KÍNH THÁNH GIUSE BẠN TRĂM NĂM ĐỨC TRINH NỮ MARIA
BỔN MẠNG GIỚI GIA TRƯỞNG
GỢI Ý SÁM HỐI: Lc 15, 1-32
Khi muốn nói một điều gì khó nói, người
ta hay dùng cách nói ví von, khi muốn thổ lộ một tâm tình sâu kín, khó bộc bạch
nên lời, người ta phải nhờ đến cách nói ẩn dụ và khi muốn diễn tả một chân lý
tròn đầy mà không từ ngữ nào có thể diễn đạt hết, người ta lại dùng đến câu
chuyện. Có thể nói câu chuyện là con đường ngắn nhất đưa đến chân lý. Chính vì
muốn diễn đạt chân lý “Thiên Chúa là Tình Yêu” mà Tin mừng chúng ta vừa
nghe, Chúa Giêsu đã dùng đến câu chuyện dụ ngôn về: "Người cha nhân
hậu" (ta thường gọi: dụ ngôn người con hoang đàng), để mời gọi chúng ta
thật lòng sám hối trở về cùng Chúa là Cha chúng ta.
Xét cho cùng thì hai người con trong dụ
ngôn chúng ta vừa nghe đều sai lầm, người em sai lầm khi dứt tình cha con và bỏ
nghĩa anh em để ra đi ăn chơi đàng điếm thỏa thích theo dục vọng cá nhân của
mình; còn người anh tuy ở trong gia đình, nhưng lại xa cách gia đình, tuy ở
trong nhà cha, nhưng tấm lòng anh xa cách cha, bởi con tim của anh không hề
đồng cảm và run lên cùng nhịp đập với trái tim của cha mình. Nên cả hai rất cần
phải sám hối để quay về sống trong tình cha.
Mùa chay là thời gian thuận tiện mà GH mở
ra để mời gọi chúng ta sám hối, trở về với Cha mình, là Thiên Chúa giàu lòng
xót thương.
1. Trở về với Chúa là Cha như người con
hoang đàng: Khi xa Cha, anh tưởng đời mình sẽ hạnh phúc.
Nhưng anh đã lầm, sau những ngày phiêu lưu tìm cảm giác lạ, anh cảm thấy tâm
hồn mình trống vắng, hụt hẩn và đau khổ. Chỉ khi tìm về bên cha, anh ta mới tìm
lại được hạnh phúc và bình an đích thực. Thế là anh đã quyết tâm đứng lên trở
về!
2. Trở về với anh em mình, như người anh
cả: sự ích kỉ nhỏ nhoi, đưa đến ghen tỵ. Vì
nuôi dưỡng lòng ghen tỵ đã khiến anh trở nên mù quáng không còn nhận ra tình
anh em máu mủ. Tự thâm tâm anh chỉ xem đứa em của mình chỉ là “thằng
con của cha”, chứ không phải là người em của mình. Lòng ghen tỵ dẫn đến so
đo phân bì, coi mình là người xứng đáng được cha ban thưởng, chứ không phải đứa
em. Nên anh đã thốt lên những lời khó nghe: “có bao giờ cha cho con dù
chỉ con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn…vậy mà cha lại giết bê béo ăn mừng nó
trở về”.
Tưởng xưa nay anh gần bên cha, ở trong
nhà cha nhưng hóa ra anh ở rất xa cha và ở bên ngoài mái ấm gia đình. Anh cần
phải trở về trong tình thân gia đình. Niềm vui của cha phải là niềm vui của
anh, và hạnh phúc của người em cũng phải là hạnh phúc của anh.
3. Trở về với chính mình như người con
hoang đàng: Trong lúc khổ cực vất vả cảnh người làm thuê.
Trong cơn đói khát rã rời đã giúp người con hoang đàng nhớ lại tình cha. Và anh
đã nhận ra tội lỗi của mình quá to lớn đến nỗi anh nghĩ không còn xứng đáng làm
con cha nữa. Nhưng vì cơn đói cồn cào nên anh đã mạnh dạng trở về nhà cha với
mong muốn được như người làm công, để có được của ăn hàng ngày. Nhưng thật bất
ngờ anh đã được người cha nhân từ tha thứ và vui mừng phục hồi lại cho anh tước
vị làm con như thưở ban đầu.
Ông bà anh chị em, đặc biệt quý anh em gia trưởng
thân mến, giờ đây chúng ta hãy dành ra ít phút để xét mình về các mối tương
quan: với Chúa, với tha nhân và với chính mình hầu nhận ra những rạn nứt trong
các mối hiệp thông ấy, để xin ơn trở về, hầu đón nhận được tình thương và sự
tha thứ của Chúa là người Cha giàu lòng xót thương:
- Hãy trở về với Chúa: bằng đời sống đức
tin, đức cậy và lòng mến Chúa ngang qua các việc đạo đức: cầu nguyện, học hỏi
lời Chúa, siêng năng tham dự thánh lễ, tích cực lãnh nhận các bí tích, nhất là
bí tích thánh thể.
- Hãy trở về với anh chị em mình: bằng
cách nỗ lực chu toàn tốt bổn phận và trách nhiệm của mình trong ơn gọi làm
chồng, làm cha, làm kitô hữu nơi môi trường trong gia đình và xã hội mà mình
đang sống và làm việc.
- Hãy trở về với chính lòng mình: bằng
những hy sinh âm thầm trong chức năng phụng sự Chúa và phục vụ GH. Dám hy sinh
thời giờ, công sức, tiền của để nhiệt tâm tham gia vào các sinh hoạt mục vụ của
Họ đạo, với mong muốn hiệp hành cùng với mọi người thăng tiến đời sống đức tin
hướng đến sứ vụ loan báo niềm vui tin mừng của Chúa đến cho mọi
người.
Nếu sự trở về của người con hoang đàng
trong Tin mừng hôm nay, còn được người cha vui mừng đón nhận vào nhà, phục hồi
tước vị làm con và tổ chức tiệc mừng linh đình, thì với những nỗ lực cố gắng
trở về với Chúa, với tha nhân và chính mình của ta trong niềm tin yêu, phó thác
vào Thiên Chúa là Người Cha nhân lành, tin rằng chúng ta cũng sẽ được Chúa đón
nhận, tha thứ và ban dồi dào ân sủng qua bí tích giao hòa mà chúng ta sắp lãnh
nhận.
DẪN
LỄ
Kính
thưa cộng đoàn,
Nhân
dịp kỉ niệm 150, ngày 08/12/1870, Đức Giáo Hoàng Pio IX bạn hành sắc lệnh
Quemadmodum Deus (cũng như Thiên Chúa) và tuyên bố chọn thánh Giuse làm đấng
bảo trợ cho toàn thể GH Công giáo.
Để
đánh dấu cho sự kiện này, ngày 08/12/2020, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã công
bố “năm kính Thánh Giuse đặc biệt” và ban hành tông thư
“Patris Corde” (Trái tim của người cha). Trong tông thư này, ĐTC Phanxicô nêu
lên 7 đức tính như là những chiều kích linh đạo nơi thánh Giuse (người cha âm
thầm yêu thương, dịu dàng, vâng phục, đón nhận, can đảm và sáng tạo, làm việc,
trong bóng tối) nhằm mời gọi các tín hữu noi gương bắt chước trên con đường nên
công chính.
Ngoài
ra Toà Ân giải tối cao cũng đã công bố sắc lệnh ban ơn toàn xá cho các tín hữu
với những quy định cụ thể có kèm điều kiện…
Thánh
Giuse không chỉ là bổn mạng của GH hoàn vũ mà ngài còn là bổn mạng của GH Việt
Nam, của giới gia trưởng, ngài còn là bổn mạng của nhiều anh em chúng ta. Vì
thế, hôm nay Họ đạo chúng ta tổ chức làm các việc đạo đức như cử hành nghi thức
sám hối, dọn lòng sám hối và xét mình xưng tội, nhất là long trọng hiệp dâng
Thánh Lễ đồng tế để tạ ơn Chúa, mừng kính Thánh Cả Giuse và cầu nguyện cách đặc
biệt cho quý anh em gia trưởng.
Nguyện
xin Chúa qua lời chuyển cầu thần thế của Thánh Cả Giuse, ban cho mọi người,
cách đặc biệt là những người chồng, người cha trong Họ đạo chúng ta có được:
- Tâm
hồn quảng đại, đảm nhận trách nhiệm bảo vệ và chăm sóc những ai bị bỏ rơi.
-
Biết loại trừ văn hoá hưởng thụ và vất bỏ, để nâng cao nền văn hoá đón nhận,
chăm sóc những gì bé nhỏ và những ai nghèo khổ.
-
Sẵn sàng tự hiến để hy sinh phục vụ tha nhân trong niềm vui vì lòng yêu mến
chân thành.
-
Nhất là biết tôn trọng quyền tự do chính đáng của mọi người theo mẫu gương
Thánh cả Giuse đã được ĐGH Phanxicô nêu lên trong Tông Thư Patris Corde.
Với
những tâm tình và ý nghĩa trên, giờ đây xin mời cộng đoàn đứng, hướng về đoàn
đồng tế, cùng với ca đoàn hiệp lời chúc tụng, tôn vinh và ngợi khen Chúa qua
bài hát nhập lễ…
SUY NIỆM 1: THÁNH GIUSE MẪU GƯƠNG THAM GIA
Mừng
kính Thánh Giuse hôm nay là dịp để chúng ta tuyên xưng lại lòng nhân lành của Thiên
Chúa, đã ưu ái tuyển chọn thánh nhân làm cha nuôi của Đức Giêsu để người ‘trông
nom Đấng Cứu Thế’, bảo trợ cho Giáo Hội, cho giới gia trưởng và là
gương mẫu hiệp hành cho mỗi người chúng ta.
Khi
nhìn về giai đoạn đầu của thời Tân ước, chúng ta thấy Thiên Chúa đã mời gọi con
người cộng tác với Chúa trong chương trình cứu độ. Có khá nhiều cộng tác viên
ở giai đoạn đầu, nhưng nổi bật hơn cả là 3 nhân vật quan trọng sau: Đức Maria,
Thánh Giuse và Thánh Gioan Tẩy Giả.
Về
Đức Maria và Thánh Gioan Tẩy Giả thì các sách Tin Mừng đều có những trình thuật
khá chi tiết, riêng với Thánh Giuse thì quá sơ lược, sơ lược đến độ có
thể nói ngài chỉ như một ‘bóng mờ’, một vai ‘kép phụ’ trong chương trình cứu
chuộc nhân loại được thực hiện qua Đức Kitô.
Tuy
chỉ đóng vai ‘kép phụ’ là cha nuôi của Chúa Giêsu, nhưng Thánh Giuse luôn được
xem là một cộng tác viên đắc lực của Thiên Chúa. Vậy ta có thể học hỏi nơi
thánh nhân điều gì để trở nên một cộng tác viên đắc lực, tham gia vào trong
đời sống Giáo hội, với mong muốn góp phần mình vào việc loan báo niềm vui tin mừng của Chúa.
Theo
trang Wikipedia, từ Cộng tác (Collaborare/ Collaboration) có
nghĩa là tiến trình của hai hoặc nhiều người làm việc chung với nhau để hoàn
tất một công việc hoặc đạt tới một mục tiêu.
Vì thế, trong
khi giải quyết vấn đề, mỗi người cần phải đặt lợi ích chung trên lợi ích cá nhân của
mình, ngang qua sự dấn thân và hy sinh; đồng thời cũng cần phát triển chiều sâu nội
tâm của hành vi và giao tiếp để dẫn đến sự thành công của nhóm.
Những kỹ năng tương quan giữa cá nhân với nhau cần được phát triển như: sự cảm thông, kiên nhẫn, linh hoạt, kiên trì, đối thoại, và biết chia sẻ trách nhiệm công việc và nguồn lực. Chúng ta có thể nói tất cả những yếu tố trên đã được khắc hoạ đậm nét nơi Thánh cả Giuse, qua các biến cố: Truyền Tin, Giáng Sinh, Xuất hành sang Ai Cập và trở về Nazareth; sau đó là sự kiện tìm gặp Chúa Giêsu trong đền thờ cũng như trải dài trong 30 năm sống đời ẩn dật của Chúa Giêsu. Ở mỗi giai đoạn dù khó khăn hay thuận lợi trong sứ vụ được giao, Thánh Giuse đều luôn vui vẻ âm thầm tham gia một cách tích cực nhất có thể.
- Ngài
cộng tác với Đức Maria, người bạn đời của mình bằng sự yêu thương, cảm thông,
tin tưởng và chia sẻ có trách nhiệm.
- Ngài cộng tác với Thiên Chúa bằng sự khiêm nhường, tin tưởng và hoàn toàn vâng phục thánh ý của Thiên Chúa.
Chính nhờ
sự cộng tác đầy trách nhiện và dạt dào yêu thương của Thánh cả Giuse mà con trẻ Giêsu càng lớn lên càng “tăng trưởng về khôn ngoan và ân nghĩa trước mặt Thiên Chúa và người đời” (Lc
2,52), Ngoài sự hấp thụ nền giáo dục lành mạnh của thánh Giuse, trẻ Giêsu còn
được thánh nhân truyền thụ cho cái nghề thợ mộc để phụ giúp gia đình và tự
nuôi sống bản thân mình. Vì thế mà nhiều lần Đức Giêsu được nhìn
nhận như là “con của bác thợ mộc.” (Mt 13,55), và thậm chí là anh “thợ mộc” (Mc 6,3).
Theo một
cách nhìn nào đó của người đương thời, thì người con trẻ Giêsu đã được thừa hưởng sự
chúc lành từ người cha nuôi của mình. Đức Giêsu đã đón nhận nơi người cha
nuôi của mình những đức tính tốt đẹp và những khả năng vượt trội trong tinh thần tham gia để chuẩn bị vững vàng cho việc thi hành sứ mạng loan báo tin mừng cứu độ sau này.
Sứ
vụ trông nom Đấng Cứu Thế của Thánh Giuse đã hoàn tất khi Chúa Giêsu trưởng
thành và bắt đầu đời sống công khai. Cũng kể từ đó vai ‘kép phụ’ của Thánh
Giuse hình như không bao giờ được Thánh kinh nhắc tới nữa, nhưng “người cha ấy dù có tắt
thở, ông vẫn không chết, bởi ông đã để lại người con giống như mình” (Hc
30,4). Đó là lời của sách Huấn Ca nói đến. và lời ấy thật đúng đắn trong trường hợp của Thánh Giuse, người cha nuôi của Chúa Giêsu.
Noi
gương thánh cả Giuse, xin cho mỗi người chúng ta học biết cách trở nên những
cộng sự viên đắc lực và tín trung của Chúa trong sứ vụ tham gia vào đời sống
Giáo hội bằng cách khiêm tốn yêu thương phục vụ, sẵn sàng hy sinh chăm sóc và đào luyệ những người mà mình có
trách nhiệm, cũng như ý thức luôn chu toàn thật tốt những công việc mà mình được Chúa và Giáo hội giao phó.
Nguyện
xin cha thánh Giuse bảo trợ, gìn giữ và chúc lành cho mọi người, đặc biệt cho quý anh em trong giới gia trưởng
chúng ta.
SUY NIỆM 2: THÁNH GIUSE MẪU GƯƠNG HIỆP HÀNH
Mừng kính trọng thể Lễ Thánh Giuse, bạn trăm
năm Đức trinh nữ Maria, hòa nhịp trong bố cảnh Hội Thánh đang “hướng tới một
Hội Thánh hiệp hành: hiệp thông-tham gia-sứ vụ”.GH như mời gọi chúng ta
chiêm ngắm mẫu gương của Thánh Cả Giuse để học đòi nơi ngài lối sống hiệp hành.
Có lẽ, ai cũng hiểu hiệp hành nghĩa là cùng đi với nhau trên một con đường,
là đồng hành và sẻ chia cùng một “lối sống và sứ mạng của Hội Thánh.”
Trong một Giáo hội hiệp hành, mọi thành phần Dân Chúa đều được mời gọi “đi
chung” và “đi cùng trên một con đường” theo Chúa Kitô dưới sự hướng
dẫn chủa Chúa Thánh Thần.
- Nếu trong Cựu ước Thiên Chúa hằng đồng
hành để bảo vệ,che chở và giải thoát Dân Người khỏi những đại họa, như “400
năm nô lệ bên Ai Cập hay 70 năm lưu đày tại Babylon”, thì khi đến thời Tân
ước, Con Thiên Chúa đã đến trần gian và đã hiệp hành với Dân Người. Chính Đức
Giêsu đã đi trên cùng một con đường với nhân loại, nói tiếng nói của con
người,mang lấy những yếu đuối, khổ đau như con người, và chết đau thương hơn cả
con người, nhằm đem lại ơn cứu chuộc cho con người.
Tuy nhiên để cho Con Thiên Chúa nhập thể, nhập
thế làm người và hiệp hành với nhân loại chúng ta, thì Thiên Chúa rất cần đến sự
tự do cộng tác của con người, trong đó có sự vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa nơi
Thánh cả Giuse.
Đọc Tin mừng chúng ta ít khi nghe thấy lời nào
của Thánh Giuse. Nhưng Thánh Giuse
lại có một vị trí và vai trò rất quan trọng trong chương trình cứu chuộc của
Thiên Chúa, bởi trong mọi nơi mọi lúc, ngài đều bước đi trong thánh ý của Thiên
Chúa, nên đã trở thành mẫu gương sáng ngời về lối sống hiệp hành, đáng cho
chúng ta noi theo:
1. Thánh Giuse mẫu
gương của Hiệp thông.
Tin mừng cho biết
Thánh Giuse đã hiệp thông chặt chẽ với Đức Trinh Nữ Maria trong nhiệm cục cứu độ
của Thiên Chúa. Ngài đã âm thầm
chia sẻ với Đức Maria trong mọi biến cố vui buồn xảy đến nơi gia đình Thánh
Gia. Ngài luôn hiện diện sát cánh cùng với Đức Maria trên những nẻo đường gian
khó. Cụ thể ngài đã dẫn đưa Đức Maria đang mang thai về Bêlem để kê khai hộ khẩu,
ở bên Đức Maria trong những ngày mang thai khó nhọc và nâng đỡ Đức Maria lúc hạ
sinh Hài Nhi Giêsu “nơi hang đá bò lừa”, vì cả hai “không tìm được
nhà trọ” (Lc 2, 7). Ít lâu sau đó, ngài lại mau mắn lên đường, “đem
Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập” (Mt 2, 13-14). Định cư ở đất Ai Cập
không bao lâu, ngài lại phải nhanh nhẹn đưa gia đình trở về đất Israel và sinh
sống tại vùng quê Nazareth theo sự hướng dẫn của Chúa, qua lời mộng báo của Thiên
Thần. (Mt 2,21).
2. Thánh Giuse mẫu gương của Tham gia.
Cùng với Đức Maria, Thánh Giuse đã sẵn lòng
đáp lời xin vâng, để tham gia vào chương trình cứu độ như Thiên Chúa đã phán hứa
từ ngàn xưa. Trong âm thầm và lặng lẽ, Thánh Giuse đã đảm nhận
và gánh vác trách nhiệm làm chồng và là cha nuôi của Đấng Cứu Thế mặc dù trước đó
ngài “định tâm bỏ Đức Maria cách kín đáo”, bởi lẽ ngài không biết vị hôn
thê của mình mang thai là “do quyền năng Chúa Thánh Thần.” (Mt 1,18-19). Rất có thể, Thánh
Giuse đã từng muốn rẽ sang một hướng đi khác để tự do bước đi trong kế hoạch của
riêng mình. Giả như, Thánh Giuse đã thật sự chọn bước đi một mình, hay nói cách
khác, nếu Ngài không đảm nhận trách vụ theo Thánh Ý Thiên Chúa, thì Ngài đã có
thể thong dong bước đi nhanh hơn trong kế hoạch của đời mình. Nhưng như thế thì
liệu Ngài có thể đi xa hơn trên hành trình cứu độ mà Thiên Chúa đã vạch sẵn cho
nhân loại không? Đây cũng là ý nghĩa của hiệp hành mà ĐGH Phanxicô nói đến
trong Tông huấn Christus Vivit: “Nếu bạn muốn đi nhanh, hãy đi một
mình. Nếu bạn muốn đi xa, hãy đi với những người khác” (CV s.167).
3. Thánh Giuse mẫu gương của Sứ vụ.
Để thi hành sứ vụ cộng tác với Thiên Chúa,
Thánh cả Giuse đã nỗ lực thi hành ơn gọi của mình ngay trong đời sống gia đình
qua việc: bảo vệ, chăm sóc, dưỡng nuôi và giáo dục Đức Giêsu để Con Thiên Chúa
được “khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến.” (Lc
2, 52).
Từ nơi ngôi làng Nazareth, không ai biết đến,
vị cha nuôi đã lặng lẽ chuẩn bị những hành trang cần thiết cho sứ vụ của Con
Thiên Chúa. Nhờ sự hướng dẫn và chăm sóc của Thánh Giuse mà Đức Giêsu đã lớn lên trong nhân đức và khôn ngoan, chuẩn bị sẵn sàng cho sứ vụ công khai, loan
báo tin mừng tình thương cứu độ sau này.
Như thế, từ nơi gia đình bé nhỏ, sứ vụ nối tiếp
sứ vụ, tình yêu nối kết tình yêu, và Hạt giống Tin mừng đã thật sự lan tỏa đến
mọi người trên khắp cùng thế giới.
Trong bài giảng Thánh lễ khai mạc Thượng Hội đồng
Giám mục vào sáng Chúa Nhật mùng 10-10-2021, ĐGH Phanxicô đã nói: để có thể sống
hiệp hành hoặc “đi với nhau trên cùng một con đường”, chúng ta rất
cần thực hiện tiến trình: “gặp gỡ-lắng nghe-phân định”. Nơi Thánh Giuse,
những cuộc gặp gỡ trực diện với sứ thần đã “biến đổi và gợi ý cho Ngài những nẻo đường mới
mà Ngài chưa bao giờ nghĩ đến.” Qua sứ thần, Ngài đã tỉnh thức lắng nghe và
sẵn sàng mở lòng cho những hoạch định của Thiên Chúa. Nhờ sự nhạy bén phân định
Thánh Ý của Chúa, Ngài đã khiêm tốn tuân phục và mau mắn làm theo những lệnh
truyền ngay sau những lần gặp gỡ và lắng nghe lời sứ thần.
Thánh Giuse đã thật sự từ bỏ ý riêng cùng với
những dự tính cá nhân, để có thể hoàn thành Thánh Ý của Chúa trong âm thầm,
kiên định và tín thác. Và kết quả là chương trình cứu độ của Thiên Chúa dành
cho nhân loại đã được thực hiện!
- Chiêm ngắm về cuộc đời của Thánh cả Giuse
khi xưa, giúp anh em gia trưởng chúng ta ý thức hơn về lối
sống hiệp hành hành trong thời đại hôm nay. Đó là tích cực và chủ động tham gia
để bước đi cùng Thánh Giuse trên hành trình theo Chúa Giêsu.
Biết quan tâm nâng đỡ và dìu dắt nhau để chúng
ta đi xa hơn trên hành trình đức tin. Nhờ lối sống hiệp hành, mỗi chúng ta dễ
dàng nhận ra những khả năng và giới hạn của nhau.
Nhờ sự
soi sáng của Chúa Thánh Thần, ta có thể dễ dàng nhận ra ai đó trong anh chị em mình
đang bước đi chậm chạp, nhưng điều đó không quan trọng, quan trọng là chúng ta
được cùng đi với nhau, để nâng đỡ và dìu dắt nhau đi xa hơn trên cuộc hành
trình đức tin.
Nhờ lối sống hiệp hành, chúng ta sẽ dễ dàng nhận
ra những khả năng và giới hạn của nhau, để cảm thông, tôn trọng và đón nhận những
khác biệt nơi từng ngôi vị.
Khi ta có cảm thức cùng hiện diện và “cùng đi
với nhau trên một con đường”, ta sẽ để tâm quan sát và tìm cách thức xây dựng
ích lợi chung, hầu có thể góp phần
bé nhỏ của mình vào trong đời sống chung của Giáo hội và Họ đạo.
Tinh thần hiệp hành sẽ giúp chúng ta từng bước
thích nghi và hội nhập, nhằm bớt dần những ý riêng và sự dửng dưng, vô cảm cho
những sinh hoạt mục vụ của cộng đoàn Họ đạo. Một khi nhận ra những hoa trái tốt
đẹp của “một Giáo hội hiệp hành”, chúng ta sẽ có thao thức, sáng kiến và
khao khát dấn thân nhiệt tâm hơn cho đời sống hiệp thông, tham gia và sứ
vụ mà Giáo hội đang
mong muốn chúng ta thực hiện trong ngàn năm thứ ba này.
Xin cho chúng ta biết mở lòng trước những gợi
ý của Chúa và GH gửi trao. Ước mong mỗi chúng ta nhận ra giá trị, ý nghĩa và mục
đích hết sức cần thiết của một sống hiệp hành trong Giáo Hội, nơi Họ đạo và nơi
gia đình chúng ta. Và xin cho mỗi chúng ta luôn biết tích cực, chủ động tham
gia tích cực vào đời sống giáo hội, theo gương Thánh cả Giuse mà năm nay GH
đang thúc đẩy và mời gọi.
-
Hiệp thông: noi gương Thánh
Giuse để cùng với Mẹ Maria, chúng ta “đồng tâm nhất trí”
với nhau trong lời cầu nguyện và đồng thuận với nhau trong những hoạt động.
Chúng ta cần phải hiệp thông gắn bó mật thiết với Chúa nhờ
lời Chúa và bí tích Thánh thể. Chúng ta cùng hiệp thông để giúp nhau gia tăng những đặc sủng và khả năng Chúa ban nơi mỗi
người, biết đón nhận và giúp nhau thanh luyện bản thân để tích cực góp phần vào
sứ vụ xây dựng tình hiệp thông trong cộng đoàn, họ đạo, gia đình mình.
- Tham gia:
một chiều kích khác của Giáo hội hiệp hành, đó là mỗi người chúng ta hãy tích
cực đóng góp phần mình vào trong đời sống mục vụ Giáo hội theo ơn gọi và chức
năng của mình. Dù tôi đang đảm nhận trách vụ hay vai trò nào, âm thầm hoặc công
khai, hoạt động hay về hưu, mỗi chúng ta đều phải chu toàn thật tốt bổn phận mà
mình được GH trao phó. Với khả năng, sức lực và thời gian Chúa ban riêng cho
mỗi người, anh em hãy tận dụng ân sủng ấy để chia sẻ, làm việc, dấn thân tham
gia tích cực vào sứ vụ thăng tiến đời sống giáo hội mỗi ngày nên tốt đẹp hơn.
- Sứ vụ:
Nghĩa là giới thiệu Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài cho tha nhân, và đây là sứ
vụ của toàn Hội Thánh. Tham gia vào sứ vụ này, anh em gia trưởng cần phải trung thành chức năng ngôn sứ do Thiên Chúa trao ban ngày lãnh
nhận bí tích rửa tội để quản trị đời sống mình, giáo dục đức tin cho con cháu,
rao giảng Tin Mừng cho lương dân và phục vụ người nghèo, trong các lãnh vực:
phụng vụ, đoàn thể, giáo dục, y tế và bác ái xã hội... Chắc chắn, trên
con đường thực thi sứ vụ ấy, anh em sẽ gặp phải những thách đố và nhiều cám dỗ
có khi chúng ta sẽ chán nản và muốn bỏ cuộc khi gặp phải những khó khăn trong
sứ vụ. Khi ấy anh em đừng vội nản chí sờn lòng mà buông xuôi, bỏ cuộc, nhưng
hãy biết kiên trì kết hợp mật thiết với Chúa. Người sẽ khai sáng
và ban sức mạnh giúp ta vượt thắng.
Ngoài
sự cậy dựa vào sức mạnh của Chúa, anh em cũng hãy chạy đến cùng Thánh Cả Giuse
để học hỏi và xin ngài hộ giúp, bởi niềm tin của GH dạy
chúng ta rằng: “xưa nay không ai kêu cầu Cha mà vô hiệu.
Cha có thần thế trước mặt Đức Chúa Trời đến nỗi người ta có thể nói rằng:” Trên
Trời thánh Giuse truyền lệnh hơn là van xin”.
Sau
nữa, như Thánh Giuse đã thực hiện trọn hảo tiến trình gặp gỡ, lắng nghe và phân định trong lối sống hiệp
hành, anh em chúng ta cũng nhìn lên Ngài để học hỏi và bước theo. Thật vậy,
trong ý định của bản thân, Thánh Giuse đã từng dự tính bước đi một mình và thực
hiện kế hoạch của riêng mình, khi Ngài “định tâm lìa bỏ” Đức
Maria “cách kín đáo”. Thế nhưng, nhờ cuộc gặp gỡ với sứ thần
và tỉnh thức lắng nghe, Ngài đã nhận ra Tiếng Chúa mời gọi. Sau những gặp gỡ,
lắng nghe, phân định ấy, Ngài đã hoàn toàn vâng phục Thánh Ý Chúa mà “đón rước” Đức Maria “về nhà mình”, Ngài
đã đồng ý cùng đi cùng với Đức Maria trên cuộc hành trình, cùng cưu mang và đưa
Con Thiên Chúa đến với nhân loại theo kế hoạch cứu độ nhiệm mầu của Thiên Chúa.
Tương tự, trong lối sống hiệp hành của mình, anh em gia trưởng chúng ta cũng
cần quan tâm đến việc gặp gỡ, lắng nghe và phân định.
-
Trước hết và trên hết, anh em phải thường xuyên gặp gỡ Chúa, Đấng yêu thương
chọn gọi và sai chúng ta ra đi thi hành sứ vụ của người gia trưởng, nhờ múc lấy
sức mạnh ân sủng và tình yêu của Chúa, anh em chúng ta mới có được những cuộc
gặp gỡ trực diện và chân thành với nhau. Nhờ sự bình tâm và có Chúa hiệp hành,
chúng ta mới sẵn sàng mở lòng khiêm tốn lắng nghe tiếng nói của nhau.
-
Anh em ý thức rằng, việc lắng nghe đích thực không bao giờ dễ dàng, nhưng Chúa
Thánh Thần sẽ làm việc nếu bản thân chúng ta luôn biết mở lòng và tỉnh thức đi
tìm Thánh Ý. Theo ĐGH Phanxicô, gặp gỡ và lắng nghe thôi chưa đủ; ta cần có sự
phân định sau đó: Chúa muốn tôi làm gì qua những cuộc gặp gỡ và lắng nghe tiếng
Chúa, Lời Chúa, giáo huấn giáo hội và lắng nghe nhau?
Cùng
với Thánh Cả Giuse và Mẹ Maria, chúng con xin tạ ơn Chúa đã cho chúng con cùng
nhau hiện diện, cùng nhau suy ngắm và ôn lại những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa
đã thực hiện trên cuộc đời của Thánh cả Giuse và tình thương mà Thiên Chúa dành
cho mỗi chúng ta.
Xin cho chúng con biết mở lòng trước những gợi ý của Chúa gửi trao. Đặc biệt qua vị cha nuôi Đấng Cứu Thế, ước mong mỗi chúng ta nhận ra: Bản thân cần sống hiệp hành như thế nào trong Giáo Hội, nơi cộng đoàn họ đạo và gia đình? Và chúng ta sẽ giúp người khác sống hiệp hành ra sao trong sứ vụ do Chúa và giáo hội trao phó cho mình? (St)
SUY NIỆM 3: THÁNH GIUSE MẪU GƯƠNG HIỆP HÀNH
Mừng kính trọng thể lễ Thánh Giuse, bạn trăm
năm Đức trinh nữ Maria hôm nay, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm kỉ hơn về hình
ảnh thánh cả Giuse, bổn mạng của Giáo hội và của giới gia trưởng chúng ta trong
tinh thần “hướng tới một Giáo hội hiệp hành”.
Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Thiên Chúa đã mời gọi thánh
Giuse cộng tác với vai trò là người chủ gia đình. Người chủ gia đình ấy đã cùng
với các thành viên tham gia hiệp hành, làm nên một gia đình hiệp hành trọn vẹn.
Ở nơi gia đình ấy, người cha, người chồng là thánh Giuse đã tích cực hiệp hành
trong mọi cảnh huống của cuộc đời.
1. Trước hết Thánh Giuse hiệp hành trong mọi không
gian.
Với nhiều bối cảnh và trong những môi trường
khác nhau của cuộc sống bôn ba, từ việc đón vợ là Đức Maria về nhà mình, rồi
cùng đồng hành với vợ trong những ngày sắp sinh nở để trở về nguyên quán kê khai
nhân khẩu theo lệnh của hoàng đế, đến việc sinh con ở Belem, rồi lại tiếp tục
đôn đáo trốn chạy sang Ai Cập và rồi lại lên đường ngược trở về Nazaret...
Trong tất cả các nơi ấy, chẳng có một nơi nào
là ổn định cuộc sống để an cư lạc nghiệp, được an nhàn thảnh thơi, thì lại phải
vội vã lên đường. Nhưng Thánh Giuse đã hoàn toàn hiệp hành cùng với Mẹ Maria và
Hài Nhi Giêsu để bảo vệ Ngôi Lời làm người, nhằm thực thi trọn vẹn chương trình
và ý định của Thiên Chúa trong tất cả những không gian ấy.
2. Thánh Giuse hiệp hành trong thời gian. Những năm đầu đời của Chúa Giêsu nơi dương
thế là khoảng thời gian căng thẳng, đòi hỏi sự hiệp hành cao độ. 30 năm ẩn dật
nơi làng quê Nazaret trong vai trò cha nuôi, tinh thần hiệp hành trong tín thác
vâng nghe. 3 năm Chúa Giêsu thực hiện sứ vụ rao giảng công khai, biết bao buồn
vui trộn lẫn đan xen nhau, vui khi Chúa Giêsu được ủng hộ được tung hô, buồn
khi Chúa Giêsu cũng bị ganh ghét cáo gian chống đối... Người cha ấy vẫn âm thầm
hiệp hành trong gia đình theo đường lối mà Chúa muốn.
3. Thánh Giuse hiệp hành trong trải nghiệm
đời sống đức tin. Ðã có những
ngày đức tin mờ tối, thánh Giuse dường như đã muốn âm thầm bỏ cuộc; đã có những
lúc đức tin như bị thử thách vượt quá sức, có lẽ thánh Giuse cũng cảm nghiệm sự
mệt mỏi chán chường. Vậy mà, thánh Giuse đã cùng mẹ Maria hiệp hành trọn vẹn
trong đức tin, đức cậy và đức ái.
Chúng ta cảm nghiệm rằng sự nhiệt thành cộng
tác vào chương trình cứu độ của thánh Giuse là rất quan trọng, nó mang lại giá
trị lớn lao. Thánh Giuse đã cùng đồng hành với bạn mình là Đức Maria và con
mình là Đức Giêsu trong mọi không gian, trong thời gian với lòng yêu mến và đức
tin trung kiên.
Lúc nào đó trong cuộc đời, ta băn khoăn tự
hỏi, giả như một thành viên trong gia đình Nazaret hay thánh Giuse người gia
trưởng không cộng tác vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa thì mọi sự sẽ
ra sao?
Trong đời sống Giáo hội, mỗi chúng ta được
mời gọi theo gương thánh Giuse để cùng chung chia vận mạng lịch sử, gánh lấy
trách nhiệm mà không sợ gian khó. Tin tưởng vào kế hoạch và sự quan phòng của
Thiên Chúa, tin tưởng vào những người cùng đồng hành mà Chúa gởi đến sống bên
cạnh chúng ta, tin tưởng vào sức mạnh Chúa ban cho chúng ta nhận ra rằng: "Ơn Ta đủ cho con."
Chúng ta hãy cùng thánh Giuse tạ ơn Chúa vì
Chúa đã đặt ta vào chương trình của Chúa, Chúa đã nhớ đến ta trong muôn vàn tạo
vật của Người. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Chúa đã trao cho chúng ta chương
trình kì diệu của Chúa. Chúng ta hãy tự hỏi, tại sao trong việc khó khăn này,
Chúa lại chọn tôi mà không là ai khác? Tại sao Chúa đặt tôi trong gia đình này,
trong vị trí này? Phải chăng Chúa rất tin tưởng nơi tôi?!
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã trao phó và gởi đến bên
cạnh chúng ta những người đồng hành, những người sống bên cạnh đem niềm vui ấm
cúng và hạnh phúc, trong đó cũng không thiếu những người đem đến thử thách,
gian nan để rèn luyện sự chịu đựng của chúng ta.
Ước gì trong mỗi ngày sống, chúng ta xin Chúa cho ta được noi gương
thánh Giuse, hiệp hành trọn vẹn trong chương trình cứu độ mà Chúa muốn chúng ta
thực hiện, hiệp hành trong đời sống đức tin với những người sống bên cạnh chúng
ta.
Lạy Chúa,
thánh Giuse xưa đã sống tinh thần hiệp hành triệt để, cộng tác hết mình trong
chương trình cứu độ của Chúa. Ngài đã lắng nghe, thấu cảm, hiệp thông và tham
gia trọn vẹn vào sứ vụ của Chúa Cứu Thế. Nhờ lời chuyển cầu của ngài, xin Chúa
cho chúng ta ý thức mình là thành phần của Giáo hội, một Giáo hội đang lữ hành
trên con đường đức tin, xin giúp chúng con biết tham gia vào sứ vụ Chúa trao bằng
việc cộng tác nhiệt thành.
Xin cho
chúng ta có được tâm tình tạ ơn tha thiết vì Chúa đã cho cộng tác vào chương
trình của Chúa. Amen.
(dựa vào ý tưởng của Nt. Maria Thérèse Bùi Thị Minh Thùy, O.P)
SUY NIỆM 4: THÁNH GIUSE DẠY TA SÁM HỐI MÙA CHAY
Nếu mùa chay là mùa sám
hối, trở về, thì có lẽ việc trở về sâu xa nhất là trở về cõi lòng mình trong
thinh lặng để nhận ra Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương, nhận ra tha nhân là anh
em mình, nhất là nhận ra con người thật của mình. Nhờ đó mà ta có những điều
chỉnh cho đúng đắn phù hợp với ý Chúa hơn. Nếu Giáo
Hội đặt tháng kính Thánh Giuse vào Mùa Chay, thì mục đích đã rõ, bởi vì ngài là
khuôn mẫu của con người nội tâm, thinh lặng.
Xin Chúa cho chúng ta biết
trân trọng và yêu quý đời sống thinh lặng, nhất là biết học nơi thánh Giuse bài
học về “đức thinh lặng”.
Không
biết vô tình hay hữu ý, năm nào cũng vậy, GH lại mừng kính thánh Giuse vào đúng
lịch PV mùa chay. Chắn hẳn GH rất có lý. Bởi lẽ nếu mùa chay là mùa
sám hối, trở về thì có thể nói sự trở về sâu xa nhất chính là trở về chính mình
và trở về với Thiên Chúa. Nói như vậy thì hơn ai hết Thánh Giuse chính là
mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta noi theo.
1. Trước
hết thánh Giuse dạy ta bài học trở về với chính mình trong thinh lặng.
Khi
đọc các sách Tin Mừng, ta không thấy thuật lại bất cứ lời nào của thánh
Giuse, dù chỉ một lời nói với Mẹ Maria hay với Chúa Giêsu. Ngay cả khi gặp trẻ
Giêsu ở trong Đền Thờ sau những ngày lo âu tìm kiếm, cũng không có lời nào hé
lộ của Thánh Giuse. Phải chăng, Thánh Kinh nhằm đề cao giá trị của sự thinh
lặng nơi thánh cả Giuse.
Đúng
vậy thinh lặng là thái độ hết sức quý giá: Người đời thường nói: "Lời
nói là bạc, im lặng là vàng". Thinh lặng quý hơn lời nói, vì nói chỉ là
bạc mà im lặng mới là vàng; là vàng thì bao giờ cũng quí hơn bạc! Nhờ thinh
lặng mà thánh Giuse có thời giờ gắn bó với Chúa cách sâu xa để nhờ đó ngài dễ
dàng nhận ra thánh ý Thiên Chúa mà thực thi, dẫu cho đó là điều không dễ dàng chút
nào vì đụng chạm đến giá trị và quyền lợi cá nhân của ngài (cha chay và chồng
chay).
Thinh
lặng là biểu hiện của sự hiểu biết. Ông bà ta vẫn nói: “Ngôn giả bất tri, tri
giả bất ngôn”; nghĩa là người không biết thì hay nói vì tưởng người khác không
biết, ngườì biết thì lại không nói, vì nghĩ rằng mọi người đều biết. Heidegger
khuyên chúng ta thực tập thinh lặng, bớt nói, bớt phát biểu, bớt bàn tán….không
phải để ta nên ngu muội, vô tri, nhưng để cho tâm khảm suy nghĩ của chúng ta
hoà quỵện với sinh linh vạn vật, và chỉ khi đó chúng ta mới có thể thấu đạt hết
mọi ngóc ngách, thông tường mọi thế thái, biến chuyển trong sự biểu đạt khôn
cùng của nhân sinh, của nhiên giới. Đó cũng là ý nghĩa mà nhà thơ tài danh của
Ấn Độ Rabindranath Tagore muốn chuyển tải khi ông viết: “Nước trong chậu thì
sóng sánh; nước trong biển cả thì thẫm đen.....”
Chính
nhờ sự thinh lặng trong đêm vắng, Thánh Giuse đã nhận ra được ý muốn của Chúa,
lắng nghe được Lời Chúa nói. Phân biệt được điều gì đúng, điều gì sai và chọn
lựa cách thế thực hiện như thế nào cho đẹp ý Chúa nhất. Nên người xứng đáng
được gọi là “đấng công chính”.
Thinh
lặng chính là thầy dạy sự khôn ngoan. Nhìn
vào đời sống, chúng ta thấy rằng mình đã sai lỗi quá nhiều trong lời nói. Bởi
vì “đa ngôn thì đa quá”. Nói nhiều thì trở nên nói dai và kéo theo nói dở, nói
ẩu và dại. Bởi đó hãy thận trọng trong lời nói. Ném một lông vịt vào trong gió,
thì làm sao nhặt lại được. Một lời nói ra, bốn ngựa đuổi theo cũng không
kịp “tứ mã nan truy” là vậy. Cho nên lời nói có thể trở thành nguy cơ
đánh mất tình thương, chia cắt tình thân và gây nên đau khổ cho nhau.
Hãy
học cùng thánh Giuse bài học thinh lặng nhất là trong nhữn giây phút căng thẳng
và sóng gió. Bởi nếu biết thinh lặng đúng lúc, ta sẽ chặng được 90% đổ vỡ đáng
tiếc, vì thinh lặng là thái độ khôn ngoan nhất của con người và là phương thuốc
chữa lành những sai lầm và tội lỗi chúng ta.
Truyện
kể rằng: Xưa một nhà vua Ấn Độ, muốn thử nhân tài của một
nước Chư hầu liền gửi tới nước này ba pho tượng vàng, giống hệt nhau.
Nhà vua Ấn Độ yêu cầu nhà vua Chư hầu cho biết trong ba pho tượng
vàng này, đâu là pho tượng quí giá nhất.
Nhà
vua nước Chư hầu cho triệu tập các nhà thông thái tới để đánh giá ba
pho tượng vàng này, tìm ra xem pho tượng nào quí giá nhất. Các nhà thông thái
nghĩ ngay tới giá trị của mỗi pho tượng sẽ căn cứ vào cân nặng nhẹ, hoặc vào
tuổi vàng tốt xấu, hoặc căn cứ vào nghệ thuật tìm thấy trên ba pho tượng vàng!
Nhưng rồi các nhà thông thái đành phải bó tay, vì ba pho tượng này giống hệt
nhau về nghệ thuật, khối lượng và tuổi vàng.
Nhà
vua nước Chư hầu rất buồn, vì không biết được giá trị hơn kém của ba
pho tượng. Vua liền cho loan báo khắp nước: Ai tìm được bí mật giá trị của mỗi
pho tượng sẽ được trọng thưởng.
Có
một người tù, biết chuyện xin được xem ba pho tượng và nếu anh ta tìm ra giá
trị hơn kém của ba pho tượng này thì anh chỉ xin một điều kiện là cho anh được
tự do.
Lập
tức nhà vua cho anh xem ba pho tượng. Vừa ngó xong ba pho tượng, anh ta xin một
cọng rơm. Chỉ trong ít phút, anh đã khám phá ra giá trị hơn kém của ba pho
tượng vàng.
Anh
lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ nhất, thì thấy cọng rơm xuyên từ lỗ
tai này sang lỗ tai kia, anh bảo: “ đây là pho tượng ít giá trị nhất, vì nó
tượng trưng cho hạng người nghe điều gì, vừa vào tai nọ, đã ra tai kia, không
biết ghi nhớ, không để tâm gì suy nghĩ điều đã nghe”.
Anh
ta lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ hai, thì thấy cọng rơm đi từ
lỗ tai chạy xuống miệng pho tượng. Anh bảo: “pho tượng này hơn pho tượng trước
là vì nó tượng trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ nhưng mắc khuyết điểm
là: vừa nghe được gì đã vội nói ngay, không suy nghĩ xem điều mình nghe đúng
hay sai, nói ra có lợi hay có hại”.
Anh
lại lấy cọng rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ ba, thì thấy cọng rơm đi từ lỗ
tai chạy xuống bụng. Anh nói: “pho tượng này quý giá nhất, vì nó tượng trưng
cho hạng người biết nghe, biết nhớ, biết để lòng suy nghĩ, biết ghi vào tâm dạ
mình.
Vua
nước lớn nghe được lời giải đáp của thần dân nước nhỏ thì vô cùng kính nể. Ông
về nói với các quan trong triều: “Nước họ có người thông minh tài giỏi như
vậy, hẳn nước họ là nước mạnh mẽ, hưng thịnh, ta nên giao hoà với họ chứ không
nên giao chiến”.
2.
Thứ hai thánh Giuse dạy ta bài học về sự tín thác và sự vâng phục Chúa.
Nếu
ông Giacaria nghi ngờ về ý định của Thiên Chúa qua biến cố truyền tin nơi đền
thờ và Mẹ Maria ngỡ ngàng trước lời mời gọi của Thiên Chúa qua lời truyền tìn
của sứ thần Gabriel, thì thánh Giuse lại hoàn toàn vâng phục không một lời chấp
vấn hay bối rối gì cả.
Thánh
Kinh thuật lại: Khi biết được Đức Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh
Thần, Thánh Giuse đã không ngần ngại nhận Đức Maria về nhà mình để chở che và
nuôi dưỡng. Nhận lãnh hay bảo lãnh Đức Maria về nhà ,cũng đồng nghĩa là Thánh
Giuse giải cứu Đức Maria khỏi búa rìu dư luận và thoát khỏi án tử. Việc
bảo trợ Đức Maria cũng có nghĩa là đồng bảo trợ Hài Nhi đang được cưu mang
trong cung lòng Đức Maria. Việc nhận Đức Giêsu làm con cũng đồng nghĩa với việc
bảo trợ cho Đức Giêsu sinh ra cách hợp pháp và đưa Đức Giêsu vào trong dòng tộc
vua Đavít, đúng như lời các ngôn sứ xưa loan báo.
Vâng
phục ý Chúa, không chỉ bảo trợ cho Hài nhi Giêsu sinh ra hợp pháp mà thánh
Giuse còn bảo toàn mạng sống của Đức Giêsu khỏi nanh vuốt của vua Hêrôđê qua
việc vâng theo lời mộng báo của Chúa trong đêm để rồi nhanh chóng đem mẹ Người
và Hài Nhi Giêsu vượt đường xa hiểm trở gần 500 cây số xuyên qua sa mạc dài hơn
200 km không một bóng cây, không một ngọn cỏ, không một giọt nước, rất gian khổ
để đến Ai-cập tị nạn. Và khi tình hình yên ổn, một lần nữa thánh Giuse lại
nghe theo lời báo mộng của Thiên sứ, bỏ đất Ai-cập đem gia đình trở về quê hương
xứ sở, và định cư tại Nagiarét để chăm sóc nuôi dưỡng thánh gia bằng chính công
sức lao động chân chính của mình với nghề thợ mộc.
Còn
chúng ta thì khác, chúng ta thường tìm ý mình hơn là ý Chúa. Và mỗi khi gặp
phải những tai ương hoạn nạn, chúng ta thường kêu trách và xúc phạm đến Chúa,
vì chúng ta cho rằng vâng lời chỉ là một hành động hèn nhát, mất tự do và chôn
vùi nhân phẩm mình.
Thực
tế cho thấy, không phải lúc nào chúng ta cũng biết được kế hoạch của Thiên Chúa
dành cho chúng ta. Chúng ta chỉ biết rằng đường lối của Chúa thì khác với
đường lối của ta, nhưng lại là đường lối tuyệt vời nhất dành cho ta. Vì
thế, ta hãy tín thác và vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Nhờ thế ta mới trở nên những người tôi trung và khôn
ngoan như thánh cả Giuse xưa.
Truyện
kể rằng: Có 3 cái cây trên một ngọn đồi trong rừng, cùng tranh luận với
nhau về những hi vọng và giấc mơ của chúng...
Cái
cây đầu tiên nói: “Tôi hi vọng một ngày nào đó tôi sẽ trở thành tủ đựng vàng
bạc châu báu. Tôi sẽ được nhét đầy vàng, bạc và ngọc quý, được trang hoàng với
nghệ thuật chạm khắc cầu kỳ và mọi người sẽ thấy rằng tôi rất đẹp”.
Đến
lượt mình cây thứ hai nói: "Tôi ao ước sẽ được là một con thuyền mạnh mẽ.
Tôi sẽ chuyên chở các vị vua và hoàng hậu đến mọi nơi trên thế giới. Mọi người
sẽ cảm thấy an toàn khi ngồi trên thuyền tôi vì thân tàu mạnh mẽ và vững
chắc".
Cuối
cùng cây thứ ba mơ ước: "Tôi muốn được là một cây cao lớn và mạnh mẽ nhất
trong rừng. Mọi người sẽ nhìn thấy tôi trên ngọn đồi, nhìn lên các cành của tôi
và biết rằng tôi đang vươn cao và gần bầu trời đến mức nào. Tôi sẽ mãi là cái
cây vĩ đại nhất và mọi người sẽ luôn nhớ đến tôi".
Sau
nhiều năm cẩu nguyện, ngày mong đợi của chúng cũng đến - một nhóm người lấy gỗ
đến khu rừng đó.
Một
người trong bọn họ tiến đến bên cây thứ nhất và nói: "Cây này trông có vẻ
chắc lắm đấy. Tôi nghĩ là tôi sẽ bán nó cho anh thợ mộc" và anh bắt đầu
đốn cây. Cái cây cảm thấy rất hạnh phúc vì nó nghĩ rằng anh thợ mộc sẽ dùng nó
để đóng thành một hộp đựng đồ quý giá...
Nhìn
thấy cây thứ hai, người thợ rừng bảo: "Cây này cũng chắc lắm đấy, ta sẽ
bán nó cho một hãng đóng thuyền". Cây thứ hai vô cùng sung sướng vì nghĩ
rằng mình sắp được đóng thành một con thuyền lớn.
Khi
người thợ rừng tiến đến gần cây thứ ba, nó cảm thấy thật sợ hãi bởi vì nó biết
rằng nếu ông ấy hạ nó giấc mơ của nó sẽ không thể nào thành hiện thực được. Một
người thợ bảo "Tôi chưa có dự định gì đặc biệt cho số cây của tôi nhưng
tôi sẽ chặt cái cây này". Và ông ta cưa nó.
Khi
cây thứ nhất đến tay người thợ mộc, ông đóng nó thành máng ăn cho ngựa. Sau đó
ông ấy đặt nó trong chuồng ngựa và chất đầy cỏ khô lên. Đây không phải là điều
cái cây mơ ước.
Còn
cây thứ hai, nó được xẻ ra và đóng thành một cái thuyền câu cá nhỏ. Mơ ước được
trở thành một con thuyền mạnh mẽ và được chở các vị vua đã kết thúc.
Cây
thứ ba thì bị cưa thành những thanh gổ lớn và bị xếp vào một góc tối tăm, hôi
hám.
Rồi
năm tháng trôi qua, những cái cây đã quên hết ước mơ của mình. Thế rồi một ngày
nọ một người đàn ông và một phụ nữ đến bên chuồng ngựa. Cô ấy sinh nở tại đây
và họ đặt đứa bé nằm trong lớp cỏ khô trong máng ăn được đóng từ cây thứ nhất.
Người đàn ông ao ước có được một cái giường cũi cho đứa bé và ông ấy sẽ sử dụng
cái máng với mục đích này. Cái cây cảm nhận được tầm quan trọng của việc này và
nó biết rằng nó đang giữ trong tay một tài sản quý báu nhất.
Vài
năm sau, có một nhóm người bước lên chiếc thuyền câu được làm từ cây thứ hai.
Một người đàn ông mệt và ngủ thiếp đi. Trong khi họ đang lênh đênh trên biển,
một cơn bão lớn nổi lên và cái cây không nghĩ rằng mình đủ mạnh để đưa họ qua
cơn sóng to gió lớn này. Họ đánh thức người đàn ông đang nằm ngủ, ông ấy đứng
dậy và nói: "Biển lặng". Ngay tức thì cơn
bão tan biến. Trong lúc này cây thứ hai biết rằng nó đang được chở vị vua của tất
cả các vị vua trên thuyền.
Cuối
cùng cũng có người đến và mang cái cây thứ ba đi. Nó được khiêng qua các con
đường. Suốt dọc đường người ta nhạo báng người đàn ông đang khiêng nó. Khi họ
lên đến đỉnh đồi, người đàn ông kia bị đóng đinh trên cây và bị treo ở đó cho
đến chết. Ngày Chúa nhật đến, cái cây cảm thấy mình đủ mạnh để đứng trên đỉnh
đồi và thật gần với Thượng Đế bởi vì Chúa đã bị đóng trên thân của nó.
Do
vậy, khi mọi việc diễn tiến không đúng với những gì ta mơ ước, hãy luôn tin
tưởng và phó thác vào quyền năng và tình thươn của Chúa, bởi vì Người luôn luôn
có sẵn kế hoạch cho chúng ta. Hãy vững tin rồi chúng ta sẽ nhận được quà tặng
từ Người. Giống như những cây kia, cuối cùng cũng đạt được giấc mơ của mình,
tuy không hoàn toàn giống như những gì chúng nguyện cầu nhưng lại tuyệt hảo
nhất vượt trên mọi ước vọng.
Lạy Chúa, giữa bao triết lý và lắm luồng tư tưởng trong xã hội này, con phải chọn lựa như thế nào?. Giữa những nền văn hóa đa dạng và những nền văn minh phức tạp, con biết đâu là đúng, đâu là sai? Xin cho chúng con, đặc biệt là quý anh em gia trưởng, biết học nơi thánh Giuse bài học của thinh lặng để trở về với chính mình và với Chúa. Xin cho chúng con biết chọn tiếng Chúa mời gọi hơn là tiếng đời thúc đẩy để rồi nỗ lực thi hành theo ý Chúa với hy vọng cũng được trở nên công chính theo gương thánh cả Giuse mà chúng con mừng kính hôm nay. Amen.
TÂM TÌNH SAU LỄ
Trong tông thư “Patris Corde” (Trái tim của người cha”, được Đức Thánh Cha Phanxico công bố ngày 08/12/2020, nhân dịp kỉ niệm tròn 150, Đức Giáo Hoàng Pio IX bạn hành sắc lệnh Quemadmodum Deus (cũng như Thiên Chúa) và tuyên bố chọn thánh Giuse làm đấng bảo trợ cho toàn thể GH Công giáo.
ĐTC Phanxicô nêu lên 7 đức tính như là những chiều kích linh đạo nơi thánh Giuse (người cha âm thầm yêu thương, dịu dàng, vâng phục, đón nhận, can đảm và sáng tạo, làm việc, trong bóng tối) nhằm mời gọi các tín hữu noi gương bắt chước trên con đường nên công chính. Đó cũng lã là những đức tính cần thiết tôi muốn cầu chúc cho quý anh em gia trưởng nhân ngày mừng bổn mạng hôm nay.
BỐN CÁCH NOI GƯƠNG THÁNH GIUSE HÀNG NGÀY
Tác giả: Philip Kosloski
Chuyển ngữ và biên tập: Phêrô Phạm Văn Trung
Từ: aleteia.org (14/12/2020
Để tôn vinh Thánh Giuse thì những lời cầu nguyện và lòng sùng kính là quan trọng, nhưng điều quan trọng hơn vẫn là noi gương cuộc đời và gương sáng của Thánh cả Giuse.
"Cha Louis Lallemant, đã chọn Thánh Giuse làm mẫu mực cho đời sống nội tâm, và mỗi ngày cha đều thực hành các bài tập sau đây để tôn vinh Thánh Giuse."
1. LẮNG NGHE CHÚA THÁNH THẦN: Đầu tiên là nâng cao tâm trí của mình lên cõi lòng của Thánh Giuse và suy xét xem Ngài đã vâng theo thế nào trước sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần. Sau đó, xét lòng mình, tự hạ mình xuống vì những lần chống đối của chính mình, và tự động viên mình làm theo những linh cảm của ân sủng một cách trung thành hơn.
2. KẾT HỢP CẦU NGUYỆN VỚI CÔNG VIỆC: Điều thứ hai là lưu tâm đến sự trọn hảo mà Thánh Giuse đã có khi kết hợp đời sống nội tâm với nghề nghiệp trong hoàn cảnh sống của Ngài. Sau đó ngẫm lại cuộc đời của chính mình, chúng ta xét xem có khuyết điểm nào để sửa chữa không. Bằng việc thực hành thánh thiện này, Cha Lalemant đã đạt được sự kết hợp tuyệt vời với Thiên Chúa và biết làm cách nào để duy trì sự kết hợp đó giữa những công việc có vẻ như gây mất tập trung nhất.
3. LÒNG SÙNG KÍNH ĐỨC TRINH NỮ MARIA: Thứ ba là hiệp nhất về mặt thiêng liêng với Đức Maria, là Mẹ Thiên Chúa; và quan tâm đến những soi sáng đáng ngưỡng mộ mà thánh Giuse đã có được khi Ngài suy tưởng về sự đồng trinh và thiên chức làm mẹ của Đức Maria. Cha Lalemant khuyến khích chúng ta yêu mến vị tổ phụ thánh thiện này vì tình yêu của Thánh Giuse dành cho vị phu nhân thánh thiện của Ngài.
4. TÔN THỜ CHÚA HÀI ĐỒNG: Điều thứ tư là thể hiện sự tôn thờ sâu lắng và thi hành các công việc phục vụ của người cha như Thánh Giuse đã dành cho Hài Nhi Giêsu. Cha Lalemant đã xin được phép cùng với Thánh Giuse tôn thờ, yêu thương và phục vụ Con trẻ thần linh này với tình yêu mến và sự tôn kính sâu sắc nhất.
(Nguồn: https://phatdiem.org/)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét