SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XX THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt
Giang
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN-NĂM C
Gr 38,4-6.8-10; Dt 12,1-4; Lc 12, 49-53
Suy niệm 1:
Lời
Chúa hôm nay mời gọi chúng ta theo Đức Kitô, Đấng đã đến để đem lửa tình yêu và chân lý xuống
trần gian. Lửa ấy có sức mạnh thanh luyện, chiếu sáng, và thôi thúc mỗi người
chúng ta can đảm chọn lựa dứt khoát: theo Chúa hay chống lại Ngài.
Theo
Chúa ta có thể phải đối diện với những thử thách,
thậm chí chia rẽ ngay trong cùng một gia đình. Tuy nhiên, chính nhờ trung thành bước theo Chúa, ta mới tìm được an vui và sự sống đời đời.
Trong tâm tình đó, chúng ta cùng hiệp dâng Thánh lễ, xin Chúa Thánh Thần thắp sáng trong tâm hồn chúng ta ngọn lửa yêu mến, để chúng ta luôn can đảm làm chứng cho Tin Mừng hy vọng của Chúa giữa đời.
Sứ mạng của Chúa Giêsu khi đến trần gian là gì? Và tại sao mâu thuẫn lại
xảy ra giữa các thành viên sống trong cùng một gia đình? Hai thắc mắc này sẽ được Chúa
Giêsu giải đáp một cách rõ ràng qua bài Tin mừng hôm nay.
Bài Tin Mừng hôm nay chia làm 2 phần:
1. Phần thứ nhất nói đến sứ mạng
của Chúa Giêsu khi đến trần gian.
Sứ mạng mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là đem lửa xuống
thế gian. Lửa ấy là tình yêu, lửa nung nấu của CTT. Nhưng để hoàn tất sứ mạng
truyền lửa ấy, Chúa Giêsu sẽ phải trãi qua một phép rửa, đó là chấp nhận chịu
chết đau thương để sống lại trong vinh quang.
2. Phần thứ hai Chúa Giêsu nói về
sự chia rẽ sẽ xảy ra giữa những người trong cùng một gia đình.
Chắn chắn Chúa Giêsu không đem sự chia rẽ vào thế gian này bởi vì Người chính là hoàng tử Hòa Bình. Nhưng sở dĩ có
sự chia rẽ là vì con người có quyền tự do tiếp nhận hay từ chối lửa mà Chúa
Giêsu đem đến. Chính vì thế mà có sự chia rẽ và chống đối nhau giữa những người
thân thuộc sống chung cùng một gia đình.
- Nhìn vào tình hình thế giới hiện nay, ta thấy bóng tối vẫn còn bao phủ
trên nhân loại. Bóng tối chết chóc vì chiến tranh, hận thù, của ô nhiễm môi
trường, của đói nghèo, áp bức, phân biệt chủng tộc và của nền văn hóa sự chết…
Trong thế giới văn minh hiện đại như ngày nay vậy mà vẫn còn có những người
đang say máu giết hại thai nhi và đồng bào của mình. Vẫn có đó những thế lực đen tối ngấm ngầm gây chia
rẽ giữa các quốc gia, dân tộc và tôn giáo.
- Nhìn vào gia đình hôm nay, ta nhận thấy vẫn còn đó quá nhiều thách đố
như: khoảng cách chênh lệch giàu và nghèo; thành thị và nông thôn; tình trạng
di dân bùng nổ làm thay đổi môi trường và cung cách sống. Chủ
nghĩa duy tương đối lên ngôi đưa đến lối sống ích kỷ và phóng
túng và đánh mất chân lý...
Tất cả các vấn nạn trên chính là nguyên nhân gây ra những rạn nứt gia đình,
làm phá vở tình liên đới giữa các thành viên trong cùng một gia đình. Đưa đến
tình trạng li thân, li dị ngày càng cao tạo ra mâu thuẫn giữa chồng-vợ, cha
mẹ-con cái và anh em với nhau ngày càng gia tăng.
Sống trong môi trường của xã hội và gia đình vẫn còn đó những bóng tối
bao phủ như thế, hơn lúc nào hết lời mời gọi của Chúa Giêsu vẫn còn nguyên
giá trị luôn thôi thúc mỗi người chúng ta hãy can đảm thắp lên ngọn lửa của bao
dung tha thứ; của tình yêu phục vụ, của khiêm tốn hy sinh, của sư thật và chân
lý... cho dù phải lội ngược dòng và lắm khi còn phải trả giá bởi sự thù ghét,
chống đối và bách hại của những con người muốn chống đối lại những giá trị của
Tin mừng.
Xin cho chúng ta biết can đảm thắp lên ngọn lửa của niềm vui Tin mừng mà
Chúa Giêsu mang đến trần gian này. Hy vọng với ngọn lửa bao dung tha thứ, của
hy sinh phục vụ, của yêu thương bác ái mà Chúa Giêsu thắp lên được cháy sáng và
lan tỏa khắp nơi, nhằm xua tan đi những bóng tối của chia rẽ, đau khổ và chết
chóc còn đang vây kín nơi gia đình và trong thế giới hôm nay. Amen.
Suy niệm 2: THẮP LÊN ÁNH SÁNG HY VỌNG CỦA CHÚA KITÔ
Một vị
đạo sĩ Ấn Độ hỏi
các đệ tử:
- “Các con có biết khi nào
đêm tàn và ngày xuất hiện không?”
Các môn đệ thi nhau trả lời.
Người thứ nhất nói: “Thưa
thầy, có phải khi nhìn một đàn vật từ xa, ta phân biệt được đâu là con bò, đâu
là con trâu không?”
Thầy lắc đầu: “Không phải.”
Người khác đoán: “Thưa thầy,
có phải khi nhìn vào vườn cây từ xa, ta phân biệt được cây nào là xoài, cây nào
là mít không?”
Thầy vẫn lắc đầu: “Không
phải.”
Sau một hồi im lặng, vị đạo sĩ
từ tốn nói:
- “Đêm tàn và ngày xuất hiện,
ánh sáng đến và bóng tối lui, là khi nhìn vào mặt nhau, người ta nhận ra nhau
là anh em của mình.”
Câu trả lời thật sâu sắc: Ngày mới chỉ thực sự
bắt đầu khi ánh sáng tình huynh đệ được thắp lên, khi con người biết nhìn nhau
không bằng ánh mắt nghi kỵ, nhưng bằng ánh mắt cảm thông, yêu thương và hy vọng.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu thốt lên
một ước vọng đầy khắc khoải: “Thầy đã đến
ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”
(Lc 12,49).
Ngọn lửa ấy không phải là lửa hủy diệt, nhưng
là lửa của Thánh Thần, lửa của tình yêu, của sự tha thứ, của lòng bao dung, của
niềm hy vọng. Đó là ngọn lửa có sức thiêu đốt ích kỷ, ganh ghét, hận thù, và
sưởi ấm những tâm hồn lạnh giá.
Thế nhưng, Chúa Giêsu cũng bày tỏ nỗi thao
thức: “Phải chi lửa ấy đã bùng lên.” Vì
ánh sáng Tin Mừng vẫn chưa lan tỏa khắp nơi. Nhân loại vẫn còn chìm trong bóng
tối của chiến tranh, chia rẽ, khủng bố, bạo lực và bất công. Ngay cả nơi các
gia đình và cộng đoàn, ngọn lửa yêu thương cũng chưa thật sự cháy sáng vì nhiều
người chưa đủ can đảm tha thứ, chưa coi nhau là anh chị em thật sự. Chính vì thế, Chúa Giêsu nói tiếp: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để đem hòa bình sao? Không, Thầy bảo
cho anh em biết, là đem sự chia rẽ.” (Lc 12,51). Nghe qua, chúng ta có cảm tưởng như mâu thuẫn,
nhưng thực ra Chúa muốn nói: Khi tin vào Ngài và sống theo những giá trị của
Tin Mừng đòi hỏi ta phải chọn lựa dứt
khoát. Vì
một khi ngọn lửa tình yêu bùng lên sẽ làm lộ rõ sự đối nghịch:
giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự thật và giả dối, giữa công chính và gian tà.
Vì thế mà ngay trong cùng một gia đình, anh chị em lại chia rẽ nhau bởi mỗi
người có sự chọn lựa khác nhau.
Kính thưa cộng đoàn,
Cuộc sống này có nhiều loại ánh sáng: ánh sáng
mặt trời, ánh sáng đèn điện, ánh sáng khoa học… nhưng tất cả chỉ chiếu sáng bên
ngoài. Ngọn lửa mà Chúa Giêsu muốn thắp lên lại phát xuất từ con tim, từ niềm
tin và tình yêu. Đó là ngọn lửa hy
vọng:
- Hy vọng cho người đang tuyệt vọng.
- Hy vọng cho những ai bị gạt ra bên lề xã hội.
- Hy vọng cho những tâm hồn đang chìm ngập trong bóng tối tội lỗi.
Ánh sáng hy vọng ấy bùng lên khi chúng ta biết
hy sinh cho nhau, biết chìa tay ra nâng đỡ, biết tha thứ thay vì trả đũa, biết
xây cầu thay vì dựng tường.
Trong Năm Thánh Hy Vọng 2025, Chúa Giêsu mời
gọi mỗi người chúng ta trở thành những ngọn
đèn nhỏ bé nhưng bền bỉ để thắp sáng Tin Mừng của Chúai:
- Trong gia đình:
bằng sự kiên nhẫn, yêu thương, cảm thông với nhau.
- Trong họ đạo:
bằng sự cộng tác, nâng đỡ, và phục vụ lẫn nhau.
- Trong xã hội:
bằng thái độ tôn trọng, liên đới và chia sẻ với tha nhân.
Mỗi việc làm yêu thương, dù rất nhỏ, sẽ là một
tia sáng góp phần xua tan bóng tối và làm bùng lên ngọn lửa hy vọng mà Chúa
mong ước.
Xin Chúa Giêsu, Đấng đã đến để ném lửa yêu thương vào trần gian, thắp sáng trong tâm hồn chúng ta ngọn lửa của Tin Mừng, để chúng ta biết nhìn thấy mọi người là anh chị em, và cùng nhau làm cho “ngày mới” của Nước Chúa mau đến trên trần gian này. Amen.
Suy niệm 3: LỬA CỦA ĐỨC KITÔ VÀ CHỌN LỰA DỨT KHOÁT
Người ta kể
rằng, một tù trưởng Phi Châu hỏi nhà truyền giáo:
“Ông đến đây
làm gì? Chúng tôi đã có luật lệ, phong tục và tôn giáo của mình rồi. Sao ông
còn mang đạo của ông đến?”
Nhà truyền
giáo mỉm cười đáp:
“Tôi đến
không phải để phá bỏ, nhưng để thắp lên một ngọn lửa: ngọn lửa ấy sẽ sưởi ấm
những tâm hồn giá lạnh, soi sáng những nẻo đường tăm tối, và thanh luyện những
gì cần đổi mới.”
Ngọn lửa mà vị thừa sai nói đến chính là ngọn lửa Tin Mừng của Đức Kitô.
Và đã được Chúa Giêsu khẳng định qua bài Tin Mừng hôm nay: “Thầy
đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng
lên!” (Lc 12,49).
a. “Lửa” của Chúa
Giêsu
Chúa không đến để đem một sự an
toàn giả tạo hay hòa bình bề ngoài, nhưng Ngài đến để thắp lửa yêu mến Thiên Chúa và sự
thật trong lòng nhân loại. Lửa ấy là Thánh Thần, có
sức mạnh thanh luyện, soi sáng và canh tân.
Ai để lửa ấy bùng cháy, thì cuộc đời người ấy sẽ được biến đổi: biết sống công
bằng, bác ái, dám từ bỏ tội lỗi, và can đảm làm chứng cho Tin Mừng.
b. “Phép rửa” Chúa Giêsu phải chịu
Ngọn lửa ấy chỉ thực sự bùng lên
nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu, đó chính là “phép rửa” Ngài phải
chịu. Qua thập giá, Chúa hoàn tất công trình cứu độ. Như thế, theo Chúa không
bao giờ là con đường dễ dãi, nhưng là bước vào con đường hy sinh, dấn thân và
trung thành, ngay cả khi phải trả giá bằng máu.
c. “Sự chia rẽ” mà Chúa Giêsu nói đến
Chúa Giêsu không gieo hận thù,
nhưng Ngài nói rõ: Tin Mừng buộc con người phải chọn lựa: hoặc
theo Chúa, hoặc chống lại Ngài. Sự chọn lựa ấy nhiều khi gây xung đột ngay
trong gia đình và ngoài xã hội.
Ngôn sứ Giêrêmia là một minh chứng sống động cho điều đó: vì ông phải nói sự
thật theo ý Chúa, nên ông bị phe quyền lực ghét bỏ và ném xuống giếng (bài đọc
I). Người theo Chúa hôm nay cũng không tránh khỏi hiểu lầm, chống đối, thậm chí
bách hại.
d. Niềm hy vọng nâng đỡ
Thánh Phaolô trong thư Do Thái
khích lệ: hãy kiên trì và mạnh mẽ trong cuộc chiến đức tin, vì trước mắt chúng
ta là gương sáng của chính Chúa Giêsu, Đấng đã chịu khổ nạn và thập giá vì tình
yêu.
Người Kitô hữu có thể bị chống đối, thiệt thòi, nhưng tin chắc rằng ngọn lửa Tin Mừng sẽ
không bao giờ tắt, và cuối cùng ánh sáng Chúa Kitô sẽ chiến
thắng bóng tối.
Xin Chúa thắp
sáng trong chúng ta ngọn lửa Thánh Thần,
để đời sống chúng ta bừng cháy tình yêu, công bằng và sự thật.
Xin cho chúng
ta can đảm chọn Chúa,
dẫu phải trả giá bằng hy sinh, thiệt thòi, hay hiểu lầm.
Nguyện xin
ngọn lửa Tin Mừng bùng cháy trong lòng Giáo Hội,
trong các gia đình và nơi tâm hồn từng người chúng ta. Amen.
Suy niệm 4: THẮP LỬA HY VỌNG CỦA CHÚA GIÊSU GIỮA ĐỜI
Một người hỏi
một em bé đang đứng run rẩy trong đêm lạnh bên đường:
- “Sao con
không về nhà?”
Em đáp: “Nhà
con ở xa, con bị lạc, và không ai chịu dừng lại.”
Người ấy liền
cởi chiếc áo khoác ấm cho em và nói: “Con mặc vào nhé, con sẽ ấm hơn.”
Ánh mắt em bé
bừng sáng: “Bác giống như ánh lửa sưởi ấm con giữa đêm nay!”
Chúa
Giêsu hôm nay nói: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy ước mong biết
bao cho lửa ấy bùng lên.” Ngọn lửa ấy chính là tình yêu, chân lý
và niềm hy vọng. Giữa một thế giới lạnh giá vì hận thù, ích kỷ và thất
vọng, Chúa mời gọi chúng ta trở thành những “người giữ lửa” và “người thắp lửa”
của Ngài.
Chúa
Giêsu không đến để mang lại thứ bình an tạm bợ, kiểu thỏa hiệp với điều xấu.
Lửa của Ngài là lửa Thánh Thần, lửa của chân lý và yêu thương...,
thứ lửa thanh luyện, biến đổi, đốt cháy mọi dối trá, thờ ơ và sợ hãi.
Khi
Chúa nói đến sự chia rẽ ngay trong gia đình (cc.51-53), Ngài không cổ võ bất
hòa, nhưng nhắc rằng: ai chọn theo Ngài thật sự phải sẵn sàng hy sinh, thậm chí
chấp nhận bị người thân hiểu lầm hay phản đối.
Niềm hy vọng Kitô giáo không phải ảo tưởng,
mà là sức mạnh giúp ta sống trung thành với sự thật và tình yêu, ngay cả khi
gặp chống đối.
Nếu
lửa của thế gian là lửa của chiến tranh, lửa trả thù, lửa tham lam, lửa chia rẽ
và hủy diệt; thì lửa của Chúa Giêsu mang đến là lửa sưởi ấm trái tim, soi sáng
lối đi, và thôi thúc con người trao ban. Lửa của Chúa sẽ nung nấu ta can đảm nói lời tha thứ khi tự
ái bị tổn thương, khích lệ khi đức tin ta bị suy yếu, nâng đỡ khi ta gặp khó
khăn, và sưởi ấm trái tim băng giá vô cảm của ta.
Lửa
ấy thôi thúc ta can đảm dấn thân bảo vệ sự thật, trung thực trong các việc làm và dám chọn điều khó để dấn thân
miễm sap ánh sáng chân lý của Tin Mừng
được lan tỏa.
Trong
Năm Thánh Hy Vọng, lời Chúa càng mời gọi khẩn thiết dành cho mỗi chúng ta: Đừng để ngọn lửa ấy bị dập tắt trong
lòng mình bởi lười biếng hay vô cảm. Nhưng hãy mạnh mẽ thắp sáng lửa niềm tin và hy vọng bằng những hành động
yêu thương cụ thể ngang qua: lời an ủi, cử chỉ sẻ chia, việc làm ngay chính, và
lời cầu nguyện kiên trì.
Ngọn
lửa hy vọng của Chúa không phải chỉ để giữ cho riêng mình, nhưng là để lan truyền: từ trái tim ta đến gia đình,
từ gia đình đến cộng đoàn, và từ cộng đoàn đến xã hội.
Cộng
đoàn phụng vụ thân mến,
Một que diêm bé nhỏ cũng có thể châm sáng một ngọn nến; nhiều ngọn nến sẽ làm bừng sáng cả nhà thờ. Cũng thế, nếu mỗi chúng ta để lửa hy vọng của Chúa Giêsu cháy trong lòng, cả thế giới sẽ được sưởi ấm.
Xin Chúa ban Thánh Thần để chúng ta can đảm giữ lửa và thắp lửa, dám để lửa ấy bùng lên giữa đời, dù phải trả giá, để mọi người nhận ra rằng: Trong Chúa Giêsu, bóng tối không bao giờ thắng được ánh sáng. Amen.
Thứ hai: Mt 19,16-22.
Suy niệm 1:
Có lẽ khát vọng lớn nhất của con người là sự sống
đời đời. Nhưng làm thế nào để có được sự sống ấy? Lời Chúa hôm nay sẽ khai mở
cho chúng ta biết cách thức để đạt đến khát vọng cao quý ấy.
Sách Giáo Lý Công Giáo thường được
chia thành 4 phần: Tín lý (tuyên xưng đức tin), luân lý (thực hành đức tin), bí
tích (cử hành đức tin) và cầu nguyện (nuôi dưỡng đức tin). Nhưng hình như đa
phần người Công giáo chúng ta chỉ chú trọng đến phần luân lý (thực hành đức
tin) mà ít quan tâm đến phần tín lý (tuyên xưng) và những phần còn lại nên có
sự sai lệch trong cái nhìn và cách sống đạo.
Nền luân lý Công giáo luôn nhấn mạnh đến Mục đích
và Phương tiện phải song hành trong cái nhìn đạo đức sinh học. Theo cái nhìn
này, thì một hành vi luân lý được chấp nhận khi thỏa mãn hai diều kiện: phương
tiện và mục đích đều đúng và trúng. Nếu một trong hai yếu tố ấy không đúng và
trúng thì hành vi đó bị xem là sai lạc.
Ví dụ: Vì nhân danh mục đích giúp đỡ người nghèo
mà ta đi cướp bóc của cải người giàu để chia cho người nghèo; hoặc vì muốn giúp cho bệnh nhân thoát
khỏi tình trạng đau đớn cùng cực về thể xác mà ta tiêm cho họ một mũi thuốc an
tử thì không đúng, vì làm như thế là ta đã xử dụng phương tiện sai trái để biện
minh cho mục đích tốt. Lý do là vì sự sống bắt nguồn từ Thiên Chúa nên
quyền quyết định sinh tử đều nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. Con người không
có quyền can thiệp vào sự sống-chết cho mình hay cho người khác.
Anh thanh niên trong bài Tin mừng hôm nay mặc dù
giàu có và giữ luật rất tốt. Nhưng xem ra anh ta vẫn không an lòng, bởi vì luật
lệ và của cải hình như không phải là phương thế thật sự để đưa anh đạt đến vinh
quang nước trời. Vì thế anh ta đã tìm đến với Chúa Giêsu để hỏi xem: “phải
làm việc lành gì để được sống đời đời?”. Thật bất ngờ với lời đề nghị
của Chúa Giêsu: "hãy bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người
nghèo khó...rồi đến theo Ta". Như vậy yêu thương và chia sẻ cho
người nghèo mới chính là phương thế để được sự sống đời đời. Do không muốn hy
sinh chia sẻ cho người nghèo theo lời đề nghị của Chúa Giêsu nên anh ta buồn và
quay mặt bỏ đi trong thất vọng.
Tóm lại, phương tiện để đạt đến mục đích sự sống
đời đời không phải là tiền bạc, cũng không chỉ là tuân giữ một số luật lệ chay
cứng vô hồn, nhưng là phải tích cực thi hành những việc làm bác ái, chia sẻ cho
tha nhân với niềm tin yêu và phó thác vào Chúa.
Tin Chúa, thì phải sống cậy trông phó thác vào
Chúa chứ không phải là tiền bạc của cải. Nên Chúa bảo: “hãy bán tất cả
…mà theo Ta”.
Yêu người, là phải biết rộng lượng chia sẻ với anh
chị em, đặc biệt những người nghèo khó “hãy bán hết của cải mà bố thí
cho người nghèo…”.
Lạy Chúa, cả đời sống đạo là để được hạnh phúc
nước trời, xin cho chúng con biết phụng sự Chúa với tấm lòng yêu mến; và biết
yêu thương tha nhân bằng những hành vi bác ái, chia sẻ chân tình. Nhờ đó, chúng
con mới có được hạnh phúc ở đời này và cả đời sau. Amen.
Suy niệm 2:
Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật về cuộc gặp gỡ
giữa Chúa Giêsu và một chàng thanh niên giàu có. Chàng thanh niên này đã giữ
mọi luật lệ từ thuở nhỏ, nhưng anh ta vẫn cảm thấy như thiếu thốn một điều gì
đó. Nên hôm nay anh ta mới tìm đến với Chúa Giêsu để hỏi thử xem làm thế nào để
được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
Qua những lời gợi ý của Chúa Giêsu dành cho anh
ta, muốn nói với chúng ta hai điều sau đây:
1. Hạnh phúc thật hệ tại ở đâu? Người thanh niên giàu có đã có mọi thứ mà
người ta cho là hạnh phúc: của cải, sức khỏe, và một cuộc sống đạo đức. Tuy
nhiên, anh ta vẫn cảm thấy thiếu thốn. Điều này cho thấy rằng, vật chất không
phải là tất cả. Hạnh phúc đích thực đến từ việc sống trọn vẹn theo ý muốn của
Thiên Chúa.
2. Làm gì để trở nên hoàn hảo? Chúa Giêsu mời gọi người thanh niên bán hết
mọi thứ để theo Ngài. Đây không phải là một lời mời dễ dàng vì nó đòi buộc
chúng ta phải từ bỏ những gì mà mình đã từng yêu thích, để hoàn toàn sống cho
Thiên Chúa.
Cuộc sống của chúng ta là một chuỗi những lựa
chọn. Nhưng Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta phải can đảm buông bỏ những gì
ràn buộc chúng ta dấn bước theo Chúa. Khi ấy chúng ta mới có được bình an đích
thực nơi tâm hồn và sẽ chiếm hữu được một kho tàng vô giá trên trời do Chúa
tặng ban.
Xin Chúa cho chúng ta can đảm từ bỏ những gì cản
trở chúng ta đến với Chúa. Và xin cho chúng ta có được một trái tim nghèo khó
để luôn sẵn sàng đón nhận những gì Chúa tặng ban. Amen.
Thứ ba: Mt 19, 23-30
Suy niệm 1:
Tiếp nối bài Tin Mừng hôm qua, sau khi người thanh
niên giàu có từ chối bán tài sản của mình để đổi lấy sự hoàn thiện (hay sự sống
đời đời) thì ngay sau đó, Chúa Giêsu đưa ra kết luận: “người giàu có khó vào
được Nước Trời”. Bên cạnh đó, Chúa Giêsu còn cho biết phần thưởng lớn lao cho
những ai dám chấp nhận từ bỏ mọi sự vì danh Ngài. Đó là sự sống đời đời làm gia
nghiệp.
Khi nói tới hai chữ “từ bỏ” tức là không còn hoặc
mất đi một cái gì đó mà trước đây mình đã có hay đã sở hữu. Tâm lý con người
thường không chịu thua thiệt, luôn luôn đòi hỏi sự cân xứng với phương châm
"có qua có lại mới toại lòng nhau". Nên tông đồ Phêrô đã hỏi thay cho
chúng ta: “chúng con đã từ bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?”.
Tin tưởng vào Đức Giêsu là Chúa uy quyền và giàu
tình thương nên Ngài sẽ không để cho những ai theo Ngài phải chịu thiệt thòi.
Chắc chắn Ngài sẽ ban lại cho những ai dám từ bỏ, hy sinh và cho đi vì Ngài một
phần thưởng lớn lao hơn, đó là “được gấp bội và được sống đời đời”. Đây quả là
một phần thưởng cao quý mà lòng người chẳng dám ước mong.
Ngày hôm nay, nếu ai đó bỏ cha mẹ, anh chị em, hay
con cái, hoặc nhà cửa, ruộng đất… mà theo Chúa thì bị xem là người không bình
thường, mất tính nhân bản vì đi ngược lại với đạo lý làm người. Nếu hiểu theo
nghĩa đen thì đúng như thế, nhưng việc theo Chúa không phải hiểu như thế. Theo
Chúa là biết chọn Chúa làm ưu tiên số một, làm lẽ sống cho đời ta, còn những
giá trị khác ngoài Chúa chỉ là thứ yếu. Bởi lẽ nếu xét cho đến cùng thì mọi thứ
trên trần gian này đều do Chúa dựng nên và tất cả cũng chỉ là phù vân, tạm bợ,
chóng qua... Duy chỉ có mình Chúa và nước trời mới là vĩnh hằng và hạnh phúc
thật. Chính vì thế mà Chúa Giêsu không ngần ngại nhắc nhở chúng ta đừng quá bám
víu vào của cải, vật chất, tiền bạc... như người thanh niên giàu có, mà loại
trừ Chúa ra khỏi những chọn lựa ưu tiên trong đời sống của mình.
Lạy Chúa, xã hội càng ngày càng văn minh, đầy đủ
tiện nghi vật chất, vì thế mà cuộc sống con người cũng được cải thiện và sung
túc hơn. Nhưng chính vì thế mà con người ngày nay dễ dàng quên và xa Chúa do
không cưỡng lại sức hút của đồng tiền. Xin Chúa đừng để chúng con sa vào ma lực
của đồng tiền mà xa rời bước đường theo Chúa và lý tưởng hạnh phúc nước trời.
Suy niệm 2:
Xét cho cùng khao khát và ước muốn sâu xa nhất của
con người vẫn là được sống đời đời hay hạnh phúc nước trời. Vậy phương thế nào
giúp chúng ta đạt được nỗi khát khao ấy? Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu sẽ chỉ
cho chúng ta biết.
Tin Mừng hôm nay đề cập đến hai vấn đề rất thiết
thực với đời sống người Kitô hữu chúng ta:
1. Vào nước trời khó hay dễ?
Chúa Giêsu khẳng định: Vào được nước trời là một
điều không dễ và rất khó cho những ai giàu có. Khó không bởi đường xa vạn dặm
không vì núi non điệp trùng hay sông sâu hiểm trở, nhưng khó vì lòng người còn
yếu đuối hay thay đổi: nay tốt mai xấu, hôm nay thánh thiện ngày mai tội
lỗi…Khó là bởi vì lòng người còn nhiều tính hư tật xấu với những tham sân si
(tham lam, nóng giận, đam mê bất chính). Nhất là luôn tự cao tự mãn, luôn đặt
cái tôi lên trên cái ta, chỉ biết mình chứ không người, thu vén cho mình mà
không dám cho đi vì tình thương…thì thật khó vào nước trời biết bao! Tuy nhiên
nếu giàu có mà biết sống tình bác ái cho đi quảng đại với niềm tin tưởng và phó
thác vào Chúa thì mọi việc đều có thể.
2. Từ bỏ theo Chúa được gì?
Tính toán được mất, hơn thua không chỉ là suy nghĩ
thường tình của người đời mà còn là suy nghĩ của những môn đệ Chúa. Chính vì
thế mà Phêrô đặt vấn đề này với Chúa Giêsu: “Này đây chúng con đã bỏ
mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con được gì?”.
Thưa nếu vì yêu Chúa và cho Chúa mà ta đánh đổi mọi
thứ trần gian này như: sức khỏe, thời gian, của cải, tiền bạc, danh vọng, ngay
cả tình thân…thì Chúa hứa sẽ ban lại cho chúng ta gấp trăm ở đời và sự sống
vĩnh cửu đời sau. Kinh nghiệm của những người dám hy sinh bỏ lại tất cả để dấn
thân theo Chúa trên hành trên ơn gọi tận hiến cho thấy điều đó. Và phần thưởng
ấy các môn đệ Chúa cũng đã lãnh nhận với niềm hạnh phúc viên mãn trong nước
trời.
Xin cho chúng ta dám từ bỏ những gì ngăn cản chúng
ta đến gần với Chúa và tha nhân, và xin Chúa cũng cho chúng ta biết đặt Chúa
làm lẽ sống và cùng đích của cuộc đời, để ta dám dấn thân bước theo Chúa và
sống cho Chúa.
Suy niệm 3:
Tin Mừng chúng ta vừa nghe nhấn mạnh đến mối
quan hệ giữa của cải và sự sống đời đời. Chúa Giêsu khẳng định: “người
giàu có rất khó vào Nước Trời”. Ngài ví von một cách ấn tượng: “Con
lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời.”
1. Tại sao giàu có lại khó vào nước trời?
- Khi ta quá gắn bó với của cải, ta dễ đặt nó lên
trên Thiên Chúa và tha nhân. Tình yêu vật chất thường làm mù quáng trái tim,
khiến ta khó mở lòng đón nhận tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa.
- Chúng ta thường nghĩ rằng, tiền bạc của cải mới
đem lại sự an toàn, nhưng đó chỉ là một ảo tưởng. Của cải có thể mất đi bất cứ
lúc nào, và khi đó, ta sẽ mất đi cả niềm tin và hy vọng.
- Người giàu có thường có xu hướng ích kỷ, chỉ
nghĩ đến lợi ích của bản thân. Điều này trái ngược hoàn toàn với tinh thần bác
ái mà Chúa Giêsu dạy.
2. Qua đây Chúa muốn nhắc nhở chúng ta:
- Của cải chỉ là phương tiện, chứ không phải mục
đích: Của cải là một ân huệ của Thiên Chúa, giúp chúng ta sống tốt hơn. Tuy
nhiên, nó không phải là mục đích cuối cùng của cuộc đời.
- Ta cần phải ưu tiên cho những giá trị tinh thần:
Nên cần dành thời gian và tâm sức cho những giá trị tinh thần như cầu nguyện,
làm việc thiện, xây dựng các mối quan hệ.
- Sẵn sàng chia sẻ: Của cải không chỉ để dành cho
bản thân mà còn để chia sẻ với những người khó khăn hơn. Việc cho đi không chỉ
giúp đỡ người khác mà còn làm cho tâm hồn ta trở nên giàu có hơn.
Xin Chúa giúp ta biết trân trọng những gì Chúa
ban, nhưng không để lòng mình bị cuốn vào vòng xoáy của vật chất. Xin cho ta có
một trái tim rộng mở để biết sống quảng đại chia sẻ với những ai đang gặp khó
khăn, nghèo khổ. Amen.
Suy niệm 4:
Lời Chúa hôm nay đề cập đến sự giàu có và
Nước Trời.
Chúa Giêsu cho biết người giàu có vào Nước Trời là
điều rất khó. Tại sao vậy? Thưa vì của cải trần gian thường gắn liền với lòng
tham lam, sự ích kỷ, và tính kiêu căng của con người. Tiền bạc của cải dễ làm
cho chúng ta có thái độ bất cần Thiên Chúa và xem thường tha nhân.
Khi dùng hình ảnh “con lạc đà chui qua lỗ
kim còn dễ hơn người giàu có vào nước trời”. Chúa Giêsu muốn mời gọi chúng
ta đừng quá bám víu vào của cải vật chất mà hãy bám víu vào Thiên Chúa và để
cho tâm hồn mình thuộc trọn về Người. Bởi lẽ sự giàu sang đích thực không nằm ở
của cải vật chất mà nằm ở tình yêu thương, niềm vui, và sự bình an do Chúa tặng
ban.
Vì thế, chúng ta cần phải xem xét lại mối tương
quan của mình đối với tiền bạc của cải, để điều chỉnh lại cái nhìn và thái
độ sao cho đúng đắn:
- Thay vì coi tiền bạc là mục tiêu sống, chúng ta
nên xem nó như một công cụ để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.
- Hạnh phúc đích thực không nằm ở của cải vật chất
mà hệ tại ở những giá trị tinh thần và mối quan hệ với người khác.
- Hạnh phúc chỉ có được khi ta dám quảng đại cho
đi bằng tình yêu mến chân thành, chứ không phải là thâu tóm thật nhiều của cải
ở trần gian này.
Xin Chúa cho chúng ta nhận ra sự nguy hiểm của
tiền bạc mà cố gắng vượt thắng mọi cám dỗ vật chất trên bước đường theo Chúa.
Xin Chúa cũng giúp chúng ta dám từ bỏ mọi sự để sống một cuộc đời đơn giản, yêu
thương và hy sinh mọi người với niềm tin tưởng vào Chúa. Amen.
Thứ tư: Mt 20,1-16a
Nhớ Thánh Bê-na-đô, viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh
Thánh nhân
sinh năm 1090 tại nước Pháp, là người con thứ sáu trong một gia đình quyền quý
và gia giáo có 7 anh em.
Năm 22 tuổi,
ngài gia nhập đan viện Xito cùng với 6 anh em ngài. Sau ba năm ngài được đề cử
làm viện phụ của dòng và đã thành lập thêm 68 cơ sở dòng mới.
Đời sống của
ngài rất khiêm tốn, đạo đức và khắc khổ. Nhất là ngài có lòng yêu mến Đức Mẹ
cách đặc biệt.
Ngài có công
rất lớn trong công cuộc hiệp nhất giáo hội thời bấy giờ đang bị chia rẽ trầm
trọng; cũng như đã mạnh mẽ chống lại những lạc thuyết của bè rối. Ngài qua đời
vào ngày 20/08/1153 hưởng thọ 63 tuổi.
21 năm sau,
ngài được ĐGH Alexander thứ III phong ngài lên bậc hiển thánh và sau
656 năm 1830, ngài được GH nâng lên bậc tiến sĩ HT.
Được ngọn
lửa tình yêu Chúa nung nấu, thánh Bênađô đã dành trọn cuộc đời cho Thiên Chúa,
tha nhân, Giáo hội, cách riêng cho dòng Xitô. Giáo lý cốt lõi của Ngài “Chúa
yêu thương, Chúa không muốn điều gì khác ngoài việc được yêu”. Bên cạnh đó,
thánh nhân cũng thúc dục mọi người: “Chúng ta cứ yêu thương nhau đi và sẽ
được yêu thương”.
Bernađô là một người rất
khiêm nhường và thánh thiện đầy lòng nhiệt quyết tông đồ, cho nên Chúa đã
thưởng công cho Ngài. Chúa đã ban cho Ngài nhiều ơn lạ như nói tiên tri, làm
nhiều phép lạ. Nhờ lời
chuyển cầu của thánh Bênađô, xin Chúa cho mỗi người chúng con luôn biết chạy
đến với Mẹ Maria, nhiệt tâm xây dựng cộng đoàn và Giáo hội bằng chính ơn gọi và
khả năng của mình. St.
Suy niệm 1:
Thiên Chúa là Đấng công bằng, nhưng cũng đầy lòng
yêu thương vô cùng. Đó là chân lý mà lời Chúa hôm nay khẳng định với chúng ta
qua dụ ngôn những người làm vườn nho.
1. Thiên Chúa rất ư là công bằng.
Những người thợ vườn nho đi làm từ sáng sớm, tỏ ra
bất bình và khó chịu trước cách thức trả lương của ông chủ. Họ cho rằng đã làm
nhiều giờ, vất vã đổ mồ hôi nhiều thì chủ phải trả tiền nhiều. Kẻ làm ít giờ,
chịu nắng mưa và đổ mồ hôi ít thì tiền công phải ít. Vậy mà tất cả đều được ông
chủ trả như nhau, là một đồng. Làm như vậy ông chủ có công bằng không?.
Tưởng như không công bằng trước cách thức trả tiền
công của chủ. Nhưng qua lời giải thích của ông chủ, ta thấy việc trả công của
ông quá ư là công bằng. Bởi lẽ ngay từ đầu họ đã thoả thuận và chấp nhận với
chủ ngày công là một đồng. Như thế ông chủ đã trả cho họ đúng với những gì họ
đã thỏa thuận và xứng với những gì họ đã làm. Còn ông chủ có trả cho thợ làm vào
giờ chót bằng số tiền của họ là vì tình thương của ông chủ. Chẳng lẽ ông chủ
không được làm điều ấy sao?
Thiên Chúa là Đấng công bằng vô cùng. Do đó, Ngài
sẽ ban thưởng hay luận phạt chúng ta theo công việc tội phúc mà chúng ta đã
làm. Dĩ nhiên chúng ta không nên đòi hỏi nơi Ngài sự công thẳng "vì
nếu chấp tội nào ai đứng vững".
2. Thiên Chúa còn là Đấng giàu lòng thương xót.
Thiên Chúa của chúng ta không chỉ công bằng mà
Người còn giàu lòng yêu thương. Những người thợ được ông chủ kêu gọi vào làm
vườn nho ngay từ sáng sớm đã là một vinh dự và là niềm an vui lớn lao rồi. Bởi
lẽ họ không phải lo lắng và chờ đợi việc làm. Kẻ được mời gọi vào những
giờ chót trong ngày, họ phải sống trong tâm trạng phập phòng lo lắng và phải
lang thang suốt cả ngày đi tìm việc làm. Cuối cùng tất cả đều được kêu gọi
vào làm cùng một việc và trong cùng vườn nho của chủ. Đó không chỉ là niềm vui
lớn lao của người những thợ làm vườn sau chót mà còn là vinh hạnh cao quý của
người được gọi làm từ ban mai. Sở dĩ ông chủ mời gọi tất cả vào làm vườn
nho của ông, đó là vì Ngài giàu lòng yêu thương, muốn tạo công ăn việc làm và
cuộc sống cho mọi người. Hình ảnh ông chủ ấy là Thiên Chúa và vườn nho là
Giáo Hội của Người.
Chúng ta là những người thợ vinh dự được Thiên
Chúa mời gọi vào vườn nho Giáo hội. Có thể trong chúng ta, có những người được
mai mắn gia nhập vào vườn nho Chúa rất sớm, ngay từ khi ban mai của cuộc đời;
cũng có những người vì hoàn cảnh hay lý do nào đó, họ chỉ được mời gọi vào vườn
nho Giáo Hội trong thời điểm của ngày tàn. Nhưng điều đó không quan trọng. Điều
quan trọng là chúng ta đã được Chúa yêu thương mời gọi vào vườn nho Giáo Hội
của Chúa, nên hãy ý thức cố gắng làm việc hết mình và hết sức trước tình yêu
mời gọi của Người.
Lạy chúa, xin cho chúng con đừng tự hào về những
công việc chúng ta đã làm, nhưng cho chúng con biết tự hào vì chúng con có một
người Cha giàu lòng xót thương. Người sẽ ban thưởng cho chúng con hơn những gì
chúng con đã làm.
Suy niệm 2:
Truyện: Cha Sở và Cha Phó
Tại một xứ đạo kia số dân khá đông, có cha sở và cha phó. Một số giáo dân,
vì cuộc sống bác ái chưa trưởng thành, nên có hai nhóm xung khắc nhau. Một nhóm
quí cha sở, nhóm kia quí cha phó, vì ngài còn trẻ và năng nổ.
Một hôm nhóm ủng hộ Cha Sở đến trao đổi tâm tình với ngài:
- Thưa cha, cha ở đây đã lâu năm,
công dày, đức cao, sao cha để Cha Phó thay đổi nề nếp giáo xứ minh, bỏ đi công
lao cha xây dựng ? Và đám thanh niên cùng một số lớn giáo dân có vẻ nghiêng cảm
tình về cha phó. Xin cha ngăn cản đi.
Cha sở bình tĩnh trả lời:
- Giữa tôi và cha phó ai
vất vả hơn ?
- Cha phó.
Cha sở chậm rãi nói tiếp:
- Ngài còn trẻ, còn có sức hoạt động, phải dấn thân nhiều, và Chúa cũng lo
liệu và trợ giúp ngài bằng cách cho những tâm hồn biết thông cảm, cộng
tác. Đó là điều công bằng, điều tốt đẹp, sao các ông bà so bì với tôi, một
người đáng lẽ đã về hưu ?
Nghe cha sở nói sai tần số với mình, nhóm kia chống chế:
- Cha cũng đã từng hoạt động dấn thân, có khi còn hơn cả cha phó bây giờ.
Cha sở nói tiếp:
- Và tôi cũng đã được người ta quí mến, ủng hộ. Và biết đâu còn hơn cha
phó. Vì bây giờ cha phó vẫn còn một số người thiếu thông cảm, muốn hạ thấp.
Đám người kia ra về, họ cảm phục cha sở “đức cao” và cảm thấy tâm hồn, cõi
lòng mình sao nhỏ nhen, trần thế quá! Từ đó nạn “bè phái” bớt nhiều.
Điểm nhấn của dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe phản ảnh 2 lối suy nghĩ khác
nhau về cách thức trả lương của ông chủ vườn nho:
- Lối suy nghĩ của một số người thợ làm việc nhiều giờ: làm nhiều
thì phải được trả công nhiều theo lẽ công bình theo suy nghĩ của họ.
- Lối suy nghĩ của ông chủ: Ông trả công vì thương (nhưng lại
không lỗi đức công bình), cho nên kẻ làm ít giờ cũng được trả lương bằng kẻ làm
suốt ngày.
+ Hai cách suy nghĩ trên phản ánh hai quan niệm khác nhau của
người Do Thái và của Chúa Giêsu:
- Người Do Thái làm việc đạo đức là nhằm để tính công với
Chúa. Họ nghĩ, họ làm nhiều thì buộc Chúa phải ban ơn cho họ nhiều.
- Đối với Chúa Giêsu thì: Thiên Chúa ban ơn cho con người không phải vì
công lao của họ mà vì tình thương của Ngài.
Dựa theo lý lẽ sự công bằng theo
cái nhìn tự nhiên của con người thì ta thấy như bất công và đặt ra câu hỏi là
tại sao “mấy
người chỉ làm có một giờ, thế sao ông chủ lại coi họ làm ngang hàng với những
người đã làm việc nặng nhọc cả ngày, bị nắng nôi thiêu đốt” (x. Mt 20,12).
Nhưng nếu dựa vào lý lẽ của tình thương thì
chúng ta lại thấy rất là hợp lý. Ví dụ trong gia đình, cha mẹ lo cho con cái
không phải vì lý lẽ công bằng, theo đúng công lao của chúng, nhưng lại dựa theo
lý lẽ của tình thương. Có thể một đứa con bệnh tật yếu đuối chẳng làm gì được
cho gia đình, nhưng lại được chăm sóc nhiều hơn. Nếu cha mẹ trong gia đình mà
cư xử với con cái theo lý lẽ công bằng thì không biết con cái sẽ ra sao? Chúa cũng cư xử với chúng ta
như thế. Cho nên ta hãy tạ ơn Chúa, vì nếu cư xử theo công bằng thì không biết
số phận ta sẽ ra sao? Cho nên nếu chúng ta là người thợ
làm từ giờ thứ nhất, thì chúng ta đừng bao giờ ganh tỵ với người làm từ giờ thứ
11 (thí dụ như những người bên lương trở lại, những người hấp hối mới ăn năn
tội). Hãy có cái nhìn tích cực hơn là mình đã được diễm phúc hơn nhiều người
bởi mình được biết Chúa, ở với Chúa và làm việc trong vườn nho của Chúa lâu hơn
những anh chị em khác.
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường hay bị cám dỗ viện lẽ công
bình mà ganh tỵ với người khác. Những lúc ấy chúng ta hãy nghĩ đến câu thánh
vịnh: “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được!” (Tv
130,3). Chính vì Chúa cư xử với chúng ta bằng tình thương nên chúng ta mới có
thể đứng vững.
Có một câu chuyện dụ ngôn như sau:
Ngày nọ, Thiên Chúa ngạc nhiên khám phá ra rằng,
tất cả mọi người đều được vào Thiên Đàng mà không ai phải sa hỏa ngục. Ngài suy
nghĩ phải chăng Ngài là Đấng không công bằng sao?
Nên Ngài mới cho gọi sứ thần Gabriel đến và ra
lệnh: “Ngươi hãy tập trung tất cả mọi người lại trước mặt Ta và đọc cho họ nghe
mười giới răn của Ta”.
Thế là tất cả mọi người đều đến trình diện trước
tòa Chúa.
- Sứ thần Gabriel đọc giới răn thứ nhất và Chúa
lên tiếng phán bảo: “Tất cả những ai đã phạm giới răn thứ nhất hãy xéo ra khỏi
mặt Ta và đi vào hỏa ngục ngay”. Thế là một số người từ từ tách ra khỏi đám đông và buồn bã đi vào
hỏa ngục.
- Sứ thần Gabriel tiếp tục đọc các giới răn khác.
Và cứ sau mỗi giới răn thì lại có thêm một số người rời bỏ đám đông để đi vào
hỏa ngục.
- Sau khi sứ thần Gabriel đọc đến giới răn thứ
sáu, thì tất cả đám đông buồn bã ra đi…. xuống hỏa ngục hết, chỉ trừ còn lại
một vị ẩn sĩ già.
Thiên Chúa đưa mắt nhìn sứ thần Gabriel rồi hỏi:
“Phải chăng chỉ có người này được vào Thiên Đàng ? Nếu vậy thì ông ta sẽ cô độc
lẻ loi lắm”. Nói
xong, Ngài truyền lệnh cho sứ thần Gabriel gọi đám đông lại và cho họ trở vào
Thiên Đàng.
Nhìn thấy đám đông tội lỗi xấu xa bỗng dưng được
tha thứ và được trở lại Thiên Đàng, vị ẩn sĩ nổi giận và hằn học nói với Chúa:
“Chúa không phải là Đấng công bằng. Tại sao Chúa không cho con biết trước điều
này ?”.
Câu chuyện cơ cấu trên cho ta thấy được cách tính toán của vị ẩn sĩ già. Có
lẽ nhiều lúc chúng ta cũng giống như vị tu sĩ già và của những người thợ làm từ
giờ thứ nhất trong bài Tin Mừng hôm nay. Cứ ngỡ rằng, ta đã giữ đủ mọi thứ thì
chỉ có ta mới xứng đáng với những phần thưởng của Chúa ban, còn những người
khác thì không.
Giữa một thế giới đầy những rào cản của kỳ thị, ganh ghét và toan tính, xin Chúa giúp chúng ta
không những cư xử với mọi người theo lẽ công bình mà còn biết vươn tới tình
thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. (St).
Suy niệm 3:
Dụ ngôn ông chủ vườn nho và
những người làm thuê mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin
mừng hôm nay muốn nói với chúng ta nhiều điều:
1. Tình thương của Thiên Chúa là phổ
quát:
Dù đến muộn hay sớm, mọi người đều được trả công
như nhau. Điều này cho thấy tình yêu của Thiên Chúa không dựa trên công lao mà
là ân sủng. Ngài luôn mở rộng cánh tay chào đón mọi người, bất kể hoàn cảnh hay
quá khứ như thế nào.
Chúng ta thường so sánh mình với người khác, cảm
thấy bất công khi người khác được nhiều hơn. Nhưng Lời Chúa nhắc nhở chúng ta
rằng, Thiên Chúa yêu thương mỗi người một cách riêng biệt và công bằng trong
chính con mắt của Ngài.
2. Tích cực tham gia vào đời sống Giáo hội:
Vườn nho tượng trưng cho Giáo hội. Mỗi người chúng
ta đều được mời gọi đến làm việc trong vườn nho đó. Dù đến sớm hay muộn, chúng
ta đều có cơ hội đóng góp vào công cuộc loan báo Tin Mừng. Quan trọng là chúng
ta có sẵn lòng đáp lại lời mời gọi của Chúa hay không.
3. Thái độ khi làm việc cho Chúa:
Người làm đến muộn không hề oán trách những người
đi trước, chỉ có những người đi làm đúng giờ thì lại than trách Chúa và so đo
với những người đến làm muộn. Chúng ta cần loại bỏ tính ích kỉ, ghen tỵ, so đo
với nhau của những người đi làm trước. Dù đến với đức tin sớm hay muộn, chúng
ta hãy cố gắng chu toàn tốt các chức năng: ngôn sứ, tư tế và vương đế của mình.
Hãy tận tâm làm những gì Chúa giao phó mà không so đo, tính toán và ganh tị
phải là tính cách và tinh thần của người kitô hữu chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta ý thức được rằng: mỗi người
đều có ơn gọi riêng được Chúa trao ban, chúng ta cần phải cố gắng chu toàn tốt
ơn gọi của mình. Cũng vậy, trên hành trình đức tin có người theo Chúa lâu,
nhưng cũng có người mới tin theo Chúa. Điều đó không quan trọng, quan trọng là
mỗi người phải cố gắng hoàn thiện bản thân của mình mỗi ngày nên tốt hơn. Amen.
Thứ năm: Mt 22, 1-14.
Nhớ Thánh Piô X (St. Pius X), Giáo hoàng
Thánh Piô X có tên là Giuse Sarto, sinh năm 1835
tại làng Riese, miền Vénétia nước Ý. Thánh Piô X rất thông minh, cần mẫn và
sáng trí.
Ngài học tiểu chủng viện Pađua và thụ phong linh
mục vào năm 1858. Thánh nhân đã làm cha phó giáo xứ Tomholo, rồi chánh xứ
Salzanô, và được giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Giáo Triều Roma. Vì là một
người có tài, có đức, nên Ngài được Đức Thánh Cha phong làm Giám Mục địa phận
Mantoue vào năm 1884. Thánh nhân đã chu toàn trách nhiệm chủ chăn, chuyên lo
đào tạo hàng giáo sĩ, thương yêu, lưu tâm đến người nghèo và để ý tới phụng vụ.
Với những cố gắng phục vụ Giáo Hội, lo lắng cho
tha nhân, năm 1893, thánh nhân được phong làm Hồng Y, Giáo Chủ Venise Thiên
Chúa đã tuyển lựa Ngài cách đặc biệt để lèo lái Giáo Hội của Chúa, nên sau khi
Đức Giáo Hoàng Lêô XIII qua đời, Ngài được bầu lên chức vụ tối cao của Giáo Hội
vào ngày 4 tháng 8 năm 1903. Ngài đã cố gắng chối từ nhưng như lời Chúa
nói: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em,
để anh em ra đi, thu được kết quả, và kết quả anh em được lâu bền” (Ga
15, 16). Trên ngai Giáo Hoàng, Ngài vẫn sống đơn sơ, khiêm nhượng, khó
nghèo. Thánh nhân bảo vệ và củng cố đức tin cho mọi người, ngài lên án
và chống lại phái duy tâm, tiếp xúc với các nhóm ly giáo, đặt nền
tảng vững chắc cho giới tu sĩ, soạn thảo cuốn giáo luật, khuyến khích
lòng sùng kính Bí Tích Thánh Thể, việc siêng năng rước lễ và việc
ban cho trẻ em rước lễ sớm hơn thường lệ.
Với trách nhiệm chủ chăn hoàn vũ, Đức Giáo Hoàng
Piô X đã lo âu, đau khổ vì thế chiến đang bắt đầu. Thánh nhân nhạy cảm trước
mọi biến cố của thế giới xẩy đến, Ngài chia sẻ với thế giới, với mọi người nỗi
đau, nỗi buồn và sự vui mừng, Ngài ra đi về với Chúa trong an bình vào ngày 20
tháng 8 năm 1914. Sau 31 năm tức là ngày 21 tháng 8 năm 1945, Đức Thánh Cha Piô
XII đã phong thánh cho Ngài.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Thánh Giáo Hoàng Piô X
trí khôn ngoan siêu việt và lòng dũng cảm xứng bậc Tông Đồ để Người bênh vực
đức tin công giáo và quy tụ tất cả về Đức Kitô. Xin rộng ban cho
chúng con biết nghe lời thánh nhân giảng dậy và noi gương sáng của Người hầu
mai ngày đạt tới phước trường sinh” (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Piô X).
Suy niệm:
Dụ ngôn tiệc cưới cho hoàng tử mà Chúa Giêsu nói
đến trong đoạn tin mừng hôm nay hơi lạ.
Lạ vì những người được nhà vua ưu ái mời đến đều
từ chối vì nhiều lý do: “Người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán;
những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi”.
Lạ là sau khi những người được mời khướt từ thì
vua lại sai đầy tớ ra các ngả đường để mời gọi tất cả mọi người không phân biệt
tốt xấu vào tham dự tiệc cưới.
Lạ vì bất ngờ nhà vua lại trừng phạt nặng nề đối
với người không mặc y phục lễ cưới “Trói tay chân nó lại, ném nó vào
nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!”. Chính vì những
điều lạ như thế nên ta hiểu rằng đây không phải là tiệc cưới bình thường mà là
tiệc cưới nước trời.
Bàn tiệc nước trời được mở ra và lời mời gọi của
Chúa được gửi đến tất cả mọi người. Được tham dự bữa tiệc nước trời là khao
khát lớn nhất của con người. Tuy nhiên để xứng đáng tham dự vào bữa tiệc
ấy, cần phải hội đủ hai điều kiện:
- Biết trân quý lời mời gọi của Chúa mà tích cực
đáp lại.
- Phải “mặc y phục lễ cưới”. Nghĩa là mặc lấy
con người mới trong Chúa Kitô là sống công chính và thánh thiện: “Anh
em hãy mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên
Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Eph 4,24).
Xin cho chúng ta biết tích cực đáp lại lời mời gọi
của Chúa qua việc siêng năng đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể do Chính Chúa Giêsu
thết đãi hằng ngày trên bàn thờ và luôn sống công chính, thánh thiện trước
thiên nhan Chúa hầu chuẩn bị tâm hồn xứng hợp cho việc tham dự vào bữa tiệc
viên mãn trong nước trời mai ngày.
Thứ sáu: Lc 1, 26-38
Nhớ Đức Thánh Maria, Trinh Nữ Vương
CÁC DANH HIỆU CỦA ĐỨC MẸ MARIA
Đức Maria có nhiều danh hiệu (như Đức Mẹ, Đức Bà,
Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Thiên Đàng, Mẹ Giáo Hội). Tất cả đều chỉ cùng
một người nữ tên là Maria, thân mẫu của Chúa Giêsu Kitô.
Bốn danh hiệu là tín điều (Đức Mẹ là Mẹ Thiên
Chúa, Đức Mẹ trọn đời đồng trinh, Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội, Đức Mẹ hồn xác
lên trời).
Một số danh hiệu trích từ Thánh Kinh như
“Người đầy ơn phúc” (Lc 1, 28), “Đức trinh nữ” (Mt 1, 22), “Vườn kín” (Dc 4,
12), “Vinh hiển của Giêrusalem” (Jdt 15, 10).
Có những danh hiệu nhấn mạnh đến vai
trò quan trọng của Đức Mẹ Maria trong nhiệm cuộc cứu độ như “Evà Mới”,
“Hòm Bia Thiên Chúa”, “Tòa Đấng khôn ngoan”, “Đấng đồng công cứu chuộc”, “Đức
Mẹ sầu bi”.
Có những danh hiệu do các Đức giáo hoàng dâng
tặng, như vào năm 1521 Đức Piô V thiết lập lễ “Đức Mẹ chiến thắng”, trong Thế
chiến thứ II Đức Bênêđíchtô XV thêm danh hiệu “Nữ Vương ban sự bằng yên” (“Nữ
Vương hòa bình) vào Kinh cầu Đức Bà, năm 1960 Đức Gioan XXIII đổi lễ “Đức Mẹ
chiến thắng” thành lễ “Đức Mẹ Mân Côi”.
Chính Kinh cầu Đức Bà chứa đựng rất nhiều
danh hiệu của Đức Mẹ như “Đức Mẹ chỉ bảo đàng lành”, “Đức Bà là gương nhân
đức”, “Rất thánh Nữ đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh”.
Đức Mẹ Maria còn có các danh hiệu gắn với nơi Mẹ
đã hiện ra như “Đức Mẹ Fatima”, “Đức Mẹ Lộ Đức”, “Đức Mẹ La Vang”.
Nhiều danh hiệu khác mang tính thi ca, qua nhiều
năm tháng đã trở thành sức sống cho lòng sùng kính Đức Mẹ và các việc đạo đức
bình dân...
Suy niệm 1:
Có thể nói, hầu hết mọi ân sủng TC ban cho nhân
loại đều qua trung gian của Mẹ Maria chí thánh. Dẫu là nữ vương nhưng Mẹ luôn
gần gũi và rất mực yêu thương mỗi người chúng ta. Nguyện xin Chúa qua lời
chuyển cầu của Mẹ Maria Nữ Vương ban cho chúng ta mọi ơn lành xác hồn, nhất là
xin cho chúng ta được hưởng niềm vinh quang bất diệt cùng với Mẹ trong nước
Thiên Chúa mai này.
Đáp lại niềm tin truyền thống của GH và lòng mong
mỏi của các tín hữu đã tôn sùng Đức Mẹ với tước hiệu Nữ Vương có từ lâu đời;
cũng như dựa trên nền tảng lời Chúa trong Tv 44,10: “Lạy Chúa, bên hữu
Ngài, Hoàng Hậu sánh vai, mặc xiêm y dệt gấm thêu vàng, và trang điểm huy hoàng
rực rỡ “; cũng như chính sách khải huyền đã diễn tả: “Một điềm
lạ vĩ đại xuất hiện trên trời: một người nữ mặc mặt trời, chân đạp mặt trăng,
đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao.” (Kh 12,1) hay ”Người
mang Danh viết trên áo, trên tà áo của Người: Vua các vua và Chúa các chúa” (Kh
19,16), ĐGH PI-O XII đã thiết lập lễ Đức Maria trinh nữ vương vào năm 1954, vì
Đức Maria xứng danh là Mẹ của một vị Vua trên hết các vua, Mẹ của một vị Chúa
trên các chúa.
Mừng lễ Đức Maria Nữ Vương hôm nay, GH mời gọi
chúng ta hướng tâm hồn về Mẹ, vì Mẹ là một phần tử ưu việt của GH. Mẹ đã sống
với Thiên Chúa cách tuyệt hảo, đã luôn khiêm tốn nói lời xin vâng theo thánh ý
Thiên Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời.
Thánh Bê-na-đô đã khẳng định rằng "nói về Mẹ
thì không bao giờ đủ"; bởi vì các nhân đức của Mẹ quá tuyệt đẹp. Một trong
những nhân đức ấy, là sự khiêm nhường.
Thánh sử Lu-ca cho biết, khi kết thúc biến cố
truyền tin, Đức Maria đã đáp lại với sứ thần Chúa "Tôi đây là nữ
tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Trong
bài ca Mag-ni-fi-cat, Mẹ cũng nhìn nhận mình là ‘phận nữ tỳ hèn mọn’.
Nơi mái ấm gia đình Na-da-rét, Mẹ đã sống âm thầm
lặng lẽ phục vụ thánh Giuse và Hài Nhi Giêsu. Nữ tỳ của Chúa lúc nào cũng
tin tưởng phó thác vào Chúa, qua việc luôn thực hiện mọi thánh ý của Chúa,
không bai giờ làm theo ý riêng mình hay của thế gian. Mẹ đã để cho Chúa hướng
dẫn đời Mẹ. Ở mọi nơi, trong mọi lúc Mẹ Maria luôn tín thác mọi sự vào Chúa
quan phòng.
Biết rằng sống khiêm nhường là một nhân đức cao
quý, nhưng để sống được nhân đức này không đơn giản chút nào. Bởi vì, mỗi người
chúng ta vốn đã mang sẵn “gen kiêu ngạo”, nên hay tự cho mình là đúng đắn, tài
giỏi và hiểu biết mọi thứ. Càng có chức có quyền thì cái tôi càng lớn, mang
theo đó là tính kiêu ngạo cũng phình to. Được làm ông này bà nọ thì coi mọi
người chỉ là hạng thứ dân. Người có chút tài năng thì sinh ra tự mãn kiêu căng,
mang lấy cái ‘bệnh của sao’ mà coi thường người khác. Có lẽ ai trong chúng ta
cũng muốn sống khiêm nhường, vì đó là đức tính cao đẹp đáng trân quý, nhưng
nhiều khi chúng ta lại không biết làm thế nào để sống được đức tính này?
Thiết nghĩ, muốn sống khiêm nhường thì cần phải
diệt cái tôi của bản thân. Cha Vin-cen-te Leb-be cho rằng: chúng ta cần phải
chiến đấu với cái tôi hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, nên phải luôn đánh tôi,
đánh ngã tôi, và đánh chết tôi. Nói như thế, cái tôi trong mỗi người chúng ta
thật là lớn, và rất khó để diệt nó. Chỉ khi nào chúng ta làm chủ được cái tôi
thì ta mới có thể sống khiêm nhường được. Một tâm hồn khiêm nhường thì dễ lắng
nghe tiếng Chúa và sẵn sàng đáp lại thánh ý Ngài, và như lời Chúa nói: “ai
hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Mừng lễ Đức Maria Nữ Vương hôm nay, chúng ta cầu
xin Chúa cho mỗi người chúng ta được trở nên người tôi trung của Chúa, luôn
biết noi gương Mẹ Maria tin yêu và phó thác vào bàn tay uy quyền của Thiên Chúa
mà sẵn sàng vâng phục thánh ý Ngài trong mọi ngày đời của chúng ta.
Suy niệm 2:
Hòa chung tâm tình với toàn
thể Giáo hội hôm nay, chúng ta hân hoan mừng lễ Đức Maria Trinh Nữ
Vương. Suy niệm về cuộc đời của Mẹ, Giáo hội nhìn nhận Đức Mẹ đáng được
tôn phong lên tước hiệu Trinh Nữ Vương, bởi lẽ Mẹ đã cưu mang và sinh hạ Ngôi
Hai Thiên Chúa làm người là Vua Vũ Trụ. Chúng ta hiệp lời tạ ơn Chúa đã ban tặng cho nhân loại một người Mẹ tuyệt
vời là Đức Trinh Nữ Maria Nữ Vương. Xin
Chúa nhận lời Đức Mẹ chuyển cầu mà ban cho chúng ta được bình an, cũng như biết
khiêm tốn vâng theo thánh ý Chúa theo gương Mẹ hầu sau cuộc đời này, chúng ta
cũng được chung hưởng niềm vinh phúc Nước Trời cùng với Mẹ.
Mỗi khi nói
đến Đức Maria, Giáo hội luôn muốn trình bày Đức Maria với một hình ảnh là
một Eva mới, hoàn toàn trái ngược với Eva cũ bất tín và bất trung. Đức
Maria là người luôn tin tưởng và tùng phục Thiên Chúa trong mọi sự. Vì thế, Mẹ
đã trở thành kiểu mẫu của những ai đang trên đường đến với Chúa và dấn thân cho
niềm tin của mình.
Để được hạnh phúc và
vinh quang trên trời như hôm nay, Đức Maria đã trải qua bao nhiêu là thử thách,
gian khổ và hiểm nguy, nhưng Mẹ đã tin tưởng và trung thành với Thiên Chúa cách
trọn hảo.
Cuộc đời của những
người Kitô hữu đích thực hôm nay cũng sẽ không tránh khỏi những gian nan và
khốn khó. Nhưng có Mẹ là trạng sự và là sao mai dẫn đường nên chúng ta hãy vững
tin trung thành với ơn gọi làm con Chúa trong cuộc hành trình trần thế này.
Đức Giêsu là Thiên Chúa nhưng Người đã không uy nghi bước từ trời cao
xuống đất thấp, trái lại Ngài đã phải đi ra từ lòng mẹ, và chấp nhận mang lấy
thân phận mong manh yếu đuối như biết bao trẻ thơ khác; Ngài cũng cần được che
chở, nuôi dưỡng và lớn lên trong vòng tay của Mẹ Maria và Thánh Giuse.
Khi tuyên dương những
công lao vĩ đại của Mẹ Maira, GH không chỉ đơn giản nhìn nhận tấm lòng khiêm
tốn vâng phục Thiên Chúa qua hai tiếng “xin vâng” một lần trong ngày Truyền
tin, mà GH còn muốn xác nhận lời “xin vâng” ấy của Mẹ luôn vang vọng trong suốt
cuộc đời của Mẹ; nhất là trong những giây phút đứng dưới chân Thánh giá khi đau
đớn chứng kiến Con mình chịu đóng đinh và chết trên thập giá, Mẹ đã can đảm,
quyết liệt “Xin vâng” mạnh mẽ hơn nữa. Chính nhờ thái độ tín thác tuyệt đối của
Mẹ vào chương trình của Chúa, Mẹ đã họa lại sự vâng phục trọn vẹn của Chúa
Giêsu vào thánh ý Chúa Cha, nhờ đó mà ơn cứu độ của Thiên Chúa giao phó cho Con
Chúa là Đức Giêsu Kitô đã trở nên hoàn tất
Mầu nhiệm Chúa Giêsu
làm người muốn dạy chúng ta biết quí trọng cuộc sống trong tin yêu và tín thác.
Dẫu cho cuộc đời của Chúa có phải trải qua nhiều lận đận, long đong trong phận
nghèo, Chúa vẫn chấp nhận và sống đến cùng theo Thánh Ý Chúa Cha được thành
toàn. Còn chúng ta, khi gặp những
giây phút gian nan, chán chường, thất vọng, thất bại, lắm khi chúng ta cảm thấy
đời bỗng trở nên vô nghĩa, và muốn buông xuôi.
Nhìn vào cuộc sống
của Mẹ Maria thì những khó khăn của chúng ta chẳng đáng là gì. Hôm nay, nhờ
gương sáng và lời cầu bầu của Mẹ với tước vị là Nữ Vương trên trời dưới đất,
xin Chúa giúp chúng ta đừng cậy dựa vào sức mình, nhưng luôn biết trông cậy vào
quyền năng của Chúa, nhất là biết tín thác trọn vẹn vào chương trình kỳ diệu mà
Chúa muốn thực hiện nơi thân phận nhỏ bé, yếu hèn của chúng ta.
Thật ý nghĩa khi Đức Giáo Hoàng Piô XII thiết lập
lễ này sau lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Qua tước hiệu cao quý này, GH nhắc nhở
con cái mình hãy hướng lòng lên Mẹ Maria Nữ Vương để khẩn cầu Mẹ mọi nơi mọi
lúc nhấy là khi gặp phải những nghịch cảnh, thất bại, đau khổ và tăm tối trong
cuộc đời. Chúng ta luôn tin rằng dù cuộc đời mình có bất hảo và phàm ngôn Mẹ
không bao giờ xa cách và bỏ rơi chúng ta. Chúng ta hãy lấy tình con thảo mà ca
khen Mẹ với tâm tình tin tưởng, yêu mến, phó thác. Đồng thời luôn biết vâng
nghe những lời Mẹ nhắn nhủ… nhất là biết noi gương Mẹ luôn biết lắng nghe và
thực thi thánh ý Thiên Chúa cách mau mắn. Amen. (St)
Suy niệm 3: ĐỨC MARIA-NỮ VƯƠNG BAN SỰ BÌNH AN
Có một câu chuyện vui, phần nào nói lên một ý
nghĩa của ngày lễ mừng nhớ Đức Maria Nữ Vương hôm nay:
Một ngày kia, Chúa Giêsu đi dạo trên thiên đàng và
Ngài rất ngạc nhiên thấy trong những góc tối, có nhiều khuôn mặt rất khả nghi
lẻn vào ở trong thiên đàng.
Ngài tự hỏi:
- Làm thế nào mà họ vào đây được.
Ngài đến gặp thánh Phêrô và trách ông là thiếu
cảnh giác.
Thánh Phêrô phàn nàn:
- Con làm thế nào được? Con canh cổng rất cẩn
thận, nhưng đêm khuya mẹ Ngài lại mở cửa sổ cho những kẻ tinh quái này vào làm
sao con dám chống lại?
Câu chuyện trên muốn nói đến vai trò cao trong của
Mẹ Maria, bởi Mẹ chính là Mẹ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, nên Đức Maria xứng đáng được
gọi là Nữ Vương. Vì là Nữ Vương thiên đàng. Là Nữ Vương Mẹ rất có uy thế trước
tòa Thiên Chúa. Tin rằng những lời cầu xin của chúng ta với Mẹ sẽ được Thiên
Chúa lắng nghe và nhậm lời.
Tin tưởng vào điều đó nên trong lời Kinh Cầu
Đức Bà, Đức giáo hoàng Pi-ô VI năm 1814, đã thêm vào
kinh Cầu Đức Bà 8 câu Tôn Vinh Nữ Vương như sau:
1. Nữ vương các thánh Thiên Thần.
2. Nữ vương các thánh Tổ tông.
3. Nữ vương các thánh Tiên tri.
4. Nữ vương các thánh Tông đồ.
5. Nữ vương các thánh Tử vì đạo.
6. Nữ vương các thánh Hiển tu.
7. Nữ vương các thánh Ðồng trinh.
8. Nữ vương các thánh Nam cùng các thánh Nữ.
Ngoài ra:
- Đức Lê-ô XIII, năm
1833 lại thêm: "Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân côi".
- Đức Pi-ô IX, năm 1854 thêm: "Nữ Vương
chẳng hề mắc tội tổ tông".
- Đức Piô XII, năm 1950 thêm: "Nữ Vương linh
hồn và xác lên trời".
- Đức Gioan Phao-lô II, năm 1995
thêm: "Nữ Vương các gia đình" để cầu cho các gia đình đang gặp
nhiều khó khăn trong thế giới hôm nay.
Đặc biệt Đức Bê-nê-đic-tô XV, năm
1915 đã thêm lời ca tụng: "Nữ Vương ban sự bằng yên".
Vì thế mà trong các giờ kinh gia
đình, chúng ta thường kêu xin Đức Mẹ qua lời ca tụng: “Nữ Vương ban sự
bình yên- cầu cho chúng con”. Lời ca tụng và kêu xin này không
chỉ được xướng lên 1 lần mà đến cả 3
lần. Điều này chứng tỏ con cái Mẹ luôn tin tưởng vào uy thế của
Mẹ trước mặt Chúa nên mới nài xin tha thiết ơn bình yên như thế.
Tuy Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa là Nữ Vương
trời đất nhưng Mẹ luôn khiêm tốn sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa trong mọi
hoàn cảnh, bằng chứng là Mẹ đã thân thưa với Chúa hai
tiếng “xin vâng” trong ngày thiên thần Gab-ri-el truyền tin mà Tin
Mừng hôm nay trình thuật: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin
vâng như lời thiên thần truyền".
Nếu E-va cũ đã xuẩn động bất tuân
đã làm cho nhân loại trở nên nô lệ cho tội
lỗi và phải lãnh lấy hậu quả là đau khổ và án chết đời
đời. Thì chính nhờ vào hai tiếng “xin vâng” của E-va mới nơi Đức
Maria đã mang lại ơn cứu độ, ơn bình an và sự sống mới cho nhân
loại chúng ta.
Nhìn vào thực tế của cuộc đời, ta thấy rằng con
người không thể nào thoát khỏi bàn tay đầy quyền năng và yêu thương của Thiên
Chúa. Cho nên nếu con người cứ kiêu căng, mãi mê đi tìm và sống theo cái tôi
phóng túng tự do của mình mà không vâng phục thánh ý Chúa, thì chúng ta sẽ phải
lãnh lấy hậu quả của bất an và đau khổ cho đời mình.
Kinh nghiệm nơi Mẹ Maria cho ta bài học ấy. Chính
vì lòng khiêm tốn luôn vâng phục thánh ý Chúa với lòng tưởng phó thác đời mình
cho Chúa sử dụng tùy ý, Mẹ Maria đã tìm thấy bình an đích thật nơi tâm hồn và
đã được Thiên Chúa ban thưởng những đặc ân cao trọng.
Cuộc đời con người, chắc hẳn không có gì
quý giá cho bằng sự bình an. Tuy nhiên muốn có sự bình an ấy thì tốt
nhất là chúng ta hãy đến bên Mẹ, nép mình vào lòng Mẹ và học đòi bắt chước Mẹ
bài học khiêm hạ qua việc ngoan ngoãn vâng nghe lời Chúa dạy, sẵn
sàng thân thưa với Chúa lời “xin vâng” trong mọi hoàn cảnh thuận nghịch…,
tin rằng chúng ta sẽ tìm thấy được sự bình an.
Tin tưởng vào uy thế và lời chuyển cầu của Mẹ
Maria, giờ đây chúng ta hãy cùng nhau xướng lên lời chúc tụng và cầu
xin quen thuộc: “Nữ Vương ban sự bình an-cầu cho chúng con” 3 lần, để
xin ơn bình an của Chúa đến với mỗi người, mỗi gia đình và cho Họ đạo chúng
ta...
Xin Đức Maria là Nữ Vương ban sự bình an luôn che
chở chúng ta trong vòng tay của Mẹ, để đời chúng ta mãi mãi được bình an trong
bàn tay uy quyền của Thiên Chúa.
Suy niệm 4:
Lời Chúa hôm nay đã vẽ nên một bức tranh tuyệt đẹp
về Đức Mẹ Maria, người phụ nữ được Thiên Chúa chọn để làm Mẹ Thiên Chúa. Lời
chào của thiên thần Gabriel đã mang đến cho thiếu nữ Maria một sứ mệnh cao cả,
một vinh dự lớn lao mà không ai ở trần gian này có thể sánh bằng.
"Kính mừng Maria, đầy ơn phúc, Chúa cùng Bà, Bà
được chúc phúc hơn mọi người nữ..." Lời chào này không chỉ là một lời chào đơn thuần,
mà còn là một lời tuyên xưng đặc biệt về sự thánh thiện vẹn toàn của Đức Maria.
Bà là người phụ nữ duy nhất được Thiên Chúa chọn để làm Mẹ Thiên Chúa, là mẫu
gương tuyệt hảo về đức tin và lòng khiêm tốn cho mọi người.
"Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con
trai, và đặt tên là Giê-su..." Lời loan báo này đã làm cho Đức Maria kinh ngạc, nhưng với lòng tín
thác vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, Mẹ đã mau mắn đáp lại bằng
một niềm tin tuyệt đối: "Này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ
làm cho tôi như lời sứ thần nói." Lòng tín thác và vâng phục theo
thánh ý Thiên Chúa của Mẹ Maria đã trở thành mẫu gương cho mọi người chúng ta
noi theo khi phải đối diện với những gian nan thử thách trong cuộc sống.
Với những phẩm chất cao đẹp nơi Đức Maria nên Mẹ
xứng đáng được Giáo hội tôn vinh là Trinh Nữ Vương Thiên Đàng. Xin Mẹ luôn cầu
bầu cho đoàn con Mẹ biết sống khiêm tốn, thánh thiện và vâng phục thánh ý Chúa
trong mọi hoàn cảnh theo gương Mẹ.
Suy niệm 5:
Hôm nay, Hội
Thánh long trọng mừng nhớ Đức Maria Trinh Nữ Vương. Tước hiệu “Nữ Vương” không
nói lên quyền lực trần gian, nhưng diễn tả vinh quang Nước Trời mà Thiên Chúa
đã trao ban cho Mẹ, vì Mẹ đã gắn bó trọn vẹn với Con Mẹ là Vua vũ trụ.
Mẹ là Nữ
Vương khiêm hạ, Nữ Vương của tình yêu, và là Nữ Vương của niềm hy vọng
cho toàn thể nhân loại.
Trong ngày
lễ này, chúng ta cùng hiệp lòng với Đức Thánh Cha Lê-ô XIV, Đấng đã tha thiết
kêu gọi toàn thể Hội Thánh ăn chay và cầu nguyện cho hòa bình thế giới.
Thế giới hôm nay vẫn còn đầy bạo lực, xung đột, chiến tranh và chia rẽ; lời
kinh cùng với hy sinh chay tịnh của chúng ta chính là việc làm thiết thực khẩn xin Thiên Chúa ban bình an cho gia đình
nhân loại.
Xin Đức
Maria, Trinh Nữ Vương ban sự bình an, chuyển cầu cho thế giới được sống trong
công lý và hòa bình, cho Giáo Hội luôn vững bước trong hy vọng, và cho mỗi
người chúng ta trở nên khí cụ kiến tạo hiệp nhất ngay trong môi trường sống của
mình.
Với tâm tình đó, giờ đây chúng ta cùng sốt sắng hiệp dâng Thánh lễ.
Hôm nay, toàn thể Hội Thánh hân
hoan mừng kính Đức Maria với tước hiệu cao quý: Trinh
Nữ Vương. Tước hiệu này được Đức Piô XII long trọng thiết lập
năm 1954, để tuyên xưng Mẹ là Nữ Vương trời đất, vì Con Mẹ là Vua vũ trụ.
1. Mẹ là Nữ Vương khiêm hạ
Vương
quyền của Mẹ không đến từ ngai vàng trần gian, nhưng từ tấm
lòng hoàn toàn vâng phục:
“Xin vâng như lời Sứ Thần truyền.” Chính sự xin vâng ấy đã mở ra kỷ nguyên
cứu độ, để Con Thiên Chúa nhập thể làm người, trở thành Vua Hoà Bình.
2. Mẹ là Nữ Vương hy vọng
Giữa
những biến động của lịch sử, Mẹ luôn hiện diện như dấu
chỉ chắc chắn của niềm cậy trông. Ở Ca-na, Mẹ đã chuyển cầu để
niềm vui cưới xin không tàn lụi. Dưới chân Thập Giá, Mẹ vẫn kiên vững hy vọng,
tin tưởng vào ánh sáng phục sinh dù đang đứng giữa bóng tối khổ đau.
3. Mẹ là Nữ Vương ban sự bình an
Tước
hiệu “Nữ Vương” không khiến Mẹ xa cách chúng ta, nhưng lại càng làm Mẹ gần gũi
hơn: Nữ Vương nhân ái, Nữ Vương các gia đình, Nữ Vương tử đạo Việt Nam, và đặc
biệt là Nữ Vương ban sự bình an cho nhân loại. Thế giới
hôm nay đang bị bao phủ bởi chiến tranh, xung đột, chia rẽ; vì thế, chúng ta
càng tha thiết chạy đến cùng Mẹ để khẩn cầu cho nhân loại được sống trong hòa
bình và yêu thương.
4. Hướng về lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Lêô
XIV
Trong
Năm Thánh Hy Vọng 2025, Đức Thánh Cha Lêô XIV mời gọi toàn thể Hội Thánh ăn chay và cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Hướng
mắt về Mẹ Maria, Nữ Vương ban sự bình an, chúng ta đáp lại lời kêu gọi ấy bằng
việc:
- Sống khiêm hạ: để Chúa là Vua
thực sự trong đời ta.
- Kiên vững hy vọng: ngay cả khi
bóng tối chiến tranh, bạo lực bao phủ thế giới.
- Quảng đại cộng tác: trở thành
khí cụ của Chúa trong việc xây dựng hòa bình, bằng lời cầu nguyện, hy sinh và
hành động hằng ngày.
“Lạy Đức Maria Trinh Nữ Vương, Nữ Vương ban sự bình an,
xin dạy chúng con biết ‘xin vâng’ như Mẹ, để Chúa Kitô là Hoàng Tử Hoà Bình
hiển trị trong tâm hồn chúng con. Xin Mẹ đồng hành với Giáo Hội, với thế giới
đầy bất ổn hôm nay, để qua lời cầu nguyện và chay tịnh, chúng con góp phần kiến
tạo hòa bình bền vững. Xin cho quê hương Việt Nam và toàn nhân loại luôn tìm
thấy nơi Mẹ điểm tựa của niềm hy vọng và suối nguồn bình an. Amen.”
* Mùa thường niên: Mt 22, 34-40
Suy niệm 1:
Xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu ngổn ngang những
luật lệ, khiến dân chúng không còn phân biệt đâu là chính, đâu là phụ.
Ngay cả những người Biệt phái còn cảm thấy rối não huống chi là giới bình dân.
Tận dụng cơ hội ấy để làm bẻ mặt Chúa Giêsu, nhóm Biệt phái đã cử một người
thông luật đến với Chúa Giêsu để hỏi thử xem điều luật nào là quan trọng nhất?
Với câu hỏi ấy, họ không nhằm tìm hiểu chân lý cho bằng nhắm đến hai mục tiêu:
1. Thử xem trình độ am hiểu về thánh kinh luật lệ
của Chúa Giêsu ra sao? Để bắt bẻ và hạ nhục nếu Người không giải thích thỏa
đáng.
2. Nhân dịp này, họ cũng biết được Chúa Giêsu đang
đứng về phe nhóm nào? Bởi lẽ, thời bấy giờ có khá nhiều phe nhóm, mỗi phe nhóm
đề cao một số luật lệ.
Chúa Giêsu dư biết dã tâm của họ. Nhưng vì muốn
xác định lại tính chất tinh tuyền của lề luật nên Chúa Giêsu đã trích dẫn lại
hai câu Thánh kinh, một trong sách Đệ-nhị-luật và một trong sách Lê-vi để trả
lời cho họ: “Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng,
hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Đnl 6, 5). Đó là điều quan trọng thứ
nhất. Điều luật thứ hai cũng quan trọng không kém, đó là: “Ngươi phải
yêu thương người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18). Rồi Người kết
luận: “Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới
răn đó”. Như vậy là đã rõ, điều luật quan trọng nhất mà TC ban cho
nhân loại chính là tình yêu…
- Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn nghĩa là
tình yêu ta dành cho Chúa phải chân thành và luôn trung thành, trước sau như
một, không bao giờ thay lòng đổi dạ, không một cản trở nào làm giảm bớt hay sức
mẻ, dù có phải hy sinh vẫn chấp nhận. Tình yêu ấy phải được hướng
dẫn bởi những tài năng của linh hồn như: lý trí, ý chí và nhất là tự do; chứ
không phải là tình yêu mù quáng.
- Yêu thương người khác như chính mình nghĩa
là phải đối xử với người khác cùng một “tình yêu” như ta đã xử với bản thân
mình. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn mời gọi chúng ta quy hướng đến tình yêu “như
Chúa yêu”. Đó là một tình yêu phổ quát dành cho hết mọi người. Đó là một
tình yêu trao ban nhằm phục vụ nhu cầu chính đáng cho tha nhân: “người
mù được sáng, kẻ què đi được, người điếc nghe được, người câm nói được...”. Và
trên hết đó là một tình yêu hy hiến, sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì tha
nhân với mong muốn tha nhân được hạnh phúc, vui sướng và "được
sống dồi dào".
Lạy Chúa, yêu Chúa thì còn dễ nhưng yêu người khác
như chính mình quả là khó; mà yêu người khác như Chúa yêu thật khó biết bao nếu
không có ơn Chúa giúp. Xin Chúa ban ơn giúp sức và đong đầy sức mạnh tình
yêu của Chúa vào trong tâm hồn chúng con, để mỗi người chúng con can đảm sống
và ứng xử với nhau bằng chính tình yêu như Chúa yêu chúng con. Amen.
Suy niệm 2:
Đoạn Tin Mừng hôm nay đề cập đến 1 trong 4 khía cạnh quan
trọng trong đời sống đức tin, đó là tuân giữ lề luật. Nhưng trong xã
hội Do Thái bấy giờ có quá nhiều luật lệ, vậy đâu là điều luật căn bản và quan
trọng nhất?
Thưa, Chúa Giê-su cho ta biết điều luật quan trọng
nhất đó là: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết
linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng
giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như
chính mình ngươi."
Với câu trả lời ngắn gọn và súc tích của Chúa
Giêsu muốn nói với chúng ta rằng:
- Tình yêu là nền tảng của mọi giới răn. Khi chúng
ta yêu mến Chúa, chúng ta sẽ tự nhiên muốn sống theo ý muốn của Ngài.
- Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với
tha nhân là hai khía cạnh không thể tách rời. Khi chúng ta yêu mến Chúa, thì
chúng ta cũng phải yêu thương mọi người như chính mình hay “như Chúa yêu”.
- Toàn bộ Luật Mô-sê đã được Chúa Giê-su đã tóm
gọn thành một luật duy nhất, đó là luật yêu thương. Luật này bao gồm tất cả các
giới răn khác. Vì thế mà Thánh Phao-lô đã nói: “Yêu thương
là chu toàn Lề Luật.” (Rm 13,10).
+ Nhưng làm sao ta biết được mình yêu
mến Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn?
Thưa là khi ta biết trao trọn con người của mình
cho Chúa, đặt niềm tin hoàn toàn vào Chúa và sống trọn vẹn theo ý muốn của
Ngài.
+ Dấu hiệu nào cho ta biết được mình yêu
thương người khác như chính mình?
Thưa là khi ta biết sống vị tha, luôn biết đặt
mình vào vị trí của người khác để đáp ứng những nhu cầu lợi ích của tha nhân
theo như những ước muốn chính đáng của chính mình.
Xin Chúa cho chúng ta biết sống yêu thương hết mọi
người như Chúa đã yêu thương và hiến mình vì chúng ta.
Thứ bảy: Mt
23, 1-12
Tin Mừng hôm
nay Chúa Giêsu lên án lối sống giả hình của các Kinh sư và Biệt phái. Qua đó
Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm sống thành thật trước Chúa, chân thành với
mọi người và ngay chính với lương tâm.
Tin Mừng
luôn cho biết: Chúa Giêsu rất yêu thương, cảm thông và sẵn sàng tha thứ cho
những tội nhân biết khiêm tốn ăn năn sám hối. Nhưng Chúa Giêsu cũng rất cứng
rắn lên án mạnh mẽ lối sống giả hình và kiêu căng của
những kinh sư và biệt phái.
- Giả hình vì họ không dám sống thật với lòng mình. Họ
nói mà không làm, hay nói một đàng làm một nẻo. Cuộc sống họ không thống nhất
giữa cái “là” và cái “làm”, nên Chúa Giêsu cảnh tỉnh mọi người “những
gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo
hành vi của họ; vì họ nói mà không làm”.
- Kiêu
căng của họ được
bộc lộ ra bởi nhiều hình thức khác nhau:
. Để chứng
tỏ cho mọi người thấy họ là những người có học thức và am tường lề luật nên họ
đã tùy tiện giải thích và đặt ra nhiều luật lệ theo ý riêng của mình, vô tình
luật trở thành gánh nặng cho dân chúng.
. Để chứng
tỏ cho mọi người thấy họ là những người đạo đức nên họ không ngần ngại bao bọc
chung quanh cuộc sống của họ bằng nhiều hình thức đạo đức bên ngoài: “Nới
rộng thẻ kinh, may dài tua áo...”.
. Với mong
muốn được mọi người trọng vọng, họ tự đặt mình vào vị trí cao nhất trong đám
tiệc, cũng như ngồi vào ghế đầu trong hội đường. Nhất là rất thích thú khi được
người ta bái chào ngoài đường phố và hãnh diện khi được thiên hạ gọi là
thầy. Chính vì thế mà Chúa Giêsu không ngần ngại nhắc nhở họ hãy trở về
đúng vị trí của mình và hãy ý thức sống khiêm tốn trước mặt Chúa. Bởi vì chỉ
mình TC mới xứng danh là Thầy và là Cha mọi người.
Chúa Giêsu
đã phán: “Ai nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được
nhấc lên.” Xin Chúa cho chúng ta biết tự hạ, sống khiêm như Giêsu từ ái.
Lòng đơn sơ, chân thành cởi mở, đời hồn nhiên theo gương mẹ Maria sáng trong,
nhờ đó ta mới xứng đáng được Chúa yêu thương chúc lành; cũng như được mọi người
yêu mến.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét