SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XXII THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt
Giang
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN-NĂM C
Hc 3,17-18.20.28-29; Dt 12,18-19.22-24a; Lc 14,1.7-14
Suy niệm 1:
Kẻ kiêu căng tự mãn thì chẳng
được ai yêu thích và Thiên Chúa cũng loại trừ: “Chúa hạ bệ những ai
quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.” (Lc
1,52). Tất cả những gì chúng ta có và chúng ta là đều do Thiên Chúa ban
tặng. Nên thái độ thích hợp và đúng đắn nhất là khiêm tốn và biết ơn.
Xin cho chúng ta biết chạy
đến với Đức Giêsu, Đấng đã tự hạ và đã hủy mình ra không cho dẫu Người là
Thiên Chúa quyền năng. Người vẫn luôn hạ mình và đã mời gọi chúng ta: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm
nhường trong lòng”.
Để xứng hợp hiệp dâng thánh
lễ, giờ đây mỗi người trong chúng ta hãy khiêm tốn giục
lòng ăn năn thống hối, xin ơn tha thứ của Thiên Chúa .
Gần đây trong khu vực
nông thôn rộ lên phong trào tổ chức đám tiệc. Ngoài tiệc cưới, đám tang, giỗ
chạp… người ta còn bày ra nhiều lý do khác để ăn mừng như: thôi nôi, đầy tháng,
sinh nhật, thi đậu, xe mới, nhà mới…nói chung người ta tìm đủ mọi lý do để tổ
chức tiệc. Thì ra người ta thích tổ chức tiệc tùng là nhắm đến lợi nhuận
trong thời buổi kinh tế khó khăn. Vì thế, những thực khách được nhắm đến thường
là những người giàu có, lắm tiền, nhiều của. Còn những người thiếu thốn, nghèo
khó thì ít khi được mời dự tiệc. Đó cũng chính là mưu tính của vị thủ lãnh người biệt phái mà Chúa
đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay.
Để lên án đầu óc tính
toán vụ lợi, Chúa Giêsu đề nghị ông ta loại bỏ tính ích kỷ và lòng tham lam
tiền của mà quan tâm đến những người nghèo khổ. Chúa đề nghị ông ta khi dọn
tiệc nên “mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù…”.
Làm được như vậy, ông sẽ được người nghèo biết ơn ở đời này, nhất là được Chúa
ban thưởng công phúc ở đời sau nhờ vào sự đền ơn của những người công chính khi
sống lại.
Để cụ thể hóa lời dạy
trên của Chúa Giêsu, đức cố giáo hoàng Phanxicô đã thiết lập “ngày thế
giới người nghèo” vào Chúa nhật 33 thường niên hàng năm. Với mục đích
để các cộng đoàn Kitô hữu “trở nên dấu chỉ cụ thể, rõ ràng cho tình yêu thương
của Chúa Kitô đối với những người rốt cùng và túng thiếu nhất”.
Xin cho chúng ta biết
đáp lại lời mời gọi của Chúa và GH mà thể hiện lòng yêu thương người nghèo
bằng những việc làm thiết thực như: lập “quỹ bác ái” tại các Họ đạo; học hỏi
“sứ điệp ngày thế giới người nghèo”; dành một ngày Chúa nhật dâng thánh lễ cầu
nguyện cách đặc biệt cho người nghèo; đi đến với người nghèo trong các khu xóm;
chầu Thánh Thể và suy niệm về Kinh Lạy Cha để thấm nhuần tinh thần đón nhận và
chia sẻ. Đó chính là phương thế để ta đạt đến sự trọn lành và xứng danh là môn
đệ Chúa Giêsu.
Suy niệm 2:
Vào mỗi dịp
hè các đài truyền hình Việt Nam thường hay chiếu lại bộ phim Tây Du
Ký. Bộ phim khá hấp dẫn, lôi cuốn mọi người.
Hấp dẫn về
hình thức đầy những cảnh sắc kỳ lạ huyền ảo, với bao nhiêu lâu đài hào nhoáng
rực rỡ, và những cử điệu nhảy múa, nhào lộn, bay biến, đánh nhau, biến hóa xuất
quỷ nhập thần. Lôi cuốn vì nhạc nền của phim rất hay đến nỗi những em nhỏ
5, 6 tuổi nghe là biết đó phim Tây Du Ký ngay. Nhưng có lẽ bộ phim
này có giá trị sâu sắc nhất chính là bài học về sự đối lập
giữa thiện và ác, giữa kiêu căng và khiêm hạ.
Trong cuộc
sống hạng người kiêu căng tự mãn hay tôn mình lên làm Tề Thiên Đại
Thánh ngang hàng với Trời, cao cả như thánh nhân, tự hào là Đại
vương khá nhiều. Còn những người tự hạ mình xuống thì ít
lắm. Chỉ thấy có Đường Tăng. Ông luôn luôn xưng mình là bần tăng, vô tài, bất
lực trước mọi thử thách nguy hiểm, ông chỉ biết thương người, cầu kinh, khấn
Phật, cầu kẻ này, nhờ người kia, nhờ cả đến con khỉ Ngộ Không dẫn đường chỉ
lối, cứu giúp, giải vây. Nhưng chính nhờ ông biết tự hạ như vậy mà
ai ai cũng kính trọng thương mến, kính phục và tôn kính
ông. Chính nhờ hạ mình xuống mà ông tránh được nhiều hiểm họa tranh
chấp, oán thù. Chính nhờ hạ mình xuống mà ông đã lãnh được bộ Kinh dạy ông
thành Thánh, thành Phật.
May cho Ngộ
Không, Sa Tăng, Trư bát Giới, đã biết từ bỏ tật kiêu ngạo để hạ mình xuống kịp
thời theo Đường Tăng, nên không bị hóa kiếp thành quái vật.
Trước Đường
Tăng 700 năm, Đức Giêsu đã thực hiện hạ mình xuống: “Từ ngôi
vị Thiên Chúa cao cả, Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng
lời cho đến chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn
Người …cả trên trời, dưới đất và trong âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và mở
miệng ra tuyên xưng rằng “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Phil. 2, 6-11).
Hôm nay,
Người nói cho mọi người thấy rõ chân lý ấy: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ
xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Thánh Kinh
cũng chứng tỏ chân lý ấy các rõ ràng: Satan được vào hàng ngũ các Thiên
thần thiêng liêng sáng láng hưởng tôn nhan Thiên Chúa, thế mà dám đòi bằng
Thiên Chúa nên bị giáng xuống làm tướng dưới đáy hỏa ngục. Nó đã cám dỗ Adam
Evà theo nó bất phục tùng Thiên Chúa. Adam Evà lại bị đuổi khỏi vườn địa đàng
vinh phúc, đi làm chủ bùn đất, cho biết thân phận bùn đất hèn hạ của mình, đau
thương và khóc lóc phải trở về bùn đất.
Con cháu lại
rủ nhau xây tháp Babel chọc trời, trời đã phạt phải phân tán khắp mặt đất, lưu
lạc, chia rẽ nhau và hóa ra những kẻ thù luôn luôn xâm chiếm chém giết nhau.
Thiên Chúa
vẫn yêu thương chọn một số những kẻ làm dân riêng, lập nước riêng, xây thủ đô
Giêrusalem riêng. Nhưng Giêrusalem muốn mình lên tận trời, thì lại bị hạ xuống
vực thẳm điêu tàn, không có hòn đá nào trên hòn đá nào.
Sống với con
thành Giêrusalem, Đức Giêsu đã khóc thương họ, họ đã giành giựt nhau chỗ ngồi
trong cỗ bàn, nơi tiệc cưới. Họ đã nhảy lên chỗ nhất, nhưng họ không biết xấu
hổ khi bị mời xuống chỗ cuối.
Trên thế
gian này, còn bao nhiêu bọn tôn mình lên như Hitler, Stalin, Polpot đều bị loài
người lên án là bọn sát nhân ghê tởm.
Chỉ những
người như Giuse tổ phụ, sẵn sàng hy sinh chịu trói vứt xuống giếng, bị bán làm
nô lệ, bị tù tội oan uổng, mới được tôn lên làm Thủ tướng của một nước Ai cập
văn minh nhất thời đó, và đã cứu được bao nhiêu dân tộc khỏi chết đói.
Chỉ những vị
Vua như Đavid, biết nhận mình là đứa chăn chiên yếu đuối, chỉ trông cậy vào sức
mạnh của Thiên Chúa, nên với hòn đá nhỏ bé đã ném vỡ sọ tên hổ tướng Gôliat.
Chỉ có bác
thợ mộc âm thầm khiêm tốn như Giuse mới được tôn lên làm cha nuôi Đấng Cứu thế.
Chỉ có những
thiếu nữ nhận mình là nô tỳ như Maria, mới được Thiên Chúa tôn vinh làm mẹ
Thiên Chúa.
Trong thời đại
chúng ta phải nhắc đến một bà già sống tới 87 tuổi, qua đời 05/09/1997, chẳng
có chức vị gì trong xã hội, thế mà được nhiều giải thưởng cao quý nhất thế
giới, như giải Nobel Hòa Bình. Bà còn được các Tổng thống, Chủ tịch lớn nhất
thế giới mời bà đến viếng thăm đất nước, như Tổng bí thư Gopbachop Liên Xô,
tổng thống Mỹ Regan, Trung Quốc, Ấn Độ … Đó là mẹ Têrêxa Calcutta: Một nữ tu đã
hạ mình xuống hầu hạ những người cùng khổ, bệnh tật, nằm nửa sống nửa chết ở hè
phố.
Gia đình
chúng ta chỉ được an vui, hòa thuận, khi ông bà, bố mẹ, con cái biết hạ mình
xuống, lắng nghe nhau, bảo nhau, nhịn nhau. Hàng xóm chỉ được yên ổn, vui vẻ,
tay bắt mặt mừng, khi biết khiêm tốn, tử tế, giúp đỡ nhau.
Mỗi người
chúng ta chỉ được thanh thản, an vui khi biết hạ mình xuống hết lòng mến Chúa
và thương yêu phục vụ mọi người, như Đức Giêsu đã nói với chủ nhà rằng: “Khi
ông đãi tiệc hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không
có gì trả ơn, như thế ông mới thật có phúc, vì ông sẽ được Thiên Chúa trả công
trong ngày kẻ lành sống lại”.
Lạy Chúa
Giêsu, xin biến đổi lòng chúng con nên khiêm nhường để xứng đáng được
Chúa nâng cao. Amen (St)
Suy niệm 3:
Một câu chuyện ngụ ngôn kể
rằng : trên con đường nhỏ hẹp sát bên sườn núi, một bên là vách núi cao cheo
leo, bên kia lại là vực sâu thăm thẳm, có hai con dê núi đi ngược chiều nhau.
Vì con đường quá nhỏ hẹp, chỉ đủ cho một con đi qua, nên hai con dê đứng đối
đầu nhau không biết làm gì để tiếp tục đi. Nếu chen lấn, chúng chắc sẽ bị rơi
xuống vực thẳm bên cạnh tan xương nát thịt. Sau cùng chúng đã nghĩ ra một cách
hoàn hảo : một con dê đã chịu qùy mọp xuống đất để con kia bước qua thân mình.
Thế là sau đó cả hai lại có thể tiếp tục đi theo con đường của mình.
Hình ảnh trên ngược lại với hình ảnh những“khách dự tiệc" mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay, vì ai ai cũng đều "cứ chọn cỗ
nhất mà ngồi”.
Thực ra phấn đấu để có được chỗ ngồi danh dự trong xã hội không phải là một
cái gì tội lỗi, đáng sợ hay xấu xa, nếu mình được tập thể tín nhiệm trao phó cho trọng trách
để phục vụ công ích mọi người. Nhưng hãy nhớ lời sách Huấn Ca nhắc
nhở: “Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế con sẽ được đẹp lòng
Chúa.”(Hc 3,18)
Trong đời sống đức tin, những người khiêm tốn
luôn biết mình chỉ là dụng cụ Chúa dùng để phục vụ lợi ích
và phần rỗi cho tha nhân. Giống như những chiếc ghế
dùng để ngồi. Thiên Chúa muốn đặt chúng ta ở đâu cũng không sao. Ai
ngồi lên cũng không thành vấn đề. Và nếu không còn được dùng nữa,
chiếc ghế vẫn vui vẻ sẵn sàng nằm trong kho hoặc trở thành những
thanh củi để phục vụ cho đời một chút ánh lửa, một cục
than hồng hay một nắm tro tàn.
Nhưng điều quan trọng là làm sao ta nhận biết mình
là người khiêm tốn hay kiêu ngạo. Những nhà chuyên môn đưa ra một vài dấu dấu
hiệu giúp ta tự vấn chính mình:
Người khiêm tốn thì luôn yêu thương kính trọng tha nhân, họ không làm
việc cho lợi ích cá nhân mà vì lợi ích tập thể.
Người khiêm tốn thì ý thức giới hạn của bản thân nên sẵn sàng nhận trách nhiệm về mình mỗi khi công việc thất bại,
còn nếu thành công thì biết quy về tập thể.
Người khiêm tốn âm thầm làm việc mà không cần
người khác khen ngợi, vì họ biết đó là bổn phận và trách nhiệm của họ.
Người khiêm tốn thì luôn bình tĩnh nghe sự góp ý
của người khác về khuyết điểm của mình và sẵn sàng sửa đổi.
Người khiêm tốn không thích nói về mình, không đề
cao bản thân, bởi họ biết rằng những gì họ đạt được đều do ơn Chúa ban và nhờ sự trợ giúp của mọi người.
Người khiêm tốn nỗ lực trong
mọi việc đã lãnh nhận, cố gắng với tất cả khả năng và phó thác thành công và thất bại trong bàn tay Chúa.
Người khiêm tốn thì luôn cư xử nhẹ nhàng, hòa nhã và
tinh tế với mọi người, biết đặt lợi ích và quyền lợi của người khác trên bản
thân mình.
Người khiêm tốn thì can đảm nhận biết giới hạn của mình và chỉ thực
hiện những gì trong tầm tay và khả năng cho phép. Họ không đứng chỉ tay năm ngón nhưng sẵn sàng cúi xuống, vén tay áo lên để cùng làm việc với mọi người.
Người khiêm tốn thì ý thức chức vụ và quyền hành của mình là để
phục vụ, vì thế họ sẵn sàng rút lui khi sức khỏe và khả năng giảm sút, không còn
đủ để phục vụ mọi người.
Người khiêm tốn là người biết nhận định chính xác
về bản thân mình trong mọi sự.
Bài học khiêm tốn tuy đơn giản nhưng không phải dễ
dàng học và thực hiện trong đời sống. Con công đẹp ở bộ lông, con chồn quí ở bộ
da. Nhưng chúng chết hoặc bị săn lùng cũng chỉ vì những thứ mà chúng khoác trên
mình!
Xin cho chúng ta hôm nay thấm nhuần được bài học khiêm nhường của Chúa, “Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Người đã chọn chỗ rốt hết trong thân phận làm người, nghèo hèn trong cuộc sống, đơn giản trong cách ăn nết ở, hòa nhã và thân thiện với hết mọi người. Cuối cùng, Người đã chấp nhận hủy mình ra như không trong cái chết. Người đã chọn chỗ rốt hết trong bữa tiệc nhân sinh. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người. Vì thế Người trở nên mẫu gương cho người Kitô hữu chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết luôn tự hạ, sống khiêm nhu như Giêsu từ ái, lòng đơn sơ, chân thành cởi mở, đời hồn nhiên như hoa nở sáng trong. Amen.
Suy niệm 4: AI
HẠ MÌNH SẼ ĐƯỢC NÂNG LÊN
Ai trong chúng ta cũng khao khát được yêu thương, được tôn trọng và được nhìn nhận.
Thế nhưng, Chúa Giêsu hôm nay lại dạy chúng ta một con đường khác hẳn: “Ai
nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên”
(Lc 14,11). Đó là con đường khiêm nhường, con đường đưa ta đến hạnh phúc thật
trong Nước Trời.
1. Bài đọc I: Khiêm nhường, nét đẹp của người khôn ngoan
Sách
Huấn Ca nhắn nhủ: “Con hãy hạ mình thì con sẽ được đẹp lòng Chúa.” Người
càng có địa vị, càng có trách nhiệm thì lại càng cần sống hiền hòa và khiêm nhường.
Kiêu căng dẫn đến sa ngã, còn khiêm nhường đưa tới ơn Chúa và sự khôn ngoan
đích thực. Thực vậy, Thiên Chúa là Đấng cao cả nhưng Người lại cúi xuống rửa chân cho kẻ bé
mọn. Ai sống khiêm nhường thì sẽ được Chúa chúc phúc.
2. Bài đọc II: Khiêm nhường đưa ta đến Nước Trời
Thư
Do-thái cho thấy: chúng ta không còn đứng trước ngọn núi lửa bừng cháy, gió bão và
sấm sét như dân Israel xưa, nhưng được mời gọi tiến lên Núi Sion, núi thánh Giêrusalem
trên trời, là thành trì của Thiên Chúa hằng sống. Ở đó có muôn vàn thiên thần,
cộng đoàn các thánh, nhất là Đức Giêsu, Đấng trung gian của Giao ước mới. Và chỉ có những ai biết mở lòng đón nhận Chúa, với tâm hồn khiêm nhường, mới được diễm phúc
bước vào thành thánh ấy.
3. Tin Mừng: Khiêm nhường và sống bác ái
Trong
bữa tiệc tại nhà một người biệt phái, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh rất cụ thể để
dạy chúng ta hai điều quan trọng:
- Khiêm tốn: Đừng tìm chỗ nhất, nhưng
hãy chọn chỗ rốt hết, vì “ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên.”
- Bác ái: Đừng chỉ mời những người có thể trả lễ,
nhưng hãy mời những người nghèo khó, què quặt, đui mù. Nghĩa là hãy sống tình
yêu vô vị lợi, quảng đại cho đi mà không mong đáp trả.
Qua
đó, Chúa Giêsu cho thấy: Nước Trời chính là một bữa tiệc, và chỉ những ai khiêm
nhường và bác ái mới được mời vào tham dự.
Ông
bà và anh chị em thân mến,
-
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường dễ rơi vào cám dỗ tìm danh vọng, tìm
chỗ đứng, tìm tiếng khen. Nhưng lời Chúa hôm nay mời chúng ta sống ngược lại: chọn phần rốt hết, biết
phục vụ trong âm thầm, không phô trương, không đòi đáp trả.
-
Khiêm nhường không phải là tự ti, nhưng là nhìn nhận đúng sự thật: tất cả tài
năng, địa vị, của cải đều là hồng ân Thiên Chúa ban. Ai biết khiêm nhường thì sẽ dễ
dàng mở lòng ra với người nghèo khổ và sống tình bác ái thật sự mọi người.
-
Đời sống gia đình, cộng đoàn, họ đạo sẽ hạnh phúc và bình an nếu mỗi người biết
khiêm tốn, nhường nhịn nhau, biết phục vụ nhau như Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho
các môn đệ.
Chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã chọn con đường hạ mình: sinh ra trong máng cỏ, sống nghèo hèn, vâng phục cho đến chết trên thập giá. Chính vì vậy, Thiên Chúa đã tôn vinh Người trên hết mọi sự. Xin cho chúng ta biết học lấy mẫu gương khiêm nhường của Chúa Giêsu để rồi mai sau ta cũng được Thiên Chúa nâng lên trong bàn tiệc vĩnh cửu trong Nước Trời.
Suy niệm 5: AI
HẠ MÌNH SẼ ĐƯỢC NÂNG LÊN
Người
ta kể rằng: Có một người khách đến dự tiệc cưới. Vừa bước vào, ông liền chọn
ngay bàn đầu, chỗ sang trọng nhất. Ít lâu sau, chủ tiệc đến nói: “Xin lỗi ông,
chỗ này dành cho khách quý khác, xin mời ông xuống bàn dưới.” Ông khách ấy bẽ
bàng, xấu hổ trước ánh mắt khó chịu của mọi người.
Ngược lại, có người khác bước vào, chọn một chỗ khiêm tốn ở cuối bàn. Chủ tiệc
thấy vậy, liền niềm nở mời lên chỗ danh dự. Người ấy hãnh diện và được mọi
người tôn trọng.
Câu
chuyện này diễn tả sứ điệp Tin Mừng hôm nay: “Ai nhắc mình
lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên.”
1. Khiêm nhường – nét đẹp của người khôn ngoan
Sách
Huấn Ca nhắc nhở: “Càng làm lớn, con càng phải hạ mình.”
Đời thường, người ta vẫn nghĩ càng có địa vị, quyền lực thì càng đáng được tôn
vinh. Nhưng Lời Chúa dạy ngược lại: giá trị thật của con người không ở chỗ hào
nhoáng bên ngoài, mà ở tấm lòng khiêm tốn bên trong. Người kiêu ngạo thì sớm
muộn cũng sụp đổ; còn người khiêm nhường thì được Thiên Chúa thương mến và được
người đời quý trọng.
2. Khiêm nhường – con đường dẫn đến Chúa Giêsu
Trong
thư gửi tín hữu Do-thái, Thánh Phaolô cho biết: chúng ta không còn đứng trước
ngọn núi bốc lửa đáng sợ, nhưng được tiến vào Giêrusalem thiên quốc, nơi có
Thiên Chúa và muôn vàn thiên thần.
Thế nhưng, ai mới được vinh dự bước vào Núi Thánh ấy? Không phải kẻ kiêu căng,
nhưng là những tâm hồn nhỏ bé, hiền lành, biết cậy dựa vào Chúa. Khiêm nhường
chính là cánh cửa mở ra để chúng ta đến gần Đức Giêsu, Đấng trung gian của Giao
Ước mới.
3. Khiêm nhường và bác ái – cánh cửa vào Nước
Trời
Trong
bữa tiệc tại nhà một thủ lãnh Biệt phái, Chúa Giêsu dạy hai điều:
- Hãy chọn chỗ rốt hết. Người khiêm nhường không bon
chen tìm chỗ cao, nhưng âm thầm phục vụ. Chính Thiên Chúa sẽ nâng họ lên.
- Hãy sống bác ái vô vị lợi. Đừng chỉ mời bạn bè hay
những người có thể trả lễ, nhưng hãy mời người nghèo, tàn tật, đui mù – những
người chẳng có gì đáp trả. Tình bác ái vô vị lợi mới được Chúa ban thưởng trong
ngày sau hết.
Nước Trời là bàn tiệc tình yêu. Chỉ những tâm
hồn khiêm nhường và bác ái mới có chỗ ngồi trong bàn tiệc ấy.
Thưa ông bà anh chị em,
- Trong xã hội hôm nay, nhiều người mải tìm
địa vị, tiếng khen và chỗ đứng cho mình. Nhưng Chúa mời chúng ta dám đi ngược
dòng: chọn chỗ cuối, sống khiêm nhường và phục vụ âm thầm.
- Trong gia đình, khiêm nhường là biết nhường
nhịn, lắng nghe và tha thứ cho nhau.
- Trong họ đạo, khiêm nhường là sẵn sàng cộng
tác và phục vụ vì ích chung, không phô trương, không tìm công trạng.
- Khiêm nhường luôn đi đôi với bác ái: biết
cho đi mà không tính toán, chia sẻ mà không mong đáp trả.
Đức Giêsu là mẫu gương tuyệt hảo của sự khiêm
nhường: “Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy
thân phận tôi đòi, và vâng phục cho đến chết, chết trên thập giá”
(Pl 2,6-8). Vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài trên hết mọi sự.
Xin cho mỗi người chúng ta biết học nơi Chúa Giêsu bài học khiêm nhường và bác ái, để được Thiên Chúa nâng lên và cho hưởng niềm vui trong bàn tiệc Nước Trời muôn đời.
Suy niệm 6:
Lời Chúa hôm nay chỉ cho chúng ta
một bí quyết: “Ai nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được
nhắc lên.”
1. Bài đọc I: Sách Huấn Ca dạy: “Càng làm
lớn, con càng phải hạ mình.”
- Người kiêu ngạo thường tự cho
mình giỏi giang, hơn người, và tìm cách tỏ ra nổi bật. Nhưng Lời Chúa khẳng định:
“Tai hoạ dành cho kẻ kiêu căng thì vô
phương cứu chữa.”
- Ngược lại, người khiêm nhường luôn ý thức: tất cả đều là
ơn ban của Chúa. Chính thái độ đó khiến họ được Thiên Chúa yêu thương và được mọi
người quý trọng.
- Khiêm nhường không làm chúng ta
nhỏ đi, nhưng làm cho chúng ta trở nên khôn ngoan và đẹp lòng Chúa.
2. Bài đọc II: Thánh Phaolô cho biết, chúng ta không tiến đến một ngọn
núi với lửa cháy, sấm sét đáng sợ, nhưng tiến về Núi Sion là Giêrusalem trên trời,
nơi Thiên Chúa ngự trị cùng với muôn vàn thiên thần và các thánh.
Nhưng ai sẽ được bước vào thành
thánh đó? Thưa, không phải là người tự phụ, kiêu căng, nhưng là những tâm hồn
bé nhỏ, hiền lành, biết cậy dựa vào Chúa. Bởi lẽ khiêm nhường chính là chiếc
chìa khóa mở cửa Nước Trời.
3. Tin Mừng: Thánh Luca trình thuật lại bữa tiệc tại nhà một vị thủ
lãnh Biệt phái, nơi ấy ai cũng muốn chiếm chỗ vinh dựi. Thấy thế, Chúa Giêsu mở
miệng dạy họ hai điều rất thực tế:
- Đừng tranh giành địa vị để được người ta chú ý. Người
khiêm nhường không cần tìm cách “tỏa sáng”, vì chính Thiên Chúa sẽ nâng họ lên.
Trong cuộc sống nhiều khi chúng
ta cũng bị cám dỗ “ngồi chỗ nhất”: thích được khen, thích được nổi bật, thích
ai cũng biết đến mình. Nhưng Chúa bảo: hãy chọn phần rốt hết và âm thầm phục
vụ.
- Hãy sống tình bác ái vô vị lợi.
Chúa Giêsu bảo: khi đải tiệc đừng
chỉ mời bạn bè giàu có, những người có thể trả lễ, mà hãy mời những người
nghèo, què quặt, đui mù, những người không thể đáp trả. Nghĩa là: tình yêu phải
vô vị lợi, cho đi mà không chờ được đền đáp. Chính sự quảng đại ấy sẽ được Thiên
Chúa trả công trong ngày sau hết.
Anh chị em thân mến,
Khiêm nhường không phải là tự ti
hay hèn yếu, nhưng là biết nhìn nhận đúng sự thật: mọi tài năng, của cải, thành
công đều do Chúa ban.
- Trong gia đình, khiêm nhường là
biết vâng nghe cha mẹ, nhường nhịn với anh chị em; không coi mình là trung tâm.
- Trong cộng đoàn, khiêm nhường
là dám lắng nghe, cộng tác, phục vụ âm thầm, không cần phô trương vì tiếng
khen.
- Với người chung quanh, khiêm
nhường là quảng đại mở ra lòng thực thi bác ái: biết quan tâm, giúp đỡ, chia sẻ
những gì mình có, nhất là với những người nghèo, yếu thế, không có khả năng đáp
trả.
Đức Giêsu không dạy suông mà Ngài
đã nêu gương cho chúng ta: “Ngài vốn dĩ
là Thiên Chúa nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận tôi đòi,
và vâng phục cho đến chết, chết trên thập giá” (Pl 2,6-8). Chính vì
thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài trên hết mọi sự.
Xin cho chúng ta, nhất là các bạn
trẻ, biết chọn con đường khiêm nhường và quảng đại yêu thương, để được Chúa
nâng lên và cho hưởng niềm vui trong bàn tiệc Nước Trời.
Suy niệm 7: (cho giới trẻ)
Anh chị em thân mến,
Trước
khi đi vào nội dung Lời Chúa hôm nay, tôi xin mời anh chị em cùng nhau suy nghĩ
với 3 câu hỏi nho nhỏ sau đây:
-
Nếu trong một bữa tiệc, có một bàn VIP đặt ngay trung tâm với ánh đèn rực rỡ,
và một bàn ở góc khuất chẳng ai để ý, ta sẽ chọn bàn nào để ngồi?
-
Trên mạng xã hội, ai cũng thích được nhiều “like” và “share”. Nhưng nếu một
ngày nào đó chẳng ai để ý đến mình, chúng ta có buồn không?
-
Trong nhóm bạn bè, ta có muốn mình luôn là “nhân vật chính”, hay dám lùi lại
một bước để nhường chỗ cho người khác tỏa sáng?
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đặt cho
chúng ta câu hỏi tương tự, khi Ngài khẳng định: “Ai
nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên.”
Từ đó, Chúa mời gọi ta đừng mải mê đi tìm kiếm chỗ nhất để được nổi danh thiên
hạ, nhưng hãy sống khiêm nhường và biết mở lòng ra với những người bé nhỏ,
nghèo hèn. Chỉ như thế, ta mới xứng đáng được Thiên Chúa nâng lên cao và đưa
vào trong tham dự bàn tiệc Nước Trời.
1. TÂM LÝ MUỐN ĐƯỢC CÔNG NHẬN
Biết
thế, nhưng thực tế cho thấy, ai trong chúng ta cũng khao khát được người khác
tôn trọng, ghi nhận, ngưỡng mộ. Điều ấy tự nhiên thôi. Nó chỉ nguy hiểm là khi
ta biến sự công nhận ấy thành mục tiêu duy nhất của đời mình. Ví dụ:
- Có người đi học chỉ chăm chăm kiếm thành
tích để được khen, chứ không thật sự học để trưởng thành.
- Có người sống trên mạng xã hội chỉ để
“khoe”, mong nhiều “like”, nhưng lại không sống thật với chính mình.
- Có người trong nhóm bạn bè luôn muốn mình là
trung tâm, nên dễ tự ái khi không được chú ý.
Thái độ ấy chẳng khác gì những thực khách
trong bữa tiệc mà Tin Mừng hôm nay nói đến: Họ chen nhau chọn chỗ nhất để được
tôn vinh. Nhưng Chúa Giêsu bảo: đó không phải con đường dẫn đến hạnh phúc thật.
2. KHIÊM NHƯỜNG VÀ QUẢNG ĐẠI
Vì
thế, Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta hai lời khuyên quan trọng sau đây:
- Sống khiêm nhường: “Đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người đáng trọng hơn anh, chủ tiệc mời
anh xuống.” Khiêm nhường không có nghĩa là tự ti hay hạ thấp bản thân,
nhưng là biết mình là ai, sống đúng sự thật về mình, và để Chúa là Đấng nâng ta
lên đúng mức và đúng lúc.
- Sống bác ái: “Khi
đãi tiệc, đừng chỉ mời bạn bè, anh em hay những người giàu có, nhưng hãy mời
những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù.” Người khiêm nhường là
không đóng kín trong ích kỷ, nhưng biết mở lòng ra để chia sẻ, sống bác ái và
liên đới với mọi người. Chỉ như thế, chúng ta mới đáng được hưởng phần thưởng
vĩnh cửu do Chúa dành sẵn cho mình.
Sống khiêm nhường và bác ái không dễ nhưng
cũng không phải là chuyện xa vời. Nếu ta biết bắt đầu từ những điều nho nhỏ như:
- Trong công việc nhóm, ta hãy sẵn sàng nhường
“công đầu” cho người khác.
- Khi đăng một status hay tấm hình, ta hãy tự
hỏi: tôi đăng để khoe mình, hay để mang lại giá trị và niềm vui cho người khác?
- Khi gặp một người yếu thế, ta hãy dừng lại giúp
đỡ họ, thay vì vội vàng bước qua.
Làm như thế, có thể ta không “nổi bật” theo
kiểu thế gian, nhưng chắc chắn ta sẽ “nổi bật” trong mắt Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến, bản năng con người luôn
thúc đẩy ta đi tìm “chỗ nhất”. Nhưng Tin Mừng hôm nay mời gọi ta hãy can đảm chọn
“chỗ cuối” trong khiêm nhường, và mở lòng ra với những người bé nhỏ, nghèo hèn.
Xin Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn đơn sơ,
khiêm nhường và quảng đại, để rồi chính Chúa sẽ nâng ta lên, không phải chỉ
trong bữa tiệc trần gian chóng qua, mà
là bữa tiệc vĩnh cửu trong Nước Trời vinh quang.
Suy
niệm 8:
Một buổi lễ khai giảng năm học mới, trong hội
trường, hàng ghế đầu được dành cho các vị lãnh đạo và thầy cô. Một số sinh viên
vội vàng chen lên ngồi trước, nhưng khi thầy cô đến, các em phải nhường chỗ và
lúng túng bước xuống phía sau, xấu hổ vì sự hấp tấp của mình.
Trái lại, có em lặng lẽ ngồi cuối hội trường,
nhưng chính thầy hiệu trưởng lại bước đến, mỉm cười mời em lên hàng ghế danh
dự, vì nhận ra em là sinh viên giỏi và khiêm tốn.
Câu
chuyện trên gợi ta nghĩ đến lời Chúa Giêsu dạy hôm nay: “Ai nâng mình lên sẽ
bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.” Để diễn tả chân lý ấy,
Chúa dùng hai hình ảnh quen thuộc: chỗ
ngồi trong bàn tiệc và cách thức
mời khách đến dự tiệc.
1.
Cách chọn chỗ ngồi
Khi
nói đến cách thức chọn chỗ ngồi:
-
Chúa Giêsu không chỉ dừng ở quy tắc lịch sự xã giao, nhưng Ngài còn dạy chúng
ta thái độ căn bản của người Kitô hữu: sống
khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa và tha nhân.
-
Khiêm nhường không phải là tự ti hay giả vờ hạ mình, nhưng là nhận biết thân
phận thụ tạo của mình và xác tín rằng mọi sự ta có ta là đều bởi do ơn ban
nhưng không của Chúa.
-
Vì thế nếu ai biết chọn “chỗ chót” trong đời sống, Chúa sẽ đích thân nâng họ
lên đúng lúc, theo thánh ý Người.
2. Cách mời khách dự tiệc
Khi đề cập đến cách thức chọn lựa mời khách dự
tiệc
- Chúa Giêsu muốn mời gọi chúng ta hãy
mở rộng bàn tiệc đời mình cho người nghèo, kẻ tàn tật, những ai không thể đáp
lễ.
- Vì bác ái đích thực thì không tính
toán thiệt hơn, không vụ lợi, nhưng là chia
sẻ tình thương cách nhưng không như chính Thiên Chúa đã yêu thương nhân
loại chúng ta.
- Qua đó Chúa muốn nhắc nhở chúng ta
sống tình bác ái cụ thể trong gia đình, khu xóm, học đường và ngoài xã hội hôm
nay.
3. Niềm hy vọng nơi Nước Trời
Anh chị em thân mến,
- Sống khiêm
nhường và bác ái chưa bao giờ
dễ dàng,
nhưng chắc chắn đó là
con đường dẫn đến hạnh phúc đời đời.
- Vì chính Chúa Giêsu đã quả quyết: “Ông
sẽ được trả lại trong ngày các kẻ lành sống lại.”
- Trong Năm Thánh Hy Vọng này, sứ
điệp lời Chúa hôm nay nhắc ta rằng: hy vọng của người Kitô hữu không hệ tại
giàu sang hay địa vị, nhưng đặt trọn nơi phần thưởng vĩnh cửu mà Thiên Chúa
dành cho những ai biết sống yêu thương và khiêm hạ.
Noi
gương Chúa Giêsu, Đấng đã tự hạ cho đến chết và trên thập giá vì thế Ngài đã
được Chúa Cha siêu tôn vượt trên các tầng trời. Nên ta:
-
Hãy khiêm tốn chọn “chỗ chót” bằng đời sống khiêm nhường, không tranh giành hơn
thua.
-
Hãy quảng đại giúp đỡ những người nghèo khổ, bé mọn, bằng một tấm lòng bác ái
vô vị lợi.
Sống như thế, chúng ta không chỉ xây dựng một cộng
đoàn chan hòa tình yêu, mà còn trở nên chứng
nhân đích thực của niềm hy vọng nơi Chúa lòng giữa thế giới hôm nay.
Thứ hai: Kn 13,1-9; Cl 1,15-20; Mt 6,24-34
Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Sự Chăm Sóc Thiên
Nhiên
Hôm nay, cùng với GH chúng ta dâng Thánh lễ
để cầu xin cho việc bảo vệ công trình tạo dựng của Thiên Chúa, nhân
dịp kỷ niệm 10 năm Thông điệp Laudato Si’ (2015–2025) của Đức
Thánh Cha Phanxicô. Đây là một thông điệp rất quan trọng, nhắc nhở nhân loại
rằng: trái đất là “ngôi nhà chung” mà Thiên Chúa đã dựng nên cho con người, và
chúng ta có trách nhiệm chăm sóc, gìn giữ để trao lại cho các thế hệ tương lai.
1. Công trình tạo dựng mặc khải về Thiên Chúa
Lời Chúa trong sách Khôn Ngoan hôm nay mời gọi
chúng ta chiêm ngắm thiên nhiên với đôi mắt đức tin. Tác giả cho thấy: vũ trụ,
núi sông, trời đất, mặt trời, mặt trăng… không chỉ đẹp lộng lẫy, mà còn là “dấu
chỉ” đưa ta về với Đấng Sáng Tạo. Ai ngắm nhìn mà không nhận ra bàn tay Thiên
Chúa thì thật là thiển cận.
Thế nhưng, thực tế, con người ngày nay nhiều khi
dừng lại ở vẻ đẹp bề ngoài của thiên nhiên, khai thác cạn kiệt tài nguyên để
phục vụ lòng tham, mà quên mất rằng đằng sau tất cả là Thiên Chúa, Đấng đã tin
tưởng trao cho chúng ta nhiệm vụ chăm sóc và gìn giữ vũ trụ vạn vật do chính
Ngài sáng tạo nên.
2. Đức Kitô là trung tâm vũ trụ và lịch sử
Thánh Phaolô trong thư gửi tin hữu Côlôxê đã mặc
khải một chân lý sâu xa: chính Đức Kitô là “trưởng tử sinh ra trước mọi
loài thụ tạo”; nơi Người, nhờ Người và cho Người mà mọi sự được tạo thành.
Tất cả vũ trụ, muôn loài muôn vật, kể cả con người chúng ta, đều quy hướng về
Đức Kitô. Điều đó có nghĩa là: nếu chúng ta phá hủy thiên nhiên, nếu chúng ta
làm cho trái đất bị thương tổn, là chúng ta đang xúc phạm đến chính Đức Kitô,
vì vũ trụ này là “thân mình mở rộng” của Người. Bảo vệ công trình tạo dựng cũng
chính là một cách ta tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô.
3. Sống niềm tín thác và điều độ
Trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu dạy
chúng ta: “Đừng lo lắng về của ăn, áo mặc… Hãy nhìn xem chim trời, hoa
đồng cỏ nội…” , tất cả đều được Cha trên trời chăm sóc. Điều Chúa mời
gọi không phải là sống buông thả, nhưng là sống đơn sơ, biết đủ, và tín
thác vào Thiên Chúa.
Thực tế, biết bao khủng hoảng môi sinh hôm nay
xuất phát từ lòng tham vô đáy: muốn sở hữu nhiều hơn, tiêu thụ nhiều hơn, hưởng
thụ nhiều hơn. Kết quả là rừng bị tàn phá, biển bị ô nhiễm, khí hậu biến đổi,
bao nhiêu sinh mạng bị đe dọa. Thông điệp Laudato Si’ gọi đó
là “nền văn hóa vứt bỏ”, biến thiên nhiên và cả con người thành những thứ dùng
rồi bỏ.
Chúa Giêsu hôm nay nhắc ta hãy biết dừng lại, chọn
sống tiết độ, đặt Nước Thiên Chúa và công lý lên hàng đầu.
4. Lời mời gọi từ Laudato Si’
Sau 10 năm, thông điệp Laudato Si’ vẫn
vang vọng như một ngôn sứ:
- Hãy biết chiêm ngắm thiên nhiên như ngôi
nhà chung, chứ không phải là kho hàng để khai thác.
- Hãy liên đới với những người nghèo,
vì chính họ là nạn nhân chịu hậu quả nặng nề nhất của khủng hoảng môi sinh.
- Hãy giáo dục thế hệ trẻ về lối sống xanh,
tiêu dùng có trách nhiệm, biết tiết kiệm năng lượng, hạn chế rác thải nhựa,
trồng cây xanh, bảo vệ sông ngòi, biển cả…
Anh chị em thân mến,
Bảo vệ công trình tạo dựng không chỉ là một việc
làm xã hội, mà còn là một bổn phận đức tin và đức ái
Kitô giáo. Khi ta sống đơn sơ, biết chia sẻ, biết yêu thương thiên nhiên,
ta đang làm chứng rằng: Thiên Chúa là Cha của muôn loài, và chúng ta là những
người con có trách nhiệm với gia sản Cha để lại.
Xin Chúa Kitô, Đấng đã hòa giải muôn loài trong máu Người đổ ra trên thập giá, ban cho chúng ta một con tim biết rung động trước vẻ đẹp của tạo thành, và đôi tay biết hành động để bảo vệ trái đất, ngôi nhà chung của nhân loại. Amen.
* Mùa thường niên: Lc 4,16-30
Suy niệm 1:
Nếu khởi đầu cho sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã thi ân giáng phúc cho những
người sống trong vùng đất u tối của dân ngoại, thì Tin mừng hôm nay cho biết
Chúa Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy trở về quê nhà là Nazareth, để công bố
chương trình hành động của mình. Đó là: “Loan báo Tin Mừng cho người
nghèo khó…, công bố năm hồng ân và ngày khen thường”. Như vậy, chương
trình hành động của Chúa Giêsu là phổ quát cho hết mọi người mà ưu tiên hướng
về những người nghèo nên rất hợp lòng dân. Cho nên Ngài đã được
dân chúng đón nhận cách nhiệt tình “mọi người trong hội đường đều chăm
chú nhìn Người”. Nhưng trên hết là chương trình ấy rất đẹp
lòng Đức Chúa Cha, bởi vì ứng nghiệm đúng như những gì tiên tri I-sa-i-a đã
loan báo từ ngàn xưa về vai trò của Đấng Mes-si-a.
Nếu chương trình hành động của Chúa Giêsu là nhằm đem lại niềm vui, hạnh
phúc và hồng ân cứu độ phổ quát cho hết mọi người, nhất là những người nghèo
khổ. Vậy thử hỏi chương trình hành động ưu tiên của tôi là gì?
Mỗi người chúng ta rất cần sắp xếp lại chương trình sống hàng ngày của
mình. Mong sao những ưu tiên chọn lựa hành động trong chương trình sống hàng
ngày của chúng ta luôn phù hợp với thánh ý của Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta biết quan tâm yêu thương hết mọi người, nhất là những
người nghèo khổ đang sống chung quanh chúng ta. Bằng những lời nói yêu thương
và những việc làm bác ái cụ thể. Làm được như thế là ta đã góp phần đưa chương
trình hành động yêu thương của Chúa đến được với mọi người, nhất là những người
nghèo khổ.
Suy niệm 2:
Tin mừng hôm nay trình thuật lại sự kiện
Chúa Giêsu trở về Nazaret, quê hương của Ngài để công
khai thi hành sứ mạng loan báo mừng Tin mừng,
nhưng Ngài lại bị những người đồng hương từ chối.
Nhìn vào sự kiện này, chúng ta có thể rút ra một
vài bài học sau đây:
- Sự quen thuộc không đồng nghĩa với sự hiểu biết: Người Nazaret đã nghe về Chúa Giêsu từ nhỏ,
nhưng họ lại không nhận ra Ngài là Đấng Messia. Điều này cho thấy, sự quen
thuộc với Lời Chúa không đảm bảo chúng ta sẽ hiểu và sống theo Lời Chúa.
- Thành kiến che mờ chân lý: Người Nazaret đã mang theo những thành kiến
về Đấng Messia, khiến họ không thể mở lòng đón nhận Chúa Giêsu. Thành kiến là
một trở ngại lớn trên con đường tìm kiếm chân lý.
- Tầm quan trọng của việc rao giảng Tin Mừng: Mặc dù bị từ chối, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục
rao giảng Tin Mừng. Điều này cho thấy, việc rao giảng Tin Mừng là một sứ mạng
quan trọng, dù có gặp phải khó khăn.
- Ứng nghiệm các lời tiên tri: Chúa Giêsu đã ứng nghiệm các lời tiên tri
trong Cựu Ước, khẳng định Ngài chính là Đấng Cứu Thế mà dân Israel đã chờ đợi.
* Vậy chúng ta cần phải:
- Biết mở lòng đón nhận Lời Chúa: Chúng ta cần thường xuyên đọc và suy niệm
Lời Chúa để hiểu sâu sắc hơn về ý nghĩa của đức tin.
- Vượt qua thành kiến: Chúng ta cần cố gắng loại bỏ những thành
kiến cá nhân để có thể đón nhận những điều mới mẻ và chân lý.
- Nhiệt tâm rao giảng Tin Mừng: Mỗi người Kitô hữu đều được mời gọi rao giảng Tin
Mừng bằng lời nói và việc làm.
- Tích cực sống chứng nhân của Chúa Kitô: Chúng ta cần sống sao cho xứng đáng với danh
hiệu Kitô hữu, để đời sống của chúng ta trở thành một chứng tá về tình yêu của
Chúa.
Xin cho chúng ta luôn biết mở lòng đón nhận Lời
Chúa và sống theo những điều Chúa dạy. Xin Chúa củng cố lòng tin để ta can đảm
vượt qua mọi trở ngại khi thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng tình thương của Chúa.
Amen. (St).
Thứ ba: Lc 4,31-37
Ngày quốc khánh-Cầu cho Tổ Quốc.
Suy niệm 1:
Năm 1983, trong buổi nói chuyện với liên hội đồng
Giám Mục Châu Mỹ La-tinh, Đức cố Giáo hoàng Gio-an Phaolô II, đã khẳng định
"Tân phúc âm hóa", không phải là Phúc âm mới, nhưng là "mới
về lòng nhiệt thành, mới trong phương pháp và mới trong các diễn tả", vì "Đức
Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn
đời" (Dt 13,8).
Như vậy "Tân phúc âm hóa" không phải là
Phúc âm mới; cũng không phải là một sáng kiến gì mới của Giáo Hội trong sứ vụ
loan báo Tin mừng cho ngày nay. Bởi vì công cuộc "Tân phúc âm hóa" đã
được Đức cố GH Gioan Phaolô II đề cập cách nay khá lâu. Nhất là công cuộc
"Tân phúc âm hóa" ấy đã được chính Chúa Giêsu khởi xướng và thực hiện
cách nay hơn 2000 năm qua, ngay khi Ngài bắt đầu sứ vụ loan báo Tin mừng. Đó là
ý tưởng mà Tin mừng hôm nay muốn nói đến.
- Chúa Giêsu luôn làm mới lòng nhiệt thành: Tin mừng hôm qua cho biết dù gặp phải
sự chống đối ngay trong lần trở về quê nhà Na-za-reth giảng dạy, nhưng Chúa
Giêsu không hề nản lòng trước thái độ khướt từ chống đối của dân làng. Trái lại
càng làm cho Ngài nhiệt thành hơn. Bằng chứng là Ngài đã bình tâm rời bỏ nơi đó
để sẵn sàng đi đến các thành khác (Ca-phar-na-um) tiếp tục thi hành sứ mạng đã
được Chúa Cha trao phó, với lòng nhiệt thành như thuở ban đầu.
- Chúa Giêsu làm mới trong phương pháp giảng dạy: Không biết nội dung Chúa Giêsu giảng dạy như
thế nào tại hội đường Ca-phar-na-um, nhưng lời rao giảng của Ngài đã làm cho
dân chúng hôm đó hứng khởi đến "sửng sốt". Tin mừng chỉ cho biết việc
giảng dạy của Chúa Giêsu rất mới lạ và rất uy quyền. Chắc chắn rằng phong
thái và phương pháp giảng dạy của Chúa Giêsu không giống như các Kinh sư.
Các Kinh sư khi giảng dạy thì chỉ giải trích dẫn Kinh Thánh và Luật Lệ
cách dài dòng, nhằm chất lên vai người khác những gánh nặng. Còn giáo huấn của
Chúa Giêsu thì ngắn gọn, cụ thể, gần gủi và dễ hiểu; hơn nữa lời giảng dạy của
Ngài luôn hướng đến những người nghèo khổ, những người bị loại ra bên lề xã
hội, đúng như chương trình hành động mà Ngài đã công bố nơi hội đường
Na-za-reth. Vì thế mà lời giảng dạy của Ngài đã đụng chạm đến trái tim người nghe.
- Cuối cùng Chúa Giêsu đã làm mới trong cách diễn
tả: Chúa
Giêsu không chỉ nói suông như những Kinh sư và Biệt phái "họ nói
mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ
lại không buồn động ngón tay vào." (Mt 23, 3-4). Còn Chúa Giêsu
thì trái lại lời giảng dạy luôn đi đôi với việc làm cụ thể. Bằng phép lạ chữa
một người bị quỷ ám, ngoài việc minh chứng cho biết Ngài chính là Thiên
Chúa uy quyền, còn cho thấy cách thế diễn tả mới mẻ của Chúa Giêsu trong việc
rao giảng Tin mừng, nên đã thu hút được người nghe. Đúng là “lời nói lung
lay, gương lành lôi kéo”. Hay như đức cố Giáo hoàng Phaolô VI đã
nói: "ngày nay người ta cần chứng nhân hơn thầy dạy."
Xin Chúa ban cho mỗi chúng ta luôn biết làm mới
lại lòng nhiệt tâm tông đồ, luôn biết thao thức tìm ra những phương cách phù
hợp để đem Tin mừng đến được với người nghe, nhất là biết tích cực sống những
giá trị của Tin mừng phù hợp với thời đại mới. Nhờ thế sức sống của Tin mừng
của Chúa mới có thể lan tỏa mạnh mẻ đến mọi người và mọi nơi.
Suy niệm 2:
Bài Tin mừng hôm nay dạy chúng ta hai bài học.
1. Bài học thứ nhất: Thắng không kêu bại không
nản.
Dẫu trong ngày tiếp xúc cử tri tại quê nhà, để
công bố chương trình hành động, Chúa Giêsu đã bị thất bại vì những định kiến cố
hữu của họ. Nhưng không vì thế mà Người nản lòng, bỏ cuộc. Bởi vì Chúa
Giêsu hiểu rằng: "không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê
hương mình". (Lc 4, 24). Nhưng Tin mừng phải được rao
giảng, nên Người bỏ nơi đó mà xuống thành Ca-phar-na-um, vào hội
đường và tiếp tục thi hành sứ vụ. Tại đây Ngài đã thành công rực rỡ vì được dân
chúng đón nhận hồ hởi, nên đã gây được tiếng vang lớn khắp cả vùng. Đây cũng là
bài học quý gia cho chúng ta. Đừng nản lòng khi gặp thất bại, nhưng cũng đừng
quá hãnh diện khi thành công may mắn. Điều quan trọng là khiêm tốn tạ ơn Chúa
trong mọi lúc.
2. Bài học thứ hai: Lời nói phải đi đôi với việc
làm.
Nếu lời giảng dạy của các Biệt phái và Kinh sư
không được dân chúng đón nhận là vì "họ nói mà không làm. Họ
bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không buồn động
ngón tay vào". (Mt 23, 3-4). Lối sống giả hình của họ khiến
dân chúng chán ngán, mệt mỏi. Thì với Chúa Giêsu lại khác. Lời giảng dạy của
Ngài đã được dân chúng đón nhận cách nhiệt tình. Với phép lạ trục xuất ma quỷ
ra khỏi người bị nó ám hại, Chúa Giêsu không những minh chứng mạnh mẻ uy quyền
của Thiên Chúa mà còn gây sửng sốt cho mọi người, vì lời Ngài nói luôn đi đôi
với việc Ngài làm. Vì vậy, để có thể thuyết phục người khác tin vào Chúa, chúng
ta không chỉ rao giảng suông bằng lời, nhưng đòi hỏi chúng ta phải thực hiện
bằng những việc làm cụ thể.
Nguyện xin Chúa Giêsu, Ðấng giảng dạy với uy
quyền, giúp chúng con biết thống nhất giữa lời nói và việc làm để những giá trị
Tin mừng luôn được người nghe đón nhận và tin tưởng. Xin Chúa củng cố niềm tin, gia tăng đức
mến và bảo toàn niềm trông cậy nơi chúng ta để dẫu khi thành công hay khi thất
bại chúng ta vẫn luôn an vui sống trong vòng tay đầy yêu thương của Chúa.
Suy niệm 3:
Sứ điệp Tin mừng hôm nay gửi đến chúng ta 3 chủ đề
quan trọng:
- Quyền năng nơi Đức Giêsu: Sự kiện Đức Giêsu chữa lành và trục xuất quỷ ra
khỏi một người bị nó ám hại, cho thấy quyền năng Thiên Chúa nơi Ngài. Điều này
khẳng định cho ta biết Đức Giêsu không chỉ là một người thầy dạy đạo, mà Ngài
còn là Đấng Cứu Thế, Đấng đến để giải thoát con người khỏi tội lỗi và bệnh tật.
- Sức mạnh của Lời Chúa: Lời Chúa được ví như một thanh gươm sắc bén “xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh,
cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Vì
không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều
trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ.” (Dt
4,12-13). Ngoài ra Lời Chúa là lời sáng tạo, ban sự sống và có sức biến
đổi. Lời Chúa còn có sức mạnh xua trừ ma quỷ và chữa lành mọi bệnh tật như Tin
mừng hôm nay nói đến. Điều này nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc
lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống hàng ngày.
- Sự hiện diện của ma quỷ: Phép lạ Chúa Giêsu trục xuất ra khỏi người
bị ám hại, nhắc ta luôn ý thức về sự hiện diện của ma quỷ trong đời sống con
người. Qua đó ý thức chúng ta cần phải luôn cảnh giác trước những cám dỗ ngọt
ngào của ma quỷ, đồng thời cũng phải biết đặt trọn niềm tin tưởng vào quyền
năng và sức mạnh của Chúa.
Suy niệm
4: LỜI NÓI VÀ CUỘC SỐNG
Ðược bầu làm Bề trên
cộng đoàn, một tu sĩ nọ đến hỏi một vị ẩn sĩ nổi tiếng khôn ngoan và thánh
thiện:
- Thưa cha, thế nào
là một bài giảng hay?
- Vị ẩn sĩ trả lời:
Một bài giảng hay phải là bài giảng có nhập đề và kết luận hay, nhất là phần
nhập đề và kết luận càng gần nhau càng tốt.
Khi nói đến khoảng
cách giữa nhập đề và kết luận trong một bài giảng, hẳn vị ẩn sĩ muốn nói đến sự
trung thực của lời nói. Một lời nói được xem là trung thực khi giữa lời nói và
thực tế không có khoảng cách, nhưng có sự thống nhất giữa lời nói và cuộc sống.
Lời nói vốn là phạm
trù cơ bản nhất trong Kitô giáo. Ở khởi đầu Kinh Thánh, chúng ta thấy rằng hoạt
động đầu tiên của Thiên Chúa là nói, nhưng khi Thiên Chúa nói thì liền có vạn vật.
Không có khoảng cách giữa lời của Thiên Chúa và hành động của Ngài. Lời của
Thiên Chúa là lời chân thật, nghĩa là luôn được thể hiện bằng hành động và có
hiệu quả. Khởi đầu Tin Mừng của ngài, thánh Gioan cũng xác quyết: “Từ khởi thủy
đã có Lời và Lời đã hóa thành nhục thể”. Nơi Chúa Giêsu, lời là thực tế, nghĩa
là không có khoảng cách giữa lời Ngài và cuộc sống của Ngài. Và đó có thể là ý
tưởng mà Tin Mừng hôm nay gợi lên cho chúng ta.
Chúa Giêsu giảng dạy
như Ðấng có uy quyền. Uy quyền ấy không phải là thứ uy quyền được áp đặt trên
người khác. Uy quyền của Chúa Giêsu phát xuất từ chính sự thống nhất giữa lời
nói và hành động của Ngài: Ngài chỉ cần nói với tên quỉ câm: “Câm đi, hãy ra
khỏi người này”, thì phép lạ liền xẩy ra. Những người chứng kiến phép lạ đã
thấy được sự khác biệt giữa lời giảng dạy của Chúa Giêsu và của các Luật sĩ
đương thời.
Phép lạ của Chúa
Giêsu cũng là một lời giảng dạy. Thật thế, sứ điệp trọng tâm trong lời rao
giảng của Chúa Giêsu chính là sự giải phóng. Ngài không chỉ nói về sự giải
phóng, mà còn chứng thực cho những người nghe Ngài biết được thế nào là giải
phóng. Phép lạ người câm được giải thoát mang một ý nghĩa đặc biệt đối với Chúa
Giêsu: giải phóng trước tiên là giải phóng con người khỏi xiềng xích của dối
trá. Chúa Giêsu đã có lần nói với người Do thái: “Sự thật sẽ giải phóng các
ngươi”.
Lời Chúa là lời chân
thật. Ước gì lời ấy giải thoát chúng ta khỏi mọi thứ xiềng xích của dối trá, để
lời tuyên xưng và cuộc sống của chúng ta luôn được thống nhất. Trong một xã hội
đầy trói buộc và dối trá thì chứng tá cuộc sống là lời nói có giá trị nhất.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui)
Thứ tư: Lc 4,38-44
Nhớ Thánh Ghê-gô-ri-ô, giáo hoàng, tiến sĩ Hội
Thánh
Thánh nhân sinh quãng năm 540 tại Rôma. Người theo
con đường công danh, nhưng đã từ chối chức thái thú Rôma. Người gia nhập đan
viện và sau khi làm phó tế, người nhận nhiệm vụ sứ thần Công-tăng-ti-nốp. Ngày
3 tháng 9 năm 590, người được chọn làm người kế vị thánh Phêrô suốt mười bốn
năm phục vụ Hội Thánh (590-604). Dầu sức khỏe không dồi dào, người đã tận tụy
chu toàn bổn phận, giúp đỡ người nghèo, củng cố và truyền bá đức tin. Người đã
biên soạn nhiều tác phẩm về luân lý và thần học. Hoạt động của người được nuôi
dưỡng nhờ chiêm niệm. Người qua đời ngày 12 tháng 3 năm 604. Vào năm 1298,
Ðức thánh cha Bonifaciô VIII đã tôn phong Ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh.
Qua cuộc sống thánh thiện, đạo đức của thánh nhân,
Ðức Grêgoriô muốn gửi cho mọi người sứ điệp: Hãy sống thật tình, sống đạo đức
và dấn thân phục vụ Chúa Kitô. Cuộc đời của mỗi người Kitô hữu là một món quà
quí giá Chúa trao tặng cho ta. Hãy làm cho món quà ấy trở nên hữu ích và càng
ngày càng quí hóa hơn vì nó là hình ảnh của chính Ðức Kitô.
Lạy thánh Grêgoriô giáo hoàng, xin ban cho chúng
con tâm hồn hiền lành và khiêm nhượng như thánh nhân
Xin ban cho chúng con lòng quảng đại như thánh
nhân để chúng con biết yêu thương người nghèo
Xin ban cho chúng con biết nỗ lực xây dựng giáo
xứ, giáo họ và xây dựng con người mình cách tốt đẹp.
Lm. Giuse
Nguyễn Hưng Lợi, DCCT
Nguồn: simonhoadalat.com
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay thuật lại một ngày sống tiêu biểu
của Chúa Giêsu ở Ca-phác-na-um với biết bao công việc: “Vào Hội đường
giảng dạy, rồi đến nhà chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô; mãi đến lúc mặt trời lặn
Ngài vẫn còn tất bật chữa lành đủ mọi loại bệnh hoạn, tật nguyền. Sáng sớm tinh
mơ, Chúa lại tìm đến nơi hoang vắng để cầu nguyện cùng Chúa Cha.” Ngày
sống tiêu biểu của Chúa Giêsu phải trở nên khuôn mẫu cho ngày sống của mỗi
người kitô hữu chúng ta.
- Noi gương Chúa Giêsu chúng ta hãy bắt đầu ngày
mới bằng việc cầu nguyện. Cầu nguyện để gặp gỡ Chúa, được sống thân tình
bên Chúa, để lắng nghe lời Chúa chỉ dạy. Trên hết cầu nguyện để nhận lấy nguồn
ơn sức mạnh nâng đỡ của Chúa nhằm chu toàn tốt bổn phận hằng ngày. Một ngày
sống khởi đầu với kinh nguyện, thánh lễ, chúng ta được gia tăng lòng Tin Cậy
Mến, nhờ đó mà nhiệt thành làm mọi việc trong ngày sáng danh Chúa.
- Học nơi Chúa Giêsu, chúng ta hãy chuyên chăm làm
việc. Con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa để sống trong thế
giới hữu hình và được đặt trong thế giới này để "làm chủ trái đất";
vì thế, ngay từ đầu con người đã được kêu gọi để lao động. Chính Chúa Giêsu
cũng đã nêu gương cho ta: "Cho đến nay, Cha tôi làm việc, thì Tôi
cũng làm việc" (Ga 5, 17). Làm việc để có của nuôi
sống bản thân và gia đình; đóng góp vào sự tiến bộ liên tục của khoa học kỹ
thuật, nhất là làm cho cộng đồng xã hội anh em của mình luôn luôn thăng tiến về
văn hóa và đạo đức, đó là ý định của Chúa và mong muốn của con người.
Tóm lại: Chúa Giêsu đã đi bước trước trong đời
sống lao động và cầu nguyện. Lao động mà không cầu nguyện sẽ làm cuộc sống con
người mệt mỏi và đơn điệu; ngược lại cầu nguyện mà không lao động, khiến con
người trở nên sống hình thức, lười biếng và ỷ lại.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết kết hợp cách hài hoà giữa lao động và cầu nguyện nhờ biết trân trọng những thành quả của lao động mang lại cũng như những giá trị lớn lao của đời sống kết hiệp với Thiên Chúa.
Suy niệm 2:
Như chúng ta biết Capharnaum một thành phố
nhỏ bên bờ biển hồ Galilê, đã chứng kiến nhiều phép lạ và lời giảng dạy của
Chúa Giêsu. Tin mừng hôm nay thuật lại một ngày bình thường trong cuộc sống của
Chúa Giêsu tại nơi đây. Qua đây giúp ta hiểu hơn về sứ mệnh và tình yêu của
Chúa dành cho nhân loại chúng ta.
- Buổi sáng: Giảng dạy trong hội đường.
Chúa Giêsu bắt đầu ngày sống bằng việc giảng dạy
tại hội đường. Khác với các luật sĩ, Ngài không chỉ đọc và giải thích Kinh
Thánh, mà còn dùng uy quyền của Thiên Chúa để ban ra những lời dạy mới mẻ và
đầy sức mạnh. Lời giảng của Ngài không chỉ chạm đến trí tuệ mà còn đi vào tận
sâu tâm hồn người nghe, khiến họ kinh ngạc và tin tưởng.
- Buổi trưa: Chữa lành và trừ quỷ.
Sau khi giảng dạy, Chúa Giêsu đến thăm viếng nhà
mẹ vợ của ông Phêrô và chữa bệnh cho bà. Tin ấy được lan truyền khắp nơi. Người
bệnh, người bị quỷ ám kéo đến với Ngài để xin chữa lành. Với lòng thương xót vô
bờ, Chúa Giêsu đã chữa lành cho biết bao người bệnh tật, giải thoát họ khỏi
những đau khổ. Ngài cũng trừ quỷ, chứng tỏ quyền năng của Thiên Chúa trước sự
hiện diện của ma quỷ.
- Buổi chiều và tối: chia sẻ với môn đệ.
Khi màn đêm buông xuống, Chúa Giêsu dành thời gian
riêng tư với các môn đệ. Ngài dạy họ về Nước Trời, về tình yêu thương, về cách
sống để trở nên những người môn đệ đích thực. Những buổi chia sẻ này đã giúp
các môn đệ hiểu sâu hơn về sứ mệnh của ngài và củng cố thêm niềm tin cho các
môn đệ.
Khi suy niệm về một ngày sống của Chúa Giêsu tại
Capharnaum, chúng ta nhận ra được:
- Tình yêu thương vô bờ bến: Chúa Giêsu luôn dành
tình yêu thương cho mọi người, đặc biệt là những người yếu đuối và đau khổ.
- Sứ mệnh cứu độ: Ngài đến để cứu độ nhân loại
khỏi tội lỗi và bệnh tật, mang lại cho họ cuộc sống mới.
- Quyền năng của Thiên Chúa: Chúa Giêsu là Đấng
Cứu Thế, Ngài có quyền năng chữa lành, trừ quỷ và ban sự sống.
Cuộc sống của Chúa Giêsu tại Capharnaum là một mẫu
gương cho đời sống chúng ta. Ngài đã sống trọn vẹn sứ mệnh của mình, để lại cho
nhân loại một di sản vô giá. Chúng ta hãy học hỏi và noi gương Chúa Giêsu sống
một cuộc đời khiêm tốn, tận tâm phục vụ mọi người hết tình. Sống theo gương
Chúa Giêsu đời ta mới có ý nghĩa và giá trị. (St).
Suy niệm 3: HÀI HÒA GIỮA HOẠT ĐỘNG VÀ CẦU
NGUYỆN
Người Kitô hữu thường hay cân đo giữa hoạt động và
cầu nguyện. Để tìm được lời lí giải thỏa đáng, ta thử nhìn về ngày sống
của Chúa Giêsu nơi trang Tin Mừng Mc 1,29-39. Quả vậy, ngày sống của Chúa Giêsu
là ý tưởng tuyệt vời về sự quân bình cần thiết: hài hòa giữa cầu nguyện và hoạt
động trong đời sống thường nhật.
Một ngày sống của Chúa Giêsu là dành cho tha nhân: giảng dạy tại hội đường Caphacnaum, chữa bà
mẹ vợ ông Simon khỏi cơn sốt; và dù trời bắt đầu tối nhưng vô vàn người đau yếu
và bị quỷ ám vẫn ùn ùn kéo đến. Chắc là sinh hoạt của Chúa còn kéo dài
thêm và Người chỉ còn ít giờ để ăn vội bữa tối.
Tuy nhiên, điều mọi người không ngờ là “sáng
sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện
ở đó”. Người xác tín sự cần thiết của cầu nguyện. Người đã dành nhiều
thì giờ cho tha nhân và Người cũng cần dành thì giờ cho Chúa Cha. Đối
với Chúa Giêsu, cầu nguyện và bắt đầu ngày mới là một. Cái bắt đầu này sẽ
đem lại sinh lực và ý lực cho ngày sống. Điều đặc biệt nhất là cầu nguyện đã
giúp Chúa Giêsu làm một quyết định sáng suốt, phù hợp với ý muốn của Chúa
Cha. Đó là Người quyết định cùng với các môn đệ “đi nơi
khác, đến các làng mạc chung quanh, để Người còn rao giảng ở đó nữa”.
Chúng ta thử nghĩ xem: “Mọi người đang tìm
Thầy!” Nghĩa là dân chúng đang cần Chúa Giêsu, ngưỡng mộ Người.
Người rất thành công trong sứ vụ tại Caphacnaum. Thế mà sau một sáng sớm
cầu nguyện, Người đã quyết định rời Caphacnaum để đến các nơi khác. Đâu là
lý do để Người “đi nơi khác”? Chúa Giêsu trả lời: “Thầy
còn rao giảng ở các nơi đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Việc
chính của Chúa Giêsu là tiếp tục ra đi rao giảng Tin Mừng, chứ không phải dừng
chân lại một chỗ để được hoan hô. Nhờ cầu nguyện, Người mới thấy rõ cần
phải ra đi. Cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và quyền lực của ma quỷ không chỉ
thu hẹp tại một địa điểm nhưng là khắp nơi.
Ta thường bận rộn “trăm công ngàn việc”, nhưng
chắc chắn không bận đến nỗi không thể dành được mỗi ngày ít phút để cầu
nguyện. Thiếu cầu nguyện thì ngày sống của ta sẽ khập khiễng như
người mất thăng bằng. “Nơi thanh vắng” của chúng ta
không hẳn chỉ là nhà thờ nhưng có thể là trong xe trên đường đi công tác, tại
băng ghế một ít phút sau giờ ăn trưa ở sở làm,… Dành chút thì giờ và kiếm một
chỗ thuận tiện thực ra không khó, mà khó khăn là tại chính chúng ta không nhìn
nhận sự cần thiết của cầu nguyện.
Một ngày sống, chúng ta phải làm nhiều quyết định,
từ nhỏ nhặt nhất đến những quyết định quan trọng, làm sao có thể là những quyết
định đúng? Một ngày của Chúa Giêsu cũng đầy những quyết định phải
làm giống như chúng ta, nhưng khác là Người đã cầu nguyện cho được thấu rõ
thánh ý Chúa Cha và được đầy tràn Thánh Thần để có thể quyết định mọi sự theo
đường lối của Thiên Chúa. Quyết định ra đi của Chúa Giêsu được nói đến trong
bài Tin Mừng hôm nay khiến ta ngạc nhiên, nhưng phải là điều giúp chúng ta hiểu
sự cần thiết tuyệt đối của cầu nguyện. Ước mong cầu nguyện sẽ giúp thay đổi
thời khóa biểu và làm cho ngày sống của chúng ta được hài hòa!
“Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho
con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho
con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu
lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho
con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm
nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con
người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa”.
Maria Biển, CMR
Thứ năm: Lc 5,1-11
Suy niệm 1:
Trên báo điện tử Trí Thức Trẻ ngày 12.8.2014
có đăng tải bài viết: Gái Miền Tây, và 3 chữ "N" nổi danh thiên
hạ. (3 chữ "N": Ngon, Ngoan và Ngu), đã bị dân cư mạng phản đối cực
lực, khiến cho bộ VHTT phải vào cuộc và xử lý nghiêm khắc. Bởi vì tác giả đã
bôi nhọ và xúc phạm đến nhân vị phẩm giá của gái Miền Tây, cũng như có dấu hiệu
chia rẽ vùng miền. Trái với nội dung bài viết trên báo điện tử Tri
Thức Trẻ trên, bài viết và nội dung của tác giả thánh Lu-ca trong bài Tin mừng
hôm nay đã để lại cho người đọc một ấn tượng tuyệt đẹp, khi đề cao nhân vật
Giêsu với 3 chữ "L" (lạ) nổi danh thiên hạ.
1. "Lạ" về nơi giảng dạy.
Lạ là ở đời ai lại dùng thuyền đánh cá để ngồi
trên đó mà giảng dạy; cũng chưa từng thấy ai quy tụ dân chúng nơi bãi biển để
giáo huấn. Vậy mà Chúa Giê-su đã không ngần ngại tận dụng phương tiện và nơi
chốn ấy để rao giảng Lời Chúa. Quả là lạ thường!
2. "Lạ" về mẻ cá bất thường.
Với kinh nghiệm lành nghề về việc đánh bắt cá
biển, Si-mon cùng các bạn đồng nghiệp đã trãi qua một đêm vất vả, nhưng chẳng
được con cá nào. Trong khi giữa lúc ban ngày, thầy Giêsu chẳng có chút kinh
nghiệm gì về việc ra khơi bám biển, lại đề nghị Si-mon thả lưới bắt cá, quả là
chuyện đùa! Nhưng để làm vui lòng thầy Giêsu, Si-mon đành miễn cưỡng làm theo.
Nhưng thật bất ngờ, kết quả lại ngoài sức tưởng tượng. Một mẻ cá lạ đầy ấp
những cá là cá. Ấy mới là sự lạ!
3. "Lạ" về việc chuyển đổi nghề nghiệp
bất ngờ.
Thật ngỡ ngàng rước một mẻ cá lạ lùng, Si-mon đã hò
reo sung sướng, nhưng cũng đầy sợ hãi khi nhận ra thân phận yếu hèn tội lỗi của
mình. Ông đã sụp lạy Thầy Giêsu đầy quyền năng. Và thật ngờ! chính lúc ấy, Chúa
Giêsu lại nhẹ nhàng chấn an và kêu gọi ông chuyển đổi ngành nghề: "Đừng
sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta". Si-mon đã không cưỡng
lại được lời mời gọi chân tình tha thiết ấy của Đấng quyền năng, ông đã "bỏ
mọi sự mà theo Người". Ôi lạ lùng biết mấy!
Với 3 chữ "lạ" nơi con người Giê-su mà
thánh Lu-ca tường thuật trong bài Tin mừng hôm nay, như dạy chúng ta những bài
học quý:
- Phải tận dụng mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh để
loan báo Tin Mừng.
- Luôn biết tin tưởng, trông cậy vào quyền năng
Chúa trong mọi lúc, vì "mọi kẻ tin vào Ngài sẽ không thất vọng bao
giờ" (Tv 90). Biết cậy dựa vào Chúa, ta có thể làm được những
điều kì diệu, như thánh Phaolô đã nói: "Tôi có thể làm mọi sự nhờ Đấng
ban thêm sức cho tôi" (Pl 4,13).
- Mỗi người mỗi hoàn cảnh, mỗi người mỗi kinh
nghiệm, mỗi người mỗi khả năng, tính cách..., nhưng Chúa đều tin tưởng mời gọi
để cộng tác với Chúa tham gia vào sứ vụ loan báo Tin mừng, đem ơn cứu rỗi đến
cho mọi người.
Xin cho chúng ta biết mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa, sẵn sàng từ bỏ mọi sự để ra đi thi hành sứ vụ loan báo niềm vui Tin mừng cho mọi người, với lòng tin tưởng, cậy trông và phó thác vào quyền năng và tình thương Chúa.
Suy niệm 2:
“Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu và thả lưới bắt
cá”. Đó là
một lời đề nghị của Chúa Giêsu. Lời đề nghị này không chỉ dành cho
ông Simon khi xưa mà còn cho chúng ta hôm nay. Lời đề nghị này mang nhiều ý nghĩa:
- Hãy can đảm vượt qua vùng an toàn: "Chỗ
nước sâu", tượng trưng cho những thử thách, những điều mới
mẻ, những vùng đất chưa được khám phá. Qua đó, khuyến khích chúng ta vượt qua
những giới hạn của bản thân, bước ra khỏi vùng an toàn để tìm kiếm những điều
lớn lao và cao quý hơn theo ý muốn của Chúa.
- Hãy đặt trọn lòng tin vào Chúa: Khi
Simon Phêrô vâng nghe và làm theo lời đề nghị của Chúa thì lập tức phép lạ “mẻ cá
đầy lưới” xảy ra. Điều này cho thấy khi chúng ta tin tưởng và làm theo lời Chúa,
Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn phúc vượt quá sự mong đợi.
- Hãy ngoan ngoãn đáp lại ơn gọi và sứ vụ: Lời chấn an của Chúa Giêsu dành cho
Simon: “Đừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta” là
một lời mời gọi trở thành môn đệ của Chúa. Khi chúng ta đáp lại lời mời gọi của
Chúa, chúng ta cũng phải chấp nhận từ bỏ lại tất cả quá khứ để cam kết sống
trọn vẹn cho ơn gọi và sứ vụ của mình qua việc dấn thân phụng sự Chúa hết lòng
và phục vụ tha nhân hết mình và trọn tình.
Xin Chúa cho chúng ta biết can đảm đáp lại lời mời
gọi của Chúa như ông Simon xưa trong sứ mạng loan báo Tin Mừng, với niềm tin tưởng
và phó thác vào quyền năng và tình thương của Chúa.
Suy niệm 3: VÂNG LỜI THẦY CON XIN THẢ LƯỚI
Có bao giờ ta cảm thấy dù mình có làm việc chăm chỉ đến đâu, cũng không bao giờ đạt được kết quả như mong muốn không? Nhiều người trong chúng ta phải xoay sở giữa công việc cuộc sống nhưng vẫn cảm thấy như thể mình đang quay bánh xe. Những nỗ lực và phấn đấu của ta hầu như không mang lại kết quả nào cả.
Trong bài Tin Mừng
hôm nay, Phêrô cũng trải qua nỗi thất vọng tương tự. Cả đêm ông và những người
của ông không đánh bắt được con cá nào. Lưới của họ hoàn toàn trống
rỗng. Sau đó, Chúa Giêsu bước vào cuộc sống của các ông và nhờ làm theo lời chỉ dạy của Người nên các ông đã bắt được rất nhiều cá, hơn những gì họ mong đợi! Chính sự khác biệt rõ rệt giữa “trước” và “sau” đã
khiến đây trở thành một điều kỳ diệu đáng nhớ.
Đối với Phêrô, đó là
sự thay đổi cuộc đời. Có lẽ ông chưa bao giờ bắt được nhiều cá đến vậy. Nhưng
đó không thực sự là sản phẩm đánh bắt của “ông”. Đúng vậy, ông và người của
mình đã thực hiện công việc thả lưới xuống nước. Nhưng rõ ràng có điều gì đó
lớn lao hơn đang diễn ra ở đây. Khi Phêrô vâng phục Chúa Giêsu, ông đã nhận
được ân sủng vượt quá sự mong đợi của ông. Ông biết rằng nếu không có Chúa
Giêsu, ông vẫn sẽ nhìn vào lưới trống.
Bài học mà Phêrô học
được cũng có thể thay đổi cuộc đời chúng ta. Những nỗ lực của chính chúng ta,
giống như đêm đánh cá không thành công của Phêrô, chỉ có thể giúp chúng ta đi
xa được đến nay. Nhưng khi chúng ta lắng nghe và vâng phục Chúa Giêsu, như
Phêrô đã làm, chúng ta để Ngài và ân sủng của Ngài bước vào cuộc sống của chúng
ta. Chúng ta mở lòng đón nhận những cách thức mới và bất ngờ mà Ngài có thể muốn
tác động trong và thông qua chúng ta.
Vậy bạn cảm thấy như
mình đang phí công vô ích ở đâu? Bạn đang đối mặt với một đứa trẻ gặp rắc rối?
Hãy mời Chúa Giêsu bước vào hoàn cảnh đó và xin Ngài ban bình an cho bạn hoặc
thậm chí có thể cho bạn những lời lẽ thích hợp để nói với con trai hay con gái
của bạn. Bạn có cảm thấy kiệt sức khi phải vật lộn với một tình huống khó khăn
trong công việc không? Hãy đặt nó vào tay Chúa Giêsu và để Ngài hướng dẫn bạn
vượt qua những trở ngại. Bạn có chán nản khi một lần nữa phải vật lộn với một
thứ tội lỗi dai dẳng không? Hãy từ bỏ chính mình cho Chúa Giêsu và để Ngài tha
thứ cho bạn và nâng bạn dậy.
Khi bạn đầu phục Chúa
Giêsu và dâng lên Ngài sự tự lực của bạn, Ngài sẽ cho bạn thấy rằng Ngài có thể
ban phước và chu cấp, ngay cả khi những nỗ lực của bạn dường như trở nên vô
ích.
Lạy Chúa, con xin
dâng cho Chúa mọi cách mà con dựa vào chính mình. Xin giúp con nhận được ân
sủng của Chúa.
Nguồn: The Word Among Us, September 2024
Lm. Phaolô Vũ Đức Thành, SDD. chuyển ngữ
Suy niệm 4: CHÀI LƯỚI NGƯỜI
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy ông Phê-rô tốt lành đã đi từ kinh ngạc này
sang kinh ngạc khác.
Trước hết, Đức Giêsu đã chọn thuyền của ông như là thứ ngai tòa để Người
ngồi giảng cho dân chúng trên bờ chú ý nghe Người. Có thể tưởng tượng xem anh ngư phủ
này hãnh diện, vinh dự chừng nào được Thầy mà mọi người đã hăm hở đi tìm.
Tiếp theo là một mẻ cá lạ lùng! dẫu bao nhiêu bạn bè với mình suốt đêm vất
vả đánh cá mà chẳng được gì. Chẳng ăn gì, chẳng có gì ăn! và này đột nhiên,
thật lạ chỉ một lời phán của Đức Giêsu, họ đi kéo lưới. Thật vững chắc, Phê-rô
đã làm một cử chỉ đẹp để tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu đầy quyền năng. Ông
không do dự, lần nữa ông đã thử thời vận ra khơi thả lưới, lưới gần rách,
thuyền gần chìm vì cá đầy lưới. Lạ thay phần thưởng lớn lao dành cho một hành
động vâng lời nhỏ bé! Phê-rô kinh sợ. Ông té xuống chân Đức Kitô và van nài
Ngài xa ông vì ông chỉ là kẻ tội lỗi, quá bất xứng đối với một vị tôn sư cao
cả.
Tuy nhiên, Phê-rô không phải kinh sợ đến tận cùng. Đức Kitô chẳng những
không lìa bỏ ông mà còn tuyên bố làm thay đổi đời của ông mãi mãi: “Đừng sợ, từ
nay anh sẽ đi chài lưới cứu sống người ta”. Quả thực anh là hạng người vô danh
tiểu tốt thất học lại được Đức Kitô trao phó nhiệm vụ lớn lao bao quát cả biển
người, anh đã cùng với Ngài và các bạn tông đồ khác không ngừng thực hiện nhịêm
vụ cứu vớt người đời cho tới tận thế.
Tại sao có sự chọn lựa này! Tại sao không trao nhiệm vụ lớn lao đó cho
người học thức, cho người tiến sĩ các khoa học tôn giáo đương thời của Đức Giêsu.
Sự phong ban trao phó nhiệm vụ lớn lao này thật ngược đời, gây quá nhiều bối
rối, khúc mắc: Một mầu nhiệm của Đức Giêsu, mầu nhịêm của Giáo Hội. Lý lẽ đức
tin, nghịch hẳn lại lý lẽ của lý trí loài người. Đấng Cứu Thế bắt đầu lôi cuốn
tất cả về Ngài ngay cả lúc tất cả như xa lánh Ngài như ông tiên tri báo về
Ngài. Có thể Ngài đã cho phép xảy ra thách đố như thế.
Truyện: Ngài đã chọn ngươi
Trong tập lễ nhận chức của Đức Tổng Giám Mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn,
Tổng giáo phận Sài Gòn, người ta đọc được bài thơ này:
“Khi Thiên Chúa cần người cha cho dân tộc của mình, Ngài đã chọn một cụ
già. Thế là cụ Abraham đứng lên.
Thiên Chúa cần một người phát ngôn cho mình, Ngài lại chọn một anh
chàng vừa nhút nhát, lại vừa có tật nói ngọng. Thế là ông Maisen đứng lên.
Thiên Chúa cần một thủ lãnh để hướng dẫn dân của mình, Ngài lại chọn cậu
thanh niên nhỏ nhất và yếu nhất trong nhà. Thế là Đavít đứng lên.
Thiên Chúa cần một tảng đá làm nền tảng cho ngôi nhà Giáo hội của mình,
Ngài đã chọn một anh chàng chối đạo. Thế là thánh Phêrô đã đứng lên.
Thiên Chúa cần một khuôn mặt để diễn tả tình yêu thương của Ngài cho nhân
thế, Ngài lại chọn một cô gái điếm. Đó là cô Maria Mađalena.
Thiên Chúa cần một chứng nhân để hô vang sứ điệp của mình, Ngài lại chọn
một kẻ bắt bớ đạo của mình. Đó là ông Phaolô, gốc thành Tắcxô.
Thiên Chúa cần một ai đó để dân Ngài được qui tụ và đi đến với những người
khác, Ngài đã chọn ngươi. Cho dù run sợ, lẽ nào ngươi không dám đứng
lên đáp lại lời của Ngài”.
GF
Suy niệm 5: MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN
Chúa Giêsu kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên.
1. Chúa gọi 4 môn đệ đầu tiên tại bờ biển, nơi sinh sống thường
ngày của họ. Chúa gọi họ lúc họ đang giặt lưới, tức là Ngài gọi họ
đang lúc họ làm công việc hằng ngày của họ.
Chúa bắt đầu câu chuyện bằng cách “xin” ông Phêrô một việc rất
nhỏ: chở Ngài trên thuyền đi ra xa bờ một chút. Và cuối câu chuyện,
Ngài ban cho ông một ơn lớn: một mẻ lưới rất nhiều cá và một ơn còn
lớn gấp bội là được làm môn đệ Ngài.
“Ông Simon nói: Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả
suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả
lưới” (Lc 5,5).
Một lời quả quyết rất đẹp lòng Chúa. Nếu như Phêrô đã không nghe Lời Chúa, thì sau đó ông sẽ chẳng nhận
được những ơn ban to lớn kia. Như vậy chúng ta thấy, sự vâng Lời Chúa đã đem
lại những kết quả thật bất ngờ!
Trong tập truyện các thánh ẩn tu Ai Cập vào những thế kỷ đầu Kitô giáo,
người ta đọc được giai thoại sau:
Có một người đàn ông kia đến xin gia nhập một tu
viện. Tu viện trưởng cho người đó biết luật cơ bản nhất của đời tu là vâng lời.
Người đàn ông hứa sẽ vâng theo tất cả những gì bề trên truyền lệnh.
Để thử lòng người đó, tu viện trưởng dẫn ông ra
vườn và cắm một cây gậy xuống đất. Ngài bảo người đàn ông hãy múc nước tưới cho
đến khi nào cây gậy đó đâm chồi nảy lộc trổ bông trở lại.
Vâng lời bề trên, mỗi ngày người tu sĩ đi bộ hai
dặm ra bờ sông Nil gánh nước tưới cho cây gậy khô ấy. Một năm qua rồi mà cây
gậy vẫn còn trơ trơ. Lại một năm nữa qua đi, cây gậy vẫn là cây gậy khô. Nhưng
người tu sĩ không nản lòng. Sang năm thứ ba, lạ lùng thay, cây gậy khô tự nhiên
đâm chồi để rồi trở thành một cây tươi tốt trong vườn.
2. Khi Phêrô nhận ra tội lỗi của
mình và xin Chúa lánh xa, thì chính lúc đó Chúa gọi ông. Sự việc đó chứng tỏ
Chúa không chê trách và xa lánh người tội lỗi. Ngược lại, Chúa còn gọi những ai
biết ý thức thân phận tội lỗi của mình.
Trước mặt Chúa lúc này là một con người Chúa muốn kêu gọi. Chúa không cần
biết trước đây Phêrô như thế nào.
Vào dạo tháng 12 năm 1987, Đức Hồng Y Jean Marie
Lustiger cho xuất bản một quyển sách mang tựa đề: “Sự chọn lựa của Thiên Chúa”.
Qua tựa đề này, ai cũng đoán được đây là một quyển tự thuật ghi lại cuộc hành
trình ơn gọi của ngài.
Sinh ra trong một gia đình Do Thái sùng đạo, ông
ngoại là một thầy Rabbit uyên thâm, Jean Marie Lustiger đã tự ý trở lại với Đức
Tin Công giáo vào năm 14 tuổi. Hành động này của Jean Marie Lustiger dĩ nhiên
đi ngược lại, với xác tín của gia đình, nhất là mẹ của cậu. Trước khi bị đưa
lên xe chở qua trại tập trung Đức quốc xã ở Auschwitz, bà còn nói với các con:
“Các con hãy giữ mình, chớ theo đạo Công giáo. Đây là một cơn bệnh hiểm nghèo”.
Nhưng tiếng Chúa còn mạnh hơn sự cảnh cáo của
người mẹ. Jean Marie Lustiger đã nghe được tiếng gọi thầm kín ấy vào một ngày
thứ năm tuần thánh nọ khi cậu bước vào nhà thờ chính toà Orleans. Dân chúng
đứng chen chúc đông nghẹt trong nhà thờ. Nhưng ngày hôm sau, khi cậu trở lại,
nhà thờ bỗng trống vắng… Nhưng chính trong nỗi trống vắng của ngày thứ sáu tuần
thánh đó mà Jean Marie Lustiger đã nhận ra tiếng gọi của Chúa.
Qua quyển tự thuật trên đây, Đức hồng y Jean Marie Lustiger tuyên xưng
rằng “Ơn cứu rỗi và sự hiện diện thầm kín của Đấng Cứu Thế trong nhân loại
là một mầu nhiệm của lòng thương xót”. Thiên Chúa yêu thương con người một cách
lạ lùng. Ngài mời gọi con người trên muôn vạn nẻo đường của con người. Do đó,
theo Đức hồng y Lustiger, hy vọng, chính là tin rằng, Thiên Chúa không bao giờ
thất vọng về con người.
Nói như thi sĩ Paul Claudel, Thiên Chúa viết bằng những đường cong. Những
đường cong mà Thiên Chúa không ngừng viết để ngỏ lời với chúng ta chính là cuộc
sống hằng ngày của chúng ta. Mỗi biến cố, mỗi cuộc gặp gỡ là một lời ngỏ của
Thiên Chúa. Chính qua trung gian của biến cố đó mà Thiên Chúa ngỏ lời với chúng
ta. Do đó, người Kitô sẽ không ngừng thức tỉnh để lắng nghe tiếng nói của Thiên
Chúa. Trong giấc ngủ say như cậu bé Samuel, trong một buổi trống vắng của ngày
thứ sáu tuần thánh như trường hợp của Jean Marie Lustiger, trong niềm vui của
gặp gỡ, của thịnh đạt, trong đau khổ của bệnh tật: tiếng nói của Thiên Chúa vẫn
vang dội trong lòng người.
Chúng ta biết rằng, cuộc đời của mỗi người trong chúng ta là lịch sử của
một ơn gọi. Thiên Chúa yêu thương tôi và chỉ mình tôi mà thôi… Trong muôn ngàn
đau khổ của cuộc sống, mỗi người chúng ta hãy lập lại lời tuyên xưng của thánh
Gioan tông đồ: “Thiên Chúa là tình yêu, Ngài đang yêu thương tôi”.
Lm Giuse Đinh Tất Quý
Suy niệm 6:
Cuộc sống của chúng ta hôm nay
nhiều khi giống như các môn đệ trong Phúc Âm: “Suốt đêm vất vả mà không bắt được gì.” Có những lúc trong công
việc, trong gia đình, trong sứ vụ… chúng ta nỗ lực hết sức mà kết quả lại dường
như vô vọng. Chính trong hoàn cảnh ấy, Chúa Giêsu đến, bước lên “chiếc thuyền”
đời ta, nói Lời của Ngài và mời ta “thả
lưới” một lần nữa.
1. Vâng lời trong niềm tin
Thánh Phêrô – một ngư phủ dày dạn
kinh nghiệm – đã từng thất bại cả đêm, nhưng khi nghe Chúa nói: “Hãy ra chỗ nước sâu mà thả lưới”, ông
đáp: “Vì lời Thầy, con sẽ thả lưới.”
Chính sự vâng phục đầy tin tưởng này đã mở đường cho phép lạ: lưới đầy cá đến
nỗi phải nhờ thuyền khác đến giúp.
Điều đó cho thấy: thành công
không đến chỉ từ sức riêng, nhưng từ việc ta tin tưởng đặt mọi sự vào tay Chúa.
Bao nhiêu lần trong đời, chúng ta cần dừng lại, lắng nghe và làm theo Lời Chúa,
dẫu nghịch với kinh nghiệm hay tính toán của mình.
2. Nhận ra thân phận yếu đuối và
ơn gọi mới
Trước mẻ cá lạ lùng, Phêrô sấp
mình thưa: “Lạy Chúa, xin tránh xa con,
vì con là kẻ tội lỗi.” Nhưng Chúa Giêsu không xa lánh, trái lại, Ngài trấn
an: “Đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ chinh
phục người ta.”
Chúa không chọn chúng ta vì chúng
ta hoàn hảo, nhưng vì Ngài yêu thương và tin tưởng. Khi ta biết khiêm tốn nhìn
nhận giới hạn của mình, Chúa lại trao ban sứ mạng mới và biến đổi cuộc đời ta.
3. Từ bỏ để theo Chúa
Các ông đã “bỏ mọi sự mà theo Người”. Từ bỏ không chỉ là bỏ nghề nghiệp hay
tài sản, nhưng là từ bỏ cách sống cũ, từ bỏ sự cậy dựa vào sức riêng để phó
thác nơi Chúa, dấn thân vào hành trình mới.
Đó cũng là lời mời gọi của Chúa
cho chúng ta hôm nay: sẵn sàng buông bỏ những gì cản trở, để mở lòng cho Lời
Chúa hướng dẫn, để trở nên khí cụ loan báo Tin Mừng.
4. Áp dụng trong Năm Thánh Hy
Vọng
Năm Thánh 2025 với chủ đề “Cùng
nhau loan báo Tin Mừng” mời gọi mỗi người Kitô hữu trở nên “ngư phủ người”
giữa đời. Trong gia đình, nơi làm việc, trong họ đạo, chúng ta có thể “thả
lưới” bằng những lời nói khích lệ, những hành động phục vụ, và nhất là bằng đời
sống vâng phục Lời Chúa, để nhiều người nhận biết và tin yêu Chúa hơn.
Anh chị em thân mến,
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng
ta:
- Khi gặp bế tắc, đừng nản chí
nhưng hãy lắng nghe Lời Chúa và mạnh dạn làm theo.
- Khi cảm thấy yếu đuối, đừng sợ
hãi nhưng hãy khiêm tốn để Chúa nâng dậy và trao sứ mạng.
- Khi được Chúa mời gọi, hãy can
đảm “từ bỏ” để theo Ngài cách mới mẻ hơn.
Xin Chúa cho chúng ta biết đặt cuộc đời mình trong tay Ngài, để dù “vất vả suốt đêm” vẫn luôn tin tưởng: “Vì Lời Thầy, con sẽ thả lưới”, nhờ đó chúng ta trở nên chứng nhân cho Tin Mừng Hy Vọng trong thế giới hôm nay. Amen.
Thứ sáu: Lc
5, 33-39
Suy niệm 1:
Nhân cơ hội giải thích cho những người Pha-ri-sêu
lý do vì sao các môn đệ Chúa không ăn chay, Chúa Giêsu mạc khải cho họ biết về
bản thân và sứ mạng của Ngài.
Trong cựu ước Thiên Chúa tự ví Người là chàng rể
và Is-ra-el là nàng dâu. Như thế khi đem trường hợp tiệc cưới ra để giải
thích về việc ăn chay, Chúa Giêsu muốn cho họ biết rằng: Người là chàng rể
và Is-ra-el là nàng dâu. Qua đó mặc nhiên tuyên bố Người chính là
Thiên Chúa đã đến giữa lòng nhân loại.
Hơn nữa, mục đích chính của việc ăn chay bấy giờ
là mong đợi Đấng Mes-si-a đến. Mà Chúa Giêsu chính là Đấng Mes-si-a (chàng rể)
đã đến với loài người (nàng dâu) rồi, thì cớ gì phải ăn chay. Việc ăn chay phải
gắn liền với cuộc đời của Đức Giêsu. Do đó lúc Người vui thì con người phải
chia vui với Người. Khi Người khổ thì con người cùng chung đau khổ. Lúc Người
chết thì con người phải cùng chấp nhận chịu chết với Người. Khi Người sống lại
thì con người cũng cùng sống lại với Người.
Tóm lại, Chúa Giêsu không hề phủ nhận việc ăn
chay, nhưng qua lời giải đáp thắc mắc trên, Chúa Giêsu muốn cho biết: Người
chính là chàng rể Chúa Cha sai đến kết hôn với loài người, yêu thương loài
người và cứu độ loài người. Cũng như xác định rõ cho chúng ta biết việc ăn chay
là để dọn lòng tiếp rước Chúa. Một khi đã tiếp nhận Chúa rồi thì không cần ăn
chay nữa, trái lại phải vui mừng phấn khởi trong niềm tin yêu Chúa.
Xin cho chúng ta biết lo ăn chay hãm mình, để dọn
lòng xứng đáng đón nhận Chúa qua bàn tiệc Thánh Thể mỗi ngày, nhờ đó mà được
thông hiệp với Chúa nguồn hạnh phúc đời ta.
Suy niệm 2:
Khi giải thích cho những
người Pharisêu biết lý do tại sao các môn đệ Ngài không ăn chay, Chúa
Giêsu muốn nhấn mạnh đến những điều quan trọng sau đây:
- Thời đại đã thay đổi: Ăn
chay là một thực hành tôn giáo cũ, được thực hiện để nhằm mục đích
là chờ đợi Đấng Mêsia. Nhưng giờ đây, Đấng Mêsia đã đến và hiện diện giữa
họ, đó chính là Ngài. Vì thế các môn đệ của Ngài đang sống trong niềm vui của
thời đại mới, thời đại của Nước Trời, nên không cần phải ăn chay.
- Tinh thần của luật: Luật lệ
không chỉ đơn thuần là những quy tắc cứng nhắc. Tinh thần của luật là tình yêu
thương và lòng thương xót. Tuy việc ăn chay là một hành động tốt, nhưng nếu vì
ăn chay mà làm mất đi tình yêu thương, niềm vui tâm hồn, thì nó trở nên vô
nghĩa.
- Trọng tâm của đức tin: Chúa
Giêsu muốn chuyển trọng tâm của đức tin từ những nghi thức bên ngoài sang việc
thay đổi nội tâm. Ăn chay không phải là điều quan trọng nhất, mà quan trọng hơn
là có một trái tim khiêm tốn, yêu thương, bao dung và sẵn sàng tha thứ.
- Sự hiện diện của Nước Trời: Chúa
Giêsu muốn cho thấy rằng Nước Trời đã đến giữa nhân loại. Việc các môn đệ vui
vẻ và không ăn chay chính là một dấu chỉ cho thấy Nước Trời đang hiện hữu.
Tóm lại luật lệ không phải là những quy tắc cứng
nhắc mà là một con đường dẫn đến sự sống. Xin cho mọi người trong chúng ta biết
thực hiện các việc đạo đức trong niềm vui với tâm tình yêu mến Thiên Chúa và
tha nhân.
Suy niệm 3:
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại việc người Biệt phái thắc mắc vì sao
các môn đệ Chúa Giêsu không ăn chay. Chúa trả lời bằng hình ảnh Tân Lang: “Các
ông có thể bắt khách dự tiệc cưới ăn chay khi Tân Lang còn ở với họ sao?”
Qua đó, Chúa muốn nói: Người chính
là Tân Lang – Đấng Cứu Độ mà muôn dân mong đợi. Khi có Người hiện diện, đó là
thời của niềm vui và sự sống mới. Ăn chay khi Tân Lang còn ở đó là điều không
hợp. Tuy nhiên, Chúa cũng báo trước sẽ có lúc Tân Lang bị đem đi – đó là lúc
môn đệ ăn chay để chuẩn bị tâm hồn và trung thành với Thầy.
Tiếp theo, Chúa dạy dụ ngôn “rượu
mới – bầu da mới”: không thể vá miếng vải cũ vào áo mới, cũng không thể đổ rượu
mới vào bầu da cũ. Điều đó nhắc nhở chúng ta: Tin Mừng không phải là chắp vá
hay tô điểm cho lối sống cũ, nhưng là sức sống mới đòi ta đổi mới tận căn. Chúa
muốn chúng ta không chỉ “cải thiện” một chút, mà phải mặc lấy “con người mới”
trong Người.
Trong Năm Thánh Hy Vọng này, Hội
Thánh mời gọi chúng ta trở về với tinh thần Tin Mừng cách tươi mới hơn: bỏ lối
sống đạo hình thức, khép kín, để đón nhận niềm vui cứu độ; tập yêu thương,
khiêm nhường, bác ái và ra đi loan
báo Tin Mừng hy vọng.
Xin Chúa giúp chúng ta biết can đảm “thay bầu da mới” trong đời sống, để rượu mới của Thánh Thần – là niềm vui và hy vọng – được tuôn tràn, biến đổi chúng ta nên những chứng nhân sống động của Chúa trong xã hội hôm nay. Amen.
Thứ bảy: Lc 6, 1-5
Tin mừng hôm nay tường thuật về cuộc tranh luận
giữa Chúa Giêsu và những người Pha-ri-sêu. Lý do xảy ra cuộc tranh luận là vì
các môn đệ Chúa Giêsu bứt bông lúa ăn cho đỡ đói vào ngày Sa-bát. Nguyên nhân
chính của cuộc tranh luận này là vì bất đồng quan điểm.
- Với những người Ph-ari-sêu giữ ngày Sa-bát
là điều hết sức quan trọng. Ai vi phạm ngày này có thể bị xử tử (Xh 31, 14), bị
ném đá (Ds 15, 32-36). Vì thế hành động bứt bông lúa để ăn đối với người
Pha-ri-sêu là một hành động không thể chấp nhận được, mặc dù theo sách Đệ Nhị
Luật thì hành động này là được phép: “Khi vào đồng lúa của người đồng
loại, anh em có thể lấy tay bứt bông lúa” (Đnl 23, 26). Tuy nhiên vì
đố kỵ, ghen ghét Chúa Giêsu nên họ cho rằng việc bứt lúa và vò trong tay cũng
giống với hành vi gặt và xay lúa là một trong ba mươi chín việc không được phép
làm trong ngày Sa-bát.
- Còn theo quan điểm của Chúa Giêsu thì Thiên
Chúa lập nên ngày Sa-bát để loài người có thời gian nghỉ ngơi hầu nhớ đến công
trình tạo dựng và giải phóng của TC (Đnl 5, 14-15). Ngày Sabát đúng là ngày của
Chúa, dành cho Chúa, nhưng nó cũng là ngày phục vụ nhu cầu lợi ích cho con
người và vì con người "Ngày Sa-bát được đặt ra vì con người". Do
đó, việc các môn đệ Chúa bứt lúa ăn cho đỡ đói trong ngày Sa-bát là một nhu cầu
chính đáng vì nó phục vụ cho nhu cầu lợi ích chính đáng cho con người. Chính
vua Đa-vít và đoàn tùy tùng cũng đã vào đền thờ và đã lấy bánh dâng tiến để ăn
khi bụng đói! Nhưng vì ghen ghét và hận thù đã làm cho những người Pha-ri-sêu
trở nên mù quáng mà quên đi mục đích chính của việc giữ luật.
Để giúp cho những người Pha-ri-sêu có cái nhìn
đúng đắn về mục đích của luật, Giêsu đã không ngần ngại đối đầu với họ cho
đến cùng, dù có phải trả giá bằng cái chết trên Thập giá, tất cả là để minh
chứng rằng: chỉ có một lề luật duy nhất để tuân giữ, đó là luật yêu thương, và
chỉ có một giá trị cao cả nhất để sống và chết cho, đó là tình yêu. Sống "yêu
thương là chu toàn lề luật." (Rm 13,10).
Xin Chúa loại trừ nơi chúng ta những đố kỵ, ghen ghét tầm thường để chúng ta có được cái nhìn trong sáng đúng đắn. Và xin Chúa giúp chúng ta luôn biết sống nhân ái và bao dung với hết mọi người như Chúa đã yêu thương chúng ta. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét