SUY NIỆM LỜI
CHÚA TUẦN IV MÙA VỌNG
Thứ hai, ngày 24/12: Lc 1,67-79
Trong ngày cuối cùng của mùa vọng này, Giáo hội mời gọi chúng
ta cùng hợp ý với ông Giacaria dâng lên Thiên Chúa tâm tình tri ân chúc tụng
qua bài ca Benedictus. Hiệp với
Giacaria, chúng ta hãy hướng nhìn về quá khứ, hiện tại và tương lai để tạ ơn và
chúc tụng Thiên Chúa tình thương.
1. Hướng
nhìn về quá khứ.
Nhìn lại quá khứ, Giacaria nhận thấy Chúa là Ðấng
thành tín và đầy yêu thương. Vì yêu thương con người, nên ngay khi nguyên tổ
phạm tội, Thiên Chúa đã hứa ban Đấng cứ độ. Để khởi đầu thực hiện lời hứa này,
Thiên Chúa chọn gọi tổ phụ Abraham làm cha của kẻ tin và kí kết với ông lời
giao ước cứu độ. Trãi qua dòng lịch sử với những biến cố thăng trầm của dân tộc
Israel, Thiên Chúa vẫn hằng trung tín. Ngài không hề quên lời hứa qua việc
sai các ngôn sứ, các tiên tri loan báo và chuẩn bị tâm hồn cho dân đón nhận vị
cứu tinh quyền thế. Ngài đến “để cứu ta thoát khỏi địch thù,
thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét, sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên vì nhớ
lại lời xưa giao ước”.
2. Hướng
nhìn vào hiện tại.
Nhìn vào hiện tại, Gia-ca-ri-a quá đổi vui mừng vì được Chúa
thương ban người con yêu quý là Gioan Tẩy Gỉa. Trước biến cố lạ lùng
này, Gia-ca-ri-a như nhìn thấy một tia sáng hy vọng ở cuối chân trời
khi nói tiên tri về sứ mạng của người con ông: “với tư cách Tiền hô, con trẻ rồi đây sẽ
công bố sứ điệp, chuẩn bị lòng dân đón nhận Đấng Cứu Thế, khơi dậy trong tâm hồn Dân
Chúa lòng khát khao ơn cứu độ”. Ơn cứu độ này được thực hiện suốt dòng lịch
sử dân Chúa và sẽ được thành toàn nơi Đức Kitô, Đấng cứu độ bằng tình
thương tha thứ.
3. Hướng
nhìn đến tương lai
Gia-ca-ri-a kết thúc bài thánh ca bằng cách cho chúng ta biết:
Thiên Chúa hằng tỏ lòng nhân nghĩa với chúng ta. Chính vì lòng nhân nghĩa mà “Vầng Đông từ cao vời viếng
thăm ta". "Vầng Đông"
chính là Đấng Mêsia, Đấng Kitô của Thiên Chúa. Ngài sẽ soi sáng những kẻ
ngồi trong bóng tối sự chết như những lữ khách lạc đường đợi trời sáng để tiếp
tục cuộc hành trình, và dẫn đưa họ tiến bước trong bình an.
Tâm tình của Giacaria mở ra con đường đầy hy vọng cho Dân
Chúa, đồng thời cũng là lời mời gọi chúng ta hãy dâng lên Chúa lời Chúc tụng,
ngợi khen vì muôn ơn lành Chúa thương ban cho ta.
Ước gì trong những giờ phút này, khi đang bận rộn chuẩn
bị cho lễ Giáng Sinh, chúng ta đừng quên dành chút thời giờ hướng
về quá khứ để cảm tạ muôn ơn lành Chúa đã thương ban trong
suốt một năm qua.
Ước gì trong giờ phút hiện tại này, lòng chúng ta
cũng ngập tràn niềm vui và hạnh phúc như ông Giacaria, vì mỗi người chúng ta đã
chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng chờ đón Chúa đến viếng thăm.
Xin cho bây giờ và mãi mãi chúng ta luôn biết
phụng thờ Chúa suốt cả đời, bằng đời sống thánh
thiện, công chính trước nhan Ngài. Amen
Thứ ba, ngày 25/12
Mừng lễ Chúa Giáng sinh
Suy niệm 1.
Theo quan niệm dân gian, người ta cho rằng ngày 11 tháng 12
năm 2013 đã qua, được gọi là “ngày của trăm năm” hay ngày “tiến lên” trong
thế kỷ 21.
Thực ra đây chẳng phải là ngày tốt hay xấu. Đó chỉ là ngày có
con số đẹp, lạ và ngộ nghĩnh theo sắp xếp kiểu tiến lên như 11-12-13. Bởi vì điều
làm nên giá trị cho ngày đẹp đó là mỗi thế kỷ chỉ xuất hiện một lần. Vì thế,
người ta gọi đây là “ngày của trăm năm”.
Theo tác giả Phạm Hồng Phước thì “bất luận thế nào, do đây là
ngày đặc biệt, cả trăm năm mới có một lần, người ta có thể nghĩ về chúng theo ý
thích của mình. Nhưng gạt qua một bên chuyện tốt-xấu, không ai có thể phủ nhận
đây là ngày rất đẹp. Và vì vậy, trong ngày đẹp hết sức hiếm hoi như vậy, ta nên
đánh dấu chúng bằng những sự kiện, việc làm gì đó thật là đẹp. Thí dụ, tặng cho
“người dưng khác họ chẳng nọ thời kia” một món quà thật xinh, một lời khích lệ
hay một nụ hôn chân thành…
Nếu ngày 11/12/13 là ngày đặc biệt theo cái nhìn của người
đời, thì ngày 25/12/2018, ngày mừng kỉ niệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh làm người
phải là một ngày hết sức đặc biệt đối với người kitô hữu chúng ta.
Đặc biệt không bởi con số của năm tháng, ngày giờ. Nhưng đặc
biệt bởi ngày này năm xưa Ngôi Lời Thiên Chúa đã đến trong thế gian và làm
người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi, để cứu độ chúng ta.
Đặc biệt là nhờ Người mà muôn vật, muôn loài được tạo thành.
Đặc biệt bởi chính Ngài là sự sống và là Đấng ban sự sống.
Người cũng chính là Ánh sáng và là Ánh sáng thật.
Ngài đến để xua tan bóng tối tội lỗi, chia rẽ, hận thù… để đem
đến cho nhân loại ánh sáng tình thương cứu độ.
Nếu ngày 11/12/13, tác
giả Phạm Hồng Phước nhắc nhở con người làm một nghĩa cử cao đẹp dành cho tha
nhân, thì ngày Giáng sinh hôm nay, chúng ta cũng được Ngôi Lời Thiên Chúa kêu
mời hãy thắp lên cho tha nhân ánh sáng của niềm hy vọng bằng những cử chỉ đẹp.
Hãy thắp lên ánh sáng yêu thương chân thành cho những ai
còn đang lạc bước trong bóng tối của đố kị ghen ghét.
Hãy thắp lên ánh sáng của hòa giải tha thứ cho những ai còn
bước đi trong bóng tối của hận thù, chia rẽ.
Hãy xua tan bóng đêm của đau khổ, thất vọng bằng ánh sáng
cảm thông an ủi; bóng tối của nghèo đói bằng ánh sáng quảng đại cho đi; của
bóng đêm sự chết bằng ánh sáng niềm vui sự sống….
Mừng ngày lễ giáng sinh chỉ có ý nghĩa khi chúng ta biết tiếp
nhận sự sống và ánh sáng mà Ngôi Lời Thiên Chúa đem đến.
Xin cho mỗi người trong chúng ta biết can
đảm xua trừ bóng đen của tiền tài, danh vọng, lạc thú trần thế vây hãm nhờ tin
nhận và thông phần vào ánh sáng thần linh của Ngôi Lời Thiên Chúa làm người.
Qua đó chúng ta mới có thể trao ban ánh sáng niềm vui, hy vọng và sự sống của
Chúa cho tha nhân.
Suy Niệm 2.
Chắc chúng ta còn nhớ vào thứ tư, ngày 11 tháng 2012, Đức
Thánh Cha Phanxicô đã được bình chọn là nhân vật của năm. Đây là
truyền thống của báo Time có từ năm 1927 và mỗi năm như vậy, họ chọn một nhân
vật, một phong trào làm người hay sự kiện nổi bật của năm đó. Một nhân vật nào được Time tuyển chọn, ban biên tập sẽ
dành một bài báo đặc biệt nói về vị đó.
Trong bài viết nói về ĐTC Phanxicô lần này,
báo Time ca ngợi ĐTC có đời sống khó nghèo, đơn
sơ khiêm tốn, đặc biệt là ngài luôn quan tâm đến người nghèo. Ảnh hưởng của ĐTC
đã làm bừng lên sức sống của Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ, nhất là tại các nước
Âu Mỹ.
Giới báo chí thế giới cũng đã đặt cho ĐTC
Phanxicô những danh hiệu như: “Giáo Hoàng Của Người Nghèo”; “Giáo
Hoàng Của Quần Chúng”... Những tin tức Đức Thánh Cha tỏ lòng thương yêu người
nghèo, bệnh tật, gần gũi với mọi người đều được các hãng thông tấn quốc tế loan
truyền cách rộng rãi.
Nếu báo giới năm ấy không ngớt lời ca khen Đức Thánh Cha
Phanxicô và bình chọn ngài là nhân vật của năm vì đời sống nghèo khó, đơn sơ,
khiêm tốn và sự gần gũi thân tình với mọi người, nhất là người nghèo. Thì cách
đây hơn 2000 năm, một nhân vật trọng đại đã xuất hiện. Đời sống của Người đã
trở nên trung tâm và khuôn mẫu cho mọi người, ở khắp mọi nơi, qua mọi thời đại
. Chính đời sống khó nghèo, đơn sơ bình dị và tình yêu lớn lao, Người trở nên
nguồn cảm hứng và động lực mạnh mẻ, làm ảnh hưởng đến bao lớp người trên thế
giới; trong đó đặc biệt có Đức Giáo Hoàng Phanxicô kính yêu của chúng ta. Nhân
vật đó chính là Đức Giêsu Kitô.
Ảnh hưởng bởi cách thế hiện
diện củaNgài.
Như lời Thánh Phaolô viết trong thư gửi tín hữu Philiphê:
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy
trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh
quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như
người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng
chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2:6-8)
Là một Thiên Chúa cao sang, quyền thế nhưng Người
không nhất quyết chọn nơi sinh ra ở cung điện diễm lệ, trong sự đầy
đủ vật chất giàu sang. Trái lại Người chấp nhận sinh ra trong
cảnh hang đá đơn sơ, khó nghèo. Ngài nghèo khó đến độ không
có một chỗ tử tế để hạ sinh, không một tấm chăn ấm đến xua đi giá lạnh mùa
đông.
Con Thiên Chúa không những sinh nơi hang đá nghèo hèn,
nhưng còn chấp nhận đời sống vô gia cư, lưu lạc nơi đất khách quê người ngay từ
thuở ấu thơ. Khi trở về quê, Người sống ẩn dật suốt 30 năm tại làng quê nghèo
Nazareth cùng với Đức Mẹ và Thánh Giuse. Đến năm 30 tuổi, Người chọn lấy đời
sống bôn ba trên khắp nẻo đường Palestine để rao giảng tin mừng. Chính Người
tuyên bố cho những ai bước theo Người phải chấp nhận cuộc sống bấp bênh:
“Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chổ tựa đầu” (Mt 8, 18-220).
Sinh đã nghèo, sống lại nghèo hơn và chết còn nghèo đáng
sợ, đến mức không thể nghèo hơn nữa: trần truồng bị treo trên thập giá.
Chấp nhận sinh nghèo, sống nghèo, chết nghèo để đồng cảm
với người nghèo và ban phát sự giàu có của Người lại cho ta. “Phúc cho
ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 3).
Ảnh hưởng bởi cuộc sống đơn sơ
bình dị của Người.
Là Hoàng Tử Bình An, nhưng Người không chọn thành phần quý
tộc, ông hoàng bà chúa làm cha mẹ mình. Trái lại Ngài sinh hạ nơi hang bò lừa,
sống trong gia đình khó nghèo. Đón nhận một người nữ làng quê làm mẹ và
chàng Giuse thợ mộc làm cha. Những người được Hoàng Tử Bình An mặc
khải đầu tiên lại là những người đơn sơ, bé mọn. Ngoài Đức Maria và thánh
Giuse còn lại chỉ là những mục đồng nghèo khổ, đơn sơ và bé nhỏ trong xã hội.
Tiệc mừng sinh nhật đầu tiên của Hài Nhi
Giê-su không trống, không kèn, không có mặt của quan
quyền, vua chúa; nhưng là những sinh vật bò lừa, những
người chăn chiên quê mùa và những người đạo sỹ biết khiêm nhường đi
tìm chân lý, nguồn ơn cứu độ đích thực.
Chiêm ngắm hình ảnh đơn sơ của Hài nhi Giê-su nơi máng
cỏ ta mới hiểu hơn về giao ước vĩ đại đã được Thiên Chúa thực
hiện từ những gì đơn sơ nhất.
Ảnh hưởng bởi chính tình yêu
Người dành cho con người.
Khi chiêm ngắm mầu nhiệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh làm
người, thật ngỡ ngàng khi nhận ra một vị Thiên Chúa đầy yêu thương và gần gũi
con người.
Một Hài Nhi đơn sơ, được quấn trong tấm tả
mỏng manh, giữa trời đông buốt giá, nhưng cánh tay người vẫn giơ cao
và giang rộng như muốn ôm chầm và nhấn chìm nhân loại trong trái
tim chan chứa tình yêu của Ngài. Hình ảnh Hài nhi Giê-su giang tay ban phát
tình yêu xuyên suốt cuộc đời của Ngài, xuyên suốt cả lịch sử vũ trụ.
Cánh tay của Ngài chữa lành bao người bệnh hoạn, tật
nguyền. Cánh tay của người giang ra ôm trọn những con người đau khổ thậm chí là
những con người tội lỗi. Cánh tay vị Vua vũ trụ cúi xuống thể hiện tình yêu bằng
cách cúi mình xuống rửa chân cho con người. Từ nơi cánh tay và trái tim
của Người nguồn mạch ơn cứu độ tưới nhuần trên nhân thế mãi mãi…Cánh tay ngài
ôm ấp mọi thân phận con người, tình yêu nơi Ngài giải phóng thân phận con người
tội lỗi: “chỉ bằng yêu thương mới “giam cầm” được những con người hoang
dại”. “Chỉ có tình yêu mới phá tan gông cùm của những tâm hồn tan
nát” (trích trong “nhà sư đeo cỗ thánh giá” Vô Thường).
Giáng sinh là dịp để hàng tỷ trái tim con người thổn
thức ngỡ ngàngvề Hài Nhi Giê-su.
Xin Hài nhi Giê-su cho
con luôn biết luôn suy ngắm hình ảnh của Người mọi lúc, mọi nơi trong cuộc
đời của con! Xin cho con luôn biết sống đơn sơ, khiêm hạ và yêu thương
chân thành theo gương Người, nhờ mẫu gương sống động nơi Đức Giáo Hoàng
Phanxicô kính yêu của chúng con.
Xin Hài Nhi Giê-su luôn thương
đến những người chưa nhận biết Chúa. Cho họ cảm nếm được tình thương cứu
độ của Chúa dành cho họ.
Xin cho con trở nên
ánh sao sáng hầu đưa dẫn nhiều người nhận ra Chúa là Mặt Trời Công Chính, ngỏ
hầu mọi người chung lời ca ngợi danh Chúa khắp địa cầu như một
bài tình ca bất tận về Hài nhi Giê-su! Amen.
Thứ
tư, ngày 26/12: Mt 10,17-22
Kính thánh Stêphanô phó tế tử
đạo tiên khởi
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết
sẽ phải chịu nhiều bách hại không chỉ bởi nhà cầm quyền trần thế và ngay cả
những người thân yêu của mình, vì mang danh Chúa. Nhưng Chúa Giêsu cũng chấn an
các ông đừng sợ, hãy can đảm và kiên trì làm chứng cho Ngài. Đừng sợ! bởi lẽ
chính Chúa Thánh Thần sẽ luôn ở bên. Ngài sẽ nâng đỡ và soi sáng cho các
ông biết phải nói gì. Đừng sợ! vì khi trung thành can đảm làm chứng cho Chúa,
các ngài sẽ được Chúa cứu thoát.
Có thể nói, phó tế Stêphanô là người đầu tiên trung thành
với lời dạy của Chúa Giêsu vì đã can đảm làm chứng cho Chúa và đã được diễm
phúc lãnh nhận vòng hoa chiến thắng vinh quang trong nước trời.
Thầy phó tế Stêphanô vì mang danh môn đệ Đức Kitô và say
mê rao giảng về một vị Thiên Chúa đầy lòng yêu thương nên phó tế Stêphanô đã bị
những người Pharisêu ghen ghét. Bởi hận thù, ghen ghét nên họ tìm mọi cách để
vu khống hạ bệ và giết ngài. Nhưng với lòng can đảm và ơn soi sáng của Thánh
Linh, ngài không khuất phục trước những lời đe dọa vu khống của họ. Trái lại,
ngài sẵn sàng tranh luận, giải thích cho họ nhận ra chân lý. Lời lẽ của ngài
rất khôn ngoan và sắt bén làm cho đối phương phải im hơi, lặng tiếng. Không
tranh luận lại được với ngài. Vì thế, họ càng căm phẩn và tìm cách tố cáo ngài
về tội phạm thượng chống lại Môsê và Thiên Chúa. Họ quyết định bắt ngài đưa ra
pháp đình để xử án.
Trước pháp đình, Stêphanô càng mạnh dạn minh chứng về Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa đến trần gian và đã chịu chết nhục nhã để cứu chuộc
loài người. Thánh nhân cũng không ngần ngại vạch trần tội vong ân bội nghĩa của
họ và không ngại nhắc đến lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa dành cho dân
Ngài.
Với lời lẽ khôn ngoan để minh chứng niềm tin, cũng như lời
biện hộ đanh thép tố cáo tội ác của những kẻ làm hại ngài, càng khiến cho đối
phương tức giận đến sôi máu và quyết định đưa ngài ra ném đá tử hình.
Dù chịu cực hình đau đớn, nhưng lòng ngài vẫn chan chứa sự
cảm thông và tình yêu tha thứ theo gương vị Thầy Chí Thánh. Nên trước khi tắt
thở, ngài không quên cầu nguyện cho những kẻ giết hại mình: “Lạy Chúa, xin đừng chấp tội họ”.
Xin cho chúng ta cũng
biết noi theo thánh Stêphanô can đảm chấp nhận mọi gian lao thử thách ngay cả
mạng sống để minh chứng cho niềm tin của mình vào Đức Kitô Tình Yêu nhờ sức
mạnh của Thánh Thần.
Xin cho chúng ta
biết noi gương thánh Stêphanô cũng sẵn lòng tha thứ cho những kẻ làm hại chúng
ta. Biết lấy tình thương xóa bỏ hận thù, theo lời dạy của Chúa Giêsu.
Thứ năm, ngày 27/12: Ga 20,2-8
Mừng kính thánh Gioan Tông Đồ
Suy niệm 1:
Tin mừng được trích đọc trong thánh lễ mừng kính thánh
Gioan Tông Đồ hôm nay, thuật lại cho thấy ba cái nhìn khác nhau khi chứng
kiến cùng một sự kiện “Ngôi mộ trống”.
- Ma-ri-a Ma-đa-lê-na cứ đinh ninh rằng xác Chúa Giêsu đã bị
đánh cắp (Gioan 20, 13-15).
- Phêrô thì rất đỗi ngạc nhiên vì sự việc đã xảy ra (Lu-ca 24,
12).
- Còn Gioan, người môn đệ Chúa Giê-su thương mến, thì tin chắc
rằng Chúa Giêsu đã sống lại như lời Ngài đã tiên báo (Ga 20, 9).
Sở dĩ có cái nhìn khác nhau là vì cả ba người đang mang
trong mìnhnhững tâm trạng khác nhau:
Maria Macđala, với tâm trạng thương nhớ Chúa thiết tha. Có lẽ
cả đêm dài bà không chợp mắt được. Bà ước ao trời mau sáng để ra thăm mộ Chúa.
Nhưng khi chứng kiến tảng đá đậy mộ bị lăn ra, bà đã hốt hoảng chạy về báo tin
cho các môn đệ Chúa. Tình thương mà Maria Macđala dành cho Chúa Giêsu là một
tình thương đáng trân trọng. Nhưng nếu tình thương chỉ dừng lại ở mức độ cảm
tính thường tình của con người thì không có khả năng nhận ra Chúa phục sinh.
Phêrô mang tâm trạng buồn vì tội lỗi đè nặng nên cũng không
nhận ra gì hơn ngoài việc rất đổi ngạc nhiên khi chứng kiến những băng vải và
khăn che đầu được cuốn lại xếp riêng ra cũng như ngôi mộ trống. Phải chăng lúc
đó tâm trí của Phêrô vẫn còn bị ám ảnh giờ phút chối Chúa. Phải chăng lòng ông
vẫn còn mang nặng nỗi u buồn về tội lỗi của mình. Ông còn phải có thời gian và
kiên nhẫn như là liều thuốc đặc trị chữa lành vết thương tâm hồn bất tín mà
tiến đến niềm tin vào Chúa phục sinh.
Gioan, người môn đệ Chúa yêu, mà cũng là môn đệ rất yêu Chúa,
nên khi chứng kiến những băng vải còn đó bên ngôi mộ trống ông đã tin.
Để tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu, Gioan đã vượt lên trên
tình cảm thường tình của Maria Macđala và nổi đau buồn vì mặc cảm tội lỗi của
Phêrô. Cái nhìn vào sự kiện ngôi mộ trống của Gioan được định hướng bởi tình
yêu trong sáng và sự hướng dẫn của Lời Chúa. Chính cái nhìn này đã cho ông niềm
tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu.
Như thế, cùng một sự kiện, nhưng lại có nhiều tâm trạng khác
nhau nên đưa đến cái nhìn khác nhau.
Những biến cố vui buồn, sướng khổ, thành công thất bại…như là dấu
chỉ “ngôi mộ trống” thường xuyên xảy đến cho chúng ta. Vậy trước những dấu chỉ
đó ta có cái nhìn như thế nào?
Có thể giống như Maria Macdala, chỉ dừng lại ở tình cảm thường
tình nên khi những biến cố ấy xảy đến trong cuộc sống, chúng ta chỉ phản ứng theo
cảm tính. Vui mừng khi thành công, hạnh phúc…, đau buồn khi gặp nghèo khổ, mất
mác, thất bại trong cuộc sống.
Có thể chúng ta cũng giống như Phêrô chẳng thấy gì hơn khi đối
mặt với thử thách. Đối diện trước những biến cố, chỉ dừng lại ở sự ngạc nhiên
như bao người, không thể nhận ra gì thêm ở phía sau biến cố ấy mà Chúa gởi đến.
Xin cho chúng ta biết nhìn mọi việc, mọi
biến cố xảy đến trong cuộc đời với cái nhìn đức tin của thánh Gioan. Nhờ cái
nhìn đức tin này thì cho dù đối mặt với bất cứ thử thách nào, hoàn cảnh nào ta
vẫn thấy an tâm vì chính Chúa Phục sinh hiện diện và đồng hành cùng chúng ta.
Nhưng để có được cái nhìn đức tin, chúng ta cần có được tình
yêu Chúa chân thành, cũng như sáng suốt nhìn những biến cố dưới ánh sáng Lời
Chúa. Sống niềm tin là biết nhìn tất cả mọi việc theo tình yêu Chúa và dưới ánh
sáng của Lời Chúa .
Xin Chúa cho chúng con có được tình yêu
Chúa nồng nàn và ơn soi sáng bởi Lời Chúa như thánh Gioan để qua những dấu chỉ,
biến cố hay sự kiện xảy đến trong cuộc sống, chúng con tin và nhận ra
Chúa hiện diện bên con. A-men.
Suy niệm 2:
Mừng kính Thánh Gioan tông đồ hôm nay, không gì quý hơn chúng
ta cùng nhau tìm hiểu về thân thế và cuộc đời của Thánh Gioan.
Thân thế: Thánh Gioan là em ruột của thánh Giacôbê tiền, quê ở làng Bết-sai-đa,
cùng quê với Phêrô và Anrê. Cha ngài là ông Dê-bê-đê làm nghề chài lưới.
Mẹ ngài là bà Sa-lô-mê, một người phụ nữ đạo đức được nhắc trong thánh kinh.
Ngài là một trong 4 môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu kêu gọi
theo Ngài trên biển hồ Tê-bê-ria-a. Không ngần ngại do dự, Gioan đã
lập tức bỏ lại tất cả để đi theo Chúa.
Trong số 12 tông đồ, ngài là một trong ba môn đệ thân tính và
gần gũi Chúa Giêsu nhất. Ngài được diễm phúc dự tiệc cưới Cana cùng với Chúa,
được chứng kiến Chúa biến hình trên núi Ta-bo, được Chúa sai đi sửa soạn bữa
tiệc cuối cùng, ngài cũng được hiện diện cùng với Chúa trong vườn cây dầu và
chứng kiến giây phút sợ hãi nhất của Thầy Giêsu.
Trong bữa tiệc ly, ngài ngồi gần và tựa đầu vào ngực
Chúa. Chính thánh Gioan là môn đệ được Chúa trối làm con Đức Maria và Đức Maria
làm Mẹ của ngài. Thánh Gioan đã theo Chúa Giêsu đến cùng. Dưới chân thập giá,
ngài đã chứng kiến cái chết khổ nhục của Chúa Giêsu.
Cuộc đời: Người đời thường cho rằng cuộc đời của một linh mục chỉ cần
thực hiện được 3 cộng việc là đã chu toàn tốt bổn phận của người tông đồ Chúa
rồi: 1. Viết một quyển sách, 2. xây một nhà thờ và 3. Nuôi một nghĩa tử.
Nếu nói như vậy thì thánh Gioan là người đầu tiên đã hoàn
thành hết sức suất sắc bổn phận của mình trong vai trò là người môn đệ Chúa.
Ngài không chỉ viết một quyển sách mà đến cả 3 quyển sách:
Phúc âm, khải huyền và cả sách các thư nữa.
Thánh Gioan không chỉ nuôi một nghĩa tử mà ngài còn có trách
nhiệm dưỡng nuôi cả một Giáo Hội Chúa vì ngài đã nhận Đức Maria, mẹ Giáo Hội
làm Mẹ mình qua lời trăn trối của Chúa Giêsu
Ngài cũng không chỉ xây dựng một ngôi nhà thờ vật chất mà ngài
đã, đang và sẽ xây dựng vô vàn ngôi đền thờ tâm hồn, bằng chính Lời Chúa nơi
tin mừng của ngài.
Cuộc đời của thánh Gioan đã để lại cho chúng ta nhiều bài học
quý giá. Nhưng một trong những bài học quan trọng và quý giá nhất có thể
kể đến đó là "Tình yêu".
Thánh Gioan được mệnh danh là “môn đệ Chúa yêu” và cũng là
“môn đệ yêu Chúa.”. Vì cảm nhận tình yêu sâu xa về một vị Thiên Chúa mà
cả đời ông gắm bó yêu mến, nên ngài đã gọi đúng tên Người: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Cảm nhận và hiểu biết về Thiên Chúa
Tình Yêu thôi chưa đủ, ngài còn sống hết mình với tình yêu ấy; đồng thời ngài
còn mời gọi mọi người hãy thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên Chúa bằng
cách tuân giữ lệnh truyền của Chúa: “Ai yêu mến Thiên Chúa là giữ các lệnh
truyền của Chúa” và yêu mến tha nhân: “Ai yêu mến Thiên Chúa, thì phải yêu mến
anh em mình, ai nói tôi yêu mến Chúa mà ghét anh em mình, thì là kẻ nói dối”.
Xin cho chúng ta có được tình yêu Chúa
nồng nàn như thánh Gioan để chúng ta có thể trung thành thực hành giới răn Chúa
truyền dạy là: “mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” và yêu tha nhân
không những như chính mình mà còn “yêu như Chúa yêu” nữa, theo lời dạy và gương
sống của Thánh Gioan tông đồ.
Thứ sáu, ngày 28/12: Mt 2,13-18
Kính nhớ các anh hài tử đạo.
Hòa trong bầu khí vui mừng của những ngày mừng lễ giáng sinh,
nhưng hình như sự trầm buồn vẫn len lỏi đâu đó. Trầm buồn không bởi Con Thiên
Chúa bị khướt từ xua đuổi; cũng không do việc Con Thiên Chúa sinh hạ nơi hang
đá thấp hèn, cũng không hẳn vì gia đình thánh gia phải chốn chạy lưu lạc nơi
đất khách quê người. Nhưng nổi buồn hơn hết phải nói đến đó là bao trẻ thơ vô
tội đã bị sát hại dưới bàn tay độc ác của bạo chúa Hêrôđê.
Nguyên nhân nào đưa đến những cái chết thương tâm của những
hài nhi vô tội. Có hai nguyên nhân chính:
- Nguyên nhân thứ nhất: Khi Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem, thì các nhà đạo sĩ phương
đông nhìn thấy ánh sao lạ. Đoán biết Đức vua dân Do Thái xuất hiện nên các ngài
đã lên đường tìm tới Bêlem để thờ lạy. Sau khi dâng lễ vật: vàng, nhũ hương và
mộc dược, các ngài được mộng báo trở về quê hương bằng con đường khác, không
trở lại báo tin cho Vua Hêrôđê biết về nơi chốn hạ sinh của Hài Nhi Giêsu như
thỏa thuận trước đó. Biết mình bị lừa nên nhà vua rất tức giận.
- Nguyên nhân thứ hai: Bởi lẽ theo các thượng tế và kinh sư là những chuyên gia sử
sách, thì vị lãnh tụ chăn dắt Israel phải sinh ra tại Bêlem, miền đất Giuđa.
Nay vị lãnh tụ được sử sách nói đến đã xuất hiện. Nhà vua lo sợ mất ngai vàng
nên quyết định ra lệnh sát hại các trẻ em từ hai tuổi trở xuống tại Be6lem cũng
như các vùng phụ cận với hy vọng trong đó có cả Hài Nhi Giêsu. Thế là bao tiếng
khóc than thảm thiết của những bà mẹ vang lên làm nao động lòng người.
Nếu ngày xưa vì tức giận, sợ mất quyền lực mà vua Hêrôđê đã
nhẫn tâm giết chết bao hài nhi vô tội để lại bao tiếng ai oán. Thì ngày nay
thay vì quyền sống, sự bình đẳng và phẩm giá con người phải được đề cao. Thế mà
chúng ta không thể tưởng tượng nổi hàng năm có biết bao là trẻ em vô tội bị
giết chết do sự độc ác của những Hêrôđê thời đại. Thật là một điều đáng
buồn!
Báo Pháp Luật đăng vào thứ ba ngày 26/09/
2017. GS Ngọc Phượng cho hay, theo báo cáo của Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em, Bộ Y
Tế, tại Việt Nam, mỗi năm cả nước có khoảng 250.000 – 300.000 ca phá thai được
báo cáo chính thức. Trong đó, tổ chức Y tế thế giới (WHO) xếp Việt Nam vào danh
sách một trong năm nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới và là nước có tỷ lệ phá thai
cao nhất châu Á.
Dân gian thường nói: “Hổ dữ không ăn thịt con”. Vậy mà chính
cha mẹ chỉ vì ích kỷ, chỉ vì ham hố địa vị mà đánh mất nhân phẩm, mờ mắt lương
tri, giết chết chính con cái mình, thua loài lang sói. Đó là một
hành động vô đạo, bất nhân. Hơn nữa, giết một đứa trẻ không có khả năng tự vệ
là một hành động bỉ ổi, hèn nhát.
Theo Đức Cha Micae, Giám Mục Giáo Phận Kon Tum, kẻ nào phá
thai thì còn dã man tàn bạo hơn cả vua Hêrôđê. Hêrôđê chỉ giết một lần, còn
ngày nay người ta kéo dài hành động tàn ác đó khắp nơi. Mỗi ngày có nhiều em
nhỏ vô tội bị giết chung quanh chúng ta và giữa chúng ta.
Lễ mừng kính các thánh anh hài tử đạo hôm nay nhắc nhở chúng
ta hãy can đảm bảo vệ sự sống, nhất là những bậc làm cha mẹ hãy trân trọng món
quà vô giá là sự sống mà Chúa thương ban. Hãy chăm lo nuôi dưỡng con cái thật
chu đáo, hãy quan tâm giáo dục con cái mình trở thành người và người con Chúa
thật tốt trước tình trạng xã hội xuống dốc về đạo đức như ngày hôm nay.
Xin các thánh Anh Hài tử đạo vì danh Chúa
Giêsu, tha thứ cho những sai lầm của những người có trách nhiệm, nhất là những
bậc làm cha mẹ vì đã nhẫn tâm giết hại các ngài.
Thứ bảy, ngày 29/12: 1Ga 2, 3-11
Lời Chúa trong thư thứ nhất của thánh
Gioan hôm nay mời gọi chúng ta sống hiệp thông với Chúa và với nhau.
1. Hiệp thông với Chúa bằng cách
tuân giữ các giới răn của Người.
Mà giới răn của Chúa không gì khác là
sống yêu thương. Sống yêu thương là chúng ta giống Chúa, bởi lẽ"Thiên
Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4, 7). Giống Chúa cũng có nghĩa là chúng
ta thuộc về gia đình của Chúa, vì chúng ta thông hiệp cùng một Tình Yêu với
Ngài. Yêu thương chính là bằng chứng cụ thể để người ta nhận biết chúng ta là
một đệ Chúa (x Ga 13, 35) và là dấu chỉ cụ thể để chúng ta nhận biết mình biết
Thiên Chúa.
2. Hiệp thông với nhau bằng cách yêu
thương tha nhân.
Yêu thương tha nhân chính là thông hiệp
trong tình yêu Chúa. Tin mừng thánh Gioan cho biết: "Ngôi Lời đã
trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1, 14). Với
mầu nhiệm nhập thể và nhập thế, Thiên Chúa đã đồng thân, đồng phận với con
người, ngoại trừ tội lỗi. Chính Chúa Giêsu xác quyết: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt
25,40).
Thánh Gioan còn cho biết thêm: khi sống
yêu thương tha nhân là chúng ta đang sống trong vùng ánh sáng, còn nếu chúng ta
sống trong hận thù là chúng ta ở trong bóng tối. Vì thế khi thực thi lòng
yêu thương tha nhân cũng đồng nghĩa là chúng ta đang biết mình sống trong ánh
sáng, vì chúng ta được thông hiệp vào Chúa Giêsu là Ánh Sáng. “Ngôi Lời là
ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi
mọi người”. (Ga 1,9).
Xin Chúa cho cộng đoàn Họ đạo chúng ta
biết hiệp thông với Chúa qua việc chu toàn luật Chúa và GH bằng cách siêng năng
tham dự thánh lễ và chuyên cần cầu nguyện theo mẫu gương của Thánh Gia. Cũng như
biết hiệp thông với nhau bằng đời sống bác ái chia sẻ. Nhờ đó mà ánh sáng Tình
Yêu Chúa được lan tỏa đến với mọi người, nhất là những người còn sống trong
bóng tối của nghèo khổ và thất vọng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét