SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN III MV
CHÚA
NHẬT III MÙA VỌNG, NĂM C
Lm Viki
Cùng với GH, hôm nay chúng ta bước vào Chúa
nhật thứ 3 mùa vọng, Chúa nhật màu hồng. Màu hồng diễn tả niềm vui và hy
vọng. Vui vì lễ giáng sinh kỉ niệm biến cố Con Thiên Chúa làm người cứu độ nhân
trần đã đến gần. Hy vọng vì Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng thương xót
sẵn sàng tha thứ tội lỗi và ban dư tràn ơn phúc cho ta, nếu ta biết thành
tâm sám hối, canh tân đời sống.
Để giúp ta hưởng trọn niềm vui và hy vọng ấy,
phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tích cực thực thi đức bác ái và nỗ
lực sống ngay chính trong sứ vụ và bổn phận của mình. Xin Chúa giúp mỗi
chúng ta biết khiêm tốn mở lòng đón nhận và mau mắn thi hành lời Chúa chỉ dạy.
Nhờ đó, niềm vui và hy vọng ơn cứu rỗi sẽ đến trong tâm hồn của mỗi chúng
ta.
- Bài đọc 1 trích sách tiên tri Xôphônia cho
chúng ta biết lý do tại sao dân tộc Do Thái phải vui mừng. Đơn giản là vì mặc
dù dân chúng đang sống trong tình trạng bất trung, tội lỗi; đáng ra họ phải bị
Thiên Chúa giáng họa. Nhưng với lòng thương xót, Thiên Chúa đã rộng lòng tha
thứ nên đã rút lại án phạt. Cũng thế, với tình trạng đất nước suy đồi về
đạo đức, lẽ ra họ phải chịu cảnh nước mất nhà tan. Nhưng Thiên Chúa lại yêu
thương quan phòng, bảo vệ đất nước họ vượt thoát khỏi sức mạnh giày xéo của
quân thù.
- Bài đọc 2, trích thư gửi tín hữu Philipphê.
Thánh Phaolô mời gọi các tín hữu Philipphê hãy vui luôn trong Chúa. Đây
không phải là một niềm vui hời hợt, thoáng qua bên ngoài, nhưng là niềm vui sâu
xa và vững bền. Tuy nhiên để có được niềm vui bền vững này, một mặt họ phải đặt
trọn niềm tin vào tình thương của Chúa; mặt khác họ phải tích cực sống hiền hòa
và rộng rãi với hết mọi người.
- Còn bài tin mừng hôm nay thì cho chúng ta
biết: làm thế nào để hưởng trọn niềm vui trong Chúa? Gioan Tẩy Giả với sứ mạng
dọn đường cho Chúa đến, đã thúc giục mỗi người chúng ta phải sám hối và canh
tân đời sống. Sám hối và canh tân đời sống bằng hai cách: Một là tích cực thực
thi đức bác ái. Hai là nỗ lực sống ngay chính trong sứ vụ và bổn phận của mình.
* Lời kêu gọi của Gioan Tiền Hô không chỉ
chung chung, nhưng rất cụ thể cho từng hạng người:
1. Đối với hết mọi người dân: Để
sám hối và đổi mới đời sống, Gioan Tẩy Giả kêu gọi hãy thực thi đức bác ái Kitô
giáo: “Ai có 2 áo chia người không có; ai có của ăn cũng làm như vậy”.
Bác ái Kitô giáo là việc làm vô vị lợi không màn đến danh lợi, cũng không nhằm
phô trương đánh bóng tên tuổi. Bác ái Kitô giáo không phải là cho đi những thứ
dư thừa nhưng là cho đi những gì thiết thân nhất cho nhu cầu cuộc sống của ta.
Bà góa dâng cúng 2 đồng tiền kẽm vào đền thờ là gương mẫu cho bác ái Kitô giáo.
Thật ra làm bác ái không khó. Không khó, bởi
vì thông thường chúng ta chỉ cho đi những gì dư thừa. Mỗi năm, chúng ta chỉ cần
mặc ba bốn bộ đồ hay mang vài ba đôi dép… là đủ. Nhưng thực tế, nhiều người
trong chúng ta lại sở hữu lên đến vài chục bộ đồ, hàng chục đôi giày dép, mà
những thứ dư thừa này luôn nằm im trong tủ, không bao giờ ta xử dụng đến. Nên
khi cho đi những thứ ấy không khó chút nào. Nhưng cho đi với tình thần bác ái
Kitô giáo thì không dễ, bởi nó đòi hỏi chúng ta phải chia sẻ những gì chúng ta
cần, chứ không phải những gì dư thừa. Tuy nhiên nếu chúng ta có được niềm tin
và tình yêu vào Chúa thì chúng ta sẽ làm được.
2. Còn đối với những người làm nghề thu thuế
và binh nghiệp: Đây là hai ngành nghề nhạy cảm và bị mang
tiếng là bất chính với cái nhìn của người Do Thái thời bấy giờ. Vì thế, Gioan
Tẩy Giả mời gọi họ hãy sống đúng với chức năng và nghề nghiệp mình:
+ Là người thu thuế hãy
giữ đức công bình. Đừng vì ích lợi cá nhân mà tăng thuế bòn rút xương máu đồng
bào để bỏ túi riêng.
+ Là những binh nghiệp hãy
cầm súng bảo vệ biên cương bờ cõi và giữ gìn an ninh trật tự xã hội, chứ đừng
dùng sức mạnh súng đạn mà hà hiếp, khống chế bắt nạt dân lành. Như thế, Gioan
không hề kêu gọi họ bỏ nghề nghiệp, nhưng hãy sống với nghề bằng cái tâm trong
sáng và tôn trọng quy định của luật lệ.
Mùa vọng là mùa mời gọi chúng ta dọn tâm hồn
để Chúa đến, đem niềm vui ơn cứu độ. Nhưng để xứng đáng hưởng niềm vui ơn cứu
độ ấy, ta cần phải lắng nghe tiếng Chúa qua lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả mà
chừa bỏ những đam mê tội lỗi, những dục vọng bất chính và nỗ lực canh tân đời
sống bằng cách tích cực thi hành đức bác ái Kitô giáo theo khả năng và chức
phận của mình trong tinh thần khiêm tốn. Làm được như thế, chắc chắn ta sẽ cảm
nhận được niềm an vui sâu xa nơi tâm hồn. Một niềm an vui trọn vẹn và bền
vững “không ai sẽ lấy mất được” (Ga 16,22).
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tích cực chu
toàn tốt bổn phận hàng ngày và nỗ lực thi hành tốt đức bác ái kitô giáo trong
môi trường gia đình và ngoài xã hội. Được như vậy, ta mới cảm nhận được
niềm an vui ơn cứu độ của Chúa qua từng phút giây trong đời sống.
17/12. Thứ hai: Mt 1,1-17
Theo lịch phụng vụ, hôm nay chúng ta bước vào
giai đoạn thứ hai của mùa vọng. Giai đoạn này kéo dài một tuần lễ, từ ngày 17
đến 24 tháng 12, nhằm chuẩn bị gần để mừng đại lễ Giáng Sinh, tưởng niệm biến
cố Chúa Kitô đã ngự đến trần gian lần thứ nhất trong lịch sử nhân loại.
Khởi đầu cho gia đoạn này, GH cho chúng ta
nghe lại bảng gia phả của Chúa Giêsu Kitô do thánh sử Matthêu trình bày. Có lẽ
mỗi khi đọc hay nghe bảng gia phả này, chúng ta cảm thấy không có gì lý thú.
Nhưng nếu đọc kỹ với tâm tình cầu nguyện, chúng ta cũng cảm nhận nhiều điều
Chúa muốn nói với ta. Rất riêng, tôi cảm nhận 3 điều:
1. Trước hết bảng gia phả này muốn minh chứng Đức Giêsu là Đấng Messia và là Người Con của lời hứa.
- Theo Tin mừng của thánh Luca thì gia phả
của Chúa Giêsu được tính từ thời thánh Giuse lên đến thời tổ tông loài người là
ông Ađam. Còn bảng gia phả của thánh Matthêu lại bắt nguồn từ tổ phụ Abraham
trở xuống. Nhưng lại nhấn mạnh đến tước vị của Đức Giêsu là Chúa Giêsu Kitô là
con vua David và con của Abraham.
- Rồi đến con số 14. Matthêu chia bảng gia
phả thành 3 phần bằng nhau, với 3 thời kỳ. Mỗi thời kỳ gồm có 14 đời: từ
Abraham đến vua David, 14 đời. Từ vua David đến thời lưu đày Babylon, 14 đời.
Từ thời lưu đày Babylon đến Chúa Giêsu Giáng sinh, 14 đời. Có thể cách chia như
vậy không chính xác lắm, nhưng Matthêu muốn nhấn mạnh đến con số 14 là để minh
chứng nguồn gốc xuất thân của Đức Giêsu gắn liền với dòng tộc vua David. Bởi
theo tiếng Hy Bá Lai thì người ta chỉ viết các phụ âm thôi, còn người đọc phải
thêm các nguyên âm vào sau phụ âm theo ý nghĩa của mạch văn. Mà tên David được
viết là D+V+D. Nếu tính theo giá trị con số thì D=4; V=6; D=4, như vậy tổng giá
trị của các phụ âm này là 4+6+4= 14.
* Những điều trên, Matthêu ngầm minh chứng
cho người Do Thái hiểu rằng: Đức Giêsu chính là đấng Messia, bởi được sinh ra
trong dòng tộc vua David; đồng thời Ngài cũng là con của Abraham, nghĩa
là Người Con của lời Chúa hứa.
2. Tiếp đến bảng gia phả nhấn mạnh đến tình
thương và ơn cứu độ phổ quát của TC.
Trong bảng gia phả, Matthêu nêu tên rất nhiều
hạng người. Trong đó có những người tốt lành thánh thiện nhưng cũng không ít
những người xấu xa, tội lỗi. Đặc biệt trong đó có nêu tên 4 người phụ nữ. Mà
những người phụ nữ này đều có vấn đề.
- Nàng Thamar: là con dâu của gia đình
Giu-đa. Nhưng sau khi chồng nàng chết, gia đình Giuđa lại không cưới nàng cho
người con út theo tập tục Do Thái, nên nàng đã giả dạng làm kỹ nữ mà ăn ở với
ba chồng là ông Giuda để sinh con nối dõi tông đường (St 38).
- Nàng Rahab: là kỹ nữ người Giêricô. Nàng có
công trong việc che giấu những người thám thính thời ông Giô-sê. (x. Gs
6,22-25)
- Nàng Rút: là thiếu nữ dân ngoại, người
Mô-áp. Nhưng vì lòng hiếu thảo với mẹ chồng đã về chung sống tại Bêt-lem và kết
hôn với Booz là ông cố nội của vua Đavit.
- Nàng Bat-sa-ba vợ của Uria: Nhưng bà đã
ngoại tình với vua Đavit và đã sinh ra vua Salomon (x. 2Sm 11, 2-12,25).
Cho dẫu dòng tộc ấy có nhiều bất toàn, nhưng
Đức Giêsu đã sẵn sàng đi vào dòng tộc đó. Người chấp nhận gắn kết đời mình với những
con người tội lỗi và ngoại giáo. Tất cả nhằm minh chứng cho một tình yêu lớn
lao và ơn cứu độ phổ quát mà TC dành cho hết mọi người.
3. Cuối cùng bảng gia phả xác quyết Đức Giêsu
chính là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế.
Ngay từ đầu nếu để ý, ta nhận thấy bảng gia
phả trình bày theo thứ tự ông này sinh ra ông kia. Nhưng khi đến Chúa Giêsu thì
Matthêu lại không trình bày theo nguyên tắc ấy mà Matthêu lại cho biết Đức
Giêsu được sinh ra bởi một người nữ tên là Maria, do quyền năng của Thánh Thần.
Điều này minh chứng cho biết Đức Giêsu được sinh ra không bởi người nam, nhưng
do quyền năng của Thánh Thần. Nên Ngài thuộc dòng dõi thần linh, là Con Thiên
Chúa và là Đấng Cứu Thế mà TC đã hứa ban cho nhân loại ngay sau khi nguyên tổ
phạm tội.
Kế hoạch của TC thật vĩ đại, khó hiểu với đầu
óc hạn hẹp của con người. Từ một dân tộc bất trung, phát xuất từ những con
người nhiều tội lỗi, nhưng TC lại chấp nhận đi vào dòng lịch sử và dòng đời có
nhiều bất toàn ấy, để hoàn thành chương trình cứu độ theo lời hứa của Người một
cách kì diệu đến ngỡ ngàng!
Trước kế hoạch kì diệu của TC, xin cho chúng
ta biết khiêm tốn mở lòng đón nhận mầu nhiệm ơn cứu độ của Người bằng tâm
tình cảm mến tri ân. Nhất là biết sống bao dung, tha thứ và hòa hợp với hết mọi
người, bởi ý thức rằng Chúa đã chấp nhận đi vào cuộc đời ta là những kẻ tội
lỗi, để Người yêu thương tha thứ và cứu độ ta.
Suy niệm 2:
Khi đọc và suy niệm về bảng gia phả của Đức
Giêsu, chúng ta không khỏi ngạc nhiên, bởi vì: Đức Giêsu là Thiên Chúa thánh
thiện, tốt lành vô cùng. Nhưng vì quá yêu thương nhân loại lỗi lầm nên Chúa đã
chấp nhận xuống thế làm người và đã sinh ra trong một dòng tộc bao gồm đủ mọi
thành phần. Trong đó có người tốt, nhưng đa phần lại là những người xấu và tội
lỗi như: tổ phụ Giacóp đã giành quyền trưởng nam của anh mình; Đavít vị
vua tốt lành nhưng lại cướp vợ Uriagia; Salômôn vị vua khôn ngoan nhưng lại sa
đọa; bà Rút là dâu hiền nhưng lại là dân ngoại; Tama là gái
điếm; Bathsheba vợ của ông Urigia nhưng lại chấp nhận cho vua Đavít
cưỡng đoạt … Qua đó cho ta hiểu rằng: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn,
ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5, 20). Chúa chấp nhận đi vào dòng lịch
sử nhân loại với đầy những khiếm khuyết để chia sẻ, đồng cảm nhằm cứu độ nhân
loại tội lỗi. Đó quả là ân sủng lớn lao mà Thiên Chúa dành cho con người.
Mỗi người chúng ta khi sinh ra cũng được
Thiên Chúa sắp xếp trong một đất nước, một dân tộc và một gia cảnh khác nhau.
Nơi ấy người tốt và người xấu cùng sống chung với nhau. Là những Kitô hữu, Chúa
còn đặt chúng ta vào trong môi trường, hoàn cảnh gia đình và Họ đạo, xã hội…
khác nhau. Môi trường, hoàn cảnh ấy bao giờ cũng có người tốt kẻ xấu; thánh
thiện và tội lỗi; công chính và bất lương... Môi trường và hoàn cảnh mà chúng
ta đang sống có khi thuận lợi, nhưng lắm khi cũng gặp phải rất nhiều khó khăn,
bất lợi. Dẫu vậy, chúng ta phải luôn tin rằng: “Ơn Ta
đủ cho con” (2Cr 12,9).
Xin Chúa cho chúng ta biết vui lòng đón nhận
tất cả mọi người, mọi nghịch cảnh xảy ra nơi gia đình cũng như xã hội chúng ta
đang sống, mà không kêu ca, phản kháng. Trái lại luôn biết đặt tin tưởng phó
thác vào đường lối nhiệm mầu của Thiên Chúa để nỗ lực thi hành tốt ơn gọi và
bổn phận của mình theo thánh ý Chúa, Ngõ hầu mang niềm vui Tin mừng của Chúa
đến cho mọi người.
18/12. Thứ ba: Mt 1,18-24
Thánh Giuse được GH gọi là thánh cả, bởi nơi
ngài có rất nhiều nhân đức cao trọng. Nhưng nếu đặt biến cố thiên thần Gabriel
truyền tin cho thánh Giuse trong bố cảnh mùa vọng, thì lời Chúa hôm nay như mời
gọi chúng ta hãy học nơi thánh Giuse mẫu gương của cầu nguyện và thi hành đức
bác ái, nhằm chuẩn bị tâm hồn xứng hợp để đón mừng mầu nhiệm giáng sinh gần kề.
1. Thánh Giuse mẫu gương của cầu
nguyện.
Để
nhận ra thánh ý Chúa, điều kiện tiên quyết phải là gắn bó mật thiết với Chúa
bằng đời sống cầu nguyện. Nói như thế, thì thánh Giuse chính là mẫu gương của
cầu nguyện. Chắc hẳn cả đời thánh Giuse phải là lời cầu nguyện liên lỉ, nhờ đó
mà ngài dễ dàng nhận ra thánh ý Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời.
Tin mừng
cho biết ít nhất có 3 lần thánh Giuse được Thiên Thần Chúa báo mộng:
- Lần thứ
nhất: Tin mừng cho biết, trước khi về chung sống với Đức
Maria, thì Đức Maria đã mang thai. Nhận ra điều đó, thánh Giuse đã định
tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng nhờ âm thầm gắn bó với Chúa bằng đời sống cầu
nguyện mà thánh Giuse đã nhạy bén nhận ra Đức Mẹ chịu thai là bởi quyền năng
Chúa Thánh Thần. Còn Hài Nhi mà Đức Maria đang mang là Đấng Emmanuel, nghĩa là
Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Vâng theo lệnh truyền của Chúa, ngay lập tức thánh
Giuse đã đón nhận Maria về nhà làm bạn mình.
Lần thứ
hai: Vì lo sợ mất ngai vàng nên nhà vua Hêrôđê đã ra lệnh tìm cách giết Hài
Nhi. Nhận biết điều đó qua lời mộng báo của Thiên Thần, thánh Giuse đã nhanh
chóng đưa Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập để lánh nạn.
Lần thứ
ba: Sau khi vua Hêrôđê băng hà, lập tức thánh Giuse lại được thiên thần Chúa
báo mộng lần nữa là đem Hài Nhi trở về lại quê hương. Thánh nhân đã
vâng phục thánh ý Chúa, đưa gia đình về Palestin và sống ẩn dật tại làng quê
Nagiarét.
Như thế
thì trong bất cứ hoàn cảnh nào, thánh Giuse cũng đều nhạy bén nhận ra thánh ý
của Chúa và mau mắn thi hành. Có được như vậy là vì ngài luôn sống mật thiết
với Chúa trong bầu khí của âm thầm cầu nguyện.
2. Thánh Giuse mẫu gương đời sống bác ái.
Biết được Đức Maria mang thai mà tác giả
không phải là của mình, thay vì theo phản ứng tự nhiên thánh Giuse chỉ cần đưa
Đức Maria ra tố cáo. Chắc chắn Đức Maria sẽ bị ném đá cho đến chết chiếu theo
luật Do Thái thời bấy giờ. Nhưng thánh Giuse đã không hành xử như thế. Trái
lại, ngài chọn giải pháp âm thầm rút lui bằng cách “định tâm lìa bỏ bà
cách kín đáo”. Cách xử như thế cho thấy thánh Giuse là một con người
độ lượng và giàu lòng bác ái.
Hơn thế nữa để chăm sóc Đức Maria không phải
là vợ của ngài đúng nghĩa và nuôi dưỡng Chúa Giêsu không phải là con ruột ngài,
trong một hoàn cảnh khó nghèo nơi làng quê Nazareth sẽ không dễ dàng chút nào.
Cuộc sống ấy đòi hỏi thánh Giuse phải hy sinh rất nhiều. Nếu không có tình bác
ái cao thượng, chắc hẳn ngài sẽ không chu toàn tốt được sứ mạng mà Thiên Chúa
trao phó.
Mùa vọng sắp kết thúc, đây là thời điểm chúng
ta phải chuẩn bị mọi thứ linh tinh bên ngoài để mừng đại lễ Giáng sinh. Là
những người kitô hữu, xin cho chúng ta đừng quá mãi mê thế sự mà quên đi chuẩn
bị tâm hồn xứng hợp để cho Chúa ngự vào. Cách chuẩn bị xứng hợp nhất trong
những ngày này là ta hãy cố gắng chu toàn tốt bổn phận cầu nguyện và nỗ lực
sống tình bác ái với nhau, theo mẫu gương của Thánh Giuse.
19/12 . Thứ tư: Lc 1, 5-25
Gần đến lễ giáng sinh sẽ có rất nhiều niềm
vui bất ngờ đến với ta. Niềm vui khi nhận được những cánh thiệp giáng sinh xinh
xinh của những người quen. Niềm vui khi đọc được những dòng tin nhắn chúc mừng
giáng sinh thật ý nghĩa của người thân yêu. Niềm vui khi đón nhận được những
món quà giá trị do bạn bè gửi tặng. Vui vì được sum hợp bên gia đình với những
bữa cơm đầm ấm của ngày lễ…
Tin mừng hôm nay cũng nói đến niềm vui bất
ngờ mà TC hứa sẽ tặng ban cho ông bà Giacaria và Elisabeth. Đó là bà "Elisabeth vợ
ngươi sẽ hạ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên trẻ là Gioan”.
Đây quả là một món quà vô cùng lớn lao mà TC
thương ban cho ông bà. Cao quý bởi vì quà TC ban tặng không phải là món quà vật
chất, nhưng chính là người con mà ông bà luôn hằng mong mỏi đợi chờ. Cao quý vì
với qùa tặng này TC sẽ làm tan biến hết mọi nỗi tủi nhục mà hai ông bà đã gánh
chịu suốt bao năm dài. “Chúa đã làm cho tôi thế nầy, trong những ngày
Người đoái thương, cất nổi khổ nhục tôi khỏi người đời”.
Có lẽ chính vì quá bất ngờ trước hồng ân lớn
lao mà TC thương ban, nên đã làm cho ông Giacaria vui mừng đến ngỡ ngàng đến
nỗi không thể thốt nên lời! Chỉ có thinh lặng trong cầu nguyện, Giacaria mới có
thể cảm nếm được thế nào là mầu nhiệm tình thương cao cả của TC.
Tuy nhiên, để đón nhận được món quà cao quý
và tận hưởng niềm vui lớn lao ấy, ông Giacaria và bà Elisabeth đã phải nỗ lực
sống đời công chính và âm thầm cầu nguyện trong gần hết cuộc đời.
Muà giáng sinh này chắc mỗi chúng ta cũng có
những niềm vui. Nhưng niềm vui lớn nhất vẫn là niềm vui được Thiên Chúa yêu
thương nên đã ban tặng cho ta chính Người Con yêu quý của Người là Hài
Nhi Giêsu. Xin cho chúng ta cảm nhận được niềm vui lớn lao đó mà kiên tâm sống
đời công chính và kiên trì cầu nguyện để đón nhận được niềm vui ơn cứu độ.
20/12. Thứ năm: Lc 1, 26-38
Tin mừng hôm nay thuật lại biến cố Thiên Thần
Gabriel truyền tin cho Đức Maria, khởi đầu cho chương trình cứu độ đầy yêu
thương của Thiên Chúa dành cho con người. Để thực hiện chương trình cứu độ,
Thiên Chúa đã chọn gọi Đức Maria cộng tác trong việc cưu mang và sinh hạ Đấng
Cứu Thế và Đức Maria đã đáp lời bằng hai tiếng “xin vâng”.
Mỗi khi đọc “kinh kính mừng” là chúng ta nhắc
lại lời sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria khi xưa: “kính mừng
Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phước lạ hơn mọi người nữ….” .
Lời truyền tin này là một lời chào chúc quý
giá và mang giá trị hết sức cao cả. Bởi lẽ, có ơn phúc nào cao lớn cho bằng ơn
phúc được Thiên Chúa ở cùng (chính Chúa là nguồn mọi ơn phúc và Đấng
ban ơn phúc. Được Thiên Chúa ở cùng thì có mọi ơn phúc nơi mình rồi). Và có
hạnh phúc nào lớn bằng hạnh phúc được Thiên Chúa ưu ái chọn làm Mẹ Thiên
Chúa. (Được chọn làm mẹ vua đã là vinh dự và ơn phúc quá lớn rồi huống
chi là Mẹ Vua Trời).
Ý thức sứ mạng cao quý ấy trong vui mừng khôn
tả vượt trí hiểu, Đức Maria đã bối rối và tự hỏi lời chào ấy có ý nghĩa như thế
nào? Nhưng sau khi được Thiên Thần giải thích, Đức Maria biết đó là ý định
Thiên Chúa, dù không hiểu hết, nhưng Đức Maria vẫn khiêm tốn ngoan ngoãn vâng
nghe.
Có nhiều điều xảy ra trong đời sống vượt
ngoài trí hiểu và khả năng chúng ta, chúng ta cảm thấy không thể thực hiện
được, nhưng “đối với Thiên Chúa thì mọi chuyện đều có thể”. Từ
không, Chúa đã sáng tạo nên vũ trụ vạn vật chỉ bằng lời phán truyền. Từ bùn
đất, Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Bằng quyền năng,
Thiên Chúa đã làm cho bà Isave cao niên và son sẻ mang thai và sinh con.
Nên việc cưu mang và hạ sinh Đấng Cứu Thế vẫn đồng trinh đối với Đức Maria là
chuyện bình thường. Do đó, nếu ta biết tin tưởng và khiêm tốn để Chúa hành động
nơi cuộc đời của ta như Đức Maria, thì Chúa cũng sẽ làm những điều kì diệu trên
đời ta.
Tuy dẫu Thiên Chúa quyền năng làm được mọi
sự. Nhưng Thiên Chúa lại yêu thích con người cộng tác với Chúa.
Để chọn gọi dân riêng, Chúa đã mời gọi tổ phụ
Abraham cộng tác, và Abraham đã vâng lời bỏ xứ sở ra đi theo ý định Thiên Chúa.
Thế là một dân riêng của Chúa đã hình thành.
Để cứu dân tộc Israel ra khỏi kiếp nô lệ bên
Ai cập, Thiên Chúa đã mời gọi Môsê cộng tác, dù sợ hãi về sự kém cỏi của mình,
Môsê vẫn vâng phục ý muốn của Chúa. Thế là cuộc giải phóng đã hoàn tất.
Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa chọn Đức
Maria, một người thiếu nữ bình thường, nghèo khó làm mẹ Đấng Cứu Thế và Mẹ đã
ngoan ngoãn tin tưởng vâng nghe. Thế là chương trình cứu độ từ ngàn đời của
Thiên Chúa được thực hiện.
Để cứu độ mỗi chúng ta, Chúa cũng mời gọi
chúng ta hợp tác với Chúa. Như thánh Augustinô đã nói: “Chúa dựng nên
con Chúa không cần con, nhưng để cứ độ con Chúa cần con cộng tác”.
Xin cho chúng ta biết noi gương Đức Maria
biết khiêm tốn và ngoan ngoãn vâng theo thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh
mà tích cực cộng tác với ơn cứu độ của Chúa để cứu chính mình và qua ta ơn
cứu độ đến được với tha nhân.
21/12. Thứ sáu: Lc 1,39-45
Sự kiện Đức Maria ra đi thăm viếng
bà Isave để lại cho chúng ta hai bài quý giá.
1. Bài học của từ bỏ hy sinh
Khi chấp nhận ra đi thăm người chị họ Isave
là Đức Maria đã sẵn sàng chấp nhận từ bỏ:
- Bỏ mái ấm gia đình với những gì đang có, như sự yên hàn, những tiện nghi,
dẫu là tiện nghi tối thiểu.
- Bỏ lại những công
việc gia đình hàng ngày và những thói quen nhỏ nhặt.
- Bỏ những bận tâm lo
lắng cho bản thân và gia đình mình.
Từ bỏ những gì quen thuộc
với mình là điều rất khó. Thế nhưng, nếu không dám từ bỏ thì không thể lên
đường.
Sự cất bước lên lên đường
của Đức Maria cần phải hy sinh.
- Hy sinh chỗ ở thân
quen, chỗ nằm êm ấm cho dẫu là nhà tre vách lá, chiếu rách giường xiêu.
- Hy sinh mang lấy hành
trang nặng nề trên vai gầy và tiến bước nặng nhọc đang lúc lòng mang dạ chữa.
- Hy sinh chịu gian lao
thử thách để băng qua những vùng đồi núi, sa mạc, giữa bầu trời nắng gắt với
bao là hiểm trở, đói khát dọc đường.
Đến với những nơi phồn
hoa phố thị, vào với những biệt thự sang trọng, gặp gỡ những đại gia, được đón
tiếp nồng hậu, được thết đãi bởi những bữa ăn cao lương mỹ vị đã là một hy
sinh; huống chi ra đi đến những nơi đèo dốc hiểm trở, vào ở trong ngôi nhà
nghèo nàn như nhà của Giacaria có lẽ chẳng ai muốn bao giờ. Hơn nữa đến viếng
thăm gia đình của Giacaria chẳng phải được phục vụ, trái lại Đức Maria còn phải
phục vụ chăm sóc cho bà Isave trong lúc sắp sinh nở quả là một hy sinh lớn lao.
Nhưng điều mà con người
không muốn ấy, thì Đức Maria lại thực hiện nhanh chóng bằng cách "vội
vả lên đường".
Động lực nào đã thúc đẩy
Đức Maria ra đi thăm viếng bà Isave? Nếu không phải xuất phát từ tình yêu.
Chính tình yêu là động lực giúp cho Đức Maria sẵn sàng từ bỏ, chấp nhận hy sinh
để ra đi thăm viếng và giúp đỡ người chị họ mình trong lúc khó khăn. Chính tình
yêu thúc bách Đức Maria ra đi để chia sẻ niềm vui. Vui vì đang cưu mang Đấng
Cứu Thế. Niềm vui ấy mong muốn được chia sẻ cùng người chị họ và cho gia đình
Giacaria. Vui vì "có Chúa ở cùng".
2. Bài học của yêu thương
phục vụ.
Không chỉ đơn thuần thăm viếng để chia sẻ
niềm vui, Mẹ còn chấp nhận hy sinh thời giờ và công việc gia đình để ở lại với
người chị họ, không phải một giờ, hai giờ, một ngày, hai ngày mà là suốt ba
tháng dài.
Ở lại không phải để được phục vụ, để sống
trong cảnh nệm êm chăn ấm, nhưng là để giúp đỡ người chị họ đang mang thai và
sinh con trong lúc tuổi già. Đức Maria "đến để phục vụ chứ không
phải được phục vụ".
Ngày nay, thời đại văn minh, tiến bộ con
người không còn nhiều thời gian thăm viếng nhau. Có chăng người ta chỉ thăm
nhau bằng một cú điện thoại hay vài hàng chữ qua Email, họa hiếm lắm người ta
mới đến với nhau với tính cách xã giao, hời hợt. Giữa cuộc sống bộn bề lo toan
cơm áo gạo tiền, vất vả nhọc nhằn, việc đến thăm nhau chân tình là điều rất
quý. Nhất là thăm viếng mục vụ, lại là việc làm cao quý biết bao.
Thăm viếng một bệnh nhân để lắng nghe họ tâm
sự cũng là góp phần chữa lành họ. Có mặt bên cạnh một một gia đình đang gặp
chuyện bất hoà để chia sẻ nỗi niềm của họ cũng là góp phần hàn gắn gia đình họ
trước nguy cơ rạn vỡ. Thăm viếng những gia đình trễ nãi, ngụi lạnh để hâm nóng
lại tình người, tình Chúa, cần thiết lắm thay! Thăm viếng những gia đình nghèo
khổ, những người bệnh nhân già yếu để chia sẻ, an ủi, động viên và cũng cố đức
tin là nhiệm vụ hết sức quan trọng của người kitô hữu và rất cần thiết trong
những ngày cuối mùa vọng này.
Xin Chúa cho chúng ta biết noi gương Mẹ Maria
trong mùa vọng và giáng sinh này biết tích cực lên đường đem Chúa đến với tha
nhân trong niềm vui chia sẻ và phục vụ chân thành. Hầu niềm vui ơn cứu độ
của Chúa được lan tỏa đến với mọi người và mọi nơi.
22/12. Thứ bảy: Lc 1, 46-56
Trong
những ngày cuối cùng của mùa vọng này, có lẽ không có tâm tình nào xứng hợp hơn
cho bằng tâm tình tạ ơn. Nhưng tâm tình tạ ơn cao đẹp nhất vẫn là tâm tình ngợi
khen của Đức Mẹ qua lời kinh Magnificat.
Chính
vì thế mà giờ phút này, chúng ta cùng hiệp với tâm tình của Mẹ Maria trong lời
kinh ngợi khen (Magnificat) để dâng lên Thiên Chúa lời tôn vinh cảm tạ
vì “biết bao điều trọng đại Chúa đã làm” trên cuộc đời chúng
ta. Một trong muôn điều trọng đại ấy là Chúa đã thương ban cho chúng ta được
làm người và làm con Chúa.
Xin cho chúng ta biết noi gương Mẹ Maria, sẵn
sàng mở lòng đón nhận mọi ơn ban của Chúa, và tích cực đáp trả cách trọn vẹn ơn
gọi và sứ mạng Chúa trao ban, để cộng tác tích cực vào công trình cứu độ của
Thiên Chúa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét