SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN III MÙA VỌNG
Lm. Vĩnh Hòa
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG, NĂM C
* Suy niệm 1: Xp 3,14-18a; Pl 4,4-7; Lc 3,10-18
Cùng với GH, hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật thứ 3 mùa vọng, Chúa
nhật màu hồng. Màu hồng diễn tả niềm vui và hy vọng. Vui vì lễ giáng sinh
kỉ niệm biến cố Con Thiên Chúa làm người cứu độ nhân trần đã đến gần. Hy vọng
vì Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng thương xót sẵn sàng tha thứ tội lỗi
và ban dư tràn ơn phúc cho ta, nếu ta biết thành tâm sám hối, canh tân đời
sống.
Để giúp ta hưởng trọn niềm vui và hy vọng ấy, phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời
gọi chúng ta tích cực thực thi đức bác ái và nỗ lực sống ngay chính trong sứ vụ
và bổn phận của mình. Xin Chúa giúp mỗi chúng ta biết khiêm tốn mở lòng
đón nhận và mau mắn thi hành lời Chúa chỉ dạy. Nhờ đó, niềm vui và hy vọng ơn
cứu rỗi sẽ đến trong tâm hồn của mỗi chúng ta.
- Bài đọc 1 trích sách tiên tri Xôphônia cho chúng ta biết lý do tại sao
dân tộc Do Thái phải vui mừng. Đơn giản là vì mặc dù dân chúng đang sống trong
tình trạng bất trung, tội lỗi; đáng ra họ phải bị Thiên Chúa giáng họa. Nhưng
với lòng thương xót, Thiên Chúa đã rộng lòng tha thứ nên đã rút lại án
phạt. Cũng thế, với tình trạng đất nước suy đồi về đạo đức, lẽ ra họ phải chịu
cảnh nước mất nhà tan. Nhưng Thiên Chúa lại yêu thương quan phòng, bảo vệ đất
nước họ vượt thoát khỏi sức mạnh giày xéo của quân thù.
- Bài đọc 2, trích thư gửi tín hữu Philipphê. Thánh Phaolô mời gọi các tín
hữu Philipphê hãy vui luôn trong Chúa. Đây không phải là một niềm vui hời
hợt, thoáng qua bên ngoài, nhưng là niềm vui sâu xa và vững bền. Tuy nhiên để
có được niềm vui bền vững này, một mặt họ phải đặt trọn niềm tin vào tình
thương của Chúa; mặt khác họ phải tích cực sống hiền hòa và rộng rãi với hết
mọi người.
- Còn bài tin mừng hôm nay thì cho chúng ta biết: làm thế nào để hưởng trọn
niềm vui trong Chúa? Gioan Tẩy Giả với sứ mạng dọn đường cho Chúa đến, đã thúc giục
mỗi người chúng ta phải sám hối và canh tân đời sống. Sám hối và canh tân đời
sống bằng hai cách: Một là tích cực thực thi đức bác ái. Hai là nỗ lực sống
ngay chính trong sứ vụ và bổn phận của mình.
* Lời kêu gọi của Gioan Tiền Hô không chỉ chung chung, nhưng rất cụ thể cho
từng hạng người:
1. Đối với hết mọi người dân: Để sám hối và đổi mới đời sống, Gioan Tẩy Giả
kêu gọi hãy thực thi đức bác ái Kitô giáo: “Ai có 2 áo chia người không
có; ai có của ăn cũng làm như vậy”. Bác ái Kitô giáo là việc làm vô vị lợi
không màn đến danh lợi, cũng không nhằm phô trương đánh bóng tên tuổi. Bác ái
Kitô giáo không phải là cho đi những thứ dư thừa nhưng là cho đi những gì thiết
thân nhất cho nhu cầu cuộc sống của ta. Bà góa dâng cúng 2 đồng tiền kẽm vào
đền thờ là gương mẫu cho bác ái Kitô giáo.
Thật ra làm bác ái không khó. Không khó, bởi vì thông thường chúng ta chỉ
cho đi những gì dư thừa. Mỗi năm, chúng ta chỉ cần mặc ba bốn bộ đồ hay mang
vài ba đôi dép… là đủ. Nhưng thực tế, nhiều người trong chúng ta lại sở hữu lên
đến vài chục bộ đồ, hàng chục đôi giày dép, mà những thứ dư thừa này luôn nằm
im trong tủ, không bao giờ ta xử dụng đến. Nên khi cho đi những thứ ấy không
khó chút nào. Nhưng cho đi với tình thần bác ái Kitô giáo thì không dễ, bởi nó
đòi hỏi chúng ta phải chia sẻ những gì chúng ta cần, chứ không phải những gì dư
thừa. Tuy nhiên nếu chúng ta có được niềm tin và tình yêu vào Chúa thì chúng ta
sẽ làm được.
2. Còn đối với những người làm nghề thu thuế và binh nghiệp: Đây là hai ngành nghề nhạy
cảm và bị mang tiếng là bất chính với cái nhìn của người Do Thái thời bấy giờ.
Vì thế, Gioan Tẩy Giả mời gọi họ hãy sống đúng với chức năng và nghề nghiệp
mình:
+ Là người thu thuế hãy giữ đức công bình. Đừng vì ích lợi cá nhân mà tăng
thuế bòn rút xương máu đồng bào để bỏ túi riêng.
+ Là những binh nghiệp hãy cầm súng bảo vệ biên cương bờ cõi và giữ gìn an ninh trật tự xã
hội, chứ đừng dùng sức mạnh súng đạn mà hà hiếp, khống chế bắt nạt dân lành.
Như thế, Gioan không hề kêu gọi họ bỏ nghề nghiệp, nhưng hãy sống với nghề bằng
cái tâm trong sáng và tôn trọng quy định của luật lệ.
Mùa vọng là mùa mời gọi chúng ta dọn tâm hồn để Chúa đến, đem niềm vui ơn
cứu độ. Nhưng để xứng đáng hưởng niềm vui ơn cứu độ ấy, ta cần phải lắng nghe
tiếng Chúa qua lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả mà chừa bỏ những đam mê tội lỗi,
những dục vọng bất chính và nỗ lực canh tân đời sống bằng cách tích cực thi
hành đức bác ái Kitô giáo theo khả năng và chức phận của mình trong tinh thần
khiêm tốn. Làm được như thế, chắc chắn ta sẽ cảm nhận được niềm an vui sâu xa
nơi tâm hồn. Một niềm an vui trọn vẹn và bền vững “không ai sẽ lấy mất
được” (Ga 16,22).
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tích cực chu toàn tốt bổn phận hàng ngày và
nỗ lực thi hành tốt đức bác ái kitô giáo trong môi trường gia đình và ngoài xã
hội. Được như vậy, ta mới cảm nhận được niềm an vui ơn cứu độ của Chúa
qua từng phút giây trong đời sống.
* Suy niệm 2: Is 61, 1-2a. 10-11; 1Tx 5, 16-24;
Ga 1, 6-8.19-28
Cùng với GH, chúng ta bước vào Chúa nhật thứ 3 mùa
vọng, Chúa nhật của màu hồng. Màu hồng diễn tả niềm vui và hy vọng. Vui vì
lễ Giáng sinh kỉ niệm biến cố Con Thiên Chúa làm người để cứu độ nhân trần đã
đến gần. Hy vọng vì Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng thương xót luôn sẵn sàng
tha thứ tội lỗi và ban dư tràn ơn phúc cho ta nếu ta biết thành tâm sám hối và
canh tân đời sống.
Xin Chúa giúp mỗi chúng ta biết
mở lòng đón nhận lời mời gọi của Chúa và mau mắn thi hành điều mà Chúa chỉ dạy.
Nhờ đó niềm vui và hy vọng của ơn cứu rỗi mới đến được nơi tâm hồn chúng ta và
qua ta niềm vui tin mừng đó được lan tỏa đến mọi người.
Thông thường Mùa Vọng, trên bàn
thờ người ta cắm 4 cây nến, 3 cây màu tím, 1 cây màu hồng. Chúa nhật hôm nay
cây nến màu hồng được thắp sáng. Cũng trong Chúa nhật hôm nay chủ tế lại mặc
phẩm phục màu hồng khi dâng thánh lễ. Trong Phụng vụ hôm nay, GH cũng cho phép
cắm ít hoa, đệm đàn phong cầm và nhạc cụ khác. Tất cả như muốn diễn tả niềm vui
và hy vọng cả bên trong và bên ngoài:
Bên ngòai: Vui vì lễ Giáng sinh
kỉ niệm biến cố trọng đại Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, nhập thế để cứu độ
chúng ta đã gần bên. Vui vì thời tiết bắt đầu se lạnh làm cho lòng người trở
nên nhẹ nhõng dễ chịu hơn. Vui vì các gia đình bắt đầu dọn dẹp và trang hoàng
đẹp hơn. Các Nhà thờ bắt đầu làm hang đá, giăng cờ hoa đèn rực rỡ. Đường xá
được sửa chữa và quét dọn lại thông thoáng hơn…
Bên trong: Vui vì những cánh
thiệp kèm theo lời chúc tốt lành Giáng Sinh được gửi đi đến nhau; vui vì tâm
hồn người tín hữu được đón nhận tình thương ơn tha thứ của Chúa qua việc nhận
lãnh bí tích hòa giải…
Chính vì thế mà thánh Phaolô
trong bài đọc 2 lớn tiếng kêu gọi tín hữu Thêxalônica hãy vui lên!: “Anh em
thân mến, anh em hãy vui mừng luôn”. Vì Thiên Chúa rộng lòng rộng tay ban
phát muôn hồng ân, nhất là Thần Khí cùng với ơn nói tiên tri, ơn khôn ngoan và
ơn thẩm định cho người tín hữu. Thiên Chúa còn là nguồn mạch bình an và là Đấng
thánh hóa toàn diện con người. Vì thế Người đáng được chúng ta đón rước với tâm
tình biết ơn và lời cảm tạ.
Hy vọng vì dân tộc Israel xưa.
Trong hoàn cảnh lưu đầy bên Babylon lầm than khốn khổ, Thiên Chúa lại tuyển
chọn Isaia làm ngôn sứ để loan báo cho dân Israel về một niềm hy vọng lớn lao
mà Đức Chúa sẽ ban cho dân Người. Đó là một vị Vua cao cả, rất giàu lòng thương
xót. Vị vua này sẽ đến để thi ân giáng phúc cho dân: “Thiên Chúa đổ tràn
Thần Khí trên Người để Người thực thi sứ mạng được giao là loan
báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công
bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân
và năm hồng ân của Thiên Chúa”.
Hy vọng vì dân tộc Do Thái trong
hoàn cảnh nước mất nhà tang vì bị thống trị bởi đế quốc Rôma, Thiên Chúa lại
chọn Gioan Tẩy Gỉa loan báo về một Đấng cao trọng, quyền năng đang ở giữa dân
Người. Đấng ấy sẽ đem đến cho dân tộc ánh sáng soi đường và thanh tẩy tâm hồn
mọi người trong Chúa Thánh Thần. “Người làm Phép Rửa trong Thánh Thần trong
khi Gio-an Tẩy Giả chỉ làm phép rửa trong nước. Người cao trọng vượt xa Gio-an
đến độ Gio-an không xứng được cởi quai dép cho Người. Chính Người mới là ánh
sáng trong khi sứ mạng của Gio-an chỉ là làm chứng về ánh sáng, chỉ là dọn
đường cho Người mà thôi”.
Nhưng để sống trong niềm vi và hy
vọng ấy thì chúng ta ngày nay phải biết nghe theo lời kêu gọi của tiên tri
Isaia và Gioan Tẩy Gỉa chuẩn bị tâm hồn xứng hợp bằng cách sám hối và canh tân
đời sống. Nhất là biết noi gương đời sống của Gioan Tẩy Giả:
- Thứ nhất yêu chuộng đời sống khó nghèo. Gioan Tẩy Gỉa không sống nơi phồn hoa đô thị nhưng
lại chọn hoang địa khô cằn; ngài không ăn mặc gấm vóc lụa là nhưng mặc da thú;
ngài không ăn những cao lương mỹ vị nhưng lại ăn châu chấu và uống mật ong
rừng…
- Thứ hai can đảm sống và làm chứng cho chân lý. Gioan đã can đảm lên án những
bất công trong xã hội và kêu gọi mọi thành phần oán cải. Ngay cả lên án tội ác
của vua Hêrôđê cho dù phải bị bắt bớ và bị giết chết.
- Thứ ba dám chấp nhận sống sự thật về mình với tinh thần khiêm tốn. Cho dẫu mọi người tôn vinh ngài
như là Đức Kitô, như Êlia hay một ngôn sứ nhưng ngài đã can đảm khướt từ các
danh hiệu ấy và khiêm tốn chỉ nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc, là kẻ dọn
đường cho Đấng Messia và là kẻ thấp hèn trước Đấng Cứu Thế đến nổi không xứng
đáng cúi xuống cởi dây dày cho Người. Ông xác nhận phép rửa của ông chỉ bằng
nước nhưng phép rửa của “Đức Giêsu sẽ rửa anh em trong Thánh Thần”.
Như thế để có được niềm vui ta
phải biết chấp nhận “cái là” về mình, đồng nghĩa với việc chấp nhận sự thật về
mình; muốn có niềm vui ta phải thử thách tinh thần khó nghèo để thanh luyện bản
thân mình, nhất là biết loại trừ tính kiêu căng tự mãn để sống khiêm tốn trước
Chúa và mọi người. Sống được như vậy tâm hồn chúng ta mới có niềm vui sâu xa.
Xin cho chúng ta biết noi gương
Gioan Tẩy Gỉa dám chấp nhận lối sống khắc khổ và tiết chế trong mùa vọng này để
góp phần giúp đỡ anh chị em còn nghèo khổ; cũng như biết can đảm loại trừ
tính kiêu căng, tự mãn và tha lam gian dối ra khỏi tâm hồn mình
để Chúa dễ dàng lấp đầy tình yêu và ân sủng của Chúa vào tâm hồn ta.
Thứ hai: Mt 21, 23-27
Trong cuộc sống ngày nay, việc
nhận ra được chân lý đã là khó, nói chi sống theo chân lý quả là không dễ chút
nào. Xin Chúa cho chúng ta có được đôi tai sâu lắng như Đức Maria, để chúng ta
cũng có thể nhận ra lời chân lý từ Chúa. Và xin cho chúng ta có được sức mạnh
nội tâm như Đức Maria, để can đảm sống theo lời chân lý của Chúa dạy.
Khi thấy đời sống độc thân-khiến
tịnh của các linh mục, anh em chính quyền thường hay thắc mắc và đặt câu hỏi:
Làm sao các vị ấy có thể sống khiết tịnh được?
Nếu là người có thiện chí, thì
lời giải thích của ta sẽ làm cho họ hiểu và dễ chấp nhận. Ngược lại, nếu họ hỏi
để đã kích, bôi nhọ, chế nhạo thì dù cho ta giải thích thế nào đi nữa họ cũng
không tin.
Sau khi Chúa đánh đuổi những
người buôn bán và đổi tiền ra khỏi đền thờ. Các Thượng Tế, Kinh Sư và Đầu Mục
cảm thấy khó chịu nên họ muốn nhổ bỏ "cái gai Giêsu" ra khỏi mắt họ.
Thế là họ họp lại với nhau, bàn luận cách thế nhằm hạ bệ Ngài.
Sau cuộc hội thảo, họ thống nhất
đưa ra hai câu hỏi để bẫy Chúa Giêsu vướng vào khung luật tử hình, đó là:
1. “Ông lấy quyền nào mà làm các
điều ấy?
2. “Ai đã cho ông quyền đó để ông
làm?”
Hai câu hỏi trên không phải vì họ
thiện chí muốn tìm hiểu sự thật, nhưng là vì họ muốn gài bẫy để hạ bệ và tiêu
diệt Đức Giêsu. Điều này không chỉ xảy ra một lần trong đời Chúa Giêsu mà ít
nhất là ba lần.
Trước những câu hỏi nhằm tìm cách
gài bẫy như thế này, Chúa Giêsu không bao giờ trả lời trực tiếp? Bởi nếu trả
lời trực tiếp quyền ấy là do từ trời là sẽ phạm vào khung luật cao nhất thời
bấy giờ; còn nếu trả lời không biết, thì sẽ đánh mất niềm tin của dân
chúng. Đàng nào cũng nguy!
Nhưng “võ quít dày có móng tay
nhọn”. Thay vì trả lời trực tiếp, Chúa đảo ngược tình thế nhằm đưa họ về chính
cõi lòng, để tự vấn lương tâm bằng cách đặt câu hỏi ngược lại: “Tôi xin
hỏi các ông một điều, nếu các ông trả lời đúng thì tôi sẽ nói cho các ông biết,
tôi lấy quyền ai mà làm việc đó. Vậy phép rửa của ông Gioan bởi Thiên Chúa hay
bởi loài người?.”
Nếu họ trả lời phép rửa của Gioan
bởi trời, thì tại sao không tin Chúa? vì chính Gioan làm chứng và loan báo về
Đấng Cứu Thế là do Thiên Chúa sai đến nên có uy quyền Thiên Chúa. Còn nếu họ
trả lời là do bởi người ta, thì sẽ gặp phải phản ứng mạnh của dân chúng, bởi họ
tin ông Gioan là ngôn sứ từ trời đến nhằm dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Đàng
nào cũng không được, nên họ chọn giải pháp an toàn nhất là nói: “chúng
tôi không biết” cho xong chuyện. Dù họ biết rõ, nhưng lại phải dối
lòng!
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết
can đảm sống và làm chứng cho chân lý qua việc tích cực dấn thân cho những giá
trị của Tin mừng tình thương với niềm tin tưởng và phó thác vào quyền năng của
Chúa. Amen.
Thứ ba: Mt 21, 28-32
Nhớ thánh Gioan Thánh Giá, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh
Có thể nói con đường xa nhất vẫn là con đường từ miệng
đến tay. Đúng vậy, để biến lời nói thành việc làm cụ thể quả là một khoảng cách
xa vời. Đó cũng là lời Chúa nhắc nhở chúng ta qua phần phụng vụ lời Chúa hôm
nay. Xin cho chúng ta biết nói ít làm nhiều và biết biến những lời tuyên xưng
ngoài miệng trở thành những việc làm cụ thể trong cuộc sống đức tin mình.
* Những câu đố vui:
1. Làm thế nào để phân biệt người Việt Nam và người
nước ngoài?
- Thưa cần phải dựa vào 3 yếu tố sau đây: 1 là đi
chậm; 2 là ăn nhanh; 3 là đái công khai.
2. Làm sao phân biệt được đàn ông và đàn bà Việt Nam?
- Thưa dựa vào 2 yếu tố: Đàn ông tắm nhưng không thay
quần áo; còn đàn bà thì thay quần áo nhưng ít khi tắm.
3. Để phân biệt được đâu là người Việt, người Trung
Quốc, người Nhật và người Mỹ, người ta dựa vào hai yếu tố nào?
- Thưa đó là “Nói” và “Làm”; Người Mỹ: nói là làm;
Người Trung Quốc: làm mới nói; Người Nhật: nói trước làm sau; Còn người
Việt Nam: nói một đàng làm một ngã!
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho biết tư tưởng của TC
khác xa với tư tưởng con người. Đúng như lời tiên tri Isaia đã nói: “Như trời
cao hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư
tưởng Ta cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy” (Is 55, 9).
Khuynh hướng tự nhiên của con người thì trọng lời nói
hơn việc làm; lý thuyết thích hơn thực hành. Các thượng tế và kỳ lão luôn tự hào cho mình là người
công chính và có quyền giảng dạy, buộc dân chúng phải làm theo. Chúa Giêsu
không bác bỏ điều đó, nên có lần Người đã kêu mời dân chúng “hãy làm
theo những gì họ dạy”. Tuy nhiên bên cạnh đó, Chúa cũng cảnh báo dân
chúng “đừng làm theo những việc họ làm,” bởi "họ dạy một
đàng lại làm một ngã." Nói thì đúng, làm thì sai. Dạy sống đạo đức, nhưng
họ lại cư xử bất nhân với người khác. Nguy hiểm nhất là “Họ bó những
gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì không buồn động ngón tay
vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy.” (Mt 23, 4).
Với câu chuyện về hai người con. Người con thứ nhất tuy ban đầu
nói “không” trước lời mời gọi vào làm vườn nho của cha, nhưng sau đó anh ta lại
hối hận và đã “đi làm” theo ý muốn của người cha. Còn người con thứ hai thì ngoan ngoãn nói lời “xin vâng” trước lời
kêu gọi vào làm vườn nho của người cha, nhưng thực tế thì sau đó anh ta lại
“không đi làm” theo như những gì anh ta nói.
Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng: vườn nho nước trời
chỉ dành cho những ai biết làm theo thánh ý Thiên Chúa, chứ không dành ban tặng
cho người chỉ biết vâng vâng, dạ dạ: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy
Chúa! lạy Chúa! " là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý
muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7, 21).
Xin cho chúng ta những ngày cận kề lễ giáng sinh này,
không chỉ biết khiêm tốn mở lòng lắng nghe lời Chúa mà còn biết nổ lực thực
hành lời Chúa dạy bằng những hành động cụ thể qua việc sám hối xưng thú tội lỗi
đón nhận ơn tha thứ của Chúa và tích cực gia tăng những việc làm bác ái đem
niềm vui đến với những người trong gia đình mình và trong khu xóm họ đạo.
Thứ tư: Lc 7, 19-23
Chúa Giêsu đã đến trần gian cách nay hơn 2000, nơi
hang đá Bêlem. Tuy nhiên có thể Chúa chưa đến được trong tâm hồn của chúng ta.
Vì thế trong thánh lễ hôm nay, xin cho chúng ta biết mở lòng cho Chúa bước vào
cuộc đời của ta mà sửa đổi và canh tân đời sống bằng cách tích cực làm nhiều
việc lành, phúc đức để niềm vui tin mừng cứu độ của Chúa được thắp sáng trong
ta và lan tỏa đến được nhiều người.
Tin mừng hôm nay gồm 2 phần chính:
- Qua lời chấp vấn của 2 môn đệ của Gioan Tẩy Gỉa,
Chúa Giêsu cho biết khuôn mặt đích thực của Đấng Cứu Thế như thế nào?
- Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta khuôn mặt tiêu
biểu làm gương mẫu cho đời sống chúng ta, đó chính là Gioan Tẩy Gỉa.
Ta nhớ lại đoạn tin mừng trước, Gioan Tẩy Gỉa đã giới
thiệu khuôn mặt của đấng Messia như là vị thẩm phán hết sức nghiêm minh: “Đây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh
trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa…Ngài cầm nia trong tay mà sảy lúa của
Ngài, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt".
Nhất là trong hoàn cảnh bị cầm tù khi thấy sự bất công lên ngôi thì hình ảnh về
một đấng Messia nghiêm khắc càng lớn lên trong suy nghĩ của ông. Do đó sự nghi
ngờ về đấng Messia nơi Đức Giêsu, Đấng mà ông loan báo đã len lõi vào trong đầu
ông. Nên hôm nay trong tù ông sai 2 môn đệ mình đến hỏi xem Chúa Giêsu có thật
sự là Đấng Messia mà ông loan báo và muôn dân trông đợi không?: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn
phải đợi Đấng nào khác?".
Chúa Giêsu không xác nhận trực tiếp cho biết Ngài là
Đấng Messia, nhưng lại mời gọi họ xem những việc Ngài làm để về thuật lại những
điều mắt thấy tai nghe cho Gioan Tẩy Gỉa biết: "Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù
được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe,
người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai
không vấp ngã vì Ta". Những việc này minh chứng Đức Giêsu quả
thật chính là Đấng Messia đích thực. Bởi lẽ đây là những điều mà từ hậu bán thế
kỷ thứ VIII trước công nguyên, tiên tri Isaia đã loan báo về thời đại và việc
làm của Đấng Messia trong bài đọc 1: “Bấy
giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người điếc sẽ được nghe. Bấy giờ
người què sẽ nhảy nhót như nai…”
Như thế một mặt Chúa Giêsu xác nhận Ngài chính là Đấng
Messia. Tuy nhiên Đấng ấy không phải là vị thẩm phán hà khắc mà là một vị Thiên
Chúa đầy lòng yêu thương. Ngài không phải là vị thẩm phán hay trừng phạt và
giết chết, nhưng lại là một vị Thiên Chúa đến để tha thứ, tìm kiếm và cứu chữa.
Đó chính là khuôn mặt đích thực của Đấng Messia tôi tớ của Javê Thiên Chúa.
Dẫu rằng Gioan Tẩy Gỉa có chút nghi ngờ về Chúa Giêsu
nhưng Chúa Giêsu không hề trách móc, bởi Ngài hiểu và thông cảm về hoàn cảnh
đau thương mà Gioan đang phải chịu. Trái lại Chúa Giêsu còn nhìn nhận và ca
ngợi con người và sứ mạng cao cả của Gioan Tẩy Gỉa và qua đó như mời gọi mọi
người hãy nêu gương sống của Gioan Tẩy Gỉa mà xứng đáng đón nhận ơn cứu độ.
- Đó là một con người đầy mạnh mẻ, cương trực và can
đảm dám sống và chết cho sứ mạng loan báo và làm chứng sự thật và công lý, chứ
không như hình ảnh cây sậy phất phơ trước gió cách nhu nhược uốn mình theo dư
luật và áp lực của thế quyền.
- Đó là một con người biết sống hy sinh khổ chế chọn
cho mình đời sống nghèo khó nơi hoang địa, khác với những người chỉ biết nuông
chiều xác thịt và thỏa mãn vật chất để vui thích ăn mặc lả lướt nơi cung điện
giàu sang.
- Cho dù Gioan Tẩy Giả sống trong cô tịnh và khắc khổ
nhưng ngài lại là một con người cao trọng nhất trong các con cái người nữ sinh
ra. Bởi vì Gioan Tẩy Gỉa chính là ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước và là người trực tiếp
chuẩn bị tâm hồn cho mọi người đón nhận Đấng Cứu Thế đến. Dẫu vậy Gioan Tẩy Giả
vẫn nhỏ hơn những con người sống trong thời đại Tân ước, thời kì được thừa
hưởng và đón nhận ơn cứu độ.
Tóm lại: Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xác tính
mạnh mẽ vào Chúa Giêsu chính là khuôn mặt của một vị Thiên Chúa giàu lòng
thương xót nên chúng ta phải đặt trọn lòng tin tình mến vào Ngài qua việc tôn
thờ, trung tín, lắng nghe và tích cực thực hành Lời Chúa.
Mùa vọng, chúng ta được mời gọi noi gương thánh Gioan
Tẩy Gỉa, can đảm trung thành với sứ mạng làm chứng cho công bằng và chân lý cho
dẫu phải chịu hy sinh; biết sống khổ chế làm chủ bản thân mà khướt từ mọi cám
dỗ của đòi hỏi bất chính, nhờ đó tâm hồn chúng ta mới an vui sẵn sàng đón mừng
Chúa đến với chúng ta.
Thứ năm: Lc 7, 24-30
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta
biết về khuôn mặt cao đẹp của Gioan Tẩy Gỉa.
Nhưng trước hết chúng ta hãy nhớ lại bố cảnh trước đó. Gioan Tẩy Gỉa đã từng giới thiệu khuôn mặt
của đấng Messia là vị thẩm phán hết sức nghiêm khắc bằng những lời lẽ hết sức
cứng rắn: “Đây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái
tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa…Ngài cầm nia trong tay mà sảy lúa của Ngài,
rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt". Vì
vậy mà ông đã không ngần ngại kêu gọi mọi người phải sám hối chừa bỏ đàng tội
lỗi. Ông cũng sẵn sàng lên án mạnh mẽ lối sống vô luân của vua Hêrôđê vì ông ta
đã cướp lấy bà Hêrôđia là vợ của anh mình làm vợ của ông. Do đó mà Gioan đã bị
nhà vua bắt bỏ tù.
Trong hoàn cảnh bị cầm tù như thế, ông nhận thấy sự
bất công lên ngôi, vậy mà đấng Messia ông đã từng loan báo lại không ra tay để
trừng trị. Điều này khiến ông trở nên nghi ngờ không biết Đức Giêsu có phải là
Đấng phải đến không?. Nên hôm nay mặc dù đang trong cảnh tù đày ông vẫn tìm
cách sai 2 môn đệ của mình đến để hỏi xem Chúa Giêsu có thật sự là Đấng Messia
mà ông loan báo và muôn dân đang trông đợi hay không?: “Thầy có phải là
Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?".
Tuy Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp cho môn đệ
Gioan biết Ngài là Đấng Messia, nhưng qua việc Ngài bảo họ về và thuật lại cho
Gioan Tẩy Gỉa nghe biết những điều Ngài đã và đang làm: " người mù
được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe,
người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai
không vấp ngã vì Ta", chắc hẳn Gioan sẽ rõ. Bởi lẽ đó là những việc
làm đúng với những gì mà tiên tri Isaia đã loan báo trước đó khoảng 800 năm.
Tiên tri Isaia khi ấy đã loan báo về một thời đại tươi sáng, trong thời đại ấy
Đấng Messia sẽ làm cho :“ người mù nhìn thấy, người điếc sẽ được nghe,
người què nhảy nhót như nai…”
Như thế một mặt Chúa Giêsu vừa xác nhận cho các môn đệ
Gioan biết Ngài chính là Đấng Messia. Nhưng mặt khác, Ngài cũng cho họ biết
Đấng Messia mà Gioan Tẩy Gỉa đã loan báo không phải là một vị thẩm phán khắc khe
hay trừng phạt mà là một Đấng đầy lòng từ ái, sẵn lòng tha thứ cho những ai
biết ăn năn sám hối. Đấng ấy không phải là một vị thẩm phán thích lên án và
muốn giết chết nhưng là một Đấng yêu mến sự sống, nên Ngài“đến là để tìm
kiếm, cứu chữa những gì đã hư mất”. Và đó mới thạt là khuôn mặt đích
thực của Đấng Messia, Người tôi tớ của Giavê Thiên Chúa mà Isaia đã loan báo từ
ngàn xưa.
Dẫu rằng trong lúc bị tù đày, Gioan Tẩy Gỉa có chút
xao xuyến, nghi ngờ về Chúa Giêsu, nhưng Chúa Giêsu không hề trách móc ông, bởi
Ngài hiểu và thông cảm về hoàn cảnh đau khổ mà ông đang phải chịu. Vì vậy, sau
khi các môn đệ Gioan đi rồi, Chúa Giêsu đã không ngớt lời ca ngợi về con người
và sứ mạng cao cả của Gioan Tẩy Gỉa:
- Đó là một con người đầy cương
trực và can đảm. Ông dám sống và chết cho sứ mạng mà ông đã loan báo. Ông cũng rất mạnh mẻ
sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để làm chứng cho sự thật và công lý, chứ không
giống như hình ảnh cây sậy phất phơ trước gió cách nhu nhược, uốn mình theo dư
luận và áp lực của thế quyền.
- Đó là một con người biết sống
hy sinh khổ chế, dám chọn cho mình đời sống nghèo khó nơi hoang địa, khác với những người
chỉ biết nuông chiều xác thịt và thỏa mãn với những vật chất sa hoa và vui
thích thời trang lả lướt nơi cung điện giàu sang.
- Cho dẫu Gioan Tẩy Giả chọn lấy cách sống cô tịnh và
khắc khổ, nhưng ngài được mọi người kính
phục và được Chúa Giêsu khen tặng là người cao trọng nhất trong các con cái
do người nữ sinh ra. Gioan Tẩy Gỉa trở nên cao trọng bởi vì ông chính là ngôn
sứ cuối cùng của Cựu ước và là người trực tiếp dọn đường cho Đấng Cứu Thế
đến.
Tuy vậy, Gioan Tẩy Giả vẫn nhỏ hơn những con người
sống trong thời đại Tân ước, thời kì mà những người Kitô hữu được thừa hưởng và
đón nhận ơn cứu độ của Chúa Giêsu mang đến.
Xin cho chúng ta cảm nhận được tình thương của Chúa và
biết nỗ lực đáp lại tình thương của Người bằng cách luôn sống trung tín và can
đảm làm chứng cho Chúa, can đảm sống cho những giá trị của tin mừng cho dẫu
phải chịu nhiều hy sinh thử thách. Cụ thể trong trong những ngày
này, xin cho chúng ta biết dành nhiều thời giờ hơn để dọn lòng sám hối,
xưng thú tội lỗi mà đón nhận tình thương và ơn tha thứ của Chúa, hầu chuẩn bị
tâm hồn sẵn sàng đón mừng Chúa đến ban tặng cho ta niềm vui trọn vẹn.
Thứ sáu (17/12): Mt 1, 1-17
Theo lịch phụng vụ, hôm nay chúng ta bước vào giai
đoạn thứ hai của mùa vọng. Giai đoạn này kéo dài một tuần lễ, từ ngày 17 đến 24
tháng 12, nhằm chuẩn bị gần để mừng đại lễ Giáng Sinh, tưởng niệm biến cố Chúa
Kitô đã ngự đến trần gian lần thứ nhất trong lịch sử nhân loại.
Khởi đầu cho gia đoạn này, GH cho chúng ta nghe lại
bảng gia phả của Chúa Giêsu Kitô do thánh sử Matthêu trình bày. Có lẽ mỗi khi
đọc hay nghe bảng gia phả này, chúng ta cảm thấy không có gì lý thú. Nhưng nếu
đọc kỹ với tâm tình cầu nguyện, chúng ta cũng cảm nhận nhiều điều Chúa muốn nói
với ta. Rất riêng, tôi cảm nhận 3 điều:
1. Trước hết bảng gia phả này muốn minh chứng Đức Giêsu là Đấng Messia và là Người Con của lời hứa.
- Theo Tin mừng của thánh Luca thì gia phả của Chúa
Giêsu được tính từ thời thánh Giuse lên đến thời tổ tông loài người là ông
Ađam. Còn bảng gia phả của thánh Matthêu lại bắt nguồn từ tổ phụ Abraham trở
xuống. Nhưng lại nhấn mạnh đến tước vị của Đức Giêsu là Chúa Giêsu Kitô là con
vua David và con của Abraham.
- Rồi đến con số 14. Matthêu chia bảng gia phả thành 3
phần bằng nhau, với 3 thời kỳ. Mỗi thời kỳ gồm có 14 đời: từ Abraham đến vua
David, 14 đời. Từ vua David đến thời lưu đày Babylon, 14 đời. Từ thời lưu đày
Babylon đến Chúa Giêsu Giáng sinh, 14 đời. Có thể cách chia như vậy không chính
xác lắm, nhưng Matthêu muốn nhấn mạnh đến con số 14 là để minh chứng nguồn gốc
xuất thân của Đức Giêsu gắn liền với dòng tộc vua David. Bởi theo tiếng Hy Bá
Lai thì người ta chỉ viết các phụ âm thôi, còn người đọc phải thêm các nguyên
âm vào sau phụ âm theo ý nghĩa của mạch văn. Mà tên David được viết là D+V+D.
Nếu tính theo giá trị con số thì D=4; V=6; D=4, như vậy tổng giá trị của các
phụ âm này là 4+6+4= 14.
* Những điều trên, Matthêu ngầm minh chứng cho người
Do Thái hiểu rằng: Đức Giêsu chính là đấng Messia, bởi được sinh ra trong dòng
tộc vua David; đồng thời Ngài cũng là con của Abraham, nghĩa là Người Con
của lời Chúa hứa.
2. Tiếp đến bảng gia phả nhấn mạnh đến tình thương và
ơn cứu độ phổ quát của TC.
Trong bảng gia phả, Matthêu nêu tên rất nhiều hạng
người. Trong đó có những người tốt lành thánh thiện nhưng cũng không ít những
người xấu xa, tội lỗi. Đặc biệt trong đó có nêu tên 4 người phụ nữ. Mà những
người phụ nữ này đều có vấn đề.
- Nàng Thamar: là con dâu của gia đình Giu-đa. Nhưng
sau khi chồng nàng chết, gia đình Giuđa lại không cưới nàng cho người con út
theo tập tục Do Thái, nên nàng đã giả dạng làm kỹ nữ mà ăn ở với ba chồng là
ông Giuda để sinh con nối dõi tông đường (St 38).
- Nàng Rahab: là kỹ nữ người Giêricô. Nàng có công
trong việc che giấu những người thám thính thời ông Giô-sê. (x. Gs 6,22-25)
- Nàng Rút: là thiếu nữ dân ngoại, người Mô-áp. Nhưng
vì lòng hiếu thảo với mẹ chồng đã về chung sống tại Bêt-lem và kết hôn với Booz
là ông cố nội của vua Đavit.
- Nàng Bat-sa-ba vợ của Uria: Nhưng bà đã ngoại tình
với vua Đavit và đã sinh ra vua Salomon (x. 2Sm 11, 2-12,25).
Cho dẫu dòng tộc ấy có nhiều bất toàn, nhưng Đức Giêsu
đã sẵn sàng đi vào dòng tộc đó. Người chấp nhận gắn kết đời mình với những con
người tội lỗi và ngoại giáo. Tất cả nhằm minh chứng cho một tình yêu lớn lao và
ơn cứu độ phổ quát mà TC dành cho hết mọi người.
3. Cuối cùng bảng gia phả xác quyết Đức Giêsu chính là
Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế.
Ngay từ đầu nếu để ý, ta nhận thấy bảng gia phả trình
bày theo thứ tự ông này sinh ra ông kia. Nhưng khi đến Chúa Giêsu thì Matthêu
lại không trình bày theo nguyên tắc ấy mà Matthêu lại cho biết Đức Giêsu được
sinh ra bởi một người nữ tên là Maria, do quyền năng của Thánh Thần. Điều này
minh chứng cho biết Đức Giêsu được sinh ra không bởi người nam, nhưng do quyền
năng của Thánh Thần. Nên Ngài thuộc dòng dõi thần linh, là Con Thiên Chúa và là
Đấng Cứu Thế mà TC đã hứa ban cho nhân loại ngay sau khi nguyên tổ phạm tội.
Kế hoạch của TC thật vĩ đại, khó hiểu với đầu óc hạn
hẹp của con người. Từ một dân tộc bất trung, phát xuất từ những con người nhiều
tội lỗi, nhưng TC lại chấp nhận đi vào dòng lịch sử và dòng đời có nhiều bất
toàn ấy, để hoàn thành chương trình cứu độ theo lời hứa của Người một cách kì
diệu đến ngỡ ngàng!
Trước kế hoạch kì diệu của TC, xin cho chúng ta biết
khiêm tốn mở lòng đón nhận mầu nhiệm ơn cứu độ của Người bằng tâm tình
cảm mến tri ân. Nhất là biết sống bao dung, tha thứ và hòa hợp với hết mọi
người, bởi ý thức rằng Chúa đã chấp nhận đi vào cuộc đời ta là những kẻ tội
lỗi, để Người yêu thương tha thứ và cứu độ ta.
Suy niệm 2:
Khi đọc và suy niệm về bảng gia phả của Đức Giêsu,
chúng ta không khỏi ngạc nhiên, bởi vì: Đức Giêsu là Thiên Chúa thánh thiện,
tốt lành vô cùng. Nhưng vì quá yêu thương nhân loại lỗi lầm nên Chúa đã chấp
nhận xuống thế làm người và đã sinh ra trong một dòng tộc bao gồm đủ mọi thành
phần. Trong đó có người tốt, nhưng đa phần lại là những người xấu và tội lỗi
như: tổ phụ Giacóp đã giành quyền trưởng nam của anh mình; Đavít vị vua
tốt lành nhưng lại cướp vợ Uriagia; Salômôn vị vua khôn ngoan nhưng lại sa đọa;
bà Rút là dâu hiền nhưng lại là dân ngoại; Tama là gái
điếm; Bathsheba vợ của ông Urigia nhưng lại chấp nhận cho vua Đavít
cưỡng đoạt … Qua đó cho ta hiểu rằng: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan
gấp bội” (Rm 5, 20). Chúa
chấp nhận đi vào dòng lịch sử nhân loại với đầy những khiếm khuyết để chia sẻ,
đồng cảm nhằm cứu độ nhân loại tội lỗi. Đó quả là ân sủng lớn lao mà Thiên Chúa
dành cho con người.
Mỗi người chúng ta khi sinh ra cũng được Thiên Chúa
sắp xếp trong một đất nước, một dân tộc và một gia cảnh khác nhau. Nơi ấy người
tốt và người xấu cùng sống chung với nhau. Là những Kitô hữu, Chúa còn đặt
chúng ta vào trong môi trường, hoàn cảnh gia đình và Họ đạo, xã hội… khác nhau.
Môi trường, hoàn cảnh ấy bao giờ cũng có người tốt kẻ xấu; thánh thiện và tội
lỗi; công chính và bất lương... Môi trường và hoàn cảnh mà chúng ta đang sống
có khi thuận lợi, nhưng lắm khi cũng gặp phải rất nhiều khó khăn, bất lợi. Dẫu
vậy, chúng ta phải luôn tin rằng: “Ơn Ta đủ cho con” (2Cr 12,9).
Xin Chúa cho chúng ta biết vui lòng đón nhận tất cả
mọi người, mọi nghịch cảnh xảy ra nơi gia đình cũng như xã hội chúng ta đang
sống, mà không kêu ca, phản kháng. Trái lại luôn biết đặt tin tưởng phó thác
vào đường lối nhiệm mầu của Thiên Chúa để nỗ lực thi hành tốt ơn gọi và bổn
phận của mình theo thánh ý Chúa, Ngõ hầu mang niềm vui Tin mừng của Chúa đến
cho mọi người.
Thứ bảy (18/12): Mt 1,18-24
Thánh Giuse được GH gọi là thánh cả, bởi nơi ngài có
rất nhiều nhân đức cao trọng. Nhưng nếu đặt biến cố thiên thần Gabriel truyền
tin cho thánh Giuse trong bố cảnh mùa vọng, thì lời Chúa hôm nay như mời gọi
chúng ta hãy học nơi thánh Giuse mẫu gương của cầu nguyện và thi hành đức bác
ái, nhằm chuẩn bị tâm hồn xứng hợp để đón mừng mầu nhiệm giáng sinh gần kề.
1. Thánh Giuse mẫu gương của cầu
nguyện.
Để nhận ra thánh ý Chúa, điều
kiện tiên quyết phải là gắn bó mật thiết với Chúa bằng đời sống cầu nguyện. Nói
như thế, thì thánh Giuse chính là mẫu gương của cầu nguyện. Chắc hẳn cả đời thánh Giuse phải là lời cầu nguyện liên lỉ, nhờ đó
mà ngài dễ dàng nhận ra thánh ý Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời.
Tin mừng cho biết ít nhất có 3 lần thánh
Giuse được Thiên Thần Chúa báo mộng:
- Lần thứ nhất: Tin mừng cho biết, trước
khi về chung sống với Đức Maria, thì Đức Maria đã mang thai. Nhận ra điều đó, thánh Giuse đã
định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng nhờ âm thầm gắn bó với Chúa bằng đời
sống cầu nguyện mà thánh Giuse đã nhạy bén nhận ra Đức Mẹ chịu thai là bởi
quyền năng Chúa Thánh Thần. Còn Hài Nhi mà Đức Maria đang mang là Đấng
Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Vâng theo lệnh truyền của Chúa,
ngay lập tức thánh Giuse đã đón nhận Maria về nhà làm bạn mình.
Lần thứ hai: Vì lo sợ mất ngai vàng nên
nhà vua Hêrôđê đã ra lệnh tìm cách giết Hài Nhi. Nhận biết điều đó qua lời mộng
báo của Thiên Thần, thánh Giuse đã nhanh chóng đưa Hài Nhi và Mẹ Người trốn
sang Ai Cập để lánh nạn.
Lần thứ ba: Sau khi vua Hêrôđê băng hà,
lập tức thánh Giuse lại được thiên thần Chúa báo mộng lần nữa là đem Hài Nhi
trở về lại quê hương. Thánh nhân đã vâng phục thánh ý Chúa, đưa gia đình về Palestin
và sống ẩn dật tại làng quê Nagiarét.
Như thế thì trong bất cứ hoàn cảnh nào,
thánh Giuse cũng đều nhạy bén nhận ra thánh ý của Chúa và mau mắn thi hành. Có
được như vậy là vì ngài luôn sống mật thiết với Chúa trong bầu khí của âm thầm
cầu nguyện.
2. Thánh Giuse mẫu gương đời sống
bác ái.
Biết được Đức Maria mang thai mà
tác giả không phải là của mình, thay vì theo phản ứng tự nhiên thánh Giuse chỉ
cần đưa Đức Maria ra tố cáo. Chắc chắn Đức Maria sẽ bị ném đá cho đến chết
chiếu theo luật Do Thái thời bấy giờ. Nhưng thánh Giuse đã không hành xử như
thế. Trái lại, ngài chọn giải pháp âm thầm rút lui bằng cách “định tâm
lìa bỏ bà cách kín đáo”. Cách xử như thế cho thấy thánh Giuse là một
con người độ lượng và giàu lòng bác ái.
Hơn thế nữa để chăm sóc Đức Maria
không phải là vợ của ngài đúng nghĩa và nuôi dưỡng Chúa Giêsu không phải là con
ruột ngài, trong một hoàn cảnh khó nghèo nơi làng quê Nazareth sẽ không dễ dàng
chút nào. Cuộc sống ấy đòi hỏi thánh Giuse phải hy sinh rất nhiều. Nếu không có
tình bác ái cao thượng, chắc hẳn ngài sẽ không chu toàn tốt được sứ mạng mà
Thiên Chúa trao phó.
Mùa vọng sắp kết thúc, đây là
thời điểm chúng ta phải chuẩn bị mọi thứ linh tinh bên ngoài để mừng đại lễ
Giáng sinh. Là những người kitô hữu, xin cho chúng ta đừng quá mãi mê thế sự mà
quên đi chuẩn bị tâm hồn xứng hợp để cho Chúa ngự vào. Cách chuẩn bị xứng hợp
nhất trong những ngày này là ta hãy cố gắng chu toàn tốt bổn phận cầu nguyện và
nỗ lực sống tình bác ái với nhau, theo mẫu gương của Thánh Giuse.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét