SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XIX THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN A
1V 19,9a.11-13a; Rm 9,1-5; Mt 14,
22-33
Suy niệm 1: AN TÂM TIẾN BƯỚC VÌ
CÓ CHÚA Ở CÙNG
Cuộc đời chúng ta có lúc yên bình
nhưng lắm khi cũng gặp giông bão, khiến chúng ta cảm thấy sợ hãi bất an, nên rất
cần có Chúa ở bên để che chở, hướng dẫn. Có Chúa ở bên, thuyền đời của ta sẽ
dễ dàng vượt thoát được những sóng gió của biển trần mà cập bến bình an.
Những hình ảnh được đề cập trong đoạn Tin mừng hôm nay
giúp chúng ta hiểu rằng:
- Các môn đệ chính là mỗi người chúng ta.
- Con thuyền là biểu tượng của Giáo Hội.
- Biển khơi là hình ảnh của trần gian.
- Đêm tối, bảo tố, gió mạnh… là những thử thách do ma quỷ
gây ra.
Giống như các môn đệ
xưa, chúng ta đã bước vào con thuyền của Giáo Hội từ khi lãnh nhận Bí Tích
Thánh Tẩy. Cùng ở trong con thuyền Giáo hội, nên tất cả chúng ta đều đang hiệp
hành trên biển đời trần gian này.
Tựa như con thuyền của các môn đệ
bị sóng to gió lớn đánh dữ dội, thì ở mọi thời, mọi nơi, Giáo hội cách chung,
cách riêng thuyền đời của mỗi người chúng ta cũng phải đương đầu với
biết bao là chống đối, vu khống, bôi nhọ và loại trừ bởi những thế lực do ma quỷ
gây ra.
Ví như bóng đêm là những vết đen
đáng tiếc xảy ra trong Giáo hội; hay những đau khổ, thất bại và bất hạnh xảy
đến trong cuộc sống mình, làm cho niềm tin của chúng ta bị chao đảo, lắm khi mất
cả phương hướng sống.
Tương tự như tông đồ Phê-rô xưa, vì nghi
ngờ vào quyền năng của Chúa, khiến ông sợ hãi, sắp bị sóng biển nhấn chìm. Cuộc
đời của người Kitô hữu chúng ta cũng vậy, lắm khi đối mặt với những khó khăn,
đau khổ và thử thách…chúng ta cũng lo sợ, nghi ngờ vào quyền năng và tình
thương Chúa nên đánh mất đi niềm hy vọng sức mạnh ơn ban của Chúa, để rồi buông
mình chìm sâu vào dòng chảy của biển đời. Lời Chúa hôm nay như một lời cảnh tỉnh
cần thiết để ta ý thức hơn trong việc củng cố lại đức tin của mình.
Ước mong trong mọi hoàn cảnh, chúng ta luôn vững tin vào quyền
năng Chúa. Tin rằng Chúa Giêsu luôn hiệp hành nâng đỡ, bảo vệ và cứu giúp chúng
ta nếu chúng ta biết tin tưởng kêu cầu Người như tông đồ Phê-rô xưa: “Lạy
Thầy, xin cứu tôi”.
Xin Chúa ban thêm lòng tin
nơi chúng ta, để trong mọi thử thách, chúng ta vẫn luôn an
tâm vững bước vì tin rằng Chúa luôn đồng hành với ta trên mọi nẻo đường đời.
Suy niệm 2: ĐỪNG SỢ!
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta ý
thức về thân phận mỏng dòn, yếu đuối của mình để biết đặt tin tưởng phó thác
vào sức mạnh và tình yêu của Thiên Chúa. Hình ảnh con thuyền lênh đênh giữa biển khơi và
nỗi sợ hãi của các tông đồ, nhất là niềm tin yếu kém của Phêrô, chính là hình ảnh
minh họa rõ nét cho thân phận yếu đuối của mỗi người trong chúng ta khi phải đối
mặt với những phong ba bảo táo giữa biển trần đời này. Xin Chúa
nâng đỡ và củng cố niềm tin cho chúng ta để đừng bao giờ chúng ta nghi ngờ về
tình thương và quyền năng của Chúa trên cuộc lữ hành trần gian này.
Mới đây, tờ báo USA Weekend đã làm một cuộc thăm dò xem
người Mỹ có những mối lo sợ nào? Và đã nhận được những kết quả như sau:
54 phần trăm sợ bị đụng xe
53 phần trăm sợ bị ung thư
50 phần trăm sợ hết quỹ an sinh xã hội
49 phần trăm sợ không đủ tiền khi về hưu
35 phần trăm sợ bệnh già
33 phần trăm sợ là nạn nhân của những vụ hành hung
32 phần trăm sợ không đủ khả năng để trả nợ
Cả 3 bài đọc hôm nay cũng đề cập đến những nỗi sợ.
Bài đọc 1, trích Sách Các Vua Quyển Thứ Nhất,
nói đến nỗi sợ của ngôn sứ Ê-li-a, ông đã trốn chạy trước sự săn đuổi của vua
A-kháp và hoàng hậu Dê-za-ben, sau cuộc thách thức và chiến thắng 450 vị tư tế
của thần Ba-an. Trong hành trình trốn chạy ấy, ông đã được Thiên Chúa an ủi và
thêm sức bằng cách sai Thiên sứ mang bánh và nước cho ông ăn uống để ông khỏi
phải chết mà đủ sức lên đường tiến về núi Hô-rép, là núi thánh của Thiên Chúa.
Bài đọc 2, trích thư Thánh Phao-lô tông đồ
gửi cho tín hữu Rô-ma, thánh nhân đã nói lên khổ tâm và đau buồn của ngài vì sự
cứng lòng tin của những người Do Thái thuộc dòng tộc và đồng hương với ngài.
Nhưng trong nỗi lo buồn ấy, Thánh Phao-lô vẫn đặt niềm hy vọng vào Thiên Chúa
quyền năng và tình thương nơi Đức Kitô.
Bài Tin mừng của Thánh Mat-thêu, thì cho biết
tâm trạng đầy lo sợ của các môn đệ khi phải đối mặt với sóng to gió lớn khi phải
chèo chống con thuyền vượt biển đầy vất vả và gian nan giữa canh tư đêm tối.
Nhưng trong lúc lo sợ ấy thì Chúa Giêsu lại xuất hiện và đi trên mặt nước biển
mà đến với các ông, nhưng vì quá sợ hãi nên các ông tưởng là ma. Chúa Giêsu phải
lên tiếng chấn an các ông: “Thầy đây, đừng sợ!”. Như để xác định chắc
chắn là Thầy mình, ông Phê-rô đã xin cho được đi trên mặt nước biển đến với
Chúa : “nếu là Thày, thì xin cho con đi được trên mặt nước như Thầy”.
Và Chúa đã cho ông đi đến với Ngài, tuy nhiên, khi nhìn thấy sóng gió nổi lên,
ông lại sợ hãi vì kém lòng tin vào Chúa nên đã bị chìm dần xuống nước biển.
Trong lúc hoảng loạn ấy, ông đã tha thiết kêu xin Chúa cứu giúp, và Chúa đã ra
tay giải thoát ông lên thuyền an toàn. Nhìn thấy thế, các môn đệ đã tuyên xưng
niềm tin vững vào “Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.”
Như thế sứ điệp lời Chúa hôm nay, nhắc nhở chúng ta rằng,
trong bất cứ hoàn cảnh nào, Chúa cũng luôn hiện diện bên đời chúng ta, Người
không bao giờ để ta phải chống chọi với những thử thách quá sức chịu đựng. Những
thử thách là cần, bời đó chính là cơ hội thanh luyện đức tin của chúng ta thêm
dạn dày, giúp chúng ta thêm trung thành bước theo Chúa cách vững vàng hơn. Nếu
hiểu như thế, thì không chỉ có Phê-rô hay các môn đệ mới vượt biển đầy sóng gió
thành công và cập bến bình an mà cả chúng ta cũng có thể bước đi trên biển đời
đầy sóng gió này. Một vài ví dụ tiêu biểu:
- A là một sinh viên sống xa gia đình và ở nhà trọ. Sáng
Chúa nhật, trời lạnh, chăn ấm. A không muốn ngồi dậy đi lễ. Vả lại anh cũng ngại
bị những bè bạn ngoại đạo thấy anh đi lễ và chê cười anh còn mê tín dị đoan.
Sau vài phút dằng co, A cương quyết tung chăn ngồi lên chuẩn bị đi lễ. Nghĩa là
A bắt đầu bước đi trên mặt nước, bất chấp sóng gió của cơn mê ngủ và sự dị nghị
của bạn bè.
- B là một cô gái độc thân, sau một lần nhẹ dạ đã phải
mang thai. Nếu gia đình hay được, nếu hàng xóm biết được thì... ôi thôi, cô
không dám nghĩ tiếp. Cô định đi phá thai. Nhưng rồi cô can đảm giữ lại bào thai
ấy. B cũng đang bước đi trên mặt nước bất chấp bao sóng gió phũ phàng của dư luận.
- C là một cảnh sát. Một tên bán ma túy hứa cho anh một số
tiền lớn, chỉ cần anh làm ngơ cho việc làm của hắn; nếu không hắn sẽ sai đồng bọn
đến tính sổ với anh. Nhưng anh cương quyết chối từ. C cũng đang đi trên mặt nước,
đi ngược với sức quyến rũ của đồng tiền và sóng gió của đe dọa.
Khi ngỏ lời với giới trẻ trong thánh lễ bế mạc đại hội giới
trẻ thế giới lần thứ 37, được tổ chức tại Lisbone, thủ đô của Bồ Đào Nha, từ
ngày 3-6/08/2023, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã chấn an mọi người là “đừng sợ!” Đức
Thánh Cha kêu gọi người trẻ hãy kiên vững đức tin trong một bối cảnh xã hội tục
hóa lãng quên Thiên Chúa. Một khi tin tưởng phó thác vào tình yêu quan phòng của
Chúa, người trẻ sẽ hăng say cộng tác xây dựng Giáo Hội của Chúa Ki-tô. Kết
thúc Đại Hội Giới Trẻ thế giới là một cuộc lên đường vĩ đại. Với chủ đề của Đại
Hội là “Đức Ma-ri-a vội vã lên đường.” (Lc 1,39), Đức Thánh
Cha mong ước mỗi người trẻ hãy là một chứng nhân đức tin trong đời sống hằng
ngày.
Có lần, một bạn trẻ hỏi Đức
Phan-xi-cô: “Thưa Đức Thánh Cha, làm sao chúng con có thể truyền giáo được?”.
Ngài trả lời: “Rất đơn giản. Các con hãy sống tốt trong gia đình và trong xã hội.
Những người xung quanh sẽ đặt câu hỏi: bạn là ai? Vì lý do nào mà bạn trung thực
và thân thiện như thế? Vậy là truyền giáo rồi!”.
“Thầy đây. Đừng sợ!” Đó cũng là lời Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta hôm nay, khi chúng ta đang phải đối đầu với cuộc khủng hoảng kinh tế, khi sức khoẻ của chúng ta đang suy giảm, khi một người thân đang bị dày vò vì bệnh tật, hay khi con cái ở tuổi niên thiếu đang khiến chúng ta phải điên đầu. Đừng sợ! Hãy vững dạ, vì giữa những sóng gió ba đào của cuộc sống, chúng ta luôn có Chúa Kitô đồng hành và ở cùng chúng ta. (St)
Suy niệm 3: ĐÃ TIN VÀ CHƯA TIN
Sống là một hành
trình tìm kiếm liên lỉ, tìm kiếm hạnh phúc và ý nghĩa tối hậu cuộc đời.
Có bao nhiêu con người
thì có bấy nhiêu cuộc hành trình. Với người Kitô hữu, hành trang cuộc đời không
gì khác hơn là đức tin. Đức tin là kim chỉ nam, là bảng chỉ đường hướng dẫn
chúng ta đi tới đích điểm cuộc đời.
1. Tin là gì?
Vậy đức tin có nghĩa
là gì? Sách Giáo lý Công Giáo mới có một định nghĩa rất vắn gọn: “Tin
là lời con người đáp trả lại Thiên Chúa, Đấng tự mạc khải và hiến mình cho con
người, khi ban ánh sáng chứa chan cho con người đang đi tìm ý nghĩa tối hậu của
cuộc đời mình” (số 26).
Tin không phải là tin
vào một cái gì, vào một học thuyết, một ý thức hệ, một số lề luật, nhưng tin
chính là gắn bó, là gặp gỡ, là bước theo một Con Người, và để Con Người đó hướng
dẫn ta, chỉ cho ta biết đâu là hạnh phúc đích thực và ý nghĩa tối hậu cuộc đời.
Con người đó có tên là Đức Giê-su Na-da-rét. Như thế tin là sống với, sống như,
sống cho Đức Ki-tô và cùng với Người bước đi trong cuộc đời này.
2. Những sóng gió của
Đức tin
Nhưng sống niềm tin
vào Đức Kitô trong bối cảnh của ngày hôm nay đang gặp sóng gió mà Lời Chúa hôm
nay nói tới với những hình ảnh đầy tính biểu tượng. Nếu
“biển” là biểu tượng của cuộc đời này, thì sóng gió là những thử thách và trở
ngại của con thuyền Đức tin.
Tin Mừng cho chúng ta
thấy rằng: Các môn đệ và nhất là Phê-rô là những người “đã tin mà vẫn chưa
tin,” đã tín thác mà vẫn còn hoài nghi ngờ vực, khi họ phải đối diện với sóng
gió cuộc đời. “Thấy Chúa đi trên biển, họ hoảng hồn mà nói rằng: Ma kìa!”
Đúng là những người kém tin, nên mới “nhìn gà hóa cáo” thôi. Trước những khó
khăn, họ không còn nhận ra sự hiện diện và quyền năng của Chúa nữa!
Nhìn vào các Tông Đồ
để chúng ta cũng soi bóng mình và thấy mình ở trong đó. Các Tông Đồ, Phê-rô và
chính mỗi người chúng ta, là những người đã tin mà vẫn chưa tin.
Ngày hôm nay, chúng
ta đang bị thử thách bởi một nền văn hóa vắng bóng Thiên Chúa (nhiều người thấy
Chúa tưởng là ma, thấy ma tưởng là thiên thần, thấy thiên thần tưởng là quỷ dữ,)
một nền văn hóa đề cao tiền bạc, tính dục, và hưởng thụ cá nhân. Sự hấp dẫn của
chúng đã khiến nhiều người bỏ Chúa để chạy theo những lối sống dễ dãi, thực dụng
và vì cái lợi trước mắt mà quên nhân phẩm và đạo lý của mình.
Cũng như các môn đệ,
khi bình an, thành công, thì chúng ta dễ dàng tin Chúa, đến với Chúa, nhưng những
khi hoạn nạn, thất bại thì chúng ta thất vọng, bỏ Chúa, không cầu nguyện và đến
nhà thờ nữa, như bài thơ ‘Dấu Chân Trên Cát’ diễn tả: Khi
bình an yên ổn thì con nhận ra dấu chân Chúa bên cạnh dấu chân con; lúc con đau
buồn cô đơn, con chỉ thấy dấu chân con trên cát. Nhưng Chúa trả lời: Chính lúc
đó Ta đang ẵm bồng con!
3. Cần một đức tin
mang tính cá vị
Trước những thử thách
của cuộc sống, mỗi người chúng ta phải có một đức tin mang tính cá vị vào Đức
Kitô. Có nghĩa là đức tin đó phải dựa trên một xác tín, một chọn lựa và dấn
thân riêng của tôi để sống gắn bó với Chúa mỗi ngày. Dù có nhiều lối rẽ, cám dỗ
mời mọc hấp dẫn, tôi vẫn xác tín rằng: Chỉ có Chúa mới mang lại cho tôi ý nghĩa
cuộc đời và hạnh phúc bền vững. Dù có bị thử thách, bị chao đảo, nhưng tôi xin
chọn “Chúa là gia nghiệp của riêng mình.” (x. Tv 33,12b), tôi vẫn bám lấy
Chúa, trung thành với Chúa cho đến cùng. Đức tin như thế là cuộc gặp gỡ mang
tính cá vị với Đức Giêsu, chỉ có đức tin đó mới giúp chúng ta vững vàng trước
sóng gió cuộc đời và chỉ có đức tin đó mới giúp chúng ta khám phá sự hiện diện,
dấu chân và cánh tay yêu thương của Chúa trong cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa, con thuyền
đức tin của chúng con đang bị sóng gió cuộc đời vùi dập, xin Chúa ban cho chúng
con có một đức tin sống động, mang tính cá vị và biết tỉnh thức, để dù có phải
trải qua những thử thách, chúng con vẫn trung kiên theo Chúa đến cùng. Xin cho
cặp mắt đức tin của chúng con luôn sáng ngời để nhận ra sự hiện diện của Chúa
trong đời chúng con. Amen!
ĐCV Thánh Phanxicô Xaviê - Nghệ An
Thứ hai: Đnl 10,12-22; Mt 17, 22-27
Nhớ Thánh Mác-xi-mi-li-a-Kôn-bê, linh
mục, tử đạo.
Suy niệm 1:
Điểm nhấn của bài Tin mừng hôm nay để
cập đến những bổn phận của người Kitô hữu đối với Giáo hội và xã hội trần thế.
Sách Xuất Hành ấn định: “Tất cả các đàn ông Do
Thái 20 tuổi trở lên, phải có nhiệm vụ đóng thuế Đền Thờ, mỗi năm 1/2
shekel”. (x. Xh 30,13). Đây được xem như là nhiệm vụ cao cả của đàn
ông Do Thái giáo. Đức Giêsu là người đàn ông Do Thái, nên Người cũng luôn ý thức
nghĩa vụ cao quý ấy. Tuy nhiên, xét cho cùng thì trường hợp của Chúa Giêsu là
ngoại lệ vì hai lý do:
Thứ nhất vì Ngài là Con Thiên Chúa. Thứ hai vì Đền
Thờ là nhà của Thiên Chúa nên cũng là nhà của Ngài. (x. Lc 2, 49). Mà dựa trên
nguyên tắc “vua chúa trần gian chỉ thu thuế má người ngoài”,
còn “con cái được miễn”, thì Chúa Giêsu được chuẩn miễn vì Người
là Con TC và đền thờ chính là nhà của Người. Tuy nhiên "để khỏi làm gai
mắt họ”, Chúa Giêsu đã sai ông Phêrô ra biển thả câu. Thật lạ lùng,
con cá mà Phêrô câu được trước hết, trong miệng nó lại ngậm một đồng tiền, trị
giá vừa đủ để nộp hai phần thuế cho Chúa Giêsu và cho Phêrô.
Qua sự việc lạ lùng này, Chúa Giêsu như hướng chúng ta đến
điều quan trọng hơn đó là phải ý thức chu toàn luật Giáo hội, cũng như những
quy định của xã hội, nếu những quy luật ấy không đi ngược lại với luật điều của
Chúa.
Xin cho chúng ta luôn ý thức chu
toàn tốt bổn phận tôn thờ và yêu mến Thiên Chúa; đồng thời cũng không quên nhiệm
vụ đóng góp công sức, tiền của để xây dựng GH và xã hội trần thế theo tinh thần
Phúc âm, hầu trở nên người công dân tốt và người Kitô hữu trưởng thành.
Suy niệm 2:
Cùng với GH, hôm nay chúng ta
kính nhớ thánh Mác-xi-mi-li-a-Kôn-bê, linh mục, tử đạo. Thánh nhân sinh
ngày 8 tháng Giêng năm 1894 tại Ba Lan. Người gia nhập dòng Anh Em Hèn Mọn và
thụ phong linh mục tại Rô-ma năm 1918, lúc 24 tuổi.
Nhận thấy sự thờ ơ tôn giáo là căn bệnh
nguy hiểm vào thời ấy. Nhiệm vụ của ngài là phải chiến đấu chống với căn bệnh
này nên đã sáng lập tổ chức “Đạo Binh Đức Maria Vô Nhiễm” với mục đích là chống
lại sự dữ qua đời sống tốt lành, siêng năng cầu nguyện, làm việc và chịu đau khổ.
Năm 1939, Đức Quốc
Xã xâm lăng Ba Lan. Thành phố Niepolalanow bị dội bom. Cha Kolbe và các tu sĩ
Phanxicô bị bắt, nhưng sau đó chưa đầy ba tháng, tất cả được trả tự do, vào
đúng ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Vào năm 1941,
ngài bị bắt một lần nữa. Mục đích của Đức Quốc Xã là thanh lọc những phần tử
tuyển chọn, là các vị lãnh đạo. Cuộc đời Cha Kolbe kết thúc trong trại tập
trung Auschwitz.
Vào ngày 31 tháng
Bảy 1941, có một tù nhân trốn thoát. Sĩ quan chỉ huy trại bắt 10 người khác phải
chết thay. Hắn khoái trá bước dọc theo dãy tù nhân đang run sợ chờ đợi sự chỉ định
của hắn như tiếng gọi của tử thần. "Tên này." "Tên kia." Có
những tiếng thở phào thoát nạn. Cũng có tiếng nức nở tuyệt vọng. Trong khi
10 người xấu số lê bước về hầm bỏ đói, bỗng dưng tù nhân số 16670 bước ra khỏi
hàng. "Tôi muốn thế chỗ cho ông kia. Ông ấy có gia đình, vợ con." Cả
một sự im lặng nặng nề. Tên chỉ huy sững sờ, đây là lần đầu tiên trong đời hắn
phải đối diện với một sự can đảm khôn cùng.
"Mày là ai?"
"Là một linh
mục." Không cần xưng danh tính cũng không cần nêu công trạng. Và Cha
Kolbe được thế chỗ cho Trung Sĩ Francis Gajowniczek.
Trong
"hầm tử thần" tất cả bị lột trần truồng và bị bỏ đói để chết dần mòn
trong tăm tối. Nhưng thay vì tiếng rên xiết, người ta nghe các tù nhân hát
thánh ca. Vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (15 tháng Tám) chỉ còn bốn tù
nhân sống sót.
Tên cai
tù chấm dứt cuộc đời Cha Kolbe bằng một mũi thuốc độc chích vào cánh tay. Người đã hiến dâng mạng
sống mình làm lễ toàn thiêu vì lòng bác ái ngày 14 tháng 08 năm 1941. Sau đó thân xác của
ngài bị thiêu đốt cũng như bao người khác.
Cha Kolbe đã được Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh vào năm 1981.
Xin nhậm lời thánh nhân chuyển cầu mà
giúp chúng con đem hết sức mình phục vụ anh em, để danh Chúa được vinh quang rạng
rỡ. Nhờ vậy, chúng con sẽ trở nên đồng hình đồng dạng với Con Một Chúa đến hơi
thở cuối cùng. (Lời nguyện nhập lễ)
Sách Xuất Hành ấn định: “Tất cả các đàn ông Do
Thái 20 tuổi trở lên, phải có nhiệm vụ đóng thuế Đền Thờ, mỗi năm 1/2
shekel.” (x. Xh 30,13). Đây được xem như là nhiệm vụ cao quý của những
người đàn ông Do Thái. Xét về mặt nhân tính, Đức
Giêsu cũng là người đàn ông Do Thái, nên Người cũng phải chu
toàn nghĩa vụ cao quý ấy. Tuy nhiên, xét cho cùng thì trường hợp của Chúa
Giêsu là ngoại lệ, bởi hai lý do:
Thứ nhất Ngài là Con Thiên Chúa; thứ hai vì Đền Thờ là
nhà của Thiên Chúa nên Đền Thờ là nhà của Ngài. (x. Lc 2, 49). Do đó
nếu dựa trên nguyên tắc “vua chúa trần gian chỉ thu thuế má người ngoài”,
còn “con cái được miễn”, thì Chúa Giêsu được chuẩn miễn, bởi
Người là Con TC và Đền Thờ chính là nhà của Người. Tuy nhiên “để khỏi làm
gai mắt họ”, Chúa Giêsu đã sai ông Phêrô ra biển thả câu. Thật lạ
lùng, con cá mà Phêrô câu được trước hết, trong miệng nó lại ngậm một đồng tiền,
trị giá vừa đủ để nộp hai phần thuế cho Người và cho Phêrô. Với việc
làm trên, Chúa Giêsu đã biểu lộ cho thấy về đức ái. Có những việc
không đòi buộc ta làm nhưng vì tránh gương mù gương xấu, tránh hiểu lầm ta cũng
nên thực hiện vì tình bác ái.
Có thể nói thánh Mác-xi-mi-li-a-Kôn-bê là người
luôn đặc đức ái lên hàng đầu: Vì yêu ngài đã sẵn sàng dâng mình cho Chúa
trong đời sống tu trì, yêu Chúa ngài đã chấp nhận mọi gian nan để đến Nhật
Bản để truyền giáo, hăng say loan báo đức tin Ki-tô giáo dưới sự chăm sóc và bảo
trợ của Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Vì lòng yêu mến Đức Mẹ và GH, ngài
đã sáng lập tổ chức “Đạo Binh Đức Maria Vô Nhiễm” với mục đích là chống lại
sự dữ qua đời sống tốt lành, siêng năng cầu nguyện, làm việc và chịu đau khổ. Hội
này đã được truyền bá rộng rãi cả ở quê hương của người lẫn ở nhiều miền khác.
Người đã đến Nhật Bản để truyền giáo, hăng say loan báo đức tin Ki-tô giáo dưới
sự chăm sóc và bảo trợ của Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Ngài cũng có con tim nhạy cảm, yêu thương và sẵn sàng hy
sinh mạng sống thay cho tù nhân Trung Sĩ Francis Gajowniczek, vì tù nhân ấy có gia đình,
vợ con. Có thể nói hành động đó của thánh nhân chính là hành động phát xuất từ
đức ái theo gương Chúa Giêsu.
Cái chết của Cha
Kolbe không phải là một hành động anh hùng bất chợt, bốc đồng vào giây phút cuối
cùng, nhưng là một quá
trình chuẩn bị lâu dài cho giây phút đó. Sự thánh thiện của ngài được thể hiện
qua niềm khát khao muốn hoán cải cả thế giới mà động lực là tình yêu của ngài
dành cho Chúa, cho Đức Mẹ Vô
Nhiễm và cho hết mọi người.
Suy niệm 3: KỲ DIỆU CỦA MỘT KÝ ỨC
“Con hãy ra biển thả
câu!”.
Năm 1884, một sinh
viên qua đời; sau đám tang, cha mẹ anh quyết định làm một điều gì đó để có một
ký ức về anh. Họ đến gặp hiệu trưởng Đại học Harvard. Charles Eliot hời hợt đón
đôi vợ chồng, “Có lẽ hai người nghĩ đến một học bổng?”; “Một thứ gì đó quan trọng
hơn!”, người phụ nữ đáp. Eliot không buồn nghe. Họ rời đi! Năm sau, hai người đến
một trường khác và thành lập một ‘đài tưởng niệm’ trị giá 26 triệu đô, mang tên
Đại học Leland Stanford Junior; ngày nay, nó được biết nhiều hơn với cái tên
Stanford!
Kính thưa Anh Chị em,
Eliot đã đánh mất một
cơ hội lớn, một ký ức không nhỏ của hai con người quảng đại! “Ký ức!”, đó cũng
là một trong những chủ đề của Lời Chúa hôm nay khi Phê-rô vâng lời Thầy “ra
biển thả câu”, một kỷ niệm nhỏ chuyên chở một sứ điệp lớn. Qua đó, Phê-rô sẽ
trải nghiệm sự ‘kỳ diệu của một ký ức!’.
Biết rằng, sau lần
tiên báo thứ nhất về cuộc khổ nạn của mình khiến các môn đệ xao xuyến, Chúa
Giêsu đã cho Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê chứng kiến cuộc biến hình của Ngài.
Hôm nay, sau lần tiên báo thứ hai về những ngày đen tối đó, Chúa Giê-su lại muốn
Phê-rô có thêm một trải nghiệm khác. Ngài bảo ông ra biển thả câu, lấy đồng tiền
trong miệng con cá đầu tiên câu được để nộp thuế; và quả đã xảy ra như vậy! Đây
là một trải nghiệm sẽ biến đổi Phê-rô tận căn; nhờ xác tín, Phê-rô sẽ chu tất sứ
mạng của mình đến cùng!
Có vô vàn cách để
Chúa Giê-su có một đồng tiền, nhưng Ngài lại muốn Phê-rô lui về nghề cũ để bắt
cá trong một trạng thái xao xuyến chưa từng có trước đây; để từ đó, ông có thêm
một ký ức tuyệt vời về Thầy mình. Chính sự ‘kỳ diệu của một ký ức’ này sẽ thay
đổi hẳn ông. Đây là một ký ức dứt khoát vốn sẽ xua tan nỗi sợ về tương lai chết
chóc của Thầy. Ân sủng của phép lạ cá nhân này sẽ giúp Phêrô vượt qua tất cả!
Trong thư thứ hai, Phê-rô sẽ quả quyết, “Chúng
tôi đã được chứng kiến nhãn tiền sự uy nghi của Ngài!”.
Qua bài đọc Đệ Nhị Luật,
Môsê cũng gợi lại cho dân những ký ức tuyệt vời Thiên Chúa đã thực hiện, Ngài
là “Đấng đã làm cho anh em những điều lớn lao và khủng khiếp mà chính mắt
anh em đã thấy đó!”. Môsê kêu gọi dân hãy phụng sự và yêu mến Ngài; để từ
đó, họ cất lời ca khen, “Giê-ru-sa-lem hỡi, nào tôn vinh Chúa!” như
lời Thánh Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Con hãy ra biển thả
câu!”. Phê-rô
đã vâng lời, ra biển thả câu, một công việc xem ra quá nhỏ; ấy thế, qua đó, ông
đã có một xác tín lớn về Thầy mình. Phê-rô không đánh mất cơ hội nên đã trải
nghiệm được sự ‘kỳ diệu của một ký ức’. Trong cuộc sống, bao lần chúng ta bỏ lỡ
những cơ hội vốn cũng có thể ghi đậm một ký ức, một ký ức có thể thay đổi cách
nhìn và cách sống của chính mình. Mỗi ngày, Thiên Chúa đang ghi vào lòng chúng
ta những ký ức lớn nhỏ; giá mà chúng ta không bỏ lỡ chúng nhưng đọc được các dấu
chỉ và ý muốn của Ngài! Với con mắt đức tin, chúng ta sẽ nhìn thấy những hành động
nhỏ bé của Ngài luôn chuyên chở những sứ điệp lớn!
Chúng ta có thể cầu
nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để
con phải đợi chờ những gì lớn lao! Cho con nhận ra sự chăm sóc của Chúa qua những
phép lạ nhỏ bé mỗi ngày, những phép lạ khả dĩ biến đổi con!”, Amen.
(Lm Minh Anh,
Tgp. Huế)
Thứ ba: Kh 11,19a; 12,1-6a.10ab; 1Cr
15,20-27; Lc 1,39-56
Kính Trọng Thể Lễ ĐỨC TRINH NỮ MARIA
LÊN TRỜI
Suy niệm 1:
Mừng kính trọng thể lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời hôm nay,
đem đến cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao. Bởi tin rằng mai sau chúng ta cũng
được về trời hưởng vinh phúc cùng với Mẹ. Vì cha mẹ có bao giờ quên con cái và
muốn xa rời những đứa con yêu quý bao giờ!
Tuy nhiên để được ở bên Mẹ trong niềm hạnh phúc thiêng
đàng, đòi hỏi ta phải sống xứng danh là con yêu dấu của Mẹ. Để trở nên con yêu
dấu Mẹ không gì khác hơn là chúng ta noi gương sống như Mẹ đã sống. Đó là sống
giới luật Tình Yêu mà Chúa đã dạy.
- Yêu Chúa: Đức Maria đã luôn lắng nghe và
thực hành lời Chúa truyền dạy: “ Vâng này tôi là nữ tì của Chúa, xin
Chúa làm cho tôi như lời sứ thần nói”. (Lc 1,38 ).
. Yêu Chúa: Mẹ đã chấp nhận những hệ lụy đau khổ xảy đến,
khi đón nhận cưu mang và sinh hạ Hài Nhi Giêsu.
. Yêu Chúa: Mẹ đã can đảm bước đi cùng với Con Mẹ là Đức
Giêsu trên mọi nẻo đường đời. Con đường ấy là đường hẹp và là con đường thập giá.
Nhưng đó là con đường dẫn đến sự sống đời đời. Như lời Chúa Giêsu đã
phán: “Ai muốn theo Ta, hãy tự bỏ mình vác thập giá mình mà theo
Ta….” (Mc 8,34).
- Yêu người: Mẹ đã sẵn sàng hiến dâng đời
mình cho Thiên Chúa để cộng tác với Thiên Chúa trong chương trình cứu độ nhân
thế.
. Yêu người: Mẹ đã không ngại chấp nhận gian khổ "vội
vả lên đường" thăm viếng và ở lại chăm sóc cho người chị họ Elizabeth trong
lúc sắp sinh nở. Quả là một hy sinh lớn lao!
. Yêu người: Mẹ đã nhận thánh Gioan (đại biểu nhân loại)
làm con Mẹ, cho dẫu trong hoàn cảnh đau khổ tột cùng dưới chân thập giá và
tương lai mịt mù.
Chính tình yêu là động lực giúp cho Đức Maria sẵn sàng từ
bỏ ý riêng, chấp nhận dấn thân hy sinh suốt đời để Phục vụ Chúa và dâng hiến
cho tha nhân.
Có thể nói hình ảnh người phụ nữ được thánh Gioan mô tả
trong sách Khải huyền hôm nay là hình ảnh tập chú về Đức Mẹ. Dẫu lộng lẫy, kiêu
sa xuất hiện trên trời nơi đền thờ Thiên Chúa cao sang. Nhưng bên cạnh đó, Mẹ
cũng phải đối diện với bao nguy hiểm của mãn xà hung ác là sự dữ. Như vậy, bên
cạnh hạnh phúc vinh quang nước trời, vẫn luôn có bóng dáng của đau khổ bởi sự dữ
đang trực chờ, cần phải vượt qua bằng sức mạnh của Tình yêu nhờ liên kết chặt
chẻ với Chúa Giêsu với niềm tin kiên vững vào quyền năng Thiên Chúa mới bay
cao, bay xa vào cỏi vinh quang sáng ngời.
Xin cho chúng ta biết noi gương Mẹ
Maria hằng gắn bó chặt chẻ với Chúa Giêsu để kín múc sức mạnh và sự sống nơi
Người, vì“nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống” (1Cr 15,22). Nhất là luôn biết chu
toàn giới luật Tình Yêu mà Chúa chỉ dạy qua việc tận tâm phục vụ tha nhân theo
gương Mẹ Maria, hầu xứng danh là con Mẹ và xứng đáng được Chúa ban thưởng hạnh
phúc nước trời. Xin Mẹ thương giúp chúng con!
“Hoa quả đầu mùa là Đức
Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Ngài!”.
Khi thi hài Lincoln
được đưa từ Washington về Illinois, nó đi qua đại lộ Albany. Một phụ nữ da đen
bên vỉa đường, nâng con trai của bà lên cao nhất có thể qua đầu đám đông; người
ta nghe bà nói, “Con yêu, mẹ ‘nâng con lên cao’. Hãy nhìn đi! Kìa, ông ấy đã chết
vì con!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Hôm nay, Mẹ Hội Thánh
cũng nâng bạn và tôi lên cao nhất có thể nhân ngày mừng Đức Maria Hồn Xác Lên
Trời, và như đang nói với mỗi chúng ta, “Con yêu, hãy nhìn đi, Giêsu, không chỉ
chết vì con nhưng còn ‘nâng con lên cao’ như đã nâng Maria, Mẹ của con lên!”.
Qua thư Côrintô hôm
nay, Phaolô xác tín, “Hoa quả đầu mùa là Đức Kitô, đoạn đến những kẻ
thuộc về Ngài!”. Maria thuộc về Chúa Kitô; tuy là Thánh Mẫu, nhưng Mẹ còn
là ‘Ái Nữ’ của Con. Maria đã dâng xác thân, linh hồn và trái tim cho Thiên
Chúa; vì thế, sau cuộc lữ hành trần thế, Mẹ được Ngài ôm trọn xác hồn đưa lên
hưởng nhan thánh Ngài. Hơn nữa, là một trong những môn đệ đầu tiên dự phần chiến
thắng phục sinh, Mẹ được vinh thăng với Con là điều phải lẽ. Bài đọc Khải Huyền
nói đến một phụ nữ sinh con, đã kết luận, “Con Bà được mang về cùng Thiên Chúa…
Bà được Thiên Chúa dọn sẵn cho một chỗ”. Như vậy, Mẹ Lên Trời là dấu chỉ phần
thưởng cho mọi kẻ thuộc về Chúa Kitô; để rồi ai ai cũng nói được rằng, “Chúa sẽ
‘nâng con lên cao’ như đã nâng Maria lên tận cung lòng Ngài!”.
Đức Bênêđictô 16 nói,
“Maria Hồn Xác Lên Trời là biến cố vui mừng và hy vọng cho toàn nhân loại; biến
cố này nói rằng, đích đến của cuộc lữ hành trần gian là cùng Mẹ, chúng ta chiến
thắng tuyệt đối trên tội lỗi và sự chết để bước vào hiệp thông trọn vẹn với
Chúa”.
Khi còn ở trần gian,
Mẹ Maria chỉ gần gũi một số người; giờ đây, dù là “Nữ Hoàng bên hữu Đức Vua”
như Thánh Vịnh đáp ca cho biết, Mẹ vẫn ở bên chúng ta, lắng nghe, cứu giúp; bởi
Chúa Giêsu đã trao tất cả chúng ta cho Mẹ. Qua Mẹ, Thiên Chúa chạm vào chúng ta
với tình mẫu tử! Mẹ lên trời nhưng rất gần chúng ta, Mẹ đang đồng hành và dìu dắt
chúng ta. Hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ và nhất là noi gương Mẹ, ngoan nguỳ với
Chúa Thánh Thần. Mẹ là hoa quả đầu mùa, rồi cũng đến lượt chúng ta; ngày kia,
trên thiên quốc, bạn và tôi sẽ thưa với Mẹ, “Cám ơn Mẹ, vì nhờ Mẹ, Chúa đã
‘nâng con lên cao!’”.
Anh Chị em,
“Hoa quả đầu mùa là Đức
Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Ngài!”. Lời đầu tiên của Mẹ, người thuộc về
Chúa Kitô, là “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa!”. Có lẽ chúng ta đã quá
quen với lời này, nên không còn để ý đến ý nghĩa của chúng. “Ngợi khen”, nghĩa
đen là “phóng to”, “làm cho lớn”. Maria đã “làm cho Thiên Chúa lớn”; không
thành vấn đề Ngài lớn bao nhiêu, nhưng Mẹ cảm thấy Thiên Chúa thật lớn và Ngài
phải vĩ đại hơn! Còn chúng ta, chúng ta thường làm cho Thiên Chúa nhỏ lại; bởi
lẽ, chúng ta thường để mình ‘choáng ngợp’ bởi những khó khăn và bị ‘hấp dẫn’ bởi
bao nỗi sợ! “Chúa Vĩ Đại” là tiền đề của Mẹ mà từ đó, Magnificat phát sinh,
không phải do không có vấn đề, nhưng nó phát sinh từ sự hiện diện của Chúa, Đấng
ở cùng, ở trong Mẹ, trong chúng ta, Đấng nâng bạn và tôi lên!
Chúng ta có thể cầu
nguyện,
“Lạy Mẹ Maria, giúp
con ngay hôm nay, biết nhìn vào Giêsu, yêu mến Giêsu và nên giống Giêsu! Ngài không
chỉ chết vì con nhưng còn nâng con lên tận cõi đời đời!”, Amen.
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Suy niệm 3: MẸ LÀ NIỀM HY VỌNG CỦA NHÂN LOẠI
Hôm nay, Giáo Hội mừng
đại lễ Đức Maria hồn xác về trời, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm vai trò của
Đức Trinh Nữ Maria trong lịch sử cứu độ. Quả thế, lễ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Truyền
Tin, Mẹ Thiên Chúa và Lên Trời là những mốc lịch sử nền tảng, liên kết với nhau
mà Giáo Hội tôn vinh và ngợi khen định mệnh vinh hiển của Mẹ Thiên Chúa, đồng
thời qua đó chúng ta cũng có thể đọc thấy lịch sử của chúng ta.
Mầu nhiệm thụ thai của
Đức Maria làm chúng ta nhớ lại trang đầu tiên Kinh Thánh, Thiên Chúa sáng tạo
con người một cách tốt lành, trinh khiết và đẹp đẽ. Ơn vô nhiễm của Đức Mẹ là
hình ảnh nguyên thủy của công trình sáng tạo.
Chương trình này đã bị
tổn thương vì tội lỗi, nhưng không bị phá hủy. Nhờ sự nhập thể của Con Thiên
Chúa trong lòng Đức Maria, chương trình cứu độ này được tái tạo và phục hồi để
đưa con người trở về làm con cái Thiên Chúa trong đức tin.
Cuối cùng, nơi biến cố
Đức Maria hồn xác về trời, chúng ta chiêm ngắm định mệnh mà chúng ta được mời gọi
để đạt tới qua việc bước theo Chúa Kitô, khi chúng ta kết thúc hành trình dương
thế này.
Chặng đường cuối cùng
của Mẹ Thiên Chúa trong cuộc hành trình dương thế mời gọi chúng ta học hỏi cách
thế mà Mẹ đã đi qua để đạt tới mục đích vĩnh cửu vinh hiển.
Trong đoạn Tin Mừng
hôm nay, thánh Luca kể lại: Sau khi thiên thần truyền tin, Đức Maria “đã
vội vã lên miền núi” để thăm bà chị họ Êlisabét (x. Lc 1,39).
Với những lời này,
tác giả Tin Mừng muốn nhấn mạnh rằng Đức Maria đã theo đuổi ơn gọi của mình
trong sự nhạy bén và ngoan ngùy với Chúa Thánh Thần, Đấng đã thực hiện trong
ngài mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Lời, nghĩa là Mẹ đã thực hiện một con đường mới
và ngay lập tức Mẹ phải ra khỏi nhà mình, để cho mình được hướng dẫn theo một
hành trình mới do chỉ mình Chúa mà thôi.
Thánh Ambrôsiô khi
chú giải về sự “vội vã” của Đức Maria, đã nói rằng: “Hồng ân Chúa Thánh Thần
không cho phép ai được chậm trễ.” Cuộc đời của Đức Mẹ luôn được hướng
dẫn bởi một Đấng khác: “Vâng, tôi đây
là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38).
Cuộc sống này được
đào luyện bởi Chúa Thánh Thần, được đánh dấu bởi những biến cố và những cuộc gặp
gỡ, như biến cố gặp gỡ bà Êlisabét, nhưng trên hết nhờ vào tương quan đặc biệt
với Chúa Giêsu Con Mẹ. Đó là một hành trình mà Đức Maria càng ngày càng ý thức
sâu xa ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa Cha cho việc cứu độ của thế giới.
Như thế, nhờ việc bước
theo Chúa Giêsu từ Bêlem đến cuộc lưu đày trốn sang Ai Cập, và cả trong đời sống
ẩn dật cũng như công khai, đặc biệt ở dưới chân thập giá, Đức Maria luôn hướng
lòng về Thiên Chúa với tâm tình của kinh Magnificat, Mẹ hoàn toàn gắn bó và dấn
thân cho chương trình yêu thương của Thiên Chúa, dẫu có những lúc đen tối và
đau khổ, Mẹ luôn nuôi dưỡng trong trái tim mình sự phó thác hoàn toàn trong tay
Chúa để trở nên kiểu mẫu cho các tín hữu trong Hội Thánh (x. Lumen Gentium,
64-65).
Toàn bộ cuộc đời Mẹ
là hướng thiên, là chiêm niệm, vâng phục, tin tưởng và hy vọng, dẫu phải đối diện
với tối tăm thử thách; toàn bộ cuộc đời Mẹ được đánh dấu bởi “sự vội vã thánh
thiện” mà Mẹ luôn dành cho Thiên Chúa sự ưu tiên và không có gì cần phải “vội
vã” hơn ngoài Người trong sự hiện hữu của chúng ta.
Và cuối cùng, Mẹ Lên
Trời nhắc nhở chúng ta rằng cuộc đời của Đức Maria giống như cuộc đời của mọi
tín hữu, là một hành trình của việc bước theo Chúa Giêsu, một hành trình có một
định hướng rất quý giá, một tương lai được vạch ra rõ ràng: Đó là chiến thắng
chung cuộc trên tội lỗi, sự chết và hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa, bởi vì
như thánh Phaolô nói trong thư gửi tín hữu Êphêsô: Chúa Cha “đã cho
chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep
2,6).
Điều này có nghĩa là
với Phép Rửa, chúng ta căn bản đã được sống lại và được ở với Chúa Giêsu Kitô,
chúng ta đã bắt đầu sự sống này ngay tại thế rồi. Tuy nhiên, trong chúng ta, sự
kết hợp với Chúa Kitô Phục Sinh chưa thực sự trọn vẹn. Đối với Đức Maria, Mẹ đã
được kết hợp với Con Mẹ cách hoàn hảo khi Mẹ được đưa lên trời cả hồn cả xác. Mẹ
đã trọn vẹn hiệp thông với Thiên Chúa, với Con mình; Mẹ lôi kéo chúng ta hướng
về định mệnh đó và đồng hành với chúng ta trong hành trình dương thế.
Vì thế, nơi mầu nhiệm
Đức Maria hồn xác lên trời, chúng ta chiêm ngắm Mẹ được Thiên Chúa ban cho một
đặc ân cao quý là được chia sẻ chiến thắng chung cuộc của Chúa Kitô, cả hồn lẫn
xác, trên tội lỗi và sự chết. Công Đồng nói: “Khi kết thúc
hành trình dương thế, Đức Đồng Trinh Vô Nhiễm được đưa lên trời vinh hiển cả hồn
cả xác… và Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương mọi loài, Mẹ được hoàn toàn nên giống
với Con Mẹ, là Chúa các chúa (x.
Kh 19,16) và là người chiến thắng tội lỗi và sự chết” (LG, 59).
Trong mầu nhiệm Đức
Maria hồn xác lên trời, chúng ta chiêm ngắm sự đăng quang của đức tin và hành
trình đức tin mà Mẹ vạch ra cho Giáo Hội: Đấng mà trong mỗi giây phút đã đón nhận
Lời Chúa, được đưa về trời. Nói cách khác, Mẹ đã được Chúa Con đón nhận vào
“nơi hạnh phúc.” Đó là nơi mà Chúa cũng chuẩn bị cho chúng ta nhờ cái chết và sống
lại của Người (x. Ga 14,2-3).
Đời sống con người
trên trần gian như bài đọc I nhắc nhở là một hành trình phải liên lỉ đối diện với
những khó khăn thử thách giữa con rồng đỏ và người phụ nữ, giữa tốt và xấu. Đây
là tình trạng lịch sử nhân loại, giống như một cuộc vượt biển, thường có bóng tối
và sóng gió đe dọa. Đức Maria là Ngôi Sao Mai hướng dẫn chúng ta về với Chúa
Giêsu, Con Mẹ như “mặt trời đã mọc lên trên bóng tối của lịch sử” (x. Spe
Salvi, số 49) và cho chúng ta niềm hy vọng mà chúng ta đang cần: Niềm hy vọng
chúng ta có thể chiến thắng; niềm hy vọng về Thiên Chúa chiến thắng. Chúng ta
không chết một cách mãi mãi: Thiên Chúa sẽ cứu độ chúng ta.
Đây là niềm hy vọng của
chúng ta: Sự hiện diện của Thiên Chúa với chúng ta trở thành cụ thể và hữu hình
trong Đức Maria lên trời. Kinh Tiền Tụng của đại lễ nói rằng:
“Đức Đồng Trinh mà Chúa đã thực hiện, đã chiếu tỏa
như một dấu chỉ của hy vọng và niềm an ủi cho dân Người trên hành trình dương
thế.”
Chúng ta hãy cầu khẩn
Mẹ cùng với thánh Bênađô, một nhà thần bí đã ca ngợi Đức Nữ Đồng Trinh với những
lời ca này: “Chúng con cầu xin Mẹ, hỡi Đấng được chúc phúc, vì ân
sủng Mẹ có và quyền năng Mẹ được ban, vì lòng Thương Xót Mẹ mang, nhờ Mẹ mà Con
Chúa đã hạ mình xuống để chia sẻ sự bần cùng và yếu hèn của chúng con, nhờ lời
cầu bầu của Mẹ, xin làm cho chúng con cũng được chia sẻ ân sủng của Ngài, trong
hạnh phúc và vinh quang đời đời, là Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ, cũng là Chúa chúng
con, Đấng vượt trên mọi sự, là Thiên Chúa tốt lành muôn đời. Amen!”
ĐCV Thánh Phanxicô
Xaviê - Nghệ An
http://nguoinguphu.blogspot.com/
Suy niệm 4: LỄ ĐỨC MARIA HỒN XÁC LÊN TRỜI
Tín điều Đức Maria hồn
xác lên trời được Đức Piô XII long trọng tuyên tín trên ngai toà Phêrô. Không
phải đợi đến nửa thế kỷ XX Mẹ Hội Thánh mới tin nhận điều này nhưng nó đã được
sống, và tin nhận đã từ lâu tuy chưa trở thành tín điều buộc phải tin cách
chính thức cho toàn thể Hội Thánh. Mẹ được Chúa ân thưởng về trời cả hồn lẫn
xác. Cái vấn nạn là ở chữ “xác”. Nếu tuyên bố rằng linh hồn Mẹ lên thiên đàng
thì đâu có vấn đề và cũng chẳng ai bàn luận làm gì. Ở đây tín điều lại bao hàm
cả cái “thân xác” của Mẹ. Thân xác nhân loại chúng ta đã từng một thời gian rất
dài bị hẩm hiu số phận dưới cái nhìn của nhị nguyên thuyết. Nói đến xác thịt là
như nói đến cái gì đó xấu xa phải chê, phải ghét. Nghe đến hai chữ xác thịt là
ta dễ liên tưởng đến xu hướng “hạ đẳng” luôn kéo ta đi xuống. Một ai đó khi được
nhắc nhớ về lỗi lầm đã vấp phạm thì thường dễ biện minh: “Tính xác thịt mà”. Vậy
ta phải nhìn thân xác như thế nào đây?
Con người là hữu thể
xác hồn duy nhất. Tôi là hồn xác này. Xác hồn liên kết mật thiết không thể tách
biệt mặc dù có thể phân biệt. Bất cứ hành vi nào của ta xét như là hành vi nhân
linh đều có sự tham gia của hồn lẫn xác. Lập công thì cũng cả xác lẫn hồn và phạm
tội cũng cả hồn lẫn xác.
Thân xác là cánh cửa
giúp con người giao tiếp với giới tự nhiên, với tha nhân và với cả Thiên Chúa.
Để thực thi công trình cứu độ, Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm. Khi đi rao giảng
Tin mừng, Người sử dụng thân xác mình để giáng phúc thi ân cho kẻ què đi được,
người câm nói được, người mù được thấy, kẻ chết sống lại…. Và đỉnh cao của tình
yêu mà Đức Kitô tỏ bày cho nhân loại là trao ban chính Máu Thịt của Người. Một
thân xác trần trụi, chẳng còn hình tượng người ta nữa trên thập giá với Trái
Tim bị đâm thâu là dấu chỉ tình yêu đến cùng của Đấng Cứu Độ. Và để tiếp tục hiện
tại hóa hồng ân cứu độ theo dòng thời gian Chúa Kitô đã thiết lập bí tích Thánh
Thể để nhân loại được hiệp thông với chính Máu Thịt của Người.
Tôn vinh Mẹ Maria qua
mầu nhiệm Mẹ được Chúa ân thưởng về trời cả hồn lẫn xác, chúng ta không chỉ nói
lên niềm tin vào tình yêu của Thiên Chúa, không chỉ nói lên tính quy luật của
tình yêu là sự trọn vẹn mà còn khẳng định phẩm giá của thân xác do Thiên Chúa tạo
dựng. Mọi sự Thiên Chúa dựng nên đều tốt đẹp. Đặc biệt là cái thân xác con người,
một “sản phẩm” mà Thiên Chúa xem ra phải tốn công mất sức nhiều như hình ảnh
sách Sáng Thế mô tả: Thiên Chúa phải dùng tay để nặn và thổi hơi vào trong khi
mọi thứ thì người chỉ phán một lời.
Tín điều Mẹ lên trời
cả hồn lẫn xác mời gọi ta xác tín: Mẹ Maria đã cộng tác vào ơn cứu độ và đón nhận
ơn cứu độ bằng cả xác hồn thì việc mẹ được ân thưởng cả xác hồn là điều tất yếu.
Tình yêu đòi hỏi sự
trọn vẹn và hài hoà cả xác lẫn hồn: Vị Cha chung của Hội Thánh, Đức Bênêđictô
XVI nhận định trong thông điệp Thiên Chúa Là Tình Yêu: “Tình yêu giữa người nam
và người nữ, trong đó hồn xác kết hợp bất khả phân ly mở ra cho con người một lời
hứa hạnh phúc dường như không cưỡng lại được có lẽ là kiểu mẫu của tình yêu;
bên cạnh tình yêu này thoạt nhìn một hình thức khác của tình yêu (phụ nữ, mẫu tử,
bằng hữu,…) như mờ nhạt đi” (số 2).
Chính vì thế khi yêu
là yêu cả con người trọn vẹn. Xin đừng quá chú trọng việc cứu rỗi linh hồn mà
chểnh mảng các nghĩa cử yêu thương cả về phần xác. Thánh Giacôbê Tông Đồ trách
cứ những người chỉ biết chúc lành cho người nghèo mà không giúp họ chút gì cả về
vật chất để lo cho thân xác họ. “Giả như có người anh em hay chị em
không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày mà anh em lại nói với họ: Hãy
đi bình an… nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có
ích lợi gì?” (Gc 2,15-16).
Ngược lại xin cũng chớ
đề cao quá mức những chăm sóc về phần xác kiểu luận lý: “Có thực mới vực được đạo”.
Trong việc thờ phượng, yêu mến Chúa cũng tương tự. Hãy cẩn trọng với những lối
biện minh cực đoan, một chiều như “đạo tại tâm”, hoặc trích lời Chúa Giêsu cách
có dụng ý thiếu ngay thẳng là “thờ phượng Chúa trong tinh thần và chân lý”. Để
tham dự các cử hành Phụng vụ, lãnh nhận các Bí tích, Mẹ Hội Thánh nhắc nhớ
chúng ta một trong các điều kiện bình thường đó là sự hiện diện bằng thân xác.
Không thể xưng tội qua điện thoại hay tham dự Thánh lễ Chúa Nhật qua vô tuyến
truyền hình cách thành sự.
Cần phải loại bỏ cái
nhìn phiến diện và tiêu cực về thân xác. Làm sao có thể tồn tại thái độ chê
ghét thân xác, các thực hành đạo đức làm tổn hại sức khoẻ… trong khi chúng ta vẫn
tuyên xưng: “Tôi tin xác loài người ta sẽ sống lại?” Phải biết tôn trọng vai
trò, vị thế của thân xác. Chúng ta vốn quen với câu ngạn ngữ la tinh: “Một tinh
thần tráng kiện trong một thân xác khỏe mạnh”. Hãy biết tận dụng những thế mạnh,
những ưu điểm của thân xác chúng ta để yêu thương và phục vụ tha nhân thiết thực
và hiệu quả hơn. Hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi chính thân xác chúng ta. Hãy dùng
chính thân xác cùng với các khả năng của nó để làm sáng danh Chúa. Biết tận dụng
mọi tiến bộ khoa học để có được một thân xác khoẻ, đẹp, duyên dáng ở mức độ có
thể, quả là điều nên làm và đáng làm, dĩ nhiên là với một linh hồn trong sáng,
thánh thiện, trong nó.
Lm. Giuse Nguyễn Văn
Nghĩa-Ban Mê Thuột.
* Suy niệm mùa thường niên: Đnl 31,
1-18; Mt 18,1-5.10.12-14
Suy niệm 1:
Dưới trần gian tranh giành địa vị, chức quyền đã đành.
Trên trời mà còn tranh quyền đoạt lợi quả là một điều đáng trách. Thế mà các
môn đệ xưa kia lại đưa lối suy nghĩ trần tục ấy vào chốn vĩnh cửu, nên các ngài
không ngần ngại đặt vấn đề với Chúa:"ai là người lớn nhất trong nước trời".
Chúa Giêsu không trả lời ai là người lớn nhất trong Nước
Trời, nhưng Chúa cho biết cần phải có điều kiện như thế nào? để được vào Nước
Trời.
Điều kiện ấy chính là phải trở nên như trẻ nhỏ. Không phải
chúng ta hóa kiếp trở lại làm trẻ nhỏ, nhưng Chúa muốn chúng ta phải có tinh thần
trẻ nhỏ.
Vì trẻ nhỏ luôn thành thật, đơn sơ, trong trắng.
Chúa muốn chúng ta cũng hãy đơn sơ, thành thật, đừng mưu mô, lọc lừa… , cho dẫu
lắm khi sự thật làm ta phải chịu thiệt thòi, bị xem thường, bị hiểu lầm…
Vì trẻ nhỏ cảm thấy mình yếu đuối nên luôn tin tưởng phó
thác cậy dựa vào cha mẹ. Chúa cũng muốn chúng ta luôn tin tưởng tín thác và cậy
trông vào Chúa, nhất là những lúc chúng ta gặp phải gian nan, khốn khó.
Vì trẻ nhỏ luôn khiêm nhường biết mình
còn nhiều giới hạn nên không ngừng cố gắng trao dồi học hỏi những điều hay lẽ
phải từ người lớn. Chúa cũng muốn chúng ta biết khiêm tốn lắng nghe và học hỏi
lời Chúa trong Thánh kinh, qua các giáo huấn của GH, nhất là qua các biến cố xảy
ra trong cuộc sống hằng ngày.
Nói tóm lại, Chúa muốn chúng ta hãy sống tinh thần trẻ
thơ, mặc dù chúng ta mang thân xác của người lớn. Ai sống được tinh thần như thế,
mới xứng đáng được vào Nước Trời và là kẻ lớn nhất trong Nước Trời.
Chúng ta hãy luôn nhớ rằng: trước mặt Chúa, chúng ta chỉ
là những người con bé nhỏ. Không có Chúa, chúng ta chẳng làm được chuyện gì
nhưng nếu chúng ta có làm được chuyện gì đi nữa, thì tất cả cũng là nhờ bởi ơn
Chúa ban mà thôi.
Xin Chúa cho chúng con luôn biết phó
thác cả cuộc đời chúng con cho Chúa, như đứa bé đặt hết niềm tin yêu vào cha mẹ.
Để sau cuộc đời dương thế này, chúng con được quây quần bên Chúa, chung hưởng
niềm hạnh phúc viên mãn cùng các thánh tử đạo Việt Nam trong nước trời.
Suy niệm 2:
Phụng vụ lời Chúa hôm nay vẽ lên cho chúng ta biết được
chân dung đích thực của nhà lãnh chân chính theo ý muốn của Chúa. Đó là nhà
lãnh đạo có tinh thần khiêm tốn chân thành; tôn trọng tha nhân và nhất là biết
kiến tạo tinh thần hiệp nhất. (x. Mt 18,1-5.10.12-14).
Chân dung nhà lãnh đạo ấy chính là Mô-sê mà bài đọc I hôm
nay nói đến.
- Với tinh thần khiêm tốn, Môsê đã biết chấp nhận giới hạn
khả năng và sức khỏe của mình mà vâng phục thánh ý Thiên Chúa, sẵn sàng ở lại
bên đây sông Gio-đan, cho dẫu mong ước lớn nhất của ông là được lãnh đạo dân
chúng đặt chân lên miền đất hứa.
- Với tấm lòng thương yêu và tôn trọng con dân, Môsê hiểu
được nổi lo lắng của họ, cũng như của Giô-suê nhà lãnh đạo trẻ. Hiểu được hành
trình phía trước tuy ngắn ngủi, nhưng vẫn còn đó biết bao là gian nguy, nên Mô-sê
đã an ủi, động viên tinh thần họ với những lời lẽ hết sức cảm động và chân
thành..
- Với mong ước kiến tạo tinh thần hiệp nhất toàn dân, Môsê đã dùng
uy tín của mình mà nhắc nhở và kêu gọi tinh thần hiệp nhất trong cùng một đức
tin vào Thiên Chúa quyền năng theo sự hướng dẫn của Giôsuê.
Trãi qua 40 năm gian khổ với đầy những thử thách trong suốt
hành trình nơi sa mạc, Mô-sê hiều được tinh thần hiệp nhất dân tộc quý giá là
nhường nào. Chính nhờ sức mạnh đoàn kết một lòng, với niềm tin sắt son vào Đức
Chúa mà ông cùng toàn dân vượt thắng mọi hiềm nguy. Vì thế ông thiết tha kêu gọi
toàn dân hãy hiệp nhất trong Thiên Chúa.
Xin Chúa cho các nhà lãnh đạo, nhất những
người lãnh đạo các cộng đoàn Họ đạo, có được tinh thần khiêm tốn chân thành trước
Chúa và tha nhân; luôn biết hy sinh quên mình phục vụ trong tinh thần tôn trọng
và yêu mến. Nhất là biết tìm mọi cách để kiến tạo sự hiệp nhất yêu thương nơi cộng
đoàn mình phục vụ, theo gương của Mô-sê nhà lãnh đạo đẹp ý Chúa.
Thứ tư: Mt 18, 15-20
Đoạn tin mừng hôm nay ghi lại 3 lời giáo huấn của Chúa
Giêsu dành cho các môn đệ: 1 sửa lỗi huynh đệ, 2 tha
thứ cho nhau 3 và hiệp thông cầu nguyện. Những lời giáo này rất cần cho đời sống cộng đoàn.
1. Sửa lỗi huynh đệ. Lầm lỗi là chuyện thường tình của
con người “nhân vô thập toàn”. Nên sửa lỗi cho nhau là trách nhiệm của
mỗi người trong cộng đoàn, chứ không phải là việc làm tùy thích. Bởi lỗi
lầm cá nhân sẽ gây nguy hại đến người khác và làm sứt mẻ tình đoàn kết giữa các
thành phần trong cộng đoàn.
Tâm lý tự nhiên ai trong chúng ta cũng
ngại đến việc sửa lỗi. Bởi không khéo, ta sẽ bị người đời lên án là “ăn cơm
nhà vác tù và hàng tổng”, chẳng lợi lộc gì cho bản thân mà còn gây ra
lụy phiền cho mình cho người. Nhưng vì tình huynh đệ và vì ích lợi chung, đòi
buộc ta phải có bổn phận sửa lỗi cho nhau.
Vậy ta phải sửa lỗi thế nào để mang lại
kết quả tích cực? Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ dạy chúng ta phải
tiến hành cách tiệm tiến và tế nhị, đi từ kín đáo đến công khai; từ cá nhân đến
tập thể, theo các bước sau:
- Trước hết gặp riêng ngươi với nó: giữa
hai người (cá nhân với cá nhân). Nếu không có kết quả?
- Tiếp theo ta đem theo một hay hai
người làm chứng. (tạo nên sức mạnh và mang tính xác thực cho lời chứng). Nếu
cũng không nhìn nhận sai lỗi?
- Sau cùng đưa ra cộng đoàn Hội Thánh. “Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe thì kể nó như người
ngoại hay thu thuế.”
Tuy nhiên, trong bất cứ hoàn cảnh nào, ta phải luôn giữ
được tinh thần bác ái huynh đệ, với hy vọng giúp người có lỗi ý thức về sai lầm
của mình mà sửa đổi. Không chịu nghe cộng đoàn thì họ đã tự cô lập mình. Ta chỉ
còn phó thác họ cho lòng nhân từ của Chúa mà thôi.
2. Tha thứ cho nhau. Nếu lỗi lầm làm ảnh hưởng đến cộng
đoàn Hội Thánh, thì ta tiến hành từng bước như lời Chúa dạy trên. Nhưng nếu lỗi
lầm chỉ mang tính cá nhân, không gây nguy hại đến cộng đoàn Hội Thánh thì cách
hay nhất là ta hãy bao dung tha thứ mãi. Đó cũng là điều Chúa nói với
Phêrô: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ
mấy lần? Có phải đến bảy lần không? Chúa Giêsu đáp: “Thầy không bảo
con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.” (Mt 18, 21-22).
Và trong kinh lạy Cha, Chúa Giêsu cũng dạy ta biết rằng: ta chỉ được Chúa tha
thứ tội lỗi một khi ta biết tha thứ lỗi tội cho tha nhân. Vì thế mà tin mừng
hôm nay, Chúa Giêsu mới xác quyết với các môn đệ rằng: “những gì các con
tháo gỡ dưới đất, thì trên trời cũng tháo gỡ.”
3. Lời cầu xin hiệp nhất. Biết rằng, mục đích của việc sửa
lỗi và tha lỗi cho nhau trong đời sống là nhằm thức tỉnh người sai phạm để họ sửa
đổi mà trở về hòa nhập với cộng đoàn. Tuy nhiên đây là việc làm hết sức khó
khăn nên rất cần ơn Chúa. Vì thế mà Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta cần phải hiệp
nhất trong lời cầu nguyện.
Lời cầu nguyện hiệp nhất của cộng đoàn
rất có hiệu lực vì làm đẹp lòng Thiên Chúa và sẽ được Người đón nhận: "Thầy
lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất
cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó.”
Nếu tội lỗi làm chia rẽ thì sự cầu
nguyện là phương thế nối kết và hiệp nhất chúng ta lại với nhau trong Chúa. Vì
Chúa Giêsu chính là trung tâm nối kết mọi người trong cùng một đức tin. Bởi thế
mà ở đâu có “hai ba người tụ họp với nhau nhân danh Thầy, thì Thầy
ở giữa những người ấy.”
Xin Chúa cho chúng ta biết khiêm tốn
nhìn nhận mình còn nhiều thiếu sót lầm lỗi để đón nhận lời góp ý sửa lỗi chân
thành của tha nhân mà chấn chỉnh lại đời sống nên tốt đẹp hơn. Và cũng xin Chúa
cho chúng ta biết khôn ngoan áp dụng phương cách sửa lỗi do Chúa chỉ dạy để
giúp nhau chỉnh sửa đời sống sao cho phù hợp với thánh ý của Chúa, tạo nên sự
hiệp nhất và khả tin trong cộng đoàn hội thánh Chúa.
Thứ năm: Mt 18, 21-19,1
Có thể nói, tha thứ chính là đỉnh cao của lòng thương
xót. Thánh Tôma đã nói: “Tha thứ cho người khác là
thương xót họ, đó là việc to lớn hơn việc tạo dựng thế giới”. Thật
vậy, hành động cao quý nhất của con người để giống TC chính là sự tha thứ.
Nhưng thực tế cho thấy tha thứ không dễ chút nào: tha thứ 1 lần đã khó, huống
chi tha thứ hoài, tha thứ mãi như lời dạy của Chúa Giêsu trong bài Tin mừng
hôm nay, quả là khó hơn cả vượt sông sâu, leo núi cao hiểm trở. Bởi lẽ muốn tha
thứ đòi buộc ta phải vượt qua biển sâu của tự ái và leo khỏi núi cao của kiêu
căng, tự mãn.
Nhưng cho dẫu khó khăn như vượt đại dương mênh mông và
sâu thẳm, vậy mà dân Do Thái vẫn tiến qua giữa lòng biển Đỏ khô chân, đó mới là
điều lạ lùng! Vì đối với quyền năng Thiên Chúa thì mọi sự tưởng như không thể đều
trở nên có thể, nếu chúng ta biết tin tưởng và phó thác vào uy quyền của Người.
Hơn nữa để giúp ta vượt qua núi cao của kiêu căng, tự mãn
mà tỏ lòng bao dung tha thứ cho tha nhân, Chúa Giêsu còn khéo léo nhắc nhở
chúng ta về một đấng Thiên Chúa giàu lòng thương xót, hằng sẵn sàng tha thứ mọi
tội lỗi cho ta, cho dẫu rất nhiều lần ta xúc phạm đến Chúa nặng nề.
Thánh nữ Clara, ngoài việc hăng hái bước theo Chúa Giêsu
trên con đường khó nghèo dưới sự hướng dẫn của thánh Phanxico Assisi; ngài còn
có lòng bao dung luôn sẵn sàng tha thứ cho những người thân đã từng cản trở và
chống đối ngài tận hiến cho Chúa theo linh đạo nghèo khó.
Trong kinh lạy Cha, Chúa Giêsu còn đã
dạy chúng ta phải tha thứ cho nhau để được Chúa thứ tha. Xin Chúa cho chúng ta
có được tấm lòng thương xót của Chúa để ta cũng hết lòng tha thứ cho anh em
mình theo gương thánh nữ Clara, nhờ đó mà chúng ta mới xứng đáng được Chúa chúc
lành và ban ơn tha thứ. Amen.
Suy niệm 2:
Có thể khẳng định,
tha thứ chính là bản chất của Thiên Chúa và là đỉnh cao của lòng thương xót
Chúa.
Trong thời Cựu Ước,
biết bao lần dân Chúa phản bội, chạy theo các thần của dân ngoại, nhưng mỗi khi
dân biết sám hối quay trở về thì Ngài sẵn sàng tha thứ.
Sang thời Tân Ước,
Chúa Giêsu luôn dạy về sự tha thứ. Tin mừng hôm nay cho biết, khi Phêrô hỏi Chúa phải tha thứ bao
nhiêu lần, có phải bảy lần không? Chúa trả lời “Không phải là bảy lần
nhưng bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22). Không những Chúa Giêsu dạy sự
tha thứ mà chính Ngài đã thực hành sự tha thứ.
Ngài tha thứ cho Phêrô qua cái nhìn đầy trìu mến yêu
thương sau khi Phêrô chối Ngài ba lần.
Ngài tha thứ cho kẻ trộm lành trên thập giá.
Ngài tha thứ cho những người đóng đinh Ngài “Lạy
Cha xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu không hề nhắc tới tội của
Phêrô, tội bỏ trốn của các Tông đồ. Sự nghi ngờ của ông Tôma. Ngài tha thứ cho
họ tất cả.
Ngài tha thứ cho Phaolô khi ông trên đường đi lùng bắt
các kitô hữu.
Nếu Giuđa có lòng thống hối, chắc chắn Chúa cũng sẽ tha
luôn.
Ngài đã lập Bí tích Giao Hoà để tha thứ tội lỗi cho con
người mỗi khi con người phạm tội và biết thống hối ăn năn.
Trong cuộc sống
chung, chúng ta không thể tránh khỏi những va chạm, có những va chạm gây ra đổ
máu, chết chóc: Giữa các thành viên trong gia đình; giữa những người làng xóm
làng giềng với nhau; giữa bạn bè; giữa những người trong cộng đoàn; giữa những
người không quen biết; có những va chạm đến từ những người không cùng quan điểm,
tôn giáo với chúng ta, họ ghen ghét vì chúng ta là người kitô hữu...Nhưng trong
mọi trường hợp, Chúa và Giáo hội luôn mong muốn chúng ta phải thể hiện tinh thần
tha thứ.
Vậy mỗi người
chúng ta hãy cảm nghiệm lòng thương xót tha thứ của Chúa. Qua Bí tích Giao hoà,
biết bao lần Chúa đã tha thứ tội lỗi cho chúng ta. Từ đó, chúng ta đừng hẹp hòi
khi cần phải tha thứ cho anh chị em mình. Bởi vì: “Nếu chúng ta không
tha thứ lỗi lầm cho người khác, thì Cha chúng ta trên trời cũng sẽ không tha thứ
tội lỗi cho chúng ta” (x. Mt 6,15). Amen.
Thứ sáu: Mt 19, 3-12
Bất cứ xã hội nào, đất nước nào, tập thể nào, gia đình
nào… dù lớn hay nhỏ đều có những quy định và luật lệ của nó. Chính những quy định
luật lệ sẽ đem lại tính ổn định xã hội và bảo vệ quyền lợi cho con người. Tin mừng
hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với những người Biệt Phái về sự ràng buộc không
thể tháo gỡ trong đời sống hôn nhân “sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài
người không được phân ly”.
Luật hôn nhân không phải phát xuất từ định chế của con
người, nhưng xuất phát từ ý định của Thiên Chúa. Ngay từ khi tạo dựng con người
“Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế người đàn ông sẽ lìa bỏ
cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ trở thành một xương một thịt.”
(St 1, 24).
Đã là định chế do chính Thiên Chúa thiết lập (gọi là
Thiên luật) thì đòi buộc mọi người đều phải tuân giữ, còn nhân luật (là luật do
con người quy ước) thì có tính tương đối và sẽ bị điều kiện hoá bởi hoàn cảnh,
thời gian, không gian và cả truyền thống văn hoá… nên có thể thay đổi và cần được
thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh của thời đại. Vì luật của Thiên Chúa thì bất
biến, vì thế khi nhân luật và Thiên luật đòi buộc cùng lúc, ta cần phải
ưu tiên cho Thiên luật. Cho nên khi những người Pharisêu đề cập đến chuyện Môsê
cho phép ly dị, thì ngay lập tức Chúa Giêsu đã nói đến sự bất cập của nhân luật
và Người tái khẳng định lại sự bất biến mang tính bó buộc của Thiên luật về hôn
nhân là bất khả phân ly. (x.Mt 19,1-9; Mc 10,1-12).
Xin Chúa cho các đôi vợ chồng luôn ý
thức lời thề hứa chung thủy với nhau trong ngày thành hôn, và ban cho họ dồi
dào ơn thiêng để họ đủ nghị lực vượt qua những thách đố trong đời sống hôn nhân
và gia đình ngày hôm nay, mà trung tín mãi với nhau đến trọn đời.
Thứ bảy: Mt 19, 13-15
Tin mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu quan tâm cách đặc biệt
đến các trẻ nhỏ, là thành phần bị xã hội Do Thái bấy giờ xem thường và bỏ rơi.
Qua đó Ngài cũng muốn nhắc nhở chúng ta ngày hôm nay cũng hãy “cứ để trẻ
em đến với Thầy! Đừng ngăn cấm chúng,” Ngài còn quả quyết rằng: “Nước
Trời là của những ai giống như chúng."
Với lời nhắc nhở và quả quyết ấy: Trước hết, Chúa muốn nhắc
nhở bổn phận của xã hội là hãy tôn trọng quyền sống, cũng như những quyền lợi
chính đáng mà các em được hưởng. Tiếp đến, Chúa cũng nhắc nhở những người cha
người mẹ ý thức chu toàn tốt bổn phận của mình trong việc nuôi dạy con cái. Nên
nhớ điều quan trọng là tránh mọi hình thức gây nên gương mù, gương xấu làm ảnh
hưởng nguy hại đến tâm lý và thể lý của các trẻ nhỏ.
Cuối cùng, Chúa muốn tất cả chúng ta phải thấm nhuần và
thực hiện những đức tính cao quý nơi các em nhỏ đó là: tình yêu chân thành và
lòng trung tín sắc son.
Xin Chúa cho chúng ta học được nơi các trẻ nhỏ bài học của tình yêu chân thành trong sáng và lòng trung tín sắc son với Chúa và với nhau theo mẫu gương của Mẹ Maria mà hôm nay chúng ta kính nhớ, để ta xứng đáng được Chúa ban thưởng hạnh phúc nước trời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét