SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XI THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT XI THƯỜNG-NĂM A
Xh 19,2-6a; Rm 5,6-11; Mt
9,36-10,8
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay, thánh Matthêu minh chứng cho chúng ta biết Chúa Giêsu
chính là hiện thân của lòng thương xót Chúa qua:
- Ánh mắt đến trái tim:“Chúa Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng
thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt”;
- Lời nói đến hành động. Với
lời nói, Ngài dạy dỗ dân chúng: “Chúa Giêsu đi khắp các thành thị, làng
mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời.” Với
hành động, Ngài chữa lành mọi vết thương hồn xác cho những ai đau
khổ: “Chúa Giêsu chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.” Ngoài ra,
Ngài còn chăm lo cho dân chúng đang đói khát được ăn no nê qua phép lạ bánh hóa
nhiều, với mong muốn họ an tâm theo Ngài và có đủ sức để trở về mái ấm gia
đình.
- Hơn thế nữa, Ngài còn chuẩn bị cho nhân loại một tương lai tốt đẹp
bằng cách: chọn gọi và huấn luyện các môn đệ để các ông này tiếp tục sứ mạng
đem tin mừng ơn cứu độ đến tận cùng thế giới. Bởi lẽ Ngài nhìn thấy đồng
lúa đã chính vàng và đang cần đến những thợ gặt: “Lúa chín đầy đồng, mà
thợ gặt lại ít.” Nên Ngài đã sai các tông đồ ra đi thực thi sứ mạng
qui tụ tất cả mọi người về với Chúa để họ đón nhận được ân sủng và hạnh phúc
trong nước trời.
Như vậy, khi suy niệm về sứ điệp lời Chúa hôm nay, chúng ta có dịp cảm
nhận sâu xa tình Chúa yêu ta là dường nào.
Xin cho chúng ta biết không ngừng cảm tạ, chúc tụng tình thương cao vời
của Chúa bằng việc siêng năng chiêm ngắm và học hỏi bài học yêu thương từ thánh
tâm của Chúa, biết tích cực tham dự thánh lễ và nhiệt tâm loan báo tin mừng
tình thương của Chúa cho mọi người.
Suy niệm 2:
Khi nhìn thấy đoàn lũ dân chúng đông đảo bao
quanh mình như đoàn chiên vất vưởng không người chăn, Chúa Giê-su chạnh lòng
thương xót họ và kêu mời các môn đệ cũng như chúng ta hãy cầu xin Chúa Cha sai
thợ đến làm việc trên cánh đồng của Chúa: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ
gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa.”
Giờ đây, chúng ta thử đảo mắt nhìn quanh, để
xem đồng lúa chung quanh bao la rộng lớn biết chừng nào.
- Trước hết, hãy hướng tầm nhìn đến Châu
Á: đây là lục địa mênh mông hiện có trên 4 tỷ
rưỡi người sinh sống, trong đó, người Công Giáo chỉ chiếm 3,4 phần trăm.
- Tiếp theo chúng ta nhìn về đất nước Việt
Nam chúng ta: hiện nay dân số lên đến 100 triệu người,
trong khi tín hữu Công Giáo chỉ có khoảng 7 triệu, chiếm tỉ lệ 7 phần trăm dân
số. Như vậy, vẫn còn trên 93 triệu người trên đất nước chúng ta chưa có cơ may
đón nhận Tin mừng.
- Sau hết, chúng ta nhìn vào Giáo phận Cần
Thơ thân yêu chúng ta: Với diện tích rộng 13.257 km², trải
dài qua 4 tỉnh: Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và 1 thành phố Cần Thơ. Tổng dân số là 5.580.701 người,
trong đó chỉ có 191.462 giáo dân (chiếm 3,4% dân số). Tính
trung bình cứ 100 người thì chỉ có hơn 3 người tin nhận Chúa và chịu phép rửa,
còn lại 97 phần trăm chưa đón nhận được tin mừng tình thương của Chúa.
Như thế là cánh đồng truyền giáo vẫn còn mênh mông, bát ngát. Cho nên ngày
hôm nay lới Chúa vẫn còn vang vọng tha thiết kêu gọi mỗi chúng ta hãy cầu xin
cho có nhiều sứ giả dấn thân trong sứ mạng loan báo Tin mừng.
Nếu khi xưa, Chúa Giêsu đã huấn luyện và trao
ban sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho các Tông Đồ thì ngày nay Chúa tiếp tục huấn
luyện trao ban sự mạng này cho từng người tín hữu chúng ta. Sứ mạng này chúng
ta đã lãnh nhận từ khi chịu phép rửa tội và được củng cố thêm vững mạnh nhờ bí
tích thêm sức, thì hành sứ vụ truyền giáo hay loan báo Tin mừng, đó là bổn phận
cao quý và khẩn thiết của mọi kitô hữu như lời xác quyết của GH trong công đồng
Vatican 2: “Tự bản chất GH lữ hành là truyền giáo”.
Khẩn cấp vì còn rất nhiều người chưa được
nghe tin mừng của Chúa, khẩn cấp vì vẫn còn đó những anh chị em chúng ta mãi
cho đến lúc lìa đời mà vẫn chưa biết đến một người Cha tuyệt vời là Thiên Chúa
giàu lòng thương xót. Quan trọng bởi lẽ đây là nỗi thao thức và là lệnh truyền
tâm quyết của Chúa Giêsu trước khi về trời. Ngài muốn tất cả mọi người được sum
họp với nhau trong đại gia đình Hội thánh để đón nhận được phần rỗi đời đời do
Ngài ban tặng.
Nhưng làm thế nào để chúng ta thực hiện
được sứ mạng cao quý và cấp thiết này?
Thưa, sứ điệp lời Chúa trong bài Tin mừng hôm
nay gợi lên cho chúng ta một vài cách thức:
- Hãy nên giống Chúa, có trái tim biết “chạnh
lòng thương” đối với anh chị em mình, nhất là những người nghèo
khổ và bị xã hội bỏ rơi, loại trừ ra bên lề cuộc sống….
Một tác giả tưởng tượng việc Chúa chọn lựa
các tông đồ như sau: Trải qua những đêm dài cầu nguyện, Chúa Giêsu mới rảo bước
khắp nơi tìm kiếm nhưng không chọn lựa được người nào. Ngài đành đăng quảng
cáo, nhưng trong số những người đến trình diện, Ngài cũng không chọn được ai.
Ngài đành tổ chức thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: nhiều người
biểu diễn cầu nguyện rất hay nhưng Chúa cũng không chọn được ai cả. Môn thứ hai
là thờ phượng, cũng thế. Môn thứ ba là giảng thuyết, cũng thế.
Chán nản vì mất giờ vô ích, Chúa Giêsu rời khỏi vận động trường mà thả
bộ ra bờ biển hóng gió và ở đây Ngài thấy một đám dân chài. Ngài đứng quan sát
và nhận ra có một số người để hết tâm vào công việc. Ngài nghĩ thầm họ là những
người có quả tim. Và thế là Ngài chọn họ làm tông đồ của Ngài. Tên của những tông đồ ấy đã được liệt kê trong tin mừng chúng ta vừa
nghe.
- Hãy nghe theo lời Chúa dạy là cầu
xin với Chúa, là chủ của mùa gặt, vì chỉ có Chúa mới đánh động
lòng người và làm cho người khác tin Chúa mà thôi; chứ người phàm không có khả
năng làm được điều đó. Cầu xin cho có nhiều thợ gặt lành nghề sẵn sàng dấn thân
hy sinh lo cho việc truyền giáo; đồng thời, chúng ta cũng cầu xin cho những anh
chị em chưa biết Chúa biết mở lòng để đón nhận tin mừng tình thương của Chúa.
Truyện kể rằng: Một chàng thanh niên quí
phái đang thong thả bước đi trên một con đường tại vùng quê nước Ý, đi ngược
chiều, có một bà già quê ăn mặc rách rưới. Cảm động vì thân hình tiều tụy ấy,
chàng thanh niên bước tới ân cần nhã nhặn an ủi, rồi chàng lấy ví ra tặng cho
bà cụ tất cả số tiền mang theo. Cử chỉ nhân ái và món quà của chàng thanh niên
đã khiến bà cụ xúc động. Biết được chàng thanh niên đó là người Công giáo, bà
hứa mỗi ngày sẽ cầu nguyện cho chàng thanh niên ấy được làm linh mục.
Ngày tháng trôi qua, chàng thanh niên đã quên hẳn về chuyện gặp bà cụ
ấy, nhưng ít năm sau, lời cầu nguyện chân thành của bà cụ nghèo khổ ấy đã được
Chúa chấp nhận. Anh trở thành linh mục, và còn hơn
thế nữa, chàng thanh niên ngày ấy lại trở thành một Đức Giáo Hoàng thời danh,
đó là Đức Lê-ô XIII.
Vậy chúng ta hãy năng cầu xin Chúa ban cho có nhiều thợ gặt lành nghề,
nhiệt tâm làm việc trên những cánh đồng truyền giáo với niềm hy vọng đưa dẫn
nhiều linh hồn về với kho lẫm Nước Trời.
- Cuối cùng hãy làm theo ý Chúa, đó là luôn biết lắng nghe và trung thành thực thi thánh ý
Chúa trong đời sống hàng ngày, trở nên muối men và ánh sáng cho trần đời, bởi
như đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô VI đã nói : “Người thời nay không
thích những thầy dạy cho bằng nhân chứng”. Thực vậy, sứ mạng loan báo
Tin mừng chỉ mang lại kết quả tốt đẹp, khi mỗi người trong chúng ta biết nêu
cao lối sống gần gũi, hiền hòa, bao dung và nhân ái, trở nên những người dễ
thương dễ mến trong mắt mọi người.
Truyện kể rằng: Ngày kia, thánh Phanxicô Assie gọi một thày dòng đến và
bảo:
- Này thày, chúng ta cùng nhau đi giảng đạo nhé.
Hai cha con ra đi, rảo qua các đường phố một vòng rồi trở về. Thày dòng
bỡ ngỡ và hỏi:
- Thưa cha, bao giờ chúng ta mới đi giảng đạo?
Thánh nhân trả lời:
- Chúng ta đã đi giảng đạo rồi đó.
Thày dòng thắc mắc:
- Lạ thật, mới chỉ đi một vòng phố, có nói lời nào đâu?
Nhưng thánh nhân đã cắt nghĩa:
- Chúng ta đã giảng đạo bằng chính thái độ nghiêm trang và tề chỉnh của
chúng ta.
Thế giời hôm nay không thiếu những bài diễn văn hùng hồn và nảy lửa. Thế
nhưng những bài diễn văn ấy cũng chỉ là tiếng nhạc nghe thoảng ngoài tai, không
đủ sức đánh động lòng người. Thế giới hôm nay cũng không thiếu những nhà hùng
biện tài ba, nhưng người ta chỉ bị thu hút bởi những ai biết nêu gương sáng.
Xin Chúa uốn lòng chúng ta giống như trái tim
Chúa để chúng ta cũng biết sống cho một tình yêu tự hủy (Thánh Giá), một
tình yêu tự hiến (Thánh Thể), một tình yêu tự trao ban (Thánh Tâm) như Chúa đã
dành cho nhân loại chúng ta. Sống được như thế chúng ta mới có quyền hy vọng
vào sứ vụ loan báo tin mừng của Chúa được nhiều kết quả tốt đẹp trong môi
trường xã hội hôm nay.
Suy niệm 3:
Bài Phúc âm hôm nay đề cập đến sứ mạng rao giảng Tin mừng của các Tông
đồ, do chính Chúa trao ban. Sứ điệp sai đi trước tiên phát xuất từ tâm hồn, từ
cái nhìn xót thương của Chúa Giêsu trước cảnh “đàn chiên không có kẻ
chăn”, cảnh “đồng lúa chín vàng” mà thiếu thợ gặt. Sứ điệp
sai đi ấy cũng là sứ điệp của Đức Chúa Cha, là chủ của đoàn chiên, chủ của mùa
gặt. Vì thế cần phải cầu xin Ngài gửi thợ gặt đến.
Sứ điệp sai đi cũng phát xuất từ con tim của Chúa Giêsu, “cảm xúc vì
từng đoàn người yếu sức và mệt nhọc”. Đây là điểm khác biệt với các thầy thông
thái trong dân Israel. Họ chỉ đến với hạng người học thức quyền thế. Chúa
Giêsu, Ngài đến với đoàn chiên thất lạc và bị bỏ quên. Ngài tuyển chọn các Tông
đồ, không phải để học đối thoại trong các cuộc tranh luận vòng vo, mà để cho
các ông đồng lao cộng tác, chia sẻ công việc Tông đồ của Ngài.
Vì thế, Chúa chọn 12 Tông đồ. Trong khi hai vị Thánh sử khác lập danh
sách các Tông đồ khi Chúa kêu gọi họ (x. Mc 3,16-19; Lc 6,14-16), thì Matthêô
đặt vào lúc Chúa sai họ đi truyền giáo, chú trọng cách riêng đến công vụ được
trao phó.
Họ là ai? Họ là những người bình dân, được chọn không phải vì có chút
học thức, có ít địa vị, mà do một ơn đặc biệt của Chúa. Matthêô nêu danh từng
hai người một, gọi Phêrô là “người đầu tiên”, Giuđa Iscariô là người cuối cùng,
“kẻ sẽ nộp Chúa”, và không dự vào cuộc sai đi hoàn vũ (Cv 28,16). Đây là một
cộng đoàn bé nhỏ đầy khuyết điểm, bất toàn, thậm chí có người còn
phạm trọng tội. Thế nhưng Đức Giêsu đã kêu gọi và tiếp nhận họ vào chương trình
chuyển trao tình yêu Thiên Chúa đến cho mọi người.
Phêrô là người có tính khí nóng nảy bộp chộp khác
thường. Khi thì kiên vững như đá, nhưng có lúc lại mềm nhão hơn bùn. Hôm thì
thề quyết theo Chúa đến cùng, nhưng có ngày lại quá run sợ mà chối phăng.
Giacôbê và Gioan, con của Giêbêđê là những người nóng
nảy. Họ từng xin Chúa cho lửa trời xuống thiêu sạch bọn người Samari hổn láo.
Không những thế hai ông còn mang ít nhiều tham vọng riêng tư, muốn được ngồi
nơi những vị trí tốt nhất trong vương quốc của Đức Kitô, khiến cho xung đột nảy
sinh trong hàng ngũ tông đồ.
Matthêô xuất thân từ tầng lớp bị xã hội khinh khi ghét
bỏ, một người bị xếp đồng hàng với gái điếm vì bán mình làm kẻ thâu thuế cho
ngoại bang.
Simon nhiệt thành là người thuộc phái Zealot, đang âm
mưu lật đổ chính quyền đô hộ Rôma để dành lại độc lập tự do cho dân tộc, bất
chấp thủ đoạn, miễn sao đạt được mục đích chính trị là sách lược của phái
Zealot. Ấy là chưa nói đến Giacôbê con của Anphê và Thađêô là những người dễ có
khuynh hướng cực đoan quá khích.
Tôma thì cứng lòng. Khó tin tưởng một ai. Điều gì cũng
đòi phải có chứng minh hẳn hoi, chứ "trăm nghe không bằng mắt thấy."
Còn Giuđa Iscariot, bên ngoài rất thanh liêm ngay chính, nhưng bên trong đầy
tham lam thủ đoạn, sẵn sàng phản bội để tìm kiếm lợi riêng.
Những con người thiếu sót, lầm lỗi là thế nhưng Đức Giêsu lại triệu tập
để trao cho họ một sứ mạng lớn lao. Như thế, không phải chỉ có những ai hoàn
hảo, đầy tài năng mới được mời gọi, và không phải khi nào tự thấy xứng đáng,
tôi mới lên tiếng đáp trả. Nhưng đúng hơn, tình yêu Thiên Chúa đón nhận tất cả,
dù là con người tầm thường yếu đuối, miễn sao tôi có được tâm hồn rộng mở cho
ơn Ngài.
Sau khi đã tuyển chọn, Chúa sai họ đi truyền giáo. Họ đi từng nhóm, hỗ
trợ nhau, dùng lời nói, dùng phép lạ để thuyết phục. Ở đây, Chúa dạy các ông đi
với dân Israel trước đã, đợi một ngày kia sẽ tung cánh bay đến tận cùng thế
giới: “Chúng con hãy đi giảng dạy muôn dân”. Theo vết chân các Tông
đồ, các vị thừa sai của Chúa sẽ đi tới chân trời góc bể.
Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê đến Ấn Độ. Miệng giảng Lời Chúa, nhưng tay cầm
hai ảnh tượng, một tay cầm cây Thánh giá Chúa cứu chuộc, một tay kia cầm mẫu
ảnh Đức Mẹ nhân lành, để nhờ Mẹ xoa dịu hình ảnh người con đau khổ mà người dân
chưa hiểu. Ngài Rửa tội hơn một triệu người. Và sau khi đã lập nên Giáo Hội
Nhật Bản, Ngài muốn đem Tin Mừng cho nước Tàu vĩ đại. Nhưng vừa đến hòn đảo cửa
ngỏ vào lục địa Trung Hoa thì lâm bệnh và qua đời, mình dựa vào một gốc cây và
mắt nhìn vào nước Tàu vĩ đại.
“Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không”; “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân… Giảng dạy họ tuân giữ mọi
điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến
tận thế” (Mt 16,19-20).
Lạy Chúa, này con đây, hãy sai con đi vào cánh đồng lúa của Chúa. (St)
Thứ hai: Mt 5, 38-42
Chúa Giêsu khẳng định: “Ta đến để kiện toàn lề luật và các tiên
tri.” Do tác động thay đổi của xã hội qua dòng thời gian, nhất là vào
thời Chúa Giêsu, các nhà lãnh đạo tôn giáo đã có sự giải thích sai lệch về lề
luật Chúa nên cần phải kiện toàn.
Trong những đoạn Tin mừng trước, Matthêu cho biết Chúa Giêsu đã kiện
toàn khá nhiều luật như: luật giết người, luật đơn hôn và vĩnh hôn, luật thề
hứa…tiếp tục hôm nay là luật báo oán.
Theo lẽ công bằng thì: "hòn đá ném đi, thì hoàn chì ném lại; hay
bánh ếch đi thì bánh quy lại"…đã trở thành nguyên tắc và lẽ sống tự nhiên
trong xã hội.
Trong sách Lêvi cũng dạy rằng: “người nào đả thương đến sinh
mạng người khác tất phải chết, người nào gây thương tích cho người khác, nó đã
làm sao thì người ta sẽ làm cho nó như vậy: gãy đền gãy, mắt đến mắt, răng đền
răng.” (Lv 24, 17-20).
Nhưng đối với tinh thần Kitô giáo, cách hành xử với nhau không chỉ
dựa trên lẽ công bằng mà còn phải được đặt trên nền tảng của bác ái nữa. Vì
thế, nếu trả thù theo lẽ công bằng thì tiếp tục gây thêm oán thù chồng chất
“oán báo oán, oán chồng chất”. Do đó, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy bao dung
và tha thứ cho nhau. Chẳng những tha thứ mà còn tích cực làm ơn cho những ai
làm hại chúng ta nữa vì “lấy ơn trả oán, oán tiêu tan”.
Tha thứ cho những ai làm tổn thương ta đã là khó, làm ơn cho kẻ hại ta
quả là điều không dễ chút nào với sức tự nhiên của con người. Nhưng đó lại là
điều có thể với ơn ban của Chúa.
Xin Chúa thêm sức mạnh cho chúng ta, để ta đủ can đảm thi hành điều Chúa
chỉ dạy là tha thứ và làm ơn cho hết mọi người, nhất là những ai gây đau khổ
cho chúng ta.
Thứ ba: Mt 5, 43-48
Suy niệm 1:
Tiếp tục là đề tài kiện toàn lề luật và các lời tiên tri, tin mừng hôm
nay cho biết Chúa Giêsu kiện toàn luật báo oán bằng luật yêu thương và nâng
luật yêu thương lên một tầm mức hoàn hảo. Xin Chúa uốn lòng chúng ta theo trái
tim của Chúa để chúng ta biết yêu thương mọi người "như Chúa yêu"
chúng ta.
Tất cả các lề luật đều được tóm lược vào 1 điều duy nhất là "yêu
thương". Nhưng yêu ai? và yêu như thế nào? đó là điều mà sứ điệp lời Chúa
muốn đề cập trong bài Tin mừng hôm nay.
“Tình Yêu” chính là luật điều quan trọng nhất mà TC đã truyền dạy
nhân loại trong thời Cựu ước qua sách Đệ-nhị-luật và Lê-vi: “Yêu Chúa
hết lòng hết linh hồn hết trí khôn và yêu tha nhân như chính mình”.
Với người Do Thái, người thân cận là những người cùng huyết thống, cùng
màu da, cùng tôn giáo, cùng tộc chủng mình…, còn những người vượt ra ranh giới
và quy định giới hạn ấy thì họ xem là người xa lạ, không phải là đối tượng để
họ yêu thương.
Bởi thế Chúa Giêsu đã chấn chỉnh lại ý hướng sai lệch của họ bằng cách
cho biết rằng mọi người đều được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài nên
tất cả đều là con cái của Chúa, và là anh em với nhau. Cho nên đối tượng của
tình yêu phải là phổ quát, nghĩa là yêu hết mọi người không trừ ai cả.
Vì vậy, để xứng đáng trở thành môn đệ Chúa Giê-su thì điều căn bản là ta
phải “yêu như Chúa yêu” (x. Ga 15,12). Đó là một tình yêu tự
hủy (Thập Giá), tình yêu dâng hiến (Thánh Thể) và tình yêu trao ban (Thánh
Tâm). Chính khi chúng ta biết "yêu như Chúa yêu" như
thế, ta mới trở nên người công chính và xứng danh là con của Chúa.
Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng ta biết "yêu như Chúa yêu",
ngay cả những ai làm hại chúng ta.
Suy niệm 2: HƠN CẢ MỘT
CHỌN LỰA
“Hãy yêu thương thù địch!”.
“Hãy quên mọi việc tử tế ngay khi bạn vừa làm xong.
Quên những lời khen ngợi ngay khi bạn vừa giành được. Quên những lời phỉ báng
trước khi bạn có thể lặp lại nó! Hãy nhớ mọi lời hứa và giữ đúng lời. Nhớ đến
những ai đã giúp đỡ bạn và hãy trở thành một con nợ biết ơn! Quên từng ưu
phiền; để hy vọng và tha thứ. Và hãy nhớ, thiên đường ở trên bạn!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Hơn cả những lời khuyên để biết “Thiên đường ở trên
bạn!”, lời khuyên của Chúa Giêsu cho biết, “Thiên đường ở trong bạn!”. Cả hai
bài đọc hôm nay nói đến “Agapê”, tình yêu; và hơn nữa, “Hãy yêu thương
thù địch!”. Đây là một mệnh lệnh, còn ‘hơn cả một chọn lựa!’.
Thư Côrintô nói đến ‘Agapê’ theo khía cạnh quảng đại.
Đó là lòng bác ái, Phaolô gọi đây là ‘công việc của lòng thương xót’. Để thúc đẩy
lòng quảng đại của các tín hữu, Phaolô nhắc đến sự rộng rãi của giáo đoàn
Macêđônia; bên cạnh đó, Phaolô nhắc đến sự quảng đại vô song của Thiên Chúa
trong Chúa Giêsu, Đấng ‘giàu có’ đã ‘nên nghèo khó’, “Để nhờ việc nghèo khó của
Ngài, anh em nên giàu có”. Nêu gương Ngài, Phaolô kêu gọi tín hữu hãy cho đi
như Thiên Chúa đã cho, trao tặng ‘Agapê’ như Thiên Chúa đã trao tặng.
Trong cuốn “Tình Yêu và Trách Nhiệm”, Karol Wojtyla
nhận xét, “Yêu một người bằng tình nhân ái thực sự, là ‘ước ao Thiên Chúa’ cho
người đó, vì Thiên Chúa là điều tốt lành tối cao của con người”. Chính vì tình
yêu tốt lành này mà Chúa Kitô yêu cầu những ai theo Ngài đi một bước xa hơn,
bằng cách đem những thù địch của mình về cho Thiên Chúa; hoặc nói như thánh
Giáo Hoàng, “ước ao Thiên Chúa” cho chính họ. Lời kêu gọi này là một mệnh lệnh,
‘hơn cả một chọn lựa!’. Vì thế, cầu nguyện cho kẻ thù là phương thế giúp đạt
tới chiều sâu của tình yêu; Chúa Giêsu không chỉ dạy “đừng chống lại với kẻ
hung ác” nhưng còn phải cầu nguyện cho họ. Việc cầu nguyện này sẽ biến đổi tận
bên trong linh hồn mỗi người để chúng ta có thể hân hoan ca tụng Chúa; Thánh
Vịnh đáp ca biểu lộ, “Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa!”. Và như
thế, chúng ta nên “hoàn hảo như Cha trên trời, Đấng hoàn hảo!”.
Anh chị em,
“Hãy yêu thương thù địch!”. Yêu thương thù địch, cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ,
vu khống, hãm hại chúng ta… quả là một điều vượt sức người. Tự sức, chúng ta
không thể làm được! Chỉ trong cầu nguyện chân thành, với sự trợ giúp của Chúa;
kín múc sức mạnh từ Thánh Lễ, trong Lời Chúa, chúng ta mới có thể chiến thắng
chính mình để yêu thương như Ngài, Đấng đã sống trọn vẹn ‘Agapê’, đến nỗi chết
cho người mình yêu. Vì thế, “Yêu thương thù địch” phải là một ‘bầu khí’, một
‘tính cách’, ‘hơn cả một chọn lựa’ nếu chúng ta muốn dõi bước theo Ngài. Và
đừng quên, việc cầu nguyện cho những ai bắt bớ và làm khổ chúng ta sẽ là phương
tiện đưa chúng ta đến gần Chúa hơn, giống Chúa hơn; và đó cũng là con đường
ngắn nhất để bạn và tôi nên thánh.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, dạy cho con yêu mến những ai đang ‘bắt bớ
con’ cách này cách khác; và như thế, con đang ở trong thiên đàng!”, Amen.
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Suy niệm 3: Ga 15,9-17
CẤP ĐỘ CỦA TÌNH YÊU
Khởi đầu thông điệp “Deus caritas est”, Đức thánh cha Benedicto XVI đã
mượn lời của thánh Gioan tông đồ để nói lên chủ đề của thông điệp“Thiên Chúa là
tình yêu” (Ga 4,8); tâm điểm của tình yêu “ai ở lại trong tình yêu
thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (Ga
4,16). Đây cũng là cốt lõi, là trọng tâm và là nền tảng đức tin Kitô giáo,
bởi trước khi về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo hội dựa trên nền
tảng của tình yêu “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, thì Thầy
cũng yêu mến anh em như vậy” (Ga 15,9), và trao ban cho Giáo hội một
điều luật được gọi điều răn mới: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã
yêu thương anh em” (Ga 15,12).
Khi nói đến tình yêu, người Hy Lạp cổ đại xác định
bốn hình thức của tình yêu: quan hệ gần gũi của họ hàng hay người thân Storge,
tình bạn Philia, ham muốn tình dục hoặc cảm xúc lãng mạn Eros, và xúc cảm dành
cho các giá trị tôn giáo Agape. Khi giáo huấn cho các môn đệ về tình yêu, chắc
hẳn Chúa Giêsu không nhắm đến Stoge, Philia hay Eros mà là Agape. Bởi
Agape là cách diễn tả tình yêu đích thực, hiến dâng trọn vẹn, đặt trên nền
tảng đức tin và được nhào nặn bởi đức tin: “Không có tình yêu nào
cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga
15,12).
Eros là tình yêu không mang hình bóng sự hiến dâng, lòng vị tha mà là
tình yêu vụ lợi, là sự ham muốn, một tình cảm lôi cuốn của người khác. Eros là
một khát vọng, một sự thèm muốn để chiếm đoạt. Eros như những nấc thang giúp
con người đi từ thế giới khả giác đến thế giới tâm linh. Trong thông điệp Thiên
Chúa là tình yêu, Đức thánh cha Benedicto XVI đã sử dụng động từ Eros rất nhiều
lần để so sánh sự khác biệt, trái nghịch nhau giữa Agape và Eros: “Agape
tình yêu đi xuống và dâng hiến, Eros không thuộc về Kitô giáo, thuộc
văn hoá Hy Lạp, là tình yêu đi lên và ham muốn” (số 7). Philia là tình yêu
thường dùng để chỉ tình bạn, tình bạn này chỉ căn cứ ở sự hợp tính nhau, nó
giới hạn trong một số người. Tình yêu của người Kitô hữu có sức mạnh phi thường
vượt lên trên mọi thứ tình cảm của Eros và Philia đó chính là Agape. Agape là
tình yêu của lòng bác ái, trắc ẩn, vị tha, vô vị lợi, tự do và dựa trên sự tín
nhiệm, không căn cứ ở mức độ đo lường, cân, đo, đong, đếm. Tình yêu Agape không
lệ thuộc cảm tính, không phân biệt chủng tộc, màu da, giai cấp, ngôn ngữ hay
tôn giáo. Một tình yêu mở ra cho hết thảy mọi người, một tình yêu san bằng mọi
hố sâu ngăn cách, dẹp bỏ mọi rào cản trở để tôi tớ trở thành bạn hữu, người xa
lạ trở thành thân quen. Tình yêu Agape không dừng lại nơi đồng loại mà yêu cả
thú vật cũng như môi trường, một tình yêu phổ quát không biên giới.
Chúa Giêsu đã đi bước trước, Ngài từ bỏ địa vị Thiên Chúa đến với con người
bằng con đường tình yêu để cảm thông, chia sẻ phận người và chết cho tình
yêu: “Ngài đã yêu và yêu cho đến cùng” (Ga 13,15). Là Kitô hữu, chúng
ta không thể sống đức tin mà không thể hiện tình yêu, “vì tình yêu phát
xuất từ Thiên Chúa” (Ga 4,7). Vả lại ai nói rằng: “Tôi yêu mến Thiên Chúa
mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối” (Ga 4,20). Lại nữa, ai
tin vào Chúa Giêsu Kitô sẽ nhận được sức mạnh yêu thương từ trái tim của Ngài.
Yêu thương trước tiên là ơn ban của Thiên Chúa, thứ đến là cảm thông, chia sẻ,
thứ tha và thông ban.
Yêu thương là cốt lõi, là linh hồn của của đời sống đức tin. Chính vì lẽ
đó, khi giáo huấn cho các đan sĩ, cha Henri Denis Benoit Thuận nhấn mạnh đến
tình yêu trong đời sống cộng đoàn như sau: “Cái đạo ăn chay, cái đạo đánh
tội, cái đạo Chầu Thánh Thể, cái đạo ấy dễ mà không chắc chi; còn cái đạo yêu
thương anh em, đạo ấy thì chắc là đạo” (Di Ngôn, số 12). Hẳn thât,
khi chúng ta trao cho nhau tình yêu chân thật, khi đó chúng ta mới thực sự là
người môn đệ của Đức Kitô: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy
ở điểm này; là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Mặt
khác, yêu thương nhau không chỉ là trở nên bạn hữu, mà còn là chi thể, là anh
em trong Chúa Kitô.
Là con người, ai cũng biết yêu thương, bao lâu con tim còn đập là bấy
lâu vẫn phải yêu: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa
là tình yêu” (1 Ga 4,8). Khi nói như vậy để ta thấy rằng yếu tố mến Chúa
như là căn nguyên của lòng yêu người. Người Kitô hữu nhìn thấy Chúa trong người
anh em. Vậy đối tượng của đức mến là Thiên Chúa và tha nhân là tạo vật của
Người. Tình yêu Agape không nằm trong sự chiếm hữu mà là sự cho đi. Thiên Chúa
là tình yêu cho đi một cách trọn vẹn nhất. Tình yêu Agape xuất phát từ Thiên
Chúa, nó không đòi hỏi một sự đáp đền, Agape là tình yêu dâng hiến hoàn toàn và
trọn vẹn cho tha nhân, tình yêu vô vị lợi. Chính tình yêu Agape đã làm cho Đức
Giêsu chịu chết trên thập giá để mang lại ơn cứu độ cho con người.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đó là bước đi trên con đường
tình yêu, mỗi chúng ta được mời gọi trở nên chứng nhân tình yêu của Thiên Chúa
trong môi trường chúng ta đang sống. Như tình yêu của Chúa Cha dành cho Chúa
Con và như tình yêu chúng ta nhận được từ Chúa Con, chúng ta có nghĩa vụ “dâng
tặng” lại cho tha nhân. Và một khi chúng ta đáp lại tình yêu của Thiên Chúa và
thực thi giới luật yêu thương đối với mọi người, là chúng ta đang được hưởng
niềm vui Chúa hứa ban như phần thưởng lớn lao vì đã ở lại trong tình thương của
Ngài.
Hữu Quỳnh
7 LOẠI TÌNH YÊU MÀ CHÚNG TA THƯỜNG TRẢI QUA
TRONG ĐỜI
Trong tâm lý học tình yêu, những kiểu yêu mà chúng ta trải qua trong
cuộc sống có thể được phân chia làm 7 loại như sau. Bạn đã từng trải qua tình
yêu nào rồi?
Khi nói về tình yêu trong thời hiện đại, chúng ta thường liên tưởng ngay
đến khái niệm khá chung chung tình yêu lãng mạn (romantic love). Có lẽ vì các
lĩnh vực có sức ảnh hưởng tinh thần lớn là văn học, âm nhạc và điện ảnh thường
tập trung khai thác kiểu tình yêu này, vô hình trung chiếm lấy sự chú ý cho các
kiểu còn lại.
Chúng ta gặp nhiều người trong cuộc sống, hiển nhiên cũng sẽ trải qua
nhiều kiểu yêu thương khác nhau. Theo quan điểm của người Hy Lạp cổ đại, tình
yêu mà chúng ta thường trải qua trong cuộc sống được phân chia làm 7 loại như
sau. (Nguồn: Psychlogy Today)
1. Eros-Tình yêu đam mê
Eros là tình yêu đam mê, hay sự gắn bó có sức hấp dẫn về tình dục. Đây
là loại tình yêu gần nghĩa nhất với quan niệm tình yêu lãng mạn thời hiện đại.
Cái tên Eros bắt nguồn từ tên thần tình ái trong thần thoại Hy Lạp (tương tự
như thần Cupid trong thần thoại La Mã). Động cơ của Eros có sự tương đồng với
quan điểm ý chí của nhà triết học Schopenhauer rằng: thế giới bắt nguồn từ bản
năng vô thức nhằm tồn tại và duy trì nòi giống của con người.
Eros thường bị nhầm lẫn rằng bắt buộc phải có yếu tố tình dục. Tuy
nhiên, đó chỉ là một yếu tố vật lý gia tăng đam mê giữa hai bên và hoàn toàn
không phải hấp dẫn về tình yêu lãng mạn (romantic attraction). Do vậy những
người vô tính (asexual) vẫn trải qua tình yêu Eros bình thường.
2. Philia-Tình bạn
Philia là tình bạn, và nền tảng của tình yêu này là sự chia sẻ thiện chí
với nhau. Trong một bài đăng trên trang Insider, nhà triết học Aristole cho rằng
bạn có thiện chí làm bạn với ai đó vì một trong ba lý do sau:
· Người đó hữu ích cho bạn (giá trị lợi ích)
· Người đó đem lại cảm xúc vui sướng cho bạn (giá trị tinh
thần)
· Trên tất cả, đó là một người tốt cho bạn (tổng hòa của 2
yếu tố trên)
Trong đó, tình bạn vì lý do cuối cùng mang lại giá trị và sự gắn bó cao
nhất trong loại tình yêu Philia này. Khi tình cảm vững bền, những lợi ích chung
(công việc, tài chính, mối quan hệ,…) sẽ xuất hiện như những hệ quả tích cực.
Ngoài ra, Philia còn là chất keo gia cố và bồi đắp tình yêu Eros bền
vững hơn. Tình bạn làm giảm đi ham muốn sở hữu nhau để thỏa mãn cái tôi và biến
chuyển thành mong muốn được thấu hiểu mỗi bên lẫn thế giới xoay quanh ở mức độ
sâu sắc hơn.
3. Storge-Tình cảm gia đình
Storge là tình cảm gia đình (còn gọi là tình thân) — là một loại Philia
nhưng trong các mối quan hệ gia đình (thường là cha mẹ, con cái, anh chị em,
thú cưng). Khác với Eros hay Philia, Storge không phụ thuộc quá nhiều vào phẩm
chất cá nhân của mỗi người để bắt đầu hay duy trì.
Rộng hơn, tình yêu gia đình là tình cảm được xây dựng từ sự thân
thuộc, che chở nhau của con người. Vì vậy mà tình yêu gia đình không nhất thiết
phải giữa những người có huyết thống với nhau.
Đây cũng là một bước phát triển về tình yêu của các cặp đôi Eros. Khi sự
bổ sung và vun đắp tình cảm giữa hai bên đến một mức độ trưởng thành, tình ái
sẽ dần chuyển thành tình thân. Đó cũng chính là nền tảng của một mối quan hệ
bền lâu.
4. Agape-Lòng bác ái
Tha thứ cho bản thân mình, nghĩ đến những người liên quan khi hành động,
cống hiến cho sự phát triển của cộng đồng, tất cả đều là biểu hiện của Agape mà
bạn có thể đã từng trải qua.
Agape là tình yêu cho vạn vật, cụ thể là những khái niệm vĩ mô hơn như
tình yêu đồng bào, đất nước, thiên nhiên hay thần linh. Một cách gọi khác của
Agape theo các nhà tư tưởng Cơ đốc là lòng bác ái, khi tình thương yêu chuyển
thành lòng vị tha với vạn vật xung quanh. Không giống như Storge, Agape không
dựa trên mối quan hệ huyết thống hay gia đình, dù hai loại tình yêu này có mặt
tương đồng về biểu hiện.
Lòng vị tha là một loại tình yêu tối quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng sống của chúng ta vì nó nuôi dưỡng tâm lý của cá nhân, xã hội và nhận
thức về môi trường. Đặc biệt trong bối cảnh nhiễu động về nhận thức của xã hội
như hiện nay, tất cả những gì chúng ta cần đôi khi chỉ là lòng vị tha cho nhau.
5. Ludus-Tình cảm bông đùa
Các mối quan hệ tình một đêm (one night stand), friends with benefit là ví dụ điển hình của tình yêu
Ludus. Đây là loại tình cảm không có bất cứ ràng buộc gì và chỉ đơn thuần “vui
là chính”, hoặc đôi khi để thỏa mãn bản năng chinh phục. Ngoài ra, các dạng nhẹ
nhàng hơn của Ludus là khi bạn trêu đùa, nhảy múa cùng nhau. Trọng tâm của tình
cảm này luôn là niềm vui.
Ludus là một tình yêu đơn giản, không đòi hỏi và chỉ là hấp dẫn tình ái
đơn thuần. Kiểu tình yêu này sẽ diễn ra thuận lợi nhất khi đôi bên đều đã
trưởng thành và tự chủ tốt cảm xúc của chính mình. Những vấn đề phát sinh xoay
quanh Ludus thường là khi một bên muốn chuyển từ Ludus sang Eros (tình yêu có
gắn bó), trong khi Ludus lại tương thích nhiều hơn với Philia (tình bạn).
6. Pragma-Tình cảm lý trí
Pragma là một loại tình cảm thực tế, thậm chí là thực dụng vì lợi ích
chung nào đó. Trong tình yêu này, tất cả hấp dẫn về lãng mạn, tình dục chỉ là
yếu tố phụ vì Pragma tập trung vào việc đạt được những mục đích đã được đề ra.
Những mối quan hệ Pragma có thể tồn tại lâu dài thường là một bên chấp nhận
“nhắm mắt làm ngơ” hoặc là có sự cảm thông cho hành động của bên còn lại.
Trong quá khứ, các cuộc hôn nhân “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” khiến
Pragma trở nên cực kỳ phổ biến trong xã hội cũ. Tuy nhiên đến thời hiện đại,
những mối tình Pragma vẫn tồn tại đông đảo, đặc biệt trong xã hội châu Á luôn
coi trọng địa vị và sự ngưỡng vọng của người khác. Một số lợi ích của các cặp
đôi Pragma có thể kể đến như làm hài lòng bố mẹ, vì tương lai của con cái, tài
chính, danh tiếng, tiếp quản/xây dựng quyền lực trong kinh doanh,…
7. Philautia-Tình yêu bản thân
Yêu thương chính mình, hay Philautia là lòng tự trắc ẩn cũng như lòng tự
tôn của bạn. Hơn cả vậy, Philautia như một hệ thống cảm xúc phản chiếu những
suy nghĩ, cảm nhận và hành động của bạn về chính mình và môi trường xung quanh.
Thực hành tình yêu Philautia lành mạnh, bạn sẽ có thêm sức bền trước
những biến cố cũng như cởi mở hơn với những trải nghiệm để trưởng thành. Đây
cũng là một hình thức để bồi đắp lòng vị tha (Agape).
Mặt trái của Philautia là khi bị tiêu cực hóa sẽ trở thành tự cao
(Hubris). Tự cao là quá ham muốn địa vị, khả năng, thành tích, dẫn đến lừa dối
bản thân rằng mình có điều đó (tương đồng với ái kỷ). Vì nó đi kèm với ảo vọng, vì vậy tự cao sẽ thúc đẩy bất
công, xung đột và thù địch.
Kết
Tình yêu là một loại cảm xúc kỳ lạ và phức tạp, nhưng cũng rất tốt đẹp.
Và trong tất cả những điều tốt đẹp của tình yêu, điều tốt nhất, đẹp nhất và
đáng tin cậy nhất là sự chân thật và trí tuệ mà tình yêu mang lại cho con
người. Đó là lý do khiến Plato xem tình yêu không phải là thần thánh mà là
triết gia.
Thứ tư: Mt 6,1-6. 16-18
Nhớ Thánh Lu-Y Gon-Da-Ga, tu sĩ
* Gương thánh nhân:
Luy Gonzaga sinh ngày 9
tháng 3 năm 1568, tại nước Ý. Khi mới chào đời, thân phụ của ngài có ý định
huấn luyện ngài thành một sĩ quan.
Nhưng khi lên 7 tuổi, đời
sống tâm linh Luy Gonzaga thay đổi lạ lùng. Hàng ngày cậu siêng năng đọc kinh
sách, thánh vịnh và có lòng kính mến Ðức Maria cách đặc biệt.
Lúc 13 tuổi, cùng với người
em, theo cha mẹ lên triều đình để phục dịch cho thái tử người Asturias ở Tây
Ban Nha. Nhưng khi nhìn thấy những sinh hoạt của triều đình, Luy càng chán ngán
và tìm cách khuây khỏa qua hạnh các thánh.
Chính trong thời gian này,
khi nghe biết về công cuộc truyền giáo của các cha dòng Tên ở Ấn Ðộ, Luy đã có
ý định đi tu và tập sống kham khổ, cũng như thường tụ tập các trẻ em nghèo lại
để dạy giáo lý cho chúng. Mơ ước đi tu của Luy phải trải qua 4 năm tranh đấu
với chính người cha của mình cũng như sự dụ dỗ của rất nhiều chức sắc trong
triều đình. Sau cùng, Luy Gonzaga mới chinh phục được tất cả và được nhận vào
đệ tử của dòng Tên lúc 17 tuổi.
Khi nhập dòng, Luy Gonzaga
đã xin làm những công việc vất vả hèn kém là phục vụ trong nhà bếp và rửa chén
dĩa. Luy thường nói: “Tôi là một miếng sắt cong queo. Tôi đến với Đạo
để được chiếc búa khổ chế đền tội tán ra cho thẳng!”
Đầu năm 1591, nước Ý lâm
nạn đói kém và dịch bệnh hoành hành. Cùng với các anh em khác, Luy đi quyên góp
thực phẩm, quần áo giúp những bệnh nhân. Luy đưa những người bệnh đang hấp hối
ngoài đường phố vào bệnh viện, tắm rửa và cho họ ăn uống, sau đó chuẩn bị cho
họ lãnh nhận các bí tích sau cùng.
Một lần sau khi trở về từ
bệnh viện, Luy nói với Cha linh hướng Roberto Bellarmino rằng: “Con tin rằng mình chẳng sống thêm bao lâu nữa. Con cảm thấy nơi
mình một khao khát mãnh liệt để làm việc và phục vụ Chúa nơi các bệnh nhân. Con
nghĩ rằng Chúa đã không cho con cơ hội này nếu Ngài không muốn đưa con về với
Ngài”.
Luy Gonzaga đã phục vụ họ
cho tới khi chính ngài cũng bị lây bệnh và qua đời lúc vừa tròn 23 tuổi. Đó là
vào đêm 20 tháng Sáu năm 1591. Ngài thốt lên: “Tôi sắp về thiên đàng!”.
Xác Thánh Luy Gonzaga được
mai táng trong thánh đường dâng kính Thánh Inhaxiô ở Rôma.
Năm 1726, Luy Gonzaga được
Đức Thánh Cha Bênêđictô tôn phong Hiển thánh.
Và năm 1729, Thánh Louis
lại được Đức Bê-nê-đíc-tô XIII đặt làm bổn mạng của giới sinh viên.
Vào ngày 30 tháng 06 năm
1926, Đức Thánh Cha Pi-ô XI đã đặt Thánh Nhân làm Bổn Mạng của giới trẻ Công
giáo.
Vì Thánh Louis chết do phục
vụ những người mắc bệnh dịch hạch và bị lây bệnh từ họ, nên vào ngày 22 tháng
06 năm 1991, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã đặt Ngài làm bổn mạng của những
người mắc bệnh dịch hạch, cũng như làm Bổn Mạng của các bệnh nhân AIDS và của
những người chăm sóc những bệnh nhân này.
Ngoài ra, Thánh Louis cũng
còn được người ta chạy đến cầu khấn mỗi khi họ bị đau mắt hay bị cám dỗ về đức
trong sạch. Ngài cũng được đặt làm Bổn Mạng của thành phố Man-tu-a. Giáo hội cử
hành Lễ kính nhớ Ngài vào ngày 21 tháng 06 với bậc Lễ nhớ buộc, tức Lễ bậc III.
Tóm lại: Thánh nhân có một
đời sống khổ chế nhiệm nhặt, siệng năng cầu nguyện, luôn giữa tâm hồn thanh
sạch, tận tâm hy sinh phục vụ bệnh nhân hết lòng, nhất là những bệnh nhân bị
truyền nhiễm mà không hề sợ lây nhiễm. Đó chính là những nhân đức cao quí của
thánh nhân mà chúng ta có thể học đòi bắt chước.
Xin Chúa cũng ban cho chúng
có được những đức tính cao đẹp như thánh nhân.
* Suy niệm 1:
Tiếp tục chủ đề kiện toàn lề luật. Tin mừng hôm nay cho biết Chúa Giêsu
kiện toàn các việc đạo đức theo một tinh thần mới. Ta hãy chú tâm lắng nghe lời
Chúa hướng dẫn và cố gắng thực hiện những điều Chúa muốn để ta xứng đáng được
Chúa ghi nhận và ban ơn phúc.
Người đời thường nói: "của cho không bằng cách cho; hình thức không
bằng nội dung". Đó cũng là điều mà Chúa Giêsu đề cập đến trong bài Tin
mừng hôm nay.
Ăn chay, cầu nguyện và bố thí là 3 việc làm đạo đức hết sức quan trọng
trong đời sống con người. Nó là điều không thể thiếu trong đời sống ngoài xã
hội cũng như nơi các tôn giáo. Tuy nhiên những việc đạo đức này chỉ có giá trị
thật sự khi nó được thực hiện với tấm lòng yêu mến và khiêm tốn chân thành.
Ngược lại nếu các việc đạo đức ấy được thực hiện với ý hướng để nhằm khoe
khoang và vụ lợi thì những việc làm ấy không có giá trị gì trước mặt Chúa.
Tệ hại hơn nữa nếu các việc đạo đức ấy được thực hiện nhằm để đòi hỏi
công đức trước mặt Chúa thì quả là điều đáng chê trách.
Xin cho chúng ta biết làm các việc đạo đức bằng tấm lòng khiêm tốn trước
Chúa với động lực tình yêu và với ý hướng sám hối chân thành, mong sao được đổi
mới mỗi ngày nên đẹp lòng Chúa hơn.
Suy niệm 2:
Lời Chúa hôm nay, mời gọi chúng ta trả lại giá trị đích thực của các
việc đạo đức mà Chúa mong muốn con người thực hiện trong đời sống hàng ngày.
Các việc đạo đức như ăn chay, cầu nguyện, bác ái…gắn liều với định mệnh
con người. Có thể nói nhờ những việc đạo đức mà phẩm giá con người được nâng
cao. Tuy nhiên do ảnh hưởng tác động của xã hội và ước vọng ích kỉ của con
người mà những việc đạo đức lần lần bị biến tướng và méo mó. Thay vì thực hiện
những việc làm thiện nguyện bác ái là vì mưu cầu lợi ích cho người khác và làm
vinh danh Chúa, thì nhiều người ngày hôm nay dùng những việc làm đạo đức để
phục vụ ích lợi cho bản thân và để làm sáng danh mình.
Xin Chúa uốn lòng chúng ta theo trái tim Chúa, để những việc làm đạo đức
của chúng ta đều được khởi đi từ tấm lòng yêu mến chân thành với mong muốn ánh
sáng vinh quang của Chúa được ngời sáng.
Suy niệm 3: CHO CÁCH VUI LÒNG
“Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng!"
Mẹ Têrêxa nói, “Cho đi những gì bạn không cần, đó không
phải là cho đi!" Và một nhà tâm lý khác lại nói thêm, “Vấn đề ở chỗ, có
quá nhiều người tiêu những số tiền mà họ chưa kiếm được cho những thứ họ không
cần, để gây ấn tượng với những người họ không thích!"
Kính thưa Anh Chị em,
Sẽ khá bất ngờ khi phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói đến
việc cho đi: cho Thiên Chúa và cho tha nhân. Thư Côrintô nói, “Thiên Chúa yêu
thương kẻ ‘cho cách vui lòng!’."
‘Cho cách vui lòng’ hoàn toàn khác ‘cho cách miễn
cưỡng!’. Vậy thì điều gì khiến một người vui lòng cho? Sẽ khá ngạc nhiên, đó là
tâm tình biết ơn! Trước hết, chúng ta biết ơn Thiên Chúa, Đấng đã làm nên
‘những gì chúng ta là, những gì chúng ta có’. Trong niềm ‘biết ơn kép’ đó, mỗi
người sống trong niềm tri ân, kính sợ và cảm tạ Thiên Chúa; đồng thời, ra sức
làm điều đẹp lòng Ngài. Thánh Vịnh đáp ca xác tín, “Phúc đức thay người tôn sợ
Chúa!"
Bên cạnh đó, kẻ ‘cho cách vui lòng’ còn có một cảm giác
biết ơn khác sâu sắc hơn, tế nhị hơn. Đó là biết ơn ‘những người chúng ta giúp
đỡ!’. Thật sao? Chúng ta biết ơn những ai mà chúng ta đã rộng tay giúp đỡ. Sự
hiện diện của họ là một ân huệ và một phúc lành cho chính chúng ta. Đó là những
con người mà tình yêu của họ đã chạm đến cuộc đời chúng ta; những người chúng
ta quen biết, hoặc không quen biết; còn sống hay đã qua đời. Hiểu được như thế,
các thánh và những thiện nam tín nữ có lý khi cảm nhận rằng, ‘người nghèo là ân
nhân của tôi’.
Họ ý thức
họ chỉ là dụng cụ trong tay Chúa hay khá hơn, chỉ là những tôi bộc, quản lý của
Ngài. Bấy giờ, lời của thánh Phaolô thật thâm trầm, “Cho thì có phúc hơn là
nhận!"
Tin Mừng nói đến việc ‘cho cách vui lòng’ khi cầu
nguyện, ăn chay và chia sẻ. Ba lần, Chúa Giêsu nói, “Cha các con, Đấng ngự nơi
bí ẩn, thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho các con." Thiên Chúa thường
thấy những gì con người không thấy. Chúa Giêsu từng thấy sự hảo tâm của một bà
goá trong đền thờ; Ngài từng nghe hai đồng xu rơi vào hòm tiền. Ngài đọc được
sự rộng lượng phi thường khi bà dám ‘cho cách vui lòng’ tất cả những gì mình có
để nuôi sống. Ngài cũng ‘tự mời mình’ đến nhà Zakêu vì nhận ra rằng, ở con
người này, có nhiều điều tốt lành hơn cả ‘tiếng tăm’ của ông. Zakêu sẽ đứng lên
tuyên bố những gì ông sẽ ‘cho cách vui lòng’. Và Chúa Giêsu sẽ nói với ông và
những kẻ có mặt hôm ấy rằng, Thiên Chúa sẽ ‘cho cách vui lòng’ hơn, cho ơn cứu
độ, “Hôm nay, nhà này được ơn cứu độ!"
Anh Chị em,
“Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng!" Ai ‘cho
cách vui lòng’ bằng Thiên Chúa! Ngài âm thầm cho hạt nảy mầm để muôn cánh rừng
không ngừng mọc lên; cho chim chóc bay lượn; cho con người sự sống. Ngài cho
thế gian Con Một yêu dấu. Và mỗi ngày, trên các bàn thờ, Thiên Chúa không ngừng
hiến mình trong Thánh Thể để nuôi sống và mời gọi chúng ta tiếp tục cho đi như
Ngài. Vào ngày từ giã cuộc đời, bạn và tôi sẽ nghiệm ra rằng, “Tất cả những gì
mang theo là những gì chúng ta đã cho đi!”; mọi thứ khác chỉ là phù phiếm!
Những hành vi âm thầm trong sạch của chúng ta, những gì không bao giờ được thế
giới công nhận, hoặc ngay cả được nhìn nhận và đánh giá cao… một ngày kia, sẽ
được đền đáp trên thiên đàng.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con tìm gây ấn tượng nơi người đời;
dạy cho con chỉ tìm kiếm những gì Chúa ưa thích!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
Thứ năm: Mt 6, 7-15
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nhấn mạnh đến 1 trong 3 đạo đức không thể
thiếu được của người môn đệ Chúa. Đó là cầu nguyện.
Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa để gặp gỡ và hiệp thông
với Ngài trong tình yêu, để cầu xin những ơn cần thiết. (GLCG. 2591).
Cầu nguyện được ví như hơi thở của linh hồn và là lương thực nuôi sống
đức tin. Tất cả các tôn giáo đều đề cao việc cầu nguyện, bởi vì đó là cách thức
tốt nhất để tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, nhờ đó ta dễ dàng nghe được tiếng
Chúa nói; cũng như múc lấy sức mạnh thần thiêng Chúa ban, nhờ đó đức tin ta
thêm vững mạnh.
Trong bài tin mừng hôm nay, ngoài việc Chúa cho các môn đệ biết nội dung
phải cầu nguyện như thế nào qua "kinh lạy Cha"; Ngài còn nhấn mạnh
đến hai điều quan trọng khi cầu nguyện cần phải có:
- 1 là không nên lãi nhãi nhiều lời khi cầu nguyện. Bởi vì Thiên Chúa là người Cha đầy yêu thương nên Ngài thấu hiểu mọi
nhu cầu cần thiết của ta. Ngài sẽ ban cho chúng ta những gì thiện hảo nhất.
- 2 là phải loại trừ khỏi tâm trí mình mọi ý tưởng hận thù thay vào đó là tấm lòng bao dung tha thứ. Bởi có tha thứ cho tha
nhân thì ta mới xứng đáng được Chúa tha thứ. Tha thứ là điều kiện căn bản
để Chúa đón nhận của lễ và ban ơn cho chúng ta, nên Chúa phán: “Nếu khi anh
sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất
bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh
em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” (Mt 5, 23-24). Có
thể nói tha thứ chính là hoa trái của đức tin và là đỉnh cao của lòng
thương xót.
Nếu cầu nguyện để nuôi sống và củng cố đức tin, thì tha thứ chính là
hành động cụ thể để thể hiện đức tin ấy. Xin cho chúng ta biết siêng năng cầu
nguyện để củng cố đức tin thêm vững mạnh, nhờ đó ta dễ dàng biết tha thứ cho
nhau.
Suy niệm 2: CON CỦA CHÚA
Mọi đứa trẻ tin rằng, cha mẹ chúng yêu chúng, cả khi
chúng có tội.
“Lạy Cha chúng con ở trên
trời!”.
Trong cuốn “Foundations of Faith”, “Nền Tảng Đức Tin”,
J.C. Ryle viết, “Có hai điều không có số học để tính, không có thước mực để
đo. Một là mức độ mất mát của Thiên Chúa; hai là trương độ ân tứ của
Ngài. Tội lỗi phải thực sự ‘vượt quá’ chính nó, khi Thiên Chúa buộc
phải ban Con Một để kết bạn với tội nhân; và bấy giờ, tội nhân được trở nên con
cái Ngài!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Nhận định của J.C. Ryle quả là một trong những nền tảng
đức tin! Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu gợi lại nền tảng này qua Kinh Lạy
Cha. Với những lời này, Ngài dạy chúng ta cầu nguyện với Chúa Cha; trong đó,
mọi khát khao và mọi biểu hiện của đức tin được tỏ lộ.
Không bắt đầu bằng một khấn xin, Kinh Lạy Cha bắt đầu
bằng việc thừa nhận danh tính của mỗi người chúng ta là ‘con của Chúa’. Đây là
nền tảng then chốt để “Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu” được thưa lên đúng cách.
Nó cũng tiết lộ cách tiếp cận căn bản mà chúng ta thực hiện trong mọi lời cầu
nguyện của toàn bộ đời sống Kitô hữu. Nó bắt đầu rằng, “Lạy Cha chúng con ở
trên trời!”. Hãy xem những gì nó chứa đựng ngay ở câu mở đầu!
Trong Thánh Lễ, linh mục mời gọi mọi người cầu nguyện
với Kinh Lạy Cha thế này, “Vâng lệnh Chúa Cứu Thế, và theo thể thức Người dạy,
chúng ta dám nguyện rằng”. Sự “dám nguyện” ‘táo bạo’ này đến từ một sự hiểu
biết nền tảng rằng, Thiên Chúa là Cha chúng ta. Mỗi Kitô hữu nhận thức Thiên
Chúa là Cha mình; nhận thức mình là con trai, con gái đang đến gần Ngài với sự
tự tin của một đứa trẻ. Mọi đứa trẻ tin rằng, cha mẹ chúng yêu chúng, cả khi
chúng có tội. Đây là khởi điểm nền tảng cho mọi lời cầu nguyện. Chúng ta phải
bắt đầu với nhận thức rằng, Thiên Chúa yêu chúng ta, bất kể điều gì xảy ra, bất
kể chúng ta thế nào! Với hiểu biết này, chúng ta sẽ có tất cả tự tin cần thiết
để kêu cầu Ngài.
Gọi Thiên Chúa là “Cha”, chúng ta kêu cầu Ngài theo
cách riêng tư, thân mật nhất. Điều này cho thấy, Ngài không chỉ là Đấng Toàn
Năng; nhưng còn là Cha nhân từ của tôi. Và tôi, con trai, con gái, ‘con của
Chúa’. Việc gọi Thiên Chúa là “Cha” thể hiện mối quan hệ được thiết lập trong
bửu huyết của Chúa Kitô; chính nhờ mối quan hệ này, chúng ta trở nên thần dân
của Vương Quốc Ngài. Đây là món quà mà chúng ta không tự sức, hoặc tự mình có
được. Nói cách khác, không ai có quyền được gọi Thiên Chúa là Cha nếu không có
Chúa Giêsu.
Trong bài đọc Côrintô hôm nay, Phaolô
cho thấy niềm xác tín đó, “Đã có sự thật của Đức Kitô trong tôi!”. Sự thật của
Đức Kitô là Tin Mừng Cứu Độ của Ngài; sự thật đó còn là sự mặc khải mầu nhiệm
cứu chuộc của Thiên Chúa trong Ngài. Công trình cứu chuộc đó được Thánh
Vịnh đáp ca tán tụng, “Lạy Chúa, công cuộc tay Chúa làm ra đều
chân thật và công chính!”.
Anh Chị em,
“Lạy Cha chúng con ở trên trời!”. Chúng ta chỉ có thể gọi Thiên Chúa là “Cha” trong
chừng mực chúng ta nên một với Chúa Giêsu; bên cạnh đó, trong chừng mực chúng
ta hiệp thông với anh chị em mình. Trong Chúa Giêsu, chúng ta là ‘con của Cha’.
Ở đây, chủ nghĩa cá nhân bị bỏ lại; thay vào đó là hiệp nhất huynh đệ. Vì thế,
mỗi ngày, đọc Kinh Lạy Cha, đặc biệt trong Thánh Lễ, chúng ta không chỉ kết nối
sâu sắc với nhau, nhưng còn cùng nhau thờ phượng Chúa, Cha mình; và cùng lúc,
hiệp nhất nên một với nhau trong Thánh Thể Ngài.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cho con trở nên loại hình ‘con của Chúa’ như
Chúa muốn con trở thành. Để được vậy, giúp con ngày càng ‘bớt chất người, thêm
chất Chúa!’”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp.
Huế)
Thứ sáu: Mt 6, 19-23
Một triết gia
đã nói: “Con người là một sinh vật duy nhất biết mình phải chết”. Lời của triết
gia trên không những phản ánh về nỗi day dứt của con người trước sự sống chết
mà còn là nỗi ám ảnh về số phận sau cái chết.
Hầu hết các tôn
giáo đều tin vào sự sống đời sau. Và cho rằng sự sống mai sau tùy thuộc hoàn
toàn vào cuộc sống đời này, vì thế mà nhiều người đồng tình với quan niệm nhân-quả,
nghĩa là công-thưởng, tội-trừng. Tuy biết mình sẽ chết, sẽ sự sống lại và sẽ
được thưởng hay bị phạt mai sau, nhưng có mấy ai biết quan tâm đến số phận mai
sau của mình. Chính vì thế mà tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta
đừng quá bận tâm lo lắng thu tích của cải chóng qua đời này mà quên lãng nhiệm
vụ thu tích kho tàng bền vững mai sau trên trời.
Thiên hạ thường
truyền khẩu với nhau bài vè này:
Tiền là tiên là
phật,
là sức bật của
lò xo,
là thước đo của
lòng người,
là sức khỏe của
tuổi già,
là niềm vui của
tuổi trẻ…,
có tiền mua
tiên cũng được.
Đúng vậy, bởi
lẽ trong cuộc sống trần gian này ai cũng cần có tiền để sống. Có tiền mới mua
được thực phẩm, đồ dùng; có tiền mới cho con cái ăn học; có tiền mới làm được
việc này việc nọ; và có tiền ta mới có thể đi đây đi đó được… Do đó tiền bạc là
thứ không thể thiếu, chính vì thế người ta phải ra sức làm việc để kiếm được
thật nhiều tiền, càng tích lũy nhiều tiền càng tốt. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy, tiền không phải là tất cả. Kinh nghiệm cho thấy có nhiều tiền chưa chắc
có hạnh phúc. Bởi vì, ngoài tiền của vật chất ra, cuộc sống con người còn có những
thứ khác cao quý hơn. Như được sống vui vẻ, bình an, hạnh phúc, gia đình êm ấm
hòa thuận…Và vượt trên tất cả chính là khát vọng được trở nên hoàn thiện.
Thế nhưng, khi
nhìn vào thực tế cuộc sống, dường như chọn lựa giữa Chúa và tiền của thật khó
khăn. Nhiều người hãnh diện xưng mình là kitô hữu nhưng lại dễ dàng bỏ lễ ngày
Chúa nhật để chọn tiền. Có người còn cho rằng đi lễ Chúa đâu có tiền, Chúa đâu
cho cơm cho gạo để ăn... còn đi làm mới có cái để ăn. Nhiều người sẵn sàng bỏ
những ngày Chúa nhật, lễ trọng để đi chơi, đi ăn cưới hoặc ăn giỗ mà không hề
áy náy lương tâm. Họ sống theo kiểu “có thực mới vực được đạo.”
Thu tích tiền
bạc của cải đời này được xem là xu hướng khôn ngoan của con người thời đại khi
mà nền kinh tế khủng hoảng, bấp bênh nên việc tích lũy tiền của càng nhiềul
càng tốt. Tuy nhiên khi có nhiều tiền của thu tích rồi, người ta cũng không cảm
thấy vững dạ an lòng, vì mối mọt và trộm cướp luôn là hiểm họa đang trực
chờ.
Vậy người khôn
ngoan đích thực là người biết phân bố thời gian sao cho hợp lý. Một phần thời
gian ta lo cho sự sống thể xác của mình, một phần thời gian ta dành chăm lo gia
đình, một phần ta phục vụ cho xã hội, nhưng đừng quên dành nhiều thời gian để
chăm lo cho phần hồn và hạnh phúc đời đời của mình.
Xin cho chúng
ta biết hướng tất cả mọi sự vào cùng đích là hạnh phúc vĩnh cửu nước trời để
biết khôn ngoan sử dụng tiền của sao cho phù hợp ý Chúa, nhằm đảm bảo mai sau
ta có được kho tàng vĩnh cửu trong nước trời.
Suy niệm 2: ĐÔI MẮT SÁNG SUỐT
“Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt anh sáng, thì toàn thân anh sẽ sáng.” (Mt 6,22)
Hãy nhìn nhau bằng cái nhìn của Chúa.
Suy niệm: Có vẻ như chuyện kho tàng ở đâu không liên quan gì tới cặp mắt có
sáng hay không. Đức Giê-su dạy rằng mắt ta có sáng, mới nhìn rõ để soi sáng
hướng dẫn mình thực hiện những hành vi tốt đẹp, đạt đến mục đích tối hậu đời
người. Cặp mắt có sáng thì mới thấy rõ kho tàng đích thực của mình ở đâu để
hướng lòng mình về đó. Cặp mắt cận thị thì chỉ chăm chăm vào những điều mau qua
chóng hết ở thế gian này. Cặp mắt ấy lại càng tăm tối nếu như bị che chắn bởi
những ham muốn, tham vọng hưởng thụ của cải đời này không thể nhìn xa trông
rộng để thấy được “quê hương và kho tàng đích thực” của mình. Để có thể có đôi
mắt sáng suốt, cần phải “rửa mắt” khỏi bụi bặm, tháo dỡ những cái xà tội lỗi và
thành kiến là những thứ che khuất tầm nhìn hoặc làm tổn thương dẫn đến mù loà thiêng
liêng khiến ta không còn thấy và “ái mộ những sự trên trời” nữa.
Mời Bạn: “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn.” Nhìn vào đôi mắt một người, có thể
thấy nơi đó phản ảnh kho tàng nào: sự tham lam ích kỷ, hận thù hay lòng nhân
ái, thiện tâm. Mời bạn thường xuyên soi vào tấm gương Lời Chúa để làm đẹp cho
đôi mắt tâm hồn xoá bỏ đi những nếp nhăn của giận dữ tham lam và luôn toả sáng
sự dịu dàng, nhân hậu và bình an.
Sống Lời Chúa: Chiêm ngắm Chúa Giê-su mỗi ngày để có thể nhìn nhau bằng cái nhìn
của Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hướng đôi mắt con về sự thiện hảo, để nó đẹp ngời và
sáng long lanh, để nó phản chiếu những niềm vui lấp lánh. Xin dạy con biết sử
dụng đôi mắt như một khí cụ dịu dàng phản chiếu gương mặt Chúa cho tha nhân.
(Lạy Chúa con đây! Lời nguyện 92).
(Nguồn: tongdosongdao.org)
“Kho tàng của con ở đâu thì lòng con ở đó!"
Một nhà tu đức nói, “Trái tim
con người được tạo ra cho những
hứa hẹn về một kho tàng hạnh phúc và an toàn,
cho những niềm vui mà nó mang lại. Nhưng vấn đề là bạn nên
giao phó trái tim mình, con người thẳm sâu nhất của mình cho
loại kho tàng nào?"
Kính thưa Anh Chị em,
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ ra một
loại ‘kho tàng’ mà bạn và tôi nên “giao phó trái tim và toàn thể con người
mình” cho nó. Đồng thời, Ngài cũng cảnh báo về một loại hình mà chúng ta thường
‘tưởng như kho tàng’ vốn đưa đến hư mất và cũng chẳng tồn tại.
Điều mà con người ‘tưởng như kho tàng’ là của
cải vật chất vốn đang giằng xé trái tim và lòng dạ nó mỗi ngày. Đó là những gì
thuộc về trần gian như của cải, địa vị, quyền lực hay danh vọng. Vậy mà những
điều này có thể bị lấy khỏi bạn và tôi bất cứ lúc nào! Và vào lúc chúng ta cần
sự giúp đỡ nhất, khi lìa đời, những ‘của cải’ này sẽ lạnh lùng phản bội chúng
ta. Ngạn ngữ Tây Ban Nha có câu, “Không có một chiếc túi nào trong tấm vải
liệm!"
Là Kitô hữu, chúng ta có một ‘kho tàng’ duy
nhất xứng tầm với trái tim; nó không bao giờ phản bội và sẽ cùng chúng ta vượt
qua nấm mồ để bước vào vòm cửa sự sống vĩnh cửu. Kho tàng đó là Chúa Kitô và
tất cả những hành động tốt đẹp chúng ta làm vì lợi ích của Ngài. Sống cho Ngài,
yêu mến Ngài, từ bỏ bản thân vì Ngài, tạo cho chúng ta một kho tàng duy nhất đủ
phong phú để thoả mãn trái tim. Chỉ kho tàng này mới tồn tại mãi, khiến chúng
ta đắm chìm trong niềm vui, một niềm vui không ngừng bắt đầu và luôn mới mẻ.
Trong Tin Mừng hôm nay, ‘Kho Tàng’ ấy lên tiếng, “Kho tàng của con ở đâu thì
lòng con ở đó!"
Chúa Giêsu thúc giục chúng ta đặt niềm tin và
sự an toàn của mình vào một ‘Ai đó’ không hư nát, một ‘Ai đó’ rất bền vững.
“Tích trữ kho tàng trên trời” không chỉ là tích luỹ thật nhiều “việc lành” mà
chúng ta sẽ nhận được ở đời sau. ‘Tín dụng’ này cũng có thể mất rất nhanh khi
chúng ta sa ngã. Vấn đề quan trọng hơn là ngày càng phát triển thành ‘loại
người’ thấm nhuần các giá trị và quan điểm của Tin Mừng, nghĩa là ngày càng nên
giống Chúa Kitô. Đó không phải là vấn đề ‘làm’, hơn là vấn đề ‘trở thành!’. Bên
cạnh đó, chúng ta xây dựng kho tàng của mình bằng những gì chúng ta cho đi, đặc
biệt, cho đi ‘Kho Tàng Giêsu!’.
Như người khám phá được ‘kho tàng’, qua thư
Côrintô hôm nay, Phaolô reo lên, “Họ là người phục vụ Đức Kitô ư? Tôi nói như
người điên: tôi còn hơn họ nữa!" Ngài là kho tàng mà Phaolô đã vượt qua
tất cả để bảo tồn. Thánh Vịnh đáp ca thổ lộ, “Người công chính được Chúa giữ gìn,
giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn!"
Anh Chị em,
“Kho tàng của con ở đâu thì lòng con ở
đó!" Vậy thì đâu là kho tàng đích thực bạn và tôi vun quén; một ‘kho tàng
đích thực’ hay cái ‘tưởng như kho tàng?’. Sẽ khá bất ngờ khi Chúa Giêsu nói
tiếp, “Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân con sáng." Đó là ánh sáng
chúng ta cần để có một tầm nhìn rõ ràng về những gì có
giá trị nhất trong cuộc sống. Người không thể nhìn xa hơn tiền bạc, địa vị,
quyền lực hay danh vọng thực sự là những người ở trong bóng tối. Cuộc sống
không chỉ là để có được điều này, điều kia; cuộc sống còn là về những gì con
người chúng ta ‘phải trở thành!’. Về tình yêu đối với Thiên Chúa, đối với tha
nhân!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con xin ánh sáng để có thể phân
biệt đâu là ‘kho tàng’ đích thực, đâu là điều quý giá. Để được vậy, cho con
‘mắt sáng lòng trong’ hầu có một tầm nhìn đúng đắn!” Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
(Nguồn: tongdosongdao.org)
LỄ VỌNG SINH NHẬT THÁNH GIOAN TẨY GIẢ
* Dẫn
vào Thánh Lễ
Chiều nay Giáo Hội long trọng mừng kính lễ vọng Sinh Nhật Thánh Gioan
Tẩy giả, Ngài là vị tiền hô của Đấng Cứu Thế. Ngài được gọi là vị ngôn sứ cuối
cùng của Cựu Ước, là vị ngôn sứ cao cả nhất; Ngài cũng là vị ngôn sứ duy nhất
chỉ cho nhân loại biết Đấng Cứu Thế là Đức Kitô, “là Chiên Thiên Chúa, Đấng Cứu
Độ trần gian.” Hơn ai hết, Thánh Gioan chính là người làm phép rửa cho Chúa Cứu
Thế tại dòng sông Gio-đan.
Hiệp dâng Thánh Lễ mừng sinh nhật Thánh Gioan Tầy giả chiều hôm nay, xin
Chúa cho chúng ta sẵn sàng chuẩn bị đón ngày Chúa đến, đó là biết chết đi đối
với tội lỗi, sự ích kỷ, tính kiêu căng, can đảm nói thật, sống thật
và hân hoan đi rao giảng và làm chứng cho tình yêu của Chúa.
* LỜI CHÚA
Dẫn vào bài đọc 1:
Thiên Chúa đã nói với ngôn sứ Giêrêmia: Ngài sẽ sai ông đi làm ngôn sứ
cho muôn dân. Ông sợ vì không biết ăn nói nhưng Thiên Chúa nói với ông: đừng
sợ, ta sẽ ở với ngươi. Đó là nội dung của bài đọc sau đây.
Bài Đọc I: Gr 1, 4-10
Lời Chúa trong sách tiên tri
Giê-rê-mi-a
Thời vua Giô-si-gia-hu, có lời Đức Chúa phán với tôi rằng : "Trước
khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi ; trước khi ngươi lọt
lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân."
Nhưng tôi thưa : "Ôi ! Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con đây còn quá
trẻ, con không biết ăn nói !" Đức Chúa phán với tôi : "Đừng nói ngươi
còn trẻ ! Ta sai ngươi đi đâu, ngươi cứ đi ; Ta truyền cho ngươi nói gì, ngươi
cứ nói. Đừng sợ chúng, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi",- sấm ngôn
của Đức Chúa.
Rồi Đức Chúa giơ tay chạm vào miệng tôi và phán : "Đây Ta đặt lời
Ta vào miệng ngươi. Coi, hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước, để
nhổ, để lật, để huỷ, để phá, để xây, để trồng."
* Dẫn vào bài đọc 2:
Các ngôn sứ đã nghiên cứu và tìm hiểu về ơn Cứu độ. Chính Thiên Chúa đã
mạc khải cho các ngài biết các ngài phải nói và truyền đạt thông điệp Tin Mừng
của Chúa. Đó là ý nghĩa của đoạn thư sau đây.
Bài Đọc II: 1 Pr 1, 8-12
Lời Chúa trong thư thứ nhất của
thánh Phê-rô tông đồ.
Anh em thân mến, tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được
giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn
tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu
độ con người.
Các ngôn sứ đã nghiên cứu tìm hiểu ơn cứu độ này, và đã tuyên sấm về ân
sủng dành cho anh em. Thần Khí Đức Ki-tô ở nơi các ngài, đã báo
trước những đau khổ dành cho Đức Ki-tô, và vinh quang đến sau những đau khổ đó,
nên các ngài đã tìm hiểu xem Thần Khí muốn cho thấy việc đó xảy ra vào thời
nào, trong hoàn cảnh nào. Thiên Chúa đã mặc khải cho các ngài biết là các
ngài có phận sự truyền đạt thông điệp ấy, không phải cho chính mình, mà là cho
anh em. Đó là thông điệp mà nay các người giảng Tin Mừng đã loan báo cho anh
em, nhờ tác động của Thánh Thần là Đấng đã được cử đến từ trời. Chính các thiên
thần cũng ước mong được tìm hiểu kỹ lưỡng thông điệp ấy.
Bài Tin Mừng: Lc 1, 5-17
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo
thánh Lu-ca
Thời vua Hê-rô-đê cai trị miền Giu-đê, có một vị tư tế thuộc nhóm
A-vi-gia, tên là Da-ca-ri-a ; vợ ông là Ê-li-sa-bét cũng thuộc dòng tộc tư tế
A-ha-ron. Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống
đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. Nhưng
họ lại không có con, vì bà Ê-li-sa-bét là người hiếm hoi. Vả lại, cả hai đều đã
cao niên.
Sau đây là chuyện xảy ra trong lúc ông đang lo việc tế tự trước
nhan Thiên Chúa khi đến phiên của nhóm ông : Trong cuộc bắt thăm thường lệ
của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của Đức
Chúa. Trong giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng cầu nguyện ở bên ngoài.
Bỗng một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương
án. Thấy vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối, và nỗi sợ hãi ập xuống trên
ông. Nhưng sứ thần bảo ông : "Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì Thiên
Chúa đã nhận lời ông cầu xin : bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa
con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an. Ông sẽ được vui mừng hớn
hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời. Vì em bé
sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay
khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. Em sẽ đưa nhiều con cái
Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. Được đầy thần khí và quyền
năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay
về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường
ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa."
Suy niệm 1:
Hôm nay chúng ta cùng với
Giáo Hội, mừng ngày Sinh Nhật của Thánh Gioan Tẩy giả.
A. Trước hết ý nghĩa của Thánh
lễ hôm nay
Tôi xin mượn lời của thánh Âugustinô nói về ngài
nói rất hay: “Hội Thánh coi sinh nhật của thánh Gioan như một ngày thánh
thiêng. Không có vị nào trong các bậc cha ông được chúng ta mừng sinh nhật
trọng thể như thế. Chúng ta mừng sinh nhật thánh Gioan và mừng sinh nhật Đức
Kitô: đó là điều không thể bỏ qua”.
Thánh Gioan sinh ra bởi một cụ bà son
sẻ, còn Đức Kitô sinh ra bởi một thiếu nữ đồng trinh. Vì không tin Gioan sẽ
chào đời, nên người cha đã bị hóa câm; vì tin Đức Kitô sẽ chào đời, nên Đức
Maria đã thụ thai bởi lòng tin. Chúng tôi đã đề nghị những điều cần tìm hiểu và
báo trước những điều cần thảo luận. Nhưng như tôi đã nói trước đây nếu chúng
tôi không đủ khả năng hay thời giờ để đào sâu hết mọi ngõ ngách của một mầu
nhiệm cao cả như thế, thì Đấng nói trong anh em sẽ dạy anh em một cách tốt hơn,
cả khi chúng tôi vắng mặt, đó là Đấng mà anh em đã sốt sắng tưởng nhớ, đã đón
nhận bằng cả tấm lòng, và đã trở nên đền thờ của Người.
Ông Dacaria bị câm, không nói được cho đến khi Gioan,
vị Tiền Hô của Chúa chào đời, nhờ đó ông lại nói được. Sự im lặng của ông
Dacaria có nghĩa gì nếu không phải là lời ngôn sứ tạm ngưng, tức là bị che giấu
và đóng lại cho tới khi Đức Kitô đến rao giảng? Khi ông Gioan đến thì lời ngôn
sứ được mở ra và khi Đấng được tiên báo đến thì lời ngôn sứ trở nên rõ ràng.
Việc ông Dacaria lại nói được vào thời Gioan sinh ra cũng giống như tấm màn
trong đền thờ xé ra vào ngày Đức Kitô bị treo trên thập giá. Nếu ông Gioan loan
báo chính mình thì đã không mở được miệng cho thân phụ. Lưỡi được mở vì tiếng
ra đời. Khi ông Gioan tiên báo về Chúa thì người ta hỏi ông rằng: Ông là ai? Và
ông trả lời: Tôi là tiếng, còn Chúa, ngay từ nguyên thủy đã là Lời. Ông Gioan
là tiếng trong thời gian, còn Đức Kitô, ngay từ khởi đầu, đã là Lời vĩnh cửu.”
B. Áp dụng cho mỗi người
1. Mừng ngày sinh của Thánh Gioan Tẩy giả, Giáo hội
cũng muốn nhắc nhở mỗi người Kitô hữu chúng ta về sứ mạng làm tiên
tri và sứ giả như Thánh Gioan thuở xưa. Ngày
sinh của Thánh Gioan Tẩy giả mời gọi chúng ta nhớ lại chúng ta được tái
sinh làm con Thiên Chúa.
Nhờ phép rửa, chúng ta đã trở thành ngôn sứ loan báo
hồng ân cứu độ của Chúa. Ngọn nến Giáo Hội trao cho chúng ta trong ngày lãnh
phép rửa là hình ảnh tượng trưng cho ánh sáng mà chúng ta phải không ngừng
chiếu tỏa ra xung quanh. Dù sống trong hoàn cảnh nào, người tín hữu Kitô chúng
ta cũng phải có sứ mệnh chiếu toả ánh sáng ấy (Mt 5,16).
Ngạn ngữ có câu: “Nếu bạn không trở thành
sao sáng ở trên trời, thì ít ra bạn hãy trở thành ngọn đèn soi sáng trong nhà
bạn”. Theo cha Basséville, ông Jeannet là người công giáo rất đạo đức,
nhận thấy mình có bổn phận phải rao giảng Chúa cho người khác, nên đã tự nguyện
trở nên tông đồ giáo dân cho Chúa và các linh hồn. Nhưng rồi ông bị người ta
này chê là giả hình. Người kia chê là ông thiếu khả năng. Người nọ bảo là ông
kém cỏi. Người khác lại bảo là ông không xứng hợp. Đứng trước những lời chê bai
đó, ông Jeannet mất tinh thần, thối chí định bỏ việc tông đồ. Đêm hôm ấy, Chúa
cho ông nằm mơ là mình đã chết. Sau khi chết, thiên thần bản mệnh dẫn ông đến
một gian phòng, để chờ Chúa đến phát xét. Ngay trước cửa gian phòng, ông thấy
một tấm bảng kẻ hàng chữ lớn:
“Phòng triển lãm đời sống ông Jeannet”.
Bước vào trong, ông thấy có nhiều bức vẽ rất đẹp. Bức
thì vẽ lại những lần ông đang quì cầu nguyện ở gia đình cho các tội nhân và
người ngoại. Bức thì vẽ những lần ông đang dự thánh lễ. Bức thì vẽ lại những
lần ông đang lao động, để cầu nguyện cho tội nhân này. Bức thì vẽ lại những lần
ông đi thăm viếng người ngoại kia. Bức thì vẽ lại người tội nhân và người ngoại
được trở về với Chúa, do việc ông chịu đựng những lời chê bai trong khi làm
việc tông đồ. Vừa mơ đến đây, thì ông giật mình thức dậy. Ông cho giấc mơ là
lời Chúa an ủi và cảnh cáo mình. Ông liền quỳ lên giường cám ơn Chúa cho mình
còn sống. Rồi ông quyết chí lại tiếp tục làm việc tông đồ để đưa các linh hồn
về cho Chúa.
Thưa anh chị em, hôm nay kính thánh Gioan là Tiền Hô
của Chúa, chúng ta cũng hãy bắt chước ông Jeannet làm việc tông đồ cho Chúa như
ông Jeannet trên đây. Làm được như thế chắc Chúa sẽ vui lòng.
2. Mừng ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy giả, chúng
ta cũng còn phải nhớ lại con đường Thánh Gioan Tẩy Giả đã đi qua để
nên thánh, con đường ấy được Ngài góm gọn trong khẩu hiệu: “Ngài
phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3,30).
Chúa Giêsu phải được lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Tạp chí “Truyền bá đức tin” có thuật lại câu chuyện về
một cụ già ở Ấn Độ như sau. Lúc còn là thanh niên, anh đã say sưa nghiện ngập
đủ mọi thứ: cà phê, thuốc lá, những thứ rượu mạnh có tiếng. Nhưng rồi một hôm,
chàng đọc thấy trên mặt báo lời kêu gọi giúp nuôi chủng sinh ở các giáo phận
nghèo. Đọc xong chàng rất đổi phân vân, một đàng chàng muốn mình phải làm một
cái gì đó, đàng khác, chàng vẫn còn cảm thấy những mời mọc của trần thế còn quá
hấp dẫn, nên chưa cần phải vội vã gì!
Tuy nhiên, sau đó chàng quyết định: bỏ
tất cả... nhưng dần dần với thời gian. Chàng đóng góp số tiền tiêu
sài ấy vào quĩ truyền bá đức tin để giúp nuôi một ít chủng sinh nghèo. Cứ thế
liên tiếp trong mấy mươi năm, nhiều thế hệ chủng sinh, linh mục đã được chàng
giúp đỡ. Họ liên lạc thư tín với chàng mỗi lúc một nhiều... Thời gian trôi qua,
đến ngày chàng thanh niên nghiện ngập thành ông cụ già 85 tuổi. Ngày kỷ
niệm sinh nhật thứ 85 của cụ, cụ tuyên bố trước mặt họ
hàng: “Với những hy sinh suốt mấy mươi năm qua, tôi đã đài thọ cho việc huấn
luyện các chủng sinh, và đến nay, con số các linh mục rải rác khắp nơi được tôi
giúp đỡ đã lên đến 30 mươi người. Tôi rất hạnh phúc. Tôi đã
đầu tư thành công, và tôi sẽ còn tiếp tục đầu tư như thế cho đến giờ Chúa gọi”.
Vâng cụ già đã biết làm cho mình nhỏ đi và cho Chúa
được lớn lên, lớn lên qua những cánh tay nối dài của Ngài.
Ước gì khẩu hiệu này cũng trở thành lý tưởng và luật
sống của mỗi người chúng ta.
Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là sống cho
Chúa.
Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là không ngừng
khước bỏ và cắt xén đi những gì là thừa thãi trong cuộc sống, để trở nên đồng
hình đồng dạng với Chúa Giêsu.
Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là suy nghĩ và
hành động trong Chúa Kitô, để dung mạo của Ngài được chiếu sáng trong chúng ta,
và nhờ ơn cứu độ của Ngài được loan báo cho mọi người.
Lạy Chúa xin làm cho chúng con nên giống Chúa như thánh
Gioan Tẩy Giả thuở xưa. Amen.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Suy niệm 2:
Sinh ra ở đời, mỗi người có một ơn gọi
khác nhau: người được mời gọi trở nên những trí thức như: Kỹ sư, bác sĩ…; người
khác lại được mời gọi trở nên văn nghệ sĩ: nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ…, người
khác nữa lại được mời gọi trở nên những người bình dân. Tuy nhiên, có một điều
đặc biệt là: mỗi chúng ta đều có một ơn gọi khác nhau và mỗi chúng ta đều được
mời gọi hiện diện trên cõi đời này. Trong tâm tình đó, chúng ta cùng tìm hiểu về
ơn gọi của Gioan Tẩy Giả.
* TỪ ƠN GỌI CỦA GIOAN TẨY GIẢ
1.
Cuộc sinh hạ lạ lùng
Cuộc sinh hạ của Gioan Tẩy Giả thật lạ
lùng. Theo lời Tin Mừng thuật lại, ngài được sinh ra, trong một gia đình đạo đức: “Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt
Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê
trách được điều gì” (Lc 1,6). Tuy nhiên, có một điều là: “Họ lại không có con, vì bà Ê-li-sa-bét là người
hiếm hoi. Vả lại, cả hai đều đã cao niên.” (Lc 1,7). Chúng ta biết, theo quan niệm của người Do
Thái, người không có con là người vô phúc. Có lẽ, điều này cũng giống với quan
niệm của người Á Đông chúng ta. Theo nhà Nho, trong ba điều bất hiếu, thì việc
không để lại con cái để nối dõi tông đường là điều bất hiếu lớn nhất.
Chưa hết, đối với người Do-Thái, không
có con, không chỉ là người vô phúc mà còn được coi là người bị Thiên Chúa chúc
dữ. Như vậy, sự “công chính” của hai ông bà như Tin Mừng nói ở trên, cần phải
được “xem lại”. Nếu là người công chính, tại sao lại không có con? Sự đau khổ
vì không con này, đã trở thành như một “vết cắt” vào trái tim hai ông bà. Thế
nhưng, Tin Mừng không nói đến một lời kêu ca hay trách móc của hai ông bà, trái
lại, họ vẫn một mực trung thành và chu toàn bổn phận của mình. Thế nên, chúng
ta có thể hiểu được, việc Thiên Chúa ban cho hai ông bà một mụn con trong hoàn
cảnh như thế, quả là điều lớn lao và hạnh phúc cho hai ông bà là thể nào.
Trước Gioan Tẩy Giả, Kinh Thánh cũng
đã nói tới một vài trường hợp, những đứa trẻ được sinh ra cách lạ lùng, hay
đúng hơn, chúng được sinh ra do sự can thiệp của Thiên Chúa, như trường hợp của
Tổ phụ I-sa-ác, Thủ lãnh Sam-son, Ngôn sứ Sa-mu-en… Như vậy, việc Gioan Tẩy Giả
ra đời, không phải là một sự tình cờ ngẫu nhiên, nhưng bởi ý định nhiệm màu của
Thiên Chúa. Như lời Chúa nói với ngôn sứ Giêrêmia trong Bài đọc thứ I hôm nay: "Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ,
Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt
ngươi làm ngôn sứ cho chư dân." (Gr 1,5).
Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu đã từng khẳng định: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính
Thầy đã chọn các con.” (Ga 15,16).
2. Khi Thiên Chúa đã chọn lựa ai, thì
Ngài sẽ ở cùng người ấy
Quả vậy, chúng ta có thể liệt kê được
hàng loạt những trường hợp như thế trong Cựu Ước, như trường hợp của Môsê, ngôn
sứ Amos… hay như Lời Chúa hứa với ngôn sứ Giêrêmia trong bài đọc thứ I: “Ngươi đừng sợ họ, vì Ta sẽ ở với người để bảo
vệ ngươi.” (Gr 1,8). Chúng
ta cũng có thể đọc lại lời Đáp ca được lấy từ Thánh Vịnh 70 mà Phụng
vụ trích đọc hôm nay: “Từ trong thai mẫu,
Chúa là Đấng bảo vệ tôi”. Thử hỏi, có niềm vui nào bằng niềm vui có
Chúa ở cùng.
Đối với Thánh Gioan Tẩy Giả, ngài
không chỉ được Thiên Chúa hứa sẽ ở cùng, mà ngay từ khi còn trong lòng mẹ, ngài
đã được Đấng Cứu Thế đến viếng thăm, qua việc thăm viếng của hai người mẹ là Đức
Maria và bà Êlisabét. Gioan đã thể hiện niềm vui của mình bằng việc nhảy lên
vui sướng.
3.
Sứ mạng của Gioan Tẩy Giả
Qua lời loan báo của Sứ Thần Thiên
Chúa, chúng ta biết được sứ mạng của Gioan Tẩy Giả: “Em
sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. Được đầy thần
khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng
cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo
chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa." (Lc 1,16-17).
Qua tất cả những lời rao giảng và việc
làm của Gioan Tẩy Giả, chúng ta có thể nói rằng, cuộc đời của ông đã nên ứng
nghiệm tất cả những gì mà Thần Sứ Chúa đã loan báo. Ông đã “đi trước mặt Chúa” bằng một đời sống
thanh khiết và chính trực. Ông đã “làm cho
lòng cha ông quay về với con cháu, làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo
chính đường ngay” qua những lời rao giảng đanh thép. Ông thà chết, chứ không thỏa
hiệp với thế lực sự dữ. Ông sẵn sàng lên án những gì là sai trái, bất kể người
đó là vua hay hoàng hậu. Và để sống cho trọn ơn gọi ấy, ông đã phải đánh đổi bằng
cả mạng sống của mình.
*
ĐẾN ƠN GỌI CỦA MỖI NGƯỜI CHÚNG TA
Kính thưa cộng đoàn, Khi suy ngắm về
cuộc đời và ơn gọi của Thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta cùng nhìn lại ơn gọi của mỗi
người chúng ta xem: Chúng ta đã sống ơn gọi của mình ra sao?
1.
Ơn gọi nào cũng đều phát xuất từ Thiên Chúa
Trước tiên, chúng ta phải khẳng định một
điều rằng: Ơn gọi nào cũng đều phát xuất từ Thiên Chúa. Thế nên, Ơn gọi không
chỉ dành riêng cho Môsê, cho Êlia, cho các ngôn sứ hay cho Gioan Tẩy Giả, mà
trong chương trình nhiệm màu của Thiên Chúa, mỗi chúng ta cũng được Ngài kêu gọi
một cách đặc biệt. Trong ý định của Thiên Chúa, mỗi người đều có một chỗ đứng đặc
biệt và không thể thay thế. Vì vậy, không thể nói, anh A quan trọng hơn anh B;
ơn gọi sống đời tu trì, quan trọng hơn ơn gọi sống đời hôn nhân… như lời bài
hát “Tâm điểm yêu thương” mà các bạn trẻ vẫn ca lên: “Người
thời trước, người thời sau; người trí thức, người bình dân; người sống đời tu,
người sống đời thường; dù là nữ hay là nam. Đều được gọi mời sống chứng nhân
tình yêu, lan tỏa vào đời những thiện ý, thiện tâm. Trở nên muối men, trở nên
ánh sáng. Giúp nhau nhận ra tình Chúa trong tình người”.
2.
Sống ơn gọi làm Kitô hữu hôm nay
Ơn gọi trở nên vị Tiền Hô của Gioan
không hứa hẹn cho ông một cuộc sống sung túc và dễ dãi. Vì muốn sống cho đến
cùng ơn gọi Ngôn sứ và Tiền Hô của mình, Gioan Tẩy Giả đã phải đánh đổi bằng mạng
sống. Người Công Giáo chúng ta hôm nay, nếu muốn sống triệt để ơn gọi “Kitô hữu”
của mình, chắc chắn, cũng sẽ không tránh khỏi những khó khăn, thử thách, thậm
chí cả những bách hại. Tuy nhiên, chúng ta xác tín rằng, khi đã trao ban nhiệm
vụ cho chúng ta, Thiên Chúa luôn hứa, Ngài sẽ ở cùng chúng ta. Như tâm tình của
tác giả Thánh vịnh 70 hôm nay: Có Chúa
là Đá Tảng, là chiến lũy bảo vệ đời tôi, tôi còn sợ gì ai nữa!
Mừng lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả hôm nay, chúng ta cùng cầu xin
Chúa qua lời chuyển cầu của thánh nhân, giúp chúng ta biết can đảm làm chứng
cho Chúa qua đời sống công minh, chính trực và sẵn sàng làm chứng cho sự thật,
cho dẫu có phải đánh đổi bằng mạng sống của mình.
Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên
Thứ bảy: Is 49,1-6; Cv 13,22-26; Lc 1,57-66.80
Kính trọng thể sinh nhật Thánh Gio-an Tẩy Gỉa
Cùng với GH, hôm nay chúng ta mừng kính trọng thể lễ Sinh Nhật Thánh
Gioan Tẩy Gỉa. Đây là dịp GH mời gọi chúng ta chiêm ngắm và suy niệm về cuộc
đời, sứ mạng cao quý mà Thiên Chúa đã trao phó cho Gioan Tẩy Giả.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức về ơn gọi
và sứ mạng cao quý mà Chúa đã trao ban cho ta nhân ngày chịu phép rửa, và xin
Chúa giúp mỗi người chúng ta biết nổ lực hoàn thành xuất sắc ơn gọi và sứ mạng
của mình, theo gương thánh Gioan Tẩy Gìa.
Chiêm ngắm và suy niệm về cuộc
đời của thánh Gioan Tẩy Gỉa, chúng ta nhận ra ngài là quả là một con người
“độc” và “lạ” hiếm thấy trên trần gian này.
Gioan Tẩy Gỉa là con người độc đáo.
- Sinh ra trong một gia đình đạo đức mà ông là người
con độc nhất, rất quý hiếm.
- Ngay từ trong bụng mẹ ông đã được Đấng Cứu Thế
đến viếng thăm chúc lành và được Đức Maria chăm sóc.
- Chỉ mình ngài là được GH mừng hai lần
trong năm. Kính nhớ ngày ông bị trãm quyết (19/08) và mừng kính trọng thể ngày
sinh nhật (24/06). Phụng vụ GH chỉ mừng sinh Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria và ngài.
Gioan Tẩy Gỉa còn là con người rất lạ.
- Được cưu mang và hạ sinh trong lúc ông Dacaria
và bà Elizabeth đã già nua, hết khả năng sinh sản. Ấy vậy mà Thiên Chúa đã làm
cho bà Elizabeth có thai và sinh con trai. Điều mà Dacaria không ngờ đến thì
Thiên Chúa đã làm điều lạ lùng trên vợ chồng ông. Nên bà con láng giềng đến chúc mừng và chia sẻ niềm vui lớn lao cùng ông bà và ai
nấy đều tự hỏi “con trẻ này rồi sẽ như thế nào?”.
- Cách sống của Gioan cũng lạ thường. Ngay từ
nhỏ ông đã vào hoang địa để sống ẩn tu. Ngài chỉ ăn châu chấu, uống mật
ong rừng và mặc áo bằng da thú. Mãi cho đến 30 tuổi, ngài mới rời bỏ hoang địa
bắt đầu thi hành sứ mạng loan báo Đấng Cứu Độ. Ngài không mệt mỏi kêu gọi người
ta ăn năn sám hối, để chuẩn bị lòng đón nhận Đấng Cứu Thế.
- Cái chết của Gioan cũng hết sức lạ lùng.
Chỉ vì can đảm nói lên sự thật về tội ác tài trời của vua Hê-rô-đê, bởi nhà vua đã cướp lấy người vợ của anh mình là bà Hê-rô-đi-a làm vợ nên Gioan đã bị thù ghết và bị bắt bỏ tù, sau đó nhận lấy cái chết trong ngày sinh nhật của vua Hê-rô-đê. Dưới sự chỉ đạo của bà Hê-rô-đi-a, người
đàn bà độc ác mà đầu Gioan đã rơi và được đặt trên cái dĩa dâng làm quà cho cô
con gái ngây ngô của bà là Sa-lô-mê nhân ngày sinh nhật của vua Hê-rô-đê.
Nhìn lại con người và cuộc đời của Gioan Tẩy
giả, chúng ta thấy ngài quả là một con người dám lội ngược dòng, can đảm sống
và minh chứng cho những giá trị cao quý của công lý. Ngài đã trở nên con người
“độc” là “lạ”, xứng đáng được mọi người mến phục và GH mừng kính, như lời xác nhận của Chúa Giêsu:
Xin Chúa cho chúng ta cũng biết noi gương Thánh Gioan Tẩy Gỉa, luôn sống trung thành với sứ mạng làm chứng và loan báo tin mừng cứu độ của Chúa bằng cách can đảm đứng về chân lý và lẽ phải. Nhất là anh dũng sẵn sàng hy sinh sống chết cho
những giá trị của Tin Mừng.
Thứ bảy thường niên: Mt 6, 24-34
Cuộc sống là một chuỗi những lựa chọn. Chọn đúng làm cho cuộc sống
ta được bình an và hạnh phúc. Chọn lựa sai sẽ làm cho đời ta bất an và đau khổ.
Chọn lựa là quyền tự do căn bản của con người. Quyền ấy đã được Thiên Chúa ban
tặng con người và luôn được Ngài tôn trọng. Vì thế, chúng ta phải chịu trách
nhiệm về sự lựa chọn của mình.
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải có sự chọn lựa
dứt khoát. Chọn đứng dưới cờ TC để phụng thờ Người hay đứng dưới cờ Satan để phụng sự Tiền Của thế
gian? “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét
chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em
không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.”
Đức Giêsu đã sống trong kiếp người, nên hơn ai hết Ngài hiểu rõ những
mối bận tâm lo lắng của chúng ta chính là nhu cầu vật chất. Tiền Của có một vị
trí to lớn trong đời sống chúng ta, đến nỗi nó hiển nhiên trở thành vị thần đầy
quyền lực, có sức hút mãnh liệt khiến chúng ta sẵn sàng chối bỏ Thiên Chúa để
lệ thuộc hoàn toàn vào nó.
Nhằm giúp chúng ta có được quyết định sáng suốt trong chọn lựa, Chúa
Giêsu mời gọi chúng ta hãy đặt trọn tin tưởng vào sự quan phòng yêu thương của
Thiên Chúa bằng cách “Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào
mà rút ra bài học. Chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho
anh em biết: ngay cả vua Solomon, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng
một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà
Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém
tin!”.
Hơn thế nữa, là những người con cái Chúa, đời sống chúng ta phải
khác và vượt trội hơn những người không có niềm tin. Nên mối bận tâm lo lắng
của chúng ta không phải là vật chất mau qua như dân ngoại tìm kiếm mà là giá
trị vĩnh cửu nước trời. “Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức
công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.
Xin cho chúng ta biết chọn Chúa là gia nghiệp và phụng thờ Người cách
xứng hợp với tâm tình yêu mến của những người con cái Chúa.
Xin cho chúng ta cũng luôn tin tưởng phó thác vào sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa; bởi ta tin rằng mỗi người trong chúng ta đều có vị trí đặt biệt và một giá trị quý giá trong trái tim của Chúa. Cho dẫu lắm khi ta phải hy sinh và thiệt thòi khi chọn Chúa, nhưng ta hãy tin chắc rằng, Chúa luôn yêu thương chăm lo và ban phát cho chúng ta những điều tốt đẹp nhất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét