SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XX
THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN A
Is 56,1.6-7; Rm
11,13-15.29-32; Mt 15, 21-28
Suy niệm 1: NÉT ĐẸP TÂM HỒN
Trình thuật Tin mừng hôm nay để lại tâm trí chúng ta về hình ảnh của một
người phụ nữ tuyệt đẹp về đức tính, cách ứng xử và đức tin thật đáng trân quý.
Xin cho chúng ta biết học đòi bắt chước gương sáng của bà, để chúng ta cũng
được Chúa ban ơn và chúc phúc.
Nét đẹp của người phụ nữ cách chung và của người phụ nữ Á đông chúng ta
nói riêng, xưa nay luôn được nhân loại trân quý bởi những đức tính chịu thương
chịu khó, khiêm tốn hiền hòa và nhẫn nại. Nói như thế thì người phụ nữ
ngoại giáo được tin mừng hôm nay nói đến quả là tuyệt vời, vì hầu như bà có đầy
đủ những đức tính ấy.
- Với đức tính chịu thương: người phụ nữ ngoại giáo này
rất khổ tâm khi phải từng ngày chứng kiến nỗi đau quằn quại của đứa con yêu quý
mình, mỗi khi ma quỷ ám hại nó. Ta tin rằng trước nay, bà ta đã tiêu tốn không
ít tiền của, sức lực, thời gian…để tìm thầy, chạy thuốc khắp nơi với mong muốn
cứu chữa cho đứa con của bà thoát khỏi tình trạng khốn khổ do sự hành hạ của ma
quỷ. Sức mạnh tình thương mẫu tử đã thúc đẩy bà đủ can đảm vượt qua mọi rào cản
ngăn cách, để tìm đến gặp gỡ Thầy Giêsu.
- Với đức tính chịu khó: bà đã không ngần ngại vượt qua
làn ranh giới ngăn cách bởi luật lệ cấm kỵ giữa người Do Thái và dân ngoại, và
bức tường ngăn cách do quan niệm tâm lý ngăn cách giữa người nam và người nữ để
gặp cho bằng được Thầy Giêsu, với mong muốn duy nhất là cứu chữa đứa con bé nhỏ
của bà thoát khỏi sự ám hại của thần ô uế.
- Với lòng khiêm tốn: bà ta đã không ngần ngại đến phục lạy
trước mặt Chúa Giêsu với lời khấn xin tha thiết: “Lạy Ngài, xin cứu
giúp tôi”. Lòng khiêm tốn ấy càng sâu thẳm hơn khi sẵn sàng nhìn nhận
mình chỉ là chó con trước mặt Chúa “Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó
con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái”. Bởi bà hiểu
rằng, trước mặt Đức Giêsu bà chỉ là thụ tạo chẳng là gì khi đối diện trước một
vị TC quyền năng và giàu lòng thương xót.
- Với tinh thần nhẫn nại: bà đã không nản
lòng trước lời từ chối hơi khó nghe của Đức Giêsu: “Hãy để con cái ăn
no trước đã vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó”. Những
lời đắng lòng ấy đã không làm cho bà tự ái, nản lòng và bỏ cuộc; trái lại còn
làm cho bà thêm nhẫn nại và kiên cường hơn với lời van xin càng khiêm tốn
hơn: “Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của
chủ rơi xuống.”
Tất cả những đức tính cao quý ấy sẽ không có được nếu nơi bà không có
một niềm tin mạnh mẽ. Chính nhờ vào đức tin mạnh mẽ của bà mà đứa con yêu quý
của bà đã được Chúa Giêsu cứu chữa, theo như lời Chúa Giêsu xác quyết: “Này
bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy.”
Suy gẫm về hình ảnh của người phụ nữ ngoại giáo tuyệt đẹp hôm nay, ta
cảm thấy hổ thẹn vì nhiều người trong chúng ta đã không có được những đức
tính cao quý như bà: chịu thương, chịu khó, khiêm tốn và kiên nhẫn đối với Chúa
và với nhau trong đời sống đạo. Nhiều lúc đức tin của chúng ta chưa đủ mạnh để
hoàn toàn tin tưởng, phó thác vào tình thương và quyền năng nơi Chúa như người
đàn bà ngoại giáo này.
Xin Chúa củng cố niềm tin nơi chúng ta để trong mọi hoàn cảnh chúng ta
luôn sẵn sàng tín thác vào quyền năng và lòng thương xót Chúa; đồng thời cũng
xin cho chúng ta biết phát huy tối đa những đức tính nhân bản trong đời sống
hàng ngày.
Suy niệm 2: ĐỨC TIN LÀ ĐIỀU KIỆN ĐÓN NHẬN ÂN SỦNG CHÚA
Tin mừng hôm nay cho biết, Chúa Giêsu hết lòng khen
ngợi niềm tin kiên vững của bà ngoại giáo. Đó cũng là lời tra vấn về niềm tin
của mỗi người Kitô hữu chúng ta nơi Chúa Giêsu Kitô. Xin Chúa củng cố đức
tin nơi chúng ta để như người đàn bà ngoại giáo chúng ta luôn đặt trọn lòng tin
tưởng, trông cậy và phó thác vào quyền năng của Chúa.
Bài đọc I, Trích sách tiên tri Isaia đây
là phần thứ ba của sách Isaia, được gọi là Ðệ Tam Isaia. Phần này được viết sau
khi dân Israel thoát ách lưu đày Babylon, hồi hương trở về thánh địa. Ðoạn được trích đọc hôm nay có đại ý như sau: Thiên Chúa đã đưa
dân Ngài hồi hương từ chốn lưu đày về đất hứa. Nhưng Ngài còn muốn mở rộng đoàn
dân này, để không chỉ có người Israel nhận biết Chúa mà còn có cả những người
lương dân nữa, vì “nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”.
Bài đọc II, Trích thư Thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma.
Những tín hữu Rô-ma vốn trước kia là lương dân nhưng nay họ đã tin vào Ðức
Kitô, nên Thánh Phaolô muốn cho họ hiểu rằng: “Tôi là tông đồ dân ngoại. Do việc đi rao giảng cho dân
ngoại, nếu tôi có làm cho đồng bào Do Thái của tôi phải phân bì, thì tôi cũng
chấp nhận, miễn là dân ngoại cũng được cứu độ.”
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu khen ngợi lòng tin mạnh mẽ của người đàn bà ngoại giáo
xứ Ca-na-an. Người đàn bà Ca-na-an đến xin Chúa trừ quỷ cho con mình: “Lạy
con Vua Đavid, xin thương xót tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” Nhưng
Chúa làm thinh, chẳng đáp lời nào. Thấy thế bà càng kêu xin tha thiết hơn, đến
nỗi các môn đệ phải thưa với Chúa rằng: “Xin Thày thương giúp bà ấy,
kẻo bà ấy cứ theo chúng ta mà kêu mãi!”
Chúa liền bảo: “Thày chỉ được sai đến
với chiên lạc nhà Israel mà thôi!” Nghe thế, bà không ngã lòng,
bỏ cuộc, mà lại kiên trì kêu xin khẩn thiết hơn: “Lạy Ngài, xin hãy đến
cứu giúp tôi!”
Chẳng cần úp mở, Chúa lại nói một câu đắng
lòng: “Không thể lấy bánh của con cái mà ném cho chó!” Tuy vậy
bà vẫn không tự ái, trước lời nói của Chúa, trái lại bà càng khiêm tốn đáp
lại: “Đúng vậy, thưa Ngài, nhưng những con chó nhỏ cũng được ăn miếng
bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn của chủ.”
Qủa thật! Hiếm thấy người đàn bà nào được như
thế! Thái độ của bà đã khiến Chúa Giêsu phải ngỡ ngàng nên Ngài đã cất lời khen
ngợi nức lòng: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào sẽ
được như vậy!” Với niềm tin kiên vững của bà, Chúa
Giê-su còn tiết lộ cho mọi người biết rằng: “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt
cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: “Hãy rời khỏi đây, qua bên kia!” nó
cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17, 20).
Như thế, Lòng tin chính là chìa khoá vạn năng có thể mở ra
những cánh cửa dẫn vào kho tàng ân sủng quý báu của Thiên Chúa. Lòng tin cũng
là bí quyết mang lại thành công trong cuộc đời. Đây là bài học quý báu mà Chúa Giê-su dạy chúng ta qua
Tin mừng hôm nay. Tiếc thay chúng ta không biết tận dụng bài học nầy để thu
hoạch những thành quả tốt đẹp trong cuộc đời.
Không biết trong cộng đoàn chúng ta có ai
giống như người đàn bà Ca-na-an hôm nay hay không? Bà ta đã vượt qua mọi thử
thách do Chúa đưa ra, để bày tỏ lòng tin chân thành vào Chúa và được Người khen
ngợi. Còn chúng ta thì sao? Trong mọi thử thách, đau thương của cuộc đời, chúng
ta có vượt qua được không? Chắc chắn nhiều lúc chúng ta đã ngã lòng và oán
trách Chúa khi gặp phải những tai ương hoạn nạn, chứ không vững lòng tin tưởng
như người đàn bà ngoại giáo xứ Ca-na-an.
Ý thức về sự yếu đuối của mình, chúng ta cùng
nhau xin Chúa tha thứ và xin Ngài ban thêm niềm tin cho chúng ta để nhờ
đó, chúng ta có thể vượt qua mọi gian nan thử thách và giành lấy những thành
quả tốt đẹp trong cuộc đời nầy và đời sau. Amen.
Thứ hai: Mt 19, 16-22.
NHỚ THÁNH PIÔ X (St. Pius X), Giáo hoàng
Thánh Piô X có tên là Giuse Sarto, sinh năm 1835 tại làng Riese, miền
Vénétia nước Ý. Thánh Piô X rất thông minh, cần mẫn và sáng trí.
Ngài học tiểu chủng viện Pađua và thụ phong linh mục vào năm 1858. Thánh
nhân đã làm cha phó giáo xứ Tomholo, rồi chánh xứ Salzanô, và được giữ nhiều
chức vụ quan trọng trong Giáo Triều Roma. Vì là một người có tài, có đức, nên
Ngài được Đức Thánh Cha phong làm Giám Mục địa phận Mantoue vào năm 1884. Thánh
nhân đã chu toàn trách nhiệm chủ chăn, chuyên lo đào tạo hàng giáo sĩ, thương
yêu, lưu tâm đến người nghèo và để ý tới phụng vụ.
Với những cố gắng phục vụ Giáo Hội, lo lắng cho tha nhân, năm 1893,
thánh nhân được phong làm Hồng Y, Giáo Chủ Venise Thiên Chúa đã tuyển lựa Ngài
cách đặc biệt để lèo lái Giáo Hội của Chúa, nên sau khi Đức Giáo Hoàng Lêô XIII
qua đời, Ngài được bầu lên chức vụ tối cao của Giáo Hội vào ngày 4 tháng 8 năm
1903. Ngài đã cố gắng chối từ nhưng như lời Chúa nói: “Không phải anh
em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, để anh em ra đi, thu được kết
quả, và kết quả anh em được lâu bền” (Ga 15, 16). Trên ngai Giáo
Hoàng, Ngài vẫn sống đơn sơ, khiêm nhượng, khó nghèo. Thánh nhân bảo
vệ và củng cố đức tin cho mọi người, ngài lên án và chống lại phái duy
tâm, tiếp xúc với các nhóm ly giáo, đặt nền tảng vững chắc cho giới
tu sĩ, soạn thảo cuốn giáo luật, khuyến khích lòng sùng
kính Bí Tích Thánh Thể, việc siêng năng rước lễ và việc ban cho
trẻ em rước lễ sớm hơn thường lệ.
Với trách nhiệm chủ chăn hoàn vũ, Đức Giáo Hoàng Piô X đã lo âu, đau khổ
vì thế chiến đang bắt đầu. Thánh nhân nhạy cảm trước mọi biến cố của thế giới
xẩy đến, Ngài chia sẻ với thế giới, với mọi người nỗi đau, nỗi buồn và sự vui
mừng, Ngài ra đi về với Chúa trong an bình vào ngày 20 tháng 8 năm 1914. Sau 31
năm tức là ngày 21 tháng 8 năm 1945, Đức Thánh Cha Piô XII đã phong thánh cho
Ngài.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Thánh Giáo Hoàng Piô X trí khôn ngoan siêu
việt và lòng dũng cảm xứng bậc Tông Đồ để Người bênh vực đức tin công giáo và
quy tụ tất cả về Đức Kitô. Xin rộng ban cho chúng con biết nghe lời
thánh nhân giảng dậy và noi gương sáng của Người hầu mai ngày đạt tới phước
trường sinh” (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Piô X).
Suy niệm 1:
Có lẽ khát vọng lớn nhất của con người là sự sống đời đời. Nhưng làm thế
nào để có được sự sống ấy? Lời Chúa hôm nay sẽ khai mở cho chúng ta biết cách
thức để đạt đến khát vọng cao quý ấy.
Sách Giáo Lý Công Giáo thường được chia thành 4 phần: Tín lý
(tuyên xưng đức tin), luân lý (thực hành đức tin), bí tích (cử hành đức tin) và
cầu nguyện (nuôi dưỡng đức tin). Nhưng hình như đa phần người Công giáo chúng
ta chỉ chú trọng đến phần luân lý (thực hành đức tin) mà ít quan tâm đến phần
tín lý (tuyên xưng) và những phần còn lại nên có sự sai lệch trong cái nhìn và
cách sống đạo.
Nền luân lý Công giáo luôn nhấn mạnh đến Mục đích và Phương tiện phải
song hành trong cái nhìn đạo đức sinh học. Theo cái nhìn này, thì một hành vi
luân lý được chấp nhận khi thỏa mãn hai diều kiện: phương tiện và mục đích đều
đúng và trúng. Nếu một trong hai yếu tố ấy không đúng và trúng thì hành vi đó
bị xem là sai lạc.
Ví dụ: Vì nhân danh mục đích giúp đỡ người nghèo mà ta đi cướp bóc của
cải người giàu để chia cho người nghèo; hoặc vì muốn giúp
cho bệnh nhân thoát khỏi tình trạng đau đớn cùng cực về thể xác mà ta tiêm cho
họ một mũi thuốc an tử thì không đúng, vì làm như thế là ta đã xử dụng phương
tiện sai trái để biện minh cho mục đích tốt. Lý do là vì sự sống bắt
nguồn từ Thiên Chúa nên quyền quyết định sinh tử đều nằm trong kế hoạch của
Thiên Chúa. Con người không có quyền can thiệp vào sự sống-chết cho mình hay
cho người khác.
Anh thanh niên trong bài Tin mừng hôm nay mặc dù giàu có và giữ luật rất
tốt. Nhưng xem ra anh ta vẫn không an lòng, bởi vì luật lệ và của cải hình như
không phải là phương thế thật sự để đưa anh đạt đến vinh quang nước trời. Vì
thế anh ta đã tìm đến với Chúa Giêsu để hỏi xem: “phải làm việc lành gì để
được sống đời đời?”. Thật bất ngờ với lời đề nghị của Chúa
Giêsu: "hãy bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo
khó...rồi đến theo Ta". Như vậy yêu thương và chia sẻ cho người
nghèo mới chính là phương thế để được sự sống đời đời. Do không muốn hy sinh
chia sẻ cho người nghèo theo lời đề nghị của Chúa Giêsu nên anh ta buồn và quay
mặt bỏ đi trong thất vọng.
Tóm lại, phương tiện để đạt đến mục đích sự sống đời đời không phải là
tiền bạc, cũng không chỉ là tuân giữ một số luật lệ chay cứng vô hồn, nhưng là
phải tích cực thi hành những việc làm bác ái, chia sẻ cho tha nhân với niềm tin
yêu và phó thác vào Chúa.
Tin Chúa, thì phải sống cậy trông phó thác vào Chúa chứ không phải là
tiền bạc của cải. Nên Chúa bảo: “hãy bán tất cả …mà theo Ta”.
Yêu người, là phải biết rộng lượng chia sẻ với anh chị em, đặc biệt
những người nghèo khó “hãy bán hết của cải mà bố thí cho người nghèo…”.
Lạy Chúa, cả đời sống đạo là để được hạnh phúc nước trời, xin cho chúng
con biết phụng sự Chúa với tấm lòng yêu mến; và biết yêu thương tha nhân bằng
những hành vi bác ái, chia sẻ chân tình. Nhờ đó, chúng con mới có được hạnh
phúc ở đời này và cả đời sau. Amen
Thứ ba: Lc 1,26-38
Nhớ Đức Thánh Maria, Trinh Nữ Vương
CÁC DANH HIỆU CỦA ĐỨC MẸ MARIA
Đức Maria có nhiều danh
hiệu (như Đức Mẹ, Đức Bà, Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Thiên Đàng, Mẹ Giáo
Hội). Tất cả đều chỉ cùng một người nữ tên là Maria, thân mẫu của Chúa Giêsu
Kitô.
Bốn danh hiệu là tín điều (Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Đức Mẹ trọn đời
đồng trinh, Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội, Đức Mẹ hồn xác lên trời).
Một số danh hiệu trích từ Thánh Kinh như “Người đầy ơn phúc” (Lc 1, 28), “Đức
trinh nữ” (Mt 1, 22), “Vườn kín” (Dc 4, 12), “Vinh hiển của Giêrusalem” (Jdt
15, 10).
Có những danh hiệu nhấn mạnh đến
vai trò quan trọng của Đức Mẹ Maria trong nhiệm cuộc cứu độ như “Evà Mới”,
“Hòm Bia Thiên Chúa”, “Tòa Đấng khôn ngoan”, “Đấng đồng công cứu chuộc”, “Đức
Mẹ sầu bi”.
Có những danh hiệu do các Đức
giáo hoàng dâng tặng, như vào năm 1521 Đức Piô V thiết lập lễ “Đức Mẹ chiến
thắng”, trong Thế chiến thứ II Đức Bênêđíchtô XV thêm danh hiệu “Nữ Vương ban
sự bằng yên” (“Nữ Vương hòa bình) vào Kinh cầu Đức Bà, năm 1960 Đức Gioan XXIII
đổi lễ “Đức Mẹ chiến thắng” thành lễ “Đức Mẹ Mân Côi”.
Chính Kinh cầu Đức Bà chứa đựng rất nhiều danh hiệu của Đức Mẹ như
“Đức Mẹ chỉ bảo đàng lành”, “Đức Bà là gương nhân đức”, “Rất thánh Nữ đồng
trinh trên hết các kẻ đồng trinh”.
Đức Mẹ Maria còn có các danh hiệu gắn với nơi Mẹ đã hiện ra như “Đức Mẹ
Fatima”, “Đức Mẹ Lộ Đức”, “Đức Mẹ La Vang”.
Nhiều danh hiệu khác mang tính thi ca, qua nhiều năm tháng đã trở thành
sức sống cho lòng sùng kính Đức Mẹ và các việc đạo đức bình dân.
Xin giới thiệu đến quý anh
chị Legio Mariae 88 danh hiệu quan trọng và quen thuộc sau:
1. Advocate of Sinners / Refuge of Sinners Đấng bào chữa kẻ có tội
2. All Holy / Panagia Đức Mẹ toàn thánh
3. Ark of the Covenant Hòm bia Thiên Chúa, Hòm bia giao ước
4. Auxiliatrix / Helper Đấng phù hộ
5. Beautiful than Beauty Đấng tuyệt mỹ
6. Benefactress Đấng bảo trợ
7. Blessed Virgin Mary Đức Trinh Nữ Maria
8. Cause of Our Joy Đấng làm cho chúng con vui mừng
9. Comforter of the Afflicted Đấng yên ủi kẻ âu lo
10. Co-Redemptrix Đấng đồng công cứu chuộc
11. Ever-Virgin Đấng trọn đời đồng trinh
12. Fountain Sealed Suối niêm phong
13. Full of Grace Người đầy ơn phúc
14. Garden Enclosed Vườn kín
15. Gate of Heaven Cửa thiên đàng
16. Glory of Jerusalem Vinh hiển của Giêrusalem
17. Health of the Sick Đấng cứu kẻ liệt kẻ khốn
18. Holy Mary Rất thánh Đức Bà Maria
19. Holy Mother of God Rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời
20. Holy Virgin of Virgins Rất thánh Nữ Đồng Trinh trên hết các kẻ đồng trinh
21. House of Gold Đền vàng
22. Immaculate Heart Trái Tim vẹn sạch
23. Immaculate Mother Đức Mẹ vô nhiễm
24. Lily among Thorns Hoa huệ giữa bụi gai
25. Madonna Đức Mẹ, Đức Bà
26. Mediatrix of All Graces Đấng trung gian các ơn
27. Mirror of Justice Gương nhân đức
28. Morning Star Sao Mai
29. Mother / Blessed Mother Đức Mẹ, Đức Bà
30. Mother Inviolate Đức Mẹ tuyền vẹn mọi đàng
31. Mother Most Admirable Đức Mẹ cực mầu cực nhiệm
32. Mother Most Amiable Đức Mẹ rất đáng yêu mến
33. Mother Most Chaste Đức Mẹ cực tinh cực sạch
34. Mother Most Pure Đức Mẹ cực thanh cực tịnh
35. Mother of All Peoples Mẹ của mọi dân tộc
36. Mother of Christ Mẹ Chúa Kitô
37. Mother of Divine Grace Đức Mẹ thông ơn Thiên Chúa
38. Mother of God / Theotokos Đức Mẹ Chúa Trời, Mẹ Thiên Chúa
39. Mother of Good Counsel Đức Mẹ chỉ bảo đàng lành
40. Mother of Mankind Mẹ nhân loại
41. Mother of Mercy Đức Mẹ nhân ái, Đức Mẹ thương xót
42. Mother of Our Redeemer Mẹ sinh Chúa Cứu Thế
43. Mother of the Church Mẹ Giáo Hội
44. Mother Undefiled Đức Mẹ chẳng vướng bợn nhơ
45. Mystical Rose Hoa Hường màu nhiệm
46. New Eve Evà mới
47. Our Lady Help of Christians Đức Mẹ phù hộ các giáo hữu
48. Our Lady of Consolation Đức Mẹ ủi an
49. Our Lady of Fatima Đức Mẹ Fatima
50. Our Lady of Immaculate Conception Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội
51. Our Lady of Perpetual Help Đức Mẹ hằng cứu giúp
52. Our Lady of Ransom Đức Mẹ chuộc kẻ làm tôi
53. Our Lady of Sorrows Đức Mẹ sầu bi
54. Our Lady of the Eucharist Đức Mẹ Thánh Thể
55. Our Lady of the Miraculous Medal / Our Lady of Grace Đức Mẹ ban ơn
56. Our Lady of the Snows Đức Mẹ xuống tuyết
57. Our Lady of Victories Đức Mẹ chiến thắng
58. Queen Assumed into Heaven Nữ Vương linh hồn và xác lên trời
59. Queen Conceived without Original Sin Nữ Vương chẳng hề mắc tội tổ tông
60. Queen of All Saints Nữ Vương các thánh nam cùng các thánh nữ
61. Queen of Angels Nữ Vương các thánh thiên thần
62. Queen of Apostles Nữ Vương các thánh Tông Đồ
63. Queen of Confessors Nữ Vương các thánh hiển tu
64. Queen of Heaven Nữ Vương Thiên Đàng
65. Queen of Martyrs Nữ Vương các thánh tử vì đạo
66. Queen of Patriarchs Nữ Vương các thánh tổ tông
67. Queen of Peace Nữ Vương ban sự bằng yên, Nữ Vương hòa bình
68. Queen of Prophets Nữ Vương các thánh tiên tri
69. Queen of the Most Holy Rosary Nữ Vương truyền phép rất thánh Mân Côi
70. Queen of Virgins Nữ Vương các thánh đồng trinh
71. Saint Mary Thánh Maria
72. Seat of Wisdom Tòa Đấng khôn ngoan
73. Second Eve Evà mới
74. Singular Vessel of Devotion Đấng sốt mến lạ lùng
75. Spiritual Vessel Đấng trọng thiêng
76. Star of the Sea Sao Biển
77. The Immaculate Conception Đấng vô nhiễm nguyên tội
78. The Virgin Đức Trinh Nữ, Đức Nữ đồng trinh
79. The Virgin Mary Đức Trinh Nữ Maria
80. Tower of David Lầu đài Đa-vít
81. Tower of Ivory Tháp ngà báu
82. Vessel of Honor Đấng đáng tôn trọng
83. Virgin Most Faithful Đức Nữ trung tín thật thà
84. Virgin Most Merciful Đức Nữ có lòng khoan nhân
85. Virgin Most Powerful Đức Nữ có tài có phép
86. Virgin Most Prudent Đức Nữ cực khôn cực ngoan
87. Virgin Most Renowned Đức Nữ rất đáng ngợi khen
88. Virgin Most Venerable Đức Nữ rất đáng kính chuộng
Ns. Phêrô Nguyễn Đình Diễn
Suy niệm 1:
Có thể nói, hầu hết mọi ân sủng TC ban cho nhân loại đều qua trung gian
của Mẹ Maria chí thánh. Dẫu là nữ vương nhưng Mẹ luôn gần gũi và rất mực yêu
thương mỗi người chúng ta. Nguyện xin Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria Nữ
Vương ban cho chúng ta mọi ơn lành xác hồn, nhất là xin cho chúng ta được hưởng
niềm vinh quang bất diệt cùng với Mẹ trong nước Thiên Chúa mai này.
Đáp lại niềm tin truyền thống của GH và lòng mong mỏi của các tín hữu đã
tôn sùng Đức Mẹ với tước hiệu Nữ Vương có từ lâu đời; cũng như dựa trên nền
tảng lời Chúa trong Tv 44,10: “Lạy Chúa, bên hữu Ngài, Hoàng Hậu sánh
vai, mặc xiêm y dệt gấm thêu vàng, và trang điểm huy hoàng rực rỡ “; cũng
như chính sách khải huyền đã diễn tả: “Một điềm lạ vĩ đại xuất hiện
trên trời: một người nữ mặc mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên
mười hai ngôi sao.” (Kh 12,1) hay ”Người mang Danh viết
trên áo, trên tà áo của Người: Vua các vua và Chúa các chúa” (Kh
19,16), ĐGH PI-O XII đã thiết lập lễ Đức Maria trinh nữ vương vào năm 1954, vì
Đức Maria xứng danh là Mẹ của một vị Vua trên hết các vua, Mẹ của một vị Chúa
trên các chúa.
Mừng lễ Đức Maria Nữ Vương hôm nay, GH mời gọi chúng ta hướng tâm hồn về
Mẹ, vì Mẹ là một phần tử ưu việt của GH. Mẹ đã sống với Thiên Chúa cách tuyệt
hảo, đã luôn khiêm tốn nói lời xin vâng theo thánh ý Thiên Chúa trong mọi cảnh
huống của cuộc đời.
Thánh Bê-na-đô đã khẳng định rằng "nói về Mẹ thì không bao giờ
đủ"; bởi vì các nhân đức của Mẹ quá tuyệt đẹp. Một trong những nhân đức
ấy, là sự khiêm nhường.
Thánh sử Lu-ca cho biết, khi kết thúc biến cố truyền tin, Đức Maria đã
đáp lại với sứ thần Chúa "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ
làm cho tôi như lời sứ thần nói". Trong bài ca
Mag-ni-fi-cat, Mẹ cũng nhìn nhận mình là ‘phận nữ tỳ hèn mọn’.
Nơi mái ấm gia đình Na-da-rét, Mẹ đã sống âm thầm lặng lẽ phục vụ thánh
Giuse và Hài Nhi Giêsu. Nữ tỳ của Chúa lúc nào cũng tin tưởng phó thác vào
Chúa, qua việc luôn thực hiện mọi thánh ý của Chúa, không bai giờ làm theo ý
riêng mình hay của thế gian. Mẹ đã để cho Chúa hướng dẫn đời Mẹ. Ở mọi nơi,
trong mọi lúc Mẹ Maria luôn tín thác mọi sự vào Chúa quan phòng.
Biết rằng sống khiêm nhường là một nhân đức cao quý, nhưng để sống được
nhân đức này không đơn giản chút nào. Bởi vì, mỗi người chúng ta vốn đã mang
sẵn “gen kiêu ngạo”, nên hay tự cho mình là đúng đắn, tài giỏi và hiểu biết mọi
thứ. Càng có chức có quyền thì cái tôi càng lớn, mang theo đó là tính kiêu ngạo
cũng phình to. Được làm ông này bà nọ thì coi mọi người chỉ là hạng thứ dân.
Người có chút tài năng thì sinh ra tự mãn kiêu căng, mang lấy cái ‘bệnh của
sao’ mà coi thường người khác. Có lẽ ai trong chúng ta cũng muốn sống khiêm
nhường, vì đó là đức tính cao đẹp đáng trân quý, nhưng nhiều khi chúng ta lại
không biết làm thế nào để sống được đức tính này?
Thiết nghĩ, muốn sống khiêm nhường thì cần phải diệt cái tôi của bản
thân. Cha Vin-cen-te Leb-be cho rằng: chúng ta cần phải chiến đấu với cái tôi
hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, nên phải luôn đánh tôi, đánh ngã tôi, và đánh
chết tôi. Nói như thế, cái tôi trong mỗi người chúng ta thật là lớn, và rất khó
để diệt nó. Chỉ khi nào chúng ta làm chủ được cái tôi thì ta mới có thể sống
khiêm nhường được. Một tâm hồn khiêm nhường thì dễ lắng nghe tiếng Chúa và sẵn
sàng đáp lại thánh ý Ngài, và như lời Chúa nói: “ai hạ mình xuống sẽ được
nâng lên”.
Mừng lễ Đức Maria Nữ Vương hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa cho mỗi người
chúng ta được trở nên người tôi trung của Chúa, luôn biết noi gương Mẹ Maria
tin yêu và phó thác vào bàn tay uy quyền của Thiên Chúa mà sẵn sàng vâng phục
thánh ý Ngài trong mọi ngày đời của chúng ta.
Suy niệm 2:
Hòa chung tâm tình với toàn thể Giáo hội hôm nay, chúng ta hân hoan mừng
lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương. Suy niệm về cuộc đời của Mẹ, Giáo hội nhìn
nhận Đức Mẹ đáng được tôn phong lên tước hiệu Trinh Nữ Vương, bởi lẽ Mẹ đã cưu mang và
sinh hạ Ngôi Hai Thiên Chúa làm người là Vua Vũ Trụ. Chúng ta hiệp lời tạ ơn Chúa đã ban
tặng cho nhân loại một người Mẹ tuyệt vời là Đức Trinh Nữ Maria Nữ Vương. Xin
Chúa nhận lời Đức Mẹ chuyển cầu mà ban cho chúng ta được bình an, cũng như biết khiêm tốn vâng theo thánh ý Chúa theo gương Mẹ hầu sau cuộc đời này, chúng ta cũng được chung hưởng niềm vinh phúc Nước Trời cùng với Mẹ.
Mỗi khi nói đến Đức Maria, Giáo hội luôn muốn trình bày Đức Maria với một hình ảnh là
một Eva mới, hoàn toàn trái ngược với Eva cũ bất tín và bất trung. Đức
Maria là người luôn tin tưởng và tùng phục Thiên Chúa trong mọi sự. Vì thế, Mẹ
đã trở thành kiểu mẫu của những ai đang trên đường đến với Chúa và dấn thân cho
niềm tin của mình.
Để được hạnh phúc và vinh quang trên trời như
hôm nay, Đức Maria đã trải qua bao nhiêu là thử thách, gian khổ và hiểm nguy, nhưng
Mẹ đã tin tưởng và trung thành với Thiên Chúa cách trọn hảo.
Cuộc đời của những người Kitô hữu đích thực
hôm nay cũng sẽ không tránh khỏi những gian nan và khốn khó. Nhưng có Mẹ là trạng
sự và là sao mai dẫn đường nên chúng ta hãy vững tin trung thành với ơn gọi làm
con Chúa trong cuộc hành trình trần thế này.
Đức Giêsu là Thiên Chúa nhưng Người
đã không uy nghi bước từ trời cao xuống đất thấp, trái lại Ngài đã phải đi ra
từ lòng mẹ, và chấp nhận mang lấy thân phận mong manh yếu đuối như biết bao trẻ
thơ khác; Ngài cũng cần được che chở, nuôi dưỡng và lớn lên trong vòng tay của
Mẹ Maria và Thánh Giuse.
Khi tuyên dương những công lao vĩ đại của Mẹ
Maira, GH không chỉ đơn giản nhìn nhận tấm lòng khiêm tốn vâng phục Thiên Chúa
qua hai tiếng “xin vâng” một lần trong ngày Truyền tin, mà GH còn muốn xác nhận
lời “xin vâng” ấy của Mẹ luôn vang vọng trong suốt cuộc đời của Mẹ; nhất là
trong những giây phút đứng dưới chân Thánh giá khi đau đớn chứng kiến Con mình
chịu đóng đinh và chết trên thập giá, Mẹ đã can đảm, quyết liệt “Xin vâng” mạnh
mẽ hơn nữa. Chính nhờ thái độ tín thác tuyệt đối của Mẹ vào chương trình của
Chúa, Mẹ đã họa lại sự vâng phục trọn vẹn của Chúa Giêsu vào thánh ý Chúa Cha,
nhờ đó mà ơn cứu độ của Thiên Chúa giao phó cho Con Chúa là Đức Giêsu Kitô đã trở
nên hoàn tất
Mầu nhiệm Chúa Giêsu làm người muốn dạy chúng
ta biết quí trọng cuộc sống trong tin yêu và tín thác. Dẫu cho cuộc đời của
Chúa có phải trải qua nhiều lận đận, long đong trong phận nghèo, Chúa vẫn chấp
nhận và sống đến cùng theo Thánh Ý Chúa Cha được thành toàn. Còn chúng ta, khi gặp những giây phút gian nan, chán chường, thất
vọng, thất bại, lắm khi chúng ta cảm thấy đời bỗng trở nên vô nghĩa, và muốn
buông xuôi.
Nhìn vào cuộc sống của Mẹ Maria thì những khó
khăn của chúng ta chẳng đáng là gì. Hôm nay, nhờ gương sáng và lời cầu bầu của
Mẹ với tước vị là Nữ Vương trên trời dưới đất, xin Chúa giúp chúng ta đừng cậy
dựa vào sức mình, nhưng luôn biết trông cậy vào quyền năng của Chúa, nhất là
biết tín thác trọn vẹn vào chương trình kỳ diệu mà Chúa muốn thực hiện nơi thân
phận nhỏ bé, yếu hèn của chúng ta.
Thật ý nghĩa khi Đức Giáo Hoàng Piô XII thiết lập lễ này sau lễ Đức Mẹ
hồn xác lên trời. Qua tước hiệu cao quý này, GH nhắc nhở con cái mình hãy hướng
lòng lên Mẹ Maria Nữ Vương để khẩn cầu Mẹ mọi nơi mọi lúc nhấy là khi gặp phải những
nghịch cảnh, thất bại, đau khổ và tăm tối trong cuộc đời. Chúng ta luôn tin
rằng dù cuộc đời mình có bất hảo và phàm ngôn Mẹ không bao giờ xa cách và bỏ
rơi chúng ta. Chúng ta hãy lấy tình con thảo mà ca khen Mẹ với tâm tình tin
tưởng, yêu mến, phó thác. Đồng thời luôn biết vâng nghe những lời Mẹ nhắn nhủ…
nhất là biết noi gương Mẹ luôn biết lắng nghe và thực thi thánh ý Thiên Chúa
cách mau mắn. Amen. (St)
Suy niệm 3: VƯƠNG QUYỀN CỦA MẸ
“Triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận!”.
Nữ hoàng Mary, Scotland, rất được yêu mến, thường đi
thăm người dân mà không cần hộ tống. Chiều kia, trời sắp mưa, bà ghé một ngôi
nhà, nói với cô chủ, “Cô có thể cho tôi mượn chiếc ô, tôi sẽ trả vào ngày mai”.
Cô chủ trao cho người lạ chiếc ô mà cô định vứt đi. Hôm sau, có tiếng gõ cửa;
người phụ nữ ra mở, một cận vệ hoàng gia xuất hiện, “Nữ hoàng nhờ tôi cảm ơn cô
đã cho bà mượn cái này”. Cô chủ sững sờ; sau đó, bật khóc, “Ôi, tôi đã bỏ lỡ một
cơ hội. Tôi đã không trao cho Nữ hoàng cái tốt nhất!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Trong cuộc sống, không ít lần chúng ta bỏ lỡ “không
trao cho Nữ Hoàng cái tốt nhất!”. Nữ Hoàng ở đây là Đức Maria, Trinh Nữ Vương,
hôm nay Giáo Hội mừng kính. Trong vinh quang hồn xác lên trời, Mẹ đã trở nên
‘thành quả tối hậu’ của công trình cứu độ. Mẹ vô cùng diễm lệ; đồng thời, cũng
rất quyền thế với ‘Vương Quyền của Mẹ!’, vì Mẹ là Thánh Mẫu của Đấng mà “Triều
đại của Người sẽ vô cùng vô tận!”.
Thánh Kinh trình bày Chúa Kitô như một vị Vua, nên mẹ
Ngài là Hoàng Thái Hậu. Chúa Kitô là Vua với tư cách Thiên Chúa; và Mẹ Ngài là
Nữ Vương bởi “huyết thống thiêng liêng” trong tư cách Mẹ Thiên Chúa. Mẹ là Nữ
Vương bởi Mẹ là Đấng Đầy Ân Sủng, chỉ sau Chúa Con; là Nữ Vương bởi sự lựa chọn
duy nhất của Chúa Cha. Nếu một người có thể trở thành vua hoặc nữ hoàng theo sự
lựa chọn của con người, thì danh hiệu và ‘Vương Quyền của Mẹ’ sẽ lớn hơn biết
bao khi đó là sự lựa chọn của chính Thiên Chúa!
Đức Phanxicô đưa ra ba trích dẫn Thánh Kinh nói lên
‘Vương Quyền của Mẹ’. Trước hết, các lời tiên tri về Đấng Cứu Thế, Đấng Messia,
Đấng Kitô trong Cựu Ước xem ra đều nói đến một vị Vua như một danh tính được
ban. Chẳng hạn bài đọc Isaia hôm nay, “Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta.
Người gánh vác quyền bính trên vai… sẽ mở rộng quyền bính cho ngai vàng và
vương triều Đavít”, hầu ‘Danh thánh Chúa tự giờ đây cho đến mãi muôn đời được
chúc tụng’ như lời tiên báo của Thánh Vịnh đáp ca!
Thứ đến, trong Tân Ước, ‘Vương Quyền của Mẹ’ được tìm
thấy trước nhất trong trình thuật Truyền Tin. Phúc Âm hôm nay tiết lộ, “Thiên
Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người!”; “Người sẽ trị vì
nhà Giacóp đến muôn đời”. Sau cùng, trong Khải Huyền, vương vị của Maria được
thấy trong thị kiến vĩ đại “Một phụ nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu
đội triều thiên 12 ngôi sao”; và chương 12 miêu tả Maria là Nữ Hoàng - Mẹ mới
trong Vương Quốc, chia sẻ quyền cai trị vũ trụ của Con mình.
Anh Chị em,
“Triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận!”. Đức Maria là
Mẹ của Đấng vô cùng vô tận đó. Ngày lễ hôm nay xác định ‘Vương Quyền của Mẹ’
vốn giải thích về vai trò chuyển cầu quan trọng của Mẹ trong đời sống chúng ta.
Cũng vậy, Chúa Giêsu, Vua Vũ Trụ, đáp lại Mẹ Ngài, người nữ tỳ có ý chí hoàn
toàn nên một với ý muốn của Thiên Chúa, và là người phục vụ Ngài trong vai trò
người cầu bầu cho chúng ta trước Con của Ngài. Vì thế, chúng ta hãy tự tin chạy
đến với Thái Hậu, cũng là Mẹ của mình, trao cho Mẹ những gì là tốt nhất, dâng
lên Mẹ những lời cầu; tất nhiên, với điều kiện chúng sẽ phù hợp với ý muốn của
Thiên Chúa; và biết rằng, Mẹ sẽ mang chúng đến trước Giêsu, Thái Tử.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con là ‘con Trời’, ‘con của Nữ Hoàng’. Đừng
để con sống vật vờ, cầu bơ cầu bất! Cho con sống xứng với phẩm vị con trai con
gái rất yêu dấu của Chúa!”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
Suy niệm 4: ĐỨC MARIA-NỮ VƯƠNG BAN SỰ BÌNH AN
Có một câu chuyện vui, phần nào nói lên một ý nghĩa của ngày lễ mừng nhớ Đức
Maria Nữ Vương hôm nay:
Một ngày kia, Chúa Giêsu đi dạo trên thiên đàng và Ngài rất ngạc nhiên
thấy trong những góc tối, có nhiều khuôn mặt rất khả nghi lẻn vào ở trong thiên đàng.
Ngài tự hỏi:
- Làm thế nào mà họ vào đây được.
Ngài đến gặp thánh Phêrô và trách ông là thiếu cảnh giác.
Thánh Phêrô phàn nàn:
- Con làm thế nào được? Con canh cổng rất cẩn thận, nhưng đêm khuya mẹ
Ngài lại mở cửa sổ cho những kẻ tinh quái này vào làm sao con dám chống lại?
Câu chuyện trên muốn nói đến vai trò cao trong của Mẹ Maria, bởi Mẹ chính là Mẹ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, nên Đức Maria xứng đáng
được gọi là Nữ Vương. Vì là Nữ Vương thiên đàng. Là Nữ Vương Mẹ rất có
uy thế trước tòa Thiên Chúa. Tin
rằng những lời cầu xin của chúng ta với Mẹ sẽ được Thiên
Chúa lắng nghe và nhậm lời.
Tin tưởng vào điều đó nên trong lời Kinh Cầu Đức Bà, Đức giáo hoàng Pi-ô VI năm 1814, đã thêm vào kinh Cầu Đức Bà
8 câu Tôn Vinh Nữ Vương như sau:
1. Nữ vương các thánh thiên
thần.
2. Nữ vương các thánh Tổ
tông.
3. Nữ vương các thánh Tiên
tri.
4. Nữ vương các thánh Tông
đồ.
5. Nữ vương các thánh Tử vì
đạo.
6. Nữ vương các thánh Hiển
tu.
7. Nữ vương các thánh Ðồng
trinh.
8. Nữ vương các thánh Nam
cùng các thánh Nữ.
Ngoài ra:
- Đức Lê-ô XIII, năm 1833 lại thêm: "Nữ Vương
truyền phép Rất Thánh Mân côi".
- Đức Pi-ô IX, năm 1854 thêm:
"Nữ Vương chẳng hề mắc tội tổ tông".
- Đức Piô XII, năm 1950 thêm:
"Nữ Vương linh hồn và xác lên trời".
- Đức Gioan Phao-lô II, năm 1995 thêm: "Nữ Vương các
gia đình" để cầu cho các gia đình đang gặp nhiều khó khăn trong thế giới hôm nay.
Đặc biệt Đức Bê-nê-đic-tô XV, năm 1915 đã thêm lời ca tụng: "Nữ Vương ban sự
bằng yên".
Vì thế mà trong các giờ kinh gia
đình, chúng ta thường kêu xin Đức Mẹ qua lời ca tụng: “Nữ Vương ban sự bình yên- cầu cho chúng
con”. Lời ca tụng và kêu xin này không chỉ được xướng lên 1 lần mà đến cả 3 lần. Điều
này chứng tỏ con cái Mẹ luôn tin tưởng vào uy thế của
Mẹ trước mặt Chúa nên mới nài
xin tha thiết ơn bình yên như thế.
Tuy Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa
là Nữ Vương trời đất nhưng Mẹ luôn khiêm tốn sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh, bằng chứng là
Mẹ đã thân thưa với Chúa hai
tiếng “xin
vâng” trong ngày thiên thần Gab-ri-el truyền tin mà Tin Mừng hôm nay trình thuật: "Này
tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền".
Nếu E-va cũ đã xuẩn động bất tuân đã
làm cho nhân loại trở nên nô lệ cho tội lỗi và phải lãnh lấy hậu quả là đau khổ và án chết đời đời. Thì chính nhờ vào hai tiếng “xin vâng” của E-va mới nơi Đức Maria đã mang lại ơn cứu độ, ơn bình an và
sự sống mới cho nhân loại chúng ta.
Nhìn vào thực tế của cuộc đời, ta thấy rằng con người không thể nào
thoát khỏi bàn tay đầy quyền năng và yêu thương của Thiên Chúa. Cho nên nếu con
người cứ kiêu căng, mãi mê đi tìm và sống theo cái tôi phóng túng tự do của
mình mà không vâng phục thánh ý Chúa, thì chúng ta sẽ phải lãnh lấy hậu quả của
bất an và đau khổ cho đời mình.
Kinh nghiệm nơi Mẹ Maria cho ta bài học ấy. Chính vì lòng khiêm tốn luôn
vâng phục thánh ý Chúa với lòng tưởng phó thác đời mình cho Chúa sử dụng tùy ý,
Mẹ Maria đã tìm thấy bình an đích thật nơi tâm hồn và đã được Thiên Chúa ban
thưởng những đặc ân cao trọng.
Cuộc đời con người, chắc hẳn không
có gì quý giá cho bằng sự bình an. Tuy nhiên muốn có sự bình an
ấy thì tốt nhất là chúng ta hãy đến bên Mẹ, nép mình vào lòng Mẹ và học đòi bắt
chước Mẹ bài học khiêm hạ qua việc ngoan ngoãn vâng nghe lời Chúa dạy, sẵn sàng thân thưa
với Chúa lời “xin
vâng” trong mọi hoàn cảnh thuận nghịch…, tin rằng chúng ta sẽ tìm thấy được sự bình an.
Tin tưởng vào uy thế và lời chuyển cầu của Mẹ Maria, giờ đây chúng ta
hãy cùng nhau xướng lên lời chúc tụng và cầu xin quen thuộc: “Nữ Vương ban sự bình an-cầu cho
chúng con” 3 lần, để xin ơn bình
an của Chúa đến với mỗi người, mỗi gia đình và cho Họ đạo chúng ta...
Xin Đức Maria là Nữ Vương ban sự bình an luôn che chở chúng ta trong
vòng tay của Mẹ, để đời chúng ta mãi mãi được bình an trong bàn tay uy quyền
của Thiên Chúa.
* Mùa thường niên: Mt 19, 23-30
Suy niệm 1:
Tiếp nối bài tin mừng hôm qua, sau khi người thanh niên giàu có từ chối
bán tài sản của mình để đổi lấy sự hoàn thiện (hay sự sống đời đời) thì ngay
sau đó, Chúa Giêsu đưa ra kết luận: “người giàu có khó vào được Nước Trời”. Bên
cạnh đó, Chúa Giêsu còn cho biết phần thưởng lớn lao cho những ai dám chấp nhận
từ bỏ mọi sự vì danh Ngài. Đó là sự sống đời đời làm gia nghiệp.
Khi nói tới hai chữ “từ bỏ” tức là không còn hoặc mất đi một cái gì đó
mà trước đây mình đã có hay đã sở hữu. Tâm lý con người thường không chịu thua
thiệt, luôn luôn đòi hỏi sự cân xứng với phương châm "có qua có lại mới
toại lòng nhau". Nên tông đồ Phêrô đã hỏi thay cho chúng ta: “chúng con đã
từ bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?”.
Tin tưởng vào Đức Giêsu là Chúa uy quyền và giàu tình thương nên Ngài sẽ
không để cho những ai theo Ngài phải chịu thiệt thòi. Chắc chắn Ngài sẽ ban lại
cho những ai dám từ bỏ, hy sinh và cho đi vì Ngài một phần thưởng lớn lao hơn,
đó là “được gấp bội và được sống đời đời”. Đây quả là một phần thưởng cao quý
mà lòng người chẳng dám ước mong.
Ngày hôm nay, nếu ai đó bỏ cha mẹ, anh chị em, hay con cái, hoặc nhà
cửa, ruộng đất… mà theo Chúa thì bị xem là người không bình thường, mất tính
nhân bản vì đi ngược lại với đạo lý làm người. Nếu hiểu theo nghĩa đen thì đúng
như thế, nhưng việc theo Chúa không phải hiểu như thế. Theo Chúa là biết chọn
Chúa làm ưu tiên số một, làm lẽ sống cho đời ta, còn những giá trị khác ngoài
Chúa chỉ là thứ yếu. Bởi lẽ nếu xét cho đến cùng thì mọi thứ trên trần gian này
đều do Chúa dựng nên và tất cả cũng chỉ là phù vân, tạm bợ, chóng qua... Duy
chỉ có mình Chúa và nước trời mới là vĩnh hằng và hạnh phúc thật. Chính vì thế
mà Chúa Giêsu không ngần ngại nhắc nhở chúng ta đừng quá bám víu vào của cải,
vật chất, tiền bạc... như người thanh niên giàu có, mà loại trừ Chúa ra khỏi
những chọn lựa ưu tiên trong đời sống của mình.
Lạy Chúa, xã hội càng ngày càng văn minh, đầy đủ tiện nghi vật chất, vì
thế mà cuộc sống con người cũng được cải thiện và sung túc hơn. Nhưng chính vì
thế mà con người ngày nay dễ dàng quên và xa Chúa do không cưỡng lại sức hút
của đồng tiền. Xin Chúa đừng để chúng con sa vào ma lực của đồng tiền mà xa rời
bước đường theo Chúa và lý tưởng hạnh phúc nước trời.
* Suy niệm 2:
Xét cho cùng khao khát và ước muốn sâu xa nhất của con người vẫn là được
sống đời đời hay hạnh phúc nước trời. Vậy phương thế nào giúp chúng ta đạt được
nỗi khát khao ấy? Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu sẽ chỉ cho chúng ta biết.
Tin mừng hôm nay đề cập đến hai vấn đề rất thiết thực với đời sống người
Kitô hữu chúng ta:
1. Vào nước trời khó hay dễ?
Chúa Giêsu khẳng định: Vào được nước trời là một điều không dễ và rất
khó cho những ai giàu có. Khó không bởi đường xa vạn dặm không vì núi non điệp
trùng hay sông sâu hiểm trở, nhưng khó vì lòng người còn yếu đuối hay thay đổi:
nay tốt mai xấu, hôm nay thánh thiện ngày mai tội lỗi…Khó là bởi vì lòng người
còn nhiều tính hư tật xấu với những tham sân si (tham lam, nóng giận, đam mê
bất chính). Nhất là luôn tự cao tự mãn, luôn đặt cái tôi lên trên cái ta, chỉ
biết mình chứ không người, thu vén cho mình mà không dám cho đi vì tình
thương…thì thật khó vào nước trời biết bao! Tuy nhiên nếu giàu có mà biết sống
tình bác ái cho đi quảng đại với niềm tin tưởng và phó thác vào Chúa thì mọi
việc đều có thể.
2. Từ bỏ theo Chúa được gì?
Tính toán được mất, hơn thua không chỉ là suy nghĩ thường tình của người
đời mà còn là suy nghĩ của những môn đệ Chúa. Chính vì thế mà Phêrô đặt vấn đề
này với Chúa Giêsu: “Này đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy
chúng con được gì?”.
Thưa nếu vì yêu Chúa và cho Chúa mà ta đánh đổi mọi thứ trần gian này
như: sức khỏe, thời gian, của cải, tiền bạc, danh vọng, ngay cả tình thân…thì
Chúa hứa sẽ ban lại cho chúng ta gấp trăm ở đời và sự sống vĩnh cửu đời sau.
Kinh nghiệm của những người dám hy sinh bỏ lại tất cả để dấn thân theo Chúa
trên hành trên ơn gọi tận hiến cho thấy điều đó. Và phần thưởng ấy các môn đệ
Chúa cũng đã lãnh nhận với niềm hạnh phúc viên mãn trong nước trời.
Xin cho chúng ta dám từ bỏ những gì ngăn cản chúng ta đến gần với Chúa
và tha nhân, và xin Chúa cũng cho chúng ta biết đặt Chúa làm lẽ sống và cùng
đích của cuộc đời, để ta dám dấn thân bước theo Chúa và sống cho Chúa.
Thứ tư: Mt 20, 1-16a
Suy niệm 1:
Thiên Chúa là Đấng công bằng, nhưng cũng đầy lòng yêu thương vô cùng. Đó
là chân lý mà lời Chúa hôm nay khẳng định với chúng ta qua dụ ngôn những người
làm vườn nho.
1. Thiên Chúa rất ư là công bằng.
Những người thợ vườn nho đi làm từ sáng sớm, tỏ ra bất bình và khó chịu
trước cách thức trả lương của ông chủ. Họ cho rằng đã làm nhiều giờ, vất vã đổ
mồ hôi nhiều thì chủ phải trả tiền nhiều. Kẻ làm ít giờ, chịu nắng mưa và đổ mồ
hôi ít thì tiền công phải ít. Vậy mà tất cả đều được ông chủ trả như nhau, là
một đồng. Làm như vậy ông chủ có công bằng không?.
Tưởng như không công bằng trước cách thức trả tiền công của chủ. Nhưng
qua lời giải thích của ông chủ, ta thấy việc trả công của ông quá ư là công
bằng. Bởi lẽ ngay từ đầu họ đã thoả thuận và chấp nhận với chủ ngày công là một
đồng. Như thế ông chủ đã trả cho họ đúng với những gì họ đã thỏa thuận và xứng
với những gì họ đã làm. Còn ông chủ có trả cho thợ làm vào giờ chót
bằng số tiền của họ là vì tình thương của ông chủ. Chẳng lẽ ông chủ không được
làm điều ấy sao?
Thiên Chúa là Đấng công bằng vô cùng. Do đó, Ngài sẽ ban thưởng hay luận
phạt chúng ta theo công việc tội phúc mà chúng ta đã làm. Dĩ nhiên chúng ta
không nên đòi hỏi nơi Ngài sự công thẳng "vì nếu chấp tội nào ai
đứng vững".
2. Thiên Chúa còn là Đấng giàu lòng thương xót.
Thiên Chúa của chúng ta không chỉ công bằng mà Người còn giàu lòng yêu
thương. Những người thợ được ông chủ kêu gọi vào làm vườn nho ngay từ sáng sớm
đã là một vinh dự và là niềm an vui lớn lao rồi. Bởi lẽ họ không phải lo lắng
và chờ đợi việc làm. Kẻ được mời gọi vào những giờ chót trong ngày, họ
phải sống trong tâm trạng phập phòng lo lắng và phải lang thang suốt cả ngày đi
tìm việc làm. Cuối cùng tất cả đều được kêu gọi vào làm cùng một việc và
trong cùng vườn nho của chủ. Đó không chỉ là niềm vui lớn lao của người những
thợ làm vườn sau chót mà còn là vinh hạnh cao quý của người được gọi làm từ ban
mai. Sở dĩ ông chủ mời gọi tất cả vào làm vườn nho của ông, đó là vì Ngài
giàu lòng yêu thương, muốn tạo công ăn việc làm và cuộc sống cho mọi
người. Hình ảnh ông chủ ấy là Thiên Chúa và vườn nho là Giáo Hội của
Người.
Chúng ta là những người thợ vinh dự được Thiên Chúa mời gọi vào vườn nho
Giáo hội. Có thể trong chúng ta, có những người được mai mắn gia nhập vào vườn
nho Chúa rất sớm, ngay từ khi ban mai của cuộc đời; cũng có những người vì hoàn
cảnh hay lý do nào đó, họ chỉ được mời gọi vào vườn nho Giáo Hội trong thời
điểm của ngày tàn. Nhưng điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là chúng ta
đã được Chúa yêu thương mời gọi vào vườn nho Giáo Hội của Chúa, nên hãy ý thức
cố gắng làm việc hết mình và hết sức trước tình yêu mời gọi của Người.
Lạy chúa, xin cho chúng con đừng tự hào về những công việc chúng ta đã
làm, nhưng cho chúng con biết tự hào vì chúng con có một người Cha giàu lòng
xót thương. Người sẽ ban thưởng cho chúng con hơn những gì chúng con đã làm.
Suy
niệm 2:
Truyện: Cha Sở và Cha Phó
Tại một xứ đạo kia số dân khá đông, có cha Sở
và Cha Phó. Một số giáo dân, vì cuộc sống bác ái chưa trưởng thành, nên có hai
nhóm xung khắc nhau. Một nhóm quí Cha Sở, nhóm kia quí Cha Phó, vì ngài còn trẻ
và năng nổ.
Một hôm nhóm ủng hộ Cha Sở đến trao đổi tâm
tình với ngài:
- Thưa cha, cha ở đây đã lâu năm, công dày, đức
cao, sao cha để Cha Phó thay đổi nề nếp giáo xứ minh, bỏ đi công lao cha xây
dựng ? Và đám thanh niên cùng một số lớn giáo dân có vẻ nghiêng cảm tình về Cha
Phó. Xin cha ngăn cản đi.
Cha Sở bình tĩnh trả lời:
- Giữa tôi và Cha Phó ai vất vả hơn ?
- Cha Phó.
Cha Sở chậm rãi nói tiếp:
- Ngài còn trẻ, còn có sức hoạt động, phải dấn
thân nhiều, và Chúa cũng lo liệu và trợ giúp ngài bằng cách cho những tâm hồn
biết thông cảm, cộng tác. Đó là điều công bằng, điều tốt đẹp, sao các ông bà so
bì với tôi, một người đáng lẽ đã về hưu ?
Nghe Cha Sở nói sai tần số với mình, nhóm kia
chống chế:
- Cha cũng đã từng hoạt động dấn thân, có khi
còn hơn cả Cha Phó bây giờ.
Cha Sở nói tiếp:
- Và tôi cũng đã được người ta quí mến, ủng
hộ. Và biết đâu còn hơn Cha Phó. Vì bây giờ Cha Phó vẫn còn một số người thiếu
thông cảm, muốn hạ thấp.
Đám người kia ra về, họ cảm phục Cha Sở “đức
cao” và cảm thấy tâm hồn, cõi lòng mình sao nhỏ nhen, trần thế quá! Từ đó nạn
“bè phái” bớt nhiều.
Điểm nhấn của dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe phản ảnh 2 lối suy nghĩ
khác nhau về cách thức trả lương của ông chủ vườn nho:
- Lối suy nghĩ của một số người thợ làm việc nhiều giờ:
làm nhiều thì phải được trả công nhiều theo lẽ công bình theo suy nghĩ của họ.
- Lối suy nghĩ của ông chủ: Ông trả công vì thương
(nhưng lại không lỗi đức công bình), cho nên kẻ làm ít giờ cũng được trả lương
bằng kẻ làm suốt ngày.
+ Hai cách suy nghĩ trên phản ánh hai quan niệm khác
nhau của người Do Thái và của Chúa Giêsu:
- Người Do Thái làm việc đạo đức là nhằm để tính công với
Chúa. Họ nghĩ, họ làm nhiều thì buộc Chúa phải ban ơn cho họ nhiều.
- Đối với Chúa Giêsu thì: Thiên Chúa ban ơn cho con người không
phải vì công lao của họ mà vì tình thương của Ngài.
Dựa theo lý lẽ sự công
bằng theo cái nhìn tự nhiên của con người thì ta thấy như bất công và
đặt ra câu hỏi là tại sao “mấy người chỉ làm có một giờ, thế
sao ông chủ lại coi họ làm ngang hàng với những người đã làm việc nặng nhọc cả
ngày, bị nắng nôi thiêu đốt” (x.Mt 20,12).
Nhưng nếu dựa vào lý lẽ của
tình thương thì chúng ta lại thấy rất là hợp lý. Ví dụ trong gia đình, cha mẹ
lo cho con cái không phải vì lý lẽ công bằng, theo đúng công lao của chúng,
nhưng lại dựa theo lý lẽ của tình thương. Có thể một đứa con bệnh tật yếu đuối
chẳng làm gì được cho gia đình, nhưng lại được chăm sóc nhiều hơn. Nếu cha mẹ
trong gia đình mà cư xử với con cái theo lý lẽ công bằng thì không biết con cái
sẽ ra sao? Chúa cũng cư xử với chúng ta như thế. Cho nên ta hãy tạ ơn Chúa,
vì nếu cư xử theo công bằng thì không biết số
phận ta sẽ ra sao? Cho nên nếu chúng ta là người thợ làm
từ giờ thứ nhất, thì chúng ta đừng bao giờ ganh tỵ với người làm từ giờ thứ 11
(thí dụ như những người bên lương trở lại, những người hấp hối mới ăn năn tội).
Hãy có cái nhìn tích cực hơn là mình đã được diễm phúc hơn nhiều người bởi mình
được biết Chúa, ở với Chúa và làm việc trong vườn nho của Chúa lâu hơn những
anh chị em khác.
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường hay bị cám dỗ viện lẽ
công bình mà ganh tỵ với người khác. Những lúc ấy chúng ta hãy nghĩ đến câu
thánh vịnh: “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được!” (Tv
130,3). Chính vì Chúa cư xử với chúng ta bằng tình thương nên chúng ta mới có
thể đứng vững.
Có một câu chuyện dụ ngôn như sau:
Ngày nọ, Thiên Chúa ngạc nhiên khám phá ra rằng, tất cả mọi
người đều được vào Thiên Đàng mà không ai phải sa hỏa ngục. Ngài suy nghĩ phải
chăng Ngài là Đấng không công bằng sao?
Nên Ngài mới cho gọi sứ thần Gabriel đến và ra lệnh: “Ngươi hãy
tập trung tất cả mọi người lại trước mặt Ta và đọc cho họ nghe mười giới răn
của Ta”.
Thế là tất cả mọi người đều đến trình diện trước tòa Chúa.
- Sứ thần Gabriel đọc giới răn thứ nhất và Chúa lên tiếng phán
bảo: “Tất cả những ai đã phạm giới răn thứ nhất hãy xéo ra khỏi mặt Ta và đi
vào hỏa ngục ngay”. Thế là một số người từ từ tách ra khỏi đám đông và
buồn bã đi vào hỏa ngục.
- Sứ thần Gabriel tiếp tục đọc các giới răn khác. Và cứ sau mỗi
giới răn thì lại có thêm một số người rời bỏ đám đông để đi vào hỏa ngục.
- Sau khi sứ thần Gabriel đọc đến giới răn thứ sáu, thì tất cả
đám đông buồn bã ra đi…. xuống hỏa ngục hết, chỉ trừ còn lại một vị ẩn sĩ già.
Thiên Chúa đưa mắt nhìn sứ thần Gabriel rồi hỏi: “Phải chăng chỉ
có người này được vào Thiên Đàng ? Nếu vậy thì ông ta sẽ cô độc lẻ loi lắm”. Nói xong,
Ngài truyền lệnh cho sứ thần Gabriel gọi đám đông lại và cho họ trở vào Thiên
Đàng.
Nhìn thấy đám đông tội lỗi xấu xa bỗng dưng được tha thứ và được
trở lại Thiên Đàng, vị ẩn sĩ nổi giận và hằn học nói với Chúa: “Chúa không phải
là Đấng công bằng. Tại sao Chúa không cho con biết trước điều này ?”.
Câu chuyện cơ cấu trên cho ta thấy được cách tính toán của vị ẩn
sĩ già. Có lẽ nhiều lúc chúng ta cũng giống như vị tu sĩ già và của những người
thợ làm từ giờ thứ nhất trong bài Tin Mừng hôm nay. Cứ ngỡ rằng, ta đã giữ đủ
mọi thứ thì chỉ có ta mới xứng đáng với những phần thưởng của Chúa ban, còn
những người khác thì không.
Giữa một thế giới đầy những rào cản của kỳ thị, ganh ghét và toan tính, xin Chúa giúp chúng ta đừng cư xử với mọi người theo lẽ công bình, nhưng biết vươn tới tình thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. (St)
Suy niệm 3: LUÔN CÓ CƠ HỘI
“Các ngươi cũng hãy đi làm
vườn nho cho Ta!”.
John Sargent từng vẽ bức “Hoa Hồng”. Đó là một kiệt tác! Dẫu
hội hoạ sĩ đã ra một giá rất cao, nhưng anh vẫn từ chối bán nó. Anh coi đây là
tác phẩm tốt nhất của mình; để rồi bất cứ khi nào nản lòng và nghi ngờ về sự
sáng tạo của bản thân, anh nhìn nó và tự nhủ, “Tôi đã vẽ nó!”. Nhờ đó, anh
‘luôn có cơ hội’ đi tiếp, tiến tới đỉnh cao sự nghiệp với danh hiệu “Hoạ sĩ vẽ
chân dung hàng đầu cuối thế kỷ 19”.
Kính thưa Anh Chị em,
Như bức “Hoa Hồng” của Sargent, Bí tích Rửa Tội là một kiệt
tác thầm nhắc chúng ta rằng, Thiên Chúa đã ban ân sủng dẫy đầy để chúng ta bắt
đầu, rồi lại bắt đầu, hầu có thể tiến tới đỉnh cao sự nghiệp của mình; sự nghiệp
đó là “kế hoạch yêu thương” Thiên Chúa đã vạch cho mỗi người. Tin Mừng hôm nay
cho thấy điều đó.
Chủ vườn là hình ảnh một Thiên Chúa xót thương, quảng đại và
hào hiệp. Ngài đón nhận bất cứ ai sẵn sàng vào làm ‘vườn nho’ nhà Ngài ở bất cứ
thời điểm nào. Với Ngài, mọi người ‘luôn có cơ hội!’. Một trong những trải nghiệm
tồi tệ nhất, là bạn ‘chấp nhận’ đã đánh mất cơ hội để làm điều mình ao ước! Ấy
thế, trong đời sống thiêng liêng, mỗi người luôn có khả năng để bắt đầu lại. Tại
sao? Bởi lẽ, Thiên Chúa đã ban cho mọi người một quỹ thời gian đủ để đi về phía
Ngài; vì vậy, cả khi ngã quỵ, nhờ ơn Chúa, chúng ta vẫn có thể đứng lên và tiếp
tục đi tới.
Với Thiên Chúa, con người không chỉ ‘luôn có cơ hội’ để bắt đầu
lại, nhưng còn có thể trải nghiệm những nghịch lý xót thương của Ngài. Tình huống
dụ ngôn hôm nay là một bằng chứng: người làm ít, kẻ làm nhiều, đều nhận một
quan tiền! Chúng ta thường quên rằng, với Thiên Chúa, về mặt thiêng liêng, mọi
sự đều là quà tặng. Không ai có quyền đòi Ngài công bằng về ân sủng; những gì
chúng ta làm cho Chúa không bao giờ là ‘ân huệ’ dành cho Ngài; nhưng là những
nghĩa vụ ‘hiện sinh’; nói cách khác, đó là lý do chúng ta có mặt trên đời. Ngài
không mắc nợ ai! Mọi sự Ngài mang đến là nhưng không do tình yêu vô bờ của
Ngài. Chúng ta thường dễ dàng đối xử với Chúa theo cách loài người, đang khi
quên rằng, Ngài là Thiên Chúa; với Ngài, mỗi người ‘luôn có cơ hội’ phục vụ cho
vinh quang Ngài.
Anh Chị em,
“Hãy đi làm vườn nho cho Ta!”. Bức “Hoa Hồng” đã thúc giục
Sargent “Hãy đi!”; Bí tích Rửa Tội thúc giục bạn và tôi “Hãy đi!”. Vì thế, mỗi
khi nản lòng và không muốn đi tiếp, hãy lặng thinh trước ‘kiệt tác ân sủng’ của
mình, phép Thánh Tẩy, mà tiến về phía trước! Cũng vậy, lời mời gọi “Hãy đi làm
vườn nho cho Ta”, biểu tượng của mọi lời gọi, nhắc chúng ta hãy nhìn những con
người đã được Thiên Chúa trao cơ hội. Họ không chỉ là các thánh hoặc những tâm hồn
thánh thiện; nhưng còn là những người thu thuế, phong cùi, người nữ ngoại tình,
biệt phái hay ngay cả người trộm lành… những con người này đã đi tiếp, và đi tận
tới Nước Trời.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con nghi ngờ về khả năng nên thánh của
mình; sau mỗi lần thất bại, cho con can đảm đứng lên và đi tới, vì con ‘luôn có
cơ hội!’”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
Thứ năm: Ga 1, 45-51
Kính Thánh BA-TÔ-LÔ-MÊ-Ô, TÔNG ĐỒ
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay tường thuật lại sự kiện ông Philipphê giới thiệu Đấng
Messia cho ông Nathanaen, cũng gọi là Barthôlômêô. Khi nghe nói về Đức Giêsu,
ông Nathanaen không tin và cho rằng Ngài chẳng có gì nổi bật, vì xuất thân từ
làng quê Nadarét. Nhưng sau khi gặp Đức Giêsu, ông đã thay đổi cách nghĩ. Vậy
điều gì đã làm cho niềm tin của ông thay đổi?
Thời Đức Giêsu, dân Do Thái hiểu cách nói “vua Ít-ra-en” theo nghĩa: nhà
vua sẽ thực hiện cuộc cách mạng dân tộc, giải phóng Ít-ra-en khỏi ách đô hộ
nước ngoài, mà cụ thể là đế quốc Rôma. Ở Ga 1,49, ông Nathanaen cũng không hiểu
xa. Ông Nathanaen nghĩ vua Ít-ra-en phải trổi vượt, phải là một nhân vật nổi
bật hay ít ra cũng phải sinh ra trong một gia đình giàu có, quí phái ở một
thành đô hoa lệ. Nên khi Philipphê báo cho ông biết Đấng mà muôn dân đang mong
chờ đã xuất hiện là người làng Nadarét, Nathanaen đã không tin. Ông đã phản
bác “Từ Nadarét có thể có cái gì hay được”. Tuy nhiên, sau khi gặp
mặt Đức Giêsu và trò chuyện với Ngài thì ông đã bị thuyết phục và đã tuyên xưng
đức tin: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là vua
Ít-ra-en”.
Dẫu ông đã tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng
ông lại hiểu tước hiệu này một cách rất mập mờ. Cho mãi sau ngày Chúa Giêsu
Phục Sinh, ông mới hiểu cách rõ ràng về tước hiệu này.
Như thánh philipphê đã không ngần ngại giới thiệu Đức Giêsu cho người
bạn của mình, thì ngày nay, giữa một thế giới, xã hội đa văn hóa và tôn giáo,
chúng ta có ngần ngại giới thiệu Chúa Giêsu cho những người xung quanh không?
Và chúng ta phải giới thiệu Đức Giêsu thế nào cho phù hợp với thời đại cách
mạng công nghiệp 4.0 và sự bùng nổ của công nghệ 5G như hôm nay?
Sau khi gặp Chúa Giêsu, tông đồ Barthôlômêô đã thay đổi suy nghĩ, biến
đổi cuộc đời, trở thành môn đệ Chúa Giêsu. Sau ngày Chúa Giêsu phục sinh, ông
còn hăng say ra đi loan báo Tin mừng và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để làm
chứng cho Chúa. Còn chúng ta thì sao? Hằng ngày khi nghe lời Chúa, chúng ta có
để cho lời Chúa tác động, thâm nhập và đem ra thực hành không? Và mỗi khi rước
lấy Thánh Thể Chúa, chúng ta đã biến đổi cuộc đời như thế nào ?
Lạy Chúa Giêsu, niềm tin của chúng con còn non yếu nên chưa xác tín vững
mạnh vào Chúa. Xin Chúa củng cố niềm tin cho chúng con mỗi khi gặp gỡ Chúa qua
tha nhân, qua cầu nguyện, qua các biến cố...nhất là qua việc tham dự thánh lễ
hàng ngày. Nhờ đó mà cuộc đời chúng con được biến đổi nhờ lời giáo huấn và
Thánh Thể Chúa.
“Hãy đến
mà xem!”.
Bài đọc Khải Huyền lễ kính thánh
Bartôlômêô nói đến một ‘Giêrusalem từ trời’ với “Tường thành xây trên mười hai
nền móng, khắc tên mười hai tông đồ”. Ngày nay, không phải trên tường thành,
nhưng trên trần điện Sistine, ‘Giêrusalem mới’, tượng trưng Hội Thánh, vẫn còn
kiệt tác 400 tuổi Michelangelo đã ‘khắc’: “Bartôlômêô xách tấm da” của mình.
Theo một truyền thống, Bartôlômêô, người ‘không đóng cửa trước chân lý’, tử đạo
do bị lột da, chặt đầu. Vì thế, ngài là Quan Thầy thợ thuộc da, đóng sách và
người bán thịt!
Kính thưa Anh Chị em,
Trong Tin Mừng hôm nay, khi Philipphê
cho biết họ đã gặp Đấng Messia, thì Nathanael, tức Bartôlômêô đã phản ứng mạnh
mẽ, “Từ Nazareth, nào có chi hay?”. Tại sao? Rất có thể vì người Do Thái biết Đấng
Messia sẽ đến từ Bêlem, chứ không từ Nazareth. Điều này lập tức dấy lên trong
Nathanael một sự nghi ngờ. Đúng! Chúa Giêsu sinh ở Bêlem; về sau, lên định cư ở
Nazareth. Nathanael ‘quên khuấy’ chi tiết này!
Như Nathanael, bạn và tôi có thể dễ dàng
nghi ngờ các vấn đề đức tin và bao vấn đề khác. Nếu từ đầu, Philipphê cho biết
Chúa Giêsu sinh ở Bêlem, trưởng thành ở Nazareth thì có thể Nathanael đã ‘cởi mở’
hơn. Nhưng, sự việc xảy ra như thế, thì phải chăng ở đây, Chúa Thánh Thần muốn
dạy một điều gì đó quan trọng hơn. Đúng thế! Chúa Thánh Thần dạy bạn và tôi
‘không đóng cửa trước chân lý’ chỉ vì một điều gì đó thoạt đầu không có ý
nghĩa! Sự nghi ngờ không bao giờ đến từ Thiên Chúa, Ngài không gieo nó! Tin tốt
lành là, dẫu bộc lộ tức khắc một sự nghi ngờ, nhưng Nathanael vẫn cởi mở. Và để
trả lời cho ngờ vực này, Philipphê đã có một câu trả lời tốt nhất, “Hãy đến mà
xem!”.
Đến với Chúa Giêsu, Đấng đã nói rất ít về
Nathanael, một người “không có gì gian dối”, Nathanael đã cởi mở với Ngài và
nhanh chóng tuyên xưng niềm tin, “Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel”.
Nathanael lập tức nhận ra sự vĩ đại của Ngài, và điều này chỉ có thể có nhờ ân
sủng. Từ đó, cùng Philipphê và các tông đồ khác, Nathanael có thể thưa, “Lạy
Chúa, các bạn hữu Chúa nhận biết vinh quang Nước Chúa!” như lời Thánh Vịnh đáp
ca.
Vậy, điều gì đang khiến bạn khó hiểu về
cuộc sống, các mối tương quan và những mù mịt về đức tin? Nếu có điều gì đó khiến
bạn đang mù mờ theo cách này, hãy cho phép mình ‘không đóng cửa trước chân lý’
và làm theo lời tốt nhất của Philipphê, “Hãy đến mà xem!”. Nathanael thầm cho
biết, nếu chúng ta đem bối rối của mình đến với Chúa Giêsu, mở lòng với Ngài, tất
cả sẽ được sáng tỏ; mọi nghi ngờ sẽ phải tan bay!
Anh Chị em,
“Hãy đến mà xem!”. Chúa mời bạn và tôi
“đến xem” qua các trung gian, người thân, bạn bè… dẫu ban đầu có thể có những
nghi ngờ, nhưng miễn là ‘không đóng cửa trước chân lý’, chúng ta sẽ gặp Ngài, Đấng
luôn có cách để lôi kéo bạn và tôi đến gần Ngài. Từ cuộc gặp gỡ nhờ việc “đến
xem” ấy, Nathanael đã bỏ những thành kiến, định kiến cá nhân để phó mình hoàn
toàn cho Ngài; và kết quả, được Ngài biến đổi, trở nên một vị thánh vĩ đại, sống
trọn vẹn cho sứ vụ. Giờ đây, Giêsu Thánh Thể và Lời ân sủng của Ngài vẫn đang đợi
đang chờ chúng ta “đến xem”. Không chỉ “xem”, chúng ta còn chìm sâu trong cầu
nguyện, lặng thinh trong yêu mến, và nhất định, Ngài cũng sẽ biến đổi bạn và
tôi!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, dù bận rộn đến đâu, đừng bao
giờ để con bỏ việc “đến xem” Chúa mỗi ngày. Xem Chúa tốt lành nhường bao, xem
con đáng thương nhường nào!”, Amen.
* Suy niệm thường niên: Mt 22, 1-14.
Dụ ngôn tiệc cưới cho hoàng tử mà Chúa Giêsu nói đến trong đoạn tin mừng
hôm nay hơi lạ.
Lạ vì những người được nhà vua ưu ái mời đến đều từ chối vì nhiều lý
do: “Người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác
thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi”.
Lạ là sau khi những người được mời khướt từ thì vua lại sai đầy tớ ra
các ngả đường để mời gọi tất cả mọi người không phân biệt tốt xấu vào tham dự
tiệc cưới.
Lạ vì bất ngờ nhà vua lại trừng phạt nặng nề đối với người không mặc y
phục lễ cưới “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ
phải khóc lóc và nghiến răng!”. Chính vì những điều lạ như thế nên ta
hiểu rằng đây không phải là tiệc cưới bình thường mà là tiệc cưới nước trời.
Bàn tiệc nước trời được mở ra và lời mời gọi của Chúa được gửi đến tất
cả mọi người. Được tham dự bữa tiệc nước trời là khao khát lớn nhất của con
người. Tuy nhiên để xứng đáng tham dự vào bữa tiệc ấy, cần phải hội đủ hai
điều kiện:
- Biết trân quý lời mời gọi của Chúa mà tích cực đáp lại.
- Phải “mặc y phục lễ cưới”. Nghĩa là mặc lấy con người mới trong
Chúa Kitô là sống công chính và thánh thiện: “Anh em hãy mặc lấy
con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật
sự sống công chính và thánh thiện” (Eph 4,24).
Xin cho chúng ta biết tích cực đáp lại lời mời gọi của Chúa qua việc
siêng năng đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể do Chính Chúa Giêsu thết đãi hằng
ngày trên bàn thờ và luôn sống công chính, thánh thiện trước thiên nhan Chúa
hầu chuẩn bị tâm hồn xứng hợp cho việc tham dự vào bữa tiệc viên mãn trong nước
trời mai ngày.
Thứ sáu: Mt 22, 34-40
Suy niệm 1:
Xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu ngổn ngang những luật lệ, khiến dân
chúng không còn phân biệt đâu là chính, đâu là phụ. Ngay cả những người Biệt
phái còn cảm thấy rối não huống chi là giới bình dân. Tận dụng cơ hội ấy để làm
bẻ mặt Chúa Giêsu, nhóm Biệt phái đã cử một người thông luật đến với Chúa Giêsu
để hỏi thử xem điều luật nào là quan trọng nhất? Với câu hỏi ấy, họ không nhằm
tìm hiểu chân lý cho bằng nhắm đến hai mục tiêu:
1. Thử xem trình độ am hiểu về thánh kinh luật lệ của Chúa Giêsu ra sao?
Để bắt bẻ và hạ nhục nếu Người không giải thích thỏa đáng.
2. Nhân dịp này, họ cũng biết được Chúa Giêsu đang đứng về phe nhóm nào?
Bởi lẽ, thời bấy giờ có khá nhiều phe nhóm, mỗi phe nhóm đề cao một số luật lệ.
Chúa Giêsu dư biết dã tâm của họ. Nhưng vì muốn xác định lại tính chất
tinh tuyền của lề luật nên Chúa Giêsu đã trích dẫn lại hai câu Thánh kinh, một
trong sách Đệ-nhị-luật và một trong sách Lê-vi để trả lời cho họ: “Ngươi
phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí
khôn ngươi.”(Đnl 6, 5). Đó là điều quan trọng thứ nhất. Điều luật thứ hai
cũng quan trọng không kém, đó là: “Ngươi phải yêu thương người thân cận
như chính mình” (Lv 19, 18). Rồi Người kết luận: “Toàn thể lề
luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”. Như vậy
là đã rõ, điều luật quan trọng nhất mà TC ban cho nhân loại chính là tình yêu…
- Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và
hết trí khôn nghĩa là tình yêu ta dành cho Chúa phải chân thành và luôn
trung thành, trước sau như một, không bao giờ thay lòng đổi dạ, không một cản
trở nào làm giảm bớt hay sức mẻ, dù có phải hy sinh vẫn chấp nhận. Tình
yêu ấy phải được hướng dẫn bởi những tài năng của linh hồn như: lý trí, ý chí
và nhất là tự do; chứ không phải là tình yêu mù quáng.
- Yêu thương người khác như chính mình nghĩa là phải
đối xử với người khác cùng một “tình yêu” như ta đã xử với bản thân mình. Hơn
thế nữa, Chúa Giêsu còn mời gọi chúng ta quy hướng đến tình yêu “như Chúa yêu”.
Đó là một tình yêu phổ quát dành cho hết mọi người. Đó là một tình yêu
trao ban nhằm phục vụ nhu cầu chính đáng cho tha nhân: “người mù được
sáng, kẻ què đi được, người điếc nghe được, người câm nói được...”. Và
trên hết đó là một tình yêu hy hiến, sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì tha
nhân với mong muốn tha nhân được hạnh phúc, vui sướng và "được
sống dồi dào".
Lạy Chúa, yêu Chúa thì còn dễ nhưng yêu người khác như chính mình quả là
khó; mà yêu người khác như Chúa yêu thật khó biết bao nếu không có ơn Chúa
giúp. Xin Chúa ban ơn giúp sức và đong đầy sức mạnh tình yêu của Chúa vào
trong tâm hồn chúng con, để mỗi người chúng con can đảm sống và ứng xử với nhau
bằng chính tình yêu như Chúa yêu chúng con. Amen.
Suy niệm 2: CHIỀU SÂU CỦA TÌNH YÊU
“Điều
răn nào là điều răn trọng nhất?”.
Qua ống nhòm, một nhóm các nhà thực vật
học phát hiện một loài phong lan quý hiếm dưới khe núi, hai bên là vách đá! Để
có nó, ai đó phải thòng mình xuống. Một cậu bé tò mò đang ở gần; họ nói, cậu sẽ
được tưởng thưởng hậu hĩ nếu giúp họ gỡ được gốc hoa. Cậu nói, “Tôi sẽ quay lại!”.
Một chốc, cậu trở lại, theo sau là một người đàn ông; cậu nói, “Tôi sẽ xuống
núi lấy gốc hoa, nếu người này nắm sợi dây. Ông ấy là bố tôi!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay không nói đến chiều sâu
của một vách núi, nhưng nói đến ‘chiều sâu của tình yêu’. Trả lời câu hỏi của một
thông luật, Chúa Giêsu nói, “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn
và hết trí khôn”, “Và yêu người thân cận như chính mình”. Không chỉ nói đến ‘sức
mình’; nhưng như cậu bé, Ngài còn nói đến sức Trời, ‘một Ai đó’, Chúa Cha!
Vậy ‘chiều sâu của tình yêu’ là gì?
Trích dẫn Sallust, một sử gia La Mã, Bênêđictô 16 cho thấy nội dung đích thực của
tình yêu: “Muốn cùng một thứ và từ chối cùng một thứ; cái này nên giống cái
kia, và điều này dẫn đến ‘một cộng đồng’ của ý chí và tư tưởng”. Tình yêu đích
thực có hai chiều kích: tình yêu dành cho Thiên Chúa và tình yêu dành cho tha
nhân. Cái này không thể tồn tại nếu không có cái kia!
Yêu Chúa đòi hỏi phải yêu người khác. Điều
này không hề dễ dàng, đặc biệt trong một thế giới đề cao chủ nghĩa cá nhân và
cho phép dẫm đạp người khác để tiến thân. Nếu yêu thương người khác theo Cựu Ước
“như yêu chính mình” đã khó, thì việc yêu người khác theo yêu cầu của Chúa Kitô
“như Thầy đã yêu các con” lại khó biết bao. Đây là công việc không phải của sức
người, nhưng của sức Trời, ‘một Ai đó!’.
Đây là một trong những đổi mới quan trọng
trong giáo huấn của Chúa Giêsu, nó giúp chúng ta hiểu rằng, điều không được thể
hiện trong tình yêu thương đối với tha nhân không phải là tình yêu đích thực đối
với Thiên Chúa. Tương tự như vậy, những gì không rút ra được từ mối quan hệ của
con người với Thiên Chúa thì không phải là tình yêu đích thực đối với tha nhân!
Câu chuyện bà Rút hôm nay là một minh hoạ.
Naomi có một nàng dâu, ‘cô Rút’ ‘yêu mẹ chồng như chính mình’; Rút quên bản
thân để lựa chọn đi hay ở, “Mẹ đi đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở đó, dân của mẹ
là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con!”. Cuối cùng, điều kỳ
diệu đã xảy ra, chính Rút, người phụ nữ ngoại giáo này, sẽ là ‘Bà Tổ’ của
Giêsu, Đấng Cứu Thế. Để từ đó, muôn dân có thể cất lời ngợi khen, “Ca tụng Chúa
đi hồn tôi hỡi!” như Thánh Vịnh đáp ca mời gọi.
Anh Chị em,
“Điều
răn nào là điều răn trọng nhất?”. Trong lịch sử Giáo Hội, thế giới chứng
kiến những con người noi gương Giêsu Thầy mình, và với sức mạnh của Ngài, họ sống
đến cùng điều răn này. Họ là những con người đã khám phá ‘chiều sâu của tình
yêu’ nơi Thiên Chúa, hiện sinh nơi Chúa Giêsu. Hãy để Ngài ‘nắm lấy sợi dây’, bạn
và tôi cũng hãy đi và làm như vậy, bằng cách gần gũi, lắng nghe, chia sẻ, chăm
sóc người anh em!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, Đấng nắm giữ sợi dây đời con. Cho con đừng cậy sức mình, nhưng cậy sức Chúa để cũng có thể ‘thòng xuống’ mà khám phá ‘chiều sâu của tình yêu!’”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
Thứ bảy: Mt 23, 1-12
Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu lên án lối sống giả hình của các Kinh sư và
Biệt phái. Qua đó Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm sống thành thật trước Chúa,
chân thành với mọi người và ngay chính với lương tâm.
Tin mừng luôn cho biết: Chúa Giêsu rất yêu thương, cảm thông và sẵn sàng
tha thứ cho những tội nhân biết khiêm tốn ăn năn sám hối. Nhưng Chúa Giêsu cũng
rất cứng rắn lên án mạnh mẽ lối sống giả hình và kiêu
căng của những kinh sư và biệt phái.
- Giả hình vì họ không dám sống thật với lòng
mình. Họ nói mà không làm, hay nói một đàng làm một nẻo. Cuộc sống họ không
thống nhất giữa cái “là” và cái “làm”, nên Chúa Giêsu cảnh tỉnh mọi người “những
gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo
hành vi của họ; vì họ nói mà không làm”.
- Kiêu căng của họ được bộc lộ ra bởi nhiều hình thức
khác nhau:
. Để chứng tỏ cho mọi người thấy họ là những người có học thức và am
tường lề luật nên họ đã tùy tiện giải thích và đặt ra nhiều luật lệ theo ý
riêng của mình, vô tình luật trở thành gánh nặng cho dân chúng.
. Để chứng tỏ cho mọi người thấy họ là những người đạo đức nên họ không
ngần ngại bao bọc chung quanh cuộc sống của họ bằng nhiều hình thức đạo đức bên
ngoài: “Nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo...”.
. Với mong muốn được mọi người trọng vọng, họ tự đặt mình vào vị trí cao
nhất trong đám tiệc, cũng như ngồi vào ghế đầu trong hội đường. Nhất là rất
thích thú khi được người ta bái chào ngoài đường phố và hãnh diện khi được
thiên hạ gọi là thầy. Chính vì thế mà Chúa Giêsu không ngần ngại nhắc nhở
họ hãy trở về đúng vị trí của mình và hãy ý thức sống khiêm tốn trước mặt Chúa.
Bởi vì chỉ mình TC mới xứng danh là Thầy và là Cha mọi người.
Chúa Giêsu đã phán: “Ai nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nhấc lên.” Xin Chúa cho chúng ta biết tự hạ, sống khiêm như Giêsu từ ái. Lòng đơn sơ, chân thành cởi mở, đời hồn nhiên theo gương mẹ Maria sáng trong, nhờ đó ta mới xứng đáng được Chúa yêu thương chúc lành; cũng như được mọi người yêu mến.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét