SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN X
THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KITÔ
Đnl 8,2-3.14b-16a; 1Cr
10,16-17; Ga 6, 51-58
Suy niệm 1:
Hiệp chung tâm tình cùng GH toàn cầu, hôm nay chúng ta mừng kính trọng
thể lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy
đến với bàn tiệc Thánh Thể để kính múc Mình và Máu Chúa Kitô làm lương thực
thiêng liêng nuôi dưỡng hồn xác ta. Xin Chúa giúp chúng ta xác tín
mạnh mẽ vào tình yêu cứu độ của Chúa, biết siêng năng đến với bàn tiệc Thánh
Thể và dọn tâm hồn cách xứng hợp cho Chúa ngự vào.
Thiên Chúa dựng nên con người có hồn và xác. Phần xác muốn sống phải ăn
cơm bánh hằng ngày; phần hồn muốn sống cần phải đón nhận Mình Máu Thánh Chúa.
Mình Máu Thánh Chúa chính là của ăn có sức thiêng nuôi sống linh hồn ta. Xin
cho chúng ta biết yêu mến và quý trọng của ăn thiêng liêng mà Chúa Giêsu tặng
ban cho ta, bằng cách dọn mình xứng hợp và siêng năng đón rước Chúa vào lòng
mỗi khi tham dự thánh lễ.
Nhân gian thường nói “Ăn gì thì bổ cái đó” là một thực tế của sự sống
luân chuyển trong thân xác con người và các tạo vật. Nếu ăn nhiều thịt, thì áp
xuất máu sẽ tăng lên và tính tình cũng thường hay nóng nảy. Ngược lại nếu ăn
rau, củ, quả nhiều thì cơ thể cảm thấy nhẹ nhàng, tính tình cũng điềm đạm hơn.
Đó là kinh nghiệm bình thường ở những cơ thể cũng bình thường, ngoại trừ những
cơ thể bất thường thì có thể khác.
Căn cứ vào kinh nghiệm đó, chúng ta có thể hiểu được lời Chúa Giêsu phán
dạy: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này thì sẽ
sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống...
Ai ăn Thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy."
Đúng vậy, Chúa Giêsu Kitô không phải chỉ có bản tính nhân loại, mà còn
mang bản tính Thiên Chúa trong Ngài, nên thịt và máu Ngài ở trong trạng thái
của sự sống đời đời. Khi ăn Thịt và uống Máu Ngài, một kiểu nói khiến những
người Do Thái đương thời với Chúa Giêsu phải rùng mình sợ hãi và bỏ đi; và
những người thời nay không tin Chúa Giêsu thì cho rằng đầu óc của những người
Công Giáo là điên rồ. Ấy vậy mà điều ấy lại rất quen thuộc thường tình đối với
người Công giáo chúng ta. Việc đón nhận Mình và Máu Chúa đã trở nên vô cùng
quan trọng cho sự sống tinh thần và thiêng liêng của mọi Kitô hữu.
Với người Công giáo chúng ta, chẳng những tin vào Lời Chúa Giêsu phán về
việc ăn Thịt và uống Máu Ngài, nhưng còn có kinh nghiệm ăn Thịt và uống Máu ấy
hằng ngày. Nhờ đó mà ta mới cảm nghiệm được sự trưởng thành trong đời sống tinh
thần và thiêng liêng của mình ở mức độ đời đời là như thế nào. Vì thế mà trên
cả thế giới, cứ vài giây đồng hồ lại có một Thánh Lễ để cung cấp cho hàng tỷ
người Công giáo sự sống thần linh và trường sinh là thịt và máu Chúa Giêsu. Bất
cứ ai đến ăn Thịt và uống Máu Ngài, đều cảm nhận sự bình an khôn tả, nhiều khi
nhận được cả sự chữa lành thể xác nữa.
Bí tích Thánh Thể, lương thực thần lương mang sự sống đời đời. Xin cho
chúng ta biết tin tưởng và khao khát tìm đến đón nhận chính nguồn lương thực
này, hầu đem lại cho chúng ta nguồn bình an và sự sống đích thực.
Suy niệm 2: Lễ Thiếu Nhi.
Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội long trọng mừng kính lễ Mình Máu
Thánh Chúa Kitô. Hiệp dâng thánh lễ hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta tích cực
tìm hiểu và suy niệm sâu xa hơn về bí tích Thánh Thể, nhờ thế chúng ta mới thêm
lòng yêu mến Thánh Thể Chúa.
Giờ đây, chúng ta hãy khiêm tốn nhìn nhận những lầm lỗi, thiếu sót của
mình mà xin ơn tha thứ của Chúa hầu xứng đáng cử hành mầu nhiệm Thánh Thể.
Mừng kính trọng thể lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô hôm nay, là
dịp thuận tiện để Cha cùng với các con ôn lại đôi chút giáo lý về Bí Tích Thánh
Thể mà Giáo Hội chỉ dạy chúng ta.
1. Các con cho cha biết: Ai đã lập Bí Tích Thánh Thể?
- Chúa Giêsu.
2. Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể khi nào?
- Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể trong bữa
tiệc ly trước khi Người chịu chết.
3. Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể như thế nào?
- Đang trong bữa ăn, Người cầm lấy bánh dâng lời
chúc tụng tạ ơn rồi bẻ ra trao cho các môn đệ mà phán: “Này là mình Ta,
các con hãy cầm lấy mà ăn”. Sau đó, Chúa Giêsu cầm lấy chén rượu nho, tạ ơn
Chúa Cha rồi trao cho các môn đệ và nói: “ Các con hãy nhận lấy mà uống, này là
máu Ta, Máu tân ước vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội.” (Mt
26, 26-28; Lc 22, 17-20). Khi ấy bánh và rượu trở nên Mình Máu Thánh Chúa.
4. Vì ý gì Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể?
- Vì yêu thương chúng ta và muốn ở với chúng ta
mãi nên Chúa Giêsu đã dùng chính Mình Máu Người làm của ăn thức uống để nuôi
dưỡng linh hồn bổ dưỡng thân xác nhắm giúp chúng ta đủ sức tiến bước trên hành
trình đi về nhà Cha.
5. Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể mấy lần?
- Chúa Giêsu chỉ lập bí tích Thánh Thể một lần,
nhưng Chúa Giêsu đã truyền lệnh cho các tông đồ: “Các con hãy làm việc
này mà nhớ đến Ta” ( Lc 22, 19). Qua đây Chúa Giêsu truyền lệnh cho
Hội Thánh cử hành bí tích Thánh Thể mà tưởng nhớ đến Chúa.
6. Giáo Hội cử hành bí tích Thánh Thể khi nào?
- Chính khi cử hành thánh lễ là Giáo Hội cử hành
bí tích Thánh Thể.
7. Khi nào bánh rượu trở nên Mình Máu Chúa?
- Trong thánh lễ, khi linh mục chủ tế đọc lời
truyền phép trên bánh và rượu lúc ấy bánh rượu liền trở nên Mình và Máu Thánh
Chúa.
8. Chúa Giêsu yêu thương muốn ở với chúng con. Vậy các con có muốn rước
Chúa vào lòng để ở cùng chúng con không?
- Muốn.
9. Muốn rước Chúa vào lòng thì phải có những điều kiện gì?
- Sạch tội trọng, có ý ngay lành, giữ chay một
giờ trước khi rước Chúa.
10. Rước Chúa thì được những ơn ích gì các con?
- Được kết hợp mật thiếu với Chúa Giêsu và với
nhau.
- Xóa bỏ các tôi nhẹ và gia tăng ơn thánh hóa.
- Có sức chống trả chước cám dỗ.
- Bảo đảm cho ta được sống đời đời.
Các con thân mến, Chúa Giêsu yêu thương chúng ta đến hy sinh thân mình
để trở nên Mình Máu Thánh nuôi sống chúng ta. Chúng ta xin Chúa cho chúng ta
biết đáp lại tình yêu Chúa bằng việc chăm học giáo lý, siêng năng tham dự thánh
lễ và luôn giữ tâm hồn trong sạch để dọn mình rước Mình Máu Thánh Chúa cho xứng
đáng.
Suy niệm 3: THÁNH THỂ TUYỆT ĐỈNH CỦA TÌNH YÊU
Cùng với GH hoàng vũ, hôm nay chúng ta hiệp dâng thánh lễ mừng kính
trọng thể Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Đó là sáng kiến tuyệt vời của tình yêu.
Vì tình yêu mà Chúa Giêsu đã thiết lập nên Bí Tích Thánh Thể để ở lại
mãi với nhân loại chúng ta, trở nên lương thực thần linh nuôi dưỡng linh hồn,
bổ dưỡng thân xác chúng ta.
Tình yêu vẫy gọi tình yêu, ân tình đền đáp ân tình. Xin cho chúng ta
luôn biết yêu mến, tôn kính bí tích Thánh Thể, qua việc siêng năng đến kính
viếng Thánh Thể Chúa và tích cực tham dự thánh lễ cũng như dọn mình cách xứng
hợp mỗi khi đón rước Chúa vào trong tâm hồn.
Định luật tình yêu dạy cho ta hiểu rằng: “yêu ai thì muốn ở gần người
đó, yêu ai thì muốn hy sinh phục vụ cho người đó và yêu ai thì muốn trở
nên một với người mình yêu.” Hành động mà Chúa Giêsu trao ban chính Mình và Máu
Thánh Người làm lương thực thần linh nuôi sống chúng ta, chính là đỉnh cao
của tình yêu dâng hiến.
Khi yêu nhau người ta không chỉ dừng ở việc phục vụ trong hy sinh, nhưng
người ta còn muốn nên một với người mình yêu: “mình với ta tuy hai mà một” là
vậy. Vì lẽ đó, Chúa Giêsu đã lập Bí Tích Thánh Thể, ngang qua đó, Ngài đã biến
bánh thành Thịt và rượu thành Máu Người để nuôi sống và ở lại mãi với người
mình yêu.
Chuyện kể rằng: Có một đôi vợ chồng trẻ
kia mới lấy nhau được hơn một năm. Trong thời gian đó họ đã sống rất
hạnh phúc. Mỗi buổi sáng trước khi rời nhà đi làm, và buổi chiều
khi vừa trở về ngôi nhà thân thương, người chồng không bao giờ quên trao
cho vợ một cử chỉ âu yếm và một lời nói thân thương. Nhờ đó tình
yêu giữa hai vợ chồng ngày thêm nồng thắm. Nhưng rồi hạnh phúc của họ
đã bị đe dọa khi một hôm người chồng bị trúng mưa trên đường từ xưởng
làm về nhà.
Anh bị cảm nặng phải nằm liệt giường nhiều ngày và đã
được chị vợ tận tình săn sóc. Đẩu tiên, anh được vợ mang đến bệnh viện
và được bác sĩ chẩn đoán bị sưng màng phổi. Dù đã được các bác sĩ
tận tình cứu chữa, nhưng bệnh của anh ngày càng nặng thêm. Sau đó, bệnh
viện kết luận anh đã bị ung thư màng phổi ác tính thời kỳ thứ ba và vô
phương cứu chữa.
Khi sắp chết, anh chồng đã cầm tay vợ thều thào nói: “Em
yêu quí ! Có lẽ sắp tới giờ Chúa gọi anh về rồi. Anh đã chuẩn bị
và sẵn sàng vâng theo thánh ý Chúa muốn. Anh chỉ tiếc một điều là
không còn được tiếp tục sống bên em nữa. Trước khi đi xa, anh không có
gì trối lại cho em ngoài chiếc nhẫn mà cách đây hơn một năm, hai vợ
chồng mình đã tặng cho nhau khi kết ước trước bàn thờ Chúa. Bây giờ
anh xin tặng lại chiếc nhẫn kỷ vật này cho em, để mỗi lần nhìn thấy
nó, em biết rằng anh vẫn luôn ở bên em và hằng cầu Chúa ban cho em an
lành hạnh phúc”.
Nói xong, anh tháo chiếc nhẫn đang đeo ở ngón tay ra và âu
yếm xỏ vào tay vợ, giống như trước đây anh đã từng làm trong thánh lễ
hôn phối của hai người.
Sau khi chết, anh được an táng trong một nghĩa trang gần
nhà. Từ ngày đó, mỗi ngày người ta đều thấy một phụ nữ còn rất
trẻ, đầu chít khăn tang, tay cầm bó bông đi vào nghĩa trang. Chị đứng
hằng giờ trước ngôi mộ cỏ mọc chưa xanh của chồng, để cầu nguyện cho
anh. Tay chị đeo hai chiếc nhẫn: Một chiếc của ngày thành hôn và
chiếc kia là kỷ vật của người chồng quá cố đã để lại cho chị khi sắp
từ giã cuộc đời này.
Câu chuyện trên minh chứng cho chúng ta biết: đối với người đời trước
khi đi xa, thường muốn để lại cho người mình thương bằng những kỉ vật hay của
hồi môn quý giá nhất. Còn với Chúa Giêsu thì những kỉ vật những của hồi môn ở
trần gian này dù quý giá mấy đi nữa thì cũng trở nên tầm thường, không đủ nói
lên hết tấm lòng yêu thương. Để tỏ tấm lòng yêu thương đến cùng, Chúa Giêsu lại
có một sáng kiến hết sức độc đáo, qua việc trao ban một kỉ vật vô cùng cao
trọng, đó chính bản thân Người. Nhưng bản thân bằng xương thịt của Người cũng
chỉ có thể trao ban cho nhận loại chúng ta chỉ được một lần, không thể trao ban
mãi mãi được. Cho nên Ngài mới lưu lại bản thân Ngài bằng chính bí tích nhiệm
mầu dưới hình bánh và hình rượu, làm thức ăn của uống thiêng liêng dưỡng nuôi
linh hồn chúng ta.
Hơn thể nữa, Chúa Giêsu còn muốn các môn đệ trở nên đồng hình đồng dạng
với Ngài, là hiện thân của Ngài ở giữa trần gian nên Ngài đã trao ban chức Linh
mục cho các ông với lời phán truyền: “các con hãy làm việc này mà nhớ
đến Thầy”. Cho nên trong mỗi thánh lễ, nhờ việc đặt tay của Linh mục chủ tế
trên hình bánh hình rượu và đọc lời truyền phép như Chúa Giêsu đã thực hiện
trong bữa tiệc ly, thì lập tức bánh và rượu, liền trở nên Mình Máu Chúa. Để
những ai tin và đón nhận Mình Máu Chúa vào lòng sẽ được thần lương Chúa bổ
dưỡng đủ sức để tiến bước trên con đường đi về quên trời.
Mỗi lần tham dự thánh lễ ước gì mỗi người chúng ta đều cảm nghiệm được
tình yêu kì diệu mà Chúa Giê-su đã dành cho nhân loại chúng ta qua bí tích
Thánh Thể nhiệm mầu, đó chính là bí tích tình yêu, hy sinh và nuôi dưỡng.
- Vì bí tích Thánh Thể là bí tích tình yêu nên vẫy gọi chúng ta cũng hãy
tập tành bắt chước tình yêu dành cho tha nhân, như Chúa Giê-su đã yêu thương
chúng ta.
- Vì bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của hy sinh nên vẫy gọi chúng ta cũng
biết hy sinh phục vụ cho tha nhân, như Chúa Giê-su đã hy sinh mạng sống vì
chúng ta.
- Vì bí tích Thánh Thể là bí tích nuôi dưỡng nên vẫy gọi chúng ta cũng
tập tành chia sẻ vật chất lẫn tinh thần với mọi người, như Chúa Giê-su đã lấy
thịt và máu của mình để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta.
- Và vì bí tích Thánh Thể được kết tinh từ tấm bánh tinh tuyền và rượu
nho thanh khiết do công lao con người dâng hiến tạo thành, nên mời gọi chúng ta
cũng hãy cố gắng trở thành tấm bánh thơm ngon bẻ ra cho anh chị em của mình
hưởng dùng qua những việc làm hy sinh phục vụ hàng ngày của chúng ta.
Xin cho chúng con đừng thờ ơ, hờ hững với món quà tình yêu vô giá nầy
nhưng biết sốt sắng lãnh nhận với tâm tình cảm tạ sâu xa.
Suy niệm 4:
Thiên Chúa dựng nên con người có hồn và xác. Phần xác muốn sống phải ăn
cơm bánh hằng ngày, phần hồn muốn sống còn phải rước Mình Máu Thánh Chúa. Mình
Máu Thánh Chúa chính là của ăn nuôi sống linh hồn ta. Xin cho chúng ta biết yêu
mến, quý trọng của ăn thiêng liêng do Chúa Giêsu ban tặng, bằng cách dọn mình
xứng đáng mỗi khi lên rước Chúa nơi bàn tiệc Thánh Thể.
Tuần trước chúng ta mừng kính trọng thể mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mầu
nhiệm căn bản và cao trọng nhất của niềm tin Kitô giáo (mầu nhiệm tín lý). Tuần
này chúng ta tiếp tục mừng kính mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm trung tâm và là
đỉnh cao của đời sống người Kitô hữu (mầu nhiệm bí tích). Cả hai mầu nhiệm đều
nói lên tình yêu TC dành cho nhân loại chúng ta. Nếu mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi
nói lên tình yêu sáng tạo của Ngôi Cha, cứu chuộc của Ngôi Con và thánh hóa của
CTT; thì mầu nhiệm Thánh Thể lại nhấn mạnh đến tình yêu tự hiến của Chúa Kitô,
Ngôi Hai Thiên Chúa.
Chính vì yêu mà Chúa Giêsu đã nhập thể làm người để ở cùng và
chia sẻ kiếp người với chúng ta. Ngài không những chịu nạn chịu chết và sống
lại để cứu độ chúng ta mà Ngài còn hiến tế mạng sống mình làm lương thực thần
linh nuôi dưỡng linh hồn và bổ dưỡng thân chúng ta trên hành trình dương thế.
Chỉ mong sao Ngài được ở lại trong ta và ta được ở lại trong Ngài mãi cho đến
ngày tận thế.
Nhân gian thường nói: “Ăn gì thì bổ cái đó”, đó là một thực tế
của sự sống luân chuyển trong thân xác con người và các tạo vật. Nếu ăn
thịt nhiều thì áp suất máu sẽ tăng lên và tính tình thường hay nóng nảy. Ngược
lại ăn rau, củ, quả nhiều, thì cơ thể cảm thấy nhẹ nhàng, tính tình trở nên
điềm đạm hơn. Đó là kinh nghiệm bình thường ở những cơ thể bình thường,
ngoại trừ những cơ thể bất thường thì có thể khác. Căn cứ vào kinh nghiệm
đó, chúng ta có thể hiểu được lời Chúa Giêsu phán dạy: "Ta là bánh
hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban,
chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống... Ai ăn Thịt Ta và uống máu Ta,
thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy."
Đúng vậy, Chúa Giêsu không chỉ mang bản tính nhân loại hay chết,
mà Ngài còn mang bản tính Thiên Chúa trường tồn, nên thịt và máu
Ngài luôn ở trong trạng thái sự sống vĩnh cửu. Ăn thịt và uống
máu Ngài, một kiểu nói khiến những người Do Thái đương thời với Chúa Giêsu phải
rùng mình sợ hãi và bỏ đi, còn những người thời nay không tin Chúa thì cho
rằng: đầu óc của những người Công Giáo thật điên rồ! Nhưng đó lại là
điều rất quen thuộc và vô cùng quan trọng đối với người Công Giáo chúng
ta. Người Công giáo chúng ta không những tin vào sự hiện diện của Chúa
Giêsu nơi bí tích Thánh Thể mà chúng ta còn có kinh nghiệm ăn thịt và uống
máu Người hằng ngày, và ai nấy đều cảm nghiệm được sự trưởng thành trong đức
tin ở mức độ đời đời như thế nào. Vì thế mà trên thế giới, cứ 1 giây đồng
hồ có khoảng 3 Thánh lễ được cử hành, nhằm cung cấp cho khoảng 1,3 tỉ
người Công giáo sự sống trường sinh chính là Thịt và Máu Chúa Giêsu. Bất
cứ ai đến ăn thịt và uống máu Chúa Kitô thì đều cảm nhận được sự bình an khôn
tả, nhiều khi còn nhận được sự chữa lành cả thể xác nữa.
Bí tích Thánh Thể, lương thực thần lương mang sự sống đời đời. Xin cho
chúng ta luôn biết tin tưởng, yêu mến và khao khát tìm đến, đón nhận nguồn
lương thực thần linh do Chúa tặng ban, nhờ đó ta mới cảm nhận được nguồn bình
an tâm hồn và mang lấy được nguồn sống đời đời do Chúa truyền ban.
Thứ hai: Mt 5, 1-12
Ở đời luôn có hai mặt thật và giả. Hạnh phúc
cũng vậy. Có những thứ đem đến cho con người hạnh phúc thật. Tuy nhiên cũng có
những thứ chỉ đem đến cho con người hạnh phúc giả tạo, không bền lâu. Điều
nghịch lý là ai cũng mong muốn có được hạnh phúc thật, nhưng rồi lại thích đi
tìm những thứ chỉ mang đến hạnh phúc giả tạo, chóng qua.
Xã hội ngày nay, nhiều người cho rằng hạnh
phúc là có 1,2,3,4,5: một là vợ đẹp, hai là con ngoan, ba là nhà 3 tấm, bốn là
xe 4 bánh và năm là du lịch 5 châu. Thế nhưng thực tế cho thấy, khi đạt được
những điều mong ước ấy, con người vẫn không tìm thấy hạnh phúc thật. Như thế
thì tiền bạc của cải, vật chất tiện nghi, đam mê lạc thú nơi trần gian không
lấp đầy được khát vọng sâu xa nơi cõi lòng con người và không là phương thế đưa
đến hạnh phúc thật. Vậy ta phải làm gì để có hạnh phúc thật?
Bài tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho
chúng ta biết những phương cách để đạt đến hạnh phúc đích thực thật, đáp ứng
được những khát vọng sâu xa nơi cõi lòng chúng ta. Đó chính là bước đi trên con
đường 8 mối phúc thật. Điều đáng nói là con đường 8 mối phúc thật mà Chúa Giêsu
đề ra hình như đi ngược lại với suy nghĩ thực dụng của con người thời nay và
lắm khi trở thành xa lạ ngay cả đối với người Kitô hữu chúng ta. Vì con người
thời nay vẫn còn bám víu quá nhiều vào tiền bạc, của cải, danh vọng, lạc thú...
nên không dám chấp nhận những phương cách mà Chúa Giêsu đề ra: là sống tinh
thần khó nghèo, chấp nhận từ bỏ, đón nhận đau khổ và hy sinh vì chính đạo để
phục vụ tha nhân và nước Chúa.
Con đường 8 mối phúc không phải là viễn vong,
mơ hồ hay bất khả thi nhưng là con đường chính đạo. Bởi vì chính Chúa Giêsu Đức
Giêsu đã kinh qua bằng chính đời sống nghèo khó, hi sinh từ bỏ và hiến thân cho
tha nhân vì nước trời. Do đó muốn có hạnh phúc thật chúng ta không thể đi theo
con đường nào khác ngoài con đường Đức Giêsu đã đi và đã chỉ dạy vì chính Ngài
đã đi và đã đạt đến vinh quang hạnh phúc đích thực.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm bước theo con
đường mà Chúa Giêsu đã đi, bằng cách trung thành thực thi 8 mối phúc thật mà
Chúa Giêsu vạch ra, nhờ đó ta mới mong đạt được điều mà mình khao khát là hạnh
phúc đích thật. Amen.
Suy niệm 2: Trả
lời cho câu hỏi thế nào là hạnh phúc, hẳn là mười người có mười câu trả lời
khác nhau.
Có người cho rằng ‘có tiền mua
tiên cũng được’ nên phải có nhiều tiền thì mới hạnh phúc.
Có người chỉ cảm thấy hạnh phúc
khi sở hữu thật nhiều của cải, được ăn sung mặc sướng.
Có người mong tìm thấy tột đỉnh
hạnh phúc khi nắm giữ mọi quyền lực trong tay… Tuy nhiên, tất cả những thứ đó
lại không phải là hạnh phúc thật, bởi vì trước hết chúng rất tạm bợ chóng qua,
và sau nữa chúng cũng không làm thoả mãn được khát vọng sâu thẳm nơi tâm hồn
con người.
Chính vì thế, trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa
Giê-su dạy cho chúng ta biết có tám con đường đưa tới hạnh phúc thật.
Cả tám con đường ấy đều khác xa với quan điểm
thông thường của con người về hạnh phúc, bởi vì điểm đến chung của chúng là
hạnh phúc tròn đầy và vĩnh cửu, và phải trải qua hy sinh, đau khổ của thập giá
mới có thể đạt tới được.
Mời Bạn: Hạnh phúc do Chúa ban luôn ở trong tầm tay bạn nhưng đồng thời cái
giá phải trả cũng không hề rẻ. Muốn có được hạnh phúc của Chúa, bạn phải cố
gắng và nỗ lực chiến đấu mỗi ngày để đi theo con đường Tám mối phúc thật. Bạn
có muốn “lội ngược dòng” đối với thế gian để đi theo con đường này không?
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày chọn một mối phúc, ví dụ chọn mối phúc hiền lành, để
quyết tâm thực hiện và tiếp tục hôm sau chọn thực hành một mối phúc khác.
Cầu nguyện: Hát hoặc đọc: “Nguyện xin Chúa giúp con bắt đầu và lại bắt đầu.
Này con chiến đấu, này con chiến thắng, tươi sáng hy vọng.”
(Nguồn http://tongdosongdao.org)
Thứ ba: Mt 5,13-16
Nhớ Thánh An-tôn-Pa-đô-va, linh mục tiến sĩ HT
Suy niệm 1:
Bằng hai hình ảnh muối và ánh sáng, Chúa Giêsu muốn nói đến bản chất và
sứ mạng của người kitô hữu.
1. Bản chất và sứ mạng của muối:
Nếu bản chất của muối là phải mặn. Muối không mặn thì không còn là muối
nữa, chỉ còn cách quăng xuống đường cho người ta giẫm đạp lên. Cũng vậy, bản
chất của người Kitô hữu phải mang đậm chất mặn của tình yêu. Nếu ta không có
tình yêu thì không còn là Kitô hữu nữa. Bởi lẽ "Thiên Chúa là Tình
Yêu" (1Ga 4,7). Ngài đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh Ngài, nên tự
bản chất nơi ta phải mang chất tình yêu. Dĩ nhiên tình yêu ấy phải đặt trên nền
tảng Tình Yêu như Chúa. "Yêu như Thầy đã yêu" (Ga
15,12).
Còn nếu sứ mạng của muối là giữ cho thức ăn khỏi hư thối và đem lại mùi
vị thơm ngon cho thức ăn. Thì sứ mạng của người kitô hữu phải có nhiệm vụ ướp
đời, ướp người khỏi những băng hoại của dối trá, hận thù, ganh tị, lường gạt,
bất trung... Ngoài sứ mạng ngăn chặn cuộc sống khỏi những băng hoại,
chúng ta còn phải là tác nhân đem lại hương vị ngọt ngào cho cuộc sống bằng
những cử chỉ, lời nói, việc làm thắm đợm tình thương, nhằm mang đến niềm vui,
an bình và hạnh phúc cho tha nhân.
2. Bản chất và sứ mạng của đèn:
Nếu bản chất của chiếc đèn là để thắp sáng, thì đức tin chính là
bản chất của người kitô hữu. Vì chúng ta được gọi là "tín hữu".
Còn nếu sứ mạng của chiếc đèn là chiếu giải ánh sáng cho mọi người
nhìn thấy, thì sứ mạng của người kitô hữu là chiếu tỏa ánh sáng đức tin ấy cho
mọi người nhìn thấy bằng những việc làm cụ thể. Vì "Đức tin không
có việc làm là đức tin chết " (Gc. 2,17). Mà những việc làm cụ thể ấy chính là những việc lành. “Ánh
sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc
tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”.Qua bí
tích rửa tội, chúng ta được Chúa trao ban cho ánh sáng Đức tin và kêu mời chúng
ta chiếu tỏ ánh sáng đó cho trần gian.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn giữ được chất tình yêu của Chúa, để
chúng ta có thể ướp mặn cho đời và cho người; cụ thể là những thành viên trong
gia đình chúng ta khỏi những băng hoại do tội lỗi gây nên. Đồng thời xin Chúa
cũng ban thêm chất Đức Tin nơi mỗi chúng ta, hầu ta có thể can đảm thắp lên
ngọn lữa đức tin ấy bằng những hành động bác ái cụ thể cho tha nhân, qua đó mà
mọi người nhận ra Chúa mà ngợi ca Danh Người.
Suy niệm 2:
Sau khi Chúa Giêsu đưa ra Bản Hiến chương Nước Trời (Mt
5,1-12), công bố ở trên núi, đó là Tám mối phúc. Ngài khuyên và khích lệ mọi
người hãy đi vào con đường đó vì chúng sẽ dẫn ta đến Nước trời.
Sang Bài Tin mừng hôm nay (Mt 5,13-16). Chúa Giêsu muốn
nhấn mạnh hơn nữa: Khi chúng ta sống trọn Tám mối phúc, ta sẽ trở nên nhân tố
biến đổi thế giới. Chúa đã dùng 2 hình ảnh để diễn tả bản chất của người môn đệ
đích thực, đó là:
+ Muối cho đời.
+ Ánh sáng cho thế gian.
1. “CÁC CON LÀ MUỐI ĐẤT”.
Độc giả có thể thắc mắc: Tại sao Chúa Giêsu không nói: “CÁC CON LÀ MUỐI”, mà
Ngài dùng thêm từ “ĐẤT”, có nghĩa “CÁC CON LÀ MUỐI ĐẤT”. Dụng ý của Matthêu rõ ràng. Matthêu muốn nhắc chúng ta
ý thức rằng: KHÔNG CÓ KITÔ HỮU NÀO
SỐNG LƠ LỬNG GIỮA TRỜI VÀ ĐẤT. Chúng ta được dựng nên để thuộc về Thiên Chúa,
có nghĩa thuộc về trời cao, nhưng chúng ta được Chúa đặt trên mặt đất, cũng như
ta luôn hướng về cuộc sống mai sau, nhưng ta vẫn phải sống tốt đời này. Như vậy, Chúa đã sai chúng ta vào thế gian này như
muối cho đời vậy, đó là “MUỐI ĐẤT”
- BẢN CHẤT CỦA MUỐI: PHẢI MẶN
Muối phải mặn. NẾU MUỐI ĐÃ LẠT, NGƯỜI TA BIẾT LẤY GÌ MÀ
ƯỚP CHO MẶN LẠI?”.
Khi nói về bản chất, thì ta phải hiểu: MẶN là cái gì
thật sâu xa, nằm trong muối, nó là bản chất của muối. Nếu mất cái bản chất đó
thì muối sẽ không còn gọi là muối nữa. Cũng vậy, BẢN CHẤT CỦA KITÔ HỮU PHẢI MANG ĐẬM CHẤT YÊU
THƯƠNG. Nếu Kitô hữu không biết sống yêu thương thì sẽ không còn là Kitô hữu.
- CÔNG DỤNG CỦA MUỐI: Không có gì rẻ và căn bản hơn muối; nhưng muối làm
nhiều điều hữu ích cho con người:
1/. Muối tượng trưng cho sự trong sạch tinh tuyền
2/. Muối để ngăn ngừa đồ ăn cho khỏi hư rữa.
3/. Muối để thêm gia vị cho thực phẩm.
Nếu sứ mạng của muối là giữ cho thức ăn khỏi hư thối và
đem lại mùi vị thơm ngon cho thức ăn, thì sứ mạng của Kitô hữu (MUỐI ĐẤT) phải
có nhiệm vụ ướp đời, ướp người khỏi những băng hoại của dối trá, hận thù, ganh
tị, lường gạt, bất lương…
Kitô hữu chúng ta, ngoài sứ mạng ngăn chặn cuộc sống
khỏi những băng hoại, chúng ta còn là tác nhân đem lại hương vị ngọt ngào cho
cuộc sống bằng những cử chỉ, lời nói, việc làm thắm đượm tình thương nhằm mang
đến niềm vui, an bình và hạnh phúc cho tha nhân. Nếu không có vị mặn của muối,
làm sao các Kitô hữu có thể “ướp mặn” lòng người.
Ta đừng bao giờ nghĩ rằng: mình chỉ cần sống tốt là đủ,
chỉ cần lo phần rỗi linh hồn của mình là được. Như vậy chưa đủ, vì còn rất
nhiều thiếu sót và phần rỗi linh hồn ta cũng không được đảm bảo, sống là sống
với người khác.
Do đó phần rỗi của người khác cũng có phần ảnh hưởng
đến phần rỗi của ta. Vì thế Chúa mời gọi ta: “CÁC CON LÀ MUỐI ĐẤT”. Chúa Giêsu khi nói “CÁC CON LÀ MUỐI
ĐẤT”, có nghĩa Ngài đặt ta vào mối tương quan với người khác, chứ không thể chỉ
sống cho mình. “Nếu muối đã lạt,
người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? muối đó không còn xử dụng vào việc chi
nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó”
Vì bản chất của muối là mặn, cái vị mặn đó phải từ muối
đi ra để làm tăng vị mặn cho thức ăn, không thể có chiều đi ngược lại. Như vậy,
khi muối đã mất vị mặn thì không có gì có thể ướp nó cho mặn lại. Chúa Giêsu đã nói đến một kinh
nghiệm dân gian: Người ta không thể làm ra muối bằng bất cứ thứ gì, mà phải từ
nước biển, vì vị mặn, bản chất của muối đã nằm sẵn trong nước biển.
Một khi muối đã mất vị mặn thì ta không lấy gì thể ướp
cho nó mặn lại. Ta không thể lấy một vị mặn nào đó để đưa vào muối để làm cho
nó mặn lại. Vì vị mặn chỉ có thể đi từ muối đi ra chứ không thể đi theo chiều
ngược lại. Các môn
đệ của Chúa Giêsu cũng thế, một khi đánh mất bản chất của mình thì người đó
cũng giống như muối đã mất vị mặn, người môn đệ đó sẽ không còn hữu ích cho ai
nữa, mà Matthêu nói: “Chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó”.
Đó là kết cục thảm hại dành cho kẻ đánh mất bản chất, đánh mất lý tưởng của
mình.
2. CÁC CON LÀ SỰ SÁNG THẾ
GIAN
“Các con là sự sáng thế gian. một thành phố xây dựng
trên núi, không thể che giấu được. và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng,
nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt
thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen cha các con
trên trời”
- “CÁC CON LÀ SỰ SÁNG THẾ GIAN”
Thánh sử Gioan từng xác tín Chúa Giêsu là ánh sáng thế
gian, Gioan viết: “ở nơi Người là sự sống,và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga
1, 4-5). Trong
phúc âm Marcô: Đã nhiều lần Chúa Giêsu ví các môn đệ là ĐÈN CHÁY SÁNG, Marcô
viết: “Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường? Nào
chẳng phải là để đặt trên đế sao?” (Mc 4, 21)
Sang đến Matthêu, Chúa Giêsu không còn nói “Đèn
cháy sáng” nữa, mà nói: “Các con là sự sáng thế gian”. Có nghĩa các môn đệ chính là sự
sáng thế gian, chứ không còn là đèn, vì là đèn, nó phải lệ thuộc vào dầu và vào
ôxy mới có thể cháy được. Còn khi là ánh sáng, thì nó thuộc về bản chất không
còn lệ thuộc vào bất cứ thứ gì khác.
Bản chất của các môn đệ là sự sáng, sự sáng đó chính là
tiếp nối sự sáng của Chúa Giêsu, Ngài mà Gioan đã mô tả: “ở nơi Người
là sự sống,và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng
tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1, 4-5)
Mặc dù thế giới hôm nay đã rực sáng bởi ánh sáng của
điện khí hoá, cứ nhìn vào khung cảnh Giáng sinh, của những ngày Tết ta sẽ thấy
rõ điều đó. Nhưng ở
nơi này nơi kia trên thế giới vẫn còn những góc tối, những góc khuất, mà Chúa
Giêsu muốn các môn đệ của Ngài phải là ánh sáng để dọi vào những góc tối đó.
Ta luôn ý thức rằng: Thế giới hôm nay vẫn còn 2/3 nhân
loại chưa nhận biết Chúa, có nghĩa chỉ 1/3 người nhận biết Chúa thôi. Nói chung
thế giới này vẫn đang chìm trong bóng tối mặc dù nó đã được điện khí hoá. Nhưng chúng ta chỉ là ánh sáng khi
chúng ta phản chiếu ánh sáng của Chúa, có nghĩa chúng ta hãy để cho ánh sáng
của Chúa xuyên qua và toả sáng trong cuộc đời chúng ta, để thiên hạ thấy những
công việc tốt đẹp chúng ta làm, mà tôn vinh Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời.
Giáo Hội là muối và ánh sáng thế gian. Mỗi Kitô hữu tự
bản chất cũng là muối và ánh sáng của thế gian. Họ sẽ đánh mất vị mặn của muối
và tia sáng của ánh sáng, nếu chỉ vì một chút lợi lộc vật chất, một chút dễ
dãi, mà họ thỏa hiệp với những gì đi ngược chân lý của Chúa Giêsu. Một cách cụ
thể, Kitô hữu sẽ không còn là muối và ánh sáng nữa, nếu cứ theo dòng chảy của
xã hội, họ cũng lọc lừa, móc ngoặc, dối trá.
Lạy Chúa, xin cho con trở thành muối cho đời qua công
việc yêu thương và phục vụ hàng ngày. xin cho chúng con biết gìn giữ ngọn lửa
mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của
Chúa suốt cả cuộc đời chúng con. Amen.
Giuse Vĩnh Tâm
SUY NIỆM LỄ THÁNH ANTÔN PADUA
(Kn 7,7-10.15-16; Eph 4;1-7.11-13; Mc 16;15-20)
Hôm nay, cùng với Giáo Hội
chúng ta mừng lễ Thánh Antôn Pađua. Tên thật của Ngài là Fernando. Ngài sinh
ngày 15 tháng 8 năm 1195 tại Lisbone thủ đô nước Bồ Đào Nha. Cha mẹ của Ngài là
ông Martinô và bà Maria rất đạo đức. Tròn 15 tuổi, Ngài gia nhập dòng Thánh
Augustinô và chịu chức linh mục ở đây. Tròn 25 tuổi, Ngài đổi sang dòng Thánh
Phanxicô năm 1220. Ngài được sai đi truyền giáo ở Marrốc và ước ao được phúc tử
đạo. Sau này, Ngài đi rao giảng khắp miền Tây nước Ý và miền Nam nước Pháp.
Ngài qua đời ngày 13 tháng 6 năm 1231, lúc mới tròn 36 tuổi. Ngài được Đức Giáo
Hoàng Grêgôriô X phong thánh vào ngày 30 tháng 5 năm 1232. Vào năm 1946, Đức
Giáo Hoàng Piô XII đã tôn phong Ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh.
Mặc dầu Ngài là người Bồ
Đào Nha nhưng lại rất được người Việt Nam yêu mến. Vấn đề đặt ra là tại sao
Thánh Antôn lại thu hút mọi người như vậy? Có người cho rằng vì Ngài hay làm
phép lạ (Nói đúng hơn, nhờ lời chuyển cầu của Ngài nên Chúa làm nhiều phép lạ).
Đúng, nhưng vì sao Ngài lại làm phép lạ? Kinh Ông Thánh Antôn cho chúng ta biết
rằng: “Để thông ơn phúc cho cả và thiên hạ, xưa ở đời này đầy lửa kính
mến Chúa, hằng ước ao cho danh cha cả sáng, cùng ái mộ phần rỗi nhân loại, nên
đã làm phép lạ cứu giúp muôn vàn người khỏi tai nạn phần hồn phần xác”
Như vậy, lý do Thánh Antôn
hay làm phép lạ đã rõ ràng: thứ nhất, để làm vinh danh Chúa; thứ hai, để cứu
giúp con người phần hồn phần xác. Ngài không những cứu giúp những việc lớn lao,
mà Ngài còn cứu giúp cả những việc nhỏ nhặt hằng ngày: “Hễ ai túng rỗi chạy đến cầu xin Người, bất luận việc lớn bé thế
nào, liền được ơn Người cứu giúp” (Lời kinh khẳng định)
Thông thường các thánh hay
làm phép lạ khi đã qua đời, còn Thánh Antôn không những làm phép lạ khi đã qua
đời mà Ngài còn làm phép lạ ngay cả khi còn sống.
Chuyện kể, khi còn niên
thiếu: “Một ngày mùa hè, cha Ngài sai Ngài canh giữ ruộng lúa mì khỏi chim phá.
Bỗng Antôn nhớ lại đã đến giờ đọc kinh tại nhà thờ mà Ngài không bao giờ bỏ.
Ngài liền gọi bầy chim sẻ lại và nhốt vào một cái lều lộ thiên, cấm không được
bay ra phá lúa. Rồi Ngài an tâm đi nhà thờ. Lúc trở về Ngài thấy bầy chim sẻ
vẫn ở trong lều và đồng lúa vẫn an toàn.”
Lần khác, “Antôn đang thinh
lặng cầu nguyện ở nhà thờ chìm trong bóng tối, Ngài cảm thấy bị cám dỗ mãnh
liệt. Không hề chần chừ, Ngài lấy ngón tay cái vẽ dấu Thánh giá trên bậc bàn
thờ, Thánh giá in sâu vào đá hoa. Thấy dấu này, quỷ trốn biệt và cơn cám dỗ
tiêu tan.”
Trong thời gian giảng
thuyết, Ngài cũng làm rất nhiều phép lạ, chẳng hạn như: Phép lạ cá nghe giảng;
ngựa đói chê cỏ để thờ lạy Thánh Thể; uống thuốc độc mà không hề hấn gì, ly vỡ
lại lành…
Khi Ngài qua đời, tự nhiên
các đoàn trẻ la hét “cha chúng tôi đã qua đời,” mặc dầu họ không biết cái chết
của Thánh Antôn. Trong cuốn Assidua, đã thuật lại nhiều phép lạ của thánh
Antôn, nhất là ngay khi Ngài mới qua đời, cuốn sách viết: “Chỉ chạm tới mộ
Ngài, bệnh nhân liền vui sướng cảm thấy mọi bệnh tật tan biến. Những ai không
tới gần mộ được, thì lúc trở về ngang nhà nguyện cũng được chữa lành bệnh. Nơi
đó, nhiều người điếc được nghe, mù được thấy, què được nhảy nhót như dê con;
cũng nơi đó lưỡi nhiều người câm được mở ra, cất tiếng ca ngợi Chúa. Chi thể tê
liệt được hồi phục, đi lại bình thường. Những chứng bệnh như còng lưng, thống phong,
sốt rét cũng như tất cả các bệnh khác đều được chữa lành cách lạ lùng. Tóm lại,
từ nhiều nơi trên trần gian đến đây, người ta đều xin được như ý mong ước.”
Đặc biệt trong ngày lễ
phong thánh, không ai biết chuyện gì đã xảy ra, thế mà dân chúng tuôn ra đường
phố vừa ca hát, vừa nhảy múa, chuông trong thị trấn bắt đầu rung vang, dầu
không ai động tới, và tất cả mọi người đều hoan hỷ vui sướng như ngày lễ hội.
Ít hôm sau, một vài anh em từ Ý tới loan tin chính là hôm đó Antôn được phong
thánh.
Tính từ khi thánh nhân qua
đời cho tới khi phong thánh có 47 phép lạ được Giáo Hội công nhận. Từ đó tới
nay, thánh Antôn vẫn làm phép lạ đây đó trên thế giới. Có người được khỏi bệnh,
có người tìm được của cải đã mất, có người thi cử đỗ đạt, nhiều người được ơn ăn
năn trở lại qua Bí tích Giao hòa…Chứng tỏ Chúa vẫn nhận lời Thánh Antôn. Nhưng
cũng có người phàn nàn là xin mãi mà chẳng được?
Thánh Giacôbê trả lời
rằng: “Anh em xin mà không được là vì anh em xin với tà ý” (Gc
4, 2-3). Còn Thánh Augustinô thì nói: xin không được là do tâm hồn không tốt;
hoặc do cách cầu nguyện xấu; cũng có thể là do xin điều xấu nên không được Chúa
nhận lời. Vì thế, nhiều khi chúng ta cũng phải xem xét nội dung và cách cầu
nguyện của chúng ta.
Mừng lễ Thánh Antôn hôm
nay, chúng ta không chỉ nhờ ngài xin ơn, mà còn phải học nhân đức của Ngài như:
khiêm nhường; thăng tiến trên đường nhân đức; siêng năng đọc, suy gẫm và truyền
đạt Lời Chúa; mến Chúa và yêu người.
Trong lời nguyện nhập lễ
hôm nay cho chúng ta biết: Ngài không những là nhà giảng thuyết lừng danh mà
còn là người cứu giúp những ai nghèo khổ.
Sống trong một xã hội đầy
dẫy những bất công như hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa nhờ lời chuyển cầu của
Thánh Antôn làm cho chúng ta trở thành những Antôn của thời đại, để đem yêu
thương xóa tan bất công, nghèo khó, yêu người không chỉ bằng lời nói mà còn
bằng những việc làm cụ thể, yêu người không chỉ yêu phần xác mà còn yêu cả phần
hồn nữa, hầu nhờ đó xã hội này ngày một tốt đẹp hơn. Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Thứ tư: Mt 5, 17-19
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho các môn đệ cũng như chúng ta biết thêm
về lý do quan trọng mà Ngài đến trần gian này là: “không phải hủy bỏ lề
luật hay các tiên tri, nhưng là để kiện toàn”.
Luật của Chúa được ban cho nhân loại xuyên qua dân tộc Do Thái, bởi
trung gian là ông Môsê. Luật đó được gìn giữ và bảo tồn qua thời các ngôn
sứ. Nhưng đến thời Chúa Giêsu, luật Chúa được trao quyền cho các kinh sư giải
thích và hướng dẫn cho dân chúng. Thay vì giúp người dân hiểu biết rõ về luật
Chúa cũng như tinh thần đúng đắn phải có khi tuân giữ luật Chúa, thì trái lại
các ông lại thêm thắc vào đó quá nhiều chi tiết từ 10 điều lên đến 613 điều
khoản khiến cho dân chúng rối ren không còn phân biệt đâu là điều chính đâu là
điều phụ. Hơn nữa các ông lại quá chú trọng đến hình thức làm cho người dân có
cảm giác luật Chúa quá nặng nề bởi những ràng buộc. Nên khi rao giảng, Chúa
Giêsu đã nhiều lần đả kích lối sống vị luật của người Pharisêu; cũng như cảnh
báo về mối nguy hiểm của những gánh nặng mà dân chúng phải chịu do các kinh sư
chất chồng lên vai họ. Có lẽ vì đó mà nhiều người tưởng rằng Chúa Giêsu muốn
phá bỏ lề luật và các tiên tri. Để chỉnh sửa lại ý nghĩ sai lệch ấy, Chúa Giêsu
đã khẳng định với các môn đệ về lý do mà Ngài đến thế gian này là nhằm mục đích
để kiện toàn lề luật. Vậy Chúa muốn kiện toàn điều gì?
- Trước hết Chúa Giêsu kiện toàn về nội dung văn bản của luật: Phải giữ
nguyên trạng giới luật của Chúa, dù một chấm, một phẩy cũng không được thay đổi
hay bỏ sót.
- Thứ đến Chúa kiện toàn về hình thức thi hành luật: Nếu các kinh sư và
người Pharisêu quá chú trọng bởi hình thức bên ngoài thì Chúa Giêsu nhấn mạnh
đến trọng tâm giữ luật bên trong. Việc giữ luật chỉ có giá trị đích thực
khi nó xuất phát từ trái tim và tấm lòng.
- Cuối cùng Chúa Giêsu kiện toàn về tâm tình phải có khi giữ luật:
Việc giữ luật không phải vì lo sợ. Sợ không giữ thì bị Chúa phạt; lo vì
nếu không thi hành luật sẽ bị người đời khinh thường và lên án… nếu mang nặng
tâm tình ấy thì quả thật luật trở nên gánh nặng cho đời sống. Điều mà Chúa Giêsu
muốn là mọi người hãy tuân giữ luật với tấm lòng yêu mến. Với lòng yêu mến Chúa
chân thành sẽ giúp ta cảm thấy vui tươi thoải mái thi hành luật Chúa; sẽ không
còn sợ hãi bởi ràn buộc của luật nữa.
Xin Chúa giúp chúng ta ý thức được rằng: vì không muốn chúng ta phải đi
lạc đường nên Chúa đã ban lề luật để hướng dẫn bước đường chúng ta. Xin cho
chúng ta cảm nhận được tình thương lớn lao ấy, mà hăng hái thi hành luật Chúa
và GH chỉ dạy bằng tất cả tấm lòng yêu mến của chúng ta.
Thứ năm: Mt 5, 20-26
Giết người thì ở đâu và thời nào cũng là tội nặng, vì Chúa mới là chủ sự
sống, đó là công lý. Lời Chúa dạy bảo trong bài Tin Mừng hôm nay còn vượt trên
công lý nữa. Công lý hay luật pháp chỉ buộc tội khi một người phạm tội bằng
hành vi cụ thể. Còn Chúa thì đi xa hơn, Ngài ngăn chặng ngay từ nguyên nhân,
nguồn gốc đưa đến hành động giết người.
Vì thế, “ai giận anh em mình thì đáng bị tòa xét xử, ai mắng
chửi anh em là đồ ngốc thì sẽ bị lên án trước công nghị và ai mắng chửi anh em
mình là khùng thì đáng lửa trầm luân”.
Đúng như Lời Chúa nói:
- Giận dỗi chính là nguyên nhân đưa đến tội giết người. Vì khi ta giận ai
là ta muốn cho người đó khuất mắt ta; ta không muốn người đó hiện diện trên cõi
đời này nữa. Cho nên giận như vậy thì chẳng khác nào giết người không dao.
- Cũng thế, khi ta mắng chửi anh em là đồ ngốc là khùng thì chẳng khác nào
ta xem thường anh em mình, để rồi hạ thấp họ xuống hàng con vật, không đáng là
người nữa. Hành vi như thế là chiếm đoạt quyền phán xét của Thiên Chúa, nên
đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt.
Như vậy, để khỏi bị Thiên Chúa luận phạt và kết án, Chúng ta phải có
lòng quảng đại tha thứ. Tha thứ là biểu hiện tấm lòng tôn vinh Thiên Chúa một cách
xứng đáng: "Nếu ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ anh em đang
có điều bất bình với ngươi, hãy đặt của lễ trước bàn thờ, đi làm hoà với người
anh em trước, rồi hãy đến mà dâng của lễ." Tha thứ là chất liệu tốt nhất để hàn
gắn lại những vết thương lòng đang bị rạn nứt. Tha thứ cũng là cách thế hữu hiệu nhất để ta bắt đầu lại mối tương quan tốt đẹp với anh em mình.
Xin Chúa cho chúng ta biết giữ tâm hồn và môi miệng cẩn trọng để khỏi
sa vào tội giết người không gươm và giúp chúng ta luôn biết quảng đại tha thứ cho nhau, như Chúa đã từng bao dung tha thứ cho chúng ta. Amen.
Thứ sáu: KÍNH THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU
Suy niệm 1: Đnl 7, 6-11; 1Ga 4, 7-18; Mt 11, 25-30
Ông bà anh chị em thân mến, cùng với GH, hôm nay chúng ta họp nhau nơi
đây để tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Nguyện xin thánh Tâm Chúa uốn lòng
chúng ta nên giống trái tim Chúa, để chúng ta biết thể hiện TY Chúa trong đời
sống gia đình, cũng như ngoài xã hội, nhằm góp phần xoa dịu phần nào vết thương
trong trái tim Chúa.
Câu chuyện quen thuộc: Năm 1597, lệnh bắt đạo trên đất Nhật thật gắt gao,
Chỉ trong một tuần lễ, mọi cơ sở công giáo đều
bị triệt hạ, giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán
và khủng bố tàn tạ. Tại vùng Odawara, Kamakura, người ta
bắt được 2 linh mục trẻ tuổi là Simauchi và Uzawa cùng
nhiều ảnh tượng, giải về Tokyo. Quan đại thần Tsukamoto nhặt
trong đống ảnh tượng một mẫu ảnh thật kỳ cục: Người
gì mà để trái tim ra ngoài !
Tsukamoto là một nhà nho uyên bác, có óc thực tế, thích
tìm hiểu. Ông cầm mẫu ảnh trái tim coi qua rồi vứt vào sọt rác, nhưng đến
tối, ông nhớ lại và nghĩ bức ảnh kỳ lạ kia hẳn
có một ý nghĩa nào đó. Ông lượm lại bức ảnh để trên
bàn và suy nghĩ. Trời đã về khuya mà quan vẫn ngồi
bất động một mình với bức ảnh trước mặt. Mãi đến gần một
giờ sáng, vị đại thần mới thở ra nhẹ nhàng khoan khoái,
tay cầm bút lông ghi dưới bức ảnh mấy chữ : "Đối ngoại hữu
kỳ tâm - Đối nội vô tâm giả"
Từ đó Tsukamoto đặt bức ảnh trái tim trên bàn
làm việc một cách kính cẩn. Một hôm có ông bạn tên Osaki đến chơi, thấy
vậy hỏi:“Thế nào,bạn lại thích ảnh tượng của bọn tà đạo rồi sao ?”
“Đứng về mặt chính trị của triều đình thì tôi không dám phản kháng.
Nhưng về mặt văn hóa và nhân đạo thì tôi rầt thích bức ảnh này. Phải chăng bức
ảnh này đã nói lên chương trình và hành động cùng lối xử thế tổng quát của Kitô
giáo.”
Để ông bạn coi: Đối với thiên hạ, tha nhân bên ngoài thì "Hữu
Tâm", còn với bản thân mình thì "Vô Tâm". Cho nên
họ mới vẽ trái tim để ra ngoài... Nghĩa là phải đem hết trái tim của mình mà
phục vụ xã hội, giúp ích cho đời; còn về phần mình thì hy sinh xả kỷ, đừng bao
giờ lo riêng cho mình, phải diệt cái ngã vị kỷ. Đem hết trái tim ra giúp đời,
giúp người.
Nội bức ảnh nầy tôi thấy đầy đủ hơn cả cái học Từ Bi của Phật, khoan
dung hơn cái Nhân Thứ của Khổng, cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão, mạnh mẽ hơn
cái học Dũng thuật của Thần Đạo Nhật Bản vậy.
Một tôn giáo dạy phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, còn bản thân
mình thì không màng tới, không quan tâm đến tư lợi, thì quả là ngay chính của
Thiên hạ vậy.
Osaki cảm phục sự diễn đạt của bạn. Không ngờ Đạo Công Giáo lại hàm chứa
một triết lý nhân sinh cao siêu như vậy. Từ đó hai ông trở nên những người bạn
chí thân và đã âm thầm nhận phép Rửa Tội, đồng thời vận động triều đình thả hai
linh mục... (Trích "Phúc").
Đúng như lời giải thích của Tsukamoto. Thiên Chúa đã yêu
thương con người cách vô vị lợi.
- Bài đọc 1 cho biết: Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn dân Do Thái
làm dân riêng của Người, không phải vì họ quan trọng hay vì công lao của họ,
nhưng hoàn toàn là do lòng tốt của Thiên Chúa.
- Còn bài đọc 2, thánh Gioan định nghĩa "Thiên Chúa là Tình
Yêu". Bằng chứng là Ngài đã không tiếc gì đối với chúng ta. Ngay cả
Người Con Một Yêu dấu, Ngài cũng sẵn sàng trao ban cho chúng ta .
- Riêng bài Tin Mừng hôm nay cho biết, chính Chúa Giêsu hằng yêu thương
chúng ta. Đặc biệt là những người bị xã hội bỏ rơi. Cụ thể là những ai đang
mang gánh nặng, đang gặp đau khổ và những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Chúa
Giêsu tha thiết mời gọi họ đến với Chúa để Chúa ủi an, nâng đỡ và bổ sức cho
họ. Có lẽ Chúa sẽ không cất đi hết những khó nhọc, gánh nặng của kiếp người.
Nhưng chắc chắn Chúa sẽ ban ơn trợ lực và ban sức mạnh để những ai đến với Ngài
sẽ vượt qua.
Cũng chính vì yêu thương chúng ta nên Ngài tha thiết mời gọi chúng ta
hãy học lấy bài học yêu thương như Ngài. Bài học yêu thương đó được cụ thể hóa
qua đời sống hiền lành và khiêm nhượng.
Xin cho chúng ta cảm nhận tình yêu sâu xa mà Chúa đã dành cho chúng ta. Xin cho chúng ta cũng biết đáp trả tình của Chúa qua đời sống
gắn bó mật thiết với Chúa và yêu thương chân thành với tha nhân mà không cần
toan tính. Amen.
Suy niệm 2: Ed 34,11-16; Rm 5,5b-11; Lc 15,3-7
Ông bà anh chị em thân mến, cùng với GH, hôm nay chúng ta họp nhau nơi
đây để tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Nguyện xin thánh Tâm Chúa uốn lòng
chúng ta nên giống trái tim Chúa, để chúng ta biết thể hiện TY Chúa trong đời
sống gia đình, cũng như ngoài xã hội, nhằm góp phần xoa dịu phần nào vết
thương trong trái tim Chúa.
Năm 1597, lệnh bắt đạo trên đất Nhật thật gắt
gao, Chỉ trong một tuần lễ, mọi cơ sở công giáo đều
bị triệt hạ, giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán
và khủng bố tàn tạ. Tại vùng Odawara, Kamakura, người ta
bắt được 2 linh mục trẻ tuổi là Simauchi và Uzawa cùng
nhiều ảnh tượng, giải về Tokyo. Quan đại thần Tsukamoto nhặt
trong đống ảnh tượng một mẫu ảnh thật kỳ cục: Người
gì mà để trái tim ra ngoài !
Tsukamoto là một nhà nho uyên bác, có óc thực tế, thích
tìm hiểu. Ông cầm mẫu ảnh trái tim coi qua rồi vứt vào sọt rác, nhưng đến
tối, ông nhớ lại và nghĩ bức ảnh kỳ lạ kia hẳn
có một ý nghĩa nào đó. Ông lượm lại bức ảnh để trên
bàn và suy nghĩ. Trời đã về khuya mà quan vẫn ngồi
bất động một mình với bức ảnh trước mặt. Mãi đến gần một
giờ sáng, vị đại thần mới thở ra nhẹ nhàng khoan khoái,
tay cầm bút lông ghi dưới bức ảnh mấy chữ : "Đối ngoại hữu
kỳ tâm - Đối nội vô tâm giả"
Từ đó Tsukamoto đặt bức ảnh trái tim trên bàn
làm việc một cách kính cẩn. Một hôm có ông bạn tên Osaki đến chơi, thấy
vậy hỏi:“Thế nào,bạn lại thích ảnh tượng của bọn tà đạo rồi sao ?”
“Đứng về mặt chính trị của triều đình thì tôi không dám phản kháng.
Nhưng về mặt văn hóa và nhân đạo thì tôi rầt thích bức ảnh này. Phải chăng bức
ảnh này đã nói lên chương trình và hành động cùng lối xử thế tổng quát của Kitô
giáo.”
Để ông bạn coi: Đối với thiên hạ, tha nhân bên ngoài thì "Hữu
Tâm", còn với bản thân mình thì "Vô Tâm". Cho nên
họ mới vẽ trái tim để ra ngoài... Nghĩa là phải đem hết trái tim của mình mà
phục vụ xã hội, giúp ích cho đời; còn về phần mình thì hy sinh xả kỷ, đừng bao
giờ lo riêng cho mình, phải diệt cái ngã vị kỷ. Đem hết trái tim ra giúp đời,
giúp người.
Nội bức ảnh nầy tôi thấy đầy đủ hơn cả cái học Từ Bi của Phật, khoan
dung hơn cái Nhân Thứ của Khổng, cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão, mạnh mẽ hơn
cái học Dũng thuật của Thần Đạo Nhật Bản vậy.
Một tôn giáo dạy phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, còn bản thân
mình thì không màng tới, không quan tâm đến tư lợi, thì quả là ngay chính của
Thiên hạ vậy.
Osaki cảm phục sự diễn đạt của bạn. Không ngờ Đạo Công Giáo lại hàm chứa
một triết lý nhân sinh cao siêu như vậy. Từ đó hai ông trở nên những người bạn
chí thân và đã âm thầm nhận phép Rửa Tội, đồng thời vận động triều đình thả hai
linh mục... (Trích "Phúc").
Đúng như lời giải thích của Tsukamoto. Thiên Chúa đã
yêu thương con người cách vô vị lợi.
Hình ảnh người mục tử mà Ngôn Sứ Ê-giê-ki-en tiên báo trong bài đọc
1 không ai khác hơn là chính Đức Giê-su. Ngài là vị Mục Tử Nhân Lành mà
Thiên Chúa đã hứa ban cho dân Ngài. Đức Giêsu không chỉ chăm
sóc, bảo vệ chúng ta, mà Ngài còn sẵn sàng hiến mạng
sống mình vì chúng ta, như lời Thánh Phao-lô trong bài đọc thứ hai đã
nói: “Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là
trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Ki-tô đã chết vì
chúng ta”.
Đức Ki-tô đã hy sinh cho chúng ta ngay lúc chúng ta còn là thù địch với
Ngài, đang khi còn chống đối Ngài. Nhưng vì yêu thương, Ngài vẫn sẵn
sàng hiến mạng sống mình, để chúng ta được sống và được giao hoà với Thiên Chúa
là nguồn của mọi tình yêu. Chính nhờ cái chết của Đức Giê-su, mỗi người chúng
ta nhận lãnh được ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Thiên Chúa không đặt dấu chấm hết cho bất cứ người nào. Cho dù người đó
có tội lỗi, xấu xa đến đâu đi chăng nữa, thì Mục Tử Giê-su vẫn hằng mở rộng
vòng tay chờ đợi chúng ta trở về. Và không chỉ chờ đợi mà Người
còn tích cực lên đường tìm kiếm, để dẫn đưa chúng ta trở về với
Ngài.
Mừng Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su hôm nay, chúng ta vừa cùng nhau suy niệm
một vài nét về tình yêu của Ngài dành cho chúng ta. Đây quả là một tình yêu
tuyệt vời, như đang mời gọi chúng ta cũng hãy biết mở
rộng lòng mình, để dòng máu tình yêu của Đức Giê-su tuôn chảy vào tim
của chúng ta và qua ta dòng máu ấy được lan chảy đến anh
chị em của mình. Nhờ đó mà tất cả chúng ta được hiệp nhất nên một đoàn chiên,
có cùng một chủ chiên là Đức Giê-su.
Suy niệm 3: Ed 34,11-16; Rm 5,5b-11; Lc 15,3-7
Đạo công giáo được mệnh danh là đạo “Tình Yêu”. Bởi lẽ TC là TY.
Ngài dựng nên con người và tha thiết mời gọi chúng ta sống theo Tình Yêu
của Ngài: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau;
anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này,
mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng thương
nhau” (Ga 13, 34-35).
Cũng với GH hoàn vũ, hôm nay chúng ta hiệp dâng thánh lễ mừng kính thánh
Tâm Chúa Giêsu. Tâm là Tim. Kính nhớ thánh tâm là tôn kính tình yêu của Chúa.
TY của Chúa thì cao sâu không bờ không bến nên GH dùng nhiều cách thế và hình
ảnh để diễn đạt. Trong nhiều cách thế diễn đạt ấy thì 3 hình ảnh gần gũi và
quen thuộc nhất với chúng ta vẫn là: Thánh giá, Thánh Thể, Thánh Tâm.
1. Hình ảnh Thánh Giá. Khi nhìn lên thánh giá, ta nhận ra “tình
yêu tự hủy” của Chúa Kitô. Vì yêu thương nhân loại đến tận cùng, nên
Ngôi Hai TC đã nhập thể và nhập thể làm người và sống kiếp người như chúng ta,
ngoại trừ tội lỗi. Ngài còn sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để đền thay tội lỗi
chúng ta, cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Trái tim Chúa Giêsu bị
đâm thâu trên thập giá, máu và nước chảy ra cho đến giọt cuối cùng, khơi nguồn
ân sủng trao ban cho chúng ta qua các bí tích.
2. Hình ảnh Nhà Tạm. Khi ngắm nhìn Nhà Tạm, ta nhận ra “tình
yêu tự hiến” của Chúa.
Vì quá yêu thương nhân loại, Đức Giêsu không chỉ hạ sinh làm người mà
Ngài còn có sáng kiến tuyệt vời với mong ở lại mãi với chúng ta nên đã lập nên
bí tích thánh thể. Qua đó Ngài hiến dâng chính mình làm lương thực thần
linh nuôi dưỡng linh hồn, bổ dưỡng thể xác chúng ta Đón nhận Mình Máu
Chúa, ta được Chúa nuôi dưỡng, ban thêm sức giúp ta chống trả lại những
chước cám dỗ và đủ sức tiến bước trên con đường tiến về nước trời.
3. Hình ảnh Thánh Tâm. Với trái tim đặt ra bên ngoài, giúp ta nhận
ra “tình yêu tự mở và tự trao ban.”
Trái tim Chúa thật lạ lùng, Ngài không giữ trái tim trong lồng ngực
nhưng lại đặt ra bên ngoài. Hình ảnh này diễn tả một triết lý nhân sinh cao
siêu về một tình yêu mở ra và trao ban tất cả cho hết mọi người. Còn với chính
mình thì không màng tới, không quan tâm, không gìn giữ bất cứ điều gì cho riêng
mình. Chiêm ngắm hình ảnh Thánh Tâm Chúa, quan đại thần Tsukamoto đã cảm nhận
được sâu xa về tình yêu cao quý của Đức Kitô, nên ông đã đặt bút viết lên dòng
chữ tuyệt đẹp : “Đối ngoại hữu kì tâm, đối nội vô tâm giả”.
Tình yêu ấy đã được lời Chúa trong ngày lễ hôm nay khắc họa đậm nét qua
hình ảnh người mục tử nhân lành với nhiều đức tính cao đẹp: Không tính
toán so đo, không loại trừ, không tiêu diệt... Nhưng luôn yêu thương, bao dung,
tha thứ cho dẫu đó là ai.
Người mục tử ấy luôn tận tuỵ chăm sóc chiên mình. Dẫn đưa chiên đến đồng
cỏ xanh, dòng suối mát để chiên được ăn uống thỏa thê. Quan tâm chăm sóc và
chữa lành chiến đau yếu; tìm kiếm chiên bị thất lạc và vui mừng biết bao khi
tìm thấy. Nhất là sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để bảo vệ đoàn chiên được
sống và sống dồi dào. Hình ảnh đó như đang vẫy gọi mọi người trong chúng ta
bước theo, cách đặc biệt là các linh mục của Chúa nhân ngày thế giới cầu xin ơn
thánh hoá các linh mục.
Xin cho dòng máu nóng tình yêu từ nơi Thánh Tâm Chúa tuôn chảy vào
trong tâm hồn chúng ta, để cuộc sống của ta luôn thấm đẫm dòng máu
tình yêu tự huỷ, tự hiến, tự mở ra mà trao ban cho hết mọi người, nhất là những
ai nghèo khổ, qua những hành động yêu thương bác ái hàng
ngày, theo gương vị mục tử nhân lành là Đức Giêsu
Kitô Chúa chúng ta. Amen
Thứ sáu thường niên: Mt 5, 27-32
Chúa Giêsu tiếp tục kiện toàn giới luật một vợ một chồng.
Để tránh đi tình trạng đỗ vỡ trong đời sống hôn nhân, chẳng những Chúa
Giêsu cấm không được li dị mà Chúa còn ngăn chặn ngay cả nguyên nhân sâu xa đưa
đến tình trạng bất trung trong đời sống hôn nhân nữa. “Anh em đã
nghe Luật dạy rằng: chớ ngoại tình, còn Thầy, Thầy bảo cho anh em
biết : ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn thì trong lòng đã ngoại tình với
người ấy rồi…”(Mt 5: 27-28).
Như thế là dù chỉ thèm muốn trong lòng vợ hay chồng của người khác
thì đã phạm tội ngoại tình trong tư tưởng rồi; vì trong lòng đã nuôi dưỡng ước
muốn sai trái. Từ đó sẽ dễ dẫn đến hành động phản bội tình nghĩa vợ chồng.
Có thể nói mọi tội lỗi con người phạm, đều xuất phát từ trong lòng. Do
đó, muốn tránh tội thì phải dứt khoát từ bỏ ước muốn bất chính ngay trong lòng.
Nhưng để tránh được ước muốn bất chính trong lòng, chúng ta cần phải giữ gìn
đôi mắt. Đôi mắt là của sổ tâm hồn nên mọi điều tốt xấu muốn vào được căn nhà
tâm hồn đều phải qua cửa sổ của đôi mắt.
E-va chính vì đã không gìn giữ được đôi mắt nên đã hướng cái nhìn về
trái cấm và đã nuôi dưỡng trong lòng sự thèm muốn. Từ ước muốn ấy bà đã cả
lòng đưa tay hái trái cấm ăn, dầu biết rằng hành động ấy là phạm tội bất trung
với Chúa.
Ða-vít cũng vì không giữ được đôi mắt nên đắm đuối nhìn người phụ nữ
khỏa thân và có ước muốn khoái lạc. Từ đó đưa đến những hành vi tội
ác: ngoại tình và giết người giấu tay.
Lạy chúa xin giúp chúng con biết gìn giữ đôi mắt luôn có cái nhìn trong
sáng và can đảm dứt bỏ những nguyên nhân làm cớ chúng con lỗi đức trong sạch,
cho dù đó là một phần của cơ thể như: là mắt, là tay... bởi vì Chúa đã phán:
"thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hỏa
ngục".
Thứ bảy: Is 61, 9-11; Lc 2, 41-51
Nhớ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Trinh Nữ Maria
Thông thường khi nói tới “nhiễm” là người ta nghĩ ngay đến những
thứ độc hại, làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống con người. Cuộc sống ngày hôm nay có quá nhiều thứ gây ô nhiễm:
Ô nhiễm không khí, làm ảnh hưởng đến đường hô hấp con người.
Ô nhiễm nguồn nước và thức ăn làm ảnh hưởng đến đường tiêu hóa.
Ô nhiễm tiếng ồn làm ảnh hưởng không tốt đến thính giác con người.
Ô nhiễm phim ảnh xấu, ảnh hưởng đến thị giác con người…
Tuy nhiên, những ô nhiễm bên ngoài ấy không độc hại bằng những ô
nhiễm đến từ bên trong. Chính những ô nhiễm bên trong làm cho tâm trí con
người trở nên bệnh tật và chay cứng.
Ô nhiễm của chủ nghĩa “mặc kê nô” làm cho trái tim con người trở
nên dững dưng trước những nỗi đau khổ của người khác.
Ô nhiễm của “chủ nghĩa cá nhân” làm cho trái tim con người trở nên
ích kỉ, chỉ tìm tư lợi cho mình mà quên đi sự hy sinh phục vụ vì hạnh
phúc cho tha nhân.
Ô nhiễm của “lối sống thực dụng” làm mất đi những giá
trị luân lý, đạo đức, thuần phong mỹ tục của con người.
Ô nhiễm của “chủ nghĩa vô thần” làm cho lòng con người trở nên kêu
căng, tự mãn, bất cần đến ơn thiêng của Thiên Chúa.
Ô nhiễm của “chủ nghĩa duy tương đối” làm suy giảm những giá trị
chân lý tuyệt đối của Chúa và có nguy cơ đánh mất đức tin nơi người tín hữu…
Hôm nay chúng ta cùng với GH kính nhớ lễ trái tim vô nhiễm của Đức
Maria. GH muốn nhắc nhỡ chúng ta hãy khiêm tốn mở lòng mình
ra để luồng gió mới của Chúa Thánh Linh thổi vào tâm
hồn ta, hầu tâm hồn ta được thanh lọc khỏi những thứ độc hại, làm ô uế
đến tâm hồn tinh sạch của ta đã được thanh tẩy trong ngày lãnh
nhận bí tích rửa tội.
Xin cho chúng ta biết noi theo mẫu gương của Mẹ Maria, biết khiêm tốn để cho Lời Chúa thanh lọc trái tim nên trong sạch và sẵn sàng trao dâng con tim của mình vào bàn tay đầy uy quyền của Thiên Chúa tình thương, để Người điều khiển nhịp đập con tim của ta, giống như khi xưa Mẹ đã để cho con tim của Mẹ rung lên cùng nhịp đập yêu thương của Chúa Giêsu dưới sự tác động và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét