SUY NIỆM LỜI CHÚA TUẦN XVIII
THƯỜNG NIÊN
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN A
KÍNH CHÚA HIỂN DUNG
Đn 7,9-10.13-14; 2Pr
1,16-19; Mt 17,1-9
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cùng lên núi với Chúa Giêsu không phải
để được biến hình, nhưng là để được biến đổi đời sống qua việc lắng nghe và
thực hành lời dạy của Chúa Giêsu, Con Chí Ái của Chúa Cha. Nhờ đó ta mới trở
nên hoàn thiện hơn như lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Các con hãy nên hoàn
thiện, như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt.5,48).
Ơn gọi của người Kitô hữu chính là trở nên người con trong Người Con yêu
dấu của Chúa Cha là Đức Giêsu Kitô. Nhưng làm thế nào để ta trở nên
người con yêu dấu của Chúa Cha trong Đức Giêsu?
Thưa, tin mừng hôm nay chỉ ra cho chúng ta một vài gợi ý sau đây:
- Chấp nhận đi vào con đường thập giá.
Nếu trước đó, khi nghe Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó mà
Ngài sắp phải trãi qua, thì các môn đệ, nhất là Phêrô đã không chấp nhận
nên đã đứng ra quyết liệt can ngăn; thì với cuộc biến hình này, Chúa Giêsu như
muốn giúp các ông hiểu rằng: vinh quang có được chỉ đến sau khi dám chấp nhận
đi vào con đường thập giá.
- Tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Tin mừng cho biết trong khi cầu nguyện trên núi cao, thì hình dạng Ngài
bổng biến đổi: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục
Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”. Khi ấy, Chúa Cha đã xác
nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người." (Mt
3, 16-17), và tiếp liền sau đó, Người mời gọi chúng ta hãy tin vào Đức Giêsu
chính là Con yêu dấu của Người.
- Vâng nghe lời Chúa Giêsu chỉ dạy.
Trong biến cố biến hình này Chúa Giêsu cũng đã minh định cho các tông đồ
biết: Ngài chính là Mô-sê (luật) và Ê-li-a (ngôn sứ) mới. Nơi Ngài gom tóm toàn
thể lề luật và lời ngôn sứ được nói trong Cựu ước; nay lề luật và lời ngôn sứ
ấy được kiện toàn hoàn hảo nơi Đức Giêsu: “Anh em đừng tưởng Thầy đến
để bãi bỏ luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ,
nhưng là để kiện toàn.” (Mt 5,17). Chính vì thế mà Chúa Cha đã
kêu gọi chúng ta là hãy "vâng nghe lời Người".
* Tóm lại, để trở nên người con yêu dấu của Chúa Cha trong Đức Giêsu,
đòi buộc chúng ta phải thực hiện hai việc sau đây:
- Chấp nhận từ bỏ tất cả, để tiến bước trên hành trình đức tin
theo Đức Giêsu, với niềm tín thác tuyệt đối vào thánh ý Thiên Chúa Cha nơi Đức
Giêsu Kitô.
- Phải luôn chú tâm lắng nghe và thực hành lời Chúa Giêsu chỉ dạy, qua
việc say mê học hỏi, suy niệm và sống Phúc âm. Hãy để cho lời Chúa thấm nhập
vào mọi suy nghĩ, lời nói và việc làm của chúng ta, như thánh Phao-lô đã cảm
nhận và nêu gương đời sống cho chúng ta: “Tôi sống, nhưng không còn
phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2, 20). Nhờ thế,
ta mới xứng đáng được gọi là “con yêu dấu của Chúa Cha”. Amen.
Suy niệm 2: HÃY TIN VÀO ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ CON THIÊN CHÚA
Bài đọc 1, trích sách tiên tri Đa-ni-en, trong một thị kiến tiên tri
Đa-ni-en nhìn thấy cảnh tượng choáng ngợp vinh quang, có sự xuất hiện của một
vị bô lão sáng chói và một nhân vật được gọi là "Con Người" đang ngự
giá mây trời mà đến. Vị bô lão ấy chính là Chúa Cha đã trao cho "Con Người"
tức là Chúa Giê-su Ki-tô quyền thống trị vĩnh cửu, vinh quang và vương quốc
chẳng hề suy vong; muôn người thuộc mọi dân tộc đều phải phụng sự Người.
Bài đọc 2, trích thư thứ hai của thánh Phê-rê tông đồ, ngài đã nhắc
lại những điều mắt thấy tai nghe qua những sự kiện lạ lùng mà Đức Giêsu đã thực
hiện, cụ thể qua hai biến cố trọng đại là: biến hình trên núi Ta-bor và sự phục
sinh vinh quang của Đức Giê-su Ki-tô. Từ đó, Thánh Phê-rô khẳng định với các
tín hữu đang gặp nhiều thử thách về niềm rằng: Chúa Giê-su chính là Con Một yêu
dấu của Chúa Cha và được Chúa Cha yêu mến. Để qua đó mời gọi các tín hữu hãy
tin tưởng tuyệt đối vào Người.
Tin mừng hôm nay thuật lại cuộc biến hình của Đức Giê-su trên núi
Ta-bor, nhằm củng cố niềm tin cho các môn đệ và mạc khải Thiên Tính của Người.
Biến cố biến hình trên núi Ta-bor xảy ra sau khi Đức Giêsu loan báo cho
các môn đệ Ngài biết về cuộc khổ nạn con đường thập giá mà Ngài sẽ phải trãi
qua. Nhưng tông đồ Phê-rô không chấp nhận Thầy mình đi vào con đường ấy. Thế là
ông đã đứng ra can ngăn quyết liệt. Vì thế, ông đã bị Chúa Giêsu khiển trách
rất nặng lời: “Sa-tan, hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa,
mà chỉ biết việc loài người.” (Mc 8, 33). Nếu chúng ta đặt
sự kiện Đức Giêsu hiển dung vào trong bố cảnh trên, ta mới hiểu được biến
cố Đức Giêsu biến hình trên núi Ta-bor mà Tin mừng hôm nay trình thuật là nhắm
đến 2 mục đích chính:
1. Củng cố đức tin cho các môn đệ
Qua lời tuyên bố của Chúa Cha từ trên
cao: “Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người",
Thiên Chúa như muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ vào Đức Giêsu chính là Con
Thiên Chúa và là Thiên Chúa một cách mạnh mẽ và vững vàng hơn.
2. Giúp các môn đệ can đảm chấp nhận con đường thập giá
Con đường thập giá là đường đau khổ, chẳng ai muốn đi. Cuộc biến hình
rực rỡ trên đỉnh đồi Tabor chính là liều thuốc đắng bọc đường gíúp các môn đệ
dễ dàng nuốt lấy vị đắng của hy sinh thập giá mà Đức Giêsu sắp bước vào; cũng
như nhờ qua vị ngọt biến hình này giúp các môn đệ đủ sức vượt qua những gian
nan, thách đố, đau khổ và hy sinh khi thi hành sứ vụ loan báo niềm vui tin mừng
nước trời sau này.
Chính sức mạnh đức tin mới đem lại cho ta niềm hy vọng để dấn bước theo
Chúa trên con đường thập giá. Đức tin cũng chính là sức mạnh giúp ta can đảm
đón nhận những nghịch cảnh xảy ra trong cuộc đời. Nhờ đức tin mà chúng ta mới
dễ dàng vâng theo thánh ý Chúa, ngay cả khi mạng sống của ta bị đe dọa, bởi ta
tin rằng ở phía sau thập giá ấy là cả một bầu trời vinh quang phục sinh rực
rỡ.
Xin Chúa ban thêm niềm tin nơi chúng ta, để trong mọi hoàn cảnh của cuộc
sống, chúng ta vẫn luôn trung thành bước theo Chúa, với niềm hy vọng vào mầu
nhiệm phục sinh vinh quang nơi Đức Giêsu Kitô, theo gương các Thánh Tử Đạo Việt
Nam, là những bậc tiền nhân của chúng ta.
Suy niệm 3: BIẾN ĐỔI TÍCH CỰC (St)
Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật hiển dung hay biến hình. Việc
Chúa Giêsu biến hình và hiển dung là một biến cố quan trọng. Việc này được cả
ba Tin mừng nhất lãm: Thánh Mat-thêu, Thánh Mac-cô và thánh Lu-ca ghi
lại.
1. Sự kiện
Câu chuyện này xảy ra 6 ngày sau khi Phêrô long trọng tuyên xưng Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa. Điều đáng chú ý là ngay sau đó lần đầu tiên Chúa
báo trước cho các môn đệ của Ngài biết là Ngài sẽ bị bắt, bị tra tấn và cuối
cùng sẽ phải chịu chết. Lời loan báo của Chúa làm các tông đồ choáng váng.
Phêrô không chịu nổi trước lời loan báo đó nên ông đã công khai lên tiếng can
ngăn Chúa. Phêrô tưởng làm như thế là làm vui lòng Thầy. Có ngờ đâu là lại bị
Chúa quở mắng cho một trận thậm tệ: “Sa-tan, hãy lui đi, vì ngươi không
biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”. Chúa đuổi
Phêrô cút xa cho khỏi mắt Ngài.
Và sau đó Chúa đem 3 môn đệ thân tín lên núi, ở đó Người biến hình rực
rỡ vinh quang. Có lẽ qua biến cố hiển dung này Chúa muốn cho các môn đệ không
phải quá thất vọng về mình sau khi loan báo cuộc thương khó lần thứ nhất.
Biến cố biến hình như thế nào thì chúng ta đã biết. Ở đây tôi chỉ
muốn lưu ý đến một vài điểm quan trọng sau:
1. Trước hết khi Chúa biến hình thì tất cả những gì thuộc con người
trần thế của Ngài hoàn toàn bị biến mất. Không còn một chút dấu vết gì về con
người nhân tính của Ngài nữa.
2. Sau đó Ngài đã để tỏ lộ ra một Đức Giêsu hoàn toàn khác. Ba môn
đệ của Chúa đã phải ngây ngất trước một Đức Giêsu hoàn toàn đổi khác như thế.
3. Thái độ của các môn đệ của Chúa, làm cho chúng ta cũng phải vui
lây. Phêrô đã không ngần ngại đề nghị với Chúa để ông được làm một điều mà
trước đó có lẽ chưa bao giờ ông dám nghĩ tới. Ông cũng như các bạn của ông đều
muốn kéo dài đến bất tận cái cảnh tuyệt vời này.
4. Thế nhưng Chúa đã không cho ông được dừng lại ở đó. Chúa lại dẫn
các ông xuống núi để tiếp tục cho xong con đường mà Chúa đã lựa chọn.
Sau này khi nhớ lại câu chuyện ông đã từng được chứng kiến, Phêrô đã
viết như thế này: “Khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc
quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo
những chuyện hoang đường được thêu dệt một cách khéo léo, nhưng là vì chúng tôi
đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người...” (2Pr 1,16-17)
Vâng! Cuộc biến hình và hiển dung của Chúa đã làm cho các môn đệ vững
tin hơn. Tuy nhiên niềm tin ấy còn phải được củng cố thêm bằng biến cố Phục
sinh. Chỉ sau biến cố Phục sinh và được Chúa Thánh Thần biến đổi, các tông đồ
mới trở thành những người hoàn toàn thuộc về Chúa.
2. Bài học
Thử hỏi câu chuyện hôm nay sẽ đem lại cho chúng ta bài học gì ? Có nhiều
bài học nhưng ở đây tôi chỉ muốn nói đến sự biến hình.
Rõ ràng là mọi người đều thấy: Không phải chỉ có một lối biến hình, mà
có hai: có loại biến tốt nên xấu. Giuđa là một thí dụ. Và có loại biến hình từ
tầm thường trở nên tốt đẹp hơn. Chúng ta có thể kể ra đây trường hợp của Phêrô.
Chúng ta phải cảnh giác với loại thứ nhất và chú tâm vào loại thứ hai.
* Có loại biến hình làm cho chúng ta phải sợ.
Nhiều người đã được trông thấy bức ảnh Tiệc Ly của nhà danh hoạ Leonard
de Vinci có Chúa Giêsu và 12 tông đồ ăn bữa sau hết. Họa sĩ muốn tìm một
khuôn mặt thật dịu dàng và nhân từ, đẹp đẽ, để hình dung nét mặt cực thánh của
Chúa Giêsu, thì may mắn làm sao, lúc vào một nhà thờ kia, ông thấy trong đám
thanh niên hát lễ, có anh Pietro Bandenelli, một thanh niên có nét mặt khôi ngô
phi thường. Sau một hồi nói chuyện, cậu đã bằng lòng theo ông về sở để làm mẫu
cho ông vẽ. Cặm cụi vẽ xong, họa sĩ đem treo ở xưởng, và ai hỏi mua ông cũng
không bán.
Sau đó hai năm, họa sĩ tài danh ấy lại phải mất nhiều thời gian để tìm
ra một người có nét mặt cứng cỏi và xấu xí tượng trưng cho gương mặt của Giuda.
Ông vào một ngõ hẻm, thì gặp một người bẫn thỉu, xấu xa, ghẻ lở, giơ tay xin
ông bố thí. Ông nghĩ bụng, dầu có đi hết các phố chợ, có lẽ cũng chẳng gặp ai
xấu hơn chàng này. Ông bảo chàng đứng dậy đi theo về nhà để ông vẽ cho xong bức
ảnh kia, bởi bức ảnh chỉ còn thiếu Giuda là xong.
Khi bước vào nhà, trông thấy bức tranh, chàng tự nhiên khóc lên. Chủ nhà
cũng như mọi người trong phòng đều ngạc nhiên không hiểu lý do gì. Người ta
gặng hỏi, chàng mới trỏ tay lên bức ảnh và nói: Ông quên tôi rồi sao ?
Cách đây hai năm, tôi đã được ông mời đến đây để làm mẫu cho ông vẽ khuôn mặt
Chúa Giêsu. Khi ấy tôi đẹp đẽ, đã được ông ca tụng và lấy làm mẫu để vẽ Chúa
Giêsu. Nhưng sau đó tôi đã nhẹ dạ theo chúng bạn, tôi đâm ra chơi bời, sa đọa;
ngày nay trong cảnh túng thiếu, bị các bạn và anh em bỏ rơi, tôi chỉ còn trông
cậy vào đức ái của ông mà thôi. Vâng một cuộc biến hình nhưng thật đáng
ghê sợ. Ngày nay cũng không thiếu gì những cảnh biến hình như thế.
* Và có những việc biến hình làm cho chúng ta mong ước.
Trong biến cố hôm nay Chúa đã làm biến đi tất cả những gì thuộc về con
người trần thế của Ngài để sau đó hình ảnh về một vị Thiên Chúa nơi Đức Giêsu
được hiển lộ ra vinh quang rực rỡ. Cuộc đời của người Kitô hữu chúng ta
đang lữ hành trên con đường tiến về nhà cha trên trời cũng phải như thế. Mỗi
ngày sống trên trần thế này là mỗi ngày chúng ta phải lột xác để biến hình và
hiển dung nên xinh đẹp giống Chúa hơn.
Cha John Diamond một nhà giảng thuyết nổi tiếng bên Mỹ có kể lại câu
chuyện này: “Hôm đó có một linh hồn vì chán ngấy cuộc sống ở thế gian cho nên
linh hồn đi lên trước cửa Thiên đàng. Tới nơi linh hồn gõ cửa. Ở trong có tiếng
hỏi vọng ra: “Ai đó”
Linh hồn trả lời: “Con đây ạ” .
Cửa vẫn đóng.
Sau đó linh hồn lại trở về với đời sống ở trần thế tìm thầy học đạo. Sau
một thời gian thấy mình đã tiến bộ, linh hồn lại lên gõ cửa thiên đàng một lần
nữa. Lại một tiếng hỏi từ bên trong như lần trước và linh hồn trả lời một cách
quả quyết hơn:
- Dạ chính con đây.
Cửa vẫn đóng.
Linh hồn lại phải trở về trần thế...mở sách Tin Mừng để xem Chúa muốn
gì. Quả thực khi mở Tin Mừng ra linh hồn mới thấy con đường của mình phải đi.
Đó là con đường tự hủy. Chúa nói thật rõ về con đường đó. Đó là phải làm chết
cái tôi ích kỷ, hay khoe khoang phô trương, hay tự mãn, hay ghen ghét của mình.
Phải làm chết đi cái tôi đầy hận thù, nhiều kiêu ngạo và đầy dẫy những ham muốn
bất chính để làm cho con người của mình dần dần được giống Thiên Chúa là Cha ở
trên trời hơn. Sau một thời gian thấy mình quả thực đã không còn là mình
nữa thì linh hồn lại lên trời...lại gõ cửa...lại có tiếng từ bên trong hỏi vọng
ra:
- Ai đó ?
Vừa nghe xong câu hỏi linh hồn đáp lại ngay:
- Dạ thưa chính Chúa đấy ạ.
Vừa trả lời xong thì linh hồn thấy cửa Thiên đàng được mở ra và cả một
đạo binh các thiên thần long trọng đón linh hồn vào thiên đàng.
Cuộc biến hình mang ý nghĩa tích cực là những cuộc biến hình khởi đi từ
sự quyết tâm trở với Chúa về sau những lần trượt ngả qua việc thành tâm ăn năn
sám hối lãnh nhận bí tích giải tội để đón nhận tình thương và sự tha thứ của
Chúa; việc biến hình mỗi ngày nên xinh đẹp hơn khi chúng ta biết đến gần Chúa
qua những thánh lễ và dọn lòng mình xứng hợp để đón nhận Thánh Thể Chúa Giêsu
cách sắt sắng; và quan trọng nhất vẫn là biết vâng nghe lời Chúa Cha phán dạy
là “hãy vâng nghe và thi hành lời dạy bảo của Đức Giêsu Kitô, con yêu
dấu của Người”. Nghe và thực hành lời Chúa chính là điều kiện căn bản nhất
để biến đổi cuộc đời chúng ta mỗi ngày nên giống Chúa Giêsu, con yêu dấu của
Chúa Cha. Mà để nên giống Đức Giêsu thì một trong những điều quan trọng nhất là
làm theo thánh ý Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là thi hành
ý định muôn năm của vị trí sai Thầy.” (Ga 4,34).
Suy niệm 4:
Có thể nói giá trị cao quý nhất mà ai cũng
tìm kiếm và mong đạt đến đó chính là: chân thiện mỹ. Khi nói về mỹ, nghĩa là
cái đẹp thì không ai có thể cưỡng lại được. Bởi lẽ ai cũng thích đẹp: thích
mình đẹp, thích ngắm người đẹp, thích chiêm ngưỡng cảnh đẹp. Cho nên, các tông
đồ thật sung sướng và ngây ngất khi chiêm ngắm vẻ đẹp thần thánh tuyệt trần khi
nhìn thấy cảnh tượng Thầy mình biến hình trên núi Ta-bor.
Vẻ đẹp thần thánh ấy đã tỏa ra rực rỡ, khiến
cho dung nhan Đức Giêsu trở nên chói lọi như mặt trời, y phục Ngài rạng ngời
sáng láng như mặt trăng. Vẻ đẹp thần thánh ấy được toát ra không phải nhờ Make
up bên ngoài nhưng đến từ bên trong tâm hồn. Bởi lẽ tâm hồn đẹp mới toát nên vẽ
đẹp thể xác bên ngoài.
Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã trải qua
một thời, với mong sao có được “cơm no áo ấm” để rồi ngày nay, chúng ta lại
bước vào thời kỳ mới làm sao được “ăn ngon mặc đẹp”. Chính vì quan tâm đến mặc
đẹp bên ngoài nên có khá nhiều người dành thời giờ và tiền bạc để chăm chút
ngoại hình của mình, với ước mong sao được xinh đẹp hơn. Họ mong muốn có được
một làn da mịn màng, tươi trẻ, dáng vóc thon thả nên đi tẩy trắng, cắt mắt,
nâng mũi, chỉnh sửa môi cằm miễn sao đẹp là được, bất chấp tốt kém và đau đớn
vì dao kéo.
Mới đây trên trang web
VOV2, tác giả Thu Hà, có đăng tải một bài nói về vẻ đẹp, với tựa đề: Hoa
hậu đâu chỉ là vẻ đẹp hình thể.
Tác giả cho biết: “Chỉ sau 1 tuần đăng quang
ngôi vị “Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023” (Miss World Vietnam 2023), hoa hậu
Huỳnh Trần Ý Nhi lại “đăng quang” nhiều “danh hiệu” không mong muốn khác như
“Hoa hậu drama”, “Hoa hậu vạ miệng”, “Hoa hậu dẫn đầu số lượng anti-fan”… (Nhóm
anti-fan Hoa hậu Ý Nhi trên mạng xã hội hiện đã lên tới hơn 260.000 thành viên
và vẫn tiếp tục gia tăng). Sở dĩ Huỳnh Trần Ý Nhi bất đắc dĩ bị
nhận những ‘danh hiệu” này là do cô đã có những phát ngôn gây “vạ miệng” mà
đỉnh điểm là câu nói: “Trong khi bạn bè đồng trang lứa với tôi chỉ dành thời
gian để ngủ, để chơi, để uống trà sữa, thì tôi đã tham dự cuộc thi hoa hậu. Tôi
nghĩ mình trưởng thành hơn các bạn, khi mà các bạn vừa đi học vừa đi làm thì
tôi đã là một hoa hậu”. Không dừng lại ở đó, trong một phát ngôn khác cô lại tự
cho mình là người nổi tiếng ở Bình Định, sánh ngang với các danh nhân
như nhà thơ Hàn Mặc Tử và vua Quang Trung.
Ồn ào về những phát ngôn gây tranh cãi của
Hoa hậu Ý Nhi khiến dư luận bức xúc chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Thậm chí “nóng”
đến mức nhiều nghệ sĩ và khán giả đề nghị Ban tổ chức Miss World Vietnam 2023
tước bỏ danh hiệu của Hoa hậu Huỳnh Trần Ý Nhi vì cho rằng cô không xứng đáng,
bất chấp việc cô và đại diện Ban tổ chức trực tiếp xin lỗi khán giả.
Xưa nay, danh xưng hoa hậu vốn là biểu tượng
cho vẻ đẹp phụ nữ Việt Nam, từ ngoại hình đến trí tuệ, tâm hồn... Bởi lẽ, người
đoạt chiếc vương miện danh giá không chỉ là người chiến thắng về nhan sắc mà
còn là người hội tụ nhiều yếu tố, đặc biệt là trí tuệ, tài năng, nhân cách và
tâm hồn… mới có thể lan tỏa những giá trị tốt đẹp cho cộng đồng, cho xã hội,
góp phần tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ, và nét đẹp văn hóa. Còn nếu yếu tố trí
tuệ, tài năng và nhân cách thì chỉ là người xinh thôi chứ không phải là Hoa hậu
đúng nghĩa.
Chiêm ngắm vẻ đẹp sáng ngời của Chúa Giêsu
qua biến cố biến hình trên núi Ta-bor hôm nay, Chúa cũng muốn chúng ta mỗi ngày
trở nên xinh đẹp hơn, sáng hơn, rực rỡ hơn không chỉ trong mắt người đời mà còn
trong mắt Chúa nữa. Nhưng làm sao để biến đổi đời mình trở nên xinh đẹp hoàn
hảo như lòng Chúa mong muốn?
Thưa trước hết, Chúa
mời gọi chúng ta hảy chọn Chúa làm lẽ sống, nghĩa là sống theo lối
sống của Chúa Giêsu, như lời của Chúa Cha đã phán truyền: “Ðây là Con Ta yêu
dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”. Như vậy muốn đẹp lòng Chúa thì điều
kiện trước tiên là phải vâng nghe lời Chúa Giêsu chỉ dạy. Nghĩa là để cho lời
Chúa thấm nhập và chiếu rọi cuộc đời mình, nghĩa là để cho lời Chúa biến đổi ta trở nên can đảm dám
chấp nhận từ bỏ mình, vác thập giá hàng ngày mà theo Chúa, nghĩa là để cho lời
Chúa biến đổi từ con người của ta từ trong tối tăm tội lỗi trở nên con người
tươi sáng; từ con người ích kỷ tham lam thành người quảng đại bác ái, hy sinh
phục vụ; từ con người kiêu căng tự đắc trở thành con người của khiêm nhu tin
tưởng phó thác vào quyền năng của Chúa.
Thứ hai để được biến đổi nên đẹp lòng Chúa,
ta còn phải nỗ lực tiến bước mỗi ngày được gần Chúa hơn. Ta hãy lưu ý đến địa
điểm mà Đức Giêsu biến hình, đó là ở trên ngọn núi cao, điều này muốn nói với
ta là: muốn được biến đổi nên xinh đẹp, đòi hỏi ta phải nỗ lực cố
gắng vươn lên để thể hiện lối sống cao cả, cao đẹp, cao thượng, cao
quý hơn. Chúa Giêsu chỉ biến hình khi lên núi cao để tiếp xúc thân mật với
Chúa Cha. Vì thế để được biến đổi, chúng ta cần phải cố gắng vươn lên cao để
gặp gỡ Chúa, nhờ đó mà những bóng tối của thù hận, giận hờn, ganh ghét… làm cho
gương mặt ta trở nên xấu xí ghê sợ được ánh sáng vinh quang của Chúa xua tan
nhường chỗ cho ánh sáng bao dung, quảng đại, yêu thương, tha thứ ,hy sinh
phục vụ của Đức Giêsu lan tỏa nơi tâm hồn và cuộc sống của mỗi người chúng ta.
Ứơc mong tâm tư, ý nghĩ, lời nói, hành
động… của chúng ta được biến đổi mỗi ngày nên xinh đẹp hơn, nhờ vào việc lắng
nghe lời dạy của Chúa Giêsu và gắn kết đời mình với Người nhờ vào đời
sống cầu nguyện cũng như tích cực chu toàn bổn phận Chúa trao với lòng yêu mến
Chúa. (St)
TRUYỆN:
1. Khi chúng ta hiển dung
Jiddu Krishnamurti, người Ấn-độ (1895- 1986) là một tác
giả và nhà diễn thuyết nổi tiếng về các vấn đề triết học và tinh thần, cho
rằng, trong mỗi con người có ba “nhân vật” đang chung sống:
* Một là “tôi-là." Đây là con người thật của tôi,
chân tướng của tôi. Ví dụ: bản chất tôi (tôi-là) là người tham lam, ích kỷ,
lười biếng…)
* Hai là “Tôi-muốn-là." Đây không phải là bản chất
con người tôi, nhưng là con người mà tôi mong muốn trở thành. Ví dụ: Tôi hiện
là người tham lam, ích kỷ, lười biếng nhưng tôi muốn sống như là người quảng
đại, vị tha, năng động…
* Ba là “Tôi-tưởng-tôi-là." Đây cũng không phải là
bản chất con người tôi, nhưng là ảo tưởng tôi có về mình. Ví dụ: Một số kinh sư
và Pha-ri-sêu thời Chúa Giêsu thực chất là người tham lam dối trá, nhưng cứ
tưởng mình là người công chính đạo đức.
2. Hãy biết mình
Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất
kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng
thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo
thù.
Một lần kia nó nói với sư tử rằng:
– Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông
giống anh lắm. Nó bảo em rằng: “Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám
đối mặt với nó." Thằng cha này không coi ai ra gì cả!
Sư tử tức giận và bảo rằng:
– “Thế mày có nhắc đến tên tao không?”
Thỏ trả lời:
– Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng
lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.
Sư tử càng tức điên người lên và hỏi:
– Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.
Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở
đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!
Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy
giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng
trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử
xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên
kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống
giếng để cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ
diệt đời mình dưới giếng sâu…
3. Biến hình
Một nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm sự về cuộc
đời của ông như sau: Khi còn trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu
nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực
để biến đổi thế giới này."
Khi đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa đời người trôi
qua mà tôi không thay đổi được một người nào hết, nên tôi đã thay đổi lời cầu
nguyện của tôi như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi những
người trong gia đình của con.”
Giờ đây tôi đã già và những ngày còn lại chỉ đếm được
trên đầu ngón tay, nên lời cầu nguyện của tôi lại được thay đổi một lần nữa như
sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến đổi chính mình con.”
Và ông kết luận: “Nếu tôi biết cầu nguyện như
thế này từ ngày còn trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời.”
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN A
Is 55, 1-3; Rm 8, 35. 37-39; Mt 14, 13-21
Tin mừng hôm nay khắc họa khuôn mặt của một vị Thiên Chúa giàu
lòng thương xót nơi Đức Giêsu. Thánh Matthêu cho biết Chúa Giêsu chính là hiện
thân của lòng thương xót của Thiên Chúa:
- Qua ánh mắt cảm thông: Mặc dù Chúa Giêsu và các
môn đệ xuống thuyền tìm đến một chỗ hoang vắng để nghỉ ngơi đôi chút, nhưng
khi “ra khỏi thuyền, Đức Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo
thì chạnh lòng thương”, nên Ngài đã mở lòng đón tiếp họ.
- Qua lời giảng dạy chân tình: Vì muốn mang đến cho dân
chúng Tin mừng cứu độ, nên Chúa Giêsu đã không ngần ngại “đi khắp các
thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước
Trời” (Mt 9, 35). Ngay khi lúc Ngài tìm đến
nơi thanh vắng để nghỉ ngơi đôi chút, vậy mà khi
thấy dân chúng tuôn đến, Ngài lại sẵn sàng ra đón tiếp và giảng dạy
cho họ về Tin mừng nước trời.
- Qua những việc làm thiết thực: Ngài sẵn sàng “chữa
lành hết các bệnh nhân” tìm đến với Ngài. Khi nhìn thấy họ đói và rất
cần ăn uống để đủ sức trở về với mái ấm gia đình, Chúa Giêsu đã không ngần ngại
“làm phép lạ hóa bánh ra nhiều” cho 5000 người ăn no nê, dư 12 thúng đầy, từ 5
chiếc bánh và 2 con cá, khởi tâm từ một sự đóng góp nhỏ nhoi của con người.
Xin cho chúng ta biết không ngừng cảm tạ, chúc tụng tình thương
lớn lao của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, bằng cách siêng năng tìm đến Chúa qua
việc tích cực tham dự thánh lễ và năng rước Chúa; nhất là biết cảm thương và
nhiệt tâm làm việc bác ái giúp đỡ người nghèo theo khả năng của mình, nhằm góp
phần lan tỏa lòng thương xót của Chúa.
Thứ hai: Mt 14, 13-21
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay khắc họa khuôn mặt của một vị Thiên Chúa giàu
lòng thương xót nơi Đức Giêsu. Thánh Matthêu cho biết Chúa Giêsu chính là hiện
thân của lòng thương xót của Thiên Chúa:
- Qua ánh mắt và tấm lòng: Mặc dù Chúa Giêsu và các môn đệ xuống
thuyền tìm đến một chỗ hoang vắng để nghỉ ngơi đôi chút, nhưng khi “ra
khỏi thuyền, Đức Giêsu trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng
thương”, nên Ngài đã mở lòng đón tiếp họ.
- Qua lời giảng dạy: Vì muốn mang đến cho dân chúng Tin mừng
cứu độ, nên Chúa Giêsu đã không ngần ngại “đi khắp các
thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước
Trời.” (Mt 9, 35). Ngay cả khi Ngài tìm đến nơi thanh
vắng để nghỉ ngơi đôi chút, nạp lại năng lượng, lấy lại
sức, vậy mà khi nhìn thấy dân chúng tuôn đến, Ngài lại
tiếp tục hăng say rao giảng Tin mừng nước trời cho họ.
- Qua việc làm: chạnh lòng trước những nỗi đau khổ về phần xác và
phần hồn của dân chúng, Ngài không ngần ngại ra tay “chữa lành hết các
bệnh nhân” tìm đến với Ngài. Ngài còn làm phép lạ hóa bánh ra
nhiều cho 5000 người ăn no nê, dư 12 thúng đầy từ 5 chiếc
bánh và 2 con cá. Nhờ đó mà họ mới có đủ sức để trở về với mái ấm gia đình
mình.
Xin cho chúng ta biết không ngừng cảm tạ, chúc tụng tình thương
lớn lao của Thiên Chúa dành cho chúng ta nơi Đức Giêsu, bằng cách siêng năng
tìm đến Chúa qua việc tham dự thánh lễ và năng rước lễ; nhất là biết cảm thương
và tích cực làm việc bác ái giúp đỡ người nghèo, với mong muốn góp phần lan
truyền lòng thương xót của Chúa đến với mọi người.
Suy niệm 2: NÔN NẢ TÌM KIẾM
“Nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, Chúa Giêsu rời bỏ nơi
đó, xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các
thành phố đi bộ theo Ngài”.
Kính thưa Anh Chị em,
Phúc Âm hôm nay mở đầu với một ‘hung tin’ như thế! Biết
vậy, Chúa Giêsu bỏ đám đông để được ở một mình. Vậy mà chẳng yên thân; dân
chúng ‘nôn nả tìm kiếm’ Ngài!
Trước cái chết của Gioan, một cái chết báo trước cái
chết của Ngài, Chúa Giêsu đau đớn lặng người. Cái chết của Gioan hầu như không
tạo ra một dư luận ồn ào nào, và xem ra, cũng không có lấy một lời nỉ non; phải
chăng vì nó xảy ra lặng lẽ ở một góc tối dưới một dinh thự sáng rực náo nhiệt
nhân tiệc mừng ngày sinh của một quận vương ngông cuồng! Chúa Giêsu không vui
và âm thầm rút vào cô tịch là lẽ thường. Thế nhưng, việc người ta không để Ngài
yên là điều khó chấp nhận! Ngài đã phản ứng thế nào? Thấy họ, “Ngài chạnh lòng
thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ”.
Hãy chiêm ngắm trái tim và lòng lân mẫn của Chúa Giêsu!
Bao lần chúng ta viện lý do sợ quấy rầy Ngài; ngần ngại trở lại với Ngài vì lỗi
này, lỗi kia; chúng ta sợ những gì Ngài sẽ nghĩ, điều Ngài sẽ trách; chúng ta
xấu hổ… và kết quả là, chúng ta tìm cách xa lánh Ngài. Thật ủi an khi Tin Mừng
hôm nay cho biết, Ngài không xua đuổi ai nhưng luôn trắc ẩn với bất cứ ai tìm
đến Ngài. Bởi thế, dù thấy mình bất xứng đến đâu, tội lỗi đến mấy, bạn hãy cứ
mạnh dạn ‘sấn tới’; Ngài không bao giờ mệt mỏi để tha thứ. Hãy ‘nôn nả tìm
kiếm’ Ngài và nhất tâm hy vọng với lòng tin tưởng lớn lao nhất!
Bài đọc Dân Số hôm nay tiết lộ một trải nghiệm tương tự
của Môisen; ông phải chịu đựng, giày vò, khi chứng kiến cảnh “Dân tụm
năm tụm bảy đứng ở cửa lều mà kêu khóc”. Họ kêu khóc vì nóng lòng vào Đất
Hứa cũng đành; đàng này, họ kêu khóc vì những quả dưa gang, dưa chuột, củ hành,
củ hẹ xứ người… Đã quá mệt mỏi với dân đến nỗi Môisen xin được chết cho khuất
mắt Chúa; ông ‘nôn nả tìm kiếm’ Ngài, nói khó với Ngài. Và Thiên Chúa đã mủi
lòng! Ngài ban cho dân thịt ăn theo một cách thức lãng mạn không ít ngoạn mục
khi cho chim cút rơi xuống rợp trại ngay giữa chốn heo hút; để rồi, họ ‘trơ
tráo’ hát mừng, “Reo lên mừng Thiên Chúa, Đấng trợ lực chúng ta!” như
Thánh Vịnh đáp ca thổ lộ.
Một linh mục thân tín của cố Tổng Giám Mục Philipphê
Nguyễn Kim Điền tâm sự. Mỗi ngày, ngoài giờ làm việc và đọc sách, Đức Cha hầu
như thường xuyên ở trước Mình Thánh Chúa trong phòng nguyện sát phòng ngài. Có
lần, vị linh mục phải xuất hiện đến hai ba lần, Đức Cha mới đứng lên và xuống
tiếp khách, dù trước đó ngài biết có người lấp ló. Đặc biệt, những lúc khó
khăn, hầu như ngài không rời nơi đó suốt ngày!
Anh Chị em,
“Chúa Giêsu rời bỏ nơi đó”. Lời Chúa mời gọi bạn và tôi tự hỏi, mỗi khi cô đơn,
đau buồn; mỗi khi đối diện với các vấn nạn dường như không thể vượt qua, chúng
ta kiếm điều gì, tìm đến ai? Môisen, dân chúng thời Chúa Giêsu, Đức Cha
Philipphê đã mách cho chúng ta, ai mới là người đáng cho chúng ta kiếm tìm! Quả
thế, chỉ nơi Giêsu, trong Giêsu và nhờ Giêsu, bạn và tôi mới tìm được sức sống,
sự mạnh mẽ, sự an toàn và suối nguồn bình an đích thực!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, không tìm Chúa, con sẽ tìm một thứ gì khác,
một ai khác. Cho con thôi khờ khạo!”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
Suy niệm 3: CHẠNH LÒNG THƯƠNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa yêu thương săn sóc như người mẹ
hiền. Không chịu nổi khi thấy con cái đau khổ thiếu thốn. Đã nghe thấy tiếng
than thở của Ít-ra-en sống kiếp nô lệ lầm than. Đã ra tay giải thoát họ khỏi
ách nô lệ Ai-cập. Khi vào sa mạc không có bánh ăn, họ kêu than trách móc. Chúa
đã ban man-na nuôi họ. Ăn man-na mãi cũng chán, thiếu thịt, họ lại kêu than oán
trách. Mô-sê vừa thương vừa sợ. Chạy đến kêu cầu Chúa. “Sao Ngài đặt gánh nặng
tất cả dân này lên con? …Có phải con đã sinh ra nó không mà Ngài lại bảo con:
‘Hãy bồng nó vào lòng, nhu vú nuôi bồng trẻ thơ, mà đem vào miền đất Ta đã thề
hữa với cha ông chúng? Con lấy đâu ra thịt cho cả dân này ăn”. Mô-sê, tôi tớ
của Chúa cũng có tấm lòng của Chúa. Yêu thương dân. Nên không chịu nổi tiếng
kêu than của dân. Và Chúa chạnh lòng thương ban chim cút cho họ ăn dư thừa (năm
lẻ).
Đến thời sau hết, chính Thiên Chúa đích thân
đến chăm sóc dân Người. Hôm nay Chúa Giê-su bày tỏ tấm lòng yêu thương chăm sóc
cho dân như người mẹ hiền. Chúa chạnh lòng thương vì thấy họ lầm than khốn khổ.
Chúa dạy các tông đồ phải lo cho họ ăn. Đừng để họ đói khát đi về đường xa trời
tối. Bánh của Chúa ban khiến họ không những ăn no nê. Mà còn hạnh phúc. Vì cảm
nhận được tình yêu thương của Chúa. Và hơn nữa Chúa còn chữa lành mọi bệnh hoạn
tật nguyền. Giải thoát họ khỏi nô lệ trong cõi u mê không lối thoát. Chúa chính
là tấm bánh làm no thoả mọi cơn đói khát của con người. Với quyền năng và tình
thương Chúa biến những tấm bánh bé nhỏ thành lớn lao nuôi cả vạn người. Chúa
biến nỗi khổ thành niềm vui. Chúa biến thất vọng thành hi vọng. Chúa biến nô lệ
thành tự do. Chúa biến lầm than thành hạnh phúc.
Có những tiên tri giả đem tấm bánh giả dối đến
cho dân. Tấm bánh vẽ với những lời hứa hão huyền, dễ dãi. Như Kha-nan-gia. Ông
không làm theo lời Chúa. Ông đưa dân vào con đường lầm lạc. Nên chính ông phải
chết trước (năm chẵn). Tấm bánh của Chúa là tấm bánh thật. Tấm bánh ban không
dễ dàng. Vì chính Chúa phải từ trời xuống. Phải chịu biết bao vất vả. Phải chịu
cả khổ hình và cái chết. Mới có thể ban tấm bánh hạnh phúc đích thực thoả mãn
mọi cơn đói khát của ta. Mô-sê và Giê-rê-mi-a cũng là những môn đệ đích thực.
Nên phải đau khổ, vất vả, yêu thương phục vụ dân Chúa.
Xin cho con biết phân biệt bánh thật và bánh
vẽ. Xin cho con trở thành môn đệ đích thực của Chúa. Phục vụ bằng tình yêu và
hi sinh. Để đem tấm bánh của Chúa cho nhân loại.
Thứ ba: Mt 14, 22-36
Nhớ Thánh Đa-minh, linh mục
Suy niệm 1:
Cuộc đời chúng ta có lúc yên bình, nhưng lắm khi cũng gặp giông bão,
khiến chúng ta sợ hãi bất an. Xin Chúa ở bên che chở, chấn an và giúp ta
chọn lựa hướng sống phù hợp với ý Người. Nhờ đó, thuyền đời của ta
mới có thể vượt qua sóng gió hiễm nguy của biển đời mà cập bến bình an,
nhờ sức mạnh ơn ban của Chúa.
Những hình ảnh được đề cập trong đoạn Tin mừng hôm nay giúp chúng ta
hiểu rằng:
1. Hình ảnh biểu trưng:
- Các môn đệ chính là mỗi người chúng ta.
- Con thuyền là Giáo Hội.
- Biển khơi là trần gian.
- Đêm tối, bảo tố, sóng gió là những thử thách do ma quỷ
gây nên.
2. Giống như các môn đệ xưa, chúng ta đã bước vào con thuyền
của Giáo Hội, khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy.
Cùng ở trong con thuyền Giáo hội, chúng ta đang hiệp hành tiến
bước trên biển trần này.
3. Tựa như con thuyền của các môn đệ bị sóng to gió lớn đánh dữ
dội, thì ở mọi thời, mọi nơi... Giáo Hội cách chung, cách riêng thuyền đời của
mỗi người chúng ta cũng phải đương đầu với bao là chống đối, vu
khống, bôi nhọ và loại trừ...do thế lực của ma quỷ, thế gian, xác thịt gây ra.
4. Ví như bóng đêm là những vết đen đáng tiếc xảy ra trong Giáo
Hội. Hay những đau khổ, thất bại và bất hạnh xảy đến trong cuộc sống,
khiến cho niềm tin chúng ta chao đảo, lắm khi mất cả phương hướng sống.
5. Sánh như tông đồ Phê-rô, vì nghi ngờ vào quyền năng của Chúa,
khiến ông sợ hãi, sắp chìm. Cuộc đời của người Kitô hữu chúng ta khi đối mặt
với những khó khăn, đau khổ và thử thách... khiến ta lo sợ, nghi ngờ vào quyền
năng Chúa nên lắm khi đánh mất niềm tin và hy vọng để buông mình chìm sâu vào
dòng chảy của biển đời. Nhưng hãy vững tin vì có Chúa luôn ở bên đời ta để nâng
đỡ và ra tay cứu giúp, nếu chúng ta biết tha thiết kêu cầu Người như tông đồ
Phêrô: “Lạy Thầy, xin cứu tôi”.
Xin Chúa ban thêm lòng tin nơi chúng
con, để dù trong bất cứ hoàn cảnh thử
thách nào, ngay cả những lúc bước đi trong đêm tối của đức tin, chúng
con cũng vẫn an tâm tiến bước trên sóng gió của biển đời. Xin Chúa thương đồng
hành và hướng dẫn để con vững bước tiến về bến bờ của bình an.
* Khi nói về Thánh Đa-minh, GH dùng nhiều biểu tượng để khắc họa ơn gọi và sứ vụ của ngài.
1. Ngôi sao 8 cánh: Trong ngày rửa tội, người mẹ đỡ đầu
ngài nhìn thấy một ngôi sao 8 cánh chiếu sáng trên tráng ngài suốt buổi lễ rửa
tội. Nhiều người cho đây là điềm báo về tương lai sáng lạng của thánh
nhân: ánh sáng rạng ngời soi GH.
2. Con chó ngậm đuốc sáng: Khi mang thai, mẹ
ngài nhìn thấy một giấc mơ lạ lùng. Bà thấy một con chó ngậm đuốc sáng đang
chạy như muốn đốt cả thế giới. Người ta cho rằng đây là điềm báo nói về ơn gọi giảng
thuyết của ngài sau này.
3. Cành hoa huệ: tượng trưng cho nhân đức khiết
tịnh nổi tiếng và tâm hồn thánh thiện tinh tuyền của
ngài. Vì thế mà trên 4 đầu thánh giá huy hiệu của dòng Đa minh do ngài sáng lập
đều có hoa huệ trắng nở tươi.
4. Sách Phúc Âm và cây gậy: tương truyền rằng
thánh Phê-rô và thánh Phao-lô hiện đến với thánh nhân trong một giấc mơ và trao
cho ngài quyển sách Phúc âm và cây gậy. Hai biểu tượng nói lên sứ mạng
của người môn đệ là luôn mau mắn lên đường rao giảng Tin mừng.
5. Chuỗi Mân Côi: truyền thuyết vẫn cho rằng,
Đức Mẹ đã hiện ra với thánh nhân và trao tràng chuỗi mân côi, rồi dạy ngài cách
lần hạt mân côi. Đây chính là vũ khí mạnh mẽ nhất giúp ngài
chống lại các bè rối và là phương cách tốt nhất để ngăn chặng sức mạnh của quân
thù.
6. Áo dòng đen-trắng: ngài là vị sáng lập
dòng anh em thuyết giáo hay ta quen gọi là dòng Đaminh, thánh nhân đã chọn tu
phục với hai màu đen-trắng cho anh em trong dòng của ngài. Hình ảnh này cũng
được cách điệu trên huy hiệu của dòng Đaminh.
Với 6 hình ảnh trên phần nào đã khắc họa lại con người, ơn gọi và sứ vụ
của thánh Đaminh. Qua đây Chúa cũng muốn chúng ta noi gương và bắt chước đời
sống của thánh nhân để ta cũng khắc họa đời mình trở nên những ảnh xinh đẹp,
tinh tuyền và tươi sáng trong mắt Chúa và trong lòng mọi người.
Suy niệm 2: SỰ KỲ DIỆU CỦA CÔ ĐƠN
“Giải tán họ xong, Ngài lên núi cầu nguyện một mình.
Đến chiều, Ngài vẫn ở đó một mình!”.
“Một là tự tử, hai là về thành phố, ba là ôm chặt
Chúa!”. Đó là chia sẻ của cha René Voillaume khi ngài nói đến ‘thời gian nhà
tập’ của một Tiểu Đệ Chúa Giêsu tại sa mạc Sahara, nơi nhiệt độ thông thường có
thể lên đến 58°C và lạnh dưới - 45°C!
Kính thưa Anh Chị em,
Không phải đợi đến ngày vào sa mạc Sahara, Đừc Giêsu
mới chọn ‘ôm chặt Chúa’; nhưng trong suốt cuộc sống của mình, Ngài đã luôn ôm
chặt Chúa Cha. Thật thú vị, với ý tưởng này, Tin Mừng hôm nay hé lộ ích lợi của
cô đơn; đúng hơn, ‘sự kỳ diệu của cô đơn!’.
Khi bạn coi việc ở một mình là cô đơn, Chúa Giêsu coi
nó là cô tịch; khi bạn coi cô tịch là lãnh địa của trống vắng, Chúa Giêsu coi
nó là lãnh địa của gặp gỡ; khi bạn chạy trốn cô tịch, Chúa Giêsu đi tìm nó! Nhờ
kiên trì ôm chặt Chúa Cha như Chúa Giêsu, bạn và tôi mới có thể cảm nhận ‘thiên
đàng của những gặp gỡ’, cảm nhận ‘sự kỳ diệu của cô đơn!’. Tuy nhiên, điều làm
cô đơn trở nên kỳ diệu là một cô đơn đầy Chúa, một cô đơn ‘ôm lấy Chúa và được
Chúa ôm lấy’, chứ không phải cô đơn theo nghĩa cô độc nghèo nàn!
Sau khi giải tán dân, Chúa Giêsu lên núi một mình để
cầu nguyện. Quan trọng, để cầu nguyện! Ngài sẵn sàng rời bỏ sự vồ vập của đám
đông để ở một mình với Chúa Cha, một điều gì đó mà Ngài khắc khoải mỗi ngày.
Khác với Chúa Giêsu, việc ở một mình của chúng ta có thể nhanh chóng dẫn đến
một nỗi cô đơn nhất định; những lúc ấy, chúng ta cảm thấy bị thôi thúc muốn tìm
một ai đó, một thứ gì đó vốn có thể giúp gây mê, hầu tránh khỏi cảm giác đau
đớn. Nếu đúng vậy, hãy học ôm chặt Chúa Cha như Chúa Giêsu, ở lại với Ngài; học
cách tận hưởng sự hiện diện của Ngài! Bấy giờ, ‘sự kỳ diệu của cô đơn’ sẽ tỏ
mình, ‘thiên đàng’ sẽ tỏ hiện, nỗi đau biến thành niềm vui và bất an biến thành
bình an.
Như Chúa Giêsu, bạn hướng lòng lên Chúa, kết hiệp với
Ngài; và điều sẽ xảy ra là chính lúc đó, bạn có thể liên đới với những người
khác cách sâu sắc hơn. Một mình trên núi “cho đến chiều tối”, Chúa Giêsu vẫn ý
thức việc các môn đệ đang vật lộn với biển, Ngài vẫn gần gũi họ; từ đó, kịp có
mặt với họ trong cuộc chiến đấu với sóng dữ, kêu gọi họ can đảm. Và cuối cùng,
bước lên thuyền, đưa họ vào bờ. Cũng thế, trong cầu nguyện, chúng ta ở gần và
đến gần những người khác cách đặc biệt. Đó chính là ‘sự kỳ diệu của cô đơn!’.
Bài đọc Dân Số nói đến một trải nghiệm tương tự. “Lều
Hội Ngộ” được coi như điểm hẹn cô tịch để con người gặp gỡ Thiên Chúa, tìm lại
chính mình. Chúa đòi vợ chồng Aaron và Miriam ra đó, vì hai người này có lỗi
với Môsê. Ở đó, Ngài nói cho họ sự sai trái. Và cũng ở đó, Aaron và Miriam nhận
ra lỗi mình, và xin Ngài xót thương, “Lạy Chúa, xin dủ lòng xót thương, vì
chúng con đắc tội với Ngài!” đúng với tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Ngài vẫn ở đó một mình!”. Càng ở với Thiên Chúa, Chúa
Giêsu càng gần con người. Như Ngài, chúng ta ôm chặt Chúa, ôm chặt thiên đàng,
nhưng vẫn có thể gần gũi với tha nhân. Như vậy, cô đơn không thể mài mòn; trái
lại, giúp chúng ta gắn bó với Chúa, sống trong tình yêu thương của Ngài; đồng
thời, liên kết sâu sắc với anh chị em mình để trở nên khí cụ bình an của Ngài
cho họ. Rõ ràng, cô đơn cũng có sự kỳ diệu của riêng nó!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con sợ cô đơn, dạy con yêu mến nó,
một cô đơn đầy Chúa; nhờ đó, con có thể cảm nhận sự kỳ diệu của nó!”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
Thứ tư: Mt 15, 21-28
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay khắc hoạ hình ảnh về một người phụ nữ tuyệt đẹp trong
đức tính, cách ứng xử và đức tin mạnh mẽ.
Xin cho chúng ta biết học đòi bắt chước gương sáng của bà, để chúng ta
xứng đáng được Chúa chúc lành.
Nét đẹp của người phụ nữ Á đông nói chung, cách riêng phụ nữ Việt Nam
xưa nay được quý trọng ở đức tính chịu thương, chịu khó, khiêm tốn và kiên
nhẫn.
Nói như thế thì người phụ nữ ngoại giáo trong đoạn tin mừng hôm nay có
đầy đủ những đức tính ấy:
- Với đức tính chịu thương của người mẹ, chắc hẳn bà ta
đã tiêu tốn không ít là tiền của và sức lực để tìm thầy, chạy thuốc khắp nơi
cứu chữa cho đứa con yêu quý của bà khỏi tình trạng khốn khổ do ma quỷ gây nên.
Chính sức mạnh tình thương đã giúp bà ta vượt qua mọi rào cản ngăn cách của
luật lệ cấm kỵ giữa người Do Thái và dân ngoại mà tìm đến với Chúa Giêsu.
- Với đức tính chịu khó, bà đã không ngần ngại vượt qua
ranh giới hiểm trở tìm đến với Thầy Giêsu, với mong muốn con mình được cứu chữa
khỏi thần ô uế ám hại.
- Với lòng khiêm tốn, bà ta đến trước mặt Chúa Giêsu rồi
phục lạy Người với lời khấn xin: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Lòng
khiêm tốn ấy càng sâu thẳm khi nhìn nhận mình chỉ là chó con trước mặt
Chúa. “Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn
rơi dưới bàn ăn của con cái”.
- Với tinh thần nhẫn nại, bà đã không nản
lòng trước lời từ chối khó nghe của Chúa Giêsu “Hãy để con cái ăn no
trước đã vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó”. Nhưng
những lời đắng lòng ấy đã không làm cho bà tự ái và bỏ cuộc; trái lại làm cho
bà thêm kiên nhẫn nên van xin cho tới cùng “Vâng, lạy Ngài, vì chó con
cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”.
* Tất cả những đức tính cao quý trên sẽ không có được nơi người phụ nữ
nếu không có được đức tin mạnh mẽ. Chính nhờ lòng tin mạnh mẽ của bà mà đứa con
yêu quý của bà được Chúa Giêsu cứu chữa, như lời Chúa Giêsu xác nhận: “Này
bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy.”
Suy gẫm về hình ảnh của người phụ nữ ngoại giáo tuyệt đẹp hôm nay, ta
cảm thấy hổ thẹn vì nhiều người trong chúng ta không có được những đức tính cao
quý và đáng yêu như bà: chịu thương, chịu khó, lòng khiêm tốn và kiên nhẫn
trong tương quan và công việc. Nhất là đức tin của chúng ta còn chưa đủ mạnh để
dám phó thác hoàn toàn vào tình thương và quyền năng của Chúa, đấng chúng ta
tôn thờ.
Xin Chúa giúp chúng ta có được đức tin mạnh mẽ để trong mọi hoàn cảnh ta
luôn sẵn sàng tín thác vào lòng thương xót. Đồng thời cũng cho chúng ta ý thức
sống tốt những đức tính nhân bản cần thiết trong đời sống làm người.
Suy niệm 2: THIÊN CHÚA XÓT THƯƠNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Các bài Sách Thánh hôm nay tương phản nhau
mãnh liệt: niềm tin của dân ngoại và sự bất tín của Ít-ra-en. Ít-ra-en đã chứng
kiến biết bao việc kỳ diệu Chúa làm nhưng vẫn thiếu niềm tin. Hôm nay họ sợ
người khổng lồ nên chống đối Mô-sê, chống lại ý Chúa. Không chịu vào Đất Hứa
theo hướng nam qua vùng Ca-đê mà chọn đi vòng qua phía đông theo sông Gióc-đan.
Họ thiếu niềm tin vào Chúa. Xét về quân đội thời ấy, còn ai mạnh hơn Ai cập.
Thế mà Chúa đã tiêu diệt tất cả trong nháy mắt. So với quân đội Pha-ra-ô thì
những người khổng lồ này có là gì. Nếu tin Chúa họ đâu phải sợ hãi đến hoảng
loạn và chống lại ý Chúa như vậy (năm lẻ).
Tuy Ít-ra-en bất tín. Nhưng Chúa vẫn trung
tín. Sau khi trừng phạt rồi lại xót thương. Tiếp tục yêu thương và cứu chữa họ:
“Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót
thương. Ta sẽ lại xây ngươi lên, và ngươi sẽ được xây lại” (năm chẵn).
Lòng thương xót của Chúa bao la. Nên sau cùng
đã trải rộng ra khỏi Ít-ra-en, đến với mọi dân mọi nước. Hôm nay người phụ nữ
Ca-na-an đã được hưởng lòng thương xót của Chúa. Đó là dấu hiệu Chúa lập ra một
dân mới. Bà chưa hề biết Chúa, mới chỉ nghe nói, thế mà đã tin tưởng hết sức
vào Chúa.
Chúa đặt ra trước mặt bà 3 chướng ngại lớn và
bà đã vượt qua.
- Một sự im lặng: Chúa không đáp lại lời bà
xin. Nhưng bà vẫn tha thiết, kiên trì và dai dẳng cầu xin.
- Một lời từ chối: “Thầy chỉ được sai đến
với chiên lạc nhà Ít-ra-en thôi”. Ranh giới đã được phân định. Thế mà bà
vẫn nhất quyết nài xin.
- Một lời nhục mạ: “Không nên lấy bánh của
con cái mà ném cho chó”. Thật là tàn nhẫn. Nhưng bà này đã chấp nhận: “Nhưng
chó cũng có thể được những mảnh vụn bánh từ bàn chủ rơi xuống”. Vượt qua 3
vật cản xuất sắc nên bà xứng đáng được Chúa khen thưởng và ca ngợi về lòng tin.
Bà không còn phải là chó con nữa. Bà trở nên con cái Chúa. Được đồng bàn với
Chúa. Không còn phải chờ bánh vụn. Nhưng được hưởng bánh tự do trên bàn của
Chúa.
Tạ ơn Chúa vì Lòng Thương Xót của Chúa bao la trải rộng khắp mười
phương. Xin cho con được vững tin vào Lòng Thương Xót của Chúa.
Suy niệm 3: KHÔNG ĐÁP LẠI MỘT LỜI
“Chúa Giêsu không đáp lại một lời!”.
Gioan Maria Vianney, một người mà đầu đời, dường như
Thiên Chúa không đáp lại một lời với chủng sinh này. Sức khoẻ kém, trí khôn
giới hạn, học lực khiêm tốn. Vậy mà, nhờ kiên trì, Vianney làm linh mục. Suốt
40 năm, Vianney đã đốt lên ‘ngọn nến đời mình’ cho đến khi không còn gì để tiêu
hao. Ấy thế, “Tù nhân chiếc hộp giải tội” đã làm thánh, đến nỗi Lyon phải xây
nhà ga mới, tăng các chuyến tàu từ Ars để phục vụ hàng vạn linh hồn!
Kính thưa Anh Chị em,
Thiên Chúa thường im lặng, đó là một sự thật! Tin Mừng
hôm nay chứng thực điều đó. Một phụ nữ ngoại giáo cứ lẽo đẽo theo sau Thầy trò
Chúa Giêsu, xin Ngài chữa cho con gái mình; vậy mà phản ứng đầu tiên của Ngài
là ‘không đáp lại một lời!’.
Thật ngạc nhiên, hiện thân của một Thiên Chúa xót
thương ‘không đáp lại một lời’ trước nài nỉ của một người mẹ khốn khổ; ngạc
nhiên hơn, sau sự can thiệp của các môn đệ, Ngài bảo, “Thầy chỉ được
sai đến cùng các chiên lạc nhà Israel!”, “Đấng Cứu Độ Muôn Dân” chỉ đến với
chiên lạc Israel? Chưa hết, những lời ‘muối mặt’ không thể hiểu nổi, “Không
nên lấy bánh của con cái mà vứt cho cún!”. Thật sốc! Nhưng rõ ràng, do sự
quan phòng, Chúa Cha đã lôi kéo cô đến với Ngài và Ngài đã ‘tương tác’ với sự
lôi kéo này, không phải để thô lỗ hay từ rãy nhưng cho phép cô thể hiện một đức
tin vốn còn ‘rất thiếu’ nơi nhiều người. Đó là lý do tại sao, thoạt tiên, Ngài
từ chối!
Trong cuộc sống, nhiều lúc xem ra Thiên Chúa rất câm
nín. Nhưng nếu Ngài câm nín, chúng ta phải biết, Ngài có lý do. Ngài không bao
giờ ngoảnh mặt; đúng hơn, sự im lặng của Ngài là một cách thức để lôi kéo chúng
ta đến gần Ngài hơn; hơn cả việc Ngài muốn chúng ta thuộc về Ngài tức thì ngay
khi Ngài hét ‘thật to, thật rõ’ điều đó! Im lặng của Chúa không nhất thiết là dấu
hiệu của việc Ngài chẳng thiết tha gì đến chúng ta, nhưng đó thường là ‘một
hành động mang tính thanh luyện’ nhằm mời gọi chúng ta biểu lộ đức tin của mình
lên một cấp độ cao hơn, đầy đủ hơn và dĩ nhiên, mạnh mẽ hơn.
Sách Dân Số hôm nay, cách nào đó, cho thấy sự lạnh lùng
của Thiên Chúa. Ngài nói thật nhiều, nhưng khác nào, đã ‘không đáp lại một lời’
trước những con người mà Ngài gọi là “cộng đồng hư đốn”. Ngài phán, “Cộng
đồng hư đốn này đã cấu kết với nhau chống lại Ta. Trong sa mạc này chúng sẽ bị
tiêu diệt và sẽ chết hết!”. Nói thì vậy, nhưng Ngài đã không làm thế! Quả
vậy, nhờ lời cầu khẩn của Mô-sê, Ngài tha cho dân. Thánh Vịnh đáp ca bộc lộ tâm
tình, “Lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con, bởi lòng thương dân Ngài!”.
Anh Chị em,
“Ngài không đáp lại một lời nào!”. Biết bao lần Thiên Chúa câm nín trước con người như
Ngài đã câm nín trước Giêsu, Con Một! Ngài đang câm nín trước một cuộc chiến vô
lý không hồi kết; Ngài câm nín khi hàng vạn người không nhà không cửa vì trận
lũ 140 năm mới có một lần! Đúng như sách Dân Số cho thấy, Thiên Chúa thanh
luyện con người theo cách của Ngài, vào giờ của Ngài, với lòng thương xót và ý
muốn thánh thiện của Ngài. Phần bạn và tôi, cứ kiên trì cầu nguyện và đốt lên
‘ngọn nến đời mình’ cho đến khi không còn gì để tiêu hao!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cả khi con xem ra không còn gì để mất, xin
cho đầu gối con được sưng lên vì kiên tâm ngước lên Ngài!”, Amen.
(Lm Minh Anh, Tgp. Huế)
Thứ năm: 2Cr 9,6-10; Ga 12, 24-28
Kính Thánh Lô-ren-xô, phó tế, tử đạo
Cả hai bài đọc hôm nay đều nói lên tinh thần hy sinh vô vị lợi vì
nước trời.
Bài đọc 1: Với nguyên tắc bình thường, ngoại trừ bất thường, Thánh
Phaolô cho biết: “gieo nhiều” sẽ “gặt nhiều”. Theo nguyên tắc này, thánh Phaolô
kêu gọi các tín hữu Côrintô cũng như chúng ta hãy tích cực dâng hiến đời mình
để phục vụ Chúa. Nhưng để dâng hiến phục vụ, đòi hỏi ta phải hy sinh. Mà hy
sinh là việc làm khó. Bởi lẽ ta thường cho rằng những gì ta dâng hiến là của
ta. Nhưng thực ra những gì ta “Có” và ta “Là” đều do Thiên Chúa ban tặng.
Nên “ai vui vẻ dâng hiến sẽ được Thiên Chúa yêu thương” (x. 2
Cr 9,7).
Còn bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta
hiểu được quy luật căn bản: chết để được sống, “nếu hạt lúa gieo vào
lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó
mới sinh được nhiều bông hạt.” (Ga 12,24); dựa trên quy luật này chúng ta mới hiểu được lời xác quyết của Chúa
Giêsu: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi
thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời
đời.” (Ga 12,25).
Thầy phó tế Lô-ren-sô đã nhận ra nguyên tắc và hiểu được quy luật
ấy nên ngài đã vui vẻ dâng hiến đời mình mà sẵn sàng chết đi vì tình yêu.
- Yêu Chúa, thánh nhân đã rời bỏ quê hương
Hu-ét-cô, nước Tây Ban Nha thân yêu để đi đến Rô-ma du học. Tại đây ngài được biết
đến là con người nổi danh về tài đức. Nhưng không vì thế mà ngài tìm cho mình
cuộc sống vinh hoa, phú quý. Trái lại, thánh nhân đã dùng tài đức Chúa ban để dấn
thân phụng sự Chúa và phục vụ đắc lực cho GH dưới thời Giáo hoàng Xít-tô II, trong một bối cảnh đầy hiểm nguy
bởi sự cấm cách và bách hại khắc nghiệt của hoàng đế Đê-ci-ô.
- Yêu người, thánh nhân đã không ngại hy sinh dấn
thân trong trách nhiệm phục vụ người nghèo. Với vai trò là vị phó tế trưởng,
quảng trị tài sản của Giáo hội, ngài luôn ưu tư lo cho người nghèo. Ngay trong
giờ phút nguy khốn nhất, với cái chết cận kề, ngài vẫn không quên dùng tất cả
tài sản của Giáo hội để đem ra phân phát cho người nghèo. Với ngài tài sản quý giá
nhất chính là người nghèo. Nên sau khi phân phát hết của cải cho người nghèo,
ngài đã dẫn họ đến trước mặt viên tổng trấn Va-lê-ri-a-nô và xác nhận cho biết:
những người nghèo đứng trước mặt tổng trấn đây chính là tài sản quý giá của Giáo hội.
Tình yêu chính là nguồn lực và sức mạnh thúc đẩy thánh Lau-ren-sô sẵn sàng phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân hết lòng, cho dẫu phải chịu nhiều đau khổ, ngay cả hy sinh mạng sống mình. Đúng như lời thánh Phao-lô đã nói: “Ai vui vẻ dâng hiến sẽ được Thiên Chúa yêu thương.” (2Cr 9,7) Thánh
nhân đã vui vẻ dâng hiến vì cảm thấy mình được Chúa yêu thương. Nên ngay khi bị lửa thiêu đốt, ngài vẫn khôi hài nói với hoàng đế: "Một bên đã chín rồi hãy chiên
bên kia nữa mà ăn!". Sau đó ngài cầu xin cho thành phố Rô-ma được trở
lại với Ðức Kit-ô và cho Ðức Tin Công Giáo được lan tràn khắp cùng thế giới. Sau đó, ngài được vinh dự lãnh nhận triều thiên tử đạo vào năm 258 và đã được Thiên Chúa yêu thương ban
thưởng sự sống đời đời, vì đã coi thường mạng sống mình ở đời này vì tình yêu Chúa và mọi người.
Xin cho chúng ta có được tình yêu Chúa nồng nàn, để chúng ta luôn trung
kiên sống và làm chứng niềm tin, cho dẫu phải chịu nhiều gian khổ, ngay cả hy sinh
mạng sống mình; đồng thời cũng xin cho chúng ta có được lòng yêu người, nhất là
những người nghèo như thánh Lau-ren-sô, để ta tận tâm phục vụ tha nhân với hết
khả năng của mình.
Suy niệm 2: AI PHỤC VỤ THẦY, THÌ HÃY THEO THẦY
1. “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy”
Đức Giê-su mời gọi các môn đệ của Ngài, các môn đệ vào thời của Ngài và các môn đệ thuộc mọi thời, trong đó có chúng ta hôm nay: Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy. (c. 26)
Khi nói đến phục vụ, chúng thường nghĩ ngay
đến hiệu quả và thành tích; và để có hiệu quả và thành tích, thì cần phải có
khả năng và tài năng, cần phải được huấn luyện tốt và lâu dài, cần phải có
chuyên môn; và để có tất cả những điều vừa kể, chúng ta không thể không nói đến
nguồn tài chính và những phương tiện khổng lồ. Những điều này là cần thiết,
nhất là khi chúng ta đang sống và làm việc trong một thế giới và xã hội, càng
ngày càng đòi hỏi tính chuyên môn và chất lượng công việc.
Hiệu quả của việc phục vụ là điều quan trọng
và cần thiết, nhưng nếu chúng ta quan niệm việc phục vụ, và rộng hơn sứ mạng
của chúng ta, chỉ trên bình diện hiệu quả, thì thật là mệt mỏi, thậm chí tuyệt
vọng nữa, khi chúng ta gặp trở ngại, thiếu nhân sự, ngăn cấm, thất bại, hoặc
đến một lúc nào đó và lúc ấy không thể tránh được, chạm đến giới hạn tất yếu
của bản thân, hoặc khi chúng ta không còn sức lực.
Hiệu quả của việc phục vụ là điều quan trọng;
nhưng với Đức Giê-su, đó không phải là điều tiên quyết, điều tiên quyết là đi
theo Ngài, là chỉ đi theo Ngài mà thôi, như truyền thống thiêng liêng của Giáo
Hội luôn nhấn mạnh và gọi là Sequela Christi, “Đi theo Đức Ki-tô”
(tiếng La-tinh). Đi theo Đức Giê-su chính là nền tảng của việc phục vụ, của sứ
mạng, của đời sống dâng hiến. Đi theo Đức Giê-su, chính là lí do hiện hữu của
việc phục vụ, và làm cho việc phục vụ của chúng ta trở nên khác với những việc
do người khác thực hiện, làm cho việc phục vụ của chúng ta mang chiều kích
“tông đồ”, nghĩa là trở thành lời chứng cho Đức Ki-tô và cho Tin Mừng của Ngài.
Đi theo Đức Ki-tô, chính là “việc phục vụ” mà
Đức Ki-tô mong muốn, và cũng chính là việc phục vụ mà thế giới và xã hội hôm
nay cần đến ở chiều sâu. Đi theo Đức Ki-tô là một việc phục vụ, thay vì làm cho
chúng ta mệt mỏi và tuyệt vọng, sẽ luôn mang lại cho chúng ta bình an và niềm
vui, bởi vì chúng ta lúc nào, trong hoàn cảnh nào và ở lứa tuổi nào, chúng ta
cũng có thể đi theo Đức Ki-tô. Và chính lúc chúng ta cảm thấy mong manh, rơi
vào hoàn cảnh bất lực và giới hạn, chúng trở nên giống Đức Ki-tô nhất, bởi vì
con đường Ngài đi là con đường của “hạt lúa mì”, con đường phục vụ cho sự sống,
bằng cách “coi thường sự sống mình”.
2. Con đường “Hạt Lúa”
Để phục vụ cho sự sống, để cho sự sống được
tiếp tục, được sinh sôi phải “coi thường sự sống mình”, nghĩa là phải chia sẻ,
trao ban, cho đi và hi sinh chính sự sống của mình. Đó chính là qui luật muôn
đời của sự sống, được ghi khắc ở khắp nơi trong thế giới sáng tạo và trong kinh
nghiệm sống, và ai trong chúng ta cũng biết và thậm chí có kinh nghiệm về qui
luật này của sự sống.
- Đó hạt lúa, phải chịu chôn vùi và nát tan,
để sinh ra nhiều hạt khác. Và đó cũng là con đường của tấm bánh.
- Đó là sự cho đi chính bản thân mình của cha
mẹ, để sự sống được lưu truyền nơi những người con. Điều đặc biệt đúng theo
nghĩa đen nơi những người mẹ; nhất là khi có những người mẹ, hy sinh sự sống
của mình để sinh con.
- Đó là sự hy sinh cuộc đời của các tu sĩ nam nữ, các linh mục để chính Thiên Chúa làm phát sinh ra hoa trái sự sống gấp trăm. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa cũng không đi con đường lạ lùng nào khác ngoài con đường muôn đời của sự sống, nghĩa là con đường của hạt lúa mì: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (Ga 12, 24)
3. “Hạt Lúa Đức Giê-su”
Thật là kỳ lạ, để tha tội cho loài người và từng người chúng ta, tại sao Đức Ki-tô lại phải đi con đường “đổ máu”? Con đường mà chính Ngài cũng cảm thấy xao xuyến: "Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến." (Ga 12, 27)
Sự “xao xuyến” của Đức Giê-su còn lớn hơn nữa,
theo lời kể của các Tin Mừng nhất lãm: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc
14, 34; x. Mt 26, 38 và Lc 22, 44), và theo thư Do thái: “Khi còn sống kiếp
phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài
xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết.” (Dt 5, 7)
Người xao xuyến, đó là vì với thân xác mỏng manh của Con Thiên Chúa nhập thể, Ngài được mời gọi bày tỏ Khuôn Mặt Rạng Ngời của Thiên Chúa Cha, một khuôn mặt đã bị hiểu lệch lạc, bị bóp méo, ngay từ nguồn gốc sự sống (x. St 3), nhưng không phải bằng những kì công lớn lao, hay những phép lạ cả thể; bởi vì lịch sử Dân Do Thái và cuộc đời của Đức Giê-su cho thấy rằng, những kì công lớn lao và những phép lạ cả thể không những không mang lại lòng tin, nhưng còn khơi dậy lòng ham muốn không cùng những điều lạ, ngoài ra còn bị Sự Dữ xen vào khơi dậy những cách hiểu và hành động lệch lạc[1]. Vì thế, theo ý của Chúa Cha, Ngài được mời gọi bày tỏ Khuôn Mặt Rạng Ngời của Cha, theo một cách khác, “một cách điên rồ và sỉ nhục”, nhưng lại là sức mạnh và sự khôn ngoan thần linh, qua việc:
- Đối diện với chính Sự Dữ biểu dương sức mạnh
bạo lực ở mức độ tuyệt đối và dưới mọi hình thức, không phải bằng sức mạnh bạo
lực lớn hơn, nhưng bằng sự hiền lành tuyệt đối của Con Thiên Chúa, để chiến
thắng sự dữ và giải thoát chúng ta khỏi sự dữ và tất cả những gì liên quan đến
sự dữ (x. Tv 8; hình ảnh Con Chiên và bầy sói dữ).
- Gánh lấy mọi “bệnh hoạn tật nguyền” của con
người, nghĩa là mang vào mình, trong sự thinh lặng không lên án, mọi hành vi
tội lỗi của những con người cụ thể trong cuộc Thương Khó, qua đó mang vào mình
mọi tội lỗi của loài người và từng người cách trọn vẹn.
- Và nhận vào mình thân phận đau khổ và phải
chết của loài người chúng ta, không phải với sự phản kháng và thái độ kêu
trách, nhưng bằng lời nguyện tín thác: “Cha ơi, con xin phó sự sống của con
trong tay Cha” (Tv 31, 6).
Chúa tự nguyện chịu khổ hình, bởi những con người cụ thể trong cuộc Thương Khó, chính là để bày tỏ cho tôi tình yêu đến cùng của Chúa dành cho tôi, dù tôi là ai và đang ở trong tình trạng nào. Vậy, tôi được mời gọi nhận ra nơi “CHÉN” của Đức Giê-su, nghĩa là nơi những gì Đức Người mang lấy trong cuộc Thương Khó, có chính bản thân tôi, như tôi là, nhỏ bé, giới hạn, yếu đuối, tội lỗi; tôi hiện diện cách trọn vẹn, được đón nhận cách trọn vẹn và được bao dung cách trọn vẹn trên đôi vai của Đức Giê-su, trong ánh mắt của Đức Giê-su, trong trái tim của Đức Giê-su. Như thế, chúng ta được mời gọi nhận ra với sự kinh ngạc và tâm tình cảm tạ: Người Gieo Giống thần linh, là Đức Ki-tô, không chỉ gieo Lời của Người (x. Mc 4, 1-9), nhưng còn gieo luôn chính mình. Chân lí này phải mang lại cho chúng ta niềm hi vọng vững chắc và niềm vui khôn tả: Hạt Giống Giê-su tất yếu sẽ sinh hoa kết quả gấp trăm, vì Người mạnh hơn sự dữ và sự chết. Đó chính là mầu nhiệm Vượt Qua. Và Ngài vẫn “gieo” Lời và “gieo” luôn chính Mình, để phục vụ cho sự sống của chúng ta mỗi ngày trong Thánh Lễ, dù chúng ta có như thế nào.
Đi theo Đức Ki-tô trên con đường của hạt lúa
mì, là cách làm phát sinh hoa trái hiệu quả nhất; và hoa trái không phải đến từ
tài năng của chúng ta, nhưng của sự sống thần linh, của sự sống mới, của Đức
Ki-tô phục sinh. Đó chính là cách phục vụ Đức Ki-tô mà thánh phó tế Lau-ren-sô đã
sống và sống đến cùng.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
Suy niệm mùa thường niên: KHẮC GHI TRONG TÂM
HỒN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Dân Do thái là dân cứng đầu cứng cổ. Dù đã
chứng kiến biết bao việc lạ Chúa làm và thấy Mô-sê thực hiện biết bao điềm
thiêng dấu lạ, nhưng cứ mỗi lần gặp thử thách họ lại bộc lộ niềm tin yếu kém.
Họ than van kêu trách. Họ đòi hỏi thoả mãn nhu cầu tức khắc. Họ sống theo xác
thịt. Họ chưa có Thần Khí. Họ gây áp lực khiến Mô-sê cũng mất tinh thần mà chao
đảo niềm tin. Lề Luật mới được ghi khắc vào bia đá. Chưa ghi trong tâm hồn. Nên
lòng họ còn chai đá (năm lẻ).
Chúa mong muốn con người tiến sâu và xa hơn
trong tình yêu Chúa. Chúa mong muốn họ sống theo Thần Khí chứ không theo xác
thịt. Chúa muốn ghi khắc Lề luật vào trái tim chứ không vào bia đá. Để họ tự
mình nhận biết Chúa không cần phải có ai dạy dỗ. Chúa quyết định khơi lên trong
trái tim họ lòng tin yêu đích thực. Đó là giao ước mới: “Đây là giao ước mới
ta sẽ ký với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó. Ta sẽ đặt Lề Luật của Ta trong đáy
lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ
là dân của Ta” (năm chẵn).
Khi Chúa Giê-su đến đã hứa ban Thần Khí. Để
con người được Thiên Chúa hướng dẫn. Để con người sống trong thân tình với
Thiên Chúa. Có xác tín riêng. Không phải sống hời hợt bên ngoài, dựa dẫm theo
đám đông. Chính vì thế Chúa hỏi từng môn đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy
là ai”. Không thể chạy theo dư luận. Phải có xác tín riêng. Và chính Chúa
Cha đã soi sáng cho thánh Phê-rô để ông đại diện các tông đồ tuyên xưng: “Thầy
là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Tuy nhiên để được Thần Khí soi sáng hướng dẫn,
con người cần từ bỏ mọi suy nghĩ và hành xử theo xác thịt. Phê-rô chưa thoát
khỏi xác thịt. Trong một phút để xác thịt chi phối ông đã sai lầm. Cũng như
Mô-sê, Phê-rô còn một chút yếu đuối. Mô-sê cũng suốt đời kiên vững, nhưng vẫn
còn một phút giây chao đảo. Chỉ có Chúa Giê-su tràn đầy Thần Khí. Tình yêu mến
Chúa Cha tràn ngập trong tâm hồn. Nên Chúa Giê-su không phút giây nào không
tuân hành thánh ý Chúa Chá. Vì thế Chúa trở nên người Con Yêu Dấu hằng đẹp lòng
Chúa Cha. Đó là khuôn mẫu của chúng ta.
Hãy noi gương Chúa Giê-su luôn để Thần Khí
hướng dẫn mọi suy nghĩ, lời nói, việc làm. Ta sẽ biết chu toàn thánh ý Thiên
Chúa. Sẽ trở nên con người mới. Của giao ước mới. Hoàn toàn thuộc về Chúa. Là
dân của Chúa. Là con của Chúa.
Thứ sáu: Mt 16, 24-28
Nhớ Thánh Cơ-la-ra, trinh nữ
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ cũng như chúng ta hãy đặt
trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Nhiều người nghĩ rằng vì không muốn cho chúng ta sống sung túc, hưởng
thụ cách tự do nên Chúa Giêsu mới kêu gọi chúng ta dấn bước trên con đường thập
giá để theo Người. Tuy nhiên chỉ có những ai cảm nhận được Đức Giêsu chính là
hiện thân của một vị Thiên Chúa quyền năng, nhưng lại rất giàu lòng thương xót
đã sẵn sàng chấp nhận mọi gian lao thử thách, ngay cả hy sinh mạng sống vì
chúng ta và để cứu rỗi chúng ta thì mới sẵn sàng dấn bước theo Ngài.
Vinh quang chỉ xuất hiện ở đàng sau thập giá. Nên muốn đạt đến vinh
quang phục sinh, ta sẽ không còn chọn lựa con đường nào khác, ngoài con đường
thập giá mà Chúa đã đi qua. Vì thế mà Người mới xác quyết mạnh mẽ: “cứu
lấy mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc
Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình”. Chỉ khi nào ta xác
định được linh hồn cao quý hơn thể xác, sự sống đời đời quý hơn sự sống chóng
qua đời này…thì khi đó ta mới hiểu được lời dạy của Chúa Giêsu mà sẵn sàng tiến
bước trên con đường hẹp.
Chúa cho biết khi chọn lựa để bước theo Chúa trên con đường hẹp, quả là
khó khăn vô cùng, nên Chúa hứa sẽ đồng hành, bên vực và tán thưởng cho những ai
dám dấn bước vào. Ngược lại, Ngài sẽ lấy làm hổn thẹn nếu ai đó chối bỏ không
dám dấn bước theo Ngài: “Ai hổ thẹn vì Ta và vì lời Ta trong thế hệ ngoại
tình và tội lỗi này, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn từ khước nó, khi Người đến
trong vinh quang của Cha Người cùng với các thần thánh.".
Xin cho chúng ta biết luôn tin tưởng vào Đức Giêsu chính là hiện thân
của một vị TC giàu lòng thương xót mà sẵn lòng dấn bước theo Ngài trên mọi nẻo
đường đời cho dẫu phải bước đi trên con đường thập giá. Bởi chúng ta tin rằng
đó mới là con đường dẫn đến hạnh phúc thật cho đời ta.
Suy niệm 2:
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải can đảm từ bỏ
mình, vác thập giá và hân hoan bước đi trên con đường theo Chúa. Nhưng để
làm được điều đó không hề dễ chút nào, không nói là quá khó khăn đối với chúng
ta là đàng khác. Khó nhưng không phải là không thể. Bởi vì Chúa Giêsu chỉ cho
chúng ta phương cách để có thể thực hiện điều ấy:
Hãy nghĩ đến những bậc giá trị trong đời sống mà chọn lựa. Xem chúng ta đang yêu quý cái gì? Linh hồn hay thể xác, sự sống chóng
qua đời này hay sự sống đời đời mai sau…Nếu ta ý thực được giá trị linh hồn và
sự sống mai sau là quý thì ta sẽ dễ dàng buông bỏ tất cả, hy tất cả để dấn bước
theo Chúa trên con đường hẹp. Bởi vì ta biết rằng con đường hẹp là con đường
dẫn đến sự sống đích thực.
Phải có một đức tin vững mạnh vào Chúa. Một khi tin vào Chúa sẽ
bên vực chúng ta trong nước trời, ta sẽ dễ dàng ưu tiên làm mọi việc để tôn
vinh danh thánh Chúa trong cuộc sống. Khi có đức tin vững mạnh vào Chúa thì cho
dù cuộc sống ta có gặp phải những gian nan thử thách hay phải đối diện
với chính cái chết, ta vẫn hân hoan công khai tuyên xưng Danh Chúa trước mặt
người đời.
Xin Chúa giúp chúng ta khôn ngoan đặt lại những bậc thang giá trị trong
đời sống và giúp ta can đảm sống theo bậc thang giá trị ưu tiên theo sự hướng
dẫn của Chúa; đồng thời xin Chúa củng cố đức tin cho chúng ta nên vũng mạnh nhờ
đó chúng ta mời có sức mạnh dấn bước theo Chúa trên mọi nẻo đường đời.
Suy niệm 3: ĐƯỢC VÀ MẤT
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ai cũng muốn được. Không ai chịu mất. Nhưng
thế nào là được và thế nào là mất thì không phải ai cũng hiểu. Nhất là vì con
người có hai đời sống. Đời này và đời sau. Trong hai đời sống hai cách được và
mất khác nhau. Được ở trần gian là thực tế trước mắt nên nhiều người tìm kiếm.
Được ở Nước Trời xa vời nên nhiều người không thấy. Tuy nhiên được ở trần gian
mau qua như trần gian. Được trên Nước Trời là vĩnh viễn. Được ở trần gian không
bao giờ thoả mãn. Được trên Nước Trời là hạnh phúc trọn vẹn. Khác biệt lớn lao
và khó khăn nhất là cách chiếm đoạt rất khác nhau. Được ở trần gian do vun quén
cho bản thân. Được trên Nước Trời lại thủ đắc bằng từ bỏ hết những gì ở trần
gian, kể cả bản thân và mạng sống mình. Như lời Chúa phán: “Ai muốn cứu mạng
sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng
sống ấy”. Cái được ở trên Nước Trời là sự sống vĩnh cửu, dù cả trần gian
cũng không so sánh được. “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất
mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình”?
chính Chúa mới là Chúa Tể trời đất, có quyền xét xử định đoạt số phận chúng ta.
Trần gian chỉ chiếm được đời này. Phải bó tay trước đời sau. Thiên Chúa làm chủ
cả đời này lẫn đời sau. Ai bỏ Chúa theo trần gian chỉ được một chút đời này. Ai
bỏ trần gian mà theo Chúa chỉ bị thiệt thòi một chút đời này. Nhưng sẽ được đời
sau vô cùng phong phú sung mãn không gì sánh được. Thiên Chúa làm chủ. Điều đó
được chứng tỏ qua dòng lịch sử.
Thời Mô-sê Thiên Chúa đã cứu người Ít-ra-en
khỏi ách nô lệ Ai cập. Ít-ra-en đang nô lệ bỗng thành tự do. Đang tản mát bỗng
thành một dân tộc. Đang bơ vơ bỗng được đất chảy sữa và mật. Đang yếu ớt bỗng
chiến thắng quân đội Ai cập hùng mạnh nhất thế giới thời ấy. Đó chính là vì
Chúa là Thiên Chúa của họ (năm lẻ).
Ít-ra-en phản bội nên bị Chúa phạt. Phải làm
nô lệ cho Ni-ni-vê. Nhưng rồi đến ngày Chúa phục hồi dân Chúa. “Phải, đức Chúa
khiến cho Gia-cóp và Ít-ra-en lấy lại sức kiêu hùng”. Ngài cho Ni-ni-vê hùng
mạnh một thời gian. Rồi trừng phạt vì họ không tuân hành thánh ý. “Bấy giờ,
hễ ai nhìn thấy ngươi cũng đều phải tránh xa và nói: “Ni-ni-vê đã bị phá tan
hoang!” Ai còn cảm thương nó? Ta tìm đâu cho ngươi những người an ủi”? (năm
chẵn).
Hôm nay Chúa mời gọi tôi. Hãy khôn ngoan đừng
khờ dại. Hãy biết chọn Thiên Chúa chứ đừng chọn thế gian. Hãy biết bỏ đời này
để được đời sau. Được chính Chúa. Là hạnh phúc muôn đời.
Thứ bảy: Mt 17, 14-20
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho ta biết hậu quả tai hại do cứng lòng
tin.
- Do cứng lòng tin đã làm hư hỏng cả thế hệ, đó là lời than phiền của Chúa Giêsu khi phải đối mặt với tình
trạng đau khổ của đứa bé trai bị mắc chứng bệnh kinh phong:“Ôi thế hệ cứng
lòng tin và hư hỏng!”.
Sách sáng thế cho biết: Do Nguyên Tổ đã không tin vào tình thương của TC
nên đã dùng tự do Chúa ban để khướt từ Ngài, với mong muốn đi tìm một hạnh phúc
mà không cần TC. Từ đó đau khổ, bệnh tật và sự dữ xuất hiện lan tràn qua muôn
thế hệ. Nhìn thấy những nỗi khổ đau của nhân loại cách chung, cách riêng tình
trạng của đứa bé phải chịu sự khống chế của ma quỷ, Chúa Giêsu đã cất lên lời
than thở “Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ nữa?”.
Qủa vậy, một khi con người không còn ý thức sự hiện diện của Chúa trong
cuộc sống mình, thì hậu quả thật khôn lường xảy ra không chỉ làm hư hỏng đến
thế hệ tương lai mà còn hư hoại cả vũ trụ này.
- Do kém lòng tin không thể khống chế được ma quỷ. Chính
Chúa Giêsu cho biết lý do tại sao các môn đệ không thể chữa lành
được đứa bé trai bị quỷ ám. “Vì các con yếu lòng tin!”. Và
Người còn khẳng định: “nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải… thì
chẳng có gì các con không làm được”.
Thật vậy, đức tin là món quà do lòng yêu thương của Thiên Chúa ban
tặng cho mỗi người. Nhờ đức tin mà ta dễ dàng vượt qua mọi gian nan thử
thách. Chính đức tin đem đến cho ta niềm hy vọng ngay khi gặp đau khổ.
- Nhờ tin tưởng vào Chúa, cụ già Ab-ra-ham đã đón nhận niềm vui vì được
Chúa ban cho đứa con trai khi tuổi đời đã 90. Nhờ đức tin, ông sẵn
sàng vâng lệnh Chúa mà sát tế người con yêu dấu của mình vì tin rằng Chúa sẽ
thực hiện những điều tốt đẹp nhất cho ông.
- Cũng vậy, nhờ tin tưởng vào Chúa, mà Phêrô đã can đảm bước đi trên mặt
nước. Nhưng khi bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.
- Đọc Phúc âm, chúng ta thấy rằng bao nhiêu phép lạ mà Chúa Giêsu thực
hiện được khởi đi từ lòng tin của con người, như lời Chúa phán: “Này
con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình
an và khỏi hẳn bệnh.” (Mc 5,34). Chúa Giêsu còn quả quyết mạnh
mẻ: “Mọi sự đều có thể đối với người có lòng tin.” (Mc 9, 23).
Xin Chúa củng cố đức tin nơi chúng ta, nhờ đó ta mới có thể vượt thắng
được mọi gian lao thử thách và đủ sức mạnh thiêng liêng để chiến đấu và khống
chế được ma quỷ.
Suy niệm 2: SỐNG ĐỨC TIN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thế giới nhiễu nhương. Ma quỉ và bạo chúa
thống trị thế giới. Sự ác và sự dữ đè bẹp con người. Nếu không có đức tin con
người không thể sống nổi.
Thời Mô-sê dân Ít-ra-en chỉ là một nhóm người
nô lệ. Không tổ chức. Không lực lượng. Nhưng họ có đức tin. Họ tin vào Chúa. Họ
đi theo Mô-sê. Và Chúa đã làm những việc vượt quá sức tưởng tượng của họ. “Anh
em được những thành lớn và đẹp mà anh em đã không xây, những nhà đầy mọi thứ
của cải mà anh em đã không tích trữ, những bể nước có sẵn mà anh em đã không
đào, những vườn nho và vườn ô-liu mà anh em đã không trồng”. Vì thế Mô-sê
khuyên nhủ họ “đừng quên Đức Chúa, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập,
khỏi cảnh nô lệ…anh em phải kính sợ…phải phụng thờ…và nhân danh Người mà thề”
(năm lẻ).
Thời Kha-ba-cúc, mặc dù Ít-ra-en bị Can-đê đặt
ách thống trị tàn ác, chỉ vì Ít-ra-en tội lỗi phản bội Chúa. Nhưng Chúa khuyên
nhủ dân hãy cứ tin tưởng và chờ đợi. Vì ngày Chúa giải thoát dân rồi sẽ đến: “Nó
đang tiến nhanh tới chỗ hoàn thành, chứ không làm cho ai thất vọng. Nếu nó chậm
tới, thì cứ đợi chờ, vì thế nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu”. Trong
khi chờ đợi phải giữ vững đức tin. Vì “ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã
gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình”
(năm chẵn).
Thời Chúa Giê-su ma quỉ hoành hành ác liệt.
Khống chế con người. Các tông đồ cũng đành chịu thua. Nhưng khi Chúa đến, Chúa
dùng quyền năng chế ngự và bắt ma quỉ phải vâng phục. Giải phóng con người khỏi
ách nô lệ ma quỉ. “Đức Giê-su quát mắng tên quỷ, quỷ liền xuất, và đứa bé
được khỏi ngay từ giờ đó”. Chúa cho biết ma quỷ hoành hành vì con người
thiếu niềm tin. Chúa than phiền vì thế hệ thiếu niềm tin: “Ôi thế hệ cứng
lòng không chịu tin và gian tà! Tôi còn phải ở với các người cho đến bao giờ,
còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa”? Ngài cho các tông đồ
biết mọi việc trên thế giới có thể giải quyết dễ dàng với người có lòng tin: “Nếu
anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘Rời
khỏi đây, qua bên kia! Nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm
được”.
Thời đại chúng ta bị biết bao ngọn núi ngăn
trở khiến ta nản lòng. Tưởng không có gì có thể xê dịch được những ngọn núi
ngăn chặn đời sống. Nhưng ta hãy an tâm. Nếu có đức tin một chút thôi, ta có
thể giải quyết vấn đề cộng đoàn thật dễ dàng. Và thế giới ổn định. Vì khi có
đức tin ta sống nhờ Chúa. Ta làm việc bằng sức mạnh của Chúa. Và mọi việc sẽ
tốt đẹp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét