát khao được hạnh phúc,
nhưng con người lại bị nhận chìm trong nỗi bất hạnh bởi không biết cội nguồn hạnh
phúc nằm ở đâu. Xin Chúa ban cho chúng ta ơn khôn ngoan, để chúng ta
biết đâu là hạnh phúc thật và vĩnh cửu và đâu là hạnh phúc giả tạo,
không vững bền mà chọn lựa đúng đắn. Con đường Tám
Mối Phúc Thật dẫu là con đường hẹp, đường thập giá ít ai chọn lấy, nhưng
đó lại là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực.
Xin Chúa ban cho chúng ta đủ can đảm để bước đi
trên con đường ấy với niềm hy vọng sẽ được gia nhập vào đoàn người đông đảo “mình
mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế, miệng lớn tiếng tung
hô chúc tụng danh thánh Chúa cùng các thánh nam nữ trên thiêng quốc. Cùng
với lời tâm niệm như thánh Augustino: “ông nọ bà kia nên thánh
được, còn tôi, tại sao không?” (St)
Lm. Nguyễn Xuân Trường
Suốt năm phụng vụ đã có nhiều ngày mừng kính riêng các thánh
khác nhau. Tại sao lại có thêm ngày lễ Các Thánh Nam Nữ?
Bởi vì có đông đảo các thánh. Có nhiều thánh bởi vì không chỉ
do công trạng cá nhân mỗi người, mà chính là nhờ công ơn cứu chuộc của Chúa
Giêsu ban cho các thánh.
1. ĐÔNG ĐẢO. Bài đọc 1 cho thấy
các thánh trên trời như một “đoàn người
đông đảo, không tài nào đếm nổi”. Cần loại bỏ ý nghĩ làm thánh chỉ dành
riêng cho một số ít thành phần ưu tuyển, ngược lại, làm thánh dành cho đông đảo
mọi người. Nói vậy là vì Kinh Thánh khẳng định con người được dựng nên giống
hình ảnh Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu đã mời gọi: “Các con hãy nên thánh như Cha các con trên trời là Đấng Thánh”.
Phải nói rằng: Chúa tạo dựng con người để họ trở nên thánh vì Chúa đã đặt sẵn
“gien thánh”, dòng máu thánh trong mọi người rồi. Thế nên, bất cứ ai cũng có thể
nên thánh.
2. PHÚC PHẬN. Lễ Các Thánh,
Giáo Hội cho đọc bài Phúc Âm về các mối phúc thật. Như vậy làm thánh là để hưởng
những phần phúc Chúa ban cho mỗi người. Lời Chúa cho thấy nên thánh không phải
do con người lập được những công lao hiển hách, mà là do công ơn Chúa cứu độ nhờ
máu Con Chiên.
Các mối phúc cũng cho thấy các thánh được hưởng phúc Nước Trời
không phải vì đã làm nên những thành tựu lớn lao, mà là vì được Chúa xót thương
ban thưởng phúc trường sinh: “Anh em hãy
vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”
Thánh là kiến tạo hạnh phúc thật. Hạnh phúc thật là gắn bó với
Chúa là tình yêu. Trong tình yêu Chúa vợ chồng có thể ôm chầm lấy nhau và reo
lên: “Ôi, ông thánh của em! Ôi, bà thánh của anh!” Chính tình mến Chúa yêu người
đã đưa Các Thánh Nam Nữ vào hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên Nước Trời. Amen.
* Mùa thường niên: Lc
14, 1-6
Thiếu bác ái, việc thực thi lề luật chỉ còn là
cái xác không hồn và là những hành động mù quáng. Tin mừng hôm nay, kêu gọi
chúng ta ý thức trách nhiệm đối với nhau trong cuộc sống, bằng việc thực thi
tình bác ái, qua việc giúp đỡ những người nghèo khổ và bất hạnh. Đó là cách
thức ta thể hiện tâm tình tôn vinh Chúa.
Anh chàng trong bài Tin mừng hôm nay bị bệnh
phù thủng chắc hẳn gặp rất nhiều khó khăn và đau khổ.
- Khó khăn trong việc đi lại. Nên việc gặp gỡ
tiếp xúc với người khác không dễ.
- Đau khổ vì bệnh tật hành hạ, cảm thấy mình là
gánh nặng cho tha nhân. Đau khổ vì bị người đời khinh ghét, bị xã hội xem
thường. Trên hết có lẽ là nỗi đau mặc cảm vì bị mọi người xem là kẻ tội lỗi.
Nỗi khát khao lớn nhất của anh là được làm
người bình thường như bao người. Được xã hội tôn trọng; được mọi người quan
tâm, yêu mến; được tự do đi lại; nhất là được khẳng định giá trị và phẩm giá
làm người của mình.
Hôm nay Chúa Giêsu đã trao ban cho anh món quà
vô giá mà anh hằng khao khát đêm ngày, đó là chữa anh khỏi căn bệnh phù thủng.
Quả là niềm vui lớn lao, niềm vui chính đáng. Ấy vậy mà niềm vui đó lại bị chống
đối. “Hôm nay là ngày Sabát không được phép”. Không những họ chống
đối quyền làm người của anh, mà họ còn chống đối cả Chúa Giêsu vì cho rằng Ngài
đã vi phạm ngày Sabát.
Lòng ích kỷ và luật lệ vô hồn, quả là một gánh
nặng, một rào cản đáng sợ đẩy con người đến chổ vô cảm và cư xử bất nhân với
nhau, khiến người khác không thể vươn lên sống xứng đáng nhận vị của con người.
Họ không hiểu rằng: “Vinh quang Thiên Chúa là con người được sống.” Bất
cứ nơi nào phẩm giá con người được nhìn nhận, bất cứ một con người nào được tôn
trọng và được hưởng hạnh phúc, thì nơi đó Thiên Chúa được tôn vinh.
Xin cho chúng ta ý thức rằng: khi chối bỏ và
khước từ thực hiện lòng nhân ái đối với người khác, là chúng ta đã xúc phạm đến
chính Thiên Chúa. Yêu thương và thực thi bác ái đối với người khác cũng là cách
để chúng ta đền bù tội lỗi trong mùa báo hiếu tháng 11 này.
Thứ bảy: LỄ CÁC ĐẲNG
LỄ I: G 19,1.23-27a;
Rm 5,5-11; Ga 6,37-40
Kính thưa quý ông bà và anh chị em,
Những ngày này chúng ta được mời gọi sống đỉnh
cao của mầu nhiệm hiệp thông trong GH. Hiệp thông trong ân phúc và hiệp thông
trong cả tội lỗi.
Nếu hôm qua chúng ta được hiệp thông
với các thánh trên trời và cậy nhờ công đức của các ngài, thì hôm
nay chúng ta được kêu gọi để hiệp thông với các đẳng linh hồn trong nơi
luyện tội để trao quà ơn thánh bằng tình bác ái yêu thương.
Xác tín vào mầu nhiệm các thánh cùng thông
công, với niềm tin vững vàng vào ơn cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta hãy dâng
những hy sinh, những việc làm phúc đức cùng những lời nguyện cầu
nguyện chân thành lên trước tòa Chúa.
Xin Chúa thương đón nhận những của lễ
hy sinh chúng con mà tha thứ mọi hình phạt tạm cho các đẳng linh
hồn trong nơi luyện tội, nhất là linh hồn tổ tiên, ông bà, cha
mẹ và bạn hữu của chúng con, để các ngài sớm được dự phần vào
vinh quang trong nước trời.
Gói trọn những tâm tình đó, giờ đây chúng
ta hãy thành tâm sám hối. Xin Chúa tha thứ những thiếu sót và tội lỗi của chúng
ta, để chúng ta xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh.
Một triết gia đã khẳng định: “đã
là người đều phải chết. Vậy, tôi là người, tôi cũng phải chết”.
Chết là cái đích cuối cùng của một đời người mà
ai cũng phải trải qua. Nhưng, khi nói về cái chết thì nó muôn màu, muôn vẻ,
không ai giống ai :
Có người sau một đêm dài yên giấc, đã từ giã
cõi đời và người thân yêu mình mà ra đi mãi mãi, không bao giờ trở lại.
Có người chết vì già nua đau yếu, nhưng cũng có
người chết trong lúc tuổi đời còn xuân xanh;
Có người chết bởi tai ương họan nạn, nhưng cũng
có kẻ chết trong lúc vui vẻ với người thân, bạn bè;
Có người chết vì bệnh tật hiểm nghèo, nhưng
cũng có kẻ chết vì muốn tự kết liệu đời mình bởi không tìm được lối thoát trong
cuộc đời này...vv.
Quả là cái chết của con ngươi xảy ra "muôn
hình, vạn trạng".
Với niềm tin Kitô giáo thì cái chết sẽ dẫn đưa
con người đến sự sống đời đời. Hay, nói khác đi, chết là một cơ hội tốt đẹp
nhất dẫn con người ta đến sự sống muôn đời trong Thiên Chúa Ba Ngôi.
Cả ba bài đọc lời Chúa trong thánh lễ thứ nhất,
cầu cho các tín hữu qua đời hôm nay đều đề cập đến niềm tin căn bản của người
kitô hữu chúng ta, đó là: chết,
sống lại và thưởng phạt.
- Bài đọc 1 trích sách Gióp, tác giả tin rằng
cho dẫu phải trải qua cuộc đời này gian nan thử thách vì phải đối mặt với bao
đau khổ, ngay cả cái chết do ma quỷ gây ra, ông vẫn tin tưởng vào tình thương
và sự quan phòng của Thiên Chúa, đấng có quyền trên sự sống chết con người sẽ
cứu ông thoát khỏi mọi hiểm nguy và đưa ông vào cõi phúc một khi ông nhắm mắt
lìa đời: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng Người
sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu hủy, thì với tấm thân, tôi
sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn người, Đấng mắt tôi
nhìn thấy, không phải người xa lạ. Lòng tôi những tha thiết mong chờ.” (G
19, 25- 27).
- Bài đọc 2, trích thư thánh Phaolo tông đồ gửi
tín hữu Roma, thánh Phaolô khuyên nhủ mọi tín hữu hãy luôn trông cậy vào TC,
bởi chính TC mới là Đấng làm cho con người có niềm hy vọng vào sự sống vĩnh
cửu: “Thưa anh em, trông cậy, không làm chúng ta phải thất vọng, vì
Thiên Chúa đã đổ tình yêu vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà người đã ban cho
chúng ta... phương chi bây giờ chúng ta đã được hòa giải rồi, hẳn chúng ta sẽ
được cứu nhờ sự sống của người con ấy.” (Rm 5, 5.10b)
- Bài tin mừng của thánh Gioan, Chúa Giêsu
đã khẳng định rằng: “Tất cả những kẻ được Chúa Cha ban cho tôi, tôi sẽ không
để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha
tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn
đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6, 39- 40).
Như thế phụng vụ lời Chúa hôm nay xác quyết cho
chúng ta biết rằng: sự sống đời đời của người tín hữu hệ tại ở việc nhận biết,
tin tưởng và kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu. Nhờ đó mà ta sẽ được Ngài cho
sống lại trong ngày sau hết.
Trong thánh lễ cầu cho các tín hữu đã ly trần
hôm nay, chúng ta tin chắc rằng, khi sống kiếp phàm nhân con người không
tránh khỏi những lỗi lầm do cuộc sống đưa đẩy, hay do những khiếm khuyết của
bản thân, nhưng với niềm tin vào Thiên Chúa mạnh mẽ, không phai nhòa con người
có cơ hội được Thiên Chúa chấm công và ban phần thưởng.
Dẫu cho đời sống nơi dương thế dài lê thê và
nhiều khổ ải nhưng nếu chúng ta biết cố gắng kiên trì đi theo Chúa với niềm tin
vững vàng vào tình thương và ơn cứu độ của Người thì dù có chết về phần xác thì
Chúa cũng sẽ cho chúng ta được phục sinh, để bước vào cõi sống muôn đời với
Người trong niềm hạnh phúc vĩnh chửu, vì chính Ngài đã phán: “Ai tin
vào tôi, sẽ sống muôn đời”.
Khi suy niệm về cái chết của những người đã ra
đi trước chúng ta, chúng ta cũng nhớ về thân phận tro bụi mỏng giòn và chóng
tàn phai của mình mà chuẩn sẵn sàng mọi tư thế, để khi Chúa có đến gõ cửa,
ta vui mừng đáp lại “này tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe, Ngài muốn con đi đâu
vậy? Con đã sẵn sàng hành lý để đi theo Ngài đây”.
Có lẽ khi nghe lời đáp trả mạnh mẽ như thế,
Chúa sẽ mỉm cười và nói với chúng ta rằng: “Ta muốn con đi theo Ta vào chung
hưởng phần gia nghiệp với Ta trong Nước Trời”.
Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên
muôn đời và cho ánh sáng ngàn thu, chiếu soi trên các linh hồn ấy. Amen. (St)
LỄ II: Is 25,6a.7-9;
Rm 8,14-23; Mt 25,31-46
GIÚP ĐỠ CÁC ĐẲNG LINH
HỒN
Tín điều các thánh thông công do GH chỉ dạy, giúp chúng ta xác tín vào
sự hiệp thông trong cùng một Hội Thánh, đem đến niềm tin và hi vọng cho mỗi
người Kitô hữu chúng ta.
Hôm nay Hội Thánh mời gọi chúng ta hướng về những người đã an giấc ngàn
thu, đợi chờ ngày Đức Kitô trở lại trong vinh quang để kết hợp hồn xác lại để
được Chúa ban hưởng phúc trường sinh vĩnh cửu.
Bổn phận chúng ta là thành phần GH chiến đấu, những người còn đang lữ
hành trên trần thế, phải tích cực cộng tác vào chương trình cứu rỗi của Đức
Kitô, nhờ công nghiệp hi sinh trên Thập Giá của Chúa, được tái diễn trên
bàn thờ, qua Thánh lễ Misa, chúng ta cùng được kết hợp vào cuộc khổ nạn và phúc
sinhcủa Đức Kitô, để chuyển cầu và cứu giúp các Đẳng linh hồn được hưởng ơn cứu
độ Phục Sinh, mà họ đang chờ đợi từng giây phút.
Để lời cầu nguyện và cửa lễ hy sinh của chúng ta được Chúa chấp nhận,
giờ đây chúng ta hãy thành tâm thống hối.
Tín điều các thánh thông công do GH chỉ dạy, giúp chúng ta xác tín vào
sự hiệp thông trong cùng một Hội Thánh, đem đến niềm tin và hi vọng cho mỗi
người Kitô hữu chúng ta.
Hôm nay Hội Thánh mời gọi chúng ta hướng về những người đã an giấc ngàn
thu, đợi chờ ngày Đức Kitô trở lại trong vinh quang để kết hợp hồn xác lại để
được Chúa ban hưởng phúc trường sinh vĩnh cửu.
Bổn phận chúng ta là thành phần GH chiến đấu, những người còn đang lữ
hành trên trần thế, phải tích cực cộng tác vào chương trình cứu rỗi của Đức
Kitô, nhờ công nghiệp hi sinh trên Thập Giá của Chúa, được tái diễn trên
bàn thờ, qua Thánh lễ Misa, chúng ta cùng được kết hợp vào cuộc khổ nạn và phúc
sinhcủa Đức Kitô, để chuyển cầu và cứu giúp các Đẳng linh hồn được hưởng ơn cứu
độ Phục Sinh, mà họ đang chờ đợi từng giây phút.
Để lời cầu nguyện và cửa lễ hy sinh của chúng ta được Chúa chấp nhận,
giờ đây chúng ta hãy thành tâm thống hối.
Để nhắc nhở chúng ta siêng năng “đi viếng nhà
thờ” mà cầu nguyện cho các đẳng linh hồn vào tháng 11, người ta thường kể cho
nhau nghe câu chuyện sau đây:
Ở một Họ đạo nọ, có một người đàn ông sống đạo
rất khô khan nguội lạnh. Ít khi thấy anh ta đi đến nhà thờ để tham dự thánh lễ
một mình. Anh chỉ đi nhà thờ, khi nào đứa con trai cưng bảy tuổi của anh đòi đi
mà thôi.
Số là vào một buổi chiều trong tháng các đẳng
linh hồn, đứa con của anh thấy bạn bè mình đều được cha mẹ dẫn đi “viếng nhà
thờ” để đọc kinh cầu nguyện cho ông bà tổ tiên đã qua đời, nó cũng đòi đi cho
bằng được, để cầu nguyện cho ông bà nội đã qua đời.
Sau khi đưa ra hết mọi lý lẽ để cản ngăn con
đừng đi nhà thờ không thành công, anh ta đành phải chiều lòng con mà đưa nó đến
nhà thờ.
Nhưng khi đến nhà thờ, anh không vào tham dự
thánh lễ mà ngồi chờ con bên ngoài hành lang nhà thờ. Anh dặn đứa con: “Khi nào
con đọc kinh xong thì ra, ba sẽ đưa con về!”.
Nhưng vì ngồi chờ quá lâu ở ngoài nhà thờ, nên
anh ta đã ngủ quên và không biết giờ kinh đã xong lúc nào. Trong khi đang say
ngủ như vậy thì anh mơ thấy một đoàn các Thiên Thần đông vô kể, từ trên trời
bay xuống, vị nào cũng ì ạch mang theo những bao chứa đầy những thứ có màu
trắng tựa như bông, lại bốc mùi rất thơm không thể nào diễn tả được. Quá tò mò,
anh chạy theo một vị Thiên Thần và hỏi nhỏ: đó là thứ gì vậy? Vị Thiên Thần trả
lời: đây là “các ơn thánh” mà những người trên trần gian đã tích góp được nhờ vào
việc đọc kinh, lần hạt và đi viếng nhà thờ, nay gửi xuống cho người thân của họ
đang bị giam cầm trong Luyện ngục. Được lệnh của Thiên Chúa nay chúng tôi đi
giao quà. Nghe vậy, anh liền rón rén đi theo các Thiên Thần.
Khi các Thiên Thần đi đến đâu thì các linh hồn
đều rất vui mừng bởi họ đều nhận được thật nhiều quà “ơn thánh” mà bà con thân
thuộc của họ gửi đến cho họ nên ai cũng đều cám ơn rối rít.
Sau cùng, còn lại một món quà nho nhỏ, các
Thiên Thần tìm đến một phòng giam trông rất hoang vắng rồi gõ cửa và nói: “Này,
ông bà cụ ơi, có quà của cháu nội gửi cho ông bà đây, ra mà nhận!”. Bổng từ bên
trong có tiếng vọng ra vừa vui mừng vừa xúc động nói: “Trời ơi, chúng tôi mà
cũng có người tưởng nhớ tới sao! Bởi vì từ khi chết cho tới nay đã lâu quá rồi,
đâu có ai nhớ đến chúng tôi nữa mà gửi quà! Nhưng thật cảm động vì hôm nay
chúng tôi nhận được món quà hết sức quý giá của đứa cháu nội, ôi hạnh phúc biết
bao!”.
Thật bất ngờ không thể tin vào mắt mình nữa,
bởi vì vừa khi mở cửa ra để lãnh quà “ơn thánh” của đứa cháu nội, thì anh ta
nhận ra đó chính là cha mẹ ruột của anh. Nhưng giờ đây hình dáng của hai ông bà
đã gầy óm và hốc hác đi quá nhiều, trông rất là đau khổ.
Lúc ấy anh thấy hai ông bà hướng mắt nhìn về
anh rồi từ từ tiến lại gần anh với một vẽ mặt rất tức giận. Với cái gậy đang
cầm sẵn trong tay, ông bà đã phang thẳng vào đầu anh một cái thật mạnh và quát
lớn: “Thằng con bất hiếu kia, mi còn mò tới đây làm gì nữa! Mi quả là đứa con
bất hiếu! Mi coi gương đứa con của mi mà từ nay ăn ở sao cho phải đạo đó!”. Bị
đánh một cú quá bất ngờ và đau điếng, anh chàng bèn tỉnh giấc. Khi ngước mặt
lên, anh ta bất ngờ nhìn thấy ông từ trông coi nhà thờ đang đứng trước mặt anh
và la lớn tiếng: “Mi là ai mà giờ này còn nằm trước cửa nhà thờ ngủ như thế
này!”.
Bấy giờ anh ta mới biết là mình đang mơ. Và cú
gậy vừa rồi là do ông từ đánh, chứ không phải ba mẹ anh đánh!
Trên đường lủi thủi về nhà, người đàn ông ấy đã
suy nghĩ thật nhiều về giấc mơ ấy. Cuối cùng anh ta cũng quyết tâm đổi đời. Từ
đó anh ta cương quyết sống đạo tốt hơn, siêng năng tham dự thánh lễ thường
xuyên và lúc nào cũng nhớ cầu nguyện cho cha mẹ anh ta thật nhiều.
Câu chuyện trên là lời nhắc nhớ mỗi người chúng
ta hãy siêng năng cầu nguyện cho các linh hồn, nhất là trong tháng 11 này, vì
các ngài đang chờ đợi nơi chúng ta những người còn sống tặng “quà ơn thánh” cho
họ.
Qùa ơn thánh mà những người đã chết mong chờ
chính là những việc làm bác ái yêu thương, là những kinh nguyện sáng chiều, là
những hy sinh phục vụ chân thành và nỗ lực chu toàn tốt bổn phận của mình trong
gia đình, nơi họ đạo và ngoài xã hội. Nhất là những thánh lễ mà chúng ta cùng
hiệp dâng lên Chúa mỗi ngày với niềm xác tín vào mầu nhiệm các thánh cùng thông
công, nhờ vào tình thương cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô.
Tin tưởng vào tín điều các thánh thông công,
chúng ta hãy tích lũy thật nhiều quà công đức mà gửi tặng các linh hồn nơi
luyện tội, trong đó rất có thể là ông bà, cha mẹ, người thân của chúng ta, với
niềm xác tín vào lòng thương xót Chúa sẽ thanh luyện các đẳng nên
trinh trong, hầu xứng đáng bước vào nước trời chung hưởng niềm vinh phúc cùng
các thánh trong nhà Cha muôn đời. Amen.
LỄ III: Kn 3,1-9; Kh
21,1-5a.6b-7; Mt 5,1-12a
Hôm nay GH dành một ngày đặc biệt để
cầu nguyện cho các tín hữu qua đời.
Niềm tin công giáo dạy chúng ta biết rằng: có thiên đàng để thưởng người
lành, có hoả ngục để phạt kẻ dữ, và có luyện ngục để thanh tẩy các linh hồn còn
vướng mắc các tội nhẹ chưa đền hết.
Các linh hồn
nơi luyện ngục không thể làm gì được cho mình, họ chỉ còn trông đợi vào những lời
cầu nguyện, những việc lành phúc đức và những hy sinh của chúng ta, những người
đang còn sống ở thế gian. Những việc làm ấy chính là món quà ơn thánh rất
quý giá, giúp đỡ các đẳng linh hồn sớm vượt qua những hình phạt tạm, được vào hưởng
nhan thánh Chúa, trong niềm vui bất diệt trên nước trời.
Tin tưởng và cậy
trông vào lòng thương xót Chúa, chúng ta hãy hiệp dâng thánh lễ này thật sốt sắng
và cố gắng lập nhiều công đức, để gửi tặng cho các linh hồn trong nơi luyện tội,
với niềm hy vọng các ngài sớm được Chúa ban thưởng niềm vui muôn đời trong nước
trời.
Một triết gia đã khẳng định: “đã
là người thì đều phải chết. Vậy, tôi là người, tôi cũng phải chết”. Chết
là cái đích cuối cùng của một đời người mà ai cũng phải trải qua. Nhưng, khi
nói về cái chết thì nó muôn màu, muôn vẻ, không ai giống ai :
Có người sau một đêm yên giấc, đã từ giã cõi
đời này mà ra đi mãi mãi, không bao giờ trở lại.
Có người chết vì già nua đau yếu, nhưng cũng có
người chết trong lúc tuổi đời còn xuân xanh;
Có người chết bởi tai ương họan nạn, nhưng cũng
có kẻ chết trong lúc vui vẻ với người thân, bạn bè;
Có người chết vì bệnh tật hiểm nghèo, nhưng
cũng có kẻ chết vì muốn tự kết liệu đời mình bởi không tìm được lối thoát trong
cuộc đời này...vv. Quả là cái chết của con ngươi xảy ra "muôn hình, vạn
trạng".
Với niềm tin Kitô giáo thì cái chết sẽ dẫn đưa
con người đến sự sống đời đời.
Cả ba bài đọc lời Chúa trong thánh lễ sáng nay
đều đề cập đến 3 điều căn bản của niềm tin người kitô hữu chúng ta, đó
là: chết, sống lại và thưởng phạt.
- Bài đọc 1, trích
sách Gióp, tác giả tin rằng cho dẫu phải trải qua cuộc đời này đầy gian nan thử
thách, hay phải chết đi do ma quỷ gây ra, ông vẫn tin tưởng vào tình thương và
sự quan phòng của Thiên Chúa là Đấng cầm quyền trên sự sống chết của con người,
sẽ cứu ông thoát khỏi mọi hiểm nguy và đưa ông vào cõi phúc trường sinh một khi
ông nhắm mắt lìa đời. (x.G 19, 25-27).
- Bài đọc 2, trích
thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô khuyên nhủ mọi tín hữu hãy luôn trông
cậy vào TC. Dẫu biết rằng chúng ta là tội nhân nhưng Thiên Chúa vẫn yêu
thương chúng ta. Ngài đổ tình yêu vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần. Cũng chính
vì yêu thương, Thiên Chúa đã để cho người con duy nhất là Đức Giê su kitô đổ
máu mình ra Cứu độ và giao hòa chúng ta lại với Thiên Chúa. (x. Rm, 5-11)
- Còn bài Tin mừng của
thánh Gioan, Chúa Giêsu đã khẳng định với chúng ta rằng: sau cái chết là
một sự sống mới trong Đức Kitô. Nên ai tin vào Người thì được sự sống đời
đời, Người sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết và được cùng Người chung hưởng
sự sống đời đời. (x.Ga 6, 39-40).
Như thế phụng vụ lời Chúa hôm nay giúp cho ta
hiểu rằng: số phận của chúng ta hệ tại ở việc nhận biết, tin tưởng và kết hợp
mật thiết với Chúa Giêsu. Nhờ đó mà ta mới có được sống lại trong Chúa vào ngày
sau hết.
Giáo lý công giáo cũng đã dạy cho chúng ta biết rằng: có thiên đàng để
thưởng người lành, có hoả ngục để phạt kẻ dữ, và có luyện ngục để thanh tẩy các
linh hồn còn vướng mắc các tội nhẹ chưa đền hết.
Các linh hồn trong luyện ngục tự mình không thể làm gì được để được
Chúa tha các hình phạt trong luyện ngục, ở đó họ chỉ trông mong có một điều là
hình phạt mau qua để chóng được hưởng nhan thánh Chúa, do đó họ rất cần đến lời
cầu nguyện của chúng ta, cần đến những việc lành phúc đức và những hy sinh của
chúng ta là những người đang còn sống ở thế gian.
Tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, Giáo Hội đã dành trọn
tháng Mười Một trong năm để cầu nguyện cho các linh hồn trong luyện ngục, một
tháng với biết bao nhiêu là việc lành mà chúng ta làm, với biết bao nhiêu là
thánh lễ mà chúng ta tham dự cách sốt sắng, với biết bao hy sinh mà chúng ta đã
thực hiện, thì chắc chắn có rất nhiều linh hồn trong luyện ngục được thoát khỏi
hình phạt luyện ngục mà về thiên đàng hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa.
Tín điều các thánh thông công của Giáo Hội cũng nhắc nhắc nhở chúng
củng cố tình hiệp thông rõ nhất trong tháng này: hiệp thông với các thánh khải
hoàn trên trời để xin ơn trợ giúp nâng đỡ chúng ta đang lữ hành trên trần gian,
hiệp thôn với các đẳng đang đau khổ trong luyện ngục bằng các lời kinh nguyện
và việc lành của chúng ta để góp phần giải thoát các linh hồn trong nơi luyện
tội.
Ai trong chúng ta cũng đều có người thân qua đời, nếu họ đã được hưởng
hạnh phúc thiên đàng, thì họ sẽ cầu bàu cho chúng ta trước toà Thiên Chúa, nếu
họ đang bị giam cầm trong luyện ngục thì họ đang rất cần đến lời cầu nguyện và
những hy sinh của chúng ta, mỗi thánh lễ, mỗi lời nguyện, mỗi việc lành của
chúng ta làm, tựa như những giọt nước mát mẻ làm dịu bớt những cơn khát cháy
trong đau khổ cũng như thâu ngắn thời gian đền tội lại của họ trong luyện ngục.
Tháng Mười Một cũng là tháng báo hiếu của con cái đối với ông bà cha mẹ
đã qua đời. Xin lễ cầu nguyện, lần chuổi Mân Côi, làm việc lành phúc
đức.v.v...là những cách báo hiếu đúng đắn và hữu hiệu nhất mà chúng ta dành cho
các ngài.
Tin tưởng và cậy trông lòng lòng thương xót, chúng con cậy vì danh Chúa
nhân từ cho các linh hồn được lên chốn nghỉ ngôi, hằng xem thấy mặt Đức Chúa
Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen. (St)
Suy
niệm 4: RA ĐI CŨNG LÀ TRỞ VỀ
Ngày chết mà người
ta gọi là ngày đại hoạ, ngày kinh hoàng, thì đối với người tin Chúa, đó lại là
ngày đoàn tụ sum vầy
Đối với những ai
không tin có sự sống đời sau thì cái chết là thảm hoạ khủng khiếp nhất trên
đời, vì khi chết đến, nó sẽ cướp đi tất cả, không những là tất cả tài sản, của
cải tiền bạc, công danh sự nghiệp của một đời người, mà còn cướp luôn mạng sống
của họ.
Tuy nhiên, đối với các Ki-tô hữu, cái chết không
còn bi đát hãi hùng, không phải là một mất mát, nhưng là một sự trở về: chết là về nhà Cha.
Xin mượn câu chuyện
sau đây để minh họa cho chân lý nầy :
Năm người con đưa tiễn người mẹ yêu quý xuống
tàu vượt biển đến một bến bờ xa cách vạn dặm nằm bên kia bờ đại dương bát ngát.
Tàu rời bến, họ vẫy tay tiễn biệt mẹ mà lòng tê
tái buồn đau. Họ đứng lặng trên bờ, đăm đăm nhìn con tàu rẽ sóng đưa mẹ ra khơi
cho đến khi con tàu chỉ còn là một đốm trắng li ti và mất hút ở cuối chân trời.
Mắt mỗi người đều ngấn lệ vì mẹ đã đi xa, tưởng như không bao giờ trở lại.
Mấy ngày sau đó, ở bờ bên kia của đại dương,
ông bà ngoại, cậu, dì và nhiều người thân yêu đang tụ tập trên bến chờ đón mẹ
về. Và khi thấy thấp thoáng từ xa con tàu buồm trắng mà họ tin là có mẹ trên
đó, thì họ cảm thấy tâm hồn nao nức mừng vui. Đến khi mẹ vừa ra khỏi tàu, thì
ông bà ngoại, cậu dì chạy ra ôm choàng lấy mẹ, mọi người rất vui mừng hân hoan
vì đã chờ đợi mẹ rất lâu mà mãi tới hôm nay mới có ngày sum họp.
Thế là việc ra đi của mẹ ở bờ bên nầy lại là sự
trở về của mẹ ở bờ bên kia. Sự vĩnh biệt đau thương bên nầy được tiếp nối với
cuộc đoàn tụ hân hoan hạnh phúc ở bờ bến khác.
Chúa Giê-su dạy ta biết sự chết như là con tàu
buồm trắng trong câu chuyện trên đây, đưa người ta rời khỏi bến nầy để đưa họ
sang bờ bến khác, giúp con người từ giã thế giới tạm bợ đời nầy để bước vào thế
giới vĩnh cửu, để được đoàn tụ với Thiên Chúa, với ông bà tổ tiên và thân nhân
đã lìa đời trên thiên quốc.
Chính vì thế, qua trích đoạn Lời Chúa trong Tin
mừng hôm nay, Chúa Giê-su an ủi những ai còn ở bờ bên nầy, nghĩa là những người
còn sống trên dương gian rằng: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào
Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy
đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho
anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng
ở đó” (Ga 14,1-3).
Như thế, ngày chết mà người ta gọi là ngày đại
hoạ, ngày kinh hoàng, thì đối với người tin Chúa, đó lại là ngày đoàn tụ sum
vầy. Ngày đó, chúng ta sẽ được “đồng hưởng sự sống đời cùng với Đức Trinh nữ
Maria, Mẹ Thiên Chúa; Thánh Giu-se bạn trăm năm Đức Trinh nữ; các Thánh Tông đồ
và toàn thể các Thánh đã sống đẹp lòng Chúa qua mọi thời đại[1]”, nếu hôm nay
ta sống theo Lời Chúa dạy.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đi trước để dọn chỗ cho đoàn con và mai
đây Chúa sẽ trở lại để đưa đoàn con về với Chúa.
Xin cho anh chị em tín hữu đã ly trần nhưng còn
đang được thanh luyện, sớm thoát khỏi chốn luyện hình để đến nơi Chúa đã dọn
sẵn cho họ trên thiên quốc và được đồng hưởng hạnh phúc cùng với ba ngôi Thiên
Chúa và triều thần thánh đến muôn đời. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Suy
niệm 5: TÂM HỒN SIÊU THOÁT
Người có tâm hồn
nghèo khó không bám víu vào đời này nhưng bám chặt vào Chú, tựa nương vào Chúa,
như con thơ nép vào lòng mẹ và nhờ đó họ được Thiên Chúa ấp ủ, yêu thương và
ban cho họ hạnh phúc đời đời.
Trên cõi đời này
hiếm có ai nghèo như Chúa Giê-su. Mặc dù Ngài là Thiên Chúa Ngôi Hai đầy quyền
năng phép tắc, là bá chủ muôn loài muôn vật, nhưng Ngài đã hạ mình xuống thế,
trở nên người phàm, chấp nhận sinh ra trong chuồng súc vật khốn hèn, sống kiếp
nghèo không chỗ tựa đầu và cuối cùng, Ngài đã chọn chết nghèo, chết thảm vào
bậc nhất trong thiên hạ.
Chúa Giê-su không
chỉ sống nghèo mà Ngài còn là Đấng có tâm hồn nghèo khó và mong muốn chúng ta
cũng có tâm hồn nghèo khó như Ngài.
Khởi đầu bài giảng
trên núi, một bài giảng quan trọng của mình, Ngài đã nêu lên 8 mối phúc, mà mối
phúc đầu tiên là có tâm hồn nghèo khó. Ngài nói: “Phúc cho những ai có
tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.” Qua lời này, Chúa
Giê-su không nhằm nói ai nghèo khổ là có phúc, nhưng Ngài nói: “Phúc
cho những ai có tâm hồn nghèo khó.”
Thế
nào là có tâm hồn nghèo khó?
Người có tâm hồn
nghèo khó là người ý thức rằng chẳng có gì là của riêng ta. Mọi sự ta có đều là
ân huệ Chúa trao ban cho ta. Ta quản lý một thời gian, rồi mai đây Ngài sẽ lấy
lại.
Thân xác ta thuộc về
Chúa. Mai đây Chúa lấy đi, ta trở về cát bụi.
Sự sống của ta thuộc
về Chúa, khi Chúa lấy đi, ta không giành lại được.
Sức khoẻ của ta cũng
do Chúa ban, nếu Chúa cất đi, ta trở thành người bại liệt tàn phế, nằm liệt
giường không chỗi dậy nổi đâu.
Tiền bạc ta có cũng
do Chúa ban. Chúa lấy đi, ta chỉ còn 2 bàn tay trắng.
Nên phải luôn tâm
niệm lời dạy của Chúa Giê-su: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn
thì được ích gì!”
Biết như thế, nên
người có tâm hồn nghèo khó không bám víu vào đời này nhưng bám chặt vào Chúa,
không dựa vào tài năng sức lực của mình, mà hoàn toàn tựa nương vào Chúa, như
con thơ nép vào lòng mẹ và nhờ đó ta được Thiên Chúa ấp ủ, yêu thương và ban
cho ta hạnh phúc đời đời.
Thế là đúng như lời
Chúa Giê-su dạy: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời
là của họ.”
- Còn đối với những
ai không có tâm hồn nghèo, họ xem tiền là Tiên là Phật, là chìa khóa vạn năng,
là quyền lực vô song có thể giải quyết mọi vấn đề. Thế là họ cam phận làm nô lệ
cho đồng tiền, tôn thờ đồng tiền, quay cuồng trong cơn lốc kiếm tìm tiền bạc.
Họ lao vào tiền bạc như những con thiêu thân lao vào lửa. Và cũng như thiêu
thân lao vào lửa, họ đốt cháy đời mình cách đau thương như lời thánh Phao-lô
nói: “Chung cục là họ sẽ phải hư vong” (Pl 3, 19). Thánh Phao-lô mô tả về tình trạng
của hạng người này như sau: “Chúa
họ thờ là cái bụng và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là
những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian…” (Pl 3, 19).
Hôm nay, lời dạy
sống tinh thần nghèo khó của Chúa Giê-su thúc đẩy chúng ta chọn lựa một trong
hai điều này: Hoặc là tham lam, mê đắm tiền bạc và tôn nó lên ngôi để rồi phải
hư mất đời đời; hay là siêu thoát khỏi mọi chi phối trói buộc của vật chất để
chỉ bám víu vào Thiên Chúa mà thôi để được Nước Trời làm gia nghiệp.
Lạy Chúa Thánh Thần,
Nếu không được Chúa
soi sáng và ban ơn, không ai trong chúng con có thể siêu thoát khỏi mọi quyến
rủ của vật chất để hướng tâm hồn về phúc lộc quê trời.
Xin ban cho chúng
con đức khôn ngoan của Chúa, để chúng con nhận biết rằng chỉ những ai có tâm
hồn nghèo khó, siêu thoát khỏi mọi trói buộc của tiền tài và hướng lòng về
thượng giới, thì mới là người thật sự có phúc vì sẽ đạt được hạnh phúc thiên
đàng mà thôi.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Suy
niệm 6: ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC HƯỞNG PHÚC THIÊN ĐÀNG
Trong lớp giáo lý
nọ, giáo lý viên hỏi các học sinh:
- Ta phạm tội nào
thì phải sa hỏa ngục?
Đây là một câu hỏi
dễ nên có nhiều học sinh giơ tay xin đáp. Các câu đáp quy về những thứ tội sau
đây:
- Tội cố ý giết
người, cố tình gây thiệt hại cho người khác như trộm cắp, chiếm đoạt; cố tình
phạm tội tà dâm, ngoại tình; cố ý lăng mạ làm mất danh dự người khác, vân vân…
Giáo lý viên nói:
- Tất cả các câu đáp
của các em đều đúng. Bây giờ thầy hỏi tiếp:
- Có khi nào ta
không phạm những thứ tội như thế, cũng không cố tình làm hại ai, không đụng
chạm gì đến tài sản hay thân thể người khác… mà phải sa hỏa ngục không?
Sau một hồi cau mày
suy nghĩ, các học sinh đều trả lời là không. Thế nhưng thầy lại bảo là có,
khiến cả lớp ngạc nhiên pha lẫn nghi ngờ.
Thầy nói tiếp: Có
những khi ta không làm tổn thương ai, không chiếm đoạt tài sản người khác,
không xúc phạm đến ai… thế mà vẫn có thể bị sa hỏa ngục vì không ra tay cứu
giúp những người lâm cảnh gian nan khốn khó.
Nghe thế, học sinh
lại thêm nghi ngờ. Để thuyết
phục học sinh tin chắc điều này, thầy trích dẫn lời dạy của Chúa Giê-su qua hai
dụ ngôn sau đây:
Thứ
nhất là dụ ngôn người giàu có với La-da-rô khốn
khổ trong Tin mừng Luca.
Người giàu “mặc
toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có người nghèo khó tên
là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những
thứ trên bàn ăn của ông ấy mà ăn cho đỡ đói, nhưng cũng chẳng ai cho.”
Thế rồi, cả hai người đều chết. La-da-rô thì
được vào thiên đàng vinh hiển; còn lão phú hộ thì phải sa hỏa ngục” (Lc 16, 19-21).
Người giàu đã làm gì
đến nỗi phải sa hỏa ngục? Ông ta không mắng chửi, không đánh đập, không xua
đuổi La-da-rô… Thế thì tại sao lão lại phải sa hỏa ngục?
Lão phải sa hỏa ngục vì lão không ra tay cứu
giúp La-da-rô đang đói khát trong khi lão thừa mứa thức ăn.
Thứ
hai là qua dụ ngôn cuộc “Phán xét cuối cùng” được trích đọc hôm nay, Chúa Giê-su lên án những
người không ra tay cứu giúp người cùng khổ bằng những lời lẽ hết sức nặng nề: “Hỡi phường bị chúc dữ kia! Hãy
lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng…”
Thế là những người
này hết sức bàng hoảng, sửng sốt, khiếp sợ và tự hỏi: “Mình đã làm gì nên tội
mà Chúa bắt mình phải chịu hình phạt khủng khiếp đến thế? Mình không giết
người, không đốt nhà, không chiếm đoạt tài sản của ai, không gian dâm, không
ngoại tình, không mắng chửi hay làm mất thanh danh phẩm giá bất cứ ai… Thế thì
tại sao lại phải chịu hình phạt nặng nề kinh khủng như thế?
Chúa Giê-su đáp: Các
ngươi phải sa hỏa ngục “vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát,
các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình
trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng
thăm Ta!”
“Bấy giờ họ cũng đáp
lại rằng: 'Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay
mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?' Khi ấy Chúa
đáp lại: “Ta bảo thật cho các ngươi biết: Những gì các ngươi đã không làm cho một
trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính
Ta” (Mt 25, 46).
Lạy Chúa Giê-su,
Lâu nay chúng con
không ngờ có một thứ tội rất nặng nề mà ai vi phạm thì phải sa hỏa ngục đau khổ
muôn đời, đó là tội không biết ra tay cứu giúp những người lâm cảnh gian nan
khốn khổ.
Xin cho chúng con
luôn quan tâm giúp đỡ người khốn khó, biết giảm bớt những chi tiêu không cần
thiết để chia sẻ cho những anh chị em nghèo thiếu chung quanh; nhờ đó, mai đây
Chúa sẽ tuyên bố với chúng con rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc,
hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo
dựng vũ trụ” vì các ngươi đã ra tay cứu giúp những anh chị em đang lâm cảnh
gian nan.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Suy
niệm 7: LÒNG THẢO HIẾU THEO TINH THẦN KITO GIÁO
Hàng năm dân tộc
Khmer có ngày lễ Sen Dolta. “Sen” có nghĩa là cúng, còn “Dol” có nghĩa là bà,
“Ta” nghĩa là ông. Trong ngày lễ này bà con Khmer thể hiện tấm lòng thành kính, hiếu
thảo đối với ông bà tổ tiên. Vì thế trong
dịp lễ này bà con đồng bào dân tộc Khmer chuẩn bị hết sức chu đáo.
Còn các phật tử thì
lại rộn ràng với ngày lễ hội “Vu Lan- báo hiếu." vào ngày rằm tháng 7
(â.l). Tâm tình hiếu thảo của bà con Phật tử không chỉ dành cho hương hồn ông
bà cha mẹ mà còn hướng đến vong linh những người thác oan, cô quả, vùi thân nơi
đất khách quê người…
Cách riêng, Giáo Hội
chúng ta không chỉ dành ngày lễ các Đẳng Linh Hồn hôm nay nhưng còn là mỗi
ngày, nhất là cả tháng 11 dương lịch để tưởng nhớ và cầu nguyện cách đặc biệt
cho những người đã qua đời, trong đó có tổ tiên, ông bà chúng ta, được hưởng
hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng.
Thực hành này dựa
trên nền tảng của niềm tin vào Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã thực hiện ý Chúa Cha
là cho “những ai thấy và tin vào Chúa Con” thì dù có chết cũng
sẽ được sống lại và sống mãi muôn đời.
Nhiều anh chị em
lương dân vẫn chưa hiểu rõ về đạo hiếu chúng ta nên hay nói: “Theo đạo Công
Giáo là bỏ ông bỏ bà.” Nhưng thực tế chúng ta luôn sống hiếu thảo với các ngài
qua việc cầu nguyện hàng ngày trong thánh lễ, vẫn xin lễ thường xuyên, vẫn dâng
những việc lành phúc đức và âm thầm hy sinh chu toàn bổn phận trong yêu thương
phục vụ để cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ và các đẳng linh hồn đã qua
đời. Vậy mà, bà con lương dân vẫn chưa thấy được tấm lòng hiếu thảo của người
công giáo chúng ta.
Phải chăng lòng thảo
kính đối với tổ tiên ông bà cha mẹ nơi chúng ta chưa tích cực, chưa đi vào cuộc
sống nên chưa có sức lan toả?
Ý thức điều này, nên
trong tháng này, chúng ta hãy dành nhiều thời gian, công sức để năng đến tham dự thánh lễ, viếng
nghĩa trang, làm thật nhiều việc bác ái lập nhiều công đức, để cầu nguyện cho
các linh hồn của ông bà cha mẹ chúng ta đã qua đời.
Ngoài ra chúng ta
cũng hãy quét dọn mồ mả người thân chúng ta soa cho sạch đẹp. Sắp xếp lại bàn
thờ gia tiên dưới bàn thờ Chúa trong gia đình mình sao cho gọn gàng, trang
trọng nhằmthể hiện lòng hiếu kính tổ tiên trong niềm tin vào Thiên Chúa.
Xin thứ tha
những lầm lỗi, thiếu sót của những người thân chúng con và xin cho ánh sáng
ngàn thu chiếu soi trên tất cả những ai đã được nghỉ yên trong Chúa. (St)
Suy
niệm 8 : CUỘC THANH TẨY CUỐI CÙNG
“Chúa đã thử thách
các ngài như thử vàng trong lửa”.
Trên một bia mộ,
người ta đọc thấy dòng chữ: “Chỗ bạn đang đứng, chỗ tôi đã đứng. Nơi tôi đang
nằm, nơi bạn sẽ nằm!”.
Kính thưa Anh Chị
em,
“Nơi tôi đang nằm,
nơi bạn sẽ nằm!”. Lời Chúa ngày lễ Các Đẳng Linh Hồn đưa chúng ta về “Luyện
ngục”, một khái niệm thường bị hiểu lầm.
Luyện ngục là gì? Là
nơi chúng ta phải chịu trừng phạt vì tội lỗi? Cách Thiên Chúa hỏi tội về các
sai phạm của mỗi người? hay đó là kết quả cơn giận của Ngài?
Không! Luyện ngục
không gì khác hơn là tình yêu cháy bỏng và là ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ Thiên
Chúa dành cho những người Chúa chọn.
Sách Khôn Ngoan
nói, “Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa”.
Khi ai đó chết, rất
có thể họ không được hoán cải 100% để hoàn hảo về mọi mặt. Ngay cả các thánh vĩ
đại nhất mà cũng có khiếm khuyết trong cuộc sống.
Luyện ngục
không gì khác hơn là ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ tất cả vấn vương còn lại với
tội lỗi. Hãy tưởng tượng, bạn có một cốc nước tinh khiết 100%. Cốc này tượng
trưng cho thiên đàng. Bạn muốn thêm vào cốc đó một ít nước chỉ tinh khiết 99%.
Nước không tinh khiết 1% này đại diện cho những người lành thánh đã chết với
một số chấp trước nhẹ đối với tội lỗi. Nếu thêm nước đó vào cốc, cốc sẽ có một
số tạp chất, ít nữa 1%.
Vấn đề là thiên đàng
không chứa bất kỳ tạp chất nào, dù là nhỏ nhất. Vì thế, 1% đó vẫn cần được lọc
sạch.
Làm thế nào điều này
xảy ra? Chúng ta không biết. Chúng ta chỉ biết nó có. Nhưng cần hiểu rằng, đó
là kết quả của tình yêu vô hạn nơi Thiên Chúa những muốn thanh tẩy chúng ta
khỏi mọi ràng buộc, vướng bận.
Có đau không? Rất có
thể! Nhưng đau theo nghĩa buông bỏ. Và kết quả cuối cùng là tự do thực sự, đáng
giá cho bất kỳ nỗi đau nào có thể trải qua. Vì thế, luyện ngục là đau đớn,
nhưng là ‘nỗi đau ngọt ngào’ cần có từ ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ để kết hiệp
với Chúa trọn vẹn hơn. Chúa Giêsu nói, “Tất cả những người Chúa Cha ban
cho tôi đều sẽ đến với tôi”; đó là những con người với những chiếc áo trắng
tinh tuyền, và những trái tim cũng tuyệt đối tinh tuyền!
Tưởng nhớ các linh
hồn, chúng ta sống mầu nhiệm Các Thánh Thông Công. Các linh hồn trải qua cuộc
thanh luyện này vẫn hiệp thông với Chúa, với Giáo Hội dưới thế và Giáo Hội
thiên quốc. Chúa sử dụng lời cầu của chúng ta dành cho các linh hồn, cũng như
việc các linh hồn cầu bầu cho chúng ta như những công cụ thanh tẩy của Ngài;
Ngài cho phép và mời chúng ta tham gia vào ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ của họ.
Điều này tạo nên một mối liên đới chặt chẽ của chúng ta với các linh hồn.
Anh Chị em,
“Chúa đã thử thách
các ngài như thử vàng trong lửa”. Như vàng trong
lửa, một ngày kia, tất cả chúng ta rồi cũng được thanh luyện như các linh hồn.
Và không nghi ngờ gì nữa, các thánh trên trời, đặc biệt dâng lời cầu nguyện cho
họ trong thời gian thanh luyện này. Đó là một sự thật đáng hoan hỷ và là một
niềm vui lớn lao khi chúng ta thấy cách thức Thiên Chúa sắp xếp toàn bộ quá
trình này cho mục đích cuối cùng của sự hiệp thông thánh thiện mà chúng ta được
kêu gọi! Như vậy, ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ rõ ràng là cần thiết, nó là sáng
kiến từ tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa!
Chúng ta có thể cầu
nguyện,
“Lạy Chúa, giúp con
‘tập chết’ trước khi chết thật, may ra ‘nỗi đau ngọt ngào’ sau cùng sẽ chóng
vánh hơn! Đó là những hy sinh con dành cho các linh hồn!”, Amen.
Lm. Minh Anh, Tgp.
Huế
* Mùa thường niên: Lc 14, 1.7-11
Tin mừng hôm nay ghi lại những lời khuyến cáo
của Chúa Giêsu dành cho những kẻ sống kiêu ngạo và khích lệ cho những ai biết
sống khiêm nhường. Nhưng làm thế nào để ta phân biệt được đâu là kẻ kiêu ngạo
và đâu là người sống khiêm nhường?
Dựa vào câu nói cuối cùng của Chúa Giêsu trong
đoạn tin mừng hôm nay: “Ai nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống
sẽ được nhắc lên.” Như thế dấu hiệu của kẻ kiêu ngạo là “tự nhắc mình
lên”; và dấu hiệu của người khiêm nhường là “tự hạ mình xuống”.
1. Người kiêu ngạo “tự nhắc mình lên” bằng
cách nào? Thưa lhọ:
- Luôn cho mình là kẻ lớn nhất, biểu hiện ưa
thích “chọn chỗ nhất” trong đám tiệc.
- Luôn khoe khoang thành tích của bản thân khi
tiếp xúc với người khác.
- Hay phàn nàn và luôn chê bai người khác là
ngu dốt, ngầm ý mình là người khôn ngoan và tài giỏi.
- Luôn khăng khăng giữ ý kiến của mình xem
thường ý kiến của người khác, không còn khả năng lắng nghe và hợp tác với ai
cả.
- Mặt thì vênh váo, sẵn sàng nhẫn tâm chà đạp
những người yếu thế, cô thân và thích lên giọng dạy đời người khác.
- Luôn tìm kiếm hư danh nên rất ưa nịnh nọt,
sẵn sàng luồn cúi và tâng bốc bề trên. Nhưng sau lưng thì lại chê bai, nói xấu…
Hậu quả của kẻ kiêu ngạo là bị mọi người khinh
ghét; bị bạn bè xa lánh… Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho biết: họ sẽ bị chủ
tiệc làm bẻ mặt khi mời họ nhường chỗ cho người khác: “Xin ông nường
chỗ cho người này”; nhất là họ còn bị Thiên Chúa hạ bệ: “Vì hễ ai
nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống”.
2. Người khiêm nhường “tự hạ mình xuống” ra
sao? Thưa đó là người:
- Biết tôn trọng sự thật, dám nói và sống cho
sự thật.
- Biết nhận ra giới hạn bản thân, dám chấp nhận
thiếu sót và lầm lỗi của mình trước Chúa và tha nhân.
- Luôn sống chân thành cởi mở với mọi người.
Sẵn sàng lắng nghe những lời giáo huấn của Chúa và GH. Luôn mở lòng đón nhận
những lời góp ý chân thành và chỉ bảo tốt đẹp của mọi người.
- Biết ý thức những gì mình “là” và “có” đều do
ân ban của Chúa nên luôn biết cảm tạ và tôn vinh Chúa, sẵn sàng hy sinh chia sẻ
với mọi người về vật chất lẫn tinh thần…
+ Tóm lại: Người sống khiêm nhường là người
biết mình là ai? Vị trí của mình đang ở đâu? Và công việc của mình là gì?...
Vì thế mà người sống khiêm nhường luôn được mọi
người yêu mến, tôn trọng và thích kết giao. Tin mừng hôm nay còn cho biết họ
thật vinh dự khi được chủ tiệc mời lên trên: “Hỡi bạn, xin mời bạn lên
trên”. Nhưng niềm vinh dự lớn nhất của người sống khiêm nhường là được
chính Thiên Chúa yêu thương và nâng đỡ như lời Chúa Giêsu phán: “Ai hạ
mình xuống, sẽ được nhắc lên.”
Ta hãy mượn lại tâm tình bài hát sinh hoạt rất
hay của nhạc sĩ linh mục Thái Nguyên mà dâng lên Chúa tâm tình cầu nguyện: “Xin
cho con biết luôn tự hạ, sống khiêm như Giêsu từ ái. Lòng đơn sơ, chân thành
cởi mở. Đời hồn nhiên như hoa nở thắm tươi.” Nhờ đó ta mới xứng đáng được Chúa
yêu thương nâng đỡ và chúc lành; cũng như được mọi người trân trọng và yêu mến.
SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXX THƯỜNG NIÊN
Lm Minh Anh, Tgp. Huế
SUY NIỆM 1: ĐỨNG THẲNG
LÊN
“Người đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng
lên được và tôn vinh Thiên Chúa!”.
“Bán chó con”. Một cậu bé gõ cửa, “Cháu muốn
một con!”. Chủ đáp, “25 đô la!”. Cậu bé bị nghiền nát, “Cháu chỉ có hai đô la
rưỡi. Cháu có thể xem?”. “Tất nhiên!”. Mắt cậu bé rực sáng khi nhìn năm ‘quả
bóng’ tuyệt vời. “Cháu nghe, có một con bị tật”; “Đúng, ‘cô ấy’ chắc tàn tật
suốt đời!”; “Ôi, cháu muốn nó. Cháu trả góp!”. Im lặng. “Nhưng ‘cô ấy’ sẽ luôn
đi khập khiễng”. Dũng cảm, cậu bé kéo ống chân lên, một cái nẹp, “Cháu cũng
vậy!”. Trìu mến nhìn con vật, cậu nói, “Cô ấy cần nhiều tình yêu. Không dễ tàn
tật như thế, ‘cô ấy’ sẽ đứng thẳng!”. “Đây, đưa đi! Tôi biết ‘cô ấy’ sẽ có một
người bạn tốt. Quên tiền đi!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Cô ấy sẽ đứng thẳng!”, nhưng không phải ‘cô
cún’ tật nguyền của cậu bé tật nguyền, mà là một phụ nữ được Chúa Giêsu chữa
lành qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Ngài chạm vào cô, khác nào chạm vào sự
sống của cô; và cô đã có thể ‘đứng thẳng lên’.
Hẳn chắc, mỗi phép lạ Chúa Giêsu làm đều là một
hành động của lòng thương xót; thế nhưng, câu chuyện “người con gái Abraham”
còng lưng 18 năm này sẽ còn nhiều điều thú vị hơn thế. Nó mang nhiều ý nghĩa
biểu tượng sâu sắc hơn chúng ta tưởng!
Với phép lạ này, dường như người phụ nữ đã
không tìm kiếm một sự chữa lành nào. Thấy cô, trái tim Chúa Giêsu xem ra ngừng
đập và Ngài nhất định ra tay dẫu đó là ngày Sabbat! Gần như tất cả các cuộc
chữa lành của Ngài đều mang một ý nghĩa biểu tượng cho những đau khổ sâu sắc
hơn mà cùng lúc con người phải chịu! Điếc, không thể nghe Lời và tiếng Thánh
Thần; mù, không thể thấy sự hiện diện của Chúa; câm, không thể nói về Ngài và
sứ điệp của Ngài; liệt, không thể làm những gì ân sủng thúc giục; hủi, bị cắt đứt
hoặc tự cắt đứt các mối quan hệ; và quỷ ám, bị kìm kẹp bởi tội lỗi, nghiện
ngập… Tất cả những thiểu năng thương tật ấy không cho chúng ta có khả năng
‘đứng thẳng lên!’.
Thông điệp thứ hai, sau khi được chạm đến, phụ
nữ này đã ‘đứng thẳng lên’. Đây cũng là hình ảnh biểu tượng cho những gì được
ân sủng chạm tới! Khi Thiên Chúa chạm ai, người ấy có thể đứng thẳng; họ tự tin
bước đi như con trai, con gái của Ngài. Qua thư Rôma hôm nay, Phaolô xác tín,
“Chúng ta có thể kêu lên, ‘Abba, Cha ơi’. Chính Thần Khí chứng thực cho thần
trí chúng ta rằng, chúng ta là con cái Thiên Chúa”; và mỗi người có thể nói,
“Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa cứu độ!”, như Thánh Vịnh đáp ca chúc khen.
Anh Chị em,
“Cô ấy sẽ đứng thẳng!”. Có một biểu tượng nhất
định trong việc cô ấy phải còng lưng và không thể đứng thẳng. Về mặt tâm linh,
đó không phải là vấn đề của bạn và tôi sao? Rất nhiều người trong chúng ta có
thể đang co quắp với những gánh nặng triền miên trong cuộc sống. Một vết thương
lòng, một tiếc xót, một tội lỗi của quá khứ… tất cả những điều đó có thể khiến
chúng ta dị tật và không ‘đứng thẳng’. Chúa Giêsu không chỉ chạm đến, Ngài còn
hôn lấy nó; không chỉ hôn lấy nó, Ngài còn ôm ấp; không chỉ ôm ấp, Ngài còn
rước lấy thương tật của chúng ta đến nỗi chết trên thập giá. Hãy sấn tới Ngài,
cố chạm vào Ngài; Ngài sẽ nhìn thấy chúng ta và biết chúng ta cần gì. Và hẳn
Ngài cũng sẽ chữa lành để bạn và tôi có thể ‘đứng thẳng lên!’.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, chỉ mình Chúa biết ‘tật nguyền’ của
con; xin thương chạm đến nó, để con hết ‘còng!’”, Amen.
SUY NIỆM 2: CỐT LÕI
CỦA ÐẠO
Một đêm mùa Ðông lạnh như cắt, một vị ẩn sĩ không
chịu nổi cái lạnh của sa mạc, đã tìm đến xin trú ẩn tại một ngôi chùa. Nhìn
thấy gương mặt tiều tụy của vị ẩn sĩ, tu sĩ canh giữ ngôi chùa không nỡ để ông
ta đứng mãi giữa trời. Vị tu sĩ cho ông vào, nhưng lại nói một cách cương
quyết: “Ông có thể ngủ đêm trong chùa, nhưng chỉ một đêm thôi, ngày mai ông
phải rời khỏi nơi này tức khắc, vì đây là nơi tu hành, chứ không phải là trại
tế bần”.
Giữa đêm, vị tu sĩ nghe thấy tiếng động kỳ lạ. Ông
thức dậy và chứng kiến cảnh tượng khác thường: giữa ngôi chùa vị ẩn sĩ đang
ngồi sưởi ấm bên một đống lửa cháy phừng. Nhìn lên bàn thờ, vị tu sĩ không còn
thấy tượng Phật bằng gỗ nữa. Ông hỏi vị ẩn sĩ, vị này chỉ vào đống lửa điềm
nhiên đáp: “Tôi không chịu nổi cái lạnh, nên đã dùng tượng Phật để nhóm lên
đống lửa này”. Nghe thế, vị tu sĩ quát lớn: “Ông khùng rồi sao? Ông có biết ông
đã làm gì không? Ðây là tượng Phật, ông đã đốt cháy Ðức Thích Ca của chúng
tôi”.
Sáng hôm sau, vị tu sĩ trở lại để đuổi vị ẩn sĩ ra
khỏi chùa; ông thấy vị ẩn sĩ đang bới đống tro như để tìm kiếm vật gì đó. Thấy
vị tu sĩ thắc mắc, ông ta trả lời: “Tôi đang tìm kiếm những cái xương của Ðức
Phật mà ngài bảo là tôi đã thiêu đốt tối hôm qua”.
Về sau, vị tu sĩ canh giữ ngôi chùa kể lại câu
truyện cho một Thiền sư, và Thiền sư đã trách ông như sau: “Ông là một tu sĩ
xấu, bởi vì ông xem một tượng Phật chết trọng hơn một mạng người sống”.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến cái chết của
Chúa Giêsu, chính là cuộc xung đột giữa Ngài và những người Biệt phái. Những
người Biệt phái bám vào việc tuân giữ nghi thức và luật lệ đến độ dẫm lên trên
cả mạng sống con người. Trong khi đó, đối với Chúa Giêsu, cốt lõi của đạo chính
là tình yêu. Phân định về việc giữ ngày Hưu lễ, Chúa Giêsu tuyên bố dứt khoát:
“Ngày Hưu lễ được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Hưu
lễ”. Ngài đã giải thoát một người đàn bà khỏi bị còng lưng trong ngày Hưu lễ,
để chứng tỏ sự sống của con người, giá trị của con người, hay đúng hơn, tình
yêu thương cao cả hơn tất cả những nghi thức và việc tuân giữ bên ngoài.
Xin cho chúng ta hiểu rằng cái cốt lõi của đạo
chính là tình thương. Xin cho những lời cầu kinh, những việc tuân giữ luật lệ
không là những cái vỏ hình thức bên ngoài, mà phải dẫn chúng ta đến những hành
động cụ thể của tình yêu. Xin cho chúng ta luôn xác tín rằng sống cho tình yêu
là được sống trong Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
THỨ BA:
SUY NIỆM 1: NƯỚC THIÊN CHÚA GIỐNG NHƯ
CHUYỆN MỘT HẠT CẢI…
Nguồn: The Word Among Us,
September 2023
Lm. Phaolô Vũ Đức Thành, SDD. chuyển ngữ
“Hãy dành mười lăm phút mỗi ngày cho sự phát triển
vương quốc Thiên Chúa!”
Mặc dù tiêu đề đó nghe có vẻ giống như trong một tạp chí lá cải ở cửa
hàng tạp hóa, nhưng nó lại nắm bắt được điểm đằng sau những câu chuyện dụ ngôn
trong Tin mừng hôm nay.
Chúa Giêsu dùng hai dụ ngôn này để minh họa tiềm năng kỳ diệu cho sự
phát triển trong vương quốc của Thiên Chúa. Chúng nói về quyền năng và ân sủng
của Thiên Chúa, đặc biệt là khả năng của Ngài để làm điều gì đó vượt xa những
gì chúng ta mong đợi, dù đó chỉ là một hạt giống bé nhỏ hoặc một chút men nhỏ
nhất.
Điều này cũng đúng đối với chúng ta. Ngay cả với nỗ lực nhỏ nhất của
chúng ta, Thiên Chúa cũng có thể làm được những điều đáng kinh ngạc. Hãy nghĩ
xem chỉ mười lăm phút cầu nguyện mỗi ngày có thể mạnh mẽ như thế nào. Đó chỉ là
1% của 24 giờ mỗi ngày, nhưng thật đáng kinh ngạc là những gì có thể xảy ra
trong vài phút ngắn ngủi đó. Bạn có thể chạm vào chính sự hiện diện của Thiên
Chúa. Cảm giác về tội lỗi trong quá khứ có thể được xóa sạch khi bạn gặp được
lòng thương xót của Ngài. Trái tim bạn có thể dịu lại với tình yêu thương dành
cho những người xung quanh bạn. Bạn thậm chí có thể nghe thấy Thánh Thần nói
với bạn và mở ra những điều bí ẩn của Kinh thánh cho tâm hồn bạn! Bây giờ hãy
xem xét tác động của tất cả những điều này có thể có đối với cả ngày của bạn:
sự bình an, sự hướng dẫn, niềm hy vọng, sự tự tin.
Hoặc ở một góc độ khác, hãy nghĩ về tác động mà một bữa trưa có thể kéo
dài một tiếng đồng hồ với bạn bè. Trong thời gian đó, bạn chia sẻ một câu
chuyện ngắn về điều gì đó bạn đã học được trong buổi cầu nguyện của mình ngày
hôm trước. Hoặc có lẽ bạn đề cập đến một số phúc lành mà Thiên Chúa đã ban cho
bạn. Nhưng câu chuyện nhỏ đó nằm trong trí nhớ của bạn như một hạt giống. Nó
bén rễ và phát triển. Và có lẽ, theo thời gian, bạn của bạn bắt đầu cầu nguyện,
trở lại tham dự Thánh lễ, hoặc hỏi bạn nhiều câu hỏi hơn. Tất cả từ một giờ ăn
trưa đơn giản!
Thiên Chúa có thể tận dụng bất kỳ nỗ lực nào có kích thước bằng hạt cải
mà bạn bỏ ra để nuôi dưỡng đức tin của mình và biến nó thành một thứ gì đó to
lớn và đẹp đẽ đến bất ngờ. Thậm chí chỉ mười lăm phút mỗi ngày cũng có thể tạo
ra sự khác biệt rất lớn!
Lạy Chúa, con cảm ơn Chúa đã hứa sẽ mang lại rất nhiều sự phát triển
trong cuộc sống của con và cuộc sống của những người xung quanh con!
SUY NIỆM 2: SỨC
MẠNH NỘI TẠI CỦA NƯỚC CHÚA
Tin Mừng hôm nay, Chúa
Giêsu dùng hai dụ ngôn: hạt cải và nắm men để nói về Nước Trời.
Cả hai dụ ngôn làm nổi bật
khởi điểm khiêm tốn nhỏ bé của Nước Chúa so với sự thành toàn cuối cùng.
Dụ ngôn hạt cải nhấn mạnh
sự phát triển theo chiều rộng:
từ hạt cải nhỏ bé trở thành cây to, đến độ chim trời có thể đến làm tổ được.
Dụ ngôn nắm men được đem
trộn vào bột nhấn mạnh đến chiều
sâu, tức phẩm chất của Nước Chúa: từ một chút men có thể làm dậy cả khối
bột.
Cả hai dụ ngôn đều nhấn
mạnh đến sức mạnh nội tại của Nước Chúa, một sức mạnh chỉ được nhìn thấy bằng
đức tin mà thôi.
Thật thế, khi kể hai dụ
ngôn này, Chúa Giêsu không nhằm đến diễn tiến Nước Chúa đang xảy ra như thế nào
trong lịch sử, mà chỉ nhằm nhấn
mạnh đến tình trạng hoàn tất chung cuộc vào lúc cuối cùng của lịch sử: mặc
cho những thử thách, những ngăn trở, Nước Chúa dù được bắt đầu một cách khiêm
tốn nhỏ bé, nhưng chắc chắn sẽ đạt đến mức phát triển trọn vẹn.
Hai dụ ngôn: Hạt Cải và
Nắm Men trong bột, gởi đến chúng ta
một sứ điệp hy vọng, nhất là khi phải đương đầu với trở ngại, thử
thách trong đời sống đức tin. Nhìn thấy những điều tiêu cực luôn xảy ra trong Giáo
Hội và trên thế giới, chúng ta có thể tự hỏi:
Những hạt cải giá trị Kitô
liệu còn có thể mọc lên và phát triển trong một thế giới ngày càng bị tục hóa
và bị nhiễm tinh thần đối nghịch với Thiên Chúa không?
Một chút men Lời Chúa có
đủ sức thu hút và biến đổi con người nên tốt hơn không?
Ðã hơn 2.000 năm kể từ khi
Con Thiên Chúa nhập thể làm người và thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân loại
qua cái chết trên Thập giá, nhưng thử hỏi nhân loại ngày nay có tốt đẹp hơn
ngày xưa không?
Nếu suy nghĩ theo lý luận
tự nhiên, chúng ta có thể dễ dàng rơi vào thất vọng. Tuy nhiên, những lời của
Chúa Giêsu qua hai dụ ngôn trên đây không cho phép chúng ta bi quan ngã lòng.
Chúng ta không nhìn thấy tương lai Nước Chúa sẽ như thế nào nhưng Chúa muốn
chúng ta cộng tác vào đó, bằng sự cầu nguyện và dấn thân làm những gì có thể,
với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.
Xin Chúa mở rộng con mắt
đức tin chúng ta, để chúng ta nhìn thấy tác động âm thầm của tình yêu Chúa
trong những biến cố hằng ngày. Xin cho chúng ta luôn kiên trì trong thử thách
và luôn hy vọng vào Chúa trong mọi sự.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: SẼ HOÀN
THÀNH
“Chúng ta đã được cứu độ, nhưng vẫn còn phải
trông mong!”.
Một du khách thăm một đại giáo đường Ý vừa xây
xong phần ngoài; bên trong, một nghệ sĩ đang quỳ trước một bức tường rộng lớn;
trên đó, anh sẽ tạo một bức khảm mosaic với hàng ngàn mảnh gốm màu. “Làm sao
anh có thể hoàn tất một công trình lớn đến thế?”. Nghệ nhân trả lời, “Tôi chỉ
biết, tôi có thể hoàn thành bao nhiêu trong một ngày. Mỗi sáng, tôi đánh dấu
phần sẽ hoàn tất hôm đó, và tôi không lo lắng về không gian kia. Đó là điều tốt
nhất tôi có thể; và nếu tôi tận tuỵ hết mình, một ngày kia, bức khảm sẽ hoàn
thành!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Không chỉ bức khảm của ngôi thánh đường ngày
kia ‘sẽ hoàn thành’, Lời Chúa hôm nay cho thấy ơn cứu độ của chúng ta cũng thế!
Nước Trời là một thực tại dở dang, nó chỉ hoàn thành và ‘sẽ hoàn thành’ ngày
chúng ta hợp hoan với Thiên Chúa trong Nước Ngài.
Bài đọc Rô-ma tiết lộ, “Chúng ta đã lãnh nhận
Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền
làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa”. Mỗi chúng ta chưa phải là
tất cả những gì Thiên Chúa định hình cho mỗi người phải trở thành. Theo Phaolô,
với Thánh Thần, Thiên Chúa đã bắt đầu công việc tốt lành của Ngài trong cuộc
sống mỗi người, nhưng công việc đó chưa hoàn tất, nó ‘sẽ hoàn thành’ ở cõi đời
đời. Vì thế, chúng ta đang luôn ở trên đường; bạn và tôi chưa đến đích!
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu ví Nước Trời
như hạt cải người kia gieo vào vườn, hoặc như chút men phụ nữ nọ trộn vào ba
đấu bột. ‘Cải chưa mọc thành cây’, ‘men chưa làm dậy bột’; tuy nhiên, công
trình của Thiên Chúa đã vận hành trong thế giới và trong mỗi người. Ngài mời
chúng ta cộng tác; và nếu mỗi người tiếp tục quảng đại âm thầm dấn thân cho
Vương Quốc nơi chính mình và trong thế giới, nhân loại sẽ sớm cảm nghiệm được
sự cứu rỗi viên mãn của Thiên Chúa và sự ngự trị của Vương Quốc Ngài vốn một
ngày kia ‘sẽ hoàn thành’. Bấy giờ, nhân loại sẽ cảm nhận công trình cứu độ vĩ
đại của Ngài. Thánh Vịnh đáp ca thật sâu lắng, “Việc Chúa làm cho ta ôi vĩ
đại!”.
Anh Chị em
“Vẫn còn phải trông mong!”. Lời Chúa khích lệ
sự kiên nhẫn, can đảm và hy vọng. Những nhân đức này đặc biệt cần thiết cho
những ai cống hiến hết mình để mở rộng Vương Quốc. Với ân sủng Chúa, chúng ta
chờ đợi ‘hạt giống’ mọc lên đang khi cắm rễ sâu vào đất tốt để dần dần trở
thành một cây. Hạt giống ở đây trước hết, chính là Chúa Giêsu; tiếp đến, là bạn
và tôi! Cần có niềm tin vào điều không trông thấy - khả năng sinh sản - chứa
đựng trong nó. Hạt giống còn là Lời; là Thánh Thể chúng ta rước lấy mỗi ngày.
Như Chúa Giêsu, chúng ta còn là men, nồng nàn trong thế giới. Thời gian cũng là
điều cốt yếu để hạt nẩy mầm và men có thể thực hiện chức năng tối thượng của
mình. Têrêxa Avila nói, “Hãy để sự tự tin và đức tin sống động nâng đỡ linh
hồn; ai tin tưởng và hy vọng sẽ đạt được mọi thứ!”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con thường vội, Chúa thì không. Giúp
con tận tuỵ hết mình, làm tốt nhất những gì có thể của ngày hôm nay; dù bên
ngoài, xem ra chúng thật nhỏ bé, tầm thường!”, Amen.
Lm Minh Anh, Tgp. Huế
THỨ TƯ:
THỨ NĂM:
THỨ SÁU: MỪNG KÍNH CÁC
THÁNH NAM NỮ
SUY
NIỆM 1: HÃY LÀ MỘT VỊ THÁNH!
“Đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh
nhan Ngài”.
Trong chuyến thăm nước Anh, Đức Bênêđictô 16 đã
nói với các bạn trẻ, “Cha hy vọng, trong số các bạn đang nghe cha đây, sẽ có
một số vị thánh tương lai của thế kỷ 21. Điều Chúa muốn trên hết đối với chúng
ta là phải nên thánh! Ngài yêu chúng con hơn những gì chúng con có thể tưởng
tượng, Ngài muốn điều tốt nhất cho chúng con. Và điều tốt nhất là chúng con lớn
lên trong sự thánh thiện!”. Bênêđictô không ngần ngại thách đố các bạn trẻ Anh
và các bạn trẻ trên thế giới rằng, “Hãy là một vị thánh hơn là một người nổi
tiếng!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Hãy là một vị thánh!”. Đó cũng là những gì chúng
ta được thách thức nhân ngày Giáo Hội mừng kính và tôn vinh “Tất cả Các Thánh”.
Các ngài đã thực hiện điều Chúa muốn; họ chọn trở nên những vị thánh hơn là trở
nên những người nổi tiếng! “Đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh nhan
Ngài”, Thánh Vịnh đáp ca xác quyết.
Tưởng nhớ tất cả những tâm hồn thánh thiện gồm đàn
ông, phụ nữ, trẻ em, các vị tử đạo, những ai tuyên xưng đức tin và những con
người vô danh khác đã được rửa tội hoặc chưa được rửa tội; trong đó, có cả ông
bà, cha mẹ của bạn và tôi, những con người lành thánh. Bài đọc Khải Huyền tiên
báo, “Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân… mọi ngôn
ngữ”. Điều phân biệt là họ đã mở lòng ra với ân sủng Chúa một cách sâu sắc, trở
nên mạnh mẽ trong Ngài. Theo những cách thức khác nhau, họ có một điểm chung,
“giặt áo mình trong Máu Con Chiên”; tức là phản ánh một nhân đức nào đó về chân
dung người môn đệ mà Chúa Giêsu đã phác hoạ qua từng mối phúc trong bài Tin
Mừng.
Và nếu các mối phúc Chúa Giêsu nói đến, về căn
bản, là một chân dung hoàn hảo của chính Ngài, thì từng mối phúc sẽ là chân
dung của từng vị thánh; mỗi vị mỗi vẻ đã góp phần làm nên cộng đồng thiên
triều. Đó là cộng đồng các thánh, những con người đã không để mình ‘rơi vào
tinh thần thế tục của thời đại’ nhưng ‘vượt lên thời đại’; một số, thậm chí đã
‘thay đổi thời đại!’. Họ không bị văng ra ngoài bởi vòng xoáy của những sai
trái; ngược lại, giữa sai trái, họ cuốn hút bao người tiếp cận, tin yêu Đấng họ
phụng thờ.
Các thánh còn là những con người đang cầu thay
nguyện giúp cho bạn và tôi. Họ nói với chúng ta rằng, sự thánh thiện có thể có
ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào; họ cầu cho chúng ta được nên giống Chúa, nên
con cái Ngài ngày một hơn. Bài đọc thứ hai cho biết, trong cuộc sống mai ngày,
chúng ta sẽ nên giống Chúa; cùng lúc tuyên bố rằng, ‘lúc này và ở đây’, chúng
ta đã là con cái Ngài, chia sẻ sự sống thần linh của Ngài nhờ phép Thánh Tẩy đã
nhận lãnh. Phải, phép Rửa là nền tảng của sự thánh thiện cho mỗi chúng ta!
Anh Chị em,
“Đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh
nhan Ngài”. Cảm tạ Chúa vì đã ban cho Giáo Hội vô vàn tâm hồn thánh khiết.
Thiên đàng đang chờ đợi bạn và tôi! Đó cũng là giấc mơ của Thiên Chúa. Điều tốt
nhất chúng ta cố đạt cho được ở đời này không phải là giàu có, nổi tiếng, nhưng
là nên thánh. Phép Rửa mời gọi bạn và tôi nên thánh, ân sủng giúp chúng ta sống
thánh bằng các lối hẹp Tin Mừng. Công việc của chúng ta là cộng tác với ân sủng
để nên thánh, không chỉ mai ngày, nhưng ngay hôm nay, trong bậc sống mình.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, với ơn Chúa, con sẽ không để mình ‘rơi
vào tinh thần thế tục của thời đại’, nhưng ‘vượt lên thời đại’; và con sẽ ‘thay
đổi thời đại’. Tại sao không?”, Amen.
Lm Minh Anh, Tgp. Huế
SUY
NIỆM 2: NGÀY HỘI VUI
Lm. Antôn Nguyễn Văn
Độ
Hôm nay, ngày hội lớn, ngày vui mừng hân hoan của
tất cả mọi thành phần con cái trong đại gia đình Giáo hội mừng kính trọng thể
Các Thánh Nam Nữ ở trên Trời, những người đang sống sự sống của Thiên Chúa, những
vị đang hưởng phúc vinh quang tràn đầy trước tòa cao sang của Chúa Ba Ngôi trên
thiên đàng.
Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên
Chúa từ lời kinh, tiếng hát, đến các bài đọc, thánh ca vang lên thánh thót, lôi
cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để
chiêm ngưỡng Các Thánh.
Lời
Ca Nhập Lễ đã khơi lên một niềm
vui hân hoan bằng những lời hiệu triệu : “Tất cả chúng ta hãy vui mừng
trong Chúa khi cử hành ngày lễ các Thánh Nam Nữ”.
Quả thật, gia đình Hội Thánh hôm nay tràn ngập hân
hoan vui mừng : Hội thánh lữ hành tại thế hân hoan ngưỡng vọng về trời cao để
dõi mắt chiêm ngưỡng những anh chị em kitô hữu đã hoàn thành cuộc chiến đấu và
chiến thắng vinh quang.
Các linh hồn trong luyện ngục hân hoan trong niềm
hy vọng mãnh liệt sẽ được đoàn tụ cùng các Thánh trên quê trời.
Các Thánh Nam Nữ trên thiên đàng hân hoan vui
sướng vì đang được chiêm ngưỡng vinh quang rạng người của Ba Ngôi Thiên Chúa
như Kinh Tiền Tụng trong Thánh lễ hôm nay xác quyết : “Hôm nay, nơi thành trì
của Thiên Chúa, nơi Giêrusalem trên trời, có đông đảo anh em chúng ta ca tụng
Chúa muôn đời”.
Có người cho rằng sự thánh thiện chỉ ưu tiên một
số người có chuyên chăm cầu nguyện, là giáo hoàng, Hồng Y, giám mục, linh mục
hay tu sĩ nam nữ, hay những người đã sống và thực thi trọn vẹn Điều răn mến
Chúa yêu người, những người đã đạt tới đỉnh cao các nhân đức, hoặc là đã trung
thành đến chết vì niềm tin, vì tình yêu dâng hiến; hay là những con người xuất
chúng và có thể làm những việc lạ lùng.
Thánh Gioan nhìn thấy: “Số người được đóng
ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel” (Kh
7, 4). Tuy nhiên, nếu con số chỉ có thế thôi thì quả là một điều đáng lo sợ, vì
người tín hữu như ta, phàm phu tục tử, suốt ngày chật vật với miếng cơm manh
áo, thường xuyên đối diện với những nhỏ nhen đời thường…chắc đành “bó tay”
trước lời Thiên Chúa mời gọi : “Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh” (Lv
11,44), đâu có hy vọng được vào số những người đó.
Điều làm cho chúng ta vui mừng và phấn khởi trong
ngày lễ hôm nay, là Các Thánh là những người trong nhân loại chúng ta, có thể
có những người thân của chúng ta, khi còn sống, họ đã trải qua biết bao nhiêu
đau khổ và thăng trầm, nhưng cuối cùng đã được thanh tẩy mình trong máu Con
Chiên là Chúa Giêsu, họ đã trở nên tinh tuyền, sạch đẹp và đang hưởng hạnh phúc
với Chúa.
Các Thánh không phải các các tiên nữ, hay thiên tử
từ Trời mà đến. Không, họ là những con người hoàn toàn như chúng ta là người,
thuộc đủ mọi thành phần và mọi tầng lớp trong xã hội kể từ Đức Mẹ, Thánh Giuse,
Các Thánh Tổ Tông, Các Thánh Tiên Tri, Các Thánh Tông Đồ, Các Thánh Từ Đạo, Các
Thánh Mục Tử, Các Thánh Hiển Tu, Ẩn Tu, Các Thánh Đồng Trinh Thủ Tiết, Các
Thánh Nam Nữ, Các Thánh Anh Hài. v.v…
Có những vị rõ ràng là thánh, những vị được tôn
phong hiển thánh, những vị có tên trong kinh cầu các thánh với đỉnh cao sáng
rực. Nhưng cũng nhớ và kính mừng những vị thánh chìm sâu trong lòng đất, trong
xác thịt mồ hôi nước mắt của kiếp người, giờ đây trên thiên quốc vui mừng hân
hoan tận hưởng phần thưởng trọng đại Chúa dành cho. Há chẳng phải là niềm vui
lớn lao và hy vọng của tất cả chúng ta đang sống phận lữ hành tiến về quê trời
vinh phúc hay sao?
Vui, vì ai trong chúng ta, dù yếu đuối hay tội
lỗi, đều có thể nên trọn lành như lời Chúa Giêsu mời gọi: “Các ngươi
hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Ðấng trọn lành” (Mt
5, 48).
Hôm nay Các Thánh Nam Nữ thúc giục chúng ta: hãy
cố làm thánh! Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo không ngừng mời gọi chúng ta nên Thánh:
“Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh” (Lv 11,44). Thánh Phêrô lặp
lại ý muốn của Chúa với chúng ta: “Bởi chưng đã viết rằng: Các ngươi
hãy là thánh vì Ta là Thánh” (1Pr 1, 16).
Chúa Giêsu đã vạch ra cho chúng ta con đường nên
Thánh bằng Tám Mối Phúc: Phúc cho những ai nghèo khó trong tinh thần, phúc cho
những ai đau khổ, phúc cho những ai hiền lành, phúc cho những ai đói khát sự
công chính, phúc cho những kẻ có lòng nhân từ, phúc cho những ai có lòng trong
sạch, phúc cho những ai xây dựng hoà bình, phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ
công chính (x. Mt 5, 3-10).
Một mối phúc đặc biệt linh hứng sự chọn lựa đoạn
này: “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên
Chúa cho thoả lòng” (Mt 5,10).
Đức Giáo Hoàng Phanxicô khuyên chúng ta: Đừng sợ
nên thánh. Để nên thánh không cần phải là một giám mục, linh mục hay tu sĩ.
Chúng ta thường bị cám dỗ để nghĩ rằng sự thánh thiện chỉ dành cho một số
người. Không phải thế. Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh bằng cách
sống đời mình với tình yêu và bằng cách làm chứng trong mọi việc mình làm, ở
bất cứ nơi nào mình sống.
Bạn được mời gọi sống đời thánh hiến ư? Hãy nên
thánh bằng cách sống sự dấn thấn ấy cách thật vui tươi.
Bạn đã kết hôn ư? Hãy nên thánh bằng cách yêu
thương và chăm sóc cho chồng hay vợ mình, như Đức Kitô chăm sóc cho Hội thánh.
Bạn phải làm việc để kiếm sống ư? Hãy nên thánh
bằng cách làm việc thật tận tụy và chu đáo để phục vụ anh chị em mình.
Bạn là cha mẹ hoặc ông bà ư? Hãy nên thánh bằng
cách kiên nhẫn dạy dỗ con cháu biết theo Chúa Giêsu.
Bạn đang ở một địa vị có quyền lực ư? Hãy nên
thánh bằng cách quên lợi riêng để phục vụ ích chung. (x. Bài Giáo Lý, Triều Yết
Chung ngày 19 tháng 11, 2014).
Các Thánh Nam Nữ của Chúa, cầu cho chúng con. Amen.
* THỨ
SÁU THƯỜNG NIÊN: NỖI ĐAU THÁNH
“Lòng tôi rất đỗi ưu phiền, và đau khổ mãi không
ngơi!”.
Về hưu, cựu Tổng thống Thomas Jefferson lập Đại
học Virginia; ông tin rằng, sinh viên sẽ học hành nghiêm túc. Nào ngờ, một cuộc
bạo động dẫn đến đổ máu xảy ra; các giáo sư bị tấn công! Hôm sau, một cuộc họp
được tổ chức, Jefferson có mặt; có cả các sinh viên nổi loạn. Jefferson nói,
“Đây là một sự kiện đau đớn nhất trong đời tôi!”, và ông bật khóc! Giám thị yêu
cầu những kẻ bạo động tiến lên; tất cả nhận lỗi. Sau đó, một trong các sinh
viên ấy nói, “Không phải do lời của Jefferson, nhưng là nước mắt của ông ta!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Jefferson đau đớn! Lời Chúa hôm nay cho thấy một
nỗi đau còn lớn hơn. Đó là nỗi đau của Phaolô, một ‘nỗi đau thánh!’. Trước sự
cứng lòng của những người anh em Do Thái giáo đương thời, những người nhất mực
từ chối sứ điệp Phaolô mang đến, Phaolô thở than, “Lòng tôi rất đỗi ưu phiền,
và đau khổ mãi không ngơi!”.
Một lý do khiến Phaolô vô cùng đau đớn, là việc
những người anh em này từ chối Chúa Giêsu; ở một số nơi, họ mạnh mẽ chống lại
các Kitô hữu, những người mà họ gọi là ‘phản bội’ hoặc ‘dị giáo’. Phaolô nhấn
mạnh, đây không phải là một lời than phiền bình thường, nhưng là một nỗi đau
thực sự đến nỗi ngài sẵn sàng tách khỏi Chúa Kitô theo nghĩa đen, nếu điều này
có lợi cho đồng bào mình. Phaolô tự nguyện là tù nhân, bị nguyền rủa, loại trừ
để anh em ngài nhận biết Chúa Kitô. Đây quả là một ‘nỗi đau thánh!’.
Tin Mừng hôm nay cho thấy một trải nghiệm tương tự
nơi Chúa Giêsu. Một thủ lãnh biệt phái mời Ngài dùng bữa, họ dò xét Ngài. Một
người phù thũng xuất hiện; đây có thể là một sắp đặt! Và dẫu đó là sự thật,
Chúa Giêsu vẫn quyết đoán làm những gì phải làm để tỏ bày lòng thương xót của
Ngài, không chỉ với người bệnh nhưng với cả những ai đang rắp tâm hại Ngài.
Ngài hỏi, “Có được phép chữa bệnh ngày Sabbat không?”. “Họ làm thinh!”. Chính
sự làm thinh tố cáo ác tâm của họ. Và Ngài “đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho
về”. Họ tiếp tục làm thinh, để lại cho Ngài một ‘nỗi đau thánh!’.
Trong một thế giới từ chối Thiên Chúa, tâm hồn các
môn đệ Chúa Giêsu phải là nơi chịu giày vò bởi những nỗi đau. Thế giới với lý
do này, lý do khác, từ chối Ngài và sứ điệp của Ngài; Giáo Hội cũng đang đối
mặt với bao thách đố. Vấn đề chuyển giới, trợ tử, phá thai, đồng tính, di dân
và nạn buôn người… tất cả đang thực sự nhức nhối. Thế nhưng, lập trường của
Giáo Hội thật dứt khoát, phẩm giá và sự sống con người có giá trị vô song; và
việc nâng con người lên, chữa lành nó, phải là ưu tiên hàng đầu!
Anh Chị em
“Lòng tôi rất đỗi ưu phiền, và đau khổ mãi không
ngơi!”. Trước những sự kiện đau lòng của thế giới và của Giáo Hội, liệu bạn và
tôi có một cảm thức xót xa nào không? Cụ thể, trước sự cứng cỏi của những con
người chúng ta yêu thương, khi họ từ chối niềm tin hay đang đắm chìm trong một
nghiện ngập, một tội lỗi nào đó; thiết thực hơn, những người bỏ nhà thờ, bỏ
đạo, chúng ta có nhức nhối không? Và quan trọng hơn, bạn và tôi đã làm gì?
Chúng ta có cầu nguyện, hy sinh, thăm viếng, khuyên nhủ và cụ thể, có ra sức
nêu gương sáng để làm những gì có thể hầu đưa những anh chị em đó trở về?
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, trước những ‘thương tật’ của anh chị em
con, giúp con cảm nhận một sự giày vò bên trong, hầu một ngày kia, con không
phát hiện mình bị ‘thiểu năng!’”, Amen.
THỨ
BẢY: LỄ CÁC ĐẲNG
SUY
NIỆM 1: THIÊN ĐÀNG-LUYỆN NGỤC-HỎA NGỤC
Giáo
Hội gồm ba thành phần, một số còn lữ hành trên trần gian; một số khác, đã rời
bỏ đời này, hiện đang được thanh luyện, và một số khác nữa, đã được hưởng vinh
quang Thiên Chúa. Tất cả cùng nhau làm thành một gia đình duy nhất trong Đức
Kitô, là Hội thánh, để ca ngợi và tôn vinh Chúa Ba Ngôi.
Đối với niềm tin vào Thiên Đàng-Luyện Ngục và
Hỏa Ngục, người ta thường có ba thái độ:
Cứng lòng tin: Chẳng có Thiên Đàng, cũng chẳng có Luyện Ngục hay Hỏa Ngục như Giáo
Hội Công Giáo dạy! Có chăng là có Thiên Đàng nơi trần thế này mà thôi! Chết là
hết, là kết thúc, xuôi tay nhắm mắt xong là hết đau khổ, hết lo lắng và hết… nợ
đời!
Chính vì không tin vào thực tại của Thiên Đàng
- Luyện Ngục và Hỏa Ngục ở đời sau, cho nên họ như những con thiêu thân chỉ
biết lao đầu vào ăn chơi, hưởng thụ, trác táng, hút sách, phạm pháp, làm những
việc vô luân thường đạo lý… Và cuối cùng khi chán ngán cuộc đời này, khi họ
chán sống rồi thì… tự tử. Chấm hết!
Tin vào Chúa nhưng tin một cách lệch lạc: Tin vào Thiên Chúa và chỉ tin có Thiên Đàng
mà thôi! Luyện Ngục và Hỏa Ngục không thể có được bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu
(1 Ga 4:16), Ngài không bao giờ dựng nên những thứ khủng khiếp ấy để trừng phạt
hay hành hạ con cái của Ngài. Luyện Ngục và Hoả Ngục là những thứ mà Giáo Hội
dựng nên để hù dọa người ta mà thôi! Vì không tin có Luyện Ngục và Hoả Ngục cho
nên họ chẳng quan tâm gì đến việc đọc kinh xin lễ, và làm việc hy sinh, hãm
mình… để cầu nguyện cho những người đã qua đời. “Tất cả những ai tin
vào danh Đức Giê-su và chịu phép Rửa Tội thì chắc chắn được cứu rỗi, vậy cầu
nguyện, đọc kinh, tham dự Thánh Lễ, hy sinh cho người quá cố để làm gì? Vô ích!
Tốn thời giờ” Họ dùng Thánh Kinh để lý luận như vậy!
Tin nhưng lờ mờ: Những người thuộc nhóm này thì tin vào những lời giáo huấn của Giáo Hội
về sự sống đời sau, tin chắc chắn có Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục, nhưng
chẳng bao giờ họ hiểu rõ và hiểu đúng về thực trạng của Thiên Đàng - Luyện Ngục
và Hỏa Ngục cả. Họ cũng chẳng hiểu Giáo Hội Công Giáo gồm có BA THÀNH PHẦN và
sự liên đới chặt chẽ, và mối liên quan mật thiết giữa ba thành phần này trong
Giáo Hội. Còn bạn? Bạn thuộc nhóm nào vậy? Tôi hy vọng là bạn không thuộc vào
nhóm thứ nhất và thứ hai! Nếu bạn thuộc vào một trong hai nhóm này thì… Amen!
Chỉ có Chúa Thánh Thần mới giúp bạn được thôi!
Còn nếu bạn thuộc vào nhóm thứ ba thì trong
ngày lễ Các Thánh và lễ Các Linh Hồn hôm nay, mời bạn hãy cùng với tôi học hỏi
và tìm hiểu sâu hơn về thực trạng của Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục, về
BA THÀNH PHẦN của Giáo Hội và sự liên đới chặt chẽ, và mối liên quan mật thiết
giữa ba thành phần này.
Rất nhiều người, trong đó có tôi, và không
chừng có cả bạn nữa, đã từng nghĩ hay vẫn còn đang nghĩ Thiên Đàng - Luyện Ngục
và Hỏa Ngục là những nơi chốn (places):
Thiên Đàng là một nơi trên trời cao, ở đó không
có đau khổ, không có nước mắt mà chỉ có vui vẻ, hạnh phúc, hoan lạc, bình an và
yêu thương. Ở trên Thiên Đàng các Thánh và các Thiên Thần suốt ngày suốt đêm
chỉ ca hát, tán tụng và ngợi khen Thiên Chúa…
Luyện Ngục là một trại chuyển tiếp, một nơi tạm
giam, nơi đây người ta phải chịu nóng nảy, chịu đau khổ, có cả cực hình nữa để
chờ hễ mãn hạn thì được chuyển lên Thiên Đàng.
Hỏa Ngục là một nơi sâu thẳm trong lòng đất, ở
đó là nơi giam giữ đời đời những kẻ ác, những người không có passport vào Thiên
Đàng hay Luyện Ngục. Nơi đây xăng dầu vừa nhiều, vừa rẻ, cho nên Sa-Tan và ma
quỷ tha hồ dùng để thiêu đốt và trừng phạt những thường trú nhân ở trong vương
quốc của chúng.
Nếu bạn đã từng nghĩ như tôi hoặc vẫn còn đang
nghĩ Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục là những nơi chốn thì sai rồi! Bạn cứ
mở cuốn Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo do Đức Giáo Hoàng Benedictô
soạn thảo thì sẽ thấy quan niệm về NƠI CHỐN của Thiên Đàng - Luyện Ngục và Hỏa
Ngục như là những NƠI CHỐN là sai!
Thiên đàng là tình trạng hạnh phúc tối thượng
và vĩnh viễn. Ai chết trong ân sủng của Thiên Chúa và ai không cần bất cứ sự
thanh luyện cuối cùng nào, sẽ được qui tụ quanh Chúa Giêsu và Đức Maria, các
thiên thần và các thánh… được chiêm ngắm Thiên Chúa “mặt giáp mặt” ( 1 Cr
13,12)… sống trong sự hiệp thông tình yêu với Chúa Ba Ngôi và chuyển cầu cho
chúng ta (Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo # 209).
Luyện ngục là tình trạng của những người chết
trong tình thân với Thiên Chúa, nhưng, dù đã được đảm bảo ơn cứu độ vĩnh cửu,
họ còn cần thanh luyện trước khi được hưởng hạnh phúc thiên đàng (Toát Yếu Giáo
Lý của Giáo Hội Công Giáo # 210).
Hoả ngục là [tình trạng] xa cách đời đời khỏi
Thiên Chúa.… Đức Kitô diễn tả thực tại hoả ngục bằng những lời này: “Quân
bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời” (Mt
25:41) (Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo # 212).
Hy vọng bạn sẽ không bao giờ nghĩ rằng Thiên
Đàng - Luyện Ngục và Hỏa Ngục như là những NƠI CHỐN nữa!
Bây giờ chúng mình tiếp tục tìm hiểu về mối
liên hệ chặt chẽ giữa các thành phần trong Giáo Hội nhé! Nói về BA THÀNH PHẦN
trong Giáo Hội: Giáo Hội Chiến Thắng, Giáo Hội Ðền Bù và Giáo Hội Lữ Hành, sách
Toát Yếu Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo # 195 dạy rằng: Một số còn lữ hành trên
trần gian; một số khác, đã rời bỏ đời này, hiện đang được thanh luyện, và cũng
được trợ giúp bằng lời cầu nguyện của chúng ta; sau hết, một số khác nữa, đã
được hưởng vinh quang Thiên Chúa và đang chuyển cầu cho chúng ta. Tất cả cùng
nhau làm thành một gia đình duy nhất trong Đức Kitô, là Hội thánh, để ca ngợi
và tôn vinh Chúa Ba Ngôi.
Bạn thấy mối quan hệ rất chặt chẽ và tình liên
đới mật thiết giữa chúng mình với các linh hồn nơi Luyện Ngục và với các Thánh
ở trên Thiên Đàng chưa? Các linh hồn thuộc Giáo Hội Đền Bù hoàn tất giai đoạn
thanh luyện chậm hay mau là nhờ vào sự cầu nguyện, hy sinh, hãm mình, thánh lễ,
Kinh Mân Côi… của những người thuộc về Giáo Hội Lữ Hành, tức là chúng mình,
những người còn sống ở trần gian. Sau khi hoàn thành quá trình thanh luyện, các
linh hồn được vào Thiên Đàng, lúc này các Ngài thuộc Giáo Hội Chiến Thắng sẽ
cầu bầu, giúp đỡ cũng như chuyển cầu cùng Chúa cho chúng ta.
Nếu hôm nay bạn đã hiểu đúng về Thiên Đàng -
Luyện Ngục và Hỏa Ngục và nhận ra mối liên hệ chặt chẽ và mật thiết giữa ba
thành phần trong Giáo Hội thì tôi đề nghị với bạn hãy giúp đỡ các linh hồn nơi
luyện ngục, bằng cách dâng lời cầu khẩn, đặc biệt là Thánh lễ, và cả những việc
bố thí, ân xá và những việc hãm mình để cầu cho họ (Toát Yếu Giáo Lý của Giáo
Hội Công Giáo # 211).
Bạn có muốn con cháu, bạn bè, thân thuộc và tha
nhân làm những việc như hy sinh, xin lễ, đọc kinh, lần hạt Mân Côi, Viếng Thánh
Thể, cầu nguyện… cho bạn sau khi bạn nhắm mắt từ giã cõi đời này và nhất là khi
bạn bị kẹt ở trong trại chuyển tiếp PURGATORY không? Nếu muốn thì tôi mạn phép
đề nghị với bạn những công việc nhỏ bé sau:
Xin lễ, tham dự Thánh Lễ, xưng tội, rước Lễ,
lần hạt Mân Côi, Chầu Thánh Thể… để cầu nguyện cho các linh hồn đã ra đi trước
chúng ta… Hy sinh, hãm mình, không mua những đồ xa xỉ phẩm, một gói thuốc lá,
một chai rượu, một két bia, một bữa ăn ở nhà hàng… để dành tiền giúp cho các cơ
quan từ thiện, trại cùi, các trẻ em khuyết tật... Hy sinh không cãi lại cha mẹ,
không nóng giận và kiên nhẫn với những người chung quanh. Chăm sóc, quan tâm
đến ông bà, cha mẹ hoặc đi thăm viếng người già, những người đau yếu, tật
nguyền, kém may mắn...
“Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng
hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6, 31). Hy sinh, xin lễ, đọc kinh,
lần hạt Mân Côi, Viếng Thánh Thể, cầu nguyện… cho các linh hồn là chúng mình
đang làm cho chính chúng ta đấy!
Truyện: Bám Cọng Hành
Mà Lên Trời
Một người phụ nữ người ta đặt tên là Bà Chằng, vì
rất hợp với bản tính khó nết, ích kỷ của bà. Lúc bà vừa tắt thở, quỷ lôi bà đi
ngay, vì nó biết bà này không ai ưa, thì chắc chắn phải xuống Hỏa Ngục không
cần đợi Chúa xét xử!
Thiên thần bản mạnh của bà giằng co với quỷ và kêu
nài với Chúa:
- Xin Chúa xét xử cho bà này theo lòng thương xót
của Ngài. Không thể để quỷ lôi bà đi ngay được!
- Con hãy mở sổ Nhật Ký xem bà có làm một điều gì
tốt cho ai không? Thiên Chúa nói với thiên thần.
Thiên thần mau mắn lật từng trang Nhật Ký về đời
sống Bà Chằng, lật cả mấy ngàn trang rồi mà chẳng thấy có việc tốt nào cả… À,
may quá, thiên thần reo lên và thưa với Chúa:
- Lạy Chúa, có một lần bà này đã cho người lối xóm
một cọng hành ạ!
- Thế thì con hãy dùng cọng hành đó mà kéo bà lên!
Chúa bảo thiên thần.
Thiên thần mau mắn làm ngay. Bà Chằng bám vào cọng
hành và được thiên thần nín thở kéo lên. Thấy vậy nhiều người dưới Hỏa Ngục vội
bám lấy bà mong được “ăn theo”, Bà Chằng nổi sùng giãy đạp, chửi thề …! Làm
cọng hành đứt phựt, thế là cả chùm người rơi xuống Hỏa Ngục!!
Hãy nhớ lời Thánh Kinh dạy:
“Đức ái phủ lấp muôn vàn tội lỗi!” (1 Pr 4, 8).
Vì “ai có lòng nhân ái thì được thắng án, án xử chỉ tàn nhẫn cho kẻ bất
nhân!” (Gc 2,13).
SUY
NIỆM 2: CHẾT LÀ TẾT CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ HẾT !
Lm. Nguyễn Xuân
Trường
Người ta thường nói chết là hết ! Nhưng Lễ Cầu
Hồn của người Công Giáo lại cho thấy điều ngược lại: chết là TẾT chứ không
phải là hết.
Tết để người ta về nhà thì chết cũng đưa người ta
về Nhà Cha trên trời.
Tết đem mùa xuân cây cối đâm chồi nảy lộc mới thì
chết cũng đem người ta vào sự sống mới đời đời với Chúa.
Tết đem niềm vui đoàn viên thì chết cũng đưa người
ta về đoàn viên với tổ tiên ông bà cha mẹ.
Tết đem niềm vui hạnh phúc đón xuân thì chết cũng
đưa người ta vào hưởng hạnh phúc thiên đàng đời đời.
Chúa Giêsu đã khẳng định: “Thầy là sự sống lại
và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù có chết cũng sẽ được sống”. Đồng
thời, người Công Giáo cũng luôn tuyên xưng lời kinh: “Tôi tin xác loài người
ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy.” Amen.
SUY
NIỆM 3: CUỘC THANH TẨY CUỐI CÙNG
Lm Minh Anh, Tgp. Huế
“Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong
lửa”.
Trên một bia mộ, người ta đọc, “Chỗ bạn đang đứng,
chỗ tôi đã đứng. Nơi tôi đang nằm, nơi bạn sẽ nằm!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Nơi tôi đang nằm, nơi bạn sẽ nằm!”. Lời Chúa ngày
lễ Các Đẳng Linh Hồn đưa chúng ta về “Luyện ngục”, một khái niệm thường bị hiểu
lầm. Luyện ngục là gì? Nơi chúng ta chịu trừng phạt vì tội lỗi? Cách Thiên Chúa
hỏi tội các sai phạm của mỗi người? Đó là kết quả cơn giận của Ngài? Không!
Luyện ngục không gì khác hơn là tình yêu cháy bỏng và là ‘cuộc thanh tẩy cuối
cùng’ Thiên Chúa dành cho những người Chúa chọn. Sách Khôn Ngoan nói, “Chúa
đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa”.
Khi ai đó chết, rất có thể họ không được hoán cải
100% để hoàn hảo về mọi mặt. Các thánh vĩ đại nhất cũng có khiếm khuyết trong
cuộc sống. Luyện ngục không gì khác hơn là ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ tất cả
vấn vương còn lại với tội lỗi. Hãy tưởng tượng, bạn có một cốc nước tinh khiết
100%. Cốc này tượng trưng cho thiên đàng. Bạn muốn thêm vào cốc đó một ít nước
chỉ tinh khiết 99%. Nước không tinh khiết 1% này đại diện cho những người lành
thánh đã chết với một số chấp trước nhẹ đối với tội lỗi. Nếu thêm nước đó vào
cốc, cốc sẽ có một số tạp chất, ít nữa 1%. Vấn đề là thiên đàng không chứa bất
kỳ tạp chất nào, dù là nhỏ nhất. Vì thế, 1% đó vẫn cần được lọc sạch.
Làm thế nào điều này xảy ra? Chúng ta không biết.
Chúng ta chỉ biết nó có. Nhưng cần hiểu rằng, đó là kết quả của tình yêu vô hạn
nơi Thiên Chúa những muốn thanh tẩy chúng ta khỏi mọi ràng buộc, vướng bận. Có
đau không? Rất có thể! Nhưng đau theo nghĩa buông bỏ. Và kết quả cuối cùng là
tự do thực sự, đáng giá cho bất kỳ nỗi đau nào có thể trải qua. Vì thế, luyện
ngục là đau đớn, nhưng là ‘nỗi đau ngọt ngào’ cần có từ ‘cuộc thanh tẩy cuối
cùng’ để kết hiệp với Chúa trọn vẹn hơn. Chúa Giêsu nói, “Tất cả những người
Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi”; đó là những con người với những chiếc
áo trắng tinh tuyền, và những trái tim cũng tuyệt đối tinh tuyền!
Tưởng nhớ các linh hồn, chúng ta sống mầu nhiệm
Các Thánh Thông Công. Các linh hồn trải qua cuộc thanh luyện này vẫn hiệp thông
với Chúa, với Giáo Hội dưới thế và Giáo Hội thiên quốc. Chúa sử dụng lời cầu
của chúng ta dành cho các linh hồn, cũng như việc các linh hồn cầu bầu cho
chúng ta như những công cụ thanh tẩy của Ngài; Ngài cho phép và mời chúng ta
tham gia vào ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ của họ. Điều này tạo nên một mối liên
đới chặt chẽ của chúng ta với các linh hồn.
Anh Chị em,
“Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong
lửa”. Như vàng trong lửa, một ngày kia, tất cả chúng ta rồi cũng được thanh
luyện như các linh hồn. Và không nghi ngờ gì nữa, các thánh trên trời, đặc biệt
dâng lời cầu nguyện cho họ trong thời gian thanh luyện này. Đó là một sự thật
đáng hoan hỷ và là một niềm vui lớn lao khi chúng ta thấy cách thức Thiên Chúa
sắp xếp toàn bộ quá trình này cho mục đích cuối cùng của sự hiệp thông thánh
thiện mà chúng ta được kêu gọi! Như vậy, ‘cuộc thanh tẩy cuối cùng’ rõ ràng là
cần thiết, nó là sáng kiến từ tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, giúp con ‘tập chết’ trước khi chết
thật, may ra ‘nỗi đau ngọt ngào’ sau cùng sẽ chóng vánh hơn! Đó là những hy
sinh con dành cho các linh hồn!”, Amen.
* THỨ
BẢY THƯỜNG NIÊN: CHỖ THẤP NHẤT
“Xin ông nhường chỗ cho người này!”
“Khiêm nhường không có nghĩa là nghĩ về bản thân
kém hơn người khác; là đánh giá thấp về những quà tặng riêng của mình. Khiêm
nhường có nghĩa là tự do không nghĩ về bản thân cách này, cách khác. Ai khiêm
nhường, người ấy tự do!” - William Temple.
Kính thưa Anh Chị em,
“Ai khiêm nhường, người ấy tự do!”, một cách tài
tình, Chúa Giêsu và Phaolô sẽ khai triển câu nói của William Temple trong phụng
vụ Lời Chúa hôm nay. Từ đó, chúng ta có thể rút ra những bài học bổ ích khi
biết chọn cho mình.
Được mời dùng bữa, Chúa Giêsu thấy nhiều người
chọn những cỗ nhất, Ngài nói cho họ rằng, chúng ‘rất chông chênh’; bởi lẽ, chủ
nhà có thể mời họ xuống cỗ dưới! Tuy nhiên, một người khiêm nhượng thực sự sẽ
không cảm thấy xấu hổ khi nghe những lời này, thay vào đó, người ấy sẽ vui vẻ
hồn nhiên nhường chỗ cho người khác; vinh dự thế gian chẳng nghĩa lý gì đối với
họ. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu không nói với người khiêm nhượng, Ngài nói với
những con người đang giành giật bằng được vinh dự phù hoa. Điều này, cách nào
đó, cho thấy bên trong họ, đang rất bất an và thiếu tự trọng.
Thú vị ở đây là các biệt phái, những người đang cố
chiếm những cỗ bàn ‘tròng trành’ đó. Chúa Giêsu tiết lộ cho họ một sự thật
rằng, niềm vui và hạnh phúc thực sự chỉ được tìm thấy nơi những ai biết hạ mình
và biết đề cao người khác. Xu hướng phổ biến của các biệt phái phát xuất từ
việc cá nhân họ bất an và nặng sĩ diện. Trẻ em luôn cảm thấy tự do và an toàn
vì không cần giữ sĩ diện! Yêu bản thân theo cách Thiên Chúa yêu chúng ta, bạn
và tôi có thể hoàn toàn bình an; chúng ta trân trọng phẩm giá tha nhân, thậm
chí vui mừng vì sự thành công của họ.
Cũng một chủ đề, qua thư Rôma hôm nay, Phaolô xác
định “Chúa không ruồng rẫy dân Người!” như Thánh Vịnh đáp ca xác tín, dẫu xem
ra thoạt đầu, Ngài quay sang ủng hộ dân ngoại. Bằng chứng là chính Phaolô, một
người Do Thái thuần huyết đã nghe và khiêm tốn đáp lại ơn cứu độ. Sự không tin
của người Do Thái chỉ là bước đầu Thiên Chúa cho xảy ra với mục đích khiến họ
“ghen tị” với người ngoại mà ăn năn; vì làm sao Ngài có thể bỏ họ! Từ đó, những
người Do Thái biết thống hối trở về, khiêm tốn đón nhận Chúa Kitô, họ sẽ được
lại tự do của con cái Chúa!
Anh Chị em,
“Xin ông nhường chỗ cho người này!” Chúa Giêsu không muốn ai trong chúng ta phải nghe những lời bất tiện này; Ngài muốn ngay từ đầu, chúng ta nhường ‘chỗ tốt’ cho người khác. Noi gương Ngài, chúng ta chiếm ‘chỗ thấp nhất’, tự do, an toàn; chỗ phục vụ, hạ mình, yêu thương! Trong thư Philipphê, Phaolô viết, “Phận là phận của một vì Thiên Chúa, Ngài đã trút bỏ hết mọi vinh quang”, chọn ‘chỗ thấp nhất’ trên thập giá; và “Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài!” Cũng thế, với bạn và tôi, khiêm tốn, đơn giản là chúng ta nhìn thấy chính mình dưới ánh sáng theo cách Thiên Chúa nhìn mình; không cần sự khen ngợi quý trọng của thế gian; chỉ cần tình yêu Ngài dành cho chúng ta là đủ.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con chạy đôn chạy đáo vì những bã vinh hoa trần thế; để được tự do, bình an và sự tự trọng, cho con biết chọn ‘chỗ thấp nhất!” Amen.
SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXIX
THƯỜNG NIÊN
Lm. Minh Anh, Tgp Huế
CHÚA NHẬT XXX
TN-B
“KÌA, NGÀI GỌI ANH!”
“Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!”.
“Hãy tự giúp
mình, rồi trời sẽ giúp!”, “Aide-toi, le ciel t’aidera!” - Ngạn ngữ Pháp.
Kính thưa Anh Chị
em,
Tin Mừng Chúa Nhật
hôm nay kể chuyện một thanh niên, tuy mù loà, nhưng đức tin của anh thật ngời
sáng. Anh đã tự giúp mình; và sau đó, không chỉ trời giúp anh, mà người cũng sẽ
giúp anh. Họ nói với anh, “Kìa, Ngài gọi anh!”.
Bartimê, một người
ăn xin, đủ sắc sảo để biết rằng, anh không nên gây ồn ào cho những ‘khách hàng’
của mình; tuy nhiên, khi Chúa Giêsu đi qua, anh không thể im lặng. Cả khi bị
‘khách hàng’ quở mắng, anh vẫn la lên, “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ
lòng thương tôi!”. Với niềm tin mạnh mẽ, Bartimê tin rằng, ông Giêsu ấy có thể
thay đổi số phận của anh. Vì vậy, không ai và không gì có thể cản ngăn việc anh
gặp Ngài. Người ta càng ngăn cản anh, anh càng kêu lớn. “Đó là tiếng nói của một
trái tim nhân loại đang kêu lên; và tất cả chúng ta đều có tiếng nói này tự bên
trong. Một tiếng nói phát ra tự nhiên mà không cần ai tác động, một tiếng nói tự
hỏi về ý nghĩa hành trình của mỗi người trên trái đất này, nhất là khi chúng ta
thấy mình đang ở trong bóng tối, “Lạy Chúa, xin thương xót con!”. Đây quả là một
lời cầu nguyện đẹp nhất!” - Phanxicô.
Nhiều lần, chúng
ta phàn nàn - tôi không biết cầu nguyện thế nào? Hãy học anh mù! Anh liên tục
kêu van Chúa Giêsu và bày tỏ tất cả những gì anh ta cần chỉ trong một vài từ. Nếu
bạn thiếu đức tin, hãy nói, “Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho con!”. Nếu những
thành viên trong gia đình hay các thân hữu của bạn đã ngừng thực hành đức tin
Công Giáo, hãy cầu nguyện cho họ, “Lạy Chúa, xin giúp họ nhìn thấy!”. Đức tin
có thực sự quan trọng đến thế không? So với thị giác thể chất, thị giác thiêng
liêng - đức tin - quan trọng hơn bội phần! Trong khi tình trạng của người mù thật
đáng thương, thì hoàn cảnh của một người không tin còn đáng thương hơn! Hãy nói
với họ, “Kìa, Ngài gọi anh! Bạn hãy trình bày nhu cầu của bạn, và Chúa Giêsu sẽ
đáp ứng bạn một cách hào phóng!”.
Israel - dân
Chúa - cũng đã nói cho các dân ngoại xưa, “Kìa, Ngài gọi các anh!”; và họ đã
hân hoan khi cảm nhận được lòng thương xót của Ngài, “Việc Chúa làm cho ta, ôi
vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui!” - Thánh Vịnh đáp ca. Giêrêmia đã
thấy trước ngày hân hoan đó, “Kẻ đui, người què, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa về!” -
bài đọc một.
Anh Chị em,
“Kìa, Ngài gọi
anh!”. Như Bartimê bên lề đường, bao người giờ đây đang ở bên lề xã hội hay
‘bên lề cuộc đời’ của chính họ cần lắng nghe những lời động viên phấn khích và
hy vọng này! Đó là những con người bệnh tật phần hồn, đau đớn phần xác; những
người thất nghiệp, tuyệt vọng; những người lung lạc đức tin hay những người
đang đắm chìm trong tội lỗi… Và thật bất ngờ, con người khốn khổ đó có thể là mỗi
người chúng ta. “Hãy tự giúp mình, rồi trời sẽ giúp!”. Như anh mù, hãy đặt niềm
tin vào Chúa Giêsu, chạy đến với Ngài và la lên, “Lạy Chúa, xin thương xót
con!”. Hãy vứt lại ‘những chiếc áo vướng bận’ để đến với Ngài; và chắc chắn,
chúng ta cũng sẽ hưởng nhận những gì cần thiết để tạo nên một sự khác biệt!
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, xin
chữa mắt tâm hồn của con, hầu con có thể ‘rọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm
vui đến chốn u sầu’ khi con nói với anh chị em con, “Kìa, Ngài gọi anh!”, Amen.
NIỀM VUI CÓ CHÚA
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Đặt mình vào
hoàn cảnh của nhà Giacóp, cụ thể là dân Israel và Ephraim, hay của chính anh
Bartimê con ông Timê trong Tin Mừng Marcô hôm nay, chúng ta sẽ cảm nghiệm được
niềm vui có Chúa. Có Chúa là Cha, chúng ta là con, Cha lo cho con cái. Có Chúa
mọi sự sẽ trở nên tốt lành.
Chúa là niềm vui của Israel
Khi dân Israel bị
bắt đi lưu đày ở Babylon trở về, người trung thành với Chúa chỉ còn là số ít, họ
quá yếu đuối, nghèo nàn và dễ bị tổn thương, đến nỗi không có phương tiện trở về,
từ phương Bắc không thể tự giải thoát. Họ là những kẻ trở về để xây dựng đất nước
: "trong chúng có kẻ đui, người què, kẻ mang thai, người ở cữ". Bàn
tay xây dựng lại Israel là những kẻ đui mù, chứ không phải các thanh niên cường
tráng! Làm thế nào họ có được khả năng xây dựng lại quốc gia? Thanh niên, người
khoẻ mạnh đã bị đế quốc tiêu diệt trong các lao động khổ sai. Họ phải cáng đáng
công việc xây dựng lại quê hương.
Trong lúc cùng
đường bế tắc như thế Giêrêmia tuyên sấm : Đây Chúa phán: Hỡi Giacóp, hãy hân
hoan vui mừng! " (Gr 31, 7). Không thể vui mừng sao được khi mình đang đui
mù, què quặt, mang thai nay có được Thiên Chúa toàn năng trợ giúp dẫn dắt trở
về : "Đây, Ta sẽ dẫn dắt chúng từ đất bắc trở về, sẽ tụ họp chúng lại từ bờ
cõi trái đất: trong bọn chúng sẽ có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con
đi chung với nhau, hợp thành một cộng đoàn thật đông quy tụ về đây" (Gr
31, 8). Theo Dianne Bergant: "Phụ nữ mang thai và các bà mẹ tuy yếu ớt, dễ
bị tổn thương nhưng cũng là biểu tượng của phong phú và hy vọng. Họ nắm giữ
tương lai trong bản thân mình. Khi họ rời bỏ chốn lưu đày về đất hứa, họ mang
theo khả năng sinh sản và khởi sự một tương lai mới".
Đúng là người
công chính, đạo đức thực thi công bình, bác ái, sống thánh thiện siêu nhiên, mặc
cho thế giới này sa đoạ đến đâu, mặc cho gièm pha độc ác của kẻ giả hình, những
vẫn khao khát tìm gặp và cậy dựa vào Chúa, người ấy sẽ có được niềm vui lớn
lao. Anh mù thành Giêricô, tên là Bartimê trong Tin Mừng hôm nay là một bằng
chứng.
Chúa Giêsu là niềm vui của anh Bartimê
Anh Bartimeê mù
loà, nghèo khổ, gặp được hạnh phúc thật nhờ Chúa Giêsu. Anh thiếu hai điều :
cái nhìn thể lý và khả năng tìm kiếm công ăn việc làm để kiếm sống, nên buộc
anh phải đi ăn xin. Anh cần sự giúp đỡ và anh ngồi bên vệ đường lối vào thành
Giêricô, nơi có nhiều người qua lại.
May mắn cho anh,
một hôm chính Đức Giêsu cùng với các môn đệ và một số người khác đã đi ngang
qua đó. Chắc chắn anh mù đã từng nghe nói về Chúa Giêsu, là Đấng đã làm nhiều
phép lạ, Đấng ấy đang đến gần anh ta, chớp thời cơ, anh kêu lên : "Hỡi Con
vua Davít, xin thương xót tôi!" (Mc 10, 47). Đối với những người đang đi
theo Chúa thì tiếng kêu của anh mù thật khó chịu. Nhưng lời kêu xin lớn tiếng của
anh chứng tỏ anh khao khát gặp Chúa lắm. Lời ấy vang tới tai và động đến tâm hồn
Chúa Giêsu. Người muốn đáp ứng lời van xin của anh mù ăn mày này, nên truyền gọi
anh đến đến và chữa lành anh ta.
Lập tức anh mù
được đối diện với Con vua Đavít. Giây phút quyết định là sự khát khao gặp gỡ cá
nhân, trực tiếp, giữa Chúa với người đang đau khổ. Hai người đối diện nhau :
Thiên Chúa với ý muốn chữa lành và con người với ước ao được chữa lành. Hai sự
tự do và hai ý chí đều huớng về một điểm. Cuộc đối thoại bắt đầu kẻ hỏi người
thưa, "Chúa Giêsu nói với anh: " Anh muốn Ta làm gì cho anh?
"Người mù đáp : "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy" Chúa ra lệnh:
"Con hãy đi! Ðức Tin con đã cứu chữa con!" (Mc 10,51) Lập tức Chúa
Giêsu cho anh thấy, anh hết sức vui mừng và đi theo Chúa.
Anh đã đổi đời
khi quyết định chọn cho mình một lối đi mới là đi theo Chúa Giêsu trên chính
con đường của Chúa chứ không còn theo con đường của anh từ nhà đến vệ đường mà
anh đã gắn chặt nhiều năm để làm kế sinh nhai. Anh buông bỏ vệ đường, áo
choàng, bỏ lại sự bám víu vào lòng hảo tâm của người qua kẻ lại… để bám chặt lấy
Chúa Giêsu. Động lực đời anh không còn ngồi ăn nữa nhưng là vui bước bên Giêsu.
Gặp gỡ Đức Ki-tô biến đổi cuộc đời mình
Anh Batimê đã gặp
gỡ Giêsu, một cuộc gặp gỡ tuyệt đẹp và đáng giá vì làm thay đổi tận căn cuộc đời
anh. Anh có nhiều khát vọng, nhưng một khát vọng trung tâm và chủ đạo chi phối
đời anh là gặp Chúa Giêsu. Đời sống của chúng ta cũng vậy, khát vọng Thiên Chúa
của ta phải là khát vọng hướng dẫn mọi khát vọng khác. Nếu không, thân xác, tâm
trí, tâm hồn và linh hồn ta sẽ trở thành kẻ thù của nhau và đời sống nội tâm của
ta trở nên hồn độn, đưa ta tới chỗ thất vọng.
Nếu ta chúng ta
nuôi dưỡng khát vọng gặp Chúa Giêsu, thì khao khát đó sẽ được chạm đến lòng
thương xót của Thiên Chúa. Chỉ có lòng khao khát gặp gỡ và sự chờ đợi lâu ngày
mới cảm nhận niềm vui có Chúa và để Chúa biến đổi đời ta.
Thứ hai: Ep 2,19-22; Lc 6,12-19
Kính Thánh Simon Và Thánh Giuđa Tông Đồ
KHÔNG GIAN CẦU NGUYỆN
“Anh em được xây dựng trên nền móng là
các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Kitô Giêsu!”.
Viết về các giáo
xứ, một tác giả ví von: “Mục chi của ‘nhà thờ sống’ luôn nhiều hơn mục thu;
‘nhà thờ chết’ không cần nhiều tiền! ‘Nhà thờ sống’ luôn có vấn đề về chỗ đậu
xe; ‘nhà thờ chết’ có thừa mặt bằng! ‘Nhà thờ sống’ có thể ồn ào vì trẻ em chạy
nhảy; ‘nhà thờ chết’ đìu hiu như nghĩa trang! ‘Nhà thờ sống’ liên tục thay đổi
cách thức hoạt động, luôn cần những không gian thánh; ‘nhà thờ chết’ không cần
đổi thay, nhện tha hồ dăng!”.
Kính thưa Anh Chị
em,
Một Hội Thánh sống
động không chỉ cần những không gian sinh hoạt; nhưng quan trọng hơn - các tâm hồn
- những ‘không gian thánh’, ‘không gian cầu nguyện’ “được xây dựng trên nền
móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Kitô Giêsu”.
Đó là những gì Mẹ Hội Thánh cho chúng ta nghe trong ngày kính hai thánh tông đồ
Simon và Giuđa - bài đọc một.
Tin Mừng hôm nay
nói, “Chúa Giêsu thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, kêu các
môn đệ lại, Ngài chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ”. Chúa Giêsu lên núi cầu
nguyện và sau đó mới là những điều còn lại: dân chúng, việc tuyển chọn, chữa
lành, trừ quỷ. Đá tảng góc tường là Chúa Giêsu, vâng; nhưng, đó là một Chúa
Giêsu cầu nguyện! Chúa Giêsu cầu nguyện và tiếp tục cầu nguyện cho Giáo Hội trước
mặt Chúa Cha. Ngài cầu bầu cho chúng ta. Chúng ta cầu nguyện với Ngài, nhưng nền
tảng là Ngài cầu nguyện cho chúng ta!
“Thật đáng yêu
khi xem xét những lời của Chúa Giêsu đã nói với Phêrô, với mọi người và nói với
chúng ta, “Thầy đã cầu nguyện cho anh, Thầy đang cầu nguyện cho anh”. Điều này
mang lại cho chúng ta một sự tự tin lớn lao! Tôi thuộc về cộng đồng này, một cộng
đồng kiên định vì có Chúa Giêsu đá tảng, một Chúa Giêsu cầu nguyện cho tôi, cho
chúng ta. Tất cả chúng ta như một toà nhà, nhưng nền tảng là Chúa Giêsu, một
Chúa Giêsu cầu nguyện cho chúng ta. Chính Ngài cầu nguyện cho tôi!” - Phanxicô.
Như thế, cùng với
các tông đồ, bạn và tôi là những ‘không gian thánh’, những ‘không gian cầu nguyện’
trong toà nhà Hội Thánh. Hãy là một không gian đầy Chúa cuốn hút mọi người đến
với Ngài. Đồng thời, như các ngài, chúng ta đi đến mút cùng thế giới tặng trao
Tin Mừng, tạo nên một sự khác biệt vĩnh viễn trong cuộc sống của bao người
khác, “Tiếng các ngài đã vang dội khắp hoàn cầu!” - Thánh Vịnh đáp ca. Trong mọi
đấng bậc, dẫu hình thức có khác nhau, nhưng chúng ta có chung một sứ mệnh đem
tình yêu và lòng thương xót Chúa đến cho vô vàn anh chị em gần xa. Muốn được
như vậy, trước tiên, chúng ta phải là những con người cầu nguyện, những ‘không
gian cầu nguyện!’.
Anh Chị em,
“Anh em được xây
dựng trên nền móng là các Tông Đồ”. Mỗi ngày rước Chúa, chúng ta được mạnh mẽ để
trở nên tông đồ. Sống động hơn, trở nên những “nhà tạm di động” của Chúa Giêsu,
Đấng ước mong tâm hồn mỗi người luôn trở nên chốn rất thánh cho Ngài. Hãy là những
‘không gian cầu nguyện’ như Ngài. Nhờ đó, qua chúng ta, Ngài có thể đến được với
bao anh chị em khác. Chớ gì không chỉ tâm hồn chúng ta thánh, gia đình chúng ta
thánh, mà môi trường, xã hội và cả thế giới của chúng ta nên thánh!
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng
để ‘nhện dăng’ không gian ‘chưa thánh’ linh hồn con; cho con thật thánh hầu đem
Chúa đến cho những ai chưa một lần nghe nói đến Chúa Chí Thánh!”, Amen.
Thứ ba: TỪNG CHÚT MỘT
“Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm
men bà kia vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men!”.
“Việc chấp nhận
một con tàu là điều rất khó khi trời chỉ mới đổ mưa. Cái chết là một cơn bão tức
thì ập xuống, đến nỗi khi bạn với tay cầm lấy chiếc ô, thì biết rằng, mình cần
một đôi cánh để có thể bay trong nước! Vì thế, từng bước một, ‘từng chút một’,
bạn hãy biến đổi tâm hồn để có thể đến gần con tàu và yêu lấy nó!” - Calvin
Miller.
Kính thưa Anh Chị
em,
‘Từng chút một’,
ý tưởng của Miller được gặp lại trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu không nói đến
một điều gì to tát, nhưng nói đến cái nhỏ bé đến nỗi gần như không trông thấy -
một chút men. Ấy thế, như men trong bột, ân sủng Thánh Thần cũng biến đổi linh
hồn ‘từng chút một!’.
Men - một thứ
luôn hấp dẫn - nhỏ bé nhưng lại tác dụng mạnh mẽ đối với bột. Men hoạt động chậm
nhưng hiệu quả; với men, bột sẽ lặng lẽ biến đổi và dậy lên. Đây luôn là điều hấp
dẫn đối với trẻ em; bạn sẽ chứng kiến những đôi mắt thiên thần tròn xoe khi các
trẻ có mặt tại lò bánh mì. Đây cũng là cách thức Tin Mừng hoạt động. Việc biến
đổi một trái tim hiếm khi diễn ra trong một ngày hay trong một khoảnh khắc;
đành rằng, mỗi ngày, mỗi khoảnh khắc đều quan trọng, nhưng hẳn có những khoảnh
khắc chuyển đổi mạnh mẽ mà mỗi người có thể chỉ ra. Như chút men âm thầm làm
cho thúng bột dậy lên, việc biến đổi một trái tim cũng thường diễn ra ‘từng
chút một!’.
Đôi khi, sự ồn
ào của thế giới với những ê chề của nó cùng bao biến động trong cuộc sống ngăn
cản chúng ta dừng lại để xem cách Thiên Chúa đang vận hành lịch sử. Tuy nhiên,
Tin Mừng bảo đảm, Thiên Chúa đang hoạt động như men âm ỉ và ‘từng chút một’,
‘thúng bột thế giới’ đang dậy lên. Chút men của những việc lành nơi chúng ta
tuy nhỏ - phát xuất từ Chúa - vẫn đem lại những hiệu quả tuyệt vời trong tất cả
mọi hành vi cử chỉ, dẫu tất cả luôn xảy ra trong khiêm nhu, tiềm ẩn, và thường
là vô hình.
Suy gẫm về đời sống
hôn nhân Kitô giáo, Phaolô nói, “Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức
Kitô và Hội Thánh” - bài đọc một. Khi nói điều đó, hẳn Phaolô đã nghĩ đến Chúa
Thánh Thần - men tác động và kết hợp hai người nam nữ nên vợ chồng. Cũng trong
Thánh Thần, Chúa Kitô và Hội Thánh làm nên gia đình Thiên Chúa giữa lòng thế giới.
Đó là một gia đình kính sợ Chúa, “Hạnh phúc thay những người kính sợ Chúa!” -
Thánh Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Cho đến khi tất
cả bột dậy men”. Viên men đầu tiên Thiên Chúa vùi vào ‘thúng bột nhân loại’ là
Giêsu; không chỉ vùi vào lòng nhân loại, nó còn vùi vào đất. Và ‘từng chút một’,
‘từng con người một’, ‘từng mảnh đất một’ đã thấm nhuần men yêu thương của
Ngài. Vì thế, bạn và tôi không còn là “bột men” thường, nhưng là “bột men
Giêsu”. Và Ngài đang vùi chúng ta vào công sở, trường học, đồng áng… mọi ngõ
ngách của thế giới. Ngài ước men Tin Mừng trong chúng ta ‘từng chút một’ với khả
năng và hoàn cảnh rất riêng của mình, đem những con người chúng ta gặp gỡ trên
đời ‘đến gần con tàu và yêu lấy nó’; “Con Tàu Giêsu”, “Con Tàu Giáo Hội’, để cả
họ, cũng được biến đổi!
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa Thánh
Thần, xin biến đổi con ‘từng chút’ để con có thể ‘yêu lấy con tàu Giêsu’ từng
ngày; đừng để con mất chất, nhưng luôn là men nhiệt tâm, men nồng nàn!”, Amen.
Thứ tư: LUÂN LÝ TÙY CHỈNH
“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà
vào!”.
“Tôi nhìn lên ngọn
núi, ‘Quá khó, Chúa ơi, con không thể leo được!’; ‘Hãy nắm lấy tay Ta! Ta sẽ là
sức mạnh của con!’. Tôi nhìn xuống con đường, ‘Quá dài, Chúa ơi’; ‘Hãy nắm lấy
tình yêu của Ta, Ta sẽ bảo vệ đôi chân con!’. Tôi nhìn lên bầu trời, ‘Mặt trời
đã lặn, trời đã tối!’; ‘Hãy nắm lấy ngọn đèn Lời Ta, sẽ đủ sáng!’. Tôi nhìn vào
cánh cửa, ‘Quá hẹp, Chúa ơi!’; ‘Cứ cố bước vào, con sẽ được sống!” - Anon.
Kính thưa Anh Chị
em,
Tâm tình của thi
sĩ vô danh trên được gặp lại trong Tin Mừng hôm nay. Một người đặt câu hỏi với
Chúa Giêsu, “Những người được cứu thoát thì ít, có phải không?”. Câu hỏi của
anh phản ánh một sự lo lắng về khả năng được cứu khi anh - đại diện cho rất nhiều
người - nói về việc sống Phúc Âm - với một ‘luân lý tùy chỉnh’ - theo ý riêng
mình.
Lắng nghe lời
Chúa Giêsu, người này xem ra vô cùng trăn trở. Rõ ràng, giáo lý của Ngài thật hấp
dẫn và kỳ diệu; nhưng bao hàm một số đòi hỏi khiến nó không còn hấp dẫn. Vậy sống
những gì Chúa Giêsu đòi hỏi theo ý thích của anh với một ‘luân lý tùy chỉnh’
thì khả năng được cứu của anh sẽ là bao nhiêu? Chúa Giêsu không chấp nhận cách
tiếp cận này! Sự cứu rỗi của chúng ta là một vấn đề hệ trọng và không thể vượt
qua nó bằng cách tính toán xác suất. “Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa,
như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì
Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn
năn hối cải!” - Phêrô.
Chúa Giêsu trả lời,
“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào!”. “Một khi chủ nhà đã đứng dậy và
khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói, ‘Thưa ngài,
xin mở cho chúng tôi vào!’, thì ông sẽ bảo, ‘Các anh đấy ư? Ta không biết các
anh từ đâu đến!”. Làm sao những con chiên này có thể thuộc về đàn chiên Chúa
Kitô nếu chúng thậm chí không theo Đấng Chăn Chiên Lành, cũng không tuân theo
huấn quyền của Giáo Hội? “Cút đi cho khuất mắt ta!”.
Hãy ngừng kiểu sống
“quá thông minh một nửa” và tính toán quá nhiều khi sống Tin Mừng với một ‘luân
lý tùy chỉnh!’. Hãy nhanh chóng bước vào cánh cổng hẹp, khởi động lại nhiều lần
khi cần thiết và tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa! “Tất cả những gì
làm bạn lo lắng trong lúc này đều có tầm quan trọng ‘tương đối’. Điều có tầm
quan trọng ‘tuyệt đối’ là bạn được hạnh phúc, được cứu rỗi!” - Josemaria.
Anh Chị em,
“Hãy chiến đấu để
qua được cửa hẹp mà vào!”. “Con đường dẫn đến sự sống vĩnh cửu mở ra cho mọi
người, nhưng nó ‘hẹp’ vì nó đòi hỏi sự cam kết, tự chối bỏ và chế ngự tính ích
kỷ của mình!” - Bênêđictô XVI. “Không có ‘số lượng giới hạn’ trong thiên đàng!
Đúng hơn, đó là đi theo con đường đúng ngay từ bây giờ, con đường đúng này dành
cho mọi người, nhưng nó hẹp. Đây là vấn đề! Chúa không muốn chúng ta ảo tưởng,
‘Vâng, đừng lo lắng, có một con đường tuyệt đẹp với một cánh cổng lớn ở cuối đường!’.
Ngài không nói như vậy. Ngài nói mọi thứ như chúng ‘thực sự’ là: cánh cửa hẹp.
Theo nghĩa nào? Theo nghĩa là, để cứu mình, người ta phải yêu Chúa và tha nhân,
và điều này thật khó chịu! Đó là một ‘cánh cửa hẹp’ vì nó đòi hỏi. Tình yêu
luôn đòi hỏi!” - Phanxicô.
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng
để con ‘quá thông minh một nửa’; dạy con biết ‘yêu mến toàn phần!’”, Amen.
Thứ năm: BẤT CHẤP ĐE DOẠ
“Xin ông đi ra khỏi đây, vì vua Hêrôđê
đang muốn giết ông!”.
“Cụm từ “tước vũ
khí” hay “giải giới” phát xuất từ tiếng Hy Lạp, “Apekoyo”, có nghĩa “cởi bỏ,
làm cho bất lực hoàn toàn”. Trên thập giá, Chúa Kitô tước vũ khí Satan, khiến
nó bất lực hoàn toàn. Nay, vì danh Chúa, trước những kẻ chống đối, quấy nhiễu
và đe doạ, bạn không cần phải sợ hãi, nhưng có thể vượt qua tất cả, bất chấp đe
doạ!”.
Kính thưa Anh Chị
em,
“Bạn không cần
phải sợ hãi, nhưng có thể vượt qua tất cả, bất chấp đe doạ!”. Ý tưởng này được
gặp lại trong Tin Mừng hôm nay khi những người biệt phái xem ra lo lắng cho
Chúa Giêsu, “Xin ông đi ra khỏi đây, vì vua Hêrôđê đang muốn giết ông!”.
Họ lo lắng cho
Chúa Giêsu? Không đâu! Họ lấy uy Hêrôđê để đe doạ Ngài hầu buộc Ngài rời khỏi địa
hạt. Chúa Giêsu không nao núng! Trong cuộc sống, chúng ta cũng trải qua điều
tương tự. Ai đó đến, kể một số chuyện dưới chiêu bài giúp đỡ, trấn an; đang khi
thực tế, đó chỉ là những lời đe doạ tinh vi khiến chúng ta lo lắng, sợ hãi. Hãy
xem phản ứng của Chúa Giêsu! Ngài không sợ hãi Hêrôđê, không bận tâm trước ác ý
của những kẻ gieo tin; không nhượng bộ, Ngài ‘bất chấp đe doạ’; và như muốn nói
với kẻ ác rằng, “Đừng lãng phí thời gian của các bạn nhằm làm cho tôi sợ hãi
hay lo lắng. Tôi đang làm công việc của Cha tôi và đó là tất cả những gì tôi phải
bận tâm!”.
Vậy điều gì làm
bạn phiền lòng trong cuộc sống; điều gì đe dọa bạn? Bạn có cho phép những ý kiến,
manh tâm hay những lời đàm tiếu của người khác làm cho mình thất vọng? Như Chúa
Giêsu - tựa nương tuyệt đối vào Chúa Cha - điều chúng ta quan tâm là làm theo ý
muốn của Chúa Cha. Vì một khi tìm làm theo ý muốn của Chúa Cha và với sức mạnh
của Ngài, chúng ta vượt qua tất cả. Chúa Cha sẽ ban cho chúng ta mọi khôn ngoan
và lòng can đảm để chúng ta tiếp tục yêu thương, cùng lúc, quở trách mọi lừa dối
và những đe doạ ngớ ngẩn của kẻ ác trong cuộc sống mình.
Hãy tựa nương
vào Chúa để được mạnh mẽ, “Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để
có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ!” - bài đọc một; vì “Chúa là
núi đá cho tôi nương ẩn” - Thánh Vịnh đáp ca - chúng ta vượt qua mọi khó khăn,
thử thách, để có thể không ngừng yêu thương và tiếp tục yêu thương!
Anh Chị em,
“Xin ông đi ra
khỏi đây, vì vua Hêrôđê đang muốn giết ông!”. Chúa Giêsu đã đón nhận thông tin
đầy ác ý cách thanh thản và bình an. Tại sao? Bởi lẽ, khi xuống thế làm người,
Ngài đã tự “cởi bỏ hoàn toàn” và làm cho mình “trở nên bất lực”. Ngài để cho
quyền lực thế gian “tước mọi vũ khí”, hầu có thể đến gần, ôm lấy và chữa lành tất
cả những ai bị quyền lực thế gian thống trị. Ngài thương xót và tha thứ! Cũng
thế, là con cái của Cha trên trời - Đấng bảo bọc chúng ta “như gà mẹ ủ ấp gà
con dưới cánh” - bạn và tôi không để cho bất cứ thế lực nào đe doạ mình. Tin
vào tình thương của Chúa, nương tựa tuyệt đối vào Ngài, chúng ta đón nhận mọi bất
ưng cách thanh thản, bình an. Như Chúa Giêsu, chúng ta tiếp tục yêu thương và
không ngừng yêu thương!
Chúng ta có thể
cầu nguyện,
“Lạy Chúa là
dũng lực con, con yêu mến Ngài! Cho con không ngừng yêu thương và tiếp tục yêu
thương những kẻ làm điều ác cho con!”, Amen.
Thứ sáu: HÃY ĐỂ CHÚA PHONG THÁNH!
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
“Đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm thánh nhan Ngài!”.
“Cha hy vọng - trong số các bạn
đang nghe đây - sẽ có một số vị thánh tương lai của thế kỷ 21. Điều Chúa muốn
trên hết đối với chúng ta là nên thánh! Ngài yêu chúng con hơn những gì chúng
con có thể tưởng tượng, Ngài muốn điều tốt nhất cho chúng con - lớn lên trong sự
thánh thiện - Hãy là một vị thánh hơn là một người nổi tiếng!” - Bênêđictô XVI.
Kính thưa Anh Chị em,
Nói rằng “Hãy là một vị thánh hơn
là một người nổi tiếng!” khác nào nói, “Hãy để Chúa phong thánh hơn là để người
đời phong thánh!”. Đó cũng là những gì chúng ta được thách thức nhân ngày Giáo
Hội tôn vinh “Tất cả Các Thánh”. Các ngài đã thực hiện điều Chúa muốn, chọn trở
nên những vị thánh hơn là những người nổi tiếng! “Đây chính là dòng dõi những kẻ
tìm kiếm thánh nhan Ngài!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Hôm nay Giáo Hội tưởng nhớ tất cả
những tâm hồn thánh thiện gồm đàn ông, phụ nữ, trẻ em, các vị tử đạo, mục tử…
những ai tuyên xưng đức tin và những con người vô danh khác đã được rửa tội hoặc
chưa được rửa tội; trong đó, có cả ông bà, cha mẹ, anh chị em chúng ta. Bài đọc
Khải Huyền tiên báo, “Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi
dân, mọi nước”. Điều phân biệt là họ đã mở lòng ra với ân sủng Chúa một cách
sâu sắc, trở nên mạnh mẽ trong Ngài. Họ có một điểm chung: “Giặt áo mình trong
Máu Con Chiên” theo những cách thức khác nhau để phản ánh một nhân đức về chân
dung người môn đệ mà Chúa Giêsu phác hoạ qua từng mối phúc Tin Mừng.
Và nếu các mối phúc, về căn bản, là
chân dung hoàn hảo của chính Chúa Giêsu, thì từng mối phúc sẽ là chân dung của
từng vị thánh; mỗi vị mỗi vẻ góp phần làm nên triều thần thiên quốc, những con
người đã không để mình “rơi vào tinh thần thế tục của thời đại” nhưng “vượt lên
thời đại”; một số, thậm chí đã “thay đổi thời đại!”. Họ không bị văng ra ngoài
bởi vòng xoáy của những sai trái; ngược lại, giữa sai trái, họ cuốn hút bao người
tiếp cận, tin yêu Đấng họ phụng thờ. Không cần người đời biết đến, họ chờ đợi
điều này từ Chúa.
Các thánh còn là những con người
đang cầu nguyện cho bạn và tôi. Họ nói với chúng ta, sự thánh thiện có thể có ở
bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào; họ cầu cho chúng ta nên giống Chúa, nên con cái
Ngài ngày một hơn. Mai ngày, chúng ta sẽ nên giống Chúa; nhưng ‘lúc này và ở
đây’, chúng ta đã là con cái Ngài, chia sẻ sự sống thần linh của Ngài nhờ phép
Thánh Tẩy. Phải, phép Rửa là nền tảng sự thánh thiện của mỗi người!
Anh Chị em,
“Đây chính là dòng dõi những kẻ tìm
kiếm thánh nhan Ngài!”. Cảm tạ Chúa vì đã ban cho Giáo Hội vô vàn tâm hồn thánh
khiết một chỉ tìm kiếm thánh nhan. Thiên đàng đang chờ đợi bạn và tôi! Đó cũng
là giấc mơ của Thiên Chúa. Điều tốt nhất chúng ta cố đạt cho được ở đời này
không phải là giàu có, nổi tiếng, được thế gian phong thánh; công việc của
chúng ta là cộng tác với ân sủng để nên thánh, không chỉ mai ngày, nhưng ngay
hôm nay, trong bậc sống mình và ‘hãy để Chúa phong thánh!’. Phép Rửa mời gọi bạn
và tôi sống thánh, còn ân sủng sẽ giúp bạn và tôi nên thánh bằng các lối hẹp
Tin Mừng.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, với ơn Chúa, con sẽ
không để mình ‘rơi vào tinh thần thế tục của thời đại’, nhưng ‘vượt lên thời đại’;
và con sẽ ‘thay đổi thời đại’. Tại sao không?”, Amen.
Suy niệm 2:
“Anh em
hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”.
Bạn thân mến,
Hôm nay Giáo Hội hân hoan mừng lễ
kính các thánh nam nữ trên thiên đàng, qua thánh lễ này chúng ta càng thấu hiểu
hơn nữa về mầu nhiệm các thánh thông công của Giáo Hội, và khi suy niệm đến mầu
nhiệm thông công này, chúng ta càng đặt niềm tin tưởng của mình vào Thiên Chúa
và Hội Thánh hơn.
Các thánh là những con người như
chúng ta, không ai có thể nên thánh nếu không đi qua cuộc sống làm người với những
khổ đau hy sinh; không đi qua đau khổ hy sinh thì không thể trở thành một thánh
nhân, bởi vì chính Đấng cứu chuộc nhân loại là Đức Đức Chúa Giê-su Ki-tô đã bị
đánh đòn, bị đóng đinh vào thập giá, và cuối cùng chết trên thập giá, hy sinh để
chuộc tội cho nhân loại, tức là Ngài đã đi qua đau khổ và dùng đau khổ để cứu
chuộc nhân loại tội lỗi.
Các thánh nam nữ là những con người
như chúng ta, khi còn sống ở thế gian các ngài cũng có những tham sân si, cũng
có kiêu căng, có giận hờn, có ghét ghen, có tham lam, có những tội lỗi mà chúng
ta đã phạm hôm nay. Nhưng các ngài đã biết cậy vào ơn của Chúa và biết quyết
tâm đứng lên cố gắng làm lại cuộc đời mình, biết chiến đấu với những cám dỗ, để
rồi hôm nay các ngài được hưởng phúc với Thiên Chúa, với Đức Mẹ Ma-ri-a và các
thiên thần trên thiên đàng.
Các thánh nam nữ là những người như
chúng ta, có vị đã từng làm vua, có vị đã từng làm quan, làm bác sĩ, làm kỹ sư,
làm thấy giáo, làm nô lệ, có vị làm giáo hoàng, có vị làm giám mục, làm linh mục,
phó tế, có các vị là nam nữ tu sĩ.v.v... nghĩa là các ngài có đủ mọi thành phần
giai cấp trong xã hội, có những đời sống và hoàn cảnh khác nhau, nhưng các ngài
đã có một mục đích để sống, đó chính là phải trở nên thánh, phải trở thành những
bạn hữu của Thiên Chúa trong chính bổn phận hằng ngày của mình.
Các thánh nam nữ là những người như
chúng ta, nhưng các ngài đã biết thực hiện “hiến chương Nước Trời” tức là “Tám
Mối Phúc thật” ngay tại trần gian này:
Các ngài giàu có nhưng đã sống tinh
thần khó nghèo vì Nước Trời.
Các ngài bị người khác vu oan giá họa
nhưng vẫn hiền lành với họ.
Các ngài đã chia vui với người vui
và buồn với người buồn, nên được Thiên Chúa an ủi ngay khi còn ở đời này.
Các ngài mong muốn được trở nên người
công chính giữa một xã hội đầy mưu mô xảo trá, nên được Thiên Chúa cho thỏa
lòng.
Các ngài biết thương xót người, tức
là biết động lòng trước cảnh thương tâm của người khác, nên được Thiên Chúa xót
thương.
Các ngài sống trong danh vọng, sống
giữa bụi trần với những đam mê của nó, nhưng vẫn giữ được tâm hồn trong sạch,
nên các ngài được nhìn thấy Thiên Chúa.
Các ngài đi đến đâu là đem bình an
của Thiên Chúa đến nơi đó, các ngài được gọi là những người biết kiến tạo hoà
bình, nên các ngài được gọi là con Thiên Chúa.
Các ngài bị bắt bớ, bị đánh đập, bị
tra tấn, bị tù đày vì các ngài sống và tin vào Đức Đức Chúa Giê-su, Đấng sẽ ban
Nước Trời cho những kẻ tin vào Ngài, nên các ngài đã được Nước Trời làm của
mình sau khi từ giã cõi đời tạm này...
Bạn thân mến,
Các thánh nam nữ đều là những con
người như chúng ta, các ngài đã trở nên những vị thánh thì chúng ta cũng có thể
trở nên thánh như các ngài, bởi vì nên thánh là đòi hỏi của Phúc Âm và là mục
đích sống ở đời của chúng ta –những người Ki-tô hữu.
Xin Đức Mẹ Ma-ri-a và các thánh nam
nữ trên thiên đàng cầu bàu cho chúng ta, là những người đang trên đường đi về
quê trời, được noi gương của các ngài biết quyết tâm đổi mới cuộc sống của
mình, biết đứng dậy khi ngã xuống trong tội, biết phục vụ và tha thứ cho nhau
trong tình yêu của Thiên Chúa.
Xin Thiên Chúa
chúc lành cho chúng ta.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét