SUY NIỆM
LỜI CHÚA TUẦN V MÙA CHAY
Lm. Nguyệt Giang
CHÚA NHẬT V MÙA CHAY, NĂM B
Gr 31,31-34; Dt 5,7-9; Ga 12,20-33
MẦU NHIỆM TỰ HỦY-QUY LUẬT CUỘC SỐNG
Lời Chúa hôm nay mời
gọi chúng ta can đảm tự hủy mình ra như không với niềm tin vững vàng vào ơn cứu
độ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu đã chết và đã sống lại trong vinh quang, tựa
như “hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi
một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt.” (Ga
12,24).
Truyện kể
rằng: Có hai hạt lúa nọ được giữ lại để làm hạt giống
cho vụ sau vì cả hai đều là những hạt lúa tốt, đều to khỏe và chắc mẩy.
Một hôm, người chủ
định đem chúng gieo trên cánh đồng gần đó. Hạt thứ nhất nhủ thầm: “Dại gì ta
phải theo ông chủ ra đồng. Ta không muốn cả thân mình phải nát tan trong đất.
Tốt nhất, ta hãy giữ lại tất cả chất dinh dưỡng trong lớp vỏ này và tìm một nơi
lý tưởng để trú ngụ”. Thế là nó chọn một góc khuất trong kho lúa để lăn vào đó.
Còn hạt lúa thứ hai
thì ngày đêm mong được ông chủ mang gieo xuống đất. Nó thật sự sung sướng khi
được bắt đầu một cuộc đời mới.
Thời gian trôi qua,
hạt lúa thứ nhất bị héo khô nơi góc nhà bởi vì nó chẳng nhận được nước và ánh
sáng. Lúc này chất dinh dưỡng chẳng giúp ích được gì - nó chết dần chết mòn.
Trong khi đó, hạt lúa thứ hai dù nát tan trong đất nhưng từ thân nó lại mọc lên
cây lúa vàng óng, trĩu hạt. Nó lại mang đến cho đời những hạt lúa mới…(St)
Câu chuyện trên phần
nào giúp ta hiểu được quy luật cuộc sống mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong bài
Tin Mừng hôm nay: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì
nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt.” (Ga
12,24). Chúa Giêsu chính là hạt lúa đã được Chúa Cha gieo từ trời xuống lòng
thế giới, và đã trở thành cây lúa tốt tươi nặng trĩu bông hạt, trở thành lương
thực nuôi sống linh hồn và bồi dưỡng thể xác cho những ai tin yêu và đón nhận
Ngài.
Hạt lúa Giêsu ấy đã
phải chịu nhiều đau khổ cả thể xác lẫn tâm hồn, bởi những thầy thông luật,
những người Biệt phái và Kinh sư Do Thái thù ghét, chống đối và hãm hại… Hạt
lúa Giêsu ấy đã trải qua giai đoạn bầm dập bởi những đòn roi do những kẻ kiêu
căng, tự mãn gây ra. Và cuối cùng hạt lúa Giêsu ấy đã phải chấp nhận chết đi,
bị vùi sâu vào trong huyệt đá mới, nhưng sau ba ngày hạt giống Giêsu đã sống
lại, trỗ sinh nhiều hoa trái, trở thành nguồn ơn cứu chuộc cho những kẻ tin
tưởng vào Người.
Có thể nói mỗi người
Kitô hữu chúng ta cũng là hạt lúa đã được TC gieo vào giữa lòng thế gian này.
Cũng như Đức Giêsu, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần cảm nếm được
sự đau khổ do con cái thế gian gây ra; bởi người đời luôn cho rằng chúng ta là
những người dại dột nhất mới tin và đi theo một Đấng chịu án tử và chết nhục
nhã trên cây thập tự giá. Nhưng với chúng ta thì đó lại là Thiên Chúa làm
người, là Đấng chấp nhận tự hủy mình ra nhưng không để yêu thương cứu chuộc
chúng ta.
Lời xác quyết của
Chúa Giêsu: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường
mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga
12,25). Nhắc nhở chúng ta đừng bao giờ tự khép mình trong lớp vỏ khô cứng mà cố
giữ lấy sự nguyên vẹn của bản thân mình, nhưng hãy can đảm thoát ra khỏi lớp vỏ
cứng cỏi của sự toan tính ích kỉ để tự do vươn cao, bay xa đem niềm vui tin
mừng của Chúa đến cho mọi người, ở mọi nơi nhằm góp phần làm cho cuộc đời này
trỗ sinh nhiều bông hạt tốt lành.
Hy vọng với sự lựa
chọn tựa như hạt giống thứ hai, khi đứng trước cánh đồng bao la của cuộc đời
này, người Kitô hữu chúng ta sẽ có được cuộc sống an vui và hạnh phúc, khi dám
chết đi từng ngày cho con người cũ với những tính toán xấu xa tội lỗi, để sống
lại con người mới trong hy sinh phục vụ đến cùng vì tình yêu theo gương Chúa
Giêsu Kitô phục sinh. Nhờ đó mà mảnh vườn
nhân loại này mới có thể được trổ sinh nhiều hoa trái tươi đẹp và mỗi người
trong chúng ta mới xứng đáng được hưởng nhờ ơn cứu chuộc như lời
Chúa Giêsu đã hứa: “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.”
Amen.
Suy
niệm 2: ĐƯỢC MẤT THẬT SỰ
Phúc
Âm tuần này Chúa Giêsu tuyên bố con đường cứu độ của Ngài và cũng là quy luật
của đời sống: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng
sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” Đó là những lời
minh triết soi sáng cho chúng ta nhận ra những được mất thật sự trong đời.
1. Tưởng
được mà mất. Chúa Giêsu dùng hình ảnh hạt giống để diễn tả thật dễ hiểu
điều cứ tưởng được mà mất: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì
nó vẫn trơ trọi một mình.” Hạt giống cứ tưởng nó không bị chết, nó giữ lại được
nguyên vẹn, nào ngờ, nó chỉ trơ trọi một mình. Đúng là giàu trí tưởng bở. Nó
mất rất nhiều. Trong đời không thiếu những người ích kỷ, chỉ chăm chăm chú chú
lo cho bản thân mình vinh thân phì gia, cứ ngỡ là được, ai ngờ mất hết nhân
cách, mất hết tình nghĩa, mất cả sự sống đời đời.
2. Tưởng
mất lại được. Cũng hình ảnh hạt giống lại cho thấy điều tuyệt vời tưởng mất
lại được: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt
khác.” Hạt lúa chết đi tưởng là mất hết, nhưng thật tuyệt vời, chính lúc đó nó
lại nảy sinh sự sống mới phong phú hơn nhiều. Chúa Giêsu như hạt giống được
gieo vào thế giới này, đã hy sinh chết đi để trổ sinh sự sống cứu độ muôn
loài và sự sống phục sinh đời đời. Trong đời, nhiều người cũng đã sống quảng
đại hy sinh quên mình, cho đi tất cả. Chính lúc sống quên mình như thế thì lại
được đời nhớ đến, ngưỡng mộ, ghi ơn, và nhất là được Chúa tưởng thưởng đời đời.
Noi
gương Chúa Giêsu, chúng ta hãy sống màu nhiệm hạt giống tự hủy chết đi, quên
mình hy sinh phục vụ, để làm trổ sinh những hoa trái tươi đẹp cho mảnh vườn
nhân loại. Và những hoa trái phục vụ còn giúp ta được hưởng Nước Trời như lời
Chúa Giêsu đã hứa: “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.” Amen.
Lm. Nguyễn Xuân Trường
Phụng vụ lời Chúa hôm nói lên con đường cứu chuộc của Đức Kitô và nhấn mạnh đến quy luật của cuộc sống: chết để được sống và mất đi để được lại : “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Xin cho chúng ta biết đón nhận con đường cứu chuộc của Chúa bằng cách chết đi con người cũ để sống lại con người mới trong Chúa Kitô, và cảm nhận được quy luật của cuộc sống để như dám cho đi trong hy sinh phục vụ để đón nhận dồi dào ân sủng Chúa.
Lời Chúa Chúa Nhật tuần này
mời gọi chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu, Đấng đã vâng phục Chúa Cha cách tuyệt đối
và đã yêu thương nhân loại đến cùng; Ngài cũng là Đấng ‘chịu mục nát’ để cứu lấy
nhân loại chúng ta, như lời Ngài đã nói: “Nếu
hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu
chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Mặc dù
sống và chết là hai từ đối nghĩa nhau, nhưng trên thực tế chết và sống lại liên kết hỗ trợ nhau rất chặt
chẽ: sự chết nuôi sự sống và sự sống có được là nhờ sự chết. Ví dụ:
Nơi thực
vật: những thứ được dùng làm phân bón phải chết đi thì mới thành chất bổ nuôi dưỡng
cho cây phát triển.
Nơi sinh
vật: các thức ăn phải "tiêu" mới "hóa" thành lương thực.
Trong cõi
nhân sinh: người già chết đi để nhường đất và hoa màu của đất cho các thế hệ
sau dùng mà sống.
Còn bài
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng hình ảnh hạt lúa có thối đi thì cây lúa mới
nẩy mầm và trỗ sinh nhiều bông hạt, để ám chỉ về sứ mạng cứu chuộc của Ngài. Qủa thật Ngài
có chết đi thì chúng ta mới được sống. Cái chết của Ngài đem lại cho chúng
ta sự sống mới, sự sống vĩnh cửu và dồi
dào.
Ví như hạt muối tạo ra vị mặn chỉ khi nó hoà tan trong nước. Như ngọn nến được phát sáng chỉ khi sáp nến bị ăn
mòn và tan chảy. Tựa như con sò chỉ tạo ra viên
ngọc quý giá một khi nó chịu biến đổi từ một hạt cát qua một quá trình lâu dài
và đau đớn. Và như người cha người mẹ có chấp nhận hy sinh bản thân mình thì con cái mới
có được cuộc sống tốt đẹp.
- Thánh Phao-lô trong bài đọc 2 cũng cho chúng ta biết: chính
nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu đã trở
thành "căn nguyên ơn cứu độ đời đời
cho tất cả những kẻ tùng phục Ngài".
- Tiên tri Giêrêmia trong bài đọc 1 thì cho biết: ngày xưa ở trên núi Sinai, Thiên
Chúa đã thiết lập Giao ước với dân Israel qua trung gian là Môsê, khi đó Ngài
hứa là Thiên Chúa của họ và sẽ bảo vệ họ, phần họ thì phải phụng sự Ngài như là
Chúa tể duy nhất. Các điều khoản của giao ước ấy được khắc lên hai bia đá.
Nhưng dân Israel đã thường xuyên vi phạm giao ước ấy, dẫn đến hậu quả là họ
phải bị mất nước và bị bắt đi lưu đày. Nên giờ đây ngôn sứ Giêrêmia mới loan báo cho
dân biết, Thiên Chúa sẽ tái lập một giao ước mới: Giao ước mới này không ghi
trên bia đá mà ghi vào tận đáy lòng con người; tinh thần của Giao ước mới chính
là tình thương và tha thứ: "Mọi
người từ lớn chí nhỏ đều nhìn biết Ta" và "Ta sẽ tha tội ác của chúng và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của
chúng". Lời hứa của Giao ước mới này sẽ được thành toàn nơi Đức Giêsu Kitô chịu chết và sống lại
sau này.
Cho nên khi thi hành sứ mạng
ngôn sứ của mình, mặc dầu tiên tri Giêrêmia luôn phải đối mặt với những bạo
hành, những bất công từ những người chống đối mình, phản phúc lại Thiên Chúa,
nhưng ông hề không nản chí sờn lòng, trái lại ông vẫn can đảm đến với dân và
nói lời Thiên Chúa cho dân nghe. Với ông, những linh hồn của dân là nguồn cảm hứng
để ông chấp nhận gánh chịu mọi đau khổ. Ông đã làm tất cả những gì có thể với
mong muốn sao cho dân nhận biết Thiên Chúa là Đấng tín trung với lời giao ước.
Và tuyệt vời thay! Nhờ ông
mà dân chúng đã trở về với Thiên Chúa nên đã được Người bao dung tha thứ, từ nổi
giận, Ngài lại xót thương.
Anh chị em thân mến, chỉ vì
mong muốn đem các linh hồn về cho Chúa mà tiên tri Giêrêmia và Chúa Giêsu phải
đánh đổi bằng một cái giá không hề rẻ, thì những hy sinh chấp nhận chịu “mục
nát đi” của mỗi người chúng ta dành cho các linh hồn có xá gì!
Đức tổng giám mục Fulton Sheen đã kể lại một cầu chuyện về một linh hồn bất
tín được Chúa hoán cải như sau: Có một thiếu nữ kiêu hãnh sa đoạ nọ, ngài muốn cô
thay đổi cuộc đời nên tốt hơn. Vì thế, ngài mạo hiểm xin Chúa gửi đến cho ngài những
thập giá mà ngài có thể chịu được, để cứu lấy linh hồn tuyệt vọng này. Và vị
Giám mục sớm nhận ra mình phải chịu một chuỗi thất bại đáng kinh ngạc với những
vu khống và bất công ập xuống đến mức ‘sắp phải đầu hàng’. Nhưng nhờ ơn Chúa,
ngài vượt qua tất cả để dâng mọi sự cho linh hồn này. Một buổi chiều Tuần
Thánh, linh hồn vong thân ấy đã đến. Cô xin xưng tội và vị giám mục Fulton
Sheen rất được ủi an khi đọc lời tha tội cho cô!
Trải nghiệm của tiên tri Giêrêmia,
của đức tổng giám mục Fulton Sheen, nhất là của Đức Giêsu…giúp cho ta hiểu được
cái giá cứu thoát cho các linh hồn không hề rẻ chút nào. Linh hồn của bạn và tôi cũng
không hề rẻ; nó rất đắt, đắt đến nỗi Chúa ‘Giêsu’ phải chịu mục nát trên thập giá.
Vậy liệu bạn và tôi có sẵn sàng trả một cái giá tương tự như thế để cứu lấy
linh hồn mình và linh hồn của anh chị em chúng ta không?
Lạy Chúa, không linh hồn
nào là rẻ cả, nhất là linh hồn của chính con. Xin cho mỗi người chúng con biết
chấp nhận chết đi hàng ngày cho con người cũ với những tính hư tật xấu và tội lỗi
để sống con người mới trong Chúa Kitô, Đấng đã sẵn sàng chịu mục nát vì yêu
thương chúng con!”, Amen. (St)
Giao Ước chính Chúa
thương thiết lập,
Thập giá hoàn thành
Giê su gặp.
Sẵn sàng, chấp nhận
Ý Chúa Cha.
Máu đào tuôn đổ Giao
Ước Lập.
SÁM HỐI ĐỂ ĐƯỢC CỨU
Mùa Chay, sám hối
hết rồi,
Tuần Thánh chỉ rỏ
cho tôi “khổ hình”.
Si nai, dân quá vô
tình,
Vi phạm giao ước,
dân sinh chịu đày.
Giê rê mi a loan báo
ngay,
Chúa thương lập với
dân nầy “Ước Giao”:
Không ghi trên đá
hôm nao,
Mà ghi trong trí của
bao tâm hồn.
Giao Ước mới đáng
kính tôn,
“Lòng thương xót
Chúa” xóa hồn khỏi nhơ.
Giê su thực hiện
từng giờ.
Bằng cuộc tử nạn
đang chờ thực thi.
Giê su nghĩ tới liền
suy:
Chịu nạn, chịu chết
là vì chúng ta.
Việc bao người ngoại
nói ra.
Hồn Ngài xao xuyến
nhưng là hân hoan.
Đến giờ Thiên Chúa
trao ban.
Khi treo Thập Giá,
Ta mang bên mình.
Đó là cái chết của
hiển vinh.
Ngài sẽ cứu độ nhân
tình thế gian.
Lạy Chúa Thập Giá cao
sang,
Xin cho con vác vinh
quang với Ngài.
Hai Lúa
Thứ hai: Ga 8,1-11
Suy niệm 1:
Cổ nhân đã nói:
“Nhân vô thập toàn”, là người không ai hoàn hảo cả. Mang thân phận con người ai
trong chúng ta cũng bất toàn, đây những thiếu sót và tội lỗi. Vì thế cần phải
khiêm tốn sám hối.
Dám nhận mình thiếu
sót, tội lỗi và can đảm sửa đổi, mới được xem là bậc anh hùng, quân tử. Mạnh
dạn đứng lên, đổi mới đời sống theo thánh ý của Chúa sau khi vấp ngả mới xứng
danh là người Kitô hữu và xứng bậc là con Chúa. Đó chính là sứ điệp lời Chúa
hôm nay muốn nói với chúng ta.
Ta có thể xem đoạn
tin mừng hôm nay như là vở kịch gồm 3 phần, nói về vụ án nỗi tiếng lịch sử nhân
loại được mang tên là: "người đàn bà ngoại tình né đá"
Phần 1. Tố cáo tội
phạm: những người đứng ra tố cáo tội phạm là các kinh sư và biệt
phái. Họ tố một người phụ nữ bi bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Họ lôi
kéo và xô đẩy chị ta ra trước toà án công cộng. Đại diện quan toà bất đắc dĩ họ
buộc phải đứng ra xét xử vụ án này là Đức Giêsu. Bởi người mà những kinh sư và
biệt phái nhắm đến để tố cáo và lên án tử không phải là tội nhân mà là chính
quan toà Giêsu.
Phần 2. Cách thức xử
án: Để xét xử đúng người, đúng tội, Đức Giêsu không kết án vội vàng đưa ra phán
quyết, mà Ngài lại khôn khéo đưa dẫn mọi người trở về với lòng mình với một
khoảng lặng vừa đủ. Sau đó, Ngài mới đặt ra một câu hỏi mang tính tra
vấn: "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này truớc
đi!". Khi trở về đối diện với lương tâm, ai nấy đều nhận ra sự thật về
mình mang đầy thiếu sót và tội lỗi, cần phải sám hối hơn là lên án. Nhờ đó, họ
bắt đầu nới lỏng tay và từ từ buông bỏ những hòn đá nặng trĩu xuống đất; rồi
lần lượt rút lui khỏi pháp trường; bắt đầu từ những người lớn cho đến người nhỏ
nhất. Tình thế giờ đây được thay đổi, từ vị trí kẻ lên án, tố cáo người khác,
giờ đây họ trở thành kẻ bị tố. Từ người tưởng mình vô tội, cho phép mình cầm đá
ném vào người khác, giờ đây trở thành những có tội, xứng đáng đón nhận những
trận mưa đá ném vào chính mình.
Phần 3. Tuyên bố trắng
án: Sau khi Chúa Giêsu khéo léo đưa dẫn mọi người trở về lòng mình và nhận ra
những tội lỗi của bản thân mà bỏ đi hết, thì Ngài mới tuyên bố trắng án cho
người phụ nữ ngoại tình, khi nói với chị ta: "Ta không kết tội
chị. Vậy chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa!".
Vở kịch hạ màn, mọi
người ra đi, lòng mang theo nhiều bài học đáng giá cho đời mình:
- Bài học về lòng
người thật hiểm ác. Luôn tìm cách hãm hại, lên án, tố
cáo người khác bằng cách giăng ra những cái bẫy tinh vi nhằm hãm hại và giết
chết những ai họ không ưa thích. Đại diện cho thành phần ấy là các kinh sư và
biệt phái.
- Bài học về
hiệu ứng đám đông có khi phủ lấp chân lý. Sự mù quáng thiếu tỉnh táo
của đám đông dân chúng có mặt hôm đó trước sân đền thờ Giêrusalem đã tạo nên
một làn sóng phẩn nộ mạnh mẽ, có sức mạnh khủng khiếp che lấp tình thương và
công lý, có nguy cơ đưa đẩy người phụ nữ vào con đường cùng vô phương cứu chữa.
Mù quáng hùa theo dư luận đám đông sẽ dễ dàng sai lầm, đẩy người khác vào cái chết
không đáng.
- Bài học về phân
định. Trong mọi vấn đề rất cần sự biện phân
định, bằng cách tạo được khoảng cách tâm lý, khi dành ra những giây phút thinh
lặng để bình tâm suy xét dưới sự tác động của CTT, nhờ sự soi sáng của lời
Chúa. Nhờ thế, ta mới có thể tránh được những sai lầm đáng tiếc, trước khi đưa
ra những quyết định.
- Bài học trước hết
và trên hết là tình thương, nhờ đó ta mới có được cái nhìn đúng
đắn, tấm lòng nhân ái với hết mọi người, nhất là những ai lầm lỗi. Tha thứ mở
ra cho người khác một tương lai hy vọng, bao dung tha thứ cho người khác là
cũng chính là bao dung tha thứ cho chính mình. Quy kết, lên án và tiêu diệt
người khác là ta đã nhẫn tâm đóng chặt cánh cửa tương lai đổi mới cho người
khác và cho chính mình. Hãy tha thứ để được Chúa thứ tha!
Suy niệm 2:
Bài tin mừng hôm nay
làm nỗi bật lên hai hình ảnh đối lập nhau:
1. Hình ảnh của một
vị TC giàu lòng thương xót nơi Đức Giêsu luôn bao dung, nhân từ tha thứ với
mong muốn mở ra con đường sống và một tương lai hy vọng cho những ai lầm lỗi
thiếu sót. Bởi thế, Người khẳng định: “Ta đến không phải để kêu mời người công
chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải" (Lc 5,32).
Với cái nhìn bao
dung và lời nói tha thứ cho người phụ nữ phạm tội ngoại tình, Chúa Giêsu đã
tháo cởi nút thắt để giải thoát chị khỏi án tử.
2. Hình ảnh của
những kinh sự và biệt phái: tự cho mình là người công chính và cho phép mình
cái quyền lên án người khác. Họ chỉ biết nhìn vào những lỗi lầm người khác để
lên án, cáo buộc, lọi trừ và giết chết. Họ muốn đóng kín lại tương lai của
người khác hơn là khơi mở con đường sống và hy vọng cho những ai lầm đường lạc
lối. Có thể đó cũng chính là thái độ của chúng ta.
Xin cho chúng ta
biết khiêm tốn nhận ra những làm lỗi thiếu sót của mình để biết cảm thông và
bao dung với những yếu đuối, tội lỗi của người khác. Và ta cũng hiểu rằng: Chúa
yêu thương người có tội chứ không yêu tội. Chúa bao dung tha thứ cho tội nhân,
chứ không phải dung túng cho phạm tội. Vì thế, sau khi tha thứ cho người phụ nữ
ngoại tình, Chúa đã nhắc nhở chị: “Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi và từ
nay đừng phạm tội nữa!”. Khi lãnh nhận bí tích giao hoà, chúng ta cũng hãy cố
gắng dốc lòng chừa mà canh tân đổi mới đời sống!
Thứ ba: 2Sm
7,4-5a.12-14a.16; Rm 4,13.16-18.22; Mt 1,16.18-21.24a
KÍNH THÁNH
GIUSE, BẠN TRĂM NĂM ĐỨC TRINH NỮ MARIA
Tên Giuse có nghĩa là gì?
Tên
Giuse tiếng Do Thái là Yosef. Yosef bao gồm từ Jo được rút gọn bởi từ Jeho,
Yahweh, nghĩa là Thiên Chúa; và sef là viết tắt của động từ jasaf, có nghĩa là
“gia tăng”.
Như
vậy, danh xưng Josef hay Giuse có nghĩa là “Thiên Chúa gia tăng phúc lành”
Nguồn gốc của tên Joseph:
Joseph
là một cái tên trong Kinh thánh, là con trai của ông Jacob, và là chồng của Đức
Trinh Nữ Maria. Theo tiếng Do Thái, Joseph, nghĩa là “chính Người sẽ thêm
vào”. Đó là một cái tên đẹp. Cái tên ấy trở nên đầy ý nghĩa khi được gắn vào
cuộc đời Thánh Giuse. Tất cả những gì ngài có thể làm chỉ là hoàn tất sứ mạng
được trao phó cho mình.
Khi được trao sứ
mạng, Thánh Giuse đã không đặt bất cứ câu hỏi gì về việc mình phải làm, cũng
không thắc mắc liệu việc ấy sẽ đi đến đâu? kết quả sẽ như thế nào? Ngài cộng
tác với kế hoạch của Thiên Chúa bằng cách làm hết sức mình, hết phần của mình.
Tất cả những gì còn lại, chính Thiên Chúa sẽ ra tay. “Chính Người sẽ thêm vào”.
Sau khi hoàn tất sứ
mạng được trao, ngài âm thầm rút lui và ẩn mình vào thinh lặng. Biết đặt mình
đúng vị trí, biết khiêm tốn đảm nhận vị trí của mình. Ấy là cách Thánh Giuse
trở nên đặc biệt và bất khả thay thế trong kế hoạch của Thiên Chúa.
Làm con cái Chúa,
mỗi người được mời gọi sống một cuộc đời đặc biệt. Mỗi người đều có một cái tên
đặc biệt, một vị trí đặc biệt trong kế hoạch của Thiên Chúa. Sự đặc biệt
này được làm nên không phải vì phẩm chất hay khả năng riêng của từng người,
cũng không phải vì thành tích hay công trạng của người đó. Ai cũng có khả năng
trở nên đặc biệt khi biết cộng tác hết mình với Thiên Chúa, làm hết những gì có
thể trong khả năng, đồng thời xác tín chính Thiên Chúa sẽ hoàn tất những gì
Người đã khởi sự bởi lẽ “chính Người sẽ thêm vào”. Điều quan trọng là tin
rằng chính mình được đóng góp một phần nhỏ bé trong kế hoạch của Thiên Chúa, và
biết lấy đó làm đủ.
Khi mỗi người học
được cách trở nên một Thánh Giuse khác cho cuộc đời, ngang qua họ, Thiên Chúa
có thể làm nên những kỳ công vĩ đại cho con người và thế giới hôm nay.
Suy niệm 1: THÁNH
GIUSE DẠY TA SỐNG TINH THẦN MÙA CHAY
Không biết vô tình
hay hữu ý, năm nào cũng vậy, GH lại mừng kính thánh Giuse vào đúng lịch PV mùa
chay.
Chắn hẳn GH rất có
lý. Bời lẽ nếu mùa chay là mùa sám hối, trở về, thì sự trở về sâu xa nhất
lại chính là trở về chính mình và trở về với Thiên Chúa. Nói như vậy thì
hơn ai hết Thánh Giuse chính là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta về sự trở về
ấy.
1. Trước hết
thánh Giuse dạy ta bài học trở về với chính mình trong thinh lặng.
Khi đọc các
sách Tin Mừng, ta không thấy thuật lại bất cứ lời nào của thánh Giuse, dù chỉ
một lời nói với Mẹ Maria hay với Chúa Giêsu. Ngay cả khi gặp trẻ Giêsu ở trong
Đền Thờ sau những ngày lo âu tìm kiếm cũng không thấy lời nào của ngài hé
lộ. Có lẽ hơn ai hết thánh Giuse thấu hiểu về sự quý giá của thinh lặng.
Đúng thế cha
ông chúng ta đã từng nói: "lời nói là bạc, im lặng là vàng": nên chi
thinh lặng giá trị hơn nói, vì nói chỉ là bạc mà im lặng mới là vàng; là vàng
thì bao giờ cũng quí hơn bạc!
Hơn nữa thinh lặng
còn là biểu hiện cho sự hiểu biết của một con người. Ông bà ta thường nói “Ngôn
giả bất tri, tri giả bất ngôn” : Người không biết thì lại nhiều lời vì tưởng
người khác không biết như mình, ngườì biết thì lại không nói, vì nghĩ rằng mọi
người đều biết. Ông Heidegger khuyên chúng ta thực tập thinh lặng, bớt nói, bớt
phát biểu, bớt bàn tán….không phải là ta ngu muội, vô tri, nhưng để cho tâm hồn
của chúng ta hoà quỵện với sinh linh vạn vật, và chỉ khi đó chúng ta mới có thể
thấu đạt hết mọi ngóc ngách, thông tường mọi thế thái, biến chuyển trong sự
biểu đạt khôn cùng của nhân sinh, và của nhiên giới.
Nhưng thực tế đời
sống cho thấy chúng ta lại thích nói và nói nhiều hơn là yêu mến sự thinh lặng.
Chính vì thế mà chúng ta đã sai lỗi quá nhiều trong lời nói vì “đa ngôn thì đa
quá”. Nói nhiều thì trở nên nói dai và kéo theo nói dở, nói ẩu và dại nữa. Do
đó hãy thận trọng trong lời nói. Bởi lời nói sẽ trở nên mối nguy cơ đánh mất
tình thương, chia cắt tình thân và gây nên đau khổ cho nhau.
Ném một lông vịt vào
trong gió, thì làm sao nhặt lại được. Một lời nói ra bốn ngựa đuổi theo cũng
không kịp “tứ mã nan truy”. Nên trong những lúc gặp phải những căng thẳng
và sóng gió trong đời, ta hãy học cùng thánh Giuse bài học thinh lặng để
lắng nghe được tiếng Chúa khẻ nói với ta mà làm theo, nhờ đó chúng ta sẽ ngăn
chặng được những đổ vỡ đáng tiếc xảy ra trong cuộc sống.
2. Thứ hai thánh
Giuse dạy ta bài học sự tín thác và sự vâng phục Thiên Chúa.
Nếu ông Giacaria
nghi ngờ về ý định của Thiên Chúa qua biến cố truyền tin trong đền thờ lúc dâng
hương. Mẹ Maria thì ngỡ ngàng với biến cố truyền tin, thì Giuse lại hoàn toàn
vâng phục thánh ý Thiên Chúa mà không một lời chấp vấn hay bối rối gì cả.
Thánh Kinh thuật
lại: khi biết được Đức Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, Thánh
Giuse đã không ngần ngại nhận Đức Maria về nhà mình để chở che và nuôi dưỡng.
Nhận lãnh hay bảo lãnh Đức Maria về nhà cũng đồng nghĩa Thánh Giuse giải cứu
Đức Maria khỏi búa rìu dư luận và thoát khỏi án tử. Việc bảo trợ Đức Maria
cũng có nghĩa là đồng bảo trợ Hài Nhi đang được cưu mang trong cung lòng Đức
Maria. Việc nhận Đức Giêsu làm con cũng đồng nghĩa với việc bảo trợ cho Đức Giêsu
sinh ra cách hợp pháp và đưa Đức Giêsu vào trong dòng tộc vua Đavít.
Vâng phục ý Chúa,
không chỉ bảo trợ cho Hài nhi Giêsu sinh ra hợp pháp mà thánh Giuse còn bảo
toàn mạng sống của Đức Giêsu khỏi nanh vuốt của vua Hêrôđê qua việc vâng theo
lời báo mộng của Chúa trong đêm mà nhanh chóng đem mẹ Người và Hài Nhi Giêsu
vượt đường xa hiểm trở gần 500 cây số xuyên qua sa mạc dài hơn 200 km không một
bóng cây, không một ngọn cỏ, không một giọt nước, rất gian khổ để đến Ai-cập tị
nạn. Và khi tình hình yên ổn, một lần nữa Giuse lại nghe theo lời báo mộng
bỏ Ai-cập đem gia đình trở về Palestine, định cư tại Nagiarét để chăm sóc nuôi
dưỡng bằng chính công sức lao động chân chính của mình với nghề thợ mộc.
Còn chúng ta thì
khác, chúng ta thường tìm ý mình hơn là ý Chúa. Mỗi khi gặp phải những nghịch
cảnh xảy ra trong đời sống, ta thường kêu trách Chúa và lắm khi còn xúc phạm
đến Chúa nữa. Vì chúng ta cho rằng vâng phục thánh ý Chúa là hành động hèn
nhát, mất tự do và đánh mất nhân phẩm của mình. Thánh Giuse giúp chúng ta hiểu
rằng: không phải lúc nào chúng ta cũng biết được kế hoạch của Thiên Chúa
dành cho chúng ta. Chúng ta chỉ biết rằng cách của Người thì khác với cách
của chúng ta, nhưng cách của Người thì luôn luôn tuyệt vời nhất. Vì thế,
hãy tín thác và vâng phục thánh ý Thiên Chúa, để chúng ta sẽ trở nên những tôi
tớ trung thành và khôn ngoan theo gương thánh cả Giuse.
Lạy Chúa, giữa bao
triết lý và lắm luồng tư tưởng trong xã hội này, con phải chọn lựa như thế
nào?. Giữa những nền văn hóa đa dạng và những nền văn minh phức tạp, con biết
đâu là đúng, đâu là sai? Xin cho con chúng con mùa chay thánh này biết đến với
thánh cả Giuse để học nơi thánh nhân bài học của sự trở về trong thinh lặng mà
nhận ra thánh ý Chúa và trở về với Chúa để vâng phục thánh ý Ngài theo
gương thánh cả Giuse kính yêu. Amen.
Suy niệm 2: NGƯỜI
GIA TRƯỞNG TRUNG THÀNH
Hòa nhịp cùng Giáo
hội, hôm nay chúng ta long trọng mừng kính Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Trinh
Nữ Maria. Ngài là bổn mạng Giáo Hội Việt Nam, là bổn mạng của quý anh em giới
Gia trưởng, cách riêng một số anh em có thánh bổn mạng là Giuse. Nhân dịp
này chúng ta cùng nhau hướng về thánh Giuse để chiêm ngưỡng đời sống tuyệt đẹp
của Ngài mà học đòi bắt chước.
Khi nhìn vào đời
sống của thánh nhân, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đều đồng ý với nhau rằng:
thánh Giuse là một con người trung thành. Đây là nhân đức tuyệt đẹp, đáng để
cho chúng ta noi theo trong sứ mạng xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia
đình.
1. Thánh Giuse trung
thành bảo vệ gia đình.
Sau khi nhận được
thánh ý Thiên Chúa, Thánh Giuse đã sẵn sàng đứng ra để bảo trợ Thánh gia.
Thánh Kinh thuật
lại: khi biết được Đức Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, Thánh
Giuse đã không ngần ngại nhận Đức Maria về nhà mình để chở che và nuôi dưỡng.
Nhận lãnh hay bảo lãnh Đức Maria về nhà cũng đồng nghĩa Thánh Giuse giải cứu
Đức Maria khỏi búa rìu dư luận và thoát khỏi án tử.
Việc bảo trợ Đức
Maria cũng có nghĩa là đồng bảo trợ Hài Nhi đang được cưu mang trong cung lòng
Đức Maria. Việc nhận Đức Giêsu làm con cũng đồng nghĩa với việc bảo trợ cho Đức
Giêsu sinh ra cách hợp pháp và đưa Đức Giêsu vào trong dòng tộc vua Đavít.
Không chỉ bảo trợ
cho Hài nhi Giêsu sinh ra hợp pháp mà thánh Giuse còn bảo toàn mạng sống của
Đức Giêsu khỏi nanh vuốt của vua Hêrôđê. Để bảo toàn mạng sống của Đức Giêsu,
thánh Giuse phải vượt đường xa hiểm trở gần 500 cây số xuyên qua sa mạc dài hơn
200 km không một bóng cây, không một ngọn cỏ, không một giọt nước, rất gian khổ
để đến Ai-cập tị nạn.
Ngoài việc bảo vệ sự
sống, bảo vệ mạng sống, Thánh Giuse còn phải bảo vệ cho Đức Maria và Hài Nhi
Giêsu được sống nữa. Ngài đã phải lao động vất vả tại xưởng mộc bé nhỏ tại làng
Nazarét để mưu tìm miếng cơm, manh áo, tiền nong để nuôi sống gia đình.
Cuộc đời thánh Giuse
quả không phải sung sướng, an nhàn, trái lại ngài phải trãi qua trăm chiều thử
thách và đau khổ. Ý Chúa quan phòng để ngài nêu gương cho ta khi gặp gian lao,
thử thách cũng biết vui lòng hy sinh như ngài để bảo vệ sự sống, mạng sống và
tạo điều kiện cho gia đình mình được sống an bình.
Là người cha phải
hết lòng bảo vệ con cái mình khỏi tay kẻ dữ, khỏi bầu khí hận thù và bất công.
Đó là nhiệm vụ vô cùng to lớn của người gia trưởng.
Hằng ngày có biết
bao hài nhi bị hủy diệt trong bào thai. Chúng ta cũng đã từng chứng kiến không
ít những hài nhi vừa cất tiếng khóc chào đời lại bị chính cha mẹ chúng bỏ rơi, thật
đau lòng!
Cách bảo vệ hài nhi
an toàn nhất là chúng ta phải biết tỉnh thức để nghe tiếng Chúa nói trong lương
tri như Thánh Giuse, dù khi ngủ, ngài vẫn thức tỉnh nhận ra tiếng Chúa nói
trong giấc mộng.
2. Thánh Giuse
trung thành giáo dục con cái.
Tin mừng thánh Luca
đề cao nền giáo dục tuyệt vời của Thánh gia qua câu: “Hài nhi lớn lên càng mạnh
khỏe, khôn ngoan và đầy ân sủng trước mặt Chúa và người ta” (Lc 2,40-52). Chỉ
một lời ngắn ngủi của thánh sử Luca nhưng đã diễn tả hầu như trọn vẹn cách thế
giáo dục của thánh Giuse và Đức Maria đối với con mình. Các ngài đã để ý và
giáo dục con mình về mọi phương diện: Thể dục, trí dục, đức dục …
- Thể dục: Trẻ Giêsu càng
lớn lên càng mạnh mẻ, đầy sức lực nhờ vào lao động nơi xưởng mộc Nazarét mà
thánh Giuse đã dày công tạo dựng. Lên 12 tuổi trẻ Giêsu đã đi bộ suốt bốn năm
ngày đàng lên Giêrusalem dự lễ, vậy mà không thấy Thánh kinh nói trẻ Giêsu mệt
mỏi. Sau này giảng đạo, Đức Giêsu đã đi khắp cùng làng mạc, thành phố và cả
những vùng lân cận nữa.
- Trí dục: Càng tuyệt vời hơn
khi mới 12 tuổi, cậu bé Giêsu của làng Nazarét quê mùa, vô danh, ở tít vùng
sâu, vùng xa đã đàng hoàng vào đền thờ ở thủ đô Giêrusalem, ngồi giữa các thầy
tiến sĩ vừa nghe vừa hỏi. Ai cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối
đáp khôn ngoan của cậu. Nếu gia đình Thánh Giuse không quan tâm đến việc hướng
dẫn con mình học hỏi và trao dồi Thánh kinh thì làm gì có sự hiểu biết như thế?
Mỗi ngày Sabát là
dịp tốt để tìm hiểu Thánh kinh và nghiên cứu Luật Chúa. Như trở thành thói quen
mà cha mẹ để lại. Sau này khi rao giảng Chúa Giêsu thường xuyên vào Hội Đường
đọc Lời Chúa, giảng dạy và chữa bệnh. Có lẽ nhờ việc quan tâm đến giáo dục tri
thức cho con mình nên Đức Giêsu đã thuộc lòng các khoản Luật và Lời Chúa.
- Đức dục: Ngoài đức công
chính gắn liền với tên tuổi Thánh Giuse, chúng ta còn nhận thấy một nhân đức
khác nổi bậc nơi ngài nữa đó là đức vâng lời. Vâng lời thánh ý Thiên Chúa, ngài
đã bỏ ý riêng mình để đón nhận Đức Maria về nhà mình. Vâng lời Thiên Chúa, ngài
đã mau mắn đem Đức Maria và Hài Nhi trốn sang Aicập.
Chính nhờ ảnh hưởng
của một nền đạo đức như vậy mà Đức Giêsu trở nên người con hằng “đẹp lòng Chúa
Cha”. Cuộc đời Chúa Giêsu cũng tiếp nối bằng hai chữ “xin vâng” theo thánh ý
Chúa Cha như thánh Giuse và Đức Maria:
Vâng lời Chúa Cha từ
trời cao Người xuống thế, từ Vị Thiên Chúa trở nên người phàm, từ Đấng Thánh
Thiện lại gánh lấy tội nhân. Người vốn là giàu sang lại trở nên nghèo khó…; và
Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Vì thế nên Người hằng xác
quyết: “lương thực của Ta là làm theo Đấng đã sai Ta” (Ga 4,34). Ngoài việc
vâng lời Chúa Cha, Đức Giêsu còn luôn vâng lời thánh Giuse và Đức Maria: “Người
đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazarét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2,51).
Vậy những bậc cha mẹ
cũng hãy noi gương thánh Giuse, quan tâm giáo dục con mình phát triển toàn
diện. Trung thành giáo dục như thế mới hy vọng con chúng ta trở nên tốt.
Cùng với Giáo Hội,
chúng ta cũng đang sống trong tâm tình của mùa chay thánh. Nếu mùa chay Giáo
Hội mời gọi chúng ta trở về, thì trước hết, chúng ta hãy bắt đầu trở về với
chính mình, với những bổn phận của người chồng-vợ, người cha-mẹ, người gia
trưởng-hiền mẫu trong gia đình mình, bằng việc noi gương thánh Giuse trung
thành trong vai trò bảo trợ gia đình, trung thành trong trách nhiệm làm cha-mẹ
và nhất là trung thành trong việc giáo dục con mình trở thành người và thành
người con Chúa.
Vì sự sống và hạnh
phúc gia đình, xin cho các gia trưởng-hiền mẫu quyết sống với hai chữ Trung
Thành theo gương thánh Giuse. Amen.
Suy niệm 3:
Thánh Giuse được gọi
là đấng công chính. Bởi nơi ngài có những nhân đức cao quý, đáng được GH gọi
tên là vị thánh cả.
Trong kinh cầu thánh
Giuse, GH đã nêu lên cụ thể những tước hiệu cao trọng nơi thánh cả Giuse; và
qua đó GH mời gọi mọi tín hữu tìm đến với ngài để chiêm ngắm, cầu nguyện và nêu
gương bắt chước.
Vừa qua vào ngày
8/12/2020 nhân kỉ niệm 150 (8/12/1970-8/12/2020), thánh Giuse đã được chân
phước Đức Giáo Hoàng Pio IX chọn làm thánh quan thầy cho toàn thể GH công giáo,
đức thánh cha Phanxicô đương nhiệm đã mở ra “năm kính thánh Giuse đặc biệt” và
ban hành tông thư “Patris Corde” (Trái tim của người cha). Trong tông thư này,
đức thánh cha Phanxicô đã nêu lên 7 chiều kích linh đạo căn bản của thánh Giuse
đó là: người cha yêu thương, dịu dàng từ ái, vâng phục, chấp nhận, can
đảm sáng tạo, làm việc chăm chỉ và bóng tối thầm lặng. Qua đó Đức Thánh Cha
muốn mời gọi mọi tín hữu hãy can đảm đi vào con đường linh đạo của thánh Giuse.
Tuy thánh Giuse thầm
lặng không nói gì, nhưng khi chiêm ngắm đời sống và hành trình cuộc đời của
thánh nhân trong suốt những năm trần thế ta lại nhận ra thánh nhân nói với ta
rất nhiều về những nhân đức quý giá trong cuộc sống. Chiêm ngắm thánh Giuse
trong bài tin mừng hôm nay, ta nhận ra ít là hai nhân đức cao quý mà thánh
Giuse muốn dạy chúng ta:
1. Luôn vâng nghe và
khiêm tốn thực hành ý Chúa:
Nhờ cầu nguyện trong
chiêm niệm mà thánh Giuse đã nhậy bén nhận ra thánh ý Chúa trong mọi phút giây
của đời sống. Biến cố Đức Maria mang thai bất ngờ, thánh nhân là người công
chính nên đã định tâm lìa bỏ cách kín đáo, nhưng sau khi nghe biết đó là thánh
ý của TC qua lời truyền tin của thiên thần Gabriel, thánh Giuse đã mau mắn bỏ ý
riêng để thi hành thánh ý Chúa trong tin yêu và vâng phục là đón nhận Đức Maria
và Con TC tượng thai trong lòng trinh nữ Maria về nhà mình để bao bọc, dưỡng
nuôi.
2. Yêu quý giá trị
của thinh lặng:
Đọc lại 4 phúc âm
chúng ta không thấy lời nào của thánh Giuse. Thánh Giuse quả thật có đời sống
thinh lặng sâu xa, không phải vì thánh nhân sợ nói ra thì mất lòng người khác;
cũng không phải vì thanh quản của thánh nhân có vấn đề, nhưng có lẽ vì thánh
kinh muốn đề cao giá trị của thinh lặng của thánh nhân. Bởi thinh lặng là vàng.
Chính trong thinh lặng mà tâm hồn của thánh Giuse mới được lắng đọng và trong
suốt, nhờ đó ngài dễ dàng nhận ra đâu lá ý mình và đâu là ý Chúa trong những biến
cố xảy ra hàng ngày.
Hơn nữa có lẽ thánh
Giuse cũng không thích đề cao bản thân và hô hào cho mọi người biết về sứ mạng
cao quý mà TC trao phó cho ngài trong việc bảo trợ và dưỡng nuôi Con TC làm
người; cũng như ngài được vinh dự cộng tác với TC trong chương trình vĩ đại là
cứu độ nhân loại.
Trong thinh lặng và
tích cực chu toàn bổn phận, thánh Giuse đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà
Thiên Chúa trao phó.
Hôm nay mừng kính
trọng thể thánh Giuse là bổn mạng của GH hoàn vũ, của GH Việt Nam, bổn mạng của
nhiều họ đạo, của hội dòng Mến Thánh Gía, của khá đông quý cha, quý tu sĩ và
quý anh em gia trưởng, ta hãy nguyện xin cho mọi người trong GH luôn biết noi gương
thánh cả Giuse yêu quý đời sống thinh lặng, biết khiêm tốn lắng nghe lời Chúa
và luôn can đảm từ bỏ ý riêng để thi hành thánh ý Chúa như thánh Giuse.
Nguyện xin
Chúa qua lời chuyển cầu của thánh Giuse thương ban nhiều ân sủng, niềm vui,
bình an cho GH và mọi người nhờ sự bảo trợ hộ giúp của thánh Giuse, bạn trăm
năm của Đức Maria.
Suy niệm 4: THÁNH
GIUSE DẠY TA SÁM HỐI MÙA CHAY
Nếu mùa chay là mùa sám hối, trở về, thì có lẽ
việc trở về sâu xa nhất là trở về cõi lòng mình trong thinh lặng để nhận ra Thiên
Chúa là Cha đầy yêu thương, nhận ra tha nhân là anh em mình, nhất là nhận ra
con người thật của mình. Nhờ đó mà ta có những điều chỉnh cho đúng đắn phù hợp
với ý Chúa hơn. Nếu Giáo Hội đặt tháng kính Thánh
Giuse vào Mùa Chay, thì mục đích đã rõ, bởi vì ngài là khuôn mẫu của con người
nội tâm, thinh lặng.
Xin Chúa cho chúng ta biết trân trọng và yêu
quý đời sống thinh lặng, nhất là biết học nơi thánh Giuse bài học về “đức thinh
lặng”.
Không biết vô tình
hay hữu ý, năm nào cũng vậy, GH lại mừng kính thánh Giuse vào đúng lịch PV mùa
chay. Chắn hẳn GH rất có lý. Bời lẽ nếu mùa chay là mùa sám hối, trở
về. Mà sự trở về sâu xa nhất lại chính là trở về chính mình và trở về với Thiên
Chúa. Nói như vậy thì hơn ai hết Thánh Giuse chính là mẫu gương tuyệt vời
cho chúng ta về sự trở về ấy.
1. Trước hết
thánh Giuse dạy ta bài học trở về với chính mình trong thinh lặng.
Khi đọc các
sách Tin Mừng, ta không thấy thuật lại bất cứ lời nào của thánh Giuse, dù chỉ
một lời nói với Mẹ Maria hay với Chúa Giêsu. Ngay cả khi gặp trẻ Giêsu ở trong
Đền Thờ sau những ngày lo âu tìm kiếm cũng không có lời nào của ngài hé lộ. Có
lẽ qua đó, Thánh Kinh nhằm đề cao giá trị của sự thinh lặng nơi thánh Giuse.
Đúng vậy thinh lặng
là thái độ hết sức quý giá: Người đời thường nói: "Lời nói là bạc, im
lặng là vàng". Thinh lặng quý hơn lời nói, vì nói chỉ là bạc mà im lặng
mới là vàng; là vàng thì bao giờ cũng quí hơn bạc! Nhờ thinh lặng mà thánh
Giuse có thời giờ gắn bó với Chúa cách sâu xa để nhờ đó ngài dễ dàng nhận ra ý
Chúa và cũng dễ dàng chấp nhận thực thi thánh ý Chúa dẫu cho đó là điều không
dễ dàng vì đụng chạm đến giá trị và quyền lợi cá nhân của ngài (cha chay và
chồng chay).
Thinh lặng là biểu
hiện của sự hiểu biết. Ông bà ta vẫn nói: “Ngôn giả bất tri, tri giả bất ngôn”;
nghĩa là người không biết thì lại lắm mồm vì tưởng người khác không biết như
mình, ngườì biết thì lại không nói, vì nghĩ rằng mọi người đều biết. Heidegger
khuyên chúng ta thực tập thinh lặng, bớt nói, bớt phát biểu, bớt bàn tán….không
phải để ta nên ngu muội, vô tri, nhưng để cho tâm khảm suy nghĩ của chúng ta
hoà quỵện với sinh linh vạn vật, và chỉ khi đó chúng ta mới có thể thấu đạt hết
mọi ngóc ngách, thông tường mọi thế thái, biến chuyển trong sự biểu đạt khôn
cùng của nhân sinh, của nhiên giới. Đó cũng là ý nghĩa mà nhà thơ tài danh của
Ấn Độ Rabindranath Tagore muốn chuyển tải khi ông viết: “Nước trong chậu thì
sóng sánh; nước trong biển cả thì thẫm đen.....”
Chính nhờ sự thinh
lặng trong đêm vắng, Thánh Giuse đã nhận ra được ý muốn của Chúa, lắng nghe
được Lời Chúa nói. Phân biệt được điều gì đúng, điều gì sai và chọn lựa cách
thế thực hiện như thế nào đẹp ý Chúa nhất. Chính vì thế ngài đã hết lòng
bảo vệ, chăm sóc Đức Maria và Hài Nhi Giêsu vượt qua những sóng gió của cuộc
đời. Và trở nên “người công chính”.
Thinh lặng chính là
thầy dạy sự khôn ngoan.
Nhìn vào đời sống,
chúng ta thầy rằng mình đã sai lỗi quá nhiều trong lời nói. Bởi vì “đa ngôn thì
đa quá”. Nói nhiều thì trở nên nói dai và kéo theo nói dở, nói ẩu và dại. Bởi
đó hãy thận trọng trong lời nói. Ném một lông vịt vào trong gió, thì làm sao
nhặt lại được. Một lời nói ra bốn ngựa đuổi theo cũng không kịp “tứ mã nan
truy”. Vì vậy mà lời nói sẽ trở nên mối nguy cơ đánh mất tình thương, chia
cắt tình thân và gây nên đau khổ cho nhau.
Hãy học cùng thánh
Giuse bài học thinh lặng nhất là trong nhữn giây phút căng thẳng và sóng gió.
Bởi nếu biết thinh lặng đúng lúc ta sẽ chặng được 90% đổ vỡ đáng tiếc, vì thinh
lặng là thái độ khôn ngoan nhất của con người và là phương thuốc chữa lành
những tội lỗi xấu xa.
Truyện kể rằng: Xưa
một nhà vua Ấn Độ, muốn thử nhân tài của một nước Chư hầu liền gửi
tới nước này ba pho tượng vàng, giống hệt nhau. Nhà vua Ấn Độ yêu cầu nhà
vua Chư hầu cho biết trong ba pho tượng vàng này, đâu là pho tượng
quí giá nhất.
Nhà vua nước Chư hầu
cho triệu tập các nhà thông thái tới để đánh giá ba pho tượng vàng này, tìm ra
xem pho tượng nào quí giá nhất. Các nhà thông thái nghĩ ngay tới giá trị của
mỗi pho tượng sẽ căn cứ vào cân nặng nhẹ, hoặc vào tuổi vàng tốt xấu, hoặc căn
cứ vào nghệ thuật tìm thấy trên ba pho tượng vàng! Nhưng rồi các nhà thông thái
đành phải bó tay, vì ba pho tượng này giống hệt nhau về nghệ thuật, khối
lượng và tuổi vàng.
Nhà vua
nước Chư hầu rất buồn, vì không biết được giá trị hơn kém của ba pho
tượng. Vua liền cho loan báo khắp nước: Ai tìm được bí mật giá trị của mỗi pho
tượng sẽ được trọng thưởng.
Có một người tù,
biết chuyện xin được xem ba pho tượng và nếu anh ta tìm ra giá trị hơn kém của
ba pho tượng này thì anh chỉ xin một điều kiện là cho anh được tự do.
Lập tức nhà vua cho
anh xem ba pho tượng. Vừa ngó xong ba pho tượng, anh ta xin một cọng rơm. Chỉ
trong ít phút, anh đã khám phá ra giá trị hơn kém của ba pho tượng vàng.
Anh lấy cọng rơm
chọc vào lỗ tai pho tượng thứ nhất, thì thấy cọng rơm xuyên từ lỗ tai này sang
lỗ tai kia, anh bảo: “ đây là pho tượng ít giá trị nhất, vì nó tượng trưng cho
hạng người nghe điều gì, vừa vào tai nọ, đã ra tai kia, không biết ghi nhớ,
không để tâm gì suy nghĩ điều đã nghe”.
Anh ta lại lấy cọng
rơm chọc vào lỗ tai pho tượng thứ hai, thì thấy cọng rơm đi từ lỗ tai chạy
xuống miệng pho tượng. Anh bảo: “pho tượng này hơn pho tượng trước là vì nó
tượng trưng cho hạng người biết nghe, biết nhớ nhưng mắc khuyết điểm là: vừa
nghe được gì đã vội nói ngay, không suy nghĩ xem điều mình nghe đúng hay sai,
nói ra có lợi hay có hại”.
Anh lại lấy cọng rơm
chọc vào lỗ tai pho tượng thứ ba, thì thấy cọng rơm đi từ lỗ tai chạy xuống
bụng. Anh nói: “pho tượng này quý giá nhất, vì nó tượng trưng cho hạng người
biết nghe, biết nhớ, biết để lòng suy nghĩ, biết ghi vào tâm dạ mình.
Vua nước lớn nghe
được lời giải đáp của thần dân nước nhỏ thì vô cùng kính nể. Ông về nói với
các quan trong triều: “Nước họ có người thông minh tài giỏi như vậy, hẳn nước
họ là nước mạnh mẽ, hưng thịnh, ta nên giao hoà với họ chứ không nên giao
chiến”.
2. Thứ hai thánh
Giuse dạy ta bài học về sự tín thác và sự vâng phục Chúa.
Nếu ông Giacaria
nghi ngờ về ý định của Thiên Chúa qua biến cố truyền tin của thiên thần Chúa
nơi đền thờ và Mẹ Maria ngỡ ngàng trước lời mời gọi của Thiên Chúa nơi biến cố
truyền tìn, thì Giuse lại hoàn toàn vâng phục không một lời chấp vấn hay bối
rối gì cả.
Thánh Kinh thuật
lại: Khi biết được Đức Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, Thánh
Giuse đã không ngần ngại nhận Đức Maria về nhà mình để chở che và nuôi dưỡng.
Nhận lãnh hay bảo lãnh Đức Maria về nhà cũng đồng nghĩa Thánh Giuse giải cứu
Đức Maria khỏi búa rìu dư luận và thoát khỏi án tử. Việc bảo trợ Đức Maria
cũng có nghĩa là đồng bảo trợ Hài Nhi đang được cưu mang trong cung lòng Đức
Maria. Việc nhận Đức Giêsu làm con cũng đồng nghĩa với việc bảo trợ cho Đức
Giêsu sinh ra cách hợp pháp và đưa Đức Giêsu vào trong dòng tộc vua Đavít.
Vâng phục ý Chúa,
không chỉ bảo trợ cho Hài nhi Giêsu sinh ra hợp pháp mà thánh Giuse còn bảo toàn
mạng sống của Đức Giêsu khỏi nanh vuốt của vua Hêrôđê qua việc vâng theo lời
báo mộng của Chúa trong đêm mà nhanh chóng đem mẹ Người và Hài Nhi Giêsu vượt
đường xa hiểm trở gần 500 cây số xuyên qua sa mạc dài hơn 200 km không một bóng
cây, không một ngọn cỏ, không một giọt nước, rất gian khổ để đến Ai-cập tị
nạn. Và khi tình hình yên ổn, một lần nữa Giuse lại nghe theo lời báo mộng
bỏ Ai-cập đem gia đình trở về Palestine, định cư tại Nagiarét để chăm sóc nuôi
dưỡng bằng chính công sức lao động chân chính của mình với nghề thợ mộc.
Còn chúng ta thì
khác, chúng ta thường tìm ý mình hơn là ý Chúa. Và mỗi khi gặp phải những tai
ương hoạn nạn, chúng ta thường kêu trách và xúc phạm đến Chúa, vì chúng ta cho
rằng Chúa bất công và vâng lời chỉ là một hành động hèn nhát, mất tự do và chôn
vùi nhân phẩm.
Chúng ta không phải
lúc nào cũng biết được kế hoạch của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta
chỉ biết rằng cách của Người thì khác với cách của chúng ta, nhưng cách của
Người thì luôn luôn tuyệt vời nhất. Vì thế, hãy tín thác và vâng phục
thánh ý Thiên Chúa, để chúng ta sẽ trở nên những tôi tớ trung thành và khôn
ngoan như thánh cả Giuse ngày xưa.
Truyện kể rằng: Có 3 cái
cây trên một ngọn đồi trong rừng, cùng tranh luận với nhau về những hi vọng và
giấc mơ của chúng...
Cái cây đầu tiên
nói: “Tôi hi vọng một ngày nào đó tôi sẽ trở thành tủ đựng vàng bạc châu báu.
Tôi sẽ được nhét đầy vàng, bạc và ngọc quý, được trang hoàng với nghệ thuật
chạm khắc cầu kỳ và mọi người sẽ thấy rằng tôi rất đẹp”.
Đến lượt mình cây
thứ hai nói: "Tôi ao ước sẽ được là một con thuyền mạnh mẽ. Tôi sẽ chuyên
chở các vị vua và hoàng hậu đến mọi nơi trên thế giới. Mọi người sẽ cảm thấy an
toàn khi ngồi trên thuyền tôi vì thân tàu mạnh mẽ và vững
chắc".
Cuối cùng cây thứ ba
mơ ước: "Tôi muốn được là một cây cao lớn và mạnh mẽ nhất trong rừng. Mọi
người sẽ nhìn thấy tôi trên ngọn đồi, nhìn lên các cành của tôi và biết rằng
tôi đang vươn cao và gần bầu trời đến mức nào. Tôi sẽ mãi là cái cây vĩ đại nhất
và mọi người sẽ luôn nhớ đến tôi".
Sau nhiều năm cẩu
nguyện, ngày mong đợi của chúng cũng đến - một nhóm người lấy gỗ đến khu rừng
đó.
Một người trong bọn
họ tiến đến bên cây thứ nhất và nói: "Cây này trông có vẻ chắc lắm đấy.
Tôi nghĩ là tôi sẽ bán nó cho anh thợ mộc" và anh bắt đầu đốn cây. Cái cây
cảm thấy rất hạnh phúc vì nó nghĩ rằng anh thợ mộc sẽ dùng nó để đóng thành một
hộp đựng đồ quý giá...
Nhìn thấy cây thứ
hai, người thợ rừng bảo: "Cây này cũng chắc lắm đấy, ta sẽ bán nó cho một
hãng đóng thuyền". Cây thứ hai vô cùng sung sướng vì nghĩ rằng mình sắp
được đóng thành một con thuyền lớn.
Khi người thợ rừng
tiến đến gần cây thứ ba, nó cảm thấy thật sợ hãi bởi vì nó biết rằng nếu ông ấy
hạ nó giấc mơ của nó sẽ không thể nào thành hiện thực được. Một người thợ bảo
"Tôi chưa có dự định gì đặc biệt cho số cây của tôi nhưng tôi sẽ chặt cái
cây này". Và ông ta cưa nó.
Khi cây thứ nhất đến
tay người thợ mộc, ông đóng nó thành máng ăn cho ngựa. Sau đó ông ấy đặt nó
trong chuồng ngựa và chất đầy cỏ khô lên. Đây không phải là điều cái cây mơ
ước.
Còn cây thứ hai, nó
được xẻ ra và đóng thành một cái thuyền câu cá nhỏ. Mơ ước được trở thành một
con thuyền mạnh mẽ và được chở các vị vua đã kết thúc.
Cây thứ ba thì bị
cưa thành những thanh gổ lớn và bị xếp vào một góc tối tăm, hôi
hám.
Rồi năm tháng trôi
qua, những cái cây đã quên hết ước mơ của mình. Thế rồi một ngày nọ một người
đàn ông và một phụ nữ đến bên chuồng ngựa. Cô ấy sinh nở tại đây và họ đặt đứa
bé nằm trong lớp cỏ khô trong máng ăn được đóng từ cây thứ nhất. Người đàn ông
ao ước có được một cái giường cũi cho đứa bé và ông ấy sẽ sử dụng cái máng với
mục đích này. Cái cây cảm nhận được tầm quan trọng của việc này và nó biết rằng
nó đang giữ trong tay một tài sản quý báu nhất.
Vài năm sau, có một
nhóm người bước lên chiếc thuyền câu được làm từ cây thứ hai. Một người đàn ông
mệt và ngủ thiếp đi. Trong khi họ đang lênh đênh trên biển, một cơn bão lớn nổi
lên và cái cây không nghĩ rằng mình đủ mạnh để đưa họ qua cơn sóng to gió lớn
này. Họ đánh thức người đàn ông đang nằm ngủ, ông ấy đứng dậy và nói:
"Biển lặng". Ngay tức thì cơn bão tan biến. Trong lúc này
cây thứ hai biết rằng nó đang được chở vị vua của tất cả các vị vua trên
thuyền.
Cuối cùng cũng có
người đến và mang cái cây thứ ba đi. Nó được khiêng qua các con đường. Suốt dọc
đường người ta nhạo báng người đàn ông đang khiêng nó. Khi họ lên đến đỉnh đồi,
người đàn ông kia bị đóng đinh trên cây và bị treo ở đó cho đến chết. Ngày Chúa
nhật đến, cái cây cảm thấy mình đủ mạnh để đứng trên đỉnh đồi và thật gần với
Thượng Đế bởi vì Chúa đã bị đóng trên thân của nó.
Do vậy, khi mọi việc
diễn tiến không đúng với những gì ta mơ ước, hãy luôn tin tưởng và phó thác vào
Chúa bởi vì Người luôn luôn có sẵn kế hoạch cho chúng ta. Hãy vững tin rồi
chúng ta sẽ nhận được quà tặng từ Người. Giống như những cây kia, cuối cùng
cũng đạt được giấc mơ của mình tuy không hoàn toàn giống như những gì chúng
nguyện cầu.
Lạy Chúa, giữa bao
triết lý và lắm luồng tư tưởng trong xã hội này, con phải chọn lựa như thế
nào?. Giữa những nền văn hóa đa dạng và những nền văn minh phức tạp, con biết
đâu là đúng, đâu là sai? Xin cho con biết học nơi thánh Giuse bài học của thinh
lặng để trở về với chính mình và với Chúa. Xin cho con biết chọn tiếng Chúa mời
gọi hơn là tiếng đời thúc đẩy và nỗ lực thi hành tiếng Chúa với hy vọng được
trở nên công chính theo gương thánh cả Giuse kính yêu. Amen
Suy niệm 5: KHUYẾN
KHÍCH SÁM HỐI ĐỂ ĐƯỢC CỨU
Thánh Luca viết:
“Đây là người quản gia trung tín và khôn ngoan, Chúa đã đặt lên coi sóc gia
đình Chúa”. Thánh Matthêu, thuật lại lời Chúa nói: “Hỡi gia nhân tài giỏi và
trung tín. Hãy vào chung hưởng phúc lạc với chủ nhân”. Thánh Giuse được Giáo
Hội ca ngợi là người trung tín và khôn ngoan.
Thánh Giuse là ai?
Thánh Giuse quả thực
là người công chính vì Ngài được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt, hơn thế
nữa, Thiên Chúa cho Ngài tham dự vào sự thánh thiện của Chúa. Thánh Giuse vì là
con người thánh nên đã luôn làm theo ý Chúa.
Thiên Chúa đã dùng
thánh Giuse như cột trụ của gia đình Nagiarét, nhưng con người của thánh Giuse
luôn khiêm nhượng, âm thầm, trầm lắng. Đức tính trầm lắng nói lên sự chín chắn,
khôn ngoan, trung tín của thánh Giuse. những đức tính này nói lên sự thánh
thiện tuyệt đối của thánh Giuse khiến Thiên Chúa hết lòng yêu mến Ngài.
Thánh Giuse quả thực
là con người nắm giữ vai cột trụ của gia đình, Ngài trở thành mẫu gương cần cù
lao động, góp phần vào việc cứu độ nhân loại.
Lạy thánh Giuse, xưa
nay không ai kêu cầu Cha mà vô hiệu. Cha có thần thế trước mặt Đức Chúa Trời
đến nỗi người ta có thể nói rằng: “Trên trời thánh Giuse truyền lệnh hơn là van
xin.” Và như thánh Têrêsa Avila đã viết: “Tôi thấy không lần nào xin sự gì
cùng thánh Giuse mà không được như ý. Dường như Thiên Chúa ban ơn cho các thánh
giúp ta việc này việc nọ nhưng kinh nghiệm cho tôi biết Thánh Giuse giúp chúng
ta trong mọi trường hợp. Tôi lấy danh Chúa mà xin những ai không tin lời tôi
hãy thử mà xem.”
Lạy thánh Giuse bổn mạng Họ Đạo Tam Sóc
chúng con, xin gìn giữ và hướng dẫn Họ Đạo Tam Sóc chúng con trong sự khôn
ngoan và công chính của Ngài.
THÁNH GIUSE BẠN TRĂM NĂM
ĐỨC MẸ
Thiên Chúa chọn một
dân riêng,
Trao cho miêu duệ
luân phiên nối dòng.
Phao-lô vững dạ đợi
trông.
Giu-se thực hiện như
trong lệnh truyền.
Chúa xưa phán với Na-than:
"Ta là Thiên Chúa, Ta
ban cho người,
Trong dòng dõi của các
ngươi,
Nối quyền Đa-vít là người
vững tin".
Phao-lô cho biết sự tình:
“không nhờ lề luật mà mình được ơn,
Chúa hứa là bởi lòng nhơn,
Ab-ram được hưởng còn hơn nguyện cầu.
Dòng dõi thừa kế nhiệm mầu,
Nhờ sự công chính chớ đâu sức mình”.
Giu-se công chính vững tin
Thực hiện Lời Chúa dù mình chữa thông,
Thiên thần loan báo là xong,
Chúa truyền thực hiện chớ không chần chờ.
Giu-se khiêm tốn bất ngờ,
Là người Chúa chọn đơn sơ nhân từ,
Xứng là thánh cả vô tư,
Là người phò Chúa ngay từ sơ sinh,
Bảo vệ Hội Thánh anh minh,
Giữ gìn gia đạo chúng mình muôm năm.
Hai Lúa
* MÙA CHAY: Ds
21,4-9; Ga 8, 21-30
Suy niệm 1:
Tin mừng hôm nay,
Chúa Giêsu cho chúng ta biết Ngài là ai, đến từ đâu và con đường nào Ngài phải
đi. Xin cho chúng ta luôn vững tin vào Chúa và vững bước theo Ngài.
Một lần nữa, Chúa
Giêsu lại kiên nhẫn cố gắng giúp cho những người Biệt Phái cứng lòng nhận biết:
Ngài là ai, đến từ đâu và còn đường Ngài đi là gì?
Ngày nay chúng ta đã
hiểu con đường Chúa đã đi qua là con đường thập giá. Chính Chúa Giêsu cũng đã
nói về con đường ấy trong bài tin mừng hôm nay: “Khi các ông giương cao
Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết tôi là Tôi Hằng Hữu”.
Con đường thập giá
là con đường đẹp ý Chúa Cha. Nhưng lại ngược với tư tưởng và ước muốn lựa chọn
của con người. Bởi ai trong chúng ta cũng mong muốn có được cuộc sống tiện
nghi, giàu có, sung túc. Ai mà chẳng mong được danh vọng chức quyền. Chẳng ai
muốn thập giá của đau khổ, vất vả, cay đắng và chết chóc. Nhưng thực tế cho
thấy, dù không muốn ta vẫn không tránh khỏi. Vì thế, Chúa bảo chúng ta nếu tin
vào Ngài và cầu xin với Ngài, Ngài sẽ ban ơn trợ giúp để chúng ta đủ sức mạnh
vác lấy thập giá đời mình. Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần kêu gọi: “Ai
muốn theo ta hãy từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo”.
Đã rõ, Đức Giêsu là
Đấng Hằng Hữu đến từ Thiên Chúa và con đường cứu độ của Ngài là con đường Thập
Giá. Vậy, để được cứu độ thì không có con đường nào khác ngoài con đường thập
giá Chúa đã đi qua và đã phục sinh vinh quang.
Xin cho chúng ta
biết:
- Từ bỏ ý riêng
không hợp ý Chúa để vâng nghe và thực thi ý Chúa.
- Vui vác thập giá
mình bằng việc đón nhận những hy sinh vất vả khó khăn thử thách trong cuộc sống
mà không kêu than, oán trách với niềm tin tưởng và yêu mến Thiên Chúa.
- Sẵn sàng bước đi
theo Chúa Giêsu chứ không theo một ai khác, với mong muốn mỗi ngày ta thấy mình
được gần Chúa và gần anh chị em hơn, bởi biết rằng chính Người là Đấng đã chết
và sống lại vì yêu thương ta.
Sống được như thế
chúng ta sẽ không bị luận phạt và không mang tội nơi mình mà chết. Trái lại sẽ
được sống trong Chúa với niềm hạnh phúc viên mãn.
Suy niệm 2:
Bài đọc 1, trích
sách Dân số, trình thuật lại cuộc xuất hành của dân Do Thái ra khỏi cảnh nộ lệ,
đau thương bên Ai Cập, trở về đất hứa. Trên cuộc hành trình ấy, họ đã chứng
kiến bao phép lạ vĩ đại mà TC đã làm cho họ. Tuy nhiên, mỗi khi gặp gian khó họ
lại kêu trách Mô-sê và bất tín với Chúa. Nên Chúa đã cho rắn lửa bò ra cắn chết
nhiều người. Khi đó họ hoảng sợ và đã van xin Chúa cứu giúp. Mô-sê lại van xin
Chúa và Chúa bảo Mô-sê hãy đút rắn đồng treo trên cây, để khi những ai bị rắn
cắn, nếu biết tin tưởng nhìn lên rắn đồng, thì sẽ được sống.
Hình ảnh con rắn
đồng treo cao trên cây trong sa mạc, tiên báo về cái chết của Chúa Giêsu trên
thập giá. Để từ nay, bất cứ ai nhìn lên Chúa với lòng tin tưởng, cậy trông thì
sẽ được cứu độ.
Nhưng tiếc thay,
thời nào cũng vậy, có nhiều người không tin vào Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ trần
gian, nên họ không sống theo giáo huấn của Người. Trong đó có những người Do
Thái thời Mô-sê, nhất là các kinh sư và biệt phái thời Chúa Giêsu. Vì vậy, họ
không xứng đáng đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, vì tình
thương, Chúa Giêsu rất kiên nhẫn và dùng mọi cách để thuyết phục họ. Nhưng vì
họ mong ước một Đấng Cứu Độ theo ý muốn của họ và vì cứng lòng nên họ không tin
vào Người.
Rất có thể những ước
muốn của chúng ta ngày nay cũng giống như họ, cho dẫu ta vẫn tin Đức Giêsu là
Đấng Cứu Độ. Có không ít người trong chúng ta vẫn thích và đòi hỏi phép lạ nên
đã thách thức Chúa thực hiện mới tin; Cũng có khi ta gặp khó khăn, bệnh tật,
nghèo khổ, ta mong muốn Chúa làm dấu lạ để đáp ứng nhu cầu theo ý mình, nhưng
không được Chúa đáp ứng, ta lại chối bỏ Chúa và chạy theo những thần minh
khác…Ta đâu có biết rằng, TC luôn là Người Cha hằng yêu thương ta, luôn muốn
mọi điều thiện hảo nhất cho ta là con cái Người. Nên có lần Chúa Giêsu đã khẳng
định với ta: “Các con, dù là kẻ xấu, còn biết lấy của tốt mà cho
con cái, thì huống chi Cha các con, Ðấng ở trên trời, sẽ ban những sự lành biết
bao cho kẻ cầu khẩn Người!” (Lc 7,11). Tuy nhiên với cái nhìn
thiển cận, chúng ta chỉ biết xin những điều ta tưởng là tốt cho lợi ích cá
nhân, nhưng điều ấy lại phương hại đến phần rỗi đời đời của ta mà ta không
biết. Thế là ta đâm ra bất mãn, không tin và bỏ cầu nguyện.
Xin Chúa cho chúng ta hiểu rằng: “Tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các
ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Như trời cao
hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta
cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy.” (Is 55,7-9). Vậy
nên trong mùa chay này, với niềm xác tín vững vàng vào Chúa,
ta hãy can đảm từ bỏ đường lối và tư
tưởng của mình mà hãy trở về với Chúa. Tin rằng Chúa sẽ ban
cho ta những điều tốt lành vượt trên những gì chúng ta mong ước.
Thứ tư: Ga 8,31-42
Thấy niềm tin của
những người Do Thái còn mới, chưa trọn vẹn lắm nên Chúa Giêsu đề nghị họ cần
phải cố gắng “sống lời Chúa”; để lời Chúa giải thoát họ khỏi nô lệ tội lỗi mà
xứng đáng trở thành môn đệ của Chúa. Nhưng những người này chưa đủ khiêm tốn để
chấp nhận lời đề nghị của Chúa. Lý do vì họ tự cho mình là con cháu Abraham nên
không cần tiếp nhận thêm điều gì nữa.
Xin cho chúng ta
biết khiêm tốn lắng nghe và làm theo lời dạy của Chúa, nhờ đó ta mới có thể
được giải thoát khỏi xích xiềng của tội lỗi, xứng đáng là môn đệ Chúa Giêsu.
Kết thúc cuộc đối
thoại với những người Do thái, Chúa Giêsu cho biết “Ngài là Đấng Hằng
Hữu”, và khi ấy có nhiều kẻ tin vào Ngài.
Tin mừng
hôm nay, Chúa tiếp tục mời gọi những người mới tin theo Chúa
hãy tiến thêm một bước nữa là hãy: “Ở lại trong Lời Chúa”; vì
Lời Chúa là lời chân lý có sức mạnh giải thoát họ. Tuy nhiên khi nghe đến sự
giải thoát khỏi ràng buộc tội lỗi thì những người này cho rằng: “Chúng
tôi là dòng dõi ông Abraham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ”.
Thế là họ hiểu sai lời Chúa.
Thực ra không phải
Abraham làm cho họ được tự do, nhưng sự tự do đích thật trước Chúa là được sạch
tội. Nên những ai phạm tội là trở thành kẻ nô lệ.
Đức cố giáo hoàng
Bênêđictô 16 trong buổi đọc Kinh Truyền Tin ngày Chúa nhật
13/03/2011 đã nói: “Nô lệ nghiêm trọng và sâu xa nhất là nô lệ cho tội
lỗi”. Đúng vậy, hễ ai phạm tội tất nhiên là nô lệ cho tội. Vì khi phạm tội là
ta xua đuổi Chúa ra khỏi lòng mình và rước ác thần Sa-tan vào cư ngụ thay thế
cho Thiên Chúa. Để khỏi nô lệ cho tội hay ma quỷ, điều kiện là ta phải “ở
lại trong Lời Chúa”. Bởi lẽ khi ở lại với Lời Chúa là chúng ta đang
tuân giữ Lời Chúa. Mà giữ lời Chúa chính là dấu hiệu nói lên lòng ta yêu mến
Chúa, đồng nghĩa là ta để cho Chúa được ở lại trong ta. Mà “Chúa chính
là đường là sự thật và là sự sống" nên ai ở lại trong Chúa thì sự
thật chiếm hữu và giải thoát người ấy khỏi ràng buộc của tội lỗi, được đón nhận
sự sống của Chúa.
Sở dĩ những người Do
Thái không chịu ở lại trong lời của Chúa, là vì họ tự mãn cho mình là con cháu
Abraham là dân riêng của Chúa.
Tự mãn kiêu căng là
tội đầu trong các mối tội. Chính vì kiêu căng tự mãn muốn bằng Chúa nên nguyên
tổ đã đánh mất thiêng đàng và trở nên nô lệ cho ma quỷ; chính kiêu căng tự mãn
mà thiên thần Lu-xi-phe đã chống đối lại Chúa và đã bị trừng phạt trở thành
Sa-tan.
Có thể nhiều lần ta
cũng tự mãn vỗ ngực xưng tên là người Công giáo, nhưng nhiều lúc chúng ta không
sống đúng với danh xưng ấy. Thay vì sống theo lời Chúa dạy, làm theo ý Chúa
muốn, thì chúng ta lại làm theo ý riêng mình, sống theo những đam mê dục vọng
mình. Thay vì làm tôi Chúa, chúng ta lại làm tôi ma quỷ, xác thịt, thế gian.
Xin Chúa tha thứ
những lầm lỗi chúng ta. Cho chúng ta biết vâng nghe và làm theo Lời Chúa để
được tự do làm con cái Chúa thật sự.
Thứ năm: Ga 8,51-59
Trong những lần đối
thoại với người Do Thái, Chúa Giêsu đã kiên nhẫn mạc khải cho họ biết về thân
thế và sứ mạng của Ngài; qua đó Ngài cũng nêu lên nếp sống cần phải có cho
những ai tin nhận Ngài. Tuy nhiên với cái nhìn định kiến và sự hiểu biết hạn
hẹp; cũng như quá tự mãn về kinh nghiệm sống của mình, họ đã không nhận ra thân
thế và sứ mạng đích thực của Chúa Giêsu. Vì thế họ đã không chấp nhận sống theo
Lời Chúa chỉ dạy.
Xin cho chúng ta
đừng bao giờ ỷ vào kiến thức và nếp sống đạo lâu nay của mình mà chối từ Lời
chỉ dạy của Chúa và sự hướng dẫn của Giáo Hội. Nhưng biết khiêm tốn lắng nghe
mà tích cực thi hành để ân sủng Chúa tuôn đổ dồi dào dồi dào trong tâm hồn
chúng ta.
Tin mừng hôm nay có
hai điểm cần lưu ý:
- Thứ nhất: Chúa Giêsu nhấn mạnh
đến mối tương quan giữa Ngài với Chúa Cha.
- Thứ hai: Chúa Giêsu nói đến
giá trị cao quý của việc tuân giữ Lời Chúa.
1. Thánh Gioan luôn
nói đến mối tương quan mật thiết giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha. Đoạn tin mừng
hôm nay cũng vậy, thánh Gioan cho biết Chúa Giêsu quả quyết Ngài biết Thiên
Chúa Cha, nhưng những người khác thì không biết. Chính Chúa Cha sai Ngài đến
trần gian. Những lời Ngài dạy bảo là Lời của Chúa Cha. Chúa Giêsu không hề tìm
vinh danh cho chính mình mà chỉ tìm vinh danh cho Đấng đã sai mình. Vì thế mà
Ngài được Chúa Cha tôn vinh.
2. Ngài đến từ Chúa
Cha, biết rõ về Chúa cha, nói những lời của Chúa Cha. Mà Lời của
Chúa Cha chính là “Lời ban sự sống đời đời”, vì thế Chúa Giêsu cho
biết: “Nếu ai tuân giữ Lời Ngài, thì sẽ không bao giờ phải chết”.
Người Do Thái tự hào
họ là con cháu Abraham nên họ xứng đáng thừa hưởng lời chúc phúc của Chúa đã
hứa với tổ phụ Abraham trước đây. Nhưng Chúa Giêsu cho họ biết làm con cháu
Abraham theo huyết thống thôi chưa đủ điều kiện, mà còn phải là con cháu của
đức tin giống như Abraham mới xứng đáng thừa hưởng gia nghiệp nước trời.
Tin Chúa nên Abraham
đã nghe Lời chỉ dạy của Chúa mà sẵn sàng ra đi, dù không biết đi đâu. Như thế
tin Chúa thì phải nghe lời Chúa. Mà Lời Chúa thì mang lại sự sống đời đời, nên
ai tuân giữ Lời Chúa thì không chết bao giờ. Giống như cành nho gắn liền với
thân nho, cành nho được sống vì tiếp nhận nhựa sống từ thân nho nuôi dưỡng. Gắn
kết với Lời Chúa ta sẽ được Chúa thông truyền sự sống. Mà Chúa là sự sống
vĩnh cửu, nên ta sẽ được tham dự vào sự sống đời đời của Chúa.
Xin cho chúng ta xác
tín được giá trị cao quý Lời của Chúa và cố gắng thi hành Lời Chúa dạy, để đón
nhận sự sống đời đời Chúa thương ban.
Thứ sáu: Ga 10,31-42
Suy niệm 1:
Trong suốt những
ngày qua, chúng ta đọc Tin mừng của thánh Gioan, Tác giả ghi lại các cuộc tranh
luận giữa Chúa Giêsu và những người Do Thái còn hoài nghi về Ngài. Tương tự như
các cuộc tranh luận trước, cuộc tranh luận trong tin mừng hôm nay, một lần nữa
Chúa Giêsu mạc khải sự thật quan trọng về Ngài. Ngài xác định rõ ràng:
"Ngài là Con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa."
Xin Chúa củng cố đức
tin của mọi người trong chúng ta để cho dẫu phải gặp những khó khăn hay đau khổ
trên hành trình sống đạo, ta vẫn luôn tin tưởng vào Đức Giêsu chính là Thiên
Chúa làm người, cứu độ duy nhất của chúng ta.
Đoạn tin mừng hôm
nay, Chúa Giêsu mạc khải cho ta biết về hai chân lý đức tin rất quan trọng đó
là: “Tôi là Con Thiên Chúa” và “Chúa Cha ở trong tôi
và tôi ở trong chúa Cha”. Đây là bài giáo lý rất quan trọng. Bởi vì nếu
Chúa Giêsu chỉ là một người như bao người, thì lời giảng dạy của Ngài cũng chỉ
là để nghe cho vui tai và chỉ dừng lại bởi những tiếng vỗ tay tán dương như bao
lời giảng dạy của những nhà hùng biện, hay như các bậc hiền triết và các đấng
sáng lập các tôn giáo khác. Nhưng Ngài không chỉ là con người tài giỏi, đức
cao, quyền trọng mà Ngài còn là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, nên lời giảng
dạy của Ngài mang giá trị tuyệt đối cần được quý trọng. Nhưng vì tự mãn và cứng
lòng nên những người Do Thái đã không tin vào Ngài, cho dẫu họ đã được chứng
kiến không ít những lạ Ngài làm và nghe biết bao lời giảng dạy khôn ngoan
của Chúa Giêsu.
Ngày nay không chỉ
có những người cứng lòng tin như người Do Thái xưa mà còn đó những con người vô
thần. Lối sống của họ chỉ nghĩ đến hưởng thụ vật chất, chỉ thích yêu cuồng sống
vội. Họ xem giáo huấn của Chúa thật rắc rối, là chướng ngại vật, là bức tường
cản ngăn lối sống phóng túng, trụy lạc, tội lỗi của họ. Để rồi họ sẵn sàng ném
đá tiêu diệt Chúa, tìm mọi cách lọai trừ Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn và cuộc
sống họ giống như những người Do Thái xưa.
Chúng ta hãy cầu xin
cho những người vô thần. Vô thần trong tư tưởng, trong lập trường cũng như vô
thần trong lối sống, biết nhìn vào thiên nhiên, nhìn vào vạn vật, nhìn vào các
biến cố xảy ra, nhất là nhìn vào bản thân mình mà khám phá ra sự hiện hữu của
Chúa mà tin nhận Người. Với chúng ta cũng rất cần nhìn lại cách thế sống và thể
hiện niềm tin của mình vào Chúa, nhất là trong mùa chay để chấn chỉnh cho phù hợp.
Suy niệm 2:
Cuộc tranh luận giữa
Chúa Giêsu và người Do Thái ngày càng gay gắt đến độ họ không ngần ngại ném đá
Chúa Giêsu!
Khi thấy họ không
tin vào lời của Ngài nói: Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai...thì Ngài
thuyết phục họ tin vào những việc Ngài làm: “Cho dù các ông không tin
tôi, thì hãy tin vì các việc tôi làm.”
Những việc làm của
Chúa Giêsu là: đi khắp nơi loan báo Tin Mừng
Nước Trời, là làm các phép lạ kỳ diệu, là chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền,
là trừ quỷ khỏi, khống chế thiên nhiên... Ngài đã làm các việc tốt đẹp ấy không
phải theo ý mình, nhưng là theo thánh ý Chúa Cha. Ngài luôn hiệp nhất với Chúa
Cha, “Chúa Cha ở trong Ngài và Ngài ở trong Chúa Cha.” Tuy
nhiên những người Do Thái vì quá kiêu căng, tự mãn và nặng óc thành kiến nên họ
không tin vào Ngài.
Đức tin là một ơn
Chúa ban, nhưng cũng đòi buộc sự cộng tác của mỗi người. Dù không thấy Chúa vẫn
luôn hoạt động qua những việc lạ lùng trong vũ trụ, qua các biến cố xảy ra
trong cuộc sống, qua những người chúng ta gặp gỡ hàng ngày, qua những lời chỉ
của Chúa trong Thánh Kinh, qua những lời giáo huấn của Giáo hội...
Một thực tế cho
thấy, những người nghèo hèn, bé nhỏ thì dễ tin Chúa hơn các người thông thái,
quyền thế (x. Lc 10,21). Bởi lẽ những người tự cho mình là thông thái và quyền
thế thì tự mãn về sự hiểu biết của mình giống như những người Do Thái trong bài
tin mừng hôm nay đã cố tình phủ nhận Chúa Giêsu bằng mọi giá.
Mùa chay là dịp
chúng ta cần củng cố lại đức tin của mình, cũng như đưa đức tin vào cuộc
sống bằng những hành động cụ thể, bởi lẽ thánh Giacôbê tông đồ đã xác
quyết: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết.” (Gc 2,17)
Vậy ta hãy tận dụng
mọi cơ hội để minh chứng niềm tin của mình qua những việc làm cụ thể như: quảng
đại yêu thương, hy sinh bác ái, bao dung tha thứ và khiêm tốn phục vụ...đó
chính là những phương cách hiệu quả nhất để giúp cho mọi người nhận ra Đức
Giêsu là Thiên Chúa thật trong thời đại hôm nay, bởi như lời ĐGH Phaolô VI đã
nói: “Người thời nay tin vào các chứng nhân
hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì
các thầy dạy ấy đã là những chứng nhân”.
Thứ bảy:
Ga 11,45-56
Sự đố kị và lòng hận
thù khiến người ta mù quáng không còn nhận ra lẽ phải và bất chấp mọi thủ đoạn,
ngay cả giết người. Đó là cách thế hành xử của các Thượng Tế và Biệt Phái đối
với Chúa Giêsu trong bài tin mừng hôm nay.
Jean de La Fontaine
từng viết bài thơ ngụ ngôn “Le Loup et l’Agneau” kể về con chó sói và con cừu
non cùng ra suối uống nước. Con sói muốn ăn thịt con cừu bèn tìm đủ cách buộc
tội con cừu.
Đầu tiên con sói bảo
con cừu làm bẩn nước suối của con sói.
Bị con cừu bẻ: “Thưa
ông, ông uống ở thượng lưu, tôi uống ở hạ lưu, thì chỉ có ông làm bẩn nước của
tôi chứ làm sao tôi có thể làm bẩn nước của ông được?”
Con sói nói: “Năm
ngoái mày đã phỉ báng tao!”
Con cừu trả lời:
“Thưa ông, năm ngoái tôi chưa ra đời.”
Con sói nói: “Thế
thì thằng anh mày đã phỉ báng tao!”
Con cừu đáp: “Thưa
ông tôi là con một.”
Con sói rống lên:
“Thế thì một đứa trong lũ chúng mày đã nói xấu tao, thằng chăn chúng mày đã nói
xấu tao, con chó chăn chúng mày đã nói xấu, tao phải trả thù!” Thế rồi con sói
vồ con cừu nhai ngấu nghiến.
La Fontaine kết
luận: “Lý lẽ kẻ mạnh bao giờ cũng thắng”
Đọc Tin mừng hôm
nay, ta có cảm tưởng các Thượng Tế và Biệt Phái giống như con sói vậy. Họ tìm
mọi cách, viện đủ mọi lý do để tiêu diệt Chúa Giêsu. Họ đã triệu tập một công
nghị để bàn tính với nhau cách đối phó với Chúa Giêsu ra sao. Vì thấy Chúa làm
được nhiều việc lành, có nhiều người tin theo Chúa, sợ mất ảnh hưởng nên họ
ghen ghét muốn khử trừ Ngài cho xong. Sau khi viện đủ mọi lý do tôn giáo để kết
tội Chúa Giêsu như: Chúa đã lộng ngôn phạm thượng xưng mình là Con Thiên Chúa.
Rồi lại công khai tuyên bố phá hủy đền thờ Giêrusalem, nhất là đã liên tục vi
phạm ngày sabát…nhưng những cáo buộc ấy không thành. Vì thế, họ chuyển sang
ghép Ngài vào tội chính trị. Họ vu cáo Ngài vi phạm tới luật lệ của nhà nước và
quyền của hoàng đế Rôma. Rồi họ ra chỉ thị truy nả Ngài trong toàn dân. Với lời
khích động: “Thà một người chết thay cho toàn dân còn hơn là toàn dân
bị tiêu diệt”
Quyết định giết Chúa
Giêsu để thay cho toàn dân quả là một quyết định do lòng ghen tỵ, hận thù… thật
là bất công. Nhưng trong chương trình của Thiên Chúa, thì cái chết của Chúa
Giêsu là để cho mọi người được sống đời đời. Thay cho hành động hận thù và bất
công của các Thượng Tế và Biệt Phái là hành động bao dung và yêu thương của Thiên
Chúa, nhằm quy tụ con cái tản mác khắp nơi về một mối, trong tình hiệp nhất yêu
thương.
Xin cho chúng ta đừng vì ghen ghét, hận thù mà tìm đủ mọi cách để hãm hại người khác. Nhưng xin Chúa ban cho chúng ta có được lòng quảng đại, yêu thương tha thứ và sẵn sàng hy sinh, chịu gian lao khốn khó như Chúa Giêsu.
SUY
NIỆM LỜI CHÚA TUẦN V MÙA CHAY
Lm. Minh Anh, Tgp Huế
CHÚA
NHẬT V MÙA CHAY, NĂM B
Gr 31,31-34; Dt 5,7-9; Ga
12,20-33
CHỊU MỤC NÁT
“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn
trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa Chúa Nhật tuần này
mời gọi chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu, Đấng đã vâng phục Chúa Cha cách tuyệt đối
và đã yêu thương nhân loại đến cùng; Ngài cũng là Đấng ‘chịu mục nát’ để cứu lấy
nhân loại chúng ta, như lời Ngài đã nói: “Nếu
hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu
chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Mặc dù
sống và chết là hai từ đối nghĩa nhau, nhưng trên thực tế chết và sống không
hẳn là 2 điều tương phản nhau, nhiều khi nó lại liên kết hỗ trợ nhau rất chặt
chẽ: sự chết nuôi sự sống và sự sống có được là nhờ sự chết. Ví dụ:
Nơi thực
vật: những thứ được dùng làm phân bón phải chết đi thì mới thành chất bổ nuôi
dưỡng cho cây phát triển.
Nơi sinh
vật: các thức ăn phải "tiêu" mới "hóa" thành lương thực.
Trong cõi
nhân sinh: người già chết đi để nhường đất và hoa màu của đất cho các thế hệ
sau dùng mà sống.
Còn bài
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng hình ảnh hạt lúa có thối đi thì cây lúa mới
nẩy mầm và trỗ sinh nhiều bông hạt để ám chỉ về sứ mạng của Ngài. Qủa thật Ngài
có đi thì con người chúng ta mới được sống. Cái chết của Ngài đem lại cho chúng
ta sự sống mới, sự sống vĩnh cửu và dồi
dào.
Ví như hạt muối tạo ra vị mặn chỉ khi hoà tan trong nước. Như ngọn nến được phát sáng chỉ khi sáp bị ăn
mòn và tan chảy. Tựa như con sò chỉ tạo ra viên
ngọc quý giá một khi nó chịu biến đổi từ một hạt cát qua một quá trình lâu dài
và đau đớn. Và như người cha ngườ mẹ có chấp nhận hy sinh bản thân thì con cái
mới có được cuộc sống tốt đẹp.
- Thánh Phaolô trong bài đọc 2 cũng cho chúng ta biết: chính
nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu đã trở
thành "căn nguyên ơn cứu độ đời đời
cho tất cả những kẻ tùng phục Ngài".
- Tiên tri Giêrêmia trong bài đọc 1 thì cho biết: ngày xưa ở trên núi Sinai, Thiên
Chúa đã thiết lập Giao ước với dân Israel qua trung gian là Môsô, khi đó Ngài
hứa là Thiên Chúa của họ và sẽ bảo vệ họ, phần họ thì phải phụng sự Ngài như là
Chúa tể duy nhất. Các điều khoản của giao ước ấy được khắc lên hai bia đá.
Nhưng dân Israel đã thường xuyên vi phạm giao ước ấy, dẫn đến hậu quả là họ
phải bị mất nước và bị lưu đày. Nên giờ đây ngôn sứ Giêrêmia mới loan báo cho
dân biết, Thiên Chúa sẽ tái lập một giao ước mới: Giao ước mới này không ghi
trên bia đá mà ghi vào tận đáy lòng con người; tinh thần của Giao ước mới chính
là tình thương và tha thứ: "Mọi
người từ lớn chí nhỏ đều nhìn biết Ta" và "Ta sẽ tha tội ác của chúng và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của
chúng". Lời hứa của Giao ước mới này sẽ được thành toàn nơi Đức Giêsu Kitô chịu chết và sống lại
sau này.
Cho nên khi thi hành sứ mạng
ngôn sứ của mình, mặc dầu tiên tri Giêrêmia luôn phải đối mặt với những bạo
hành, những bất công từ những người chống đối mình, phản phúc lại Thiên Chúa,
nhưng ông hề không nản chí sờn lòng, trái lại ông vẫn can đảm đến với dân và
nói lời Thiên Chúa cho dân nghe. Với ông, những linh hồn của dân là nguồn cảm hứng
để ông chấp nhận gánh chịu mọi đau khổ. Ông đã làm tất cả những gì có thể với
mong muốn sao dân nhận biết Thiên Chúa là Đấng tín trung với lời giao ước.
Và tuyệt vời thay! Nhờ ông
mà dân chúng đã trở về với Thiên Chúa nên đã được Người bao dung tha thứ, từ nổi
giận, Ngài lại xót thương.
Anh chị em thân mến, chỉ vì
mong muốn đem các linh hồn về cho Chúa mà tiên tri Giêrêmia và Chúa Giêsu phải
đánh đổi bằng một cái giá không hề rẻ, thì những hy sinh chấp nhận chịu “mục
nát đi” của mỗi người chúng ta dành cho các linh hồn có xá gì!
Đức tổng giám mục Fulton Sheen đã kể lại một cầu chuyện về một linh hồn bất
tín được Chúa hoán cải như sau: Có một thiếu nữ kiêu hãnh sa đoạ nọ, ngài muốn
cô thay đổi cuộc đời nên tốt hơn. Vì thế, ngài mạo hiểm xin Chúa gửi đến cho
ngài những thập giá mà ngài có thể chịu được, để cứu lấy linh hồn tuyệt vọng
này. Và vị Giám mục sớm nhận ra mình phải chịu một chuỗi thất bại đáng kinh ngạc
với những vu khống và bất công ập xuống đến mức ‘sắp phải đầu hàng’. Nhưng nhờ
ơn Chúa, ngài vượt qua tất cả để dâng mọi sự cho linh hồn này. Một buổi chiều
Tuần Thánh, linh hồn vong thân ấy đã đến. Cô xin xưng tội và vị giám mục Fulton
Sheen rất được ủi an khi đọc lời tha tội cho cô!
Trải nghiệm của tiên tri
Giêrêmia, của đức tổng giám mục Fulton Sheen, nhất là của Đức Giêsu…giúp cho ta
hiểu được cái giá của các linh hồn không hề rẻ chút nào. Linh hồn của bạn và
tôi cũng không hề rẻ; nó rất đắt, đắt đến nỗi Chúa ‘Giêsu’ phải chịu mục nát
trên thập giá. Vậy liệu bạn và tôi có sẵn sàng trả một cái giá tương tự như thế
để cứu lấy linh hồn mình và linh hồn của anh chị em chúng ta không?
Lạy Chúa, không linh hồn
nào là rẻ cả, nhất là linh hồn của chính con. Xin cho mỗi người chúng con biết
chấp nhận chết đi hàng ngày cho con người cũ với những tính hư tật xấu và tội lỗi
để sống con người mới trong Chúa Kitô, Đấng đã sẵn sàng chịu mục nát vì yêu
thương chúng con!”, Amen. (St)
Thứ hai: RẤT MỰC TÔN
TRỌNG
“Ai trong các ông sạch
tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Trong Tin Mừng hôm nay, các nhà lãnh đạo tôn giáo dẫn đến
Chúa Giêsu một người phụ nữ ngoại tình cốt làm mồi nhử để bắt Ngài. Chính Ngài,
người họ nhắm tới, chứ không phải người phụ nữ này. Khi làm vậy, họ thể hiện một
sự thiếu tôn trọng sâu sắc đối với cô. Ngược lại, với cô, Chúa Giêsu ‘rất mực
tôn trọng!’.
Qua đó, Ngài thầm nhắc cho các nhà lãnh đạo tôn giáo đó
rằng, nếu cô ấy đã phạm tội thì họ cũng đã phạm tội và đang phạm tội khi đem cô
đến với Ngài theo cách này. Và Ngài bảo đảm với cô rằng, Ngài không lên án cô,
Thiên Chúa cũng không! Và Ngài kêu gọi cô sống sao cho phù hợp hơn với phẩm giá
của cô là quý nữ của Thiên Chúa, “Thôi, chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa!”.
Ngài ‘cất đi’ “Chữ A màu đỏ” trên áo cô! ( Tìm đọc “Chữ A Màu Đỏ”, “The
Scarlet Letter”, của Nathaniel Hawthorne - nói về một phụ nữ ngoại tình buộc phải
mang chiếc áo có thêu chữ “A”, “Adultery”, “Ngoại Tình”.)
Gioan viết, “Thiên Chúa không sai Con mình đến thế gian
để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Người mà được cứu”. Lời kêu gọi dành
cho chúng ta là hiện tại hoá - nhờ quyền năng Thánh Thần - sự hiện diện mang lại
sự sống, không phán xét của tình yêu Thiên Chúa, Đấng ‘rất mực tôn trọng’ mỗi
người, bất kể lỗi lầm quá khứ của chúng ta, và chúng ta được mời gọi sống với
nhau theo cách tương tự.
Việc các kinh sư và biệt phái dẫn người phụ nữ đến với
Chúa Giêsu là câu trả lời đơn giản cho sự ‘thất bại đạo đức’ của cô ta, kết án
tử hình bằng cách ném đá. Đây không phải là cách giải quyết những thất bại đạo
đức của Chúa Giêsu! Những người đưa cô đến chỉ nhìn thấy cô qua quá khứ gần đây
của cô; đang khi Ngài nhìn cô cách rộng lượng hơn nhiều. Ngài nhìn thấy toàn bộ
bức tranh đời cô - không chỉ một phần nhỏ của nó - nhưng toàn cảnh cuộc đời cô
và ‘rất mực tôn trọng’. Ngài thấy cô còn có một tương lai, một tương lai mà những
người đưa cô đến hẳn sẽ không chấp nhận cho cô.
Khi Chúa Giêsu nhìn bạn và tôi, Ngài cũng nhìn thấy
toàn bộ bức tranh; Ngài không bị ám ảnh bởi một hoặc hai chi tiết của bức
tranh. Ngài nghe toàn bộ câu chuyện cuộc đời chúng ta chứ không chỉ vài dòng
trong câu chuyện của mỗi người. Chúa Giêsu biết rằng, câu chuyện của bạn và tôi
còn dang dở và sẽ chỉ hoàn tất khi Ngài đến “biến đổi thân xác hèn hạ của chúng
ta thành bản sao thân xác vinh hiển của Ngài”.
Anh Chị em,
“Ai trong các ông sạch
tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!”. Bối cảnh Tin Mừng hôm nay quả là một trong những tuyệt
phẩm “Thiền”. Người ta mời Chúa Giêsu làm quan toà xét kẻ có tội; bỗng dưng,
Ngài trở thành chánh án xét kẻ cho mình là vô tội. Người ta chờ Ngài kết án bị
cáo; bỗng dưng, Ngài tra vấn các nguyên cáo. Người ta mang đá để ném vào một
người yếu thế; bỗng dưng, Ngài ném trở ra một lời cứng hơn đá trúng tim những
người ỷ mạnh. Đá ném vào giết chết tội nhân, lời ném ra cứu sống người ‘công
chính’. Người ta muốn Ngài đồng tình giết chết kẻ có tội, Ngài ‘rất mực tôn trọng’
mọi người, những muốn cứu sống kẻ buộc tội lẫn người có tội.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, Đấng ‘rất mực tôn trọng’ con, cho con ‘một mực
kính trọng’ Chúa trong con và trong anh chị em con!”, Amen.
Thứ ba: DÁM YÊU VỚI TẤT
CẢ RỦI RO
“Khi tỉnh giấc, ông
Giuse làm như sứ thần Chúa dạy”.
Nghệ thuật có khuynh hướng mô tả thánh Giuse như một cụ
già. Tuy nhiên, một ngoại lệ rất nổi bật là bức “Giuse” của El Greco, nghệ sĩ
Tây Ban Nha, mô tả Giuse là một thanh niên cơ bắp, đáng tin cậy; trẻ Giêsu quấn
lấy chân ngài. Điều này phù hợp với ngữ cảnh Tin Mừng và tính cách của Giuse; một
người trẻ mạo hiểm, ‘dám yêu với tất cả rủi ro!’.
Kính thưa Anh Chị em,
Tình yêu luôn đòi hỏi mạo hiểm và chuyện tình Giuse -
Maria cũng không nằm ngoài quy luật đó! “Maria có thai”. May thay, nhờ sự can
thiệp của sứ thần, Giuse đã yêu với ‘đôi mắt mở to’, ‘đôi tai mở rộng’, để ‘dám
yêu với tất cả rủi ro’ như Tin Mừng ngày lễ tiết lộ.
Thông thường, cuộc sống không như chúng ta tưởng; đặc
biệt trong yêu đương, thật khó để đi từ logic ‘phải lòng một ai’ sang logic một
‘tình yêu trưởng thành!’. Nhưng khi những hoài bão xem ra kết thúc, thì chính tại
ngõ cụt ấy, tình yêu đích thực bắt đầu bước vào! Thực tế, tình yêu không phải
là những gì chúng ta kỳ vọng được người kia đáp ứng; thay vào đó, nó có nghĩa
là tôi tự do chọn lựa để chịu trách nhiệm cho cuộc sống của người kia với bất cứ
điều gì xảy ra. Đây là trải nghiệm cũng là bài học đắt giá của Giuse!
Trải nghiệm của Giuse cũng có thể là trải nghiệm của bạn
và tôi; đó là một mối nguy có thể tồn tại trong hành trình tâm linh của bất cứ
người nào! Khi mọi thứ yên ả, xuôi may, cuộc sống tôi như đang thăng hoa; nhưng
khi mọi thứ trở nên tồi tệ như vầng mây xám, liệu Chúa có còn yêu tôi không? Và
bấy giờ, Giuse là tấm gương cho chúng ta!
Vậy nhờ đâu Giuse có thể tin? Thưa, một lương tâm trong
sạch! Tin Mừng nói, “Giuse là người công chính”. Giuse yêu Maria, nhưng sự thật
quá khắc nghiệt để có thể vượt qua; và dẫu quan tâm Maria, Giuse vẫn cảm thấy bị
phản bội! Nhưng, với một lương tâm trong sạch, Giuse hy sinh ước mơ cưới lấy
Maria để ly hôn trong lặng lẽ. Và Thiên Chúa nhìn thấy sự trung thực này, Ngài
thổ lộ cho Giuse sự thật về sự chính trực của người thiếu nữ. Một thông điệp ngắn
trong mơ đủ để Giuse đón nhận tất cả với sự ngạc nhiên!
Thánh Bernard viết, “Hãy nhớ đến vị tộc trưởng vĩ đại bị
bán sang Ai Cập! Thánh Giuse không chỉ nhận tên ông mà còn nhận được sự trong
trắng, vô tội và ân phúc của ông! Giuse Cựu Ước ‘giỏi đọc’ giấc mơ; Giuse Tân Ước
‘giỏi tin’ giấc mơ. Giuse Cựu Ước ‘tích trữ ngũ cốc’ cho một dân; Giuse Tân Ước
‘trông coi Bánh Hằng Sống’ cho muôn dân; và còn hơn thế, bảo tồn những gì Chúa
hứa cho Abraham và nhà Đavít!”. Các bài đọc hôm nay và Thánh Vịnh đáp ca xác nhận,
“Dòng dõi Người sẽ trường tồn vạn kỷ!”.
Anh Chị em,
“Giuse làm như sứ thần Chúa dạy”. “Trong các Tin Mừng,
Giuse xuất hiện như một người mạnh mẽ và can đảm, một người làm việc; tuy
nhiên, trong trái tim ngài, chúng ta thấy một sự dịu dàng vô cùng, đó không phải
là nhân đức của kẻ yếu đuối mà là dấu hiệu của sức mạnh tinh thần và khả năng
quan tâm vì lòng trắc ẩn, vì sự cởi mở chân thành với người khác, vì tình yêu!”
- Phanxicô. Thử hỏi, có ai ‘dám yêu với tất cả rủi ro’ bằng Thiên Chúa? Thánh
giá, ‘rủi ro vĩ đại’ của mọi rủi ro, tình yêu vô bờ của Ngài, một tình yêu cứu
độ đòi hỏi mạo hiểm khi phải đánh cược chính Con mình. Và ngày nay, Đấng Phục
Sinh vẫn đang chấp nhận rủi ro khi trao vào tay chúng ta những gì Ngài chưa
hoàn thành!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con kiếm tìm bất kỳ một sự an thân
nào. Cho con biết ‘mở to đôi mắt’ đầy ngạc nhiên để trở nên ‘khí cụ độc đáo’
cho thế giới trong bàn tay Chúa!”, Amen.
Thứ tư: Ở LẠI TRONG LỜI
“Nếu các ông ở lại
trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi!”.
Hudson Taylor, ‘một Phaolô của thế kỷ 19’, truyền giáo
51 năm tại Trung Hoa lục địa; ông đem về cho Chúa hàng vạn linh hồn. Những ngày
cuối đời, ông nói với một người bạn, “Tôi rất yếu, tôi không thể đọc Thánh
Kinh; thậm chí, không thể cầu nguyện. Tôi chỉ có thể nằm yên trong vòng tay
Chúa như một em bé, và hạnh phúc ‘ở lại trong lời’ Ngài!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay cho thấy, ‘Ở lại trong lời’ - trải
nghiệm của Taylor - cũng là trải nghiệm của những bạn trẻ thời Đaniel hoặc ngay
cả trải nghiệm của chính Chúa Giêsu.
‘Ở lại trong lời’ của ai, giả thiết bạn phải tin vào
người ấy! Niềm tin sẽ không có thật cho đến khi nó chạm đến một thái độ; và
trên hết, chạm đến một lựa chọn cụ thể của một con người. Đaniel cho thấy thái
độ anh hùng và sự lựa chọn anh dũng không phải của một, nhưng của những ba người
bạn của ông - bài đọc một. Họ chọn chịu ném vào lò lửa khi tỏ thái độ bất tuân
lệnh vua Nabucôđônosor, người buộc họ bái lạy tượng thần. Thật tuyệt vời, như
vua nhận xét, “Con của thần minh” đã đến, cùng đi với họ giữa lửa. Ngài giải
thoát họ, đến nỗi vua đã phải ngưỡng mộ và hẳn, đã cùng họ ca khen, “Xin dâng lời
khen ngợi suy tôn muôn đời!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Với bài Tin Mừng, Chúa Giêsu nói, “Nếu các ông ‘ở lại
trong lời’ của tôi, các ông thật là môn đệ tôi!”. Với Ngài, ‘ở lại trong lời’
Ngài là làm cho cuộc sống của bạn và tôi phù hợp với cuộc sống của Ngài; là nên
giống Ngài, nói như Ngài, làm như Ngài và nhất là làm những gì Chúa Cha muốn
như Ngài đã làm. Tắt một lời, ‘ở lại trong lời’ là thuộc về Ngài, nên môn đệ
Ngài. Nó còn là một điều gì đó thánh thiêng, đòi hỏi kiên trì mỗi ngày; đồng thời,
biết cách trỗi dậy, ‘phủi bụi’ bản thân để bắt đầu lại mỗi khi chùn bước hay vấp
ngã.
Chúa Giêsu còn nói, “Các ông sẽ biết sự thật, và sự thật
sẽ giải phóng các ông!”. Sự thật ở đây chính là tự do Ngài ban; nó sâu sắc hơn
nhiều so với tự do thế gian. Tự do ở đây không chỉ đơn giản là tự do chính kiến,
tự do chọn bất cứ điều gì tôi muốn, khi nào tôi muốn và theo cách tôi muốn. Ở
đây là tự do làm điều lành với một nội tâm chính trực; và nhất là ‘tự do hy tế’,
nghĩa là sẵn sàng làm một lễ dâng như Ngài đã nên một “Lễ Dâng!”.
Anh Chị em,
“Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật
là môn đệ tôi!”. Nếu xác tín Lời Chúa là Ánh Sáng và là Sự Sống, thì khi ‘ở lại
trong lời’ của Ngài, chúng ta ở lại trong cung lòng Chúa Cha “như một em bé”. ‘Ở
lại trong lời’ của Ngài, coi Lời Ngài như “nhà” của mình, bạn và tôi sẽ tự do
thoát khỏi cái tôi ích kỷ, khỏi những ràng buộc bản năng hầu sống theo các phẩm
tính thần linh; chính xác hơn, tự do để nên giống Chúa Giêsu và làm theo ý
Ngài. Lúc đó, dù ‘đi qua lửa’ hay ‘lao vào giông bão’ cuộc đời, chúng ta vẫn bước
đi ung dung, tự do, với phong thái của một người con trai, con gái của Cha trên
trời!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con chiều theo những gì bản năng muốn,
hoặc phô diễn những gì thế gian chuộng. Dạy con luôn yêu điều Chúa muốn, làm điều
Chúa thích!”, Amen.
Thứ năm: BẤT TỬ
“Trước khi có Abraham,
thì tôi, Tôi Hằng Hữu!”.
Năm 125 sau Công Nguyên, Aristides giải thích sự thành
công lạ thường của ‘một tôn giáo mới’: “Bất kỳ một Kitô hữu chân chính nào rời
khỏi thế giới, họ đều hân hoan dâng lời cảm tạ Chúa; họ mang theo thân xác những
ca khúc tạ ơn! Như bất tử, họ đang đi từ một nơi này đến một nơi khác gần đó; một
sự dịch chuyển không thể phi thường hơn!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay nói đến sự ‘bất tử’ Aristides đề cập!
“Chim sắp chết, chim kêu thống thiết; người sắp chết, người nói lời thiệt!”. Biết
mình sắp chết, Chúa Giêsu đưa ra một tuyên bố ‘rất thiệt’ về sự ‘bất tử’ của
Ngài, “Trước khi có Abraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu!”.
Ghi lại lời này của Thầy - “Tôi Hằng Hữu!” - tác giả về
lại lời tựa Phúc Âm của mình; ở đó, ‘phượng hoàng Gioan’ chấp cánh bay lên tận
mút cùng của tạo thành, “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về
Thiên Chúa; và Ngôi Lời là Thiên Chúa”. Cùng Chúa Cha, Ngôi Lời có trước cả
Abraham, trước bất cứ ‘nguyên tổ’ của bất kỳ thọ tạo nào! Tuy nhiên, Ngôi Lời
đã hoá thành nhục thể, hạ cố làm người để ở với con người, cứu lấy nó dù vẫn ở
với Chúa Cha. Và dẫu đã về trời bên Cha, Ngài vẫn ở với loài người. Đây là sự
hiện diện tất yếu của một tình yêu ‘bất tử’ nơi một Thiên Chúa ‘bất tử’, một sự
hiện diện ‘bất tử!’.
Chúa Giêsu còn nói, “Ai tuân giữ lời tôi, sẽ không bao
giờ phải chết!”. Hãy nhìn vào Abraham, một người hoàn toàn “tuân giữ” lời Thiên
Chúa và Thiên Chúa đã chúc phúc cho tổ phụ. Abraham ‘bất tử’ với miêu duệ của
mình, “Ta sẽ lập giao ước giữa Ta với ngươi từ thế hệ này qua thế hệ khác”; “Ta
sẽ là Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi sau này” - bài đọc một. Giao ước
Chúa lập với Abraham; về sau, với Đavít thật bền bỉ, trường tồn, “Giao ước đã lập
ra, muôn đời Chúa nhớ mãi!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Vì thế, khi nói “sẽ không bao giờ phải chết”, Chúa
Giêsu nói đến cái chết linh hồn. Ai giữ lời Ngài, sẽ không biết cái chết ‘kiểu
đời đời’ này! Bởi lẽ, họ đã chia sẻ cuộc sống thần linh của Ngài ‘ở đây và lúc
này’, một cuộc sống vượt quá cái chết thể xác. Sự hiệp thông với Đấng hằng sống
sẽ không bị phá vỡ bởi cái chết; đúng hơn, được đào sâu bởi cái chết!
Anh Chị em,
“Tôi Hằng Hữu!”. Dẫu “hằng hữu”, Con Thiên Chúa vẫn cam
lòng chịu chết cho tội lỗi của con người và sống lại cho sự ‘bất tử’ của nó!
Ngài đang sống trong bạn, trong tôi, trong thế giới nhiễu nhương này. Vì thế,
không chỉ khi còn sống, chúng ta hân hoan ca tụng Ngài, mà cả khi rời khỏi thế
giới, bạn và tôi “mang theo thân xác những ca khúc tạ ơn!”. Là con của ‘Đấng Bất
Tử’, chúng ta sống sự sống thần linh đời đời của Ngài. Vì thế, đừng để cho sự tẻ
nhạt và đơn điệu của cuộc sống với những tân toan kéo ghì chúng ta xuống. Hãy sống
tâm thế của con cái Thiên Chúa ngay giữa cuộc sống đời thường này, “Tâm hồn
luôn hướng lên cao cùng với lời tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”. Và như thế, bạn và
tôi đã ‘bất tử!’.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con ‘trở nên tầm thường’ trong bất cứ
công việc lớn nhỏ nào. Cho con thật cao thượng ngay cả trong suy tư và ước muốn!”,
Amen.
Thứ sáu: KIỆT TÁC CỦA
SỰ THÁNH THIỆN
“Nếu tôi làm các việc
đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó!”.
Trong sách Xuất Hành, từ chương 25-30, Chúa chỉ thị cho
Môsê cách thức thiết kế Nhà Tạm, Hòm Bia, bàn thờ và phẩm phục... Môsê phải tìm
các nghệ nhân. Họ lấy vàng, bạc, vải và đá quý để thiết kế chúng lộng lẫy nhất
có thể. Mục đích của Chúa gợi lên mục đích chung cho mọi công trình lớn nhỏ của
Ngài: “Tôn vinh vẻ huy hoàng của Thiên Chúa và biểu lộ vinh quang Ngài”. Chúng
phải là những ‘kiệt tác của sự thánh thiện!’.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay nói đến những ‘kiệt tác của sự thánh
thiện’. Chúng không chỉ là những gì được đem vào cung thánh đền thờ, nhưng còn
là những chứng từ không lời. Đó là những việc làm tốt lành của một chứng nhân
đích thực!
Chúa Giêsu tiết lộ một điều hết sức quan yếu: đức tin
không chỉ đặt nền tảng trên những gì Thiên Chúa hứa, nhưng còn trên những việc
Ngài làm! Công việc vĩ đại nhất Chúa Cha đã làm là phục sinh Chúa Con mà Giáo Hội
sắp tưởng niệm. Và Chúa Con vẫn tiếp tục thực hiện các công trình của Cha qua
các chứng nhân của Ngài và qua các Bí tích; đặc biệt, Thánh Thể và Hoà Giải. Đó
cũng là những ‘kiệt tác của sự thánh thiện!’.
Chúng ta không đánh giá thấp tầm quan trọng và sức mạnh
của những lời chứng cá nhân trong một thế giới ngập tràn thông tin thuộc mọi kiểu.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hỗn tạp này, chỉ những ‘kiệt tác của sự thánh thiện’
mới có thể nói tiếng nói mạnh nhất, vang vọng nhất! Về điểm này, Phaolô VI có một
câu bất hủ, “Người đương đại cần lời chứng hơn lý lẽ!”. Các việc chúng ta làm
có phù hợp với những lời chúng ta nói không? Chúng có nói lên điều bạn và tôi
tuyên xưng? Hay “Tất cả chỉ là từ ngữ?”.
Kết thúc Tin Mừng hôm nay, Gioan viết, “Ở đó, nhiều người
đã tin vào Chúa Giêsu”. Dẫu bao chống đối, lời nói và việc làm của Chúa Giêsu vẫn
có khả năng thâm nhập trái tim con người. Sự chống đối khủng khiếp; thậm chí,
thâm độc, không thể cản trở người khác tin vào Ngài. ‘Mầu nhiệm’ này lặp đi lặp
lại trong đời sống Hội Thánh! Ở đâu có sự chống đối lớn nhất đối với Tin Mừng, ở
đó luôn có những ‘kiệt tác hoán cải’ lớn nhất!
Từ thời Cựu Ước, Giêrêmia đã trải nghiệm một niềm vui
tương tự. Dẫu bao bạo hành, bách hại của dân mình, Giêrêmia vẫn chứng tỏ là một
người được Chúa sai đến để hoán cải họ; lời nói và việc làm của ông đầy thuyết
phục, “Hãy ca tụng Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung
bạo!” - bài đọc một. Thánh Vịnh đáp ca có chung một tâm tình, “Lúc ngặt nghèo,
tôi kêu cầu Chúa; Người đã nghe tiếng tôi!”.
Anh Chị em,
“Nếu tôi làm các việc đó!”. Hãy chiêm ngắm một Giêsu từ
máng cỏ Bêlem cho đến một Giêsu giãy giụa trên đồi Canvê để thấy “việc” Thiên
Chúa làm! Hãy trầm mình sâu lắng bên Thánh Thể để hiểu Thiên Chúa là ai, Giêsu
là ai, may ra con tim của bạn và tôi có thể dịch chuyển. Nếu các việc làm của
Chúa Con tiết lộ danh tính Ngài, thì “thập giá” là kiệt tác biểu lộ danh tính
Ngài trọn vẹn nhất, Ngài là Con Thiên Chúa! Nhờ ‘kiệt tác tử nạn và phục sinh’
của Ngài, bạn và tôi được tái sinh, không chỉ để trở nên một tạo vật mới, nhưng
còn là những kiệt tác cho vinh quang Thiên Chúa!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, dạy con không bắt đầu từ đâu khác, cho bằng
khởi đi từ việc hoán cải chính mình và con cũng trở nên một ‘kiệt tác’ của
Chúa. Tại sao không?”, Amen.
Thứ bảy: CON TIM TINH
TUYỀN
“Có nhiều kẻ đã tin
vào Ngài”.
Ngày kia, ‘Nữ Thần Tự Do’ xuất hiện trên bìa một tạp
chí, có ký giả nhận xét, “Thấy đỉnh đầu của khối tượng, tôi ngạc nhiên với mái
tóc! Nhà điêu khắc phải chắc chắn rằng, đôi mắt duy nhất có thể thấy những chi
tiết này sẽ là đôi mắt của loài mòng biển. Anh không mơ một ngày nào đó có ai sẽ
bay qua đầu cô ấy; tuy nhiên, với một con tim tinh tuyền đối với nghệ thuật và
một lương tâm trong sáng của người nghệ sĩ, anh đã dành cho mái tóc cô ấy những
gì đã dành cho khuôn mặt, vóc dáng và cả ngọn đuốc trên tay Nữ Thần!”.
Kính thưa Anh Chị em,
‘Con tim tinh tuyền’, một biểu tượng được gặp lại trong
Tin Mừng hôm nay! Đối diện với Chúa Giêsu, lắng nghe Ngài, ‘không ai có thể thờ
ơ quá lâu!’. Họ tự do chọn tin Ngài, hoặc từ chối Ngài; tự do đi về phía sự thật,
hoặc giết chết sự thật, chính Ngài!
Bối cảnh Tin Mừng là phép lạ Chúa Giêsu làm cho Lazarô
sống lại sau bốn ngày trong mồ. Gioan ghi nhận, “Có nhiều kẻ đã tin vào Ngài”;
nhưng số khác thì không! Trong thực tế, những người này tìm gặp nhóm Pharisêu để
‘đổ dầu vào lửa’ hầu kết án tử cho Ngài. Hậu kết của những toa rập này là cái
chết thảm khốc của Con Thiên Chúa mà Giáo Hội sắp tưởng niệm khi Tuần Thánh đã
đến ngoài ngõ.
Với Chúa Giêsu, động lực trong ‘con tim tinh tuyền’ của
Ngài là tình yêu; với các nhà lãnh đạo, tất cả trong tim họ chỉ là quyền lực!
Chúa Giêsu đang nổi tiếng và điều này sẽ khuấy động mọi thứ; họ ghen tị vì Ngài
quá thu hút. Trước tình thế đó, lập luận của Caipha là một diệu kế, “Thà một
người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt”. Nghĩa là, tốt hơn,
nên “loại bỏ vấn đề” để mọi việc trở lại theo cách của nó! Họ quan tâm bản
thân, địa vị hơn lẽ thật. Họ gán cho Ngài làm nhiều dấu lạ - lẽ ra - họ phải
tin; đàng này, vì không nuốt trôi niềm kiêu hãnh, không thể buông bỏ quyền lực,
họ tìm giết Ngài!
Vậy mà, ý đồ đen tối của họ vẫn được Thiên Chúa tận dụng!
Vì thế, việc Chúa Giêsu “chết thay cho dân” là logic dẫn đến ơn cứu độ cho toàn
nhân loại! Và logic đầy tính tiên tri này có thời hiệu vĩnh viễn, “Không chỉ
thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Chúa tản mác khắp nơi về một
mối”. Tuyệt vời thay! Đây là điều chính Thiên Chúa đã hứa hằng trăm năm trước,
“Từ khắp nơi, Ta sẽ quy tụ chúng lại!” - bài đọc Êzêkiel; để rồi, “Chúa canh giữ
chúng ta như mục tử canh giữ đàn chiên!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Có nhiều kẻ đã tin vào Ngài”. Với phép lạ Lazarô, nhiều
người đã tin vào Chúa Giêsu, lắm kẻ tìm giết Ngài. Trong những ngày này, Giáo Hội
mời chúng ta chiêm ngắm ‘con tim tinh tuyền’ của Con Thiên Chúa, cùng Ngài bước
vào cuộc thương khó, để yêu mến Ngài hơn, và nhất là để hiểu được sự tự do của
Ngài. Tự do của Ngài là tự do yêu thương, tự do cứu chuộc. Mong sao bạn và tôi
có được một con tim yêu mến như con tim Ngài, chọn đi theo Ngài và nhất là tháp
nhập thánh giá đời mình vào thánh giá đời Ngài; kiên định thay vì ta thán, yêu
mến thay vì càu nhàu và ghì chặt thay vì trốn chạy!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, dạy con làm tất cả mọi việc lớn nhỏ với một con tim không vạy vò, và một lương tâm không méo mó!”, Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét